Tài liệu Đề tài Tìm một số biện pháp tăng cường huy động vốn tại ngân hàng công thương Hoàn Kiếm: LờI NóI đầu
Nền kinh tế nước ta có nhiều thay đổi lớn, sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hóa đất nước vẫn đang được tiếp tục thực hiện với nhiều thành công rực rỡ. Tuy nhiên để tiếp tục thực hiện mục tiêu tăng gấp đôi tổng sản lượng quốc dân đến năm 2000 mà Đảng ta đề ra, chúng ta cần phải có khoảng 250 ngàn tỉ đồng vốn đầu tư. Vì vậy, triển khai giải quyết vốn là vấn đề hết sức cấp bách cho nền kinh tế.
Để có được số vốn lớn này, tốt hơn hết là vốn được huy động từ trong nước qua kênh ngân sách và hệ thống tín dụng. Chính vì lẽ đó việc mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động huy động vốn của hệ thống ngân hàng thương mại nói riêng và của hệ thống tín dụng nói chung rất được coi trọng và được xem như là một trong những giải pháp chính nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội của hệ thống tín dụng.
Nhìn vào tình hình huy động vốn của các tổ chức tín dụng tiêu biểu là của các ngân hàng thương mại trong ngân hàng trong những thời gian vừa qua, ta có thể thấy được những kết quả bước...
58 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1029 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Tìm một số biện pháp tăng cường huy động vốn tại ngân hàng công thương Hoàn Kiếm, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LờI NóI đầu
Nền kinh tế nước ta có nhiều thay đổi lớn, sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hóa đất nước vẫn đang được tiếp tục thực hiện với nhiều thành công rực rỡ. Tuy nhiên để tiếp tục thực hiện mục tiêu tăng gấp đôi tổng sản lượng quốc dân đến năm 2000 mà Đảng ta đề ra, chúng ta cần phải có khoảng 250 ngàn tỉ đồng vốn đầu tư. Vì vậy, triển khai giải quyết vốn là vấn đề hết sức cấp bách cho nền kinh tế.
Để có được số vốn lớn này, tốt hơn hết là vốn được huy động từ trong nước qua kênh ngân sách và hệ thống tín dụng. Chính vì lẽ đó việc mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động huy động vốn của hệ thống ngân hàng thương mại nói riêng và của hệ thống tín dụng nói chung rất được coi trọng và được xem như là một trong những giải pháp chính nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội của hệ thống tín dụng.
Nhìn vào tình hình huy động vốn của các tổ chức tín dụng tiêu biểu là của các ngân hàng thương mại trong ngân hàng trong những thời gian vừa qua, ta có thể thấy được những kết quả bước đầu đáng khích lệ, tuy nhiên nó cũng còn nhiều mặt tồn tại cần giải quyết và nâng cao hơn nữa hiệu quả của công tác này.
Trên cơ sở lý luận được học tại trường và kinh nghiệm thực tiễn thu được trong quá trình thực tập tại Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm và với tư cách là một sinh viên tôi mạnh dạn đi vào nghiên cứu và tìm hiểu vấn đề này thông qua đề tài : “Một số biện pháp tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm”.
Qua đây, tôi cũng đưa ra một vài biện pháp và kiến nghị nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động này tại Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm.
Bài viết này được trình bầy làm 3 chương :
Phần I : Vai trò của nguồn vốn trong hoạt động của Ngân hàng thương mại.
Phần II : Thực trạng huy động vốn tại Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm.
Phần III : Một số biện pháp tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm.
Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của các thầy cô giáo trong khoa Ngân hàng và nhất là thầy Nguyễn Văn Nam, đội ngũ cán bộ công nhân viên Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm, mà đặc biệt là sự giúp đỡ tận tình của các cô chú, anh chị đang công tác tại phòng kinh doanh trong việc làm quen với hoạt động của Ngân hàng và trong việc thu thập và tổng hợp số liệu cho bài viết này.
đề cương luận văn
Đề tài :
Một số biện pháp tăng cường huy động vốn tại
Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm.
Phần I
Vai trò của nguồn vốn trong hoạt động
của Ngân hàng thương mại.
I - khái quát về Ngân hàng thương mại:
Ngân hàng là một trong những ngành công nghiệp lâu đời nhất. Trải qua quá trình phát triển của xã hội loài người Ngân hàng và nghề Ngân hàng không ngừng được hoàn thiện và phát triển. Nếu như trong thời kỳ sơ khai hoạt động của Ngân hàng chỉ giới hạn trong việc giữ hộ của cải hoặc thanh toán hộ thì cho đến nay hoạt động của Ngân hàng đã được mở ra trên rất nhiều các lĩnh vực với công nghệ ngày càng hoàn thiện. Thực tế nhiều năm qua đã chứng tỏ cho thấy rằng : Ngân hàng là một ngành nghề không thể thiếu được trong nền kinh tế, nó đóng vai trò làm môi giới, làm trung gian cho sự gặp gỡ của cung và cầu tiền tệ, thông qua việc huy động vốn tạm thời nhàn rỗi từ dân cư và các tổ chức trong xãa hội rồi cho vay lại đối với cá nhân, các tổ chức đang có nhu cầu về vốn. Điều này góp phần đẩy mạnh tốc độ quay vòng của vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội, biền tiền nhàn rỗi vào đầu tư sản xuất kinh doanh, tránh lãnh phí của cải vật chất cho xã hội. Qua đó đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế mà tình hình hoạt động của Ngân hàng phản ánh rất chính xác tình hình nền kinh tế, sự vững mạnh, phồn vinh hay yếu kém của nền kinh tế được phản ánh rất rõ qua hoạt động của Ngân hàng.
Ngân hàng thương mại ra đời như một đứa con ưu tú nhất của nền kinh tế hàng hoá và chính Ngân hàng thương mại đến lượt mình đã ghóp phần quan trọng vào sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá.
Ngân hàng thương mại đầu tiên được thành lập vào năm 1782 và đã có rất nhiều Ngân hàng được thành lập từ những năm 1800 đến nay vẫn đang hoạt động chứng rỏ sức sống bền bỉ và sự tồn tại khách quan của các NHTM. Trong các định chế tài chính thì NHTM là định chế quan trọng nhất vì nó giữ phần lớn của xã hội.
Hệ thống NHTM : Bao gồm các NHTM Quốc doanh, NHTM cổ phần, Ngân hàng tư nhân với chức năng chính là kinh doanh thông qua hoạt động trung gian tài chính và thực hiện các dịch vụ Ngân hàng. Hệ thống Ngân hàng thương mại hoạt động dưới sự kiểm tra, giám sát của Nhà nước thông qua các quy chế, quy định về hoạt động và thông qua việc thực hiện các văn bản, chế độ của Ngân hàng Nhà nước để thực hiện các định hướng trong chính sách tiền tệ tài chính của Nhà nước.
Trong nền kinh tế thị trường, hệ thống NHTM có nhữn đòn bẩy tác động quan trọng đến sản xuất và lưu thông đó là : tiền mặt, tín dụng, lãi suất ... NHTM có một liên hệ vừa bao quát, vừa thâm nhập vào từng đơn vị cơ sở của nền kinh tế.
NHTM đã có mạng lưới rộng khắp địa bàn sản xuất phân phối lưu thông, tiêu dùng trong cả nước. Hơn thế nữa, nó còn có quan hệ rộng rãi và có vai trò quan trọng về tiền tệ, tín dụng, thanh toán giữa nước ta với nước ngoài.
Với mô hình tổ chức trên, hoạt động của NHTM bao gồm những nội dung chủ yếu sau :
+ Tạo nguồn vốn thông qua các hoạt động như : huy động vốn nhàn rỗi trong dân cư, trong các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước dưới các hình thức:
- Tiền quỹ tiết kiệm có kỳ hạn.
- Tiền quỹ tiết kiệm không kỳ hạn.
- Phát hành kỳ phiếu Ngân hàng.
- Hậu tiền ký gửi
v.v...
Vay từ các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước : vay các Ngân hàng Nhà nước, nhận vốn điều hoà trong hệ thống.
+ Sử dụng vốn tự có và vốn vay thông qua hoạt động tín dụng thực hiện các dự án đầu tư dưới hình thức ghóp vốn hay mua trái phiếu kho bạc, tài trợ xuất nhập khẩu, đầu tư kinh doanh bất động sản, kinh doanh vàng bạc đá quý ...
+ Thực hiện các dịch vụ Ngân hàng : thanh toán hộ, thu hộ, bảo hành thực hiện các dịch vụ tư vấn khách hàng.
Ngân hàng thương mại hoạt động theo nguyên tắc tự chủ trong kinh doanh, thực hiện hạch toán kinh tế độc lập, tuân thủ các chế độ, chính sách của Ngân hàng Nhà nước và chính phủ thực hiện đầy đủ nghĩa vụ tài chính với Bộ Tài Chính, bảo toàn vốn và có lãi.
Thực tế đã chứng tỏ rằng, với mô hình tổ chức trên, thì đây là mô hình tổ chức thích hợp nhất trong nền kinh tế thị trường, vì nó đáp ứng được đầy đủ nhu cầu của nền kinh tế, đồng thời phát huy được hết sức mạnh sẵn có trong mỗi NHTM và phát huy được hết vai trò của cả hệ thống NHTM nói riêng và cả hệ thống Ngân hàng nói chung.
II - vai trò của hệ thống NHTM đối với nền kinh tế:
Nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu, trải qua một thời gian dài trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, nên bước vào cơ chế thị trường gặp rất nhiều khó khăn. Vấn đề lo đủ vốn để phát triển kinh tế được đưa lên hàng đầu. Đối với một nền kinh tế như nước ta thì vốn cần cho đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng là hết sức lớn và không ngừng tăng lên.
Công cuộc đổi mới mở ra toàn diện và bắt đầu đi vào chiều sâu, yêu cầu phải có vốn để tăng tốc đầu tư, từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế thưo chiều hướng công nghiệp hoá và hiện đại hóa, đảm bảo nhịp độ tăng trưởng kinh tế nhanh và lâu bền, tạo sự phát triển kinh tế quan trọng cho các năm tới.
Đối với Ngân hàng thương mại, nó thể hiện được sự đáp ứng này đối với nền kinh tế, thông qua vai trò của mình là :
1) Ngân hàng thương mại là nơi huy động tập trung vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội để cung cấp cho nhu cầu của nền kinh tế :
Như chúng ta đã biết trong xã hội luôn luôn tồn tại mâu thuẫn về sự thừa và sự thiếu vốn một cách tạm thờ0i, tức là có tình trạng một thời kỳ nào đó người thì thừa tiền, trong khi lại có những người cần tiền. Đối với những người, những tổ chức có tiền tạm thời nhãn rỗi, thì vấn để đối với họ là làm sao bảo quản được số tiền đó được an toàn và nếu có thể sinh lợi được thì càng tốt. Nhưng để thực hiện được điều này, nó còn phụ thuộc vào khả năng, vào mối quan hệ của từng người, và thông thường những người có tiền tạm thời nhàn rỗi luôn tìm cách cho những người hay những tổ chức đang có nhu cầu về vốn vay trong một thời hạn nhất định chứ không trực tiếp đầu tư vào sản xuất do sự giới hạn và khả năng thu hồi tiền mặt. Tuy nhiên điều này hầu như rất khó thực hiện được. Do vậy, trong xã hội luôn luôn tồn tại mâu thuẫn này. Xét về mặt kinh tế thì lượng tiền này nếu được tập trung lại để cho vay với những người đang có nu cầu sẽ đem lại lợi ích kinh tế cho cả người có tiền nhàn rỗi và người có nhu cầu về vốn nói riêng và đem lại hiệu quả kinh tế cho cả nền kinh tế nói chung, Ngân hàng thương mại chính là người thực hiện chức năng cầu nối này.
2) Ngân hàng thương mại với hoạt động của mình ghóp phần tăng cường hiệu quả hoạt động của sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nói riêng và của nền kinh tế nói chung.
Đặc trưng cơ bản của Ngân hàng là cho vay có hoàn trả với một mức lãi suất nhất định và với một thời hạn nhất định, chính điều này đã bắt buộc mọi cá nhân và doanh nghiệp khi vay vốn của Ngân hàng phải cân nhắc và phải sử dụng vốn đó một cách có hiệu quả nhất, để có thể bảo toàn vào sinh lợi được vốn đó, sau đó phải trả vốn vay và lãi đúng thời hạn. Đây chính là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp tăng cường công tác hạch toán, giảm chi phí sản xuất nhưng phải tăng chất lượng sản phẩm và tăng vòng quay của vốn. Qua đó, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh. Mặt khác, trước khi quyết định một món vay Ngân hàng thường tiến hành thẩm định tín dụng, chỉ thực hiện cho vay đối với những cá nhân, doanh nghiệp phải có sự sắp xếp, bố trí tổ chức sản xuất phù hợp, để có cơ hội vay vốn của Ngân hàng, đây chính là động lực, là cơ sở giúp cho việc tăng hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế, qua đó tăng hiệu quả nền kinh tế.
3) Ngân hàng thương mại là tổ chức thực hiện phân bổ vốn giữa các vùng qua đó tạo điều kiện cho việc phát triển đồng đều giữa các vùng khác nhau trong cùng một quốc gia.
