Đề tài Tìm một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty xây dựng Cầu 75

Tài liệu Đề tài Tìm một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty xây dựng Cầu 75: Lời nói đầu Vốn là một yếu tố quan trọng quyết định đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Là chìa khoá, là điều kiện tiền đề cho các doanh nghiệp thực hiện các mục tiêu kinh tế của mình là lợi nhuận, lợi thế và an toàn. Trong nền kinh tế kế hoạch tập trung chúng ta chưa đánh giá hết được vai trò thiết yếu của nó nên dẫn đến hiện tượng sử dụng vốn còn nhiều hạn chế, các doanh nghiệp Nhà Nước hoạt động trong cơ chế này được bao tiêu cung ứng, chính vì thế hiệu quả sử dụng vốn không được chú ý đến, do đó không mang lại hiệu quả, làm lãng phí nguồn nhân lực . Hiện nay, đất nước ta bước vào thời kỳ đổi mới, cùng với việc chuyển dịch cơ chế quản lý kinh doanh đó là việc mở rộng quyền tự chủ, giao vốn cho các doanh nghiệp tự quản lý và sử dụng theo hướng lời ăn, lỗ thì chịu. Bên cạnh đó nước ta đang trong quá trình hội nhập kinh tế, các doanh nghiệp đang đối mặt với cạnh tranh gay gắt, mọi doanh nghiệp đều thấy rõ điều này, Nhà Nước và doanh nghiệp cùng bắt tay nhau hội nhập....

doc75 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1103 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Tìm một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty xây dựng Cầu 75, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Vốn là một yếu tố quan trọng quyết định đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Là chìa khoá, là điều kiện tiền đề cho các doanh nghiệp thực hiện các mục tiêu kinh tế của mình là lợi nhuận, lợi thế và an toàn. Trong nền kinh tế kế hoạch tập trung chúng ta chưa đánh giá hết được vai trò thiết yếu của nó nên dẫn đến hiện tượng sử dụng vốn còn nhiều hạn chế, các doanh nghiệp Nhà Nước hoạt động trong cơ chế này được bao tiêu cung ứng, chính vì thế hiệu quả sử dụng vốn không được chú ý đến, do đó không mang lại hiệu quả, làm lãng phí nguồn nhân lực . Hiện nay, đất nước ta bước vào thời kỳ đổi mới, cùng với việc chuyển dịch cơ chế quản lý kinh doanh đó là việc mở rộng quyền tự chủ, giao vốn cho các doanh nghiệp tự quản lý và sử dụng theo hướng lời ăn, lỗ thì chịu. Bên cạnh đó nước ta đang trong quá trình hội nhập kinh tế, các doanh nghiệp đang đối mặt với cạnh tranh gay gắt, mọi doanh nghiệp đều thấy rõ điều này, Nhà Nước và doanh nghiệp cùng bắt tay nhau hội nhập. Điều này đã tạo cơ hội và thách thức cho các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh. Bên cạnh những doanh nghiệp năng động, sớm thích nghi với cơ chế thị trường đã sử dụng vốn có hiệu quả còn những doanh nghiệp khó khăn trong tình trạng sử dụng vốn có hiệu quả nguồn vốn. Vì vậy, việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn không còn là khái niệm mới mẻ, nhưng nó luôn được đặt ra trong suốt quá trình hoạt động của mình. Công ty xây dựng Cầu 75 – Thuộc Tổng Công ty Xây dựng công trình Giao thông 8 là một trong những doanh nghiệp nhà nước thành công trong ngành xây dựng và luôn khảng định: Làm thế nào để sử dụng hiệu quả hơn nữa nguồn vốn kinh doanh. Chính vì lẽ đó, trong thời gian thực tập tại công ty em quyết định chọn đề tài: “ Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty xây dựng Cầu 75 “. Phạm vi nghiên cứu của đề tài chủ yếu đề cập đến hiệu quả sử dụng vốn, nâng cao công tác đầu tư và phát triển của doanh nghiệp, chuyên đề có sử dụng phương pháp thống kê phân tích kinh doanh phục vụ cho công tác phân tích các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh. Nội dung chủ yếu của chuyên đề ngoài phần mở đầu và kết luận được chia làm ba chương : Chương I: Những vấn đề lý luận cơ bản về vốn và hiệu quả sử dụng vốn. Chương II: Phân tích tình hình thực tế về hiệu quả sử dụng vốn của Công ty xây dựng Cầu 75 . Chương III: Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của Công ty xây dựng Cầu 75 Chuyên đề này được hoàn thành, song đây là một vấn đề khó mà thời gian nghiên cứu lại có hạn, do vậy không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong sự góp ý của các thầy cô giáo trong khoa Quản trị khinh doanh của trường mà đặc biệt là sự quan tâm , giúp đỡ của giáo viên hướng dẫn GVC. Nguyễn Thị Thảo và Ban lãnh đạo Công ty xây dựng Cầu 75 . Hà Nội , ngày 16 tháng 04 năm 2004. Chương I: Những vấn đề lý luận cơ bản về vốn và hiệu quả sử dụng vốn I Vốn và tầm quan trọng của vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh: I.1./ Khái niệm về vốn: Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn tồn tại và phát triển được đều cần phải có nguồn tài chính đủ mạnh, đây là một trong ba yếu tố quan trọng giúp doanh nghiệp có thể duy trì hoạt động của mình, nhiều quan niệm về vốn, như: Vốn là một khối lượng tiền tệ nào đó được ném vào lưu thông nhằm mục đích kiếm lời, tiền đó được sử dụng muôn hình muôn vẻ. Nhưng suy cho cùng là để mua sắm tư liệu sản xuất và trả công cho người lao động, nhằm hoàn thành công việc sản xuất kinh doanh hay dịch vụ nào đó với mục đích là thu về số tiền lớn hơn ban đầu. Do đó vốn mang lại giá trị thặng dư cho doanh nghiệp. Quan điểm này đã chỉ rõ mục tiêu của quản lý là sử dụng vốn, nhưng lại mang tính trừu tượng, hạn chế về ý nghĩa đối với hạch toán và phân tích quản lý và sử dụng vốn của doanh nghiệp Theo nghĩa hẹp thì: vốn là tiềm lực tài chính của mỗi cá nhân, mỗi doanh nghiệp, mỗi quốc gia. Theo nghĩa rộng thì: vốn bao gồm toàn bộ các yếu tố kinh tế được bố trí để sản xuất hàng hoá, dịch vụ như tài sản hữu hình, tài sản vô hình, các kiến thức kinh tế, kỹ thuật của doanh nghiệp được tích luỹ, sự khéo léo về trình độ quản lý và tác nghiệp của các cán bộ điều hành, cùng đội ngũ cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp, uy tín của doanh nghiệp. Quan điểm này có ý nghĩa quan trọng trong việc khai thác đầy đủ hiệu quả của vốn trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, việc xác định vốn theo quan điểm này rất khó khăn phức tạp nhất là khi nước ta trình độ quản lý kinh tế còn chưa cao và pháp luật chưa hoàn chỉnh. Theo quan điểm của Mác thì: vốn (tư bản) không phải là vật, là tư liệu sản xuất, không phải là phạm trù vĩnh viễn. Tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột lao động làm thuê. Để tiến hành sản xuất, nhà tư bản ứng tiền ra mua tư liệu sản xuất và sức lao động, nghĩa là tạo ra các yếu tố của quá trình sản xuất. Các yếu tố này có vai trò khác nhau trong việc tạo ra giá trị thặng dư. Mác chia tư bản thành tư bản bất biến và tư bản khả biến. Tư bản bất biến là bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thức tư liệu sản xuất (máy móc, thiết bị, nhà xưởng,ẳ) mà giá trị của nó được chuyển nguyên vẹn vào sản phẩm. Còn tư bản khả biến là bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thức lao động, trong quá trình sản xuất thay đổi về lượng, tăng lên do sức lao động của hàng hoá tăng. Theo David Begg, Stenley Ficher, Rudiger Darubused trong cuốn (Kinh tế học) thì: vốn hiện vật là giá trị của hàng hoá đã sản xuất được sử dụng để tạo ra hàng hoá và dịch vụ khác. Ngoài ra còn có vốn tài chính. Bản thân vốn là một hàng hoá nhưng được tiếp tục sử dụng vào sản xuất kinh doanh tiếp theo. Quan điểm này đã cho thấy nguồn gốc hình thành vốn và trạng thái biểu hiện của vốn, nhưng hạn chế cơ bản là chưa cho thấy mục đích của việc sử dụng vốn. Một số nhà kinh tế học khác lại cho rằng: Vốn có nghĩa là phần lượng sản phẩm tạm thời phải hi sinh cho tiêu dùng hiện tại của nhà đầu tư, để đẩy mạnh sản xuất tiêu dùng trong tương lai. Quan điểm này chủ yếu phản ánh động cơ về đầu tư nhiều hơn là nguồn vốn và biểu hiện của nguồn vốn. Do vậy quan điểm này cũng không đáp ứng được nhu cầu nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cũng như phân tích vốn. Có thể thấy, các quan điểm khác nhau về vốn ở trên, một mặt thể hiện được vai trò tác dụng trong điều kiện lịch sử cụ thể với các yêu cầu, mục đích nghiên cứu cụ thể. Mặt khác, trong cơ chế thị trường hiện nay, đứng trên phương diện hạch toán và quản lý, các quan điểm đó chưa đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu về quản lý đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Trên cơ sở phân tích các quan điểm về vốn ở trên, khái niệm cần thể hiện được các vấn đề sau đây: - Nguồn gốc sâu xa của vốn kinh doanh là một bộ phận của thu nhập quốc dân được tái đầu tư, để phân biệt với vốn đất đai, vốn nhân lực. - Trong trạng thái của vốn kinh doanh tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh là tài sản vật chất (tài sản cố định và tài sản dự trữ) và tài sản tài chính (tiền mặt gửi ngân hàng, các tín phiếu, các chứng khoánẳ) là cơ sở để ra các biện pháp quản lý vốn kinh doanh của doanh nghiệp một cách có hiệu quả. - Phải thể hiện được mục đích sử dụng vốn đó là tìm kiếm các lợi ích kinh tế, lợi ích xã hội mà vốn đem lại, vấn đề này sẽ định hướng cho quá trình quản lý kinh tế nói chung, quản lý vốn doanh nghiệp nói riêng. Từ những vấn đề nói trên,có thể nói quan niệm về vốn là: phần thu nhập quốc dân dưới dạng tài sản vật chất và tài chính được cá nhân, các doanh nghiệp bỏ ra để tiến hành sản xuất kinh doanh nhằm mục đích tối đa hoá lợi ích. I.2./ Tầm quan trọng của vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh : Trong nền kinh tế thị trường, mọi vận hành kinh tế đều được tiền tệ hoá, do vậy bất kỳ một quá trình sản xuất kinh doanh nào dù bất cứ cấp độ nào, gia đình, doanh nghiệp hay quốc gia luôn cần một lượng vốn nhất định dưới dạng tiền tệ, tài nguyên đã được khai thác, bản quyền phát… Vốn