Trong quá trình phát triển kinh tế của một nước và đặc biệt là các nước đang phát triển, thì hiện tượng thừa và thiếu vốn giữa các vùng diễn ra thường xuyên. Cho nên một vấn đề cần giải quyết được đặt ra là làm sao thực hiện được việc tập trung vốn từ vùng có nhu cầu nhưng không có nguồn vốn sẽ có đủ nguồn vốn để phát triển kinh tế. Chính Ngân hàng thực hiện hoạt động này thông qua hoạt động điều chuyển vốn của Ngân hàng thương mại trung ương.
4) Ngân hàng thương mại thông qua hoạt động của mình ghóp phần quan trọng vào việc chống lạm phát, ổn định sức mua của đồng tiền, ổn định tình hình kinh tế.
Trong hoạt động của mình, Ngân hàng có thể giảm bớt lượng tiền mặt trong lưu thông bằng cách tăng lãi suất huy động để thu hút tiền mặt vào đồng thời tăng lãi suất ở đầu ra để hạn chế lượng tiền mặt ra trong thời kỳ kinh tế có lạm phát cao, hoặc các Ngân hàng có thể hành động ngược lại khi nền kinh tế có hiện tượng giảm sút. Qua việc thay đổi trong chính sách huy động và cho vay như trên, Ngân hàng góp phần làm ổn định sức mua của đồng tiền, ngăn chặn được sự tăng giá đột ngột, kiềm chế làm phát làm ổn định nền kinh tế.
5) Ngân hàng thương mại là cầu nối giữa kinh tế trong nước và ngoài nước, tạo điều kiện cho nền kinh tế trong nước hòa nhập với nền kinh tế trong khu vực và nền kinh tế trên thế giới.
Một Ngân hàng thương mại có phạm vi hoạt động và quan hệ rộng rãi với rất nhiều tổ chức kinh tế. Nó có khả năng huy động được vốn từ các cá nhân, tổ chức ngoài nước hay tổ chức tài chính tín dụng quốc tế, qua đó đảm bảo được vốn cho nền kinh tế trong nước, tạo điều kiện cho các tổ chức kinh tế trong nước có thể mở rộng hoạt động của họ ra nước ngoài một cách có hiệu quả hơn, thông qua hoạt động thanh toán quốc tế, tư vấn tài trợ xuất nhập khẩu. Ngân hàng có thể làm đại lý cho các tổ chức tài chính, tín dụng nước ngoài qua đó giúp các tổ chức kinh tế trong nước có thể vau vốn các tổ chức này để nhập công nghệ cao, nang cao chất lượng sản phẩm đủ sức cạnh trạnh với thị trường quốc tế.
Trên đây, là toàn bộ khái quát về vài trò của hệ thống Ngân hàng thương mại hoạt động trong cơ chế thị trường. Trên góc độ một sinh viên nghiên cứu về hoạt động đầu vào của một ngân hàng, mà chủ yếu là hoạt động huy động vốn ta sẽ xem xét kỹ hơn vấn đền này thông qua việc huy động vốn của một Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường.
Iii - cơ cấu nguồn vốn của Ngân hàng thương mại :
Cũng giống như mọi hoạt động kinh tế khác, Ngân hàng muốn hoạt động được trước hết phải có vốn. Nhưng vì mặt hàng kinh doanh của Ngân hàng rất đặc biệt, vì vị trí và vai trò của nó cho nên nhu cầu về vốn của Ngân hàng thương mại là rất lớn, do vậy nguồn vốn của Ngân hàng thương mại bao gồm :
1) Nguồn vốn tự có :
Nguồn vốn này được hình thành từ hai bộ phần là :
+ Vốn điều lệ: Đây là số vốn ban đầu của một Ngân hàng thương mại, là tiêu chuẩn được thành lập và đi vào hoạt động của NHTM. Về mặt quy mô thì vốn điều lệ lớn hơn hoặc bằng vốn pháp định.
Vốn điều lệ có thể do ngân sách Nhà nước cấp (đối với vốn NHTM quốc doanh), có thể do các thành viên đóng góp dưới hình thức mua cổ phiếu (đối với NHTM cổ phần) hoặc vốn điều lệ có thể do cá nhân tự bỏ vốn ra (đối với Ngân hàng tư nhân).
Loại vốn này nói lên quy mô hoạt động và khat năng cạnh tranh ban đầu của Ngân hàng. Các Ngân hàng thương mại có trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn này (đối với NHTM quốc doanh).
+ Vốn tích lũy : Vốn này được hình thành trong quá trình hoạt động của Ngân hàng thông qua việc trích nộp các quỹ. Cứ mỗi Ngân hàng căn cứ vào kết quả hoạt động của mình mà trích một phần lợi nhuận nhằm bổ xung vào vồn tự có của Ngân hàng. Tuy nhiên, tỷ lệ này lại tuỳ thuộc vào quy định của từng nước.
2) Vốn dự trữ :
Theo quy định chung của các NHTM đều phải mở tài khoản tại các Ngân hàng trung ương và nộp vào đó các khoản dự trữ bao gồm :
- Dự trữ tối thiểu pháp định.
- Dự trữ để đảm bảo các hoạt động của Ngân hàng.
- Các khoản dự trữ đặc biệt được pháp luật qui định.
3) Nguồn vốn điều hoà trong hệ thống.
Vì các NHTM hoạt động trên các địa bàn khác nhau nên luôn luôn xuất hiện tình trạng ở Ngân hàng này có hiện tượng thừa vốn do huy động nhiều nhưng không sử dụng hết, trong khi đó Ngân hàng kia lại thiếu vốn. Sở dĩ có tình trạng này là do : Về phía Ngân hàng thừa vốn có thể do sự biến động lớn ở thị trường đầu ra dẫn đến việc không mở rộng được hoạt động trong khi vẫn phải duy trì việc huy động vốn vì mục đích giữ khách hàng. Còn về phía bên Ngân hàng thiếu vốn do thị trường đầu ra mở rộng trong khi thị trường đầu vào không thể mở rộng được hơn nữa, dẫn đến tình trạng thiếu vốn. Chính lúc này Ngân hàng trung ương hoặc các hội sở chính sẽ thực hiện việc điều phối chuyển vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu trên cơ sở hai bên cùng có lợi.
Chính vì thế, đây có thể coi là một nguồn vốn khá quan trọng, nó giúp Ngân hàng có thể mở rộng được thị trường đầu ra trong điều kiện thị trường đầu vào vẫn còn bị hạn chế và qua đó làm tăng lợi nhuận của Ngân hàng.
4) Nguồn vốn tín dụng của Ngân hàng :
+ Nguồn vốn vay Ngân hàng nhà nước:
NHTM thực hiện việc vay tiền của Ngân hàng Nhà nước thông qua hình thức chiết khấu các giấy tờ có giá. Khi Ngân hàng có nhu cầu rút tiền mặt của khách hàng, họ có thể mang các giấy tờ có giá như : tín phiếu, trái phiếu kho bạc Nhà nước, tiền triết khấu. Nguồn vốn này hình thành chủ yếu là để đảm bảo kảh năng thanh toán của Ngân hàng.
+ Nguồn vốn vay của các tổ chức tín dụng quốc tế :
Đây là loại vốn vay chiếm tỷ trọng không lớn ở nhữn nước đang phát triển, bởi vì ở các nước này Ngân hàng muốn có được vốn ở nguồn này phải được phép của Ngân hàng Nhà nước và thường dưới hình thức vay theo hiệp định.
5) Nguồn vốn huy động:
Đây là nguồn vốn chủ yếu và quan trọng nhất để Ngân hàng có thể hoạt động để cho vay. Đây là số tiền Ngân hàng nhận được dưới nhiều hình thức khác nhau.
- Nhận tiền gửi của khách hàng.
- Vốn đi vay của các tổ chức tín dụng.
- Vốn phát hành.
Ngân hàng có quyền sử dụng số tiền này để phục vụ cho các mục đích của mình. Nếu như trong thời kỳ bao cấp, việc huy động vốn của Ngân hàng theo quy chế tập trung toàn ngành và phụ thuộc vào chủ tiêu do trên giao thì này chuyển sang hạch toán kinh doanh, huy động vốn đuợc thực hiện một cách linh hoạt căn cứ vào các chính sách quản lý vĩ mô của Nhà nước và nhu cầu vay vốn của nền kinh tế.
Chi tiết về các hình thức này sẽ được trình bầy trong phần “ Các hình thức huy động vốn của Ngân hàng”
IV - các hình thức huy động vốn của NHTM :
1 Tính chất vận động của nguồn vốn huy động :\
Ngân hàng hoạt động theo nguyên tắc “đi vay để cho vay”. Do đó, khi huy động vốn, giữa Ngân hàng và các tổ chức kinh tế hình thành một quan hệ tín dụng thông qua vận động giá trị tiền gửi, vồn huy động được vận động trên cơ sở hoàn trả và có lãi. Quá trình đó được thể hiện ở giai đoạn sau :
- Giai đoạn tập trung nguồn vốn vào ngân hàng, ở giai đoạn này tiền được chuyển từ các tổ chức kinh tế, dân cư, người cho vay sang Ngân hàng - người đi vay. Như vậy, ta thấy rằng đặc điểm cở bản khác với việc đi mua bán hàng hoá là giá trị chỉ thay đổi hình thái tồn tại. Mác viết : “Đối với hàng hoá đơn giản với tư cách là hàng hoá thì ở trong tay người mua hay người bán, nó cũng vẫn là một giá trị như thế, chỉ dưới hình thức khác nhau mà thôi”. Người bán và người mua đều có một giá trị như trước, giá trị này mà họ đã nhượng đi, người thứ 1 thì nhượng đi dưới hình thức hàng hoá, người thứ 2 nhượng đi dưới hình thức tiền tệ ... trong việc cho vay thì chỉ có một bên được nhận giá trị và chỉ có một bên nhượng đi giá trị mà thôi...? ( Các Mác tư bản tập 3 trang 32).
- Sử dụng vốn trong quá trình sản xuất sau khi huy động vốn ngân hàng (người đi vay) được quyền sử dụng vốn đó để thoả mãn những nhu cầu về vốn nhất định ở giai đoạn nàynguồn vốn huy động được sử dụng tham gia trực tiếp vào sản xuất hoặc đáp ứng những nhu cầu về tiêu dùng của người đi vay. Tuy nhiên người đi vay không có quyền sở hữu về giá trị các khoản vay không có quyền sở hữu về gía trị các khoản vay đó mà chỉ được sử dụng tạm thời trong một thời gian nhất định.
- ở giai đoạn hoàn trả: Đây có thể nói là giai đoạn kết thúc một vòng tuần hoàn của nguồn vốn huy động. Sau khi vốn mà ngân hàng đã huy động tham gia hoàn thành một chu kỳ sản xuất để trở về hình thái tiền tệ thì ngân hàng hoàn trả cho các tổ chức kinh tế và dân cư.
Mác viết: “ Tiền chẳng qua chỉ rời khỏi tay người sở hữumột thời gian và chẳng qua chỉ là tạm thời chuyển từ tay người sở hữu sang tay nhà tư bản hoạt động. Tiền chỉ đem nhượng lại với một điều kiện là sẽ quay trở về điểm xuất phát sau một thời gian nhất định”
( Các Mác- tư bản quyển 3 tập 2 trang 57).
Như vậy, hoàn trả là đặc trưng thuộc về bản chất vận động của vốn tín dụng. Mặt khác sự hoàn trả của mỗi nguồn vốn huy động là quá trình quay trở về giá trị. Hình thái vật chất của sự hoàn trả là sự vận động dưới hình thức giá trị. Tuy nhiên sự vận động đó không phải vơí tư cách là phương tiện lưu thông mà với tư cách là một lượng giá trị vận động. Chính vì lý do đosự hoàn trả luôn được bảo tồn về mặt giá trị và phần tăng thêm dưới hình thức lợi tức. Ngay cả trong điều kiện lạm phát sự hoàn trả về mặt giá trị cũng phải được bảo đảm và tôn trọng thông qua cơ chế điều tiết bằng lãi xuất.
2. Những nhân tố ảnh hưởng đến quy mô nguồn vốn huy động.
Vốn huy động của ngân hàng chủ yếu được hình thành thông qua quá trình tập trung một bộ phận tiền tệ của dân cư, của các đơn vị kinh tế . Do vậy hoạt động huy động vốn của một ngân hàng thương mại chịu tác động của rất nhiều yếu tố, từ các yếu tố mang tính chất vĩ mô đến các yếu tố ở tầm vi mô. Trong đó các yếu tố chính yếu được phân tích như sau:
a. Yếu tố lãi xuất huy động:
Không phải ngân hàng cứ đưa ra được mức lãi xuất cao là có thể thu hút được vốn nhàn rỗi của dân cư mà vấn đề là ở chỗ với mức lãi xuất cụ thể do ngân hàng đưa ra sẽ đem lại cho người gửi tiền mức lợi tức thực tế là bao nhiêu, điều đó có nghĩa là mức lãi xuất mà ngân hàng đưa ra phải đảm bảo luôn lớn hơn tỉ lệ lạm phát.
Thông thường quy mô của tiền gửi ngân hàng biến động tỷ lệ thuận với lãi xuất huy động. Tuy nhiên trong những trường hợp đặc biệt thì quy luật này bị phá vỡ. Chẳng hạn khi lãi xuất huy động giảm nhưng người g ửi vẫn thu được một khoản lợi tức sau khi đã trừ đi tỷ lệ trượt giá thì vốn lưu động ở ngân hàng vẫn có thể tăng lên. Như vậy, có thể nói lãi suất huy động là yếu tố ảnh hưởng lơn đến quy mô nguồn vốn thu hút vào Ngân hàng. Tuy nhiên, lãi suất vấn ảnh hưởng lớn nhất đến tiền gửi tiết kiệm, Chính vì lẽ đó, khi đưa ra mức lãi suất huy động cụ thể, Ngân hàng cần phải căn cứ vào tình hình nền kinh tế, vào chính sách tín dụng phương hướng phát triển kinh tế của Nhà nước.
b) Tính chất ổn định của nền kinh tế xã hội :
Một xã hội, một nền kinh tế được đánh giá là ổn định khi nó không có dấu hiệu xảy ra của làm phát, của khủng hoảng hay chiến tranh. Nếu nền kinh tế xã hội được ổn định thì đời sống nhân dân được nâng cao. Việc sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế được phát triển thì vốn Ngân hàng sẽ lớn. Còn ngược lại trong điều kiện nền kinh tế bất ổn định giá cả và do đó sức mua của đồng tiền thau đổi thường xuyên, dân cư thường có xu hướng giữ tiền mặt hoặc quy đổi ra các đồng tiền khác có tính ổn định cao và cất giữ trong gia đình thay vì đem số tiền đó đến gửi tại các Ngân hàng, các quỹ tiết kiệm. Đặc biệt là trong các nước mà hệ thống Ngân hàng thương mại chịu sự kiểm soát chặt chẽ của Ngân hàng trung ương trong vấn đề lãi suất thì hiện tượng trên rất phổ biến do sẹ thay đổi vủa lãi suất huy động mà Ngân hàng đưa ra không thau đổi kịp với sự biến động của giá cả trên thị trường.
c) Yếu tố tiết kiệm trong nền kinh tế:
Vốn huy động của một Ngân hàng thương mại chủ yếu được hình thành từ nguồn huy động trong dân cư. Đây là lượng tiền tạm thời nhàn rỗi có được chủ yếu là do tiết kiệm, chính vì vậy mà công tác huy động vốn của một Ngân hàng chịu ảnh hưởng rất lớn của yếu tố tiết kiệm. Nếu có tiết kiệm sẽ làm tăng khối lượng tiền nhàn rỗi trong xã hội, qua đó có thể làm tăng quy mô và chất lượng công tác huy động vốn của Ngân hàng. Tuy nhiên, bản thân yếu tố tiết kiệm chịu sự tác động của các yếu tố khác như :
Tâm ly người tiêu dùng trong dân cư : Yếu tố này ảnh hưởng rất lớn đến yếu tố tích kiệmm, bởi vì tâm lý tiêu dùng của dân rất khác nhau giữa các vùng, các địa phương và các quốc gia. Có thể với cùng một mức thu nhập, cùng một giá sinh hoạt như nhay nhưng ở nơi này lượng tiền bỏ ra vào tiết kiệm rất lớn nhưng ở nơi khác lại rất nhỏ do tâm lý thích tiêu dùng của dân cư ở đây. Chính vì lẽ đó thu nhập cao chưa hẳn tiết kiệm đã cao.
Thu nhập của dân cư : Dân cư có thu nhập càng cao thì khối lượng tiền dành cho tiết kiệm có thể cũng tăng nhiều, bởi vì với mức thu nhập lớn thì khả năng thoả mãn các nhu cầu thiết yếu sẽ cao hơn và do đó sẽ có nhiều khoản tiết kiệm hơn
d) Một số yếu tố khác:
Các hình thức huy động vốn của Ngân hàng : Nếu hình thức này mà Ngân hàng đưa ra càng phong phú, đa dạng, linh hoạt và thuận tiện thì khả năng thu hút vốn đầu tư từ trong nền kinh tế càng lớn. Tuy nhiên, mức độ đa dạng của các hình thức huy động mà Ngân hàng đưa ra còn phụ thuộc rất lớn vào đặc điểm kinh tế khu vực, vào khả năng của Ngân hàng, chính vì vậy mà Ngân hàng cần phải lựa chọn xem hình thức huy động nào là mang tính hiệu quả cao nhất.
Các dịch vụ kèm theo : Ngân hàng cũng là hoạt động dịch vụ, nhưng dịch vụ kèm theo các nghiệp vụ chính của nó không vì thế mà mất đi séc hấp dẫn, trong công tác huy động vốn Ngân hàng nào tổ chức tốt được công tác dịch vụ kèm theo các hình thức tổ chức huy động của mình sẽ có khả năng thu hút được nhiều khách hàng hơn và việc tổ chức tốt công tác dịch vụ kèm theo trong công tác huy động vốn nói riêng, trong hoạt động của Ngân hàng nói chùng được xem là một trong những biện pháp nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động của Ngân hàng.
Trên đây, là nhữn nhân tố chính ảnh hưởng đến quy mô nguồn vốn huy động của một Ngân hàng thương mại trong đó yếu tố tiết kiệm được xem là yếu tố chính nằm bên ngoài Ngân hàng, Ngân hàng chỉ có thể tác động đến yếu tố này thông qua hoạt động quảng cáo và sự phối hợp giúp đỡ của các cơ quan, tổ chức Nhà nước và dân cư trong xã hội. Các yếu tố còn lại là các yếu tố nội tại trong Ngân hàng, do vậy mọi Ngân hàng phải có chính sách và hoạt động một cách tích cực, có lợi và hiệu quả nhất đối với công tác huy động vốn. Tuy vậy, kết quả ra sao còn tuỳ thuộc vào đặc điểm, trình độ và khả năng của mỗi Ngân hàng.
3) Các hình thức huy động vốn của Ngân hàng.
Một trong những hoạt động chủ yếu nhất của Ngân hàng thương mại là huy động vốn để cho vay, để hiểu rõ hơn về hoạt động huy động vốn của Ngân hàng thương mại ta có thể phân loại ra nghiệp vụ vốn theo sơ đồ sau :
Vốn đi vay của tài chính tín dụng
Tiền gửi của
khách hàng
Vốn phát hành
Nguồn vốn huy động của
Ngân hàng thương mại
Tiền tiết kiệm
Tiền ký gửi
Phát hành trái phiếu
Phát hành kỳ phiếu
Ký gửi có
kỳ hạn
Ký gửi không kỳ hạn
Gửi rút ra phải báo trước
Gửi để dành có hạn
3.1 Tiển gửi của khách hàng:
Tiền gửi của khách hàng bao gồm : tiền gửi tiết kiệm và tiền ký gửi.
a) Tiền ký gửi:
Tiền ký gửi gồm các khoản tiền gửi vào Ngân hàng có kỳ hạn và không kỳ hạn. Lịch sử phát triển hoạt động Ngân hàng cho thấy để bảo quản tốt tiền vàng, người ta đã thuê sở đúc tiền giữ hộ và sở này sẽ có một khoản thu nhập từ việc bảo quản tiền vàng. Đây là hình thức ban đầu của nghiệp vụ ký gửi.
Hiện nay có rất nhiều loại tiền ký gửi. Đó là nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong tài khoản của các cơ quan xí nghiệp. Để có được tuận lợi trong sản xuất kinh doanh các cơ sở kinh tế có thể lựa chọn một hay nhiều Ngân hàng thương mại để giao dịch nhằm giải quyết việc thu chi chuyển tiền thanh toán và các dịch vụ tài chính khác.
Xét về mặt nghiệp vụ Ngân hàng thì tiền ký gửi có thể phân thành hai loại chính đó là :
Tiền gửi không kỳ hạn : đây là số tiền nằm trong tài khoản vãng lai hoặc tài khoản thanh toán và có thể rút ra vào kỳ lúc nào.
Pháp luật một số nước không cho phép tính lãi đối với tiền tạm thời nhãn rỗi trong tài khoản cơ quan xn. Tuy nhiên, cũng có nước cho phép tính lãi nhưng rất thấp.
Tiền gửi không kỳ hạn trước hết được dùng để thanh toán vãng lai, vịec thanh toán vãng lai này có thể tiến hành dưới dạng tiền mặt, séc hoặc uỷ nhiệm chi. Sau khi mở tài khoản thanh toán tại Ngân hàng, chủ tài khoản phải giao cho Ngân hàng quyền ghi chép, theo dõi các nghiệp vụ phát dinh trên tài khoản của họ ở Ngân hàng. Chi phí hoạt động này của Ngân hàng khá lớn nhưng trên thực tế Ngân hàng có thể bù đắp được khoản chi phí này qua việc sử dụng số dư các tài khoản này để cho vay lại, và đây chính là nguồn mang lại lợi nhuận lớn cho Ngân hàng.
Tiền gửi không kỳ hạn có thể để ở tài khoản vãng lai hay tài khoản tiền gửi. Hai loại tài khoản này khác nhau ở chỗ nếu để ở tài khoản tiền gửi thì chủ tài khoản được sử dụng số thực của mình nghĩa là tài khoản khách hàng phải luôn luôn dư có. Loại tài khoản này thuận lợi, an toàn, tuy có lãi suất thấp, thuận tiện trong thanh toán (có thể chuyển đổi thành tiền mặt 100%) nên đây là loại tài khoản rất hấp dẫn khách hàng, tạo ra một lượng vốn lớn phục vụ hoạt động tín dụng của Ngân hàng.
Nếu ở tài khoản vãng lai thì chủ tài khoản có thể rút tài khoản ra bất cứ lúc nào hoặc tạm vay trong thời hạn nhất định vì tài khoản có thể dư nợ hoặc dư có. Nhưng trên thực tế hiện này trong các tài khoản tiền gửi cũng có thể dư nợ nếu có sự thoả thuận trước giữa khách hàng và Ngân hàng.
Đối với tài khoản vãng lai có hai loại lãi suất được áp dụng đồng thời: lãi suất mà đơn vị phải trả cho Ngân hàng (nếu dư nợ trên tài khoản) và lãi suất lãi suất này do chủ tài khoản và Ngân hàng phải trả cho đơn vị (nếu tài khoản dư có), hai lãi suất này di chủ tài khoản và Ngân hàng thoả thuận trước và lãi suất trả cho số dư nợ luôn lớn hơn lãi suất trả cho số dư có. Chính vì vậy mà khách hàng luôn tìm cách bỏ tiền vào tài khoản nhằm giảm mức dư nợ đến mức thấp nhất, từ đó làm tăng nguồn vốn của Ngân hàng.
Trong những năm qua ý nghĩa của tiền gửi không kỳ hạn ở Ngân hàng tăng lên rõ rệt. Nếu trước đây những tài khoản tiền gửi ở Ngân hàng chủ yếu của doanh nghiệp và của những người thu nhập cao thì ngày nay đa số công nhân viên chức đều có tài khoản tiết kiệm bởi vì một mặt các công ty, xí nghiệp hợp lý nhất là trả lương không bằng tiền mặt, thêm vào đó ngân hàng thương mại lại có rất nhiều dịch vụ giúp cho chủ tài khoản thanh thanh toán kịp thời nhanh chóng các tài khoản chi tiêu thường kỳ của họ như : tiền thuê nhà, thuê bao điện thoại, nộp thuế ...
Do đó tiền gửi không kỳ hạn đã trở thành một nguồn cho vay hết sức quan trọng đồng thười cũng đem lại nguồn lợi nhuận lớn cho Ngân hàng.
Tiền g ửi có kỳ hạn : là loại tiền gửi không dùng để thanh toán mà chủ yếu là để kiếm lời cao. So với tiền gửi vãng lai thì loại tiền gửi này có thời hạn gửi tiền dài hơn thông thường ít nhất là 1 tháng. Tiền gửi có kỳ hạn đối vơi snhh là số tiền gửi đến một ngày nhất định mới phải trả lại cho khách hàng. Điều này giúp cho Ngân hàng nắm được vốn trong các thời kỳ đã có kế hoạhc cho vay không phải tồn quỹ cao để đề phòng sự rút vốn bất thường. Đo đó việc sử dụng nguồn vốn này cho vay rất hiệu quả, vì vậy lãi suất trả cho tiền gửi có kỳ hạn cao hơn tiền gửi không kỳ hạn.
Đối với tiền có kỳ hạn đến hạn mới được lấy ra, nếu xét về nguyên tắc. Tuy nhiên trong trường hợp ngoại lệ người gửi muốn rút tiền ra trước thời hạn, trong trường hợp này có 2 cách giải quyết.
Hoặc người gửi tiền ấy được vay của Ngân hàng một khoản tiền mà họ cần, sau đó khi đến hạn trả tiền sẽ sử dụng tiền đó để hoàn trả cho Ngân hàng.
Hoặc thoả thuận với Ngân hàng rút trước thời hạn nhưng hưởng lãi suất thấp.