là điều kiện tiền đề quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Vốn là cơ sở xác lập địa vị pháp lý của doanh nghiệp, vốn đảm bảo cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp theo mục tiêu đã định. I.2.1./Về mặt pháp lý: Mỗi doanh nghiệp khi muốn thành lập thì điều kiện đầu tiên là doanh nghiệp đó phải có một lượng vốn nhất định, lượng vốn đó tối thiểu phải bằng lượng vốn pháp định (lượng vốn tối thiểu mà pháp luật quy định cho từng loại doanh nghiệp) khi đó địa vị pháp lý mới được công nhận. Ngược lại, việc thành lập doanh nghiệp không thể thực hiện được. Trường hợp trong quá trình hoạt động kinh doanh, vốn của doanh nghiệp không đạt điều kiện mà pháp luật quy định, doanh nghiệp sẽ chấm dứt hoạt động như phá sản, sát nhập vào doanh nghiệp khác… Như vậy, vốn được xem là một trong những cơ sở quan trọng nhất để đảm bảo sự tồn tại tư cách pháp nhân của một doanh nghiệp trước pháp luật . I.2.2./Về kinh tế: Trong hoạt động sản xuất kinh doanh vốn là mạch máu của doanh nghiệp quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Vốn không những đảm bảo khả năng mua sắm máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ phục vụ cho quá trình sản xuất mà còn đảm bảo cho hoạt động kinh doanh diễn ra một cách liên tục, thường xuyên. Vốn là yếu tố quyết định đến mở rộng phạm vi hoạt động của doanh nghiệp. Để có thể tiến hành tái sản xuất mở rộng thì sau một chu kỳ kinh doanh vốn của doanh nghiệp phải sinh lời, tức là hoạt động kinh doanh phải có lãi đảm bảo cho doanh nghiệp được bảo toàn và phát triển. Đó là cơ sở để doanh nghiệp tiếp tục đầu tư sản xuất, thâm nhập vào thị trường tiềm năng từ đó mở rộng thị trường tiêu thụ, nâng cao uy tín của doanh nghiệp trên thương trường. Nhận thức được vai trò quan trọng của vốn như vậy thì doanh nghiệp mới có thể sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả hơn và luôn tìm cách nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. I.3./ Đặc trưng của vốn: Để tiến hành sản xuất kinh doanh cần có tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động, quá trình sản xuất kinh doanh là quá trình kết hợp các yếu tố đó để tạo ra sản phẩm lao vụ, dịch vụ. Để tạo ra các yếu tố phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh đòi hỏi các doanh nghiệp phải có một lượng vốn nhất định ban đầu. Có vốn doanh nghiệp mới có thể tiến hành sản xuất kinh doanh, cũng như trả tiền lương cho lao động sản xuất, sau khi tiến hành tiêu thụ sản phẩm doanh nghiệp dành một phần doanh thu để bù đắp giá trị tài sản cố định đã hao mòn, bù đắp chi phí vật tư đã tiêu hao và một phần để lập quỹ dự trữ cần thiết cho quá trình sản xuất kinh doanh tiếp theo. Như vậy có thể thấy các tư liệu lao động và đối tượng lao động mà doanh nghiệp đầu tư cho mua sắm cho hoạt động sản xuất kinh doanh là hình thái hiện vật của vốn sản xuất kinh doanh. Vốn bằng tiền là tiền đề cần thiết cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Do vậy vốn sản xuất kinh doanh mang đặc trưng cơ bản sau: - Vốn phải đại diện cho một lượng tài sản nhất định có nghĩa là vốn được biểu hiện bằng giá trị tài sản hữu hình và tài sản vô hình của doanh nghiệp. - Vốn phải vận động sinh lời đạt được mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp. - Vốn phải được tích tụ tập trung đến một lượng nhất định mới có thể phát huy tác dụng để đầu tư vào sản xuất kinh doanh. - Vốn có giá trị về mặt thời gian tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh, vốn luôn biến động và chuyển hoá hình thái vật chất theo thời gian và không gian theo công thức : T - H - SX - H’ - T’ - Vốn phải gắn liền với chủ sở hữu nhất định và phải được quản lý chặt chẽ. - Vốn phải được quan niệm như một hàng hoá đặc biệt có thể mua bán hoặc bán bản quyền sử dụng vốn trên thị trường tạo nên sự giao lưu sôi động trên thị trường vốn, thị trường tài chính. Như vậy vốn bắt đầu là hình thái tiền tệ chuyển sang hình thái vật tư hàng hoá là tư liệu lao động và đối tượng lao động trải qua quá trình sản xuất tạo ra sản phẩm lao vụ hoặc dịch vụ vốn sang hình thái hoá sản phẩm. Khi tiêu thụ sản phẩm lao vụ dịch vụ xong vốn lại trở về hình thái tiền tệ. Do sự luân chuyển vốn không ngừng trong hoạt động sản xuất kinh doanh nên cùng một lúc vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thường tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau trong lĩnh vực sản xuất và lưu thông. I.4./Phân loại vốn: I.4.1./Căn cứ theo nguồn hình thành vốn: a./ Vốn chủ sở hữu: Là số tiền vốn của các chủ sở hữu, các nhà đầu tư đóng góp, số vốn vay này không phải là một khoản nợ. Doanh nghiệp không phải cam kết thanh toán, không phải trả lãi suất. Vốn chủ sở hữu được xác định là phần còn lại trong tài sản của doanh nghiệp sau khi trừ đi toàn bộ nợ phải trả tuỳ theo loại hình doanh nghiệp. Vốn chủ sở hữu được hình thành theo các cách khác nhau thông thường nguồn vốn này bao gồm: +Vốn góp: là số vốn đóng góp của các thành viên tham gia thành lập doanh nghiệp sử dụng vào mục đích kinh doanh. Đối với các công ty liên doanh thì cần vốn góp của các đối tác liên doanh, số vốn này có thể bổ sung hoặc rút bớt trong quá trình kinh doanh. +Lãi chưa phân phối: Là số vốn có từ nguồn gốc lợi nhuận, là phần chênh lệch giữa một bên là doanh thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh, từ hoạt động tài chính và từ hoạt động bất thường khác và một bên là chi phí. Số lãi này trong khi chưa phân phối cho các chủ đầu tư, trích quỹ thì được sử dụng trong kinh doanh vốn chủ sở hữu. b./Vốn vay : Là khoản vốn đầu tư ngoài vốn pháp định được hình thành từ nguồn đi vay, đi chiếm dụng từ các đơn vị cá nhân sau một thời gian nhất định doanh nghiệp phải hoàn trả cho người cho vay cả gốc lẫn lãi. Vốn vay có thể sử dụng hai nguồn chính: Vay của các tổ chức tài chính và phát hành trái phiếu doanh nghiệp. Doanh nghiệp càng sử dụng nhiều vốn vay thì mức độ rủi ro càng cao nhưng để phục vụ sản xuất kinh doanh thì đây là một nguồn vốn huy động lớn tuỳ thuộc vào khả năng thế chấp tình hình kinh doanh của doanh nghiệp. Thông thường một doanh nghiệp phải phối hợp cả hai nguồn vốn trên để đảm bảo cho nhu cầu vốn kinh doanh của doanh nghiệp, kết hợp lý hai nguồn vốn này phụ thuộc vào ngành mà doanh nghiệp hoạt động cũng như quyết định của người quản lý trên cơ sở xem xét tình hình chung của nền kinh tế cũng như tình hình thực tế tại doanh nghiệp. I.4.2./ Căn cứ vào thời gian huy động và sử dụng vốn: a./Nguồn vốn thường xuyên: Đây là nguồn vốn mang tính ổn định và lâu dài mà doanh nghiệp có thể sử dụng để đầu tư vào TSCĐ và một bộ phận tài sản lưu động tối thiểu cần thiết cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nguồn vốn này bao gồm vốn chủ sở hữu và vốn vay dài hạn của doanh nghiệp. b.Nguồn vốn tạm thời: Đây là nguồn vốn có tính chất ngắn hạn mà doanh nghiệp có thể sử dụng để đáp ứng tạm thời, bất thường phát sinh trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nguồn vốn này thường gồm các khoản vay ngắn hạn, các khoản chiếm dụng của bạn hàng. Theo cách phân loại này còn giúp cho doanh nghiệp lập kế hoạch tài chính, hình thành nên những dự định về tổ nguồn vốn trong tương lai trên cơ sở xác định về quy mô số lượng vốn cần thiết, lựa chọn nguồn vốn và quy mô thích hợp cho từng nguồn vốn đó, khai thác những nguồn tài chính tiềm tàng, tổ chức sử dụng vốn có hiệu quả cao. I.4.3./ Căn cứ vào phạm vi nguồn hình thành: a./ Nguồn vốn bên trong nội bộ doanh nghiệp : Là nguồn vốn có thể huy động từ hoạt động của bản thân doanh nghiệp bao gồm khấu hao tài sản, lợi nhuận để lại, các khoản dự trữ, dự phòng, các khoản thu từ nhượng bán, thanh lý tài sản cố định. b./ Nguồn vốn hình thành từ ngoài doanh nghiệp: Là nguồn vốn mà doanh nghiệp huy động từ bên ngoài đáp ứng nhu cầu hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm: - Nguồn tín dụng từ các khoản vay nợ có kỳ hạn mà các ngân hàng hay tổ chức tín dụng cho doanh nghiệp vay và có nghĩa vụ hoàn trả các khoản tiền vay nợ theo đúng kỳ hạn quy định. - Nguồn vốn từ liên doanh liên kết giữa các doanh nghiệp gồm nguồn vốn vay có được do doanh nghiệp liên doanh, liên kết từ các doanh nghiệp để phục vụ cho việc mở rộng sản xuất kinh doanh. - Nguồn vốn huy động từ thị trường vốn thông qua việc phát hành trái phiếu, cổ phiếu. Việc phát hành những chứng khoán có giá trị này cho phép các doanh nghiệp có thể thu hút số tiền rộng rãi nhàn rỗi trong xã hội phục vụ cho huy động vốn dài hạn của doanh nghiệp. Dựa theo cách phân loại này cho phép các doanh nghiệp thấy được những lợi thế giúp doanh nghiệp có thể chủ động trong việc huy động nguồn vốn. Đồng thời do nhu cầu thường xuyên cần vốn doanh nghiệp phải tích cực huy động vốn, không trông chờ ỷ lại vào các nguồn vốn sẵn có. Đối với các nguồn vốn bên trong doanh nghiệp có thể toàn quyền tự chủ sử dụng vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh và phát triển của doanh nghiệp mà không phải trả chi phí cho việc sử dụng vốn. Tuy nhiên, điều này dễ dẫn đến việc sử dụng vốn kém hiệu quả. Huy động vốn từ bên ngoài tạo cho doanh nghiệp có cơ cấu tài chính linh hoạt. Do doanh nghiệp phải trả một khoản chi phí sử dụng vốn nên doanh nghiệp phải cố gắng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Chính vì thế, doanh nghiệp có thể vay vốn từ bên ngoài để làm tăng nội lực vốn bên trong. I.4.4.Căn cứ vào công dụng kinh tế của vốn : a./ Vốn cố định: Là một bộ phận vốn đầu tư ứng trước về tài sản cố định và tài sản đầu tư cơ bản mà điểm luân chuyển từng phần trong chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, hình