Ta thấy trong mọi trường hợp thì Ngân hàng luôn tự chủ được về thời hạn hoàn trả tiền ký gửi cho khách hàng, vì vậy đấy là một nguồn rất quan trọng, có độ ổn định cao của Ngân hàng.
b) Tiền gửi tiết kiệm:
ở các nước trên thế giới, nhất là các nước công nghiệp hoá phát triển tiền tiết kiệm là loại tiền có số lượng lớn thứ hai trong số các loại tiền gửi vào Ngân hàng. Đặc điểm của loại tiền gửi này là người gửi tiền được giao cầm sổ tiết kiệm, sổ này được coi như là giấy chứng nhận việc gửi tiền vào Ngân hàng của khách hàng. Gửi tiết kiệm là những người có được một số tiền tích luỹ bằng ngoại tệ hay nội tệ nhất định và muốn tích luỹ số tiền này theo kiểu “tích tiểu thành đại”, Hoặc do số tiền của họ không đủ lớn để đầu tư sản xuất kinh doanh, hoặc người chủ không có khả năng hoặc không thích kinh doanh, khi đó họ sẽ đến Ngân hàng để gửi tiền.
Tiền gửi tiết kiệm chia làm 2 loại :
- Gửi tiền có kỳ hạn.
- Gửi tiền không kỳ hạn.
Gửi tiền có kỳ hạn : nghĩa là gửi tiền theo một thời gian nhất định đến một ngày mới trả lại cho người gửi tiền. Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 12 tháng...
Với loại tiền gửi này tuỳ theo pháp luật của từng nứoc mà sẽ có những quy định cụ thể khác nhau về việc rút tiền. Đối với loại gửi tiền này thì người gửi tiền và quỹ tiết kiệm không phải thoả thuận trước về thời hạn rút tiền mà cả hai bên đều phải tuân thủ những quy định của pháp luật. Ví dụ như : trong một thời hạn nhất định người gửi tiền chỉ được rút ra một số tiền nhất định, muốn rút số tiền lớn hơn phải báo trước cho Ngân hàng trong một khoảng thời gian nhất định được quy định.
Gửi tiền không kỳ hạn : đây là hình thức gửi tiền mà thời hạn rút do bên người gửi và Ngân hàng tự thoả thuận. Đối với tiền gửi này các Ngân hàng thuộc cấc thành phần như nhân dân lao động, công nhân viên chức, học sinh, các khoản tiền này chủ yếu là để dành dụm nhằm trang trải chi tiêu cần thiết, đồng thời có một khoản tiền lãi bù đắp co sịnh hoạt hàng ngày. Trong trường hợp đa số thời hạn báo trước là một vài ngày kể từ sau thời hạn thoả thuận rút tiền ban đầu.
Qua một số điểm phân tích ta thấy, với loại tiền gửi có kỳ hạn thì Ngân hàng có thể dự tính được toàn bộ các vấn đề phát sinh đối với khoản tiền này như : khi nào phải trả tiền và sử dụng bao nhiêu và trong bao lâu theo các thời hạn khác nhau cho Ngân hàng chủ động biết được thời hạn của người gửi tiền và do tính thời hạn ổn định của loại tiền gửi này. Trong khi đó với loại tiền gửi không kỳ hạn, thời hạn rút tiền không ổn định do khách hàng có thể rút tiền vào bất cứ lúc nào, nếu họ cần vì vậy Ngân hàng không thể sự dụng toàn bộ số tiền này để cho vay mà chỉ dùng một phần mà chủ yếu là cho vay ngắn hạn, số còn lại thường thì Ngân hàng đầu tư vào cầm cố bất động sản, vào mua chứng khoán, công trái nhà nước ... đễ dễ dàng nhanh chóng chuyển để thanh thanh toán bằng tiền mặt. Chính vì vậy mà lãi suất tiết kiệm có kỳ hạn luôn cao hơn lãi suất tiết kiệm không kỳ hạn và Ngân hàng làm như vậy là nhằm tăng cường khối lượng vốn ổn định cho mình.
Trên đây là các hình thức huy động vốn từ dân cư và các tổ chức kinh tế trong khuôn khổ nguồn tiền ký gửi và tiết kiệm. Hiện nay, ở các nước trên thế giới (kể cả Việt Nam) người ta cho rằng vận động nhân dân gửi tiết kiệm là một trong các nghiệp vụ quan trọng của Ngân hàng. Bởi vì nếu huy động được nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư sẽ có tiền cấp phát cho phát triển công nghiệp, nông nghiệp, góp phần phát triển kinh tế xã hội.
Bên cạnh các hình thức huy động vốn như trên, Ngân hàng thương mại còn một số hình thức huy động tiền tiết kiệm của dân cư như :
+ Tiết kiệm xây dựng nhà ở : đây là hình thức “đi vay để cho vay” của Ngân hàng. Hình thức đưa ra nhằm mục đích tạo vốn cho Ngân hàng nhưng đồng thời giúp dân cư có tiền để giải quyết vấn đề nhà ở, thông qua đó giảm bớt thời gian vốn bị ứ đọng. Theo hình thức này thì khách hàng phải gửi đủ tiền theo hợp đồng đã ký kết với Ngân hàng, sau một thời gian tối thiểu là 1 năm khách hàng được rút tiền gửi cả gốc và lãi đồng thời được Ngân hàng cho vay một số vốn tối đa bằng số tiền đã gửi và Ngân hàng phải chịu trách nhiệm về việc huy động vốn và chuẩn bị đủ vốn để thanh thanh toán với khách hàng theo quy định.
+ Tài khoản séc dùng cho cá nhân : thủ tục mở tài khoản này giống như thủ tục gửi tiền tiết kiệm nhứng thay vì được phát một quyển sổ tiết kiệm người mở tài khoản sẽ được cấp một tập séc. Mọi khoản thanh toán của họ có thể thực hiện dưới hình thức phát séc.
3.2. Vốn đi vay của các tổ chức tín dụng :
Trong thực tế , các Ngân hàng thương mại luôn có sự không cân đối giữa nguồn vốn huy động và nguồn vốn sử dụng, vì vậy khi thiếu vồn đột xuất Ngân hàng thương mại có thể vay của các tổ chức tín dụng khác thông qua thị trường liên Ngân hàng.
Thị trường này giúp cho Ngân hàng thương mại bổ sung nguồn vốn cho nhau, giải quyết nhanh nhu cầu thiếu hụt trong thanh toán vủa nền kinh tế. Hoạt động của thị trường này nhằm tận dụng đến mức cao nhất các khả năng sẵn có một cách triệt để trước khi cần yêu cầu đến tiền trung ương.
Tỷ trọng của nguồn này trong tổng nguồn vốn phản ánh quan hệ của Ngân hàng với các tổ chức tài chính khác và chất lượng công tác thanh toán của Ngân hàng bởi nếu tỷ trọng của nguồn này lớn, chứng tỏ rằng Ngân hàng rất có uy tín trong quan hệ thanh toán cả đối với khách hàng và đối với các tổ chức tín dụng khác.
ở nước ta hoạt động của thị trường liên Ngân hàng còn hạn chế về quy mô hoạt động , do đó khó khăn chung về nguồn vốn vủa cả hệ thống và thiều các định chế thích hợp.
3.3. Vốn phát hành:
Vốn phát hành của Ngân hàng thuộc loại : “ chủ động thu gom” đây là hình thức huy động thông qua phát hành kỳ phiếu, trái phiếu. Những hình thức huy động vốn ở trên đựoc xếp vào loại “bị động thu gom”. Xét về bản chất thì hai loại này không khác nhau nhiều, tuy nhiên nó khác nhau ở chỗ :
Lãi suất “vốn chủ động đi vay” cao hơn lãi suất tiền gửi tiết kiệm.
“vốn chủ động đi vay” được huy động theo sáng kiến của từng Ngân hàng, đây là khoản tiền nhận gửi có bảo đảm ché không phải tiền gửi đơn thuần. Vốn này cũng thuộc loại tín dụng dài hạn, trung hạn, ngắn hạn.
Với loại “vốn chủ động đi vay” Ngân hàng hoàn thanh toánàn tự chủ về mặt thời hạn hoàn trả do đó có thể sử dụng cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn là tuỳ thuộc vào thời hạn của vốn vay và mặc dù lãi suất xao hơn thông thường Ngân hàng vẫn được lợi nhiều từ hình thức huy động này.
Tóm lại, với những hình thức huy động vốn như trên của Ngân hàng thương mại, các Ngân hàng có thể thực hiện được việc kết hợp giữâ huy động vốn và cho vay một cách nhịp nhành. Do đó, nếu thực hiện đầy đủ các nguyên tắc của mỗi hình thức huy động vốn nói trên, Ngân hàng có thể vừa mở rộng đuợc thị trường đầy vào đồng thời mở rộng được luôn thị trường đầu ra cho mình, bảo đảm cho Ngân hàng luôn luôn nắm được thế chủ động trong kinh doanh kinh doanh.
Tuy nhiên, tuỳ theo đặc điểm của nền kinh tế, đặc điểm của từng khu vực hoạt động và đặc điểm của từng Ngân hàng mà các hình thức huy động này đuợc biến đổi và thực hiện cho phù hợp.
Để thấy rõ hơn được hoạt động này tại Việt Nam, ta sẽ đi sâu vào xem xét thực tế của hoạt động huy động vốn tại một Ngân hàng thương mại cụ thể, đó là Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm.
Phần II
thực trạng huy động vốn
tại Ngân hàng công thương hoàn kiếm
I - khái quát về Ngân hàng công thương hoàn kiếm :
Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm là một chi nhấnh của Ngân hàng Công thương Việt Nam, có trụ sở tại số 37 Hàng Bồ quận Hoàn Kiếm - Hà Nội. Đây là khu vực nằm ở trung tâm thủ đô Hà Nội, là trung tâm kinh tế - Văn hoá - Chính trị của thủ đô, là mơi giao lưu buôn bán nhộn nhịp nhất thành phố. Mặt khác, đây còn là nơi tập trung của rất nhiều vằn phòng đại diện củ các Ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam. Do vậy, trước đây Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm này là một chi nhành của Ngân hàng Nhà nước Hà Nội với nhiệm vụ chính là bảo đảm nhu cầu về vốn cho các đơn vị ngoài quốc doanh và tập thể trên địa bàn quận. Nhưng cùng với sự chuyển đổi chung của hệ thống Ngân hàng Việt Nam từ hệ thống Ngân hàng một cấp sang hệ thống Ngân hàng hai cấp, chi nhành Ngân hàng quận Hoàn Kiếm cũng được thay đổi cả về chức năng và nhiệm và trở thành Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm với chức năng hoạt động chính là kinh doanh tiền tệ và thực hiện các dịch vụ Ngân hàng. Và từ đó đến nay Ngân hàng đã thực sự đi vào hoạt động kinh doanh trên cơ sở tự toán kinh doanh, tự bù đắp và có lãi.
Trải qua quá trình 8 năm hoạt động cho đến nay Ngân hàng đã hoàn toàn hoà nhập được với hoạt động chung của cả hệ thống Ngân hàng trong cơ chế thị trường. Không những chỉ đứng vững trong cạnh tranh mà còn không ngừng mở rộng và phát triển với hiệu quả ngày càng cao. Ta có thể thấy rõ được bước phát triển này qua những thành tựu mà Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm đã đạt được trong thời gian qua.
II - hoạt động chung của Ngân hàng Công thương hoàn kiếm :
Về hoạt động huy động vốn : với phương trâm hoạt động là “đi vay để cho vay” Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm hết sức coi trọng công tác huy động vốn và coi đây là một trong các công tác chủ yếu nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả trong hoạt động của mình. Nhìn nhận từ quan điểm đó, Ngân hàng luôn chú trọng đến công tác huy động vốn tại chỗ, Ngân hàng luôn coi trọng chiến lược khách hàng trong huy động vốn và đứa ra mọi biện pháp nhằm khai thác các nguồn vốn trên địa bàn như : tổ chức mạng lưới tiết kiệm rộng khắp với các hình thức huy động phong phú, đa dạng. Cụ thể trong địa bàn của Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm có tới 10 quỹ tiết kiệm với nhiều hình thức huy động vốn khác nhau nhằm thu hút tối đa khách hàng. Ngoài ra, Ngân hàng còn vận động khách hàng mở tài khoản tại Ngân hàng. Phát hành trái phiếu tiết kiệm bảo đảm rằng vàng tạo độ tin cậy cao cho nhân dân. Nhờ vậy, mà Ngân hàng đã có chuyển biến tích cực từ thế bị động thiếu thốn của mấy năm trước sang chủ động tự cân đối hoặc vốn thừa gửi về quỹ điều hoà của Ngân hàng công thương Việt Nam.
Nhờ đó trong năm 1997 tổng vốn huy động của Ngân hàng đạt 598 tỷ 451 triệu đồng, tăng 1,8 lần so với năm 1996 với cơ cấu nguồn vốn đa năng.
Về hoạt động sử dụng vốn : Bên cạnh việc coi trọng công tác huy động vốn, ở Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm công tác sử dụng vốn cũng được đề cao. Trên cơ sở nguồn vốn huy động tăng trưởng, Ngân hàng tiếp tục chủ trương biện pháp cho vay vốn nhằm nâng cao chất lượng công tác huy động vốn. Đây chính là nhân tố quan trọng quyết định sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng.