thành một vòng tuần hoàn khi tài sản cố định hết thời hạn sử dụng. b./ Vốn lưu động : Là bộ phận sản xuất kinh doanh ứng ra để mua sắm các tư liệu lao động nhằm phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp I.5./ Cơ cấu vốn : Là thuật ngữ dùng để chỉ một doanh nghiệp sử dụng vốn lưu động và vốn cố định theo một tỷ lệ nào đó. I.5.1./ Cơ cấu vốn cố định: Là một bộ phận của sản xuất kinh doanh ứng ra hình thành TSCĐ của doanh nghiệp. Vốn cố định là một khoản đầu tư ứng ra trước để mua sắm TSCĐ có hình thái vật chất và TSCĐ không có hình thái vật chất. I.5.2./Cơ cấu vốn lưu động: Là một bộ phận của vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, ứng ra để mua sắm TSLĐ sản xuất và TSLĐ lưu thông nhằm phục vụ cho sản xuất. Bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn hoạt động có hiệu quả, muốn nâng cao khả năng sử dụng vốn đều phải xác định cho mình một cơ cấu vốn hợp lý.Tuy nhiên tuỳ từng loại hình doanh nghiệp khác nhau có một cơ cấu vốn khác nhau. Nếu doanh nghiệp sản xuất thì tỷ lệ cố định sẽ lớn hơn so với vốn lưu động, còn đối với doanh nghiệp thương mại thì cần số vốn lưu động lớn hơn. Nếu các doanh nghiệp thương mại này không xác định được cơ cấu vốn hợp lý, họ đầu tư mua sắm TSCĐ quá nhiều dẫn đến vốn cố định lớn, điều này cho lãng phí đầu tư không có hiệu quả vì đầu tư cho TSCĐ cần một lượng vốn lớn, thời gian thu hồi vốn lâu, tuy nhiên, nếu đây là doanh nghiệp sản xuất thì cơ cấu vốn này là được bởi vì đầu tư trang bị kỹ thuật sản xuất kinh doanh sẽ tạo điều kiện giải phóng sức lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm do đó tạo điều kiện cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phát triển và tăng trưởng. II./ Các nguồn huy động vốn: II.1./Tự cung ứng: Cung ứng vốn nội bộ là phương thức tự cung cấp vốn của doanh nghiệp. Trong các doanh nghiệp các phương thức tự cung ứng vốn cụ thể là: II.1.1.Khấu hao tài sản cố định: Tài sản cố định là những tư liếu lao động tham gia vào nhiều quá trình sản xuất. Trong quá trình sử dụng, tài sản cố định bị hao mòn dần và chuyển dần giá trị vào giá thành sản phẩm. Hao mòn tài sản cố định là một quá trình mang tính khách quan, phụ thuộc vào nhân tố như chất lượng của bản thân tài sản cố định, các yếu tố tự nhiên, cường độ sử dụng tài sản cố định,…Trong quá trình sử dụng tài sản cố định doanh nghiệp phải xác định độ hao mòn của chúng để chuyển dần giá trị hao mòn vào giá trị của sản phẩm được sản sản xuất ra từ tài sản cố định đó. Việc xác định mức khấu hao tài sản cố định phụ thuộc vào thực tiễn sử dụng tài sản cố định đó cũng như ý muốn chủ quan của con người. Đối với các doanh nghiệp Nhà Nước trong quá trình khấu hao tài sản cố định phụ thuộc vào ý đồ của Nhà Nước thông qua quy định, chính sách cụ thể của cơ quan tài chính trong từng thời kỳ. Các doanh nghiệp khác có thể tự lựa chọn thời hạn sử dụng và phương pháp tính khấu hao cụ thể. Trong chính sách tài chính cụ thể ở từng thời kỳ, doanh có thể lựa chọn và điều chỉnh khấu hao tài sản cố định và coi đây là công cụ điều chỉnh cơ cấu vốn bên trong doanh nghiệp. Tuy nhiên, cần chú ý rằng việc điều chỉnh khấu hao không thể diễn ra một cách tuỳ tiện, không có kế hoạch mà phải dựa trên các kế hoạch tài chính dài hạn và ngắn hạn đã xác định. Mặt khác, cần chú ý rằng điều chỉnh tăng khấu hao tài sản cố định sẽ dẫn đến tăng chi phí kinh doanh khấu hao tài sản cố định trong giá thành sản phẩm nên luôn khống chế bởi giá bán sản phẩm. II.1.2./ Tích luỹ tái đầu tư: Tích luỹ tái đầu tư luôn được các doanh nghiệp coi là nguồn tự cung ứng tài chính quan trọng vì nó có ưu điểm cơ bản sau: - Doanh nghiệp có thể hoàn toàn chủ động. - Giảm sự phụ thuộc vào các nhà cung ứng. - Giúp các doanh nghiệp tăng thêm tiềm lực tài chính làm giảm tỉ lệ nợ/vốn. - Càng có ý nghĩa đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong điều kiện chưa tạo được uy tín với các nhà cung ứng tài chính. Quy mô tự cung ứng vốn tích luỹ tái đầu tư tuỳ thuộc vào hai nhân tố chủ yếu là tổng số lợi nhuận thu được trong từng thời kỳ kinh doanh cụ thể và chính sách phân phối lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp. Tổng số lợi nhuận cụ thể thu được trong từng thời kỳ phụ thuộc vào quy mô kinh doanh, chất lượng hoạt động kinh doanh của từng doanh nghiệp trong từng thời kỳ đó. Chính sách phân phối lợi nhuận trước hết tuỳ thuộc vào từng loại hình doanh nghiệp. II.2./ Các phương thức cung ứng từ bên ngoài: II.2.1./Cung ứng vốn từ ngân sách Nhà Nước: Với hình thức cung ứng từ ngân sách Nhà Nước doanh nghiệp sẽ nhận được lượng vốn xác định từ ngân sách Nhà Nước cấp. Thông thường hình thức này không đòi hỏi nhiều điều kiện ngặt nghèo đối với doanh nghiệp được cấp vốn như các hình thức vốn huy động khác nhau. Tuy nhiên, càng ngày hình thức cung ứng vốn từ ngân sách Nhà Nước đối với các doanh nghiệp ngày càng thu hẹp cả về quy mô vốn và phạm vi cung cấp vốn. Hiện nay, đối với tượng được cung cấp vốn theo hình thức này thường phải là các doanh nghiệp Nhà Nước xác định duy trì để đóng vai trò điều tiết nền kinh tế; các dự án đầu tư ở lĩnh vực sản xuất hàng hoá công cộng, hoạt động công ích mà tư nhân không muốn và không có khả năng đầu tư; các dự án lớn có tầm quan trọng đặc biệt do Nhà Nước đầu tư. II.2.2./ Gọi hùn vốn qua phát hành cổ phiếu: Gọi hùn vốn qua phát hành cổ phiếu là hình thức doanh nghiệp được cung ứng trực tiếp từ thị trường chứng khoán. Khi có cầu về vốn và lựa chọn hình thức này, doanh nghiệp tính toán và phát hành cổ phiếu, bán trên thị trường chứng khoán. Hình thức cung ứng vốn này có đặc trưng cơ bản là tăng vốn không làm tăng nợ của doanh nghiệp bởi những người chủ sở hữu cổ phiếu thành những cổ đông của doanh nghiệp. Vì lẽ này nhiều nhà quản trị học coi hình thức gọi hình thức hùn vốn qua phát hành cổ phiếu là nguồn cung ứng vốn nội bộ. Tuy nhiên, không phải mọi doanh nghiệp được phép khai thác nguồn vốn này mà chỉ những doanh nghiệp được phát hành cổ phiếu (công ty cổ phần, doanh nghiệp Nhà Nước có quy mô lớn). Hình thức huy động vốn qua phát hành cổ phiếu có ưu điểm rất lớn là tập hợp được lượng vốn ban đầu và dễ tăng vốn trong quá trình kinh doanh, quyền sở hữu vốn tách khỏi quản trị một cách một tương đối nên bộ máy quản trị doanh nghiệp được toàn quyền sử dụng vốn có hiệu quả nguồn vốn này. Bên cạnh đó, hình thức gọi hùn vốn qua phát hành cổ phiếu có hạn chế là doanh nghiệp phải có nghĩa vụ khai háo thông tin tài chính theo luật doanh nghiệp; Khi thừa vốn không hoặc chưa sử dụng đến doanh nghiệp không hoàn trả lại được vì vậy, khi có nhu cầu gọi hùn vốn qua phát hành cổ phiếu đòi hỏi doanh nghiệp phải tính toán, cân nhắc. Mặt khác, hình thức huy động vốn này có thể làm cổ tức giảm cho nên doanh nghiệp phải có quy mô lớn hứa hẹn lợi nhuận cao mới dễ bán cổ phiếu trên thị trường. II.2.3.Vay vốn bằng phát hành trái phiếu trên thị trường vốn : Hình thức vay vốn bằng phát hành trái phiếu trên thị trường vốn là hình thức cung ứng vốn trực tiếp từ công chúng: doanh nghiệp phát hành lượng vốn cần thiết dưới hình thức trái phiếu thường có kỳ hạn xác định và bán cho công chúng. Khác với hình thức phát hành cổ phiếu, hình thức phát hành cổ phiếu với đặc điểm là tăng vốn và tăng nợ của doanh nghiệp. Vay vốn bằng phát hành trái phiếu có những ưu điểm chủ yếu là: có thể thu hút một lượng vốn lớn cần thiết, chi phí kinh doanh sử dụng vốn thấp hơn so với vay ngân hàng, không bị người cung ứng kiểm soát chặt chẽ như vay ngân hàng và doanh nghiệp có thể lựa chọn trái phiếu thích hợp với yêu cầu của mình. Tuy nhiên, hình thức huy động từ phát hành trái phiếu cũng có những hạn chế nhất định. Hình thức này đòi hỏi doanh nghiệp nắm chắc kỹ thuật tài chính để tránh áp lực nợ đến hạn trả và vẫn có lợi nhuận, đặc biệt khi nền kinh tế suy thoái, lạm phát cao. Chi phí kinh doanh phát hành cổ phiếu khá cao vì doanh nghiệp cần trợ giúp của một (một số) ngân hàng thương mại. Doanh nghiệp phải tính toán thoả mãn điều kiện: Tài sản cố định phải nhỏ hơn tổng số vốn và nợ dài hạn của doanh nghiệp. Mặt khác, không phải mọi doanh nghiệp mà chỉ những doanh nghiệp nào thoả mãn điều kiện theo luật định mới được phép phát hành trái phiếu. II.2.4./ Vay vốn từ ngân hàng thương mại: Vay vốn từ ngân hàng thương mại là hình thức doanh nghiệp vay vốn dưới hình thức ngắn hạn, trung hạn, dài hạn từ các ngân hàng thương mại, đây là mối quan hệ tín dụng giữa một bên cho vay và một bên đi vay. Với hình thức vay vốn từ ngân hàng thương mại doanh nghiệp có thể huy động được một lượng vốn lớn, đúng hạn và có thể mời các ngân hàng cùng tham gia thẩm định dự án nếu có cầu vay đầu tư lớn. Bên cạnh đó để có thể vay vốn từ ngân hàng thương mại đòi hỏi doanh nghiệp phải có uy tín lớn, kiên trì đàm phán, chấp nhận các thủ tục ngặt nghèo. Trong quá trình sử dụng vốn, doanh nghiệp phải tính toán trả nợ ngân hàng theo đúng kế hoạch. Mặt khác, khi doanh nghiệp vay vốn ở các ngân hàng thương mại có thể bị ngân hàng thương mại đòi hỏi quyền kiểm soát các hoạt động của doanh nghiệp trong thời gian cho vay, chẳng hạn; - Ngân hàng cho vay có thể khống chế giá trị TSCĐ để tránh “ngâm vốn”, tránh rủi ro; - Doanh nghiệp sẽ không được vay thêm dài hạn nếu không có sự đồng ý của ngân hàng cho vay; - Doanh nghiệp không được đem thế chấp tài sản nếu không có sự đồng ý của ngân hàng cho vay; - Ngân hàng cho vay có áp đặt cơ chế kiểm soát chi phối hoạt động đầu tư để phòng ngừa doanh nghiệp sử dụng vốn bừa bãi; - Ngân hàng cho vay có thể đòi hỏi can thiệp vào sự thay đổi ban lãnh đạo của doanh nghiệp;… II.2.5./Tín dụng thương mại từ các nhà cung cấp: Trong hoạt động kinh doanh do đặc điểm quá trình cung ứng hàng hoá và thanh toán không thể khi nào cũng phải diễn ra đồng thời nên tín dụng thương mại tồn tại là một nhu cầu khách quan. Thực chất, luôn diễn ra đồng thời doanh nghiệp nợ khách hàng tiền và chiếm dụng tiền của khách hàng. Nếu số tiền doanh nghiệp chiếm dụng của khách hàng lớn hơn số tiền doanh nghiệp bị chiếm dụng thì số tiền dư ra sẽ mang bản chất tín dụng thương mại. Có các hình thức tín dụng thương mại chủ yếu sau: Thứ nhất, doanh nghiệp mua máy móc thiết bị theo phương thức trả chậm. Sẽ chỉ có hình thức tín dụng này nếu được ghi rõ trong hợp đồng mua bán về giá cả, số lần trả và số tiền trả mỗi lần, khoảng cách giữa các lần trả tiền. Như thế, doanh nghiệp có máy móc thiết bị sử dụng ngay nhưng tiền chưa phải trả ngay, số tiền chưa trả là số tiền mà doanh nghiệp chiếm dụng được của người cung ứng. Trong môi trường kinh doanh hiện nay, với nhiều mặt hàng thì mua bán chưa phải trả ngay được coi là chiến lược maketing của người bán cho nên doanh nghiệp dễ dàng tìm kiếm tín dụng từ loại này. Đặc biệt, khi thị trường có nhiều nhà cung ứng cạnh tranh với nhau doanh nghiệp càng có lợi thế về giá cả, kỳ hạn trả,… Khi quá trình này diễn ra một cách thường xuyên thì nguồn chiếm dụng này như là một nguồn tín dụng trung hoặc dài hạn. Với phương thức tín dụng này doanh nghiệp có thể đầu tư chiều sâu với vốn ít mà không ảnh hưởng tới tình hình tài chính của mình. Hình thức tín dụng mua máy móc thiết bị theo phương thức trả chậm lại càng có ý nghĩa với các doanh nghiệp vừa và nhỏ thiếu các điều kiện để vay vốn từ các nguồn khác. Bên cạnh đó, hình thức mua máy móc thiết bị theo phương thức trả chậm có những hạn chế nhất định. Chẳng hạn, mua theo phương thức này doanh nghiệp sẽ phải chịu chi phí kinh doanh sử dụng vốn khá cao. Mặt khác, doanh nghiệp chỉ có thể mua theo hình thức trả chậm nếu doanh nghiệp có uy tín, có truyền thống tín dụng sòng phẳng cũng như tình hình tài chính lành mạnh. Thứ hai, Vốn khách hàng ứng trước. Trong quá trình kinh doanh, khi ký hợp đồng đặt hàng khách hàng thường phải đặt cọc trước một số tiền nhất định, số tiền đặt cọc này doanh nghiệp được sử dụng mặc dù chưa sản xuất và cung cấp sản phẩm (dịch vụ) cho khách hàng. Tuỳ theo lượng mua hàng của khách hàng, thông thường doanh nghiệp tín dụng từ hai nguồn: - Vốn ứng trước của khách hàng lớn, - Vốn ứng trước của người tiêu dùng. Thông thường số vốn chiếm dụng này là không lớn. Mặt khác, để sản xuất hàng hoá hoặc dịch vụ doanh nghiệp phải đặt hàng (nguyên vật liệu,…) nên lại bị người cấp hàng chiếm dụng vốn của doanh nghiệp cũng theo hình thức này nên các quá trình kinh doanh diễn ra bình thường thì diễn ra bình thì số dư vốn chiếm dụng này là không lớn. Tuy nhiên, kinh doanh trong thị trường hiện tại đòi hỏi doanh nghiệp phải tính toán, cân nhắc rất cẩn thận vì không chỉ tồn tại lượng vốn nhất định khách hàng chiếm dụng lại khi mua hàng của doanh nghiệp nhiều khi là rất lớn. II.2.6.Tín dụng thuê mua (leasing): Trong cơ chế kinh tế thị trường phương thức tín dụng thuê mua được thực hiện giữa một doanh nghiệp có cầu sử dụng máy móc, thiết bị với một doanh nghiệp thực hiện chức năng thuê mua diễn ra khá phổ biến. Sở dĩ hình thức thuê mua diễn ra khá phổ biến vì nó đáp ứng được yêu cầu cơ bản của bên có cầu (doanh nghiệp muốn thuê mua thiết bị) và bên đáp ứng cầu (doanh nghiệp thực hiện chức năng thuê mua). Hình thức tín dụng thuê mua có ưu điểm rất cơ bản là giúp doanh nghiệp sử dụng vốn đúng mục đích, khi nào doanh nghiệp có cầu về sử dụng máy móc thiết bị cụ thể mới đặt vấn đề thuê mua và chỉ ký hợp đồng thuê mua trong khoảng thời gian thích hợp. Doanh nghiệp không chỉ nhận được máy móc thiết bị mà còn nhận được tư vấn đào tạo và hướng dẫn kỹ thuật cần thiết từ doanh nghiệp thực hiện chức năng thuê mua. Doanh nghiệp sử dụng máy móc thiết bị có thể tránh được những tổn thất do mua máy móc thiết bị không đúng được yêu cầu hoặc hay do mua nhầm. Doanh nghiệp sử dụng máy móc thiết bị cần thiết mà không phải đầu tư một lần với vốn lớn. Mặt khác, doanh nghiệp sử dụng máy móc thiết bị có thể giảm được tỷ lệ nợ/vốn vì tránh phải vay ngân hàng thương mại. Trong quá trình sử dụng máy móc, thiết bị doanh nghiệp sử dụng có thể thoả thuận tái thuê với doanh nghiệp có chức năng thuê mua; tức là doanh nghiệp sử dụng bán một phần tài sản thiết bị cho doanh nghiệp thuê mua rồi lại thuê lại để tiếp tục sử dụng tài sản thiết bị đó. Với phương thức thuê mua doanh nghiệp sử dụng có thể nhanh chóng đổi mới tài sản cố định, nâng cao khả năng cạnh tranh của mình. II.2.7./ Vốn liên doanh, liên kết: Với phương thức này doanh nghiệp liên doanh, liên kết với một (một số) doanh nghiệp khác nhằm tạo vốn cho một (một số) hoạt động (dự án) liên doanh nào đó. Các bên liên doanh ký hợp đồng liên doanh với các hoạt động cụ thể về phương thức hoạt động, quyền lợi và nghĩa vụ của các bên có giá trị trong một khoảng thời gian nào đó. Khi hết hạn, hợp đồng liên doanh hết hiệu lực. Với phương thức liên doanh, liên kết doanh nghiệp có một lượng vốn lớn cần thiết cho một(một số) hoạt động nào đó mà không làm tăng nợ.Vì vậy, nhiều nhà quản trị học cho rằng phương thức này có thể được coi là phương thức cung ứng vốn nội bộ.Trong quá trình hoạt động, các bên liên doanh cùng chia sẻ rủi ro. Bên cạnh đó, phương thức liên doanh, liên kết cũng có những hạn chế nhất định. Chẳng hạn, huy động vốn theo phương thức này tất sẽ dẫn đến các bên liên doanh cùng tham gia kinh doanh và cùng chia sẻ lợi nhuận thu được. II.2.8./Cung ứng từ sự kết hợp cung và tư trong XD cơ sở hạ tầng (phương thức BOT): Phương thức cung ứng vốn từ sự kết hợp công tư trong xây dưng cơ sở hạ tầng có ý nghĩa đối với các doanh nghiệp hoạt động trong ngành xây dựng cơ sở hạ tầng. Thực tế, có thể có nhiều hình thức kết hợp khác nhau với cách thức tiến hành cụ thể khác nhau. Đó là cách thức: Xây dựng – sở hữu- chuyển giao (BOT). Xây dựng – sở hữu- điều hành- chuyển giao (BOOT), Xây dựng – chuyển giao - điều hành (BTO), Xây dựng – sở hữu- điều hành (BOO), Xây dựng- sở hữu- bán (BSO). Tuỳ theo hoàn cảnh thực tế doanh nghiệp có thể lựa chọn quyết định hình thức cụ thể thích hợp. Lựa chọn phương thức này, doanh nghiệp phải thoả mãn các điều kiện nhất định. II.2.9./Nguồn vốn nước ngoài đầu tư trực tiếp (FDI): Trong cơ chế kinh tế mở, từ khi có Luật đầu tư nước ngoài, các doanh nghiệp trong nước còn có thể cung ứng vốn bằng phương thức các doanh nghiệp (tổ chức kinh tế) nước ngoài đầu tư trực tiếp. Với nguồn vốn nước ngoài đầu tư trực tiếp doanh nghiệp không chỉ nhận được vốn mà còn nhận được cả kỹ thuật – công nghệ cũng như phương thức quản trị tiên tiến. Hơn nữa, doanh nghiệp cũng được chia sẻ thị trường xuất khẩu. Tuy nhiên, huy động vốn bằng nguồn vốn nước ngoài đầu trực tiếp doanh nghiệp sẽ chịu sự kiểm soát điều hành của doanh nghiệp (tổ chức kinh tế) cấp vốn. Mức độ kiểm soát điều hành của doanh nghiệp (tổ chức kinh tế) nước ngoài phụ thuộc vào tỷ lệ góp vốn của họ. Mặt khác, mà một doanh nghiệp trong nước vấp phải là doanh nghiệp khó tìm được đối tác nước ngoài thích hợp nhằm phát huy ưu thế mỗi bên. Vấn đề duy trì mối quân hệ hợp tác trong khoảng thời gian dài là bao nhiêu cũng là vấn đề các doanh nghiệp cần cân nhắc một cách thận trọng. II.2.10./ Nguồn vốn ODA: Cuối cùng là phương thức cung ứng của doanh nghiệp bằng nguồn vốn ODA. Đối tác mà doanh nghiệp có thể tìm kiếm và nhận được nguồn vốn này là các chương trình hợp tác của chính phủ, các tổ chức phi chính phủ hoặc các tổ chức quốc tế khác. Hình thức cấp vốn ODA có thể là hình thức viện trợ không hoàn lại hoặc cho vay có diều kiện ưu đãi về lãi suất và thời gian thanh toán. Nếu doanh nghiệp được vay từ nguồn vốn ODA có thể chịu mức lãi suất thường trong khoảng 1%-1,5%/năm, phí ngân hàng thường là 0,2-0,3%/năm trong thời hạn có thể từ 10-20 năm và có thể được gia hạn thêm. Hình thức huy động vốn từ nguồn ODA có chi phí kinh doanh sử dụng vốn thấp. Tuy nhiên, để nhận được nguồn vốn này các doanh nghiệp phải chấp nhận các điều kiện thủ tục rất chặt chẽ. Đồng thời, doanh nghiệp phải có trình độ quản lý dự án đầu tư cũng như trình độ phối hợp làm việc với các cơ quan chính phủ và chuyên gia nước ngoài. III.Hiệu quả sử dụng vốn và ý nghĩa của nó đối với doanh nghiệp: III.1.Khái niệm hiệu quả sử dụng vốn: Sự phát triển kinh tế ở các nước trên thế giới và Việt Nam cho thấy muốn phát triển một doanh nghiệp phải giải quyết ba vấn đề kinh tế cơ bản là sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai? Tuy nhiên nếu nguồn tài nguyên là vô hạn, người ta có thể sản xuất hàng hoá một cách không hạn chế, sử dụng máy móc nguyên vật liệu bừa bãi… cũng chẳng sao. Song mọi tài nguyên như đất đai, khoáng sản…lại là một phạm trù hữu hạn đòi hỏi ngày một nhiều và cao hơn, điều này buộc các doanh nghiệp phải sử dụng một cách có kế hoạch các nguồn lực của mình để tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh. Hiệu quả sản xuất kinh doanh là một phạm trù kinh tế biểu hiện tập trung của sự phát triển kinh tế chiều sâu, thể hiện trình độ khai thác các nguồn lực và trình độ chi phí các nguồn lực đó trong quá trình tái sản xuất nhằm thực hiện mục tiêu kinh doanh. Công thức tổng quát xác định hiệu quả kinh doanh: Kết quả đầu ra Hiệu quả kinh doanh = ắắắắắắắ Chi phí đầu vào Hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là chỉ tiêu phản ánh kết quả tổng hợp nhất quá trình sử dụng các loại vốn. Đó là sự tối thiểu hoá vốn cần sử dụng và tối đa hoá