Biểu đồ so sánh diễn biến nguồn vốn huy động và dư nợ cho vay
Đơn vị : Triệu đồng
Khoản
1996
1997
1996/1997
mục
ồ số
Số %
Trong đó
ồ số
Số %
Trong đó
Triệu
Tỷ số
VNĐ
Ngoại tệ
VNĐ
Ngoại tệ
đồng
%
I. Nguồn vốn huy động
319.092
100%
317.702
1.390
540.895
100
409.718
131.176
221.803
1. Tiền gửi DN
46.944
14,71%
46.508
436
207.578
38,38
100.895
106.683
160.634
2. Tiền gửi TK
271.522
85,12
271.177
375
329.116
60,85
304.964
24.421
57.564
3. Kỳ phiếu
596
0,17
17
579
4.201
0,77
4.129
72
3.605
II. Cho vay và đầu tư
141.596
100
125.672
15.924
358.050
100
301.645
56.414
261.464
1. Cho vay
136.596
96,47
120.672
15.924
353.060
98,60
296.645
56.414
261.464
2. Đầu tư
5.000
3,53
5.000
0
5.000
1,4
5.000
0
0
Nhìn vào biểu đồ trên, ta thấy nguồn vốn huy động của Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm luôn gia tăng qua các thời kỳ, cụ thể :
Về hoạt động tín dụng : nguồn vốn huy động cuối quý IV/1997 là: 540.895 tăng 221.803 triệu đồng so với năm 1996.
Với việc đa dạng hoá các nghiệp vụ kinh doanh kết hợp với việc phát triển các nghiệp vụ dịch vụ Ngân hàng như : nghiệp vụ thuê hàng, nên số lượng khách hàng đến với Ngân hàng ngày càng lớn. Do đó doanh số cho vay của Ngân hàng đạt 353.060 triệu đồng tăng 216.464 triệu đồng so với năm 1996 về số tuyệt đối.
Về hoạt động đầu tư : trong năm 1997, với việc chú trọng đầu tư ngoài quốc doanh cả ngắn hạn, trung hạn và dài hạn Ngân hàng đã đầu tư số vốn cho vay vốn đặc biệt là 41.197 triệu đồng giúp cho các doanh nghiệp trên địa bàn quận có đủ vốn để nâng cấp, mở rộng nhà xưỏng đổi mới máy móc thiết bị qua đó góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Về các hoạt động khác : về hoạt động kinh doanh ngoại tệ Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm đã thu về trong năm 1997 là : 201.906.892 triệu đồng tăng so với năm 1996 là : 86.189.920 đồng, hoạt động này góp phần làm phong phú và đa dạng hoá hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
Bên cạnh việc thực hiện tốt nhiệm vụ kinh doanh thị trường, Ngân hàng còn có đóng góp rất to lớn vào việc thực hiện các chính sách thị trường - tài chính của Nhà nước, góp phần làm ổn định sức mua của đồng tiền Việt Nam, kiềm chế lạm phát và đảm bảo được đời sống vật chất, tính thần cho toàn bộ cán bộ công nhân viên của Ngân hàng.
Trên đây là một vài nét khái quát về tình hình hoạt động chúng của Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm trong năm qua. Với mục đích của bài viết này lầ xem xét hoạt động đầu vào của Ngân hàng, mà chủ yếu là hoạt động huy động vốn, sau đây ta sẽ đi vào phân tích tình hình hoạt động huy động vốn của Ngân hàng trong thời gian qua.
III - thực trạng hoạt động huy động vốn của Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm :
1) Nguồn vốn của Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm:
Với tư cách là một Ngân hàng thương mại trong hệ thống Ngân hàng Việt Nam, vốn của Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm được hình thành từ các nguồn sau :
- Nguồn vốn tự có.
- Nguồn vốn huy động : đây là vốn chủ yếu quan trọng nhất để Ngân hàng thực hiện cho vay.
- Nguồn vốn vay của Ngân hàng Nhà nước.
- Nguồn vốn điều động từ các Ngân hàng khác trong hệ thống.
Tuy nhiên, một đặc điểm khác biệt của Ngân hàng Hoàn Kiếm khác so với các Ngân hàng khác là : do nguồn gốc lịch sử của Ngân hàng Hoàn Kiếm, vốn caủa Ngân hàng được hình thành chủ yếu từ hai nguồn : nguồn vốn tự có và nguồn vốn huy động. Ta xem xét hai đặc điểm nói trên đó là :
Do đặ điểm kinh tế của khu vực :
Dân cư khu vực Hoàn Kiếm có mức thu nhập khá cao so với dân cư khu vực khác trong nội thành, do vậy số lượng tiền nhàn rỗi trong tay dân cư trên địa bàn quận là rất lớn. Đối với những người không tham gia hoạt động kinh doanh nhưng lại muốn vừa có thêm tiền vừa đảm bảo an toàn cho khoản tiền của họ, họ sẽ gửi tiền của mình dưới hình thức tiết kiệm hoặc mua kỳ phiếu Ngân hàng. Đây chính làa nguyên nhân tạo sự dồi dào trong nguồn tiết kiệm, nên với kinh doanh huy động vốn của Ngân hàng sẽ có một khoản tién hoạt động lơn. Trong khi đó ở đầu ra, khách hàng của Ngân hàng chính làa các hộ tư thương, các đơn vị sản xuất, các xí nghiệp có trụ sở trên địa bàn quận trong đó tư nhân chiếm phần lớn. Do vậy, trong năm 1997 tổng số tiền gửi tiết kiệm đạt mức 329.116 triệu đồng. Đây là một con số cao trong toàn bộ hệ thống Ngân hàng thương mại. Thêm vào đó tổng số tiền phát hành kỳ phiếu của Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm trong năm 1997 là : 4.201 triệu đồng. Điều đó chứng tỏ rằng Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm đã biết khai thác hết sức mạnh của đặc điểm khu vực mình và hoạt động ngày càng có uy tín, do vậy ngày càng thu hút được một lượng tiền rất lớn phục vụ cho công tác huy động vốn nói riêng và hoạt động kinh doanh nói chung của Ngân hàng.
Do đặc điểm lịch sử của Ngân hàng :
Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm trước đây là một đơn vị kinh tế với chức năng chính là bảo đảm vốn cho thành phần kinh tế ngoài quốc doanh và các doanh nghiệp có quy mô nhỏ trên địa bàn quận. Còn đối với các doanh nghiệp lớn đều phải thực hiện quan hệ tín dụng của họ đối với hội sở chính. Chính điều này đã dẫn đến việc hạn chế bớt số lượng khách hàng đến với Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm và điều đó cũng có nghĩa là giảm bớt thị trường đầu ra của Ngân hàng.
Cụ thể đó là doanh số tiền gửi doanh nghiệp ở Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm làa : 207.578 triệu đồng, một số chưa phải là cao so với các Ngân hàng thương mại khác.
Như vậy, nguồn vốn của Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm chỉ hình thành từ 2 nguồn chủ yếu đó là : nguồn vốn tự có và nguồn vốn huy động.
Cơ cấu nguồn vốn của Ngân hàng
Công Thương Hoàn Kiếm qua các thời kỳ
Thời kỳ
Quý IV/96
Quý I/97
Quý II/97
Quý III/97
Quý IV/97
Chỉ tiêu
DS
%
DS
%
DS
%
DS
%
DS
%
Nguồn vốn VTC
9424
8,26
9573
7,41
11765
8,27
11857
7,41
15986
7,3
Nguồn vốn huy động
104717
91,74
119672
92,59
130728
91,73
148215
92,59
199836
92,7
Tổng nguồn
114141
100
129245
100
142493
100
160072
100
215822
100
Nhìn vào bảng số liệu ta thấy rằng : nguồn vốn huy động không ngừng tăng trưởng qua các thời kỳ kể cả về tỷ trọng và số tuyệt đối trong tổng nguồn.
Tuy rằng về mặt số tuyệt đối vốn tự có cũng luôn tăng lên nhưng tỷ trọng của nó trong nguồn vốn có lúc lại giảm đi, hơn nữa do chức năng bảo vệ người gửi tiền của vốn tự có nên Ngân hàng chỉ có thể sử dụng duy nhất nguồn huy động để kinh doanh. Vì lý do đó và qua sự biến động của nguồn vốn huy động ở bảng trên ta thấy : đây là một xu hướng tốt trong hoạt động của Ngân hàng có được ngày càng nhiều vốn hơn cho hoạt động kinh doanh của mình.
Doanh số cho vay của Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm trong năm 1997 là : 358.060 triệu đồng và luôn có xu hướng tăng lên qua các thời kỳ, cho thấy sự mở rộng trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng. Mặc dù tỷ lệ giữa huy động vốn và sử dụng vốn ở Ngân hàng không lớn lắm, song Ngân hàng tính đến thời điểm 12/1997 luôn trong tình trạng không sử dụng hết vốn huy động.
Về tình trạng luôn dư thừa vốn huy động này, đứng trên góc độ một nền kinh tế là tốt vì 2 lý do :
- Nó bảo đảm được sự tập trung vốn nhàn rỗi trong dân cư, biến tiền nhà rỗi vào đầu tư sản xuất kinh doanh, phù hợp với chính xác tạo vốn cho nền kinh tế mà Đảng và Nhà nước đề ra.
- Nó đảm bảo cho người dân có tiền nhàn rỗi có được chỗ an toàn để gửi tiền đồng thời tăng thêm thu nhập.
Tuy nhiên dưới góc độ hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thì tình trạng này là không tốt vì nếu không điều động đi được thì đây là một gánh nặng về chi phí cho Ngân hàng còn nếu điều động được Ngân hàng sẽ bớt đi được gánh nặng về chi phí nhưng lại là hành động tiếp sức cho các đối thủ cạnh tranh của mình. Đó là những Ngân hàng thương mại đâng hoạt động trên địa bàn quận nói chung, hậu quả là Ngân hàng sẽ bị thu hẹp thị trường đầu ra.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này có rất nhiều, ta sẽ xét một vài nguyên nhân chính sau :
* Do chính sách tín dụng chưa phù hợp.
* Do cơ cấu tiền huy động chưa phù hợp, tỷ trọng những khoản tiền huy động có lãi suất cao quá lớn, do vậy làm cho lãi suất đầu râ bị đẩy lên cao so với lãi suất trung bình khu vực, từ đó hạn chế khả năng cạnh tranh của Ngân hàng.
Mối nguyên nhân nói trên đều có những mức độ tác động nhất định đến sự hạn chế đầu ra của Ngân hàng. Tuy nhiên trên giác độ nghiên cứu về hoạt động huy động vốn của Ngân hàng huy động vốn của Ngân hàng, ta chỉ xem xét tấc động của cơ cấu tiền huy động đến tình trạng này.
Đi sâu và xem xét về thực trạng của hoạt động huy động vốn của Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm chúng ta sẽ xem xét đến tác động của cơ cấu tiền huy động đến tình trạng trên.
2) Thực trạng của hoạt động huy động vốn của Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm:
Vấn đề huy động vốn của một Ngân hàng xoay quanh ba nghiệp vụ chính :
- Các nghiệp vụ bên nợ (huy động vốn)
- Các nghiệp vụ bên có (sử dụng vốn)
- Các nghiệp vụ trung gian (chuyển tiền)
Một Ngân hàng thương mại, tất nhiên là phải huy động vốn thì mới có vốn cho vay và ngược lại cho vay có hiệu quả , kinh tế phát triển thì mới có nguồn vốn lớn để huy động, đồng thời có làm tốt các nghiệp vụ trung gian thì các nghiệp vụ trên mới hoàn thành tốt. Đối với một Ngân hàng thương mại thì nghiệp vụ bên nợ tức là huy động vốn là nghiệp vụ quan trọng nhất để pơt và 2 nghiệp vụ còn lại chỉ kết hợp hài hoà mà thôi.
Chúng ta biết rằng Ngân hàng là một doanh nghiệp đặc biệt, hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ nên vốn của Ngân hàng cũng mang tính chất đặc trưng riêng.
Nếu như ở các doanh nghiệp khác, vốn để hoạt động kinh doanh phải chủ yếu là vốn tự có của bản thân doanh nghiệp nếu thiếu vốn thì mới phải phát hành thêm cổ phiếu, trái phiếu hoặc vay Ngân hàng. Ngược lại, Ngân hàng kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, nên ngoài vốn tự có, vốn dự trữ và các loại vốn vay Ngân hàng khác, thì Ngân hàng không sử dụng những nguồn vốn đó làm nguồn vốn chính để tiến hành hoạt động kinh doanh của mình. Mà nguồn vốn chính của Ngân hàng là Nháy chuột huy động được, vốn tự có của Ngân hàng chỉ nhằm mục đích gây sự tin tưởng và uy tín của Ngân hàng mình đối với khách hàng, còn các nguồn vốn khác chỉ nhằm mục đích hỗ trợ trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
Hiện nay, trong nền kinh tế thị trường thì hướng hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng thương mại đều hướng theo phương trâm “đi vay để cho vay”, không sử dụng đến nguồn vốn cấp phát, huy động theo hướng có lợi cho kinh doanh.