kết quả hay khối lượng nhiệm vụ sản xuất kinh doanh trong một giới hạn nguồn nhân tài, vật lực, phù hợp với kinh tế hiệu quả nói chung. Hiệu quả sử dụng vốn được lượng hoá thông qua hệ thống chỉ tiêu về khả năng hoạt động, khả năng sinh lời độ luân chuyển vốn… Nó phản ánh quan hệ giữa đầu vào và đầu ra của quá trình sản xuất kinh doanh thông qua thước đo tiền tệ. Công thức xác định là: G Hv = ắắắ V Trong đó: Hv: hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp G : sản lượng sản phẩm hàng hoá tiêu thụ hoặc doanh thu bán hàng V : vốn sản xuất bình quân dùng vào sản xuất kinh doanh trong kỳ. Theo công thức trên, Hv càng lớn chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh càng cao. Việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp phải đảm bảo các điều kiện sau: - Phải khai thác nguồn lực một cách triệt để, nghĩa là không để nhàn rỗi không sinh lời. - Phải sử dụng vốn một cách hợp lý và tiết kiệm. - Phải quản lý vốn một cách chặt chẽ, nghĩa là không để vốn bị sử dụng sai mục đích, không để vốn thất thoát do buông lỏng quản lý. III.2./ Phương pháp phân tích hiệu quả sử dụng vốn trong Công ty : III.2.1./Phương pháp so sánh: Để áp dụng phương pháp so sánh cần phải đảm bảo các điều kiện so sánh được của chỉ tiêu tài chính (thống nhất về không gian, thời gian, nội dung, tính chất và đơn vị tính toán…) và theo mục đích phân tích mà xác định gốc so sánh. Gốc so sánh được chọn là gốc về thời gian, kỳ phân tích được gọi là kỳ báo cáo hoặc kỳ kế hoạch, giá trị so sánh có thể đo bằng giá trị tuyệt đối hoặc số bình quân. Nội dung so sánh gồm: + So sánh giữa số thực hiện kỳ này với số thực hiện kỳ trước để thấy rõ xu hướng thay đổi về tài chính doanh nghiệp, đánh giá sự suy giảm hay sự giảm sút trong hoạt động sản xuất kinh doanh để có biện pháp khắc phục trong kỳ tới. + So sánh giữa số thực hiện với số kế hoạch để thấy rõ mức độ phấn đấu của doanh nghiệp. + So sánh giữa số liệu của doanh nghiệp với số bình quân của ngành, của các doanh nghiệp khác để đánh giá doanh nghiệp mình tốt hay xấu được hay không được. + So sánh chiều dọc để xem xét tỷ trọng của trừng chỉ tiêu so với tổng thể, so sánh chiều ngang của nhiều kỳ để thấy được sự biến động cả về số tương đối và số tuyệt đối của một chỉ tiêu nào đó qua các liên độ kế toán liên tiếp. III.2.2./Phương pháp phân tích tỷ lệ: Phương pháp này dựa trên chuẩn mực các tỷ lệ của đại lượng tài chính. Về nguyên tắc phương pháp này yêu cầu phải xác định được các ngưỡng, các mức để nhận xét, đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp, trên cơ sở so sánh các tỷ lệ doanh nghiệp với các tỷ lệ tham chiếu. Trong phân tích tài chính doanh nghiệp, các tỷ lệ tài chính doanh nghiệp được phân tích thành các nhóm đặc trưng, phản ánh những nội dung cơ bản theo mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp. Đó là các nhóm tỷ lệ mục tiêu thanh toán, nhóm tỷ lệ về cơ cấu vốn, nhóm tỷ lệ về năng lực kinh doanh, nhóm tỷ lệ về khả năng sinh lời. Mỗi nhóm tỷ lệ lại bao gồm nhiều nhóm tỷ lệ riêng lẻ, từng bộ phận của hoạt động tài chính. Trong mỗi trường hợp khác nhau, tuỳ theo góc độ phân tích, người phân tích lựa chọn các mục tiêu khác nhau. Để phục vụ cho mục tiêu phân tích hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp người ta phải tính đến hao mòn vô hình do sự phát triển không những của tiến bộ khoa học kỹ thuật… III.3./ ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn: Để đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp cần phải có ba yếu cơ bản là vốn, lao động và kỹ thuật- công nghệ. Cả ba yếu tố này đều đóng vai trò quan trọng, song vốn là điều kiện tiên quyết không thể thiếu. Bởi vì hiện nay, đang có một nguồn lao động dồi dào, việc thiếu lao động chỉ xảy ra ở các ngành nghề cần đòi hỏi chuyên môn cao, nhưng vấn đề này có thể khắc phục được trong một thời gian ngắn nếu chúng ta có tiền để đào tạo hay đào tạo lại. Vấn đề là công nghệ cũng không gặp khó khăn phức tạp vì chúng ta có thể nhập chúng cùng kinh nghiệm quản lý tiên tiến trên thế giới, nếu chúng ta có khả năng về vốn, ngoại tệ hoặc có thể tạo ra nguồn vốn, ngoại tệ. Như vậy, yếu tố cơ bản của doanh nghiệp nước ta hiện nay là vốn và quản lý sử dụng vốn có hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Như chúng ta đã biết hoạt động kinh doanh là hoạt động kiếm lời, lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Để đạt được lợi nhuận tối đa các doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao trình độ sản xuất kinh doanh, trong đó quản lý và sử dụng vốn là một bộ phận quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả sản xuất kinh doanh. Các doanh nghiệp phải có một chế độ bảo toàn vốn trước hết từ đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Trước đây trong cơ chế kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, doanh nghiệp coi nguồn vốn từ ngân sách Nhà Nước cấp cho nên doanh nghiệp sử dụng không quan tâm đến hiệu quả, kinh doanh thua lỗ đã có Nhà Nước bù đắp, điều này gây ra tình trạng vô chủ trong quản lý và sử dụng vốn dẫn tới lãng phí vốn, hiệu quả kinh tế thấp. Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp quốc doanh hoạt động theo phương thức hạch toán kinh doanh. Nhà Nước không tiếp tục bao cấp về vốn cho doanh nghiệp như trước đây. Để duy trì và phát triển sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp phải bảo toàn, giữ gìn số vốn Nhà Nước giao, tức là kinh doanh ít nhất cũng phải hoà vốn, bù đắp được số vốn đã bỏ ra để tái sản xuất giản đơn. Đồng thời doanh nghiệp phải kinh doanh có lãi để tích luỹ bổ sung vốn, là đòi hỏi với tất cả các doanh nghiệp. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ đảm bảo an toàn tài chính cho doanh nghiệp. Hoạt động trong cơ chế thị trường doanh nghiệp luôn đề cao tính an toàn tài chính. Đây là vấn đề có ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Việc sử dụng hiệu quả các nguồn vốn giúp cho doanh nghiệp nâng cao khả năng huy động các nguồn vốn tài trợ dễ dàng hơn, khả năng thanh toán của doanh nghiệp được bảo toàn, doanh nghiệp có đủ nguồn lực để khắc phục những khó khăn và rủi ro trong kinh doanh. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ giúp doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh. Đáp ứng yêu cầu cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hoá mẫu mã sản phẩm…doanh nghiệp phải có vốn trong khi đó vốn của doanh nghiệp chỉ có hạn vì vậy nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là rất cần thiết. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ giúp cho doanh nghiệp đạt được mục tiêu tăng giá trị tài sản của chủ sở hữu và các mục tiêu khác của doanh nghiệp như nâng cao uy tín của sản phẩm trên thị trường, nâng cao mức sống của người lao động… vì khi hoạt động kinh doanh mang lại lợi nhuận thì doanh nghiệp có thể mở rộng quy mô sản xuất, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động và mức sống của người lao động ngày càng cải thiện. Điều đó giúp cho năng xuất lao động ngày càng được nâng cao, tạo cho sự phát triển của doanh nghiệp và các ngành khác có liên quan. Đồng thời nó cũng làm tăng các khoản đóng góp cho Nhà Nước. Thông thường các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn cố định và vốn lưu động được xác định bằng cách so sánh giữa kết quả cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh doanh như doanh thu, lợi nhuận … với số vốn cố định, vốn lưu động để đạt được kết quả đó. Hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh cao nhất khi bỏ vốn vào kinh doanh ít nhưng thu được kết quả cao nhất. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tức là đi tìm biện pháp làm cho chi phí về vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh ít nhất mà đem lại kết quả cuối cùng cao nhất. Từ công thức: Lợi nhuận = Doanh thu – chi phí Cho ta thấy: với một lượng doanh thu nhất định, chi phí càng nhỏ lợi nhuận càng lớn. Các biện pháp giảm chi phí tăng lợi nhuận, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn phải dựa trên cơ sở phản ánh chính xác, đầy đủ các loại chi phí trong điều kiện nền kinh tế luôn biến động về giá. Do đó để đảm bảo kết quả hoạt động sản suất kinh doanh của doanh nghiệp. Vì hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh cũng được xác định bằng cách so sánh giữa kết quả đạt được với chi phí bỏ ra trong đó chi phí về vốn là chủ yếu. IV. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn : IV.1. Các chỉ tiêu đánh giá chung: +./ Chỉ tiêu mức sản xuất của vốn kinh doanh : Mức sản xuất Giá trị sản lượng (hoặc doanh thu thuần) = ắắắắắắắắắắắắắ của vốn kinh doanh Vốn kinh doanh bình quân Chỉ tiêu mức sản xuất của vốn kinh doanh hay còn gọi là hiệu xuất sử dụng vốn, phản ánh cứ một đồng vốn bình quân bỏ vào kinh doanh trong kỳ tạo ra bao nhiêu đồng giá trị sản lượng hoặc doanh thu thuần. Chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn càng cao. Chỉ tiêu mức sinh lời của vốn kinh doanh: Lợi nhuận thuần Mức sinh lời vốn kinh doanh = ắắắắắắắắắắ Vốn kinh doanh bình quân Chỉ tiêu mức sinh lời của vốn kinh doanh hay còn gọi là tỷ suất lợi nhuận vốn sản xuất, là chỉ tiêu chất lượng tổng hợp phản ánh kết quả cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, cho thấy một đồng vốn bỏ ra sản xuất kinh doanh thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Tuy nhiên căn cứ vào chỉ tiêu lợi nhuận tính bằng số tuyệt đối chưa thể đánh giá đúng chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy, khi phân tích hiệu quả sử dụng vốn, bên cạnh việc đánh giá đúng mức biến động của lợi nhuận còn phải đánh giá bằng số tương đối thông qua việc so sánh giữa tổng số lợi nhuận trong kỳ với số vốn sử dụng để sinh ra lợi nhuận đó. IV.2.Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động IV.2.1.Hiệu quả sử dụng vốn lưu động : Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn lưu động của doanh nghiệp làm ra bao nhiêu đồng giá trị sản lượng hoặc doanh thu trong kỳ. Giá trị tổng sản lượng (doanh thu thuần) Hiệu quả sử dụng vốn = ắắắắắắắắắắắắắắắ Vốn lưu động bình quân IV.2.2./ Sức sinh lời của vốn lưu động : Còn gọi là tỷ xuất lợi nhuận của vốn lưu động, chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn lưu động tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận trong kỳ. Lợi nhuận Tỷ suất lợi nhuận bình quân = ắắắắắắắắắ VLĐ bình quân trong kỳ IV.2.3./ Số vòng quay của vốn lưu động : Chỉ tiêu này đánh giá tốc luân chuyển vốn lưu động cho biết trong kỳ phân tích vốn lưu động của doanh nghiệp quay được bao nhiêu vòng. Hoặc cứ một đồng vốn lưu động bình quân dùng vào sản xuất kinh doanh trong kỳ tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu thuần. Tổng doanh thu thuần Số vòng quay vốn lưu động = ắắắắắắắắắắắ Vốn lưu động bình quân IV.2.4./ Độ dài bình quân một lần luân chuyển: Chỉ tiêu này phản ánh cứ một vòng quay của vốn lưu động trong kỳ phân tích hết bao nhiêu ngày. Chỉ tiêu này càng thấp, số ngày của một vòng quay vốn lưu động càng ít, hiệu quả sử dụng vốn càng cao. Thời gian kỳ phân tích Thời gian một vòng luân chuyển = ắắắắắắắắắắắắ Số vòng quay của vốn lưu động IV.2.5./Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động (K): Chỉ tiêu này cho biết tạo ra một đồng vốn doanh thu thuần trong kỳ phân tích cần bao nhiêu đồng vốn lưu động bình quân dùng vào sản xuất kinh doanh trong kỳ. Vốn lưu động bình quân K = ắắắắắắắắắ Tổng doanh thu IV.3.Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định: IV.3.1./Hiệu quả sử dụng vốn cố định : Phản ánh một đồng vốn tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu hoặc giá trị sản lượng. Doanh thu (giá trị tổng sản lượng) Hiệu suất sử dụng vốn cố định = ắắắắắắắắắắắắắ Vốn cố định bình quân trong kỳ IV.3.2./ Tỷ suất lợi nhuận cố định : Phản ánh một đồng vốn cố định tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận ròng Lợi nhuận Tỷ suất lợi nhuận vốn cố định = ắắắắắắắắắ Vốn cố định bình quân V./ Các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn : IV.1.Lựa chọn phương án kinh doanh, phương án sản phẩm : Hiệu quả sử dụng vốn, trước hết quyết định bởi doanh nghiệp có công ăn việc làm, tức là có khả năng sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Do vậy, bất kỳ doanh nghiệp nào cũng phải quan tâm đến việc sản xuất sản phẩm gì, bao nhiêu tiêu thụ ở đâu, với giá nào nhằm huy động được mọi nguồn lực (vốn, kỹ thuật, lao động) vào hoạt động có được nhiều thu nhập, thu được nhiều lãi. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, quy mô tính chất sản xuất kinh doanh không phải do doanh nghiệp chủ quan quyết định. Khả năng nhận biết, dự đoán thị trường và nắm bắt thời cơ... là những yếu tố quyết định thành công hay thất bại của doanh nghiệp. Vậy giải pháp đầu tiên có ý nghĩa quyết định hiệu quả kinh doanh, hiệu quả sử dụng vốn là chọn đúng phương thức kinh doanh, phương án sản phẩm. Các phương án kinh doanh, phương án sản phẩm phải được xây dựng trên cơ tiếp cận thị trường, nói cách khác, doanh nghiệp phải xuất phát từ nhu cầu thị trường để quyết định quy mô, chủng loại, mẫu mã, chất lượng hàng hoá và giá cả. Có như vậy sản phẩm sản xuất ra mới có khả năng tiêu thụ, quá trình sản xuất mới được tiến hành bình thường, TSCĐ mới có thể phát huy hết công xuất, công nhân viên có việc làm, vốn lưu động luân chuyển đều đặn, hiệu quả sử dụng vốn cao, doanh nghiệp có điều kiện bảo toàn và phát triển vốn. Ngược lại, nếu không lựa chọn đúng phương án kinh doanh, phương án sản phẩm thì dẫn đến tình trạng sản xuất sản phẩm không đáp ứng nhu cầu thị trường, không bán được hoặc bán chậm, vốn bị ứ đọng, hiệu quả sử dụng vốn thấp. Để sản xuất kinh doanh đáp ứng tối đa nhu cầu thị trường, các doanh nghiệp phải hiểu biết và vận dụng tốt phương pháp marketing. Các doanh nghiệp phải có tổ chức chuyên trách về vấn đề tìm hiểu thị trường để thường xuyên có các thông tin đầy đủ, chính xác, tin cậy về những diễn biến của thị trường. Trong đó, đặc biệt nhận biết sản phẩm của mình đang ở giai đoạn nào của chu kỳ sống để chuẩn bị sản phẩm thay thế. IV.2.Lựa chọn và sử dụng hợp lý các nguồn vốn : Đối với các doanh nghiệp quốc doanh, ngoài nguồn vốn ngân sách Nhà Nước đầu tư, cũng cần huy động cả những nguồn vốn huy động bổ sung nhằm đảm bảo sản xuất kinh doanh diễn ra bình thường và mở rộng quy mô hoặc đầu tư chiều sâu. Các nguồn vốn huy động bổ sung trong nền kinh tế thị trường có rất nhiều, do đó việc lựa chọn nguồn vốn là rất quan trọng và dựa trên nguyên tắc hiệu quả kinh tế. Nếu đầu tư chiều sâu hoặc mở rộng trước hết cần huy động nguồn vốn doanh nghiệp tự bổ sung từ lợi nhuận để lại, từ quỹ phát triển sản xuất, phần còn lại vay tín dụng Nhà Nước, vay ngân hàng... Về nhu cầu bổ sung vốn lưu động thì trước hết doanh nghiệp cần sử dụng linh hoạt các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của các quỹ trích lập theo mục đích nhưng chưa sử dụng, lợi nhuận chưa phân phối... Đối với doanh nghiệp thừa vốn thì tuỳ từng điều kiện cụ thể để lựa chọn khả năng sử dụng. Nếu đưa đi liên doanh, liên kết hoặc cho các doanh nghiệp khác vay thì cần phải thận trọng, thẩm tra kỹ các dự án liên doanh... IV.3.Tổ chức và quản lý tốt quá trình kinh doanh : Điều hành và tổ chức tốt sản xuất kinh doanh được coi là một giải pháp rất quan trọng nhằm đạt kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh cao. Tổ chức tốt quá trình sản xuất kinh doanh tức là đảm bảo cho quá trình được tiến hành thông suốt, đều đặn, nhịp nhàng giữa các khâu dự trữ, sản xuất tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá và đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ phận, đơn vị trong nội bộ doanh nghiệp nhằm sản xuất ra nhiều sản phẩm tốt, tiêu thụ nhanh. Các biện pháp điều hành và quản lý sản xuất kinh doanh phải hạn chế tối đa tình trạng ngừng việc của máy móc, thiết bị, ứ đọng vật tư dự trữ, sản phẩm sản xuất không đúng phẩm chất... gây lãng phí các yếu tố sản xuất và làm chậm tốc độ luân chuyển vốn. Để đạt được mục tiêu trên, các doanh nghiệp phải tăng cường quản lý từng yếu tố của quá trình sản xuất. +./ Quản lý tài sản cố định, vốn cố định : Để nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ, vốn cố định các doanh nghiệp phải tổ chức tốt việc sử dụng TSCĐ, bao gồm: - Bố trí dây truyền sản xuất hợp lý, khai thác hết công suất thiết kế và nâng cao được hiệu suất công tác của mấy, thiết bị, sử dụng triệt để diện tích sản xuất, giảm chi phí khấu hao trong giá thành sản phẩm. - Xử lý dứt điểm những tài sản không cần dùng, hư hỏng chờ thanh lý nhằm thu hồi vốn cố định chưa sử dụng vào luân chuyển, bổ sung thêm cho sản xuất kinh doanh. - Doanh nghiệp thường xuyên quan tâm tới việc bảo toàn vốn cố định, quản lý chặt chẽ TSCĐ về mặt hiện vật, tránh làm mất mát hư hỏng TSCĐ trước thời hạn khấu hao. +./ Quản lý TSLĐ, vốn lưu động : Hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh nói chung và hiệu quả sư dụng vốn lưu động nói riêng phụ thuộc vào việc sử dụng tiết kiệm và tăng nhanh tốc độ luân chuyển vốn lưu động. Do vậy các doanh nghiệp cần phải tăng cường các biện pháp quản lý TSLĐ và vốn lưu động. Xác định đúng nhu cầu vốn lưu động cần thiết cho từng kỳ sản xuất kinh doanh nhằm huy động hợp lý các nguồn vốn bổ sung. Nếu tính toán không đúng nhu cầu vốn lưu động dẫn đến tình trạng thiếu vốn, doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn về khả năng thanh toán, sản xuất kinh doanh bị ngừng trệ hoặc là huy động thừa vốn sẽ lãng phí và làm chậm tốc độ luân chuyển vốn. Tổ chức tốt quá trình thu mua, dự trữ vật tư nhằm đảm bảo hạ giá thành thu mua vật tư, hạn chế tình trạng ứ đọng vật tư dự trữ, dẫn đến kém hoặc mất phẩm chất vật tư, gây ứ đọng vốn lưu động IV.4. Mạnh dạn áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất kinh doanh : Trong điều kiện cách mạng khoa học công nghệ, việc mạnh dạn áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất kinh doanh là một trong điều kiện quyết định lợi thế và khả năng phát triển của doanh nghiệp. Kỹ thuật tiến bộ và công nghệ hiện đại là điều kiện vật chất để doanh nghiệp sản xuất ra những sản phẩm mới, hợp thị hiếu, chất lượng cao, nhờ đó doanh nghiệp có thể tăng khối lượng tiêu thụ, tăng giá bán, tăng lợi nhuận. Đồng thời áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, doanh nghiệp có thể rút ngắn chu kỳ sản xuất sản phẩm, giảm tiêu hao nguyên vật liệu hoặc sử dụng các vật tư thay thế nhằm tăng tốc độ luân chuyển vốn, tiết kiệm vật tư, hạ giá thành sản phẩm. Sự đầu tư đổi mới công nghệ, kỹ thuật có thể làm cho tỷ trọng vốn cố định trên tổng vốn sản xuất kinh doanh tăng lên, tổng chi phí về khấu hao TSCĐ trong giá thành sản phẩm tăng lên. Nhưng nhờ tăng năng suất máy móc, thiết bị dẫn đến tăng khối lượng sản phẩm sản xuất trong kỳ, giảm tiêu hao các chi phí về nguyên vật liệu, tiền lương... tăng giá bán, tăng lợi nhuận và tăng hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh. IV.5.Tổ chức tốt công tác hạch toán kế toán và phân tích hoạt động sản xuất kinh doanh : Qua số liệu, tài liệu kế toán doanh nghiệp thường xuyên phải nắm được số vốn cả về mặt giá trị và mặt hiện vật, nguồn hình thành và các biến động tăng