Nhận rõ được điều đó Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm ngày càng chú trọng theo định hướng đó, để nâng cao cả về số lượng và chất lượng của nguồn vốn huy động.
Do vậy, trong thời gian qua Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm đã hủ động trong hoạt động kinh doanh của mình. Ngân hàng ngày càng cố gắng đáp ứng được mọi nhu cầu của khách hàng đến vay vốn bằng cách luôn đảm bảo cho mình một nguồn vốn dồi dào, và việc khai thác vốn của Ngân hàng luôn dẹa trên cơ sở xác định được thị trường đầu ra, lĩnh vực đầu tư có mang lại hiệu quả không ? lãi suất ra sao ? Thêm vào đó, Ngân hàng đã xác định được cho mình cách thức cũng như chất lượng huy động vốn nhanh, nhiều, ổn định, đáp ứng được các yêu cầu của khách hàng, và luôn theo định hướng kinh tế của Nhà nước.
Cách thức, huy động vốn chủ yếu được áp dụng trong thời gian qua tại Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm làa :
- Nhận tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn và không có kỳ hạn.
- Phát hành kỳ phiếu.
- Nhận tiền gửi của các tổ chức kinh tế.
- Vây các tổ chức tín dụng khác.
Ta sẽ đi xem xét từng loại hình huy động vốn nói trên :
a) Nguồn tiền gửi của các tổ chức kinh tế:
Đây là nguồn lớn thứ 2 trong cơ cấu huy động vốn, chúng ta đang trên đà công nghiệp hóa và hiện đại hoá đất nước nhiều nhà máy mới mọc lên nhưng ngoại trừ những nhà máy liên doanh với nước ngoài hoặc 1 số nhà máy làm ăn thực sự có hiệu quả là có nguồn vốn tự có lớn, còn lại đa số các doanh nghiệp còn lúng túng trong việc tìm kiếm thị trường, do họ có vốn tự có rất thấp. Vì thế nguồn vốn huy động tiền gửi của các tổ chức kinh tế chiếm tỷ trọng chưa cao. Tuy nhiên trong thời gian qua, do nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường, các nhà doanh nghiệp làm ăn đã có hiệu quả thật sự, lãi thực sự, nên nguồn tiền gửi ở Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm đã có kết quả cao.
KếT CấU NGUồN VốN HUY ĐộNG QUA CáC THờI Kỳ
Đơn vị : Triệu đồng
Thời kỳ
Quý IV/96
(31-12-1996)
Quý I/97
Quý II/97
Quý III/97
Quý IV/97
Chỉ tiêu
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
Tiền gửi các tổ chức kinh tế
42125
37,67
45897
33,9
48275
34
52179
35,1
61227
37,12
Tiền gửi tiết kiệm
67889
60,71
78275
57,8
80129
56,44
82357
55,4
88355
53,57
Kỳ phiếu
875
0,78
927
0,68
1050
0,74
1102
0,75
1122
0,68
Vay các tổ chức tín dụng khác
927
0,84
10279
7,62
12570
8,82
13021
8,75
14222
8,63
Tổng nguồn
111816
100
135378
100
141961
100
148659
100
164926
100
Tính đến 31-12-1997 đạt 61227 triệu đồng (Quý IV/97) chiếm tỷ trọng 37,2% trên tổng nguồn vốn huy động và tổng số tiền gửi của các tổ chức kinh tế gửi tại Ngân hàng Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm trong năm 1997 là : 207.578 triệu đồng, chiếm tỷ trọng 34, 69% trên tổng nguồn vốn huy động.
Chúng ta có thể thấy rõ sự phát triển của loại tiền gửi này qua :
Biểu đồ tỷ trọng nguồn tiền gửi các tổ chức kinh tế
trên tổng nguồn vốn.
Nhìn trên biểu đồ, ta thấy vào quý II/97, nguồn này xu hướng tăng chậm lại hay nói cách khác nó có xu hướng không tăng nữa, chứng tỏ rằng : trong giai đoạn này các đơn vị chuẩn bị sự trữ hàng hoá, vật tư phục vụ sản xuất và hoàn thành kế hoạch cuối năm nên họ rút tiền đi để mua vật tư hàng hoá. Đến cuối năm, sau khi bán được hàng hoá, số phải có những biện pháp nhằm khỏi tăng nguồn vốn này. Chúng ta sẽ đề cập đến các giải pháp này ở chương III.
Trên thực tế với tổng số tiên gửi của các tổ chức kinh tế vào Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm là 207.578 triệu đồng chưa phải là cao, điều này cho ta thấy, Ngân hàng cần phải điều chỉnh lại cơ cấu nguồn vốn trong việc huy động vốn.
Chúng ta biết rằng, số lượng đơn vị có quan hệ kinh doanh với Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm còn nhỏ, quy mô không lớn, do đặc điểm kinh tế của địa bàn quận và lịch sử phát triển của Ngân hàng đã nói ở trên nên công tác phục vụ khách hàng chưa thể tốt. Những nguyên nhân chủ yếu của hiện tượng này là :
- Số lượng các đơn vị kinh doanh có quy mô vừa và lớn ít do nguồn gốc lịch sử của Ngân hàng.
- Các hộ tư thương hoạt động kinh doanh trên địa bàn quận vẫn chưa chú ý nhiều đến việc thanh toán qua Ngân hàng mà vần còn dùng tiền mặt để thanh toán.
- Ngân hàng mới hoạt động độc lập trong một khoảng thời gian còn rất ngắn, nen chưa đủ sức đáp ứng mọi nhu cầu thanh tón với quy mô lớn.
Vì vậy, để mở rộng nguồn này, Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm phải nhất thiết chú ý hơn nữa đến chiến lược khách hàng.
b) Nguồn tiền gửi tiết kiệm:
Đối với các Ngân hàng thương mại, nguồn tiền gửi tiết kiệm là nguồn chủ yếu cho Ngân hàng thực hiện đầu tư, nguồn này ngoài việc giúp cho Ngân hàng tạo được nguồn vốn để cho vay mà còn là công cụ để giúp cho Ngân hàng Nhà nước ổn định giá cả, giảm tốc độ lạm phát.
Thực tế hiện nay là đối với các Ngân hàng thương mại, các quỹ tiết kiệm là các cửa nhận tiền, nơi nào phục vụ tốt và nhanh chóng thuận tiện sẽ thu hút được nhiều khách hàng mang tiền đến gửi. Quận Hoàn Kiếm là một khu vực có khu dân cư đông đúc, do vậy Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm có tời 10 quỹ tiết kiệm trong địa bàn của quận, do vậy hàng năm nguồn huy động từ tiết gửi tiết kiệm của dân cư vào Ngân hàng rất lớn, thường chiếm trên 50% tổng số vốn huy động. Để phát huy thế mạnh đó, Ngân hàng đã đầu tư vào sửa sang trang thiết bị hiện đại và đầy đủ, các điều kiện làm việc, tiếp khách từ trụ sở chính cho tới các quỹ tiết kiệm đều khang trang sạch đẹp gây ấn tượng tốt cho khách hàng khi đến giao dịch. Hơn thế nữa, đội ngũ thanh toán viên được lựa chọn có thái độ văn minh, lịch sự, phục vụ khách hàng chu đáo và tận tình. Những cố gắng trong công tác huy động vốn này đã góp phần vào kết quả chung của Ngân hàng : đó là không ngừng tăng nhanh nguồn vốn huy động, trong năm 1997 đật 329.116 triệu đồng. Nguồn tiền gửi tiết kiệm là nguồn có tỷ trọng lớn nhất trong thu nhập dân cư trong khu vực. Tai Ngân hàng thời hạn của một khoản tiền gửi tiết kiệm rất đa dạng, có thể là 3 tháng, 6 tháng hoặc lâu hơn nữa và dưới hình thức bằng VNĐ hay ngoại tệ.
Nhìn vào bảng kết cấu nguồn vốn huy động qua các thời kỳ ta thấy tỷ trọng của tiền gửi tiết kiệm so với tổng nguồn vốn huy động là rất cao, trung bình đều từ 50% trở lên. Nếu trong quý IV/96 nguồn tiết kiệm tại Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm đạt doanh số 67.889 triệu đồng thì đến cùng kỳ năm 1997 nguồn này tiến tới 88.355 triệu đồng. Như vậy, nhờ thay đổi cơ cấu lãi suất tiền gửi tiết kiệm hợp lý và do có nhiều chính sách ưu đãi nên lượng tiền gửi tiết kiệm tăng lên rõ rệt trong năm 1997, điều này bổ xung nguồn vốn lớn cho Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm.
Chúng ta có thể thấy rõ điều này qua biểu đồ sau :
Biểu đồ tỷ trọng nguồn tiền gửi tiết kiệm/Tổng NVHĐ
Năm 1997, do giá cả ổn định, lạm phát giảm thấp, nhu cầu về vốn của Ngân hàng không nhiều, nhất là vào quý III/97, lãi suất tiền gửi tiết kiệm rất thấp, tỷ giá giữa đồng Việt Nam và $ có chênh lệch song mọi người vẫn gửi tiền vào Ngân hàng, do vậy lượng tiền gửi tiết kiệm vẫn tăng theo thời kỳ nhưng tăng không đều. Thêm vào đó lại do cuộc khủng hoảng về tiền tệ ở Châu á, nên tâm lý mọi người hoang mang, song có thể nói rằng với chính sách tốt và phù hợp, Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm vẫn huy động được một nguồn vốn đủ để hoạt động kinh doanh có hiệu quả.
Chúng ta biết rằng tiền gửi tiết kiệm được hình thành từ hai nguồn : nguồn tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn và không kỳ hạn, nên sự biến đổi của hai nguồn này sẽ có tác động đến sự biến đổi của nguồn tiền gửi tiết kiệm nói chung. Sau đây, ta sẽ đi phân tích sự biến động của 2 nguồn này qua bảng kết cấu nguồn vốn huy động qua các thời kỳ.
Và qua bảng cân đối vốn kinh doanh của Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm năm 1997, ta thấy nguồn tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn luôn luôn đạt mức trên 90% trong tổng nguồn tiền tiết kiệm, cụ thể là : 96,73% vào năm 1997.
Với một tỷ trọng như vậy trong nguồn vồn tiết kiệm, nguồn tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn này có thể bảo đảm đầy đủ nhu cầu tín dụng của khách hàng trong những thời hạn nhất định và do tính thời hạn của nóm Ngân hàng hoàn toàn có được sự chủ động trong việc sử dụng nguồn này. Tuy nhiên, đây là loại tiền gửi co lãi suất cao nhất trong các loại tiền tiết kiệm nên Ngân hàng muốn sử dụng nguồn này có hiệu quả đòi hỏi Ngân hàng phải có những biện pháp thích hợp nhằm giảm đến mức thấp nhất chi phí cho việc huy động loại tiền này tránh việc nâng lãi suất quá cao do nguồn này.
Nguồn tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn tiền tiết kiệm, cụ thể là năm 1997 tiền gửi không kỳ hạn ở Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm chỉ ở con số : 3,27% trên tổng nguồn vốưn tiết kiệm.
Sở dĩ có tình trạng nguồn tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn thì lớn nhưng nguồn gửi tiết kiệm không kỳ hạn lại nhỏ hơn rất nhiều là vì : với những người tiền tạm thời nhàn rỗi nhứng bản thân họ tham gia hoạt động kinh doanh, họ luôn có xu hướng để tiền ở trong tay vì tâm lý sợ phiền phức khi rút tiền ra, còn về phía những người không tham gia hoạt động kinh doanh thì mục đích của họ là có thêm thu nhập nên thường chọn hình thức có thời hạn do tính ổn định và mức lãi suất cao hơn.
Về việc huy động vốn bằng nguồn tiền gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ ở Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm, thực tế thời gian vừa qua nguồn này chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong tổng nguồn gửi tiết kiệm, cụ thể trong năm 1997 nguồn này chỉ chiếm 7,42% trong tổng nguồn tiền gửi tiết kiệm. Sở dĩ có tình trạng này là do :
- Do tâm lý của dân cư : với những người có ít ngoại tệ thì họ thường để ở nhà để đề phòng những trường hợp khi có chi tiêu đột suất, họ cất giữ như vàng, vì thực tế các đồng ngoại tệ, đặc biệt là ngoại tệ mạnh hầu như không mất giá mà lại có xu hướng tăng lên so với tiền Việt Nam. Còn với những người có trong tay một khối lượng ngoại tệ lớn thì đối với họ tiền lãi ít có ý nghĩa và họ sựo gửi Ngân hàng, khi rút ra gặp nhiều phiền phức. Do vây, dẫn đến tình trạng luôn luôn tồn tại một khối lượng lớn ngoại tệ nằm ngoài lưu thông.