giảm vốn trong thời kỳ đảm bảo vốn lưu động, tình hình và khả năng thanh toán...nhờ đó doanh nghiệp đề ra các giải pháp đúng đắn để xử lý kịp thời các vấn đề tài chính nhằm đảm bảo cho quá trình kinh doanh được thực hiện thuận lợi... Vì vậy tổ chức tốt công tác kế toán ở doanh nghiệp là một trong những giải pháp quan trọng nhằm tăng cường quản lý, kiểm tra, kiểm soát quá trình kinh doanh sử dụng các loại vốn nhằm đạt hiệu quả cao. Tuy nhiên kế toán là hệ thống thông tin thực hiện, số liệu, tài liệu kế toán tự nó chưa chỉ ra được các biện pháp cần thiết để tăng cường quản lý vốn sản xuất kinh doanh, trong đó có phân tích tình hình tài chính và hiệu quả sử dụng vốn. Thông qua đó, đánh giá các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn trong kỳ, tìm ra nguyên nhân dẫn đến thành tích, tiến bộ so với kỳ trước có biện pháp huy và nguyên nhân gây ra tồn tại, sút kém có biện pháp khắc phục.. V.Những nhân tố ảnh hưởng tới việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn: Vốn trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp luân chuyển không ngừng từ hình thái này sang hình thái khác. Tại một thời điểm vốn tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau. Trong quá trình vận động đó rất nhiều nhân tố làm ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp, cụ thể: V.1. Nhân tố bên ngoài : Các chính sách vĩ mô : Trên cơ sở pháp luật, các chính sách kinh tế tạo môi trường cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh. Bất kỳ một sự thay đổi trong chính sách này đều có tác động đáng kể đến doanh nghiệp. Đối với hiệu quả sử dụng vốn thì các quy định như thuế vốn, thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp…đều có thể làm tăng hoặc giảm hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Biến động về thị trường đầu vào, đầu ra : Biến động về thị trường đầu vào là các biến động về tư liệu lao động, là những thay đổi về máy móc, công nghệ… nó có thể giúp cho doanh nghiệp chọn công nghệ phù hợp, học tập kinh nghiệm sản xuất nhưng ngược lại nó cũng có thể đẩy công nghệ đi đến lạc hậu so với các đối thủ cạnh tranh. Những biến động về thị trường đầu ra có thể ảnh hưởng trực tiếp đến doanh nghiệp. Nếu nhu cầu về sản phẩm tăng, doanh nghiệp có cơ hội tăng doanh thu và lợi nhuận, qua đó tăng hiệu quả sử dụng vốn. Ngược lại, những biến động bất lợi như giảm đột ngột nhu cầu, khủng hoảng thừa…sẽ làm giảm hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. V.2.Nhân tố bên trong : Chu kỳ sản xuất kinh doanh : Chu kỳ sản xuất kinh doanh có hai bộ phận hợp thành: Bộ phận thứ nhất là khoảng thời gian kể từ khi doanh nghiệp nhập kho nguyên vật liệu cho đến khi giao hàng cho người mua, bộ phận thứ hai là là khoảng thời gian kể từ khi doanh nghiệp giao hàng cho người mua đến khi doanh nghiệp thu tiền về. Chu kỳ kinh doanh gắn trực tiếp với hiệu quả sử dụng vốn. Nếu chu kỳ kinh doanh ngắn doanh nghiệp sẽ thu hồi vốn nhanh để tái đầu tư rộng sản xuất kinh doanh. Ngược lại, nếu chu kỳ kinh doanh dài doanh nghiệp sẽ có một gánh nặng là ứ đọng vốn và trả lãi cho các khoản cho vay phải trả. Kỹ thuật sản xuất : Các đặc điểm về kỹ thuật tác động với một số chỉ tiêu quan trọng phản ánh hiệu quả sử dụng TSCĐ như hệ số sử dụng thời gian, công suất…nếu kỹ thuật công nghệ lạc hậu doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành để cạnh tranh với các doanh nghiệp khác, từ đó làm cho việc bảo toàn và phát triển vốn gặp khó khăn. Ngược lại, nếu kỹ thuật công nghệ hiện đại doanh nghiệp sẽ có điều kiện nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm hao phí năng lượng, hao phí sửa chữa…tăng năng suất lao động, khi đó doanh nghiệp sẽ có điều kiện chiếm lĩnh thị trường. Đặc điểm về sản phẩm : Đặc điểm của sản phẩm ảnh hưởng tới tiêu thụ sản phẩm, từ đó tác động tới lợi nhuận của doanh nghiệp, vòng quay của vốn, nếu sản phẩm là tư liệu tiêu dùng, nhất là sản phẩm công nghệ nhẹ sẽ có vòng đời ngắn, tiêu thụ nhanh, thu hồi vốn nhanh. Ngược lại nếu sản phẩm có vòng đời dài, giá trị thu hồi vốn chậm. Trình độ quản lý, hạch toán nội bộ : Trình độ quản lý doanh nghiệp có ảnh hưởng đến kết quả, hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Quản lý tốt đảm bảo cho quá trình thông suốt đều đặn, nhịp nhàng giữa các khâu, các bộ phận đơn vị trong nội bộ doanh nghiệp, từ đó hạn chế tình trạng ngừng việc của máy móc thiết bị, tiết kiệm các yếu tố sản xuất, tăng tốc độ luân chuyển vốn. Mặt khác, công tác hạch toán dùng các công cụ tính toán các chi phí phát sinh, đo lường hiệu quả sử dụng vốn. Từ đó phát hiện những tồn tại trong quá trình sử dụng vốn và đề xuất biện pháp giải quyết. Trình độ lao động của doanh nghiệp : Trình độ lao động của doanh nghiệp được thể hiện qua tay nghề, khả năng tiếp thu công nghệ mới, khả năng sáng tạo, ý thức giữ gìn tài sản. Nếu lao động có trình độ cao, tay nghề cao thì máy móc thiết bị được sử dụng tốt, năng suất lao động tăng. Tuy nhiên để phát huy tiềm năng lao động doanh nghiệp phải có biện pháp khuyến khích lợi ích vật chất cũng như trách nhiệm một cách công bằng. Chương II: Phân tích hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty xây dựng Cầu 75 I./tổng quan về công ty: I.1./ Quá trình hình thành và phát triển: Tên công ty : Công ty xây dựng Cầu 75. Địa chỉ trụ sở chính : 61 Hạ Đình – Thanh Xuân – Hà Nội ( Thuê trụ sở làm việc của Công ty xây dựng công trình giao thông 829). Điện thoại : (844) 7564621 Fax : 844 756432 Công ty xây dựng Cầu 75 thuộc Tổng Công ty xây dựng Công trình giao thông 8 và được thành lập vào tháng 7- 1975. Từ khi thành lập cho đến tháng 4- 2000 trụ sở chính của công ty đặt tại Thành phố Vinh- Nghệ An. Từ tháng 4- 2000 thì trụ sở của công ty chuyển về 61 Hạ Đình – Thanh Xuân - Hà Nội. Đây là một Doanh nghiệp Nhà nước thuộc ngành xây dựng cơ bản với nhiệm vụ chủ yếu là : xây dựng mới và sửa chữa các cây cầu ở trong nước và ngoài nước. Các cây cầu mà Công ty xây dựng đều mang tính chiến lược của quốc gia, mặt khác chi phí cho xây dựng đều được lấy từ ngân sách Nhà nước hoặc từ các nguồn vốn tài trợ từ nước ngoài. Nên trong quá trình xây dựng Công ty đã chú trọng rất nhiều đến chi phí, tiến độ thi công cũng như kỹ thuật thi công công trình, để từ đó Công ty mới có thể đứng vững được trong nền kinh tế thị trường như nước ta hiện nay. Trước những năm 1975 thì Công ty xây dựng Cầu 75 là một đội thi công công trình cầu thuộc Tổng Công ty công trình giao thông 8 và trực tiếp xây dựng các công trình bên nước Lào. Đến tháng 7 năm 1975 thì Công ty xây dựng Cầu 75 được thành lập và phụ trách xây dựng các công trình ở khu vực miền Trung và bên nước Lào. Trong giai đoạn này những công trình mà Công ty thi công đều là các công trình do Nhà nước giao cho Tổng Công ty, sau đó Tổng Công ty giao lại cho Công ty. Nói chung các công trình mà công ty xây dựng đều nằm trong kế hoạch được giao hàng năm của Nhà nước và được thực hiện chủ yếu bằng nguồn ngân sách Nhà nước cấp. Những năm đầu thành lập thì nền kinh tế nước ta đang là nền kinh tế tập trung quan lưu bao cấp nên Công ty gặp rất nhiều khó khăn về máy móc thiết bị cho thi công, bộ máy quản lý còn cồng kềnh hoạt động không hiệu quả… Do đó các công trình mà Công ty thi công chủ yếu là các công trình vừa và nhỏ. Từ năm 1990 cho đến nay, khi Nhà nước chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế từ tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường, với chi phối của các quy luật của nền kinh tế thị trường và sự quản lý trên tầm vĩ mô của Nhà nước. Để phù hợp với tình hình đó, Công ty xây dựng Cầu 75 cũng chuyển đổi sang lĩnh vực kinh doanh. Bên cạnh việc đảm nhận công việc duy tu sửa chữa trên, Công ty còn tham gia đấu thầu các công trình trong nước cũng như ngoài nước, đảm nhận công việc khảo sát thiết kế. Để đứng vững trong nền kinh tế thị trường và uy tín đối với Nhà nước, Công ty đã không ngừng chú trọng đến chất lượng của từng công trình, cải tiến kỹ thuật, nâng cao trình độ của công nhân viên chức, trang bị thêm máy móc thiết bị mới để phục vụ cho những công trình có quy mô lớn, trình độ kỹ thuật cao như khoan cọc nhồi, đúc hẫng, ... Đặc biệt, từ năm 1996 cho đến nay, do xác định được hướng đi đúng đắn nên hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty phát triển mạnh mẽ, sản lượng không ngừng tăng, nộp ngân sách cho Nhà nước cũng tăng lên và đời sống của cán bộ công nhân viên của Công ty được cải thiện đáng kể. Cùng với sự cải tiến khoa học, trang bị thêm máy móc thiết bị mới, nâng cao trình độ cho cán bộ công nhân viên thì Công ty xây dựng Cầu 75 không ngừng mở rộng quy mô sản xuất. Từ lúc chỉ có một đội chuyên đi xây dựng các công trình cầu, đến nay Công ty đã có tới 13 đội xây dựng công trình có mặt trên mọi miền Tổ quốc và cả nước Lào cùng với 3 xưởng cơ khí sửa chữa vận tải ở trên 3 miền Bắc, Trung, Nam. Một số lĩnh vực hoạt động chính: ./Cầu treo. ./Cầu dầm thép ép phen. ./Cầu dầm thép benlây. ./Cầu dầm Căngtilơvơ . Cầu bê tông kéo sau bằng thép cường độ cao f 5mm và các cường độ cao f 12,7 mm chiều dài dầm từ 21 m đến 33 m . Các công nghệ Công ty đã thi công thành thạo là: ./Dầm bê tông dự ứng lực cắt khúc Căng kéo sau. ./Dầm bê dự ứng lực kiên khối kéo sau. ./Mố trụ với độ sâu lớn hơn 10 m bằng phương pháp vữa dâng . ./Đổ bê tông bịt đáy. I.2./ Cơ cấu tổ chức sản xuất kinh doanh : Công ty xây dựng Cầu 75 là một Doanh nghiệp Nhà nước hoạt động trong lĩnh vực xây dựng cơ bản. Sản phẩm chủ yếu của Công ty là sửa chữa và làm mới những cây cầu do Nhà nước đặt ra, nên nó mang tính chất quốc gia. Do vậy, Công ty không