- Do trên địa bàn quận có rất nhiều tổ chức tín dụng cả trong và ngoài nước, nên tạo ra một sự cạnh tranh gay gắt trong các hoạt động huy động vốn, mà đặc biệt là huy động vốn bằng ngoại tệ. Trong điều kiện đó, thì ai mạnh hơn người đó sẽ giành chiến thắng. Chính vì điều này mà nguồn vốn huy động bằng ngoại tệ của Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm sẽ bị hạn chế nhiều vì : Ngân hàng hoạt động độc lập chưa được lâu, khó có thể sánh được với các chi nhánh Ngân hàng nước ngoài và một vài Ngân hàng Việt Nam có quy mô lớnnhư Ngân hàng ngoại thương Việt Nam về các mặt từ trang thiét bị đến các điều kiện khác.
c) Nguồn tiền phát hành kỳ phiếu:
Huy động vốn bằng phát hành kỳ phiếu có lẽ là biện pháp cho phép huy động được một số vốn lớn nhanh nhất vì lãi suất huy động của loại hình này rất cao. Việc phát hành kỳ phiếu nhằm mục đích huy động tiền tạm thời nhàn rỗi trong dân cư để cho dân cư và các tổ chức kinh tế vay vốn thực hiện các dự án đầu tư sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Đồng thời thu hút một lượng tiền mặt từ lưu thông góp phần kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, hạn chế cơn sốt vàng và đô la Mỹ.
Thực tế, việc huy động nguồn tiền loại này ở Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm vào năm 1997 chưa được cao, cụ thể vó chỉ đạt mức 4201 triệu đồng, chiếm 0,7 % tổng số vốưn huy động. Tỷ lệ này chứng tỏ trong thời gian vừa qua Ngân hàng không sử dụng được hết vốn huy động, do vậy nhu cầu về vốn huy động không cần đến tiền phát hành kỳ phiếu, nên Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm đã ngừng phát hành kỳ phiếu, do vậy khách hàng chuyển sang gửi tiền tiết kiệm nên số lượng tiền gửi tiết kiệm tăng cao, còn số tiền gửi kỳ phiếu chiếm tỷ lệ nhỏ.
Việc phát hành kỳ phiếu Ngân hàng cũng có một vài nhược điểm như sau : chi phí cho việc phát hành lớn, mức lãi suất cao (cao hơn so với lãi suất tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn), thêm vầo đó là việc phát hành kỳ phiếu Ngân hàng lại không thể một cách liên tục mà phải theo từng đợt. Hơn nữa nhiều khi việc phát hành kỳ phiếu với mục đích tăng nguồn vốn huy động nhưng trong thực tế nguồn vốn huy động tăng rất ít mà chỉ có sự thay đổi trong cơ cấu nguồn vốn huy động mà thôi. Do đó, khi phát hành kỳ phiếu, Ngân hàng cần phải lựa chọn hình thức phát hành và thời hạn cho phù hợp.
d) Vay các tổ chức tín dụng khác :
Như chúng ta đã biết về tổng thể một Ngân hàng có thể không sử dụng hết số đã huy động vốn từ tiền gửi tiết kiệm huy tiền gửi của các đơn vị kinh doanh, hoặc tiền phát hành kỳ phiếu nhưng trong nguồn vốn của Ngân hàng luôn luôn tồn tại nguồn vốn vay của các tổ chức tín dụng khác, bởi vì tại một thời điểm nào đó Ngân hàng cần một số tiền để thanh toán đáp ứng nhu cầu của khách hàng trong việc họ muốn rút tiền. Việc vay mượn này có thể tiến hành dưới hình thức nhờ tổ chức tín dụng khác có quan hệ với Ngân hàng thanh toán hay chi hộ.
Tại Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm, tỷ trọng từ nguồn vốn vay từ các tổ chức tín dụng khác trong tổng nguồn là rất nhỏ. Tính đến ngày 31/12/97 chỉ đạt 4.201 triệu đồng, chiếm 0,7% trong tổng số nguồn vốn huy động. Về lý thuyết, ta thấy số luợng vốn vay của các tổ chức tín dụng khác cho thấy được quy mô và phạm vị hoạt động của Ngân hàng. Song tại Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm nguồn vay vốn từ các tổ chức tín dụng khác chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn là do :
- Trong địa bàn quận chủ yếu là tư nhân với hoạt động kinh doanh tại chỗ, việc thanh toán chủ yếu bằng tiền mặt giữâ người mua và người bán.
Tóm lại, qua phân tích trên đây ta thấy rằng, tuy Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm trong những năm qua hoạt động có hiệu quả cao, song để có được nhiều hơn nữa thì cần phải xem xét một số vấn đề tồn tại, khắc phục nó để ngày càng đáp ứng tốt hơn nữa mọi khách hàng của Ngân hàng.
Phần iii
một số biện pháp tăng cường huy động vốn
tại ngân hàng công thương hoàn kiếm
Như chúng ta đã nghiên cứu ở trên, Ngân hàng là một Doanh Nghiệp hoạt động kinh doanh trên một lĩnh vực đặc biệt đó là tiền tệ. Vì thế nó cũng phải tuân theo những quy luật của nền kinh tế thị trường, đó là cạnh tranh. Cạnh tranh làm Doanh Nghiệp tồn tại và phát triển, song cạnh tranh cũng có thể làm cho các Doanh Nghiệp bị phá sản. Trong những năm qua, với sự hoạt động ngày càng phát triển và đi lên, Ngân Hàng Công Thương Hoàn Kiếm không ngừng phấn đấu và hoàn thiện các hình thức kinh doanh của mình nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động, Ngân hàng luôn nghiêm khắc tự đánh giá chính mình tìm cách khắc phục và sửa đổi những mặt còn tồn tại để phục vụ khách hàng ngày càng tốt hơn, đáp ứng được mọi nhu cầu của khách hàng, góp phần phát triển và hoàn thành tốt các mục tiêu mà Ngân hàng đã đề ra.
i. những mặt còn tồn tại trong công tác huy động vốn ở ngân hàng công thương hoàn kiếm
Sau khi xem xét, đánh giá tình hình hoạt động của Ngân Hàng Công Thương Hoàn Kiếm trong thời gian qua. Mà đặc biệt là tình hình huy động vốn, ta thấy rằng:
Ngân Hàng Công Thương Hoàn Kiếm, từ một đơn vị với tư cách là một quầy giao dịch của Hội Sở Chính, chuyển sang hoạt động độc lập chưa lâu. Nhưng Ngân hàng đã cố gắng đảm bảo được đầu vào cho hoạt động của mình, không những thế, Ngân hàng luôn hoàn thành tốt các chỉ tiêu về vốn, điều hoà mà Ngân Hàng Công Thương Trung Ương giao cho.
Trong thời gian qua, Ngân hàng đã triển khai được nhiều hình thức huy động vốn phù hợp với đặc điểm tình hình kinh tế trên địa bàn Quận, đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động đầu ra của mình với phương trâm:
Nâng cao hiệu quả của công tác tín dụng cũng chính là nâng cao hiệu quả hoạt động huy động vốn.
Tuy nhiên, trong hoạt động huy động vốn, Ngân Hàng Công Thương Hoàn Kiếm còn một số vấn đề tồn tại sau:
* Ngay trong bản thân nguồn vốn huy động của Ngân hàng có sự mất cân đối giữa các nguồn: Tiết kiệm và tiền phát hành kỳ phiếu.
* Nguồn tiền gửi Ngoại tệ tại Ngân hàng còn quá nhỏ bé, không đáp ứng được đầy đủ các nhu cầu của khách hàng.
* Phương thức huy động, tuy đã được nâng cao nhưng chưa phong phú, chưa thực sự thu hút khách hàng.
* Do điều kiện về cơ sở vật chất và là một chi nhánh của Ngân Hàng Công Thương Việt Nam, nên các dịch vụ còn hẹp.
Do đó, để có thể tăng cường được hiệu quả trong hoạt động của Ngân hàng đồng thời vẫn bảo đảm được hiệu quả Kinh Tế Xã Hội, thì Ngân hàng phải có sự thay đổi trong chính sách của mình đồng thời tổ chức có hiệu quả hơn nữa hoạt động huy động vốn, khai thác và sử dụng hợp lý các nguồn tiền nhàn rỗi của dân cư, tìm thị trường đầu ra cho mình.
ii. phương hướng hoạt động công tác huy động vốn của ngân hàng công thương hoàn kiếm trong thời gian tới.
* Nhìn nhận chung thì Ngân Hàng Công Thương Hoàn Kiếm đã huy động có hiệu quả các nguồn vốn, song thực tế không hoàn toàn như vậy. Nguồn tiền gửi tiết kiệm chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn huy động, nhưng đây lại là nguồn mà Ngân hàng phải huy động với lãi suất cao. Do vậy lợi nhuận của Ngân hàng sẽ bị thu hẹp lại. Do đó, trong thời gian tới Ngân hàng sẽ tích cực tuyên truyền và có những chính sách ưu đãi về lãi suất tiền gửi của các tổ chức kinh tế, tạo uy tín về khả năng thanh toán của Ngân hàng đối với các tổ chức kinh tế.
* Trong thời gian qua, Ngân Hàng Công Thương Hoàn Kiếm đã áp dụng hình thức “ Tiết kiệm gửi một nơi rút nhiều nơi “, nhằm tăng cường công tác huy động vốn, trong thời gian tới, Ngân hàng sẽ tích cực mở rộng phạm vi khách hàng của mình. Tuy nhiên để làm được điều này, Ngân hàng sẽ phải có sự hiện đại hoá trong công nghệ thanh toán đồng thời Ngân Hàng Công Thương Hoàn Kiếm trong thời gian tới sẽ có những chính sách để có được sự kết hợp hài hoà với các Ngân Hàng Thương Mại khác.
* Tăng cường đào tạo và bồi dưỡng cán bộ công nhân viên của Ngân hàng, nhằm nâng cao chất lượng trong nội bộ của Ngân hàng, tạo ra một bộ máy đồng bộ và ổn định với nhiều cán bộ có trình độ để đáp ứng được với tình hình hoạt động của Ngân hàng.
* Một mặt, Ngân hàng ngày càng có nhiều phương thức phù hợp để thu hút được nhiều khách hàng mới, nhằm mở rộng về quy mô hoạt động của Ngân hàng mình, một mặt vẫn có những chính sách ưu đãi về lãi suất đối với những khách hàng truyền thống của Ngân hàng. Tăng cường tìm thị trường đầu ra cho mình, nhằm hoạt động tín dụng một cách hài hoà giữa công tác huy động vốn với công tác cho vay, góp phần đưa Ngân hàng ngày càng làm ăn có hiệu quả hơn.
iii. một số giải pháp tăng cường huy động vốn : tại ngân hàng công thương hoàn kiếm trong thời gian tới:
1.Về phía Ngân Hàng Công Thương Hoàn Kiếm
* Đẩy mạnh và tăng cường hơn nữa nguồn vốn huy động từ những nguồn đã có sẵn: Đó là những nguồn Ngân hàng đã khai thác thường xuyên qua mấy năm hoạt động của mình. Ngân hàng phải tiếp tục cải tiến công tác thanh toán qua Ngân hàng. Vì việc thanh toán qua Ngân hàng sẽ làm tăng số lượng khách hàng có nhu cầu thanh toán đến với Ngân hàng. Do đó làm tăng lượng tiền ký gửi. Muốn thế, Ngân hàng phải tăng cường áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật mới vào quá trình thanh toán, qua đó đẩy nhanh tốc độ thanh toán, từ đó giảm bớt được chi phí cho hoạt động này. Bên cạnh đó, Ngân hàng cần thường xuyên đào tạo và bồi dưỡng, nâng cao trình độ các thanh toán viên giúp cho họ có thể xử lý một cách nhanh chóng các sai lầm phát sinh trong quá trình thanh toán, hạn chế bớt được thời gian chết trong hoạt động thanh toán cho khách hàng. Qua đó, tạo ra cho khách hàng một tâm lý thoải mái khi giao dịch với Ngân hàng mình. Các thủ tục trong quá trình thanh toán phải gọn nhẹ, chính xác và khoa học, giúp cho khách hàng có thể thanh toán một cách nhanh nhất với chi phí thấp nhất.
Thêm vào đó, Ngân hàng phải thường xuyên tuyên truyền và quảng cáo nhằm giúp cho dân chúng thấy được những lơị ích của việc gửi tiền tiết kiệm, đồng thời luôn luôn chú ý và coi trọng việc xây dựng mối quan hệ và uy tín giữa Ngân hàng với khách hàng, tạo cho dân chúng có lòng tin với Ngân hàng.
Ngân hàng phải thường xuyên cải tiến một số hình thức huy động vốn theo hướng thuận lợi nhất cho khách hàng mà Ngân hàng hoạt động vẫn có hiệu quả như : đa dạng hóa các hình thức huy động vốn cho phong phú và mọi người dân có thể chọn bất kỳ hình thức nào cho phù hợp với họ.
Trong 2 năm qua, Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm đã áp dụng hình thức huy động vốn : chuyển tài khoản tiền gửi các nhân và tư nhân thành tài khoản séc, song cho đến nay số lượng tài khoản tư nhân mở là chưa nhiều, nguyên nhân chính là do bản thân hình thức này chưa có tính thiết thực, thêm vào đó lại do thói quen của người dân Việt Nam quen thanh toán với nhau bằng tiền mặt. Do vậy, trong thời gian tới, Ngân hàng vẫn tiếp tục chú trọng đến hình thức này bằng cách hướng dẫn, tuyên truyền để cho mọi người biết lợi ích của loại tài khoản này.
Tài khoản có thể chuyển đổi thành tiền mặt 100%, có thể sử dụng bất kỳ lúc nào nếu muốn. Tiền này rất an toàn, muốn chi số lượng tiền bao nhiêu chỉ cần phát séc đúng với số tiền đó (đương nhiên phải bảo đảm tên tài khoản còn số dư) ...
Nếu áp dụng đuợc tốt hình thức này, Ngân hàng sẽ có một khả năng hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt trong xã hội. Tạo ra công cụ khá hữu hiệu để thúc đẩy các thành tựu của công nghệ tin học tiên tiến vào hoạt động kế toán, thanh toán Ngân hàng góp phần vào sự nghiệp hiện đại hoá Ngân hàng hiện nay.
* Ngoài việc huy động vốn bằng tiền gửi tiết kiệm, trong thời gian tới Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm còn phải chú trọng đến tiền gửi của các tổ chức kinh tế khác, vì vậy một số giải pháp thu hút nguồn vốn này mà Ngân hàng đặt ra là :
+ Luôn bám sát quá trình sản xuất kinh doanh, quá trình luân chuyển vật tư hàng hoá và kỳ hạn nợ của các tổ chức kinh tế để động viên khách hàng nhanh chóng tiêu thụ sản phẩm nộp tiền bán hàng cho Ngân hàng đúng hạn thanh toán.
Đối với khách hàng có doanh thu bán hàng lớn, Ngân hàng có biện pháp thu tại chỗ theo lịch đã thoả thuận với từng đơn vị nen luôn giữ được mối quan hệ tốt đẹp trong kinh doanh với các bạn hàng.
+ Ngoài ra, do sự phát triển của nền kinh tế, các tổ chức kinh tế dần dần đi vào ổn định và ngày càng phát triển nên số tiền gửi vào Ngân hàng ngày càng tăng. Nếu Ngân hàng thực hiện việc huy động vốn theo nhu cầu sản xuất và thường xuyên chấn chỉnh đổi mới cách giao dịch với khách hàng, trước hết là các bộ phận tín dụng, bộ phận kế toán Ngân hàng, thì nguồn vốn này là nguồn vốn đầu tiên mà Ngân hàng quan tâm. Bộ phận này có tính chất như một sự đảm bảo cho khả năng cung ứng vốn của Ngân hàng, mặt khác đối với nguồn vốn này Ngân hàng lại phải trả lãi thấp hơn tiền tiết kiệm. Do vậy, nguồn tiền gửi của các tổ chức kinh tế đang là mối quan tâm hàng đầu của Ngân hàng, là một nhân tố quan trọng trong công tác huy động vốn hiện nay.
* Mở rộng và tìm kiếm thị trường đầu ra cho mình :
Đây là một giải pháp rất quan trọng đối với Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm bởi vì do đặc điểm kinh tế khu vực Hoàn Kiếm dẫn tới sự hạn chế ở đầu ra trong hoạt động của Ngân hàng, vì vậy Ngân hàng đặt ra 1 số giải pháp nhằm tìm kiếm thị trường đầu ra bằng việc phát triển một số hình thức cho vay mới kết hợp với huy động vốn.
+ Ngân hàng kéo dài thêm thời hạn cho vay.
+ Mở rộng nghiệp vụ thuê mua
+ Mở rộng hình thức tài khoản vãng lai. Đây là một trong những hình thức tài khoản mới được đưa vào sử dụng ở Việt Nam, về thủ tục mở tài khoản này cũng giống như thủ tục mở tài khoản séc, nhưng loại tài khoản vãng lai có nhiều điểm thuận lợi hơn ở chỗ người chủ tài khoản có thể thực hiện việc vay mượn của Ngân hàng trên tài khoản này. Còn về phía Ngân hàng do có sự phân biệt lãi suất giữa bên có và bên nợ của tài khoản này (lãi suất trả cho số dư nợ phải luôn cao hơn lãi suất số dư có) dẫn đến việc đơn vị mở tài khoản cố gắng bỏ tiền tối đa vào tài khoản, nên Ngân hàng luôn có được một khối lượng vốn lớn. Hơn nữa, Ngân hàng lại thực hiện luôn được hoạt động tín dụng của mình mà không phải tìm kiếm khách hàng ở bên ngoài.
+ Huy động tiền tiết kiệm với nhiều mục đích khác nhau, nhưng chủ yếu là mục đích xây dựng nhà ở:
Do hiện nay, nhu cầu về nhà ở trên địa bàn Hà Nội là rất lơn, song do mức thu nhập của dân cư ở nước ta còn ở mức thấp, nên nhiều người vẫn chưa đủ tiền để mua cho mình một căn nhà, chính vì điều này, Ngân hàng đã có 1 hình thức huy động vốn kết hợp luôn cho vay là : chỉ cần 1 số tiền không quá lớn gửi vào Ngân hàng, chỉ sau một năm gửi tiền, người gửi tiền có thể được vay số tiền mà họ cần đồng thời trong vòng 1 năm đó, dọ vẫn được hưởng lãi từ khoản tiền gửi của mính. Ngân hàng có trách nhiệm huy động vốn và chuẩn bị đủ số vốn để thanh toán tiền gửi và cho vay theo quy định nếu không Ngân hàng sẽ bị phạt như thủ tục phạt chậm trả tiền số tiền gửi tiết kiệm và số tiền vay. Tuy nhiên, khi tổ chức hình thức này, Ngân hàng cần tiến hành một cách từ từ, tránh tính trạng huy động một cách quá ồ ạt dẫn đến việc mất khả năng thanh toán cho dân, từ đó làm ảnh hưởng đến uy tín của Ngân hàng.
Trên đây là một số giải pháp cơ bản để tăng cường nguồn vốn huy động trong thời gian tới của Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm. Tuy nhiên, còn những yếu tố tác động đến công tác huy động vốn mà nằm ở bên ngoài Ngân hàng, đó là :
2) Về phía Ngân hàng Nhà nước và Ngân hàng công thương trung ương:
a) Về phía Ngân hàng Nhà nước.
Bất kỳ một Ngân hàng nào, để huy động được vốn, điều quan trọng là tạo được lòng tin của nhân dân và đảm bảo độ an toàn đồng vốn bỏ ra, tức là cần tạo ra các điều kiện kinh tế - xã hội và pháp lú cần thiết mang tính giải pháp hỗ trợ để thực hiện các chương trình đã xác định.
* Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện thị trường vốn ngắn hạn (thị trường tiền tệ), thị trường vốn dài hạn (thị trường chứng khoán).
Đối với thị trường tiền têj:
Ngân hàng Nhà nước cần có những chính sách thích hợp để tiếp tục cải cách và hoàn thiện thị trường tín dụng nhằm đổi mới quan hệ tín dụng:
- Giữa Ngân hàng thương mại và khách hàng thông qua việc đa dnạg hoá các hình thức huy động vốn và hình thức cho vay. Mở rộng tín dụng trung và dài hạn, cho vay tới mọi thành phần kinh tế, đa dạng hoá các hình thức dịch vụ Ngân hàng.
- Giữa Ngân hàng thương mại và Ngân hàng Nhà nước thông qua việc cung ứng vốn được thực hiện trên cơ sở tái chiết khấu và tái cấp vốn.
Đối với thị trường chứng khoán
Ngân hàng Nhà nước phải có những chính sách ưu đãi và chú trọng để huy động được các nguồn vốn trung và dài hạn, tạo ra môi trường pháp lý vững chắc, bảo đảm an toàn cho hoạt động kinh tế diễn ra lành mạnh và hoạt động có hiệu quả.
* Ngân hàng Nhà nước cần kết hợp nhiều hình thức huy động vốn :
Trong hệ thống huy động vốn của Nhà nước bao gồm cả hình thức vốn thu hút tài trợ của nước ngoài Ngân hàngư ODA, FDI để cải tạo thành một hệ thống vốn nói chung cho nền kinh tế. Các nguồn này là chủ yếu tập trung vào một lĩnh vực đầu tư trung và dài hạn. Nhằm tăng thêm nguồn vốn huy động bằng ngoại tệ cho nền kinh tế.
* Điều kiện kinh tế - xã hội :
Nhà nước cần xác định rõ chiến lược phát triển kinh tế, định hướng đầu tư, có chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần một cách ổn định và lâu dài. Tiếp tục kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, ổn định sức mua đồng tiền để khuyến khích đầu tư. Qua đó, làm tăng nhu cầu tín dụng và lượng vốn hoạt động trong nền kinh tế.
* Về môi trường tâm lý :
Yếu tố tâm lý xã hội, trình độ văn hoá của từng dân tộc, từng đất nước ảnh hưởng đến phương pháp, tập quán huy động vốn. Đây là những vấn đề cần phải tính đến trong quá trình xây dựng các chính sách và xây dựng các biện pháp huy động vốn phù hợp. Chính vì vậy, cần có nhiều chương trình giáo dục, tuyên truyền với quy mô toàn quốc nhằm tạo ra tâm lý thuận lợi, xoá bỏ tâm lý e ngại, thích tiêu dùng chứ không thích tiết kiệm của người dân.
Qua đó, tạo thuận lợi hơn cho công tác huy động vốn của hệ thống Ngân hàng.
b) Về phía Ngân hàng công thương trung ương.
* Tổ chức phối hợp giữa các Ngân hàng thương mại trong việc thực hiện chương trình “gửi tiền mọi và rút tiền nhiều nơi”. Từ đó, tạo ra sự thuận lợi cho khách hàng trong việc gửi tiền và rút tiền, qua đó thu hút được nhiều vốn hơn.
* Cần có những quy định nhiều kỳ hạn gửi tiền khác nhau như : 3 tháng, 6 , 12, 18, 24, 30 và 36 tháng đối với tiền gửi có kỳ hạn. Tạo ra những hình thức huy đọng phong phú giúp cho khách hàng có thể lựa chọn kỳ hạn nào đối với mình là thích hợp nhất.
* Lấp dần khoảng cách về lãi suất giữa tiền gửi trên tài khoản và tiền gửi tiết kiệm, trong thực tế thời gian qua, cũng là tiền gửi của nhân dân vào Ngân hàng thì tiền gửi tiết kiệm được hưởng lãi suất cao hơn nhiều lần tiền gửi trên tài khoản tiền gửi cá nhân dẫn đến việc mất cân đối trong nguồn vốn huy động.
* Tăng cường huy động tiền gửi của các tổ chức kinh tế khác bằng cách : không phân biệt loại tiền không thời hạn và tiền gửi có thời hạn, là tiền gửi của tư nhân hay của các tổ chức kinh tế khác.
* Tạo môi trường pháp lý cho việc trao đổi, mua bán các chứng chỉ tiền gửi, các loại kỳ phiếu Ngân hàng, giúp cho các Ngân hàng thương mại nói chung và Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm nói riêng thuận lợi hơn trong việc mở rộng hoạt động huy động vốn qua việc đa dạng hoá các hình thức huy động vốn như : phát hành kỳ phiếu có thể trao đổi, chuyển nhượng được, phát hành chứng chỉ tiền gửi cho người gửi tiền thay vì sử dụng sổ tiết kiệm như hiện nay ./.
phần kết luận
Công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước là một quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng phổ biến lao động cùng với công nghệ, phương tiện, phương pháp tiên tiến hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học tạo ra năng xuất lao động cao, tù đó đòi hỏi nghành ngân hàng nói chung và Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm nói riêng phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và triệt để các mặt của hoạt động huy động vốn.
Công tác huy động vốn của ngân hàng Thương mại có vai trò rất quan trọng không chỉ trong hoạt động của bản thân ngân hàng mà còn trong phạm vi một nền kinh tế.Chính vì lẽ đó việc mở rộng và nâng cao hiệu quả của công tác này trong nội bộ hệ thống ngân hàng Thương mại nói riêng và hệ thông tín dụng nói chung rất được chú trọng. Chuyên đề này đi vào phân tích xem xét, đánh giá, đồng thời đưa ra một vài kiến nghị và biện pháp nhằm mở rộng công tác huy động vốn tại ngân hàng Thương mại Việt Nam mà cụ thể là ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm.
Trong đó tập chung chủ yếu vào hoạt động huy động vốn từ nguồn gửi tiết kiệm của dân cư và các tổ chức kinh tế đồng thời đưa ra những giải pháp và kiến nghị nhằm mở rộng hoạt động của công tác này theo hướng triển khai các loại hình huy động cho vay đảm bảo cho việc kết hợp hài hoà giữa mở rộng đầu vào và đầu ra cho phù hợp với đặc điểm, mục tiêu,hoạt động của ngân hàng trong thời gian tới ./.
tài liệu tham khảo
Kinh tế học Samvelson
Lý thuyết tài chính tiền tệ - Trường Đại học KTQD.
Tạp chí Ngân Hàng 1997 - 1998.
Tạp chí nghiên cứu kinh tế.
Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh của chi nhánh Ngân hàng công thương khu vực Hoàn Kiếm.
Ngân Hàng Thương mại NXB Khoa học Thành phố Hồ Chính Minh.
Một số luận văn tham khảo và tạp chí khác.
mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- NH168.doc