thể tiến hành xây dựng một cách tùy tiện mà phải có quy định cụ thể đối với từng hạng mục công trình theo thiết kế. Công ty xây dựng Cầu 75 tổ chức thành 13 đội và 3 xưởng. Trong đó, có 13 đội xây dựng công trình đảm nhận việc thi công các công trình và 3 xưởng cơ khí sửa chữa vận tải. Mổi đội xây dựng công trình gồm 1 đội trưởng, gián tiếp từ 4 đến 5 người và số công nhân từ 40 đến 50 người. - Đội xây dựng công trình 1: Gồm 1 đội trưởng, gián tiếp 5 người và công nhân 60 người.Có nhiệm vụ sửa chữa và xây dựng các cây cầu ở Tỉnh Thừa Thiên Huế. - Đội xây dựng công trình 2: Gồm 1 đội trưởng, gián tiếp 4 người và công nhân 50 người.Có nhiệm vụ sửa chữa và xây dựng các cây cầu ở Tỉnh Quảng Trị. - Đội xây dựng công trình 3: Gồm 1 đội trưởng, gián tiếp 4 người và công nhân 50 người.Có nhiệm vụ sửa chữa và xây dựng các cây cầu ở Tỉnh Quảng Ninh. - Đội xây dựng công trình 4: Gồm 1 đội trưởng, gián tiếp 5 người và công nhân 60 người.Gói thầu công trình 01 Đường mòn Hồ Chí Minh. - Đội xây dựng công trình 5: Gồm 1 đội trưởng, gián tiếp 5 người và công nhân 60 người.Xây dựng cầu Long Đại. - Đội xây dựng công trình 6: Gồm 1 đội trưởng, gián tiếp 4 người và công nhân 50 người.Xây dựng các cầu Đường 18 (Lào). - Đội xây dựng công trình 7: Gồm 1 đội trưởng, gián tiếp 5 người và công nhân 60 người.Xây dựng cầu Trâm và các nút giao thông. - Đội xây dựng công trình 8: Gồm 1 đội trưởng, gián tiếp 5 người và công nhân 60.Có nhiệm vụ xây dựng các nút giao thông. - Đội xây dựng công trình 9: Gồm 1 đội trưởng, gián tiếp 4 người và công nhân 50 người.Có nhiệm vụ sửa chữa và xây dựng các cây cầu ở Tỉnh Kiên Giang. - Đội xây dựng công trình 10: Gồm 1 đội trưởng, gián tiếp 5 người và công nhân 60 người.Có nhiệm vụ sửa chữa và xây dựng các cây cầu ở Tỉnh Ninh Thuận. - Đội xây dựng công trình 11: Gồm 1 đội trưởng, gián tiếp 5 người và công nhân 60 người.Có nhiệm vụ xây dựng cầu An Hạ và các nút giao thông. - Đội xây dựng công trình 12: Gồm 1 đội trưởng, gián tiếp 5 người và công nhân 60 người.Xây dựng cầu Kênh Tẻ Thành Phố Hồ Chí Minh. - Đội xây dựng công trình 13: Gồm 1 đội trưởng, gián tiếp 4 người và công nhân 50 người.Có nhiệm vụ sửa chữa và xây dựng các cây cầu ở Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. - Xưởng cơ khí sửa chữa vận tải và xây dựng miền Bắc: Gồm 1 xưởng trưởng, gián tiếp 4 người và công nhân 40 người. - Xưởng cơ khí sửa chữa vận tải và xây dựng miền Trung: Gồm 1 xưởng trưởng, gián tiếp 4 và công nhân 40 người. - Xưởng cơ khí sửa chữa vận tải và xây dựng miền chi nhánh miền Nam: Gồm 1 xưởng trưởng, gián tiếp 4 và công nhân 40 người. Các sản phẩm xây dựng có những đặc điểm: - Là những công trình, hạng mục công trình mang tính cố định tại địa điểm xây dựng công trình. - Phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên và tạo kiều kiện của từng địa phương xây dựng công trình - Rất đa dạng về kiểu dáng, kiểu cách, chủng loại, phức tạp, khó chế tạo, khó sửa chữa và có yêu cầu cao về mặt chất lượng. - Thường mang tính đơn chiếc và thường sản xuất theo đơn đặt hàng. - Thường không phục vụ cho người sử dụng cuối cùng (trừ trường hợp dân dụng), do đó việc xác định và nghiên cứu nhu cầu sản phẩm xây dựng có những đặc điểm khác với các hàng hoá và dịch vụ thông thường. I.3./ Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của Công ty : I.3.1./ Cơ cấu tổ chức : Công ty xây dựng Cầu 75 tổ chức thành các phòng ban sau: Ban Giám đốc. Phòng kỹ thuật thi công. Phòng kinh tế – kế hoạch. Phòng tổ chức – cán bộ, lao động – hành chính. Phòng vật tư - thiết bị. Phòng kế toán - tài chính. Cơ cấu sử dụng lao động chung cho toàn Công ty : +Lao động trực tiếp sản xuất : = 1,00 người +Lao động phục vụ bổ trợ : 1 x 22% = 0,22 người +Lao động quản lý (Cơ quan C.ty+G.tiếp Đội):(1+0,22)+17% =0,21 người Hệ số lương cấp bậc công việc bình quân: Công trình đấu thầu hoặc chỉ định thầu: a./ Hệ số lương cơ bản theo công việc: + Lao động trực tiếp sản xuất bậc 4,7 hệ số : 2,355. +Lao động phục vụ bổ trợ bậc bình quân : 2,59. +Lao động quản lý hệ số : 3,2. b./ Hệ số lương cấp bậc công việc bình quân theo cơ cấu sử dụng lao động: H=(2.355 x 1 +0.22 x2.59 + 0.21 x 3.2 ) : (1+ 0.22 +0.21 ) = 3,5968 : 1,43 = 2,515 . +./ Mô hình tổ chức: 01 Ban giám đốc Công ty . 06 Phòng nghiệp vụ Công ty . 01 Ban đại diện khu vực miền Trung . 01 Chi nhánh tại TP. Hồ Chí Minh . 11 Đội , Xưởng sản xuất . +./ Nguồn lực lao động hiện nay của Công ty : Tổng số cán bộ công nhân viên chính thức : 477 người. Lao động hợp đồng ngắn hạn : 287 người. Trong đó : + Kỹ sư : 92 người. + Cao đẳng và trung cấp : 44 người. + Công nhân kỹ thuật : 368 người. + Công nhân phổ thông : 260 người . I.3.2./ Chức năng nhiệm vụ của các phòng ban : Ban Giám đốc:Bao gồm Giám đốc và 05 phó Giám đốc. Trong đó, Giám đốc phụ trách chung, trực tiếp phụ trách: Tổ chức – Cán bộ, Tài chính – Kế toán, khoán đội. Còn 05 Phó Giám đốc làm nhiệm vụ giúp việc cho Giám Đốc. Ngoài ra còn 1 giám đốc xí nghiệp xây dựng công trình I và 1 giám đốc chi nhánh công ty xây dựng cầu Cầu 75 tại Thành Phố Hồ Chí Minh. + Một phó giám đốc phụ trách nội chính, sản xuất kinh doanh các công trình phía Bắc và Đường 18( Lào). + Một phó giám đốc phụ trách phụ trách các công trình khu vực miền Trung. + Một phó giám đốc trợ lý giám đốc công tác kế hoạch. + Một phó giám đốc phụ trách công nghệ mới kỹ thuật thi công VTTB. + Một phó giám đốc, giám đốc chi nhánh tại Thành Phố Hồ Chí Minh, phụ trách sản xuất kinh doanh thuộc khu vực miền Nam. + Giám Đốc Xí Nghiệp Xây Dựng Công Trình I, trực tiếp phụ trách các đội xây dựng công trình 7, 8 và xưởng cơ khí sửa chữa vận tải và xây dựng miền Bắc. + Giám Đốc chi nhánh công ty xây dựng Cầu 75 tại Thành Phố Hồ Chí Minh, trực tiếp phụ trách các đội xây dựng công trình 9, 10, 11, 12, 13 và xưởng cơ khí sửa chữa vận tải và xây dựng chi nhánh miền Nam. Phòng kỹ thuật thi công: Lập dự án, bản vẽ, hồ sơ thiết kế các công trình, giám sát trực tiếp các công trình mới, quản lý máy móc thiết bị, là nơi điều động máy móc đến chân công trình. Ngoài ra phòng còn xem xét khối lượng để cấp hạn mức vật tư cho các công trình. Phòng tổ chức – cán bộ, lao động - hành chính: Làm nhiệm vụ quản lý lao động, duyệt và thanh toán lương, giải quyết các chế độ, chính sách cho người lao động. Ngoài ra còn phục vụ các hội nghị của Công ty và thay mặt cho Công ty tiếp khách đến giao dịch, tổ chức mua sắm các thiết bị văn phòng, quản lý, lưu trữ các hồ sơ công văn. Phòng Vật tư - Thiết bị: Bảo đảm cung cấp kịp thời về số lượng, chất lượng và chủng loại vật tư cho sản xuất. Bộ phận này phải thường xuyên cử người đi mua vật tư, tổ chức quản lý tình hình nhập, xuất vật tư một cách chặt chẽ, đồng thời còn có nhiệm vụ lập các chứng từ về quá trình nhập, xuất vật tư. Phòng kinh tế – kế hoạch: Ngoài việc cung cấp thông tin về tình hình tài chính, kết quả kinh doanh là cở sở cho giám đổc ra các quyết định về hoạt động sản suất kinh doanh, bộ phận này còn cung cấp đầy đủ, chính xác các tài liệu về việc cung ứng, dụ trữ, sử dụng loại tài sản, nguyên liệu, công cụ, dụng cụ, để góp phần quản lý và sử dụng tài sản, nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ một cách hợp lý và kịp thời. Phòng kế toán – tài chính: Cung cấp thông tin về tình hình tài chính một cách chính xác, kịp thời và toàn diện để ban giám đốc ra các quyết định kinh doanh và báo cáo tình hình tài chính cho cấp trên. - Ngoài việc hoàn thành các nhiệm vụ được giao cho từng phòng ban, các phòng ban này còn phải phối hợp với nhau để đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh của toàn Công ty được hoàn thành tốt hơn. - Để phục cho hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty được tốt hơn ở mỗi đội sản xuất có thành lập bộ máy quản lý bao gồm: + 01 Đội trưởng chịu trách nhiệm về phần điều hành công việc chung của đội mình. + 01 Đội phó giúp việc cho đội trưởng, giám sát tình hình tiến độ thi công trình. + 01 nhân viên kinh tế làm nhiệm vụ thống kê các công việc phát sinh hàng ngày như: ngày công của công nhân, tình hình sử dụng vật liệu, công cụ, dụng cụ… Sơ đồ: Tổ chức định biên Công ty xây dựng Cầu 75 P . G đ trợ lý Gđ công tác kế hoạch Giám Đốc c.ty phụ trách chung, trực tiếp phụ trách: tổ chức – cán bộ, tài chính – kế toán, khoán đội P.gđ phụ Trách nội chính sxkd các tỉnh phía Bắc và đờng 18 (Lào) P . G đ . gđ chi nhánh tại TP.sHCM phụ trách SXKD thuộc khu vực Miền Nam P . G đ phụ trách công nghệ mới kỹ huật thi công vật tư  thiết bị P . G đ phụ trách các công trình khu vực miền trung Phòng Kỹ Thuật thi công Phòng kinh tế kế hoạch P.tổ chức cán bộ Lao động hành chính Phòng Kế toán Tài chính Phòng vật tư thiết bị chi nhánh Công ty tại TP .HCM Xí Nghiệp xây dựng công trình i Xưởng cơ khí SC VT XD Miền Trung Đội XD CT 9 Xưởng cơ khí SC - VT XD. Miền Nam Đội XD CT 12 Đội XD CT 13 Đội XDCT 11 Đội XDCT 10 Đội XD CT 6 Đội XD CT 4 Đội XD CT 5 Đội XDCT 3 Đội XD CT 2 Xưởng cơ khí SC - VT XD Miền Bắc Đội XD CT 1 Đội XD CT 8 Đôi XD CT 7 I.4./ Đặc điểm về lao động: Có thể nói rằng lao động thuộc ngành xây dựng, tư vấn thiết kế có vai trò góp phần tạo ra các công trình xây dựng, có sự tham gia của tư vấn thiết mới đảm bảo cho các công trình có chất lượng, đúng về tiêu chuẩn quy định và có thẩm mỹ cao. Trong những năm qua, Công ty xây dựng cầu 75 đã đảm nhận khảo sát thiết kế và thi công nhiều công trình, dự án và đã được chủ đầu tư đánh giá cao. Đạt được điều đó phải kể đến đội ngũ lao động giỏi về chuyên môn kỹ thuật, trình độ tay nghề cao sử dụng thành thạo các máy móc thiết bị. Xác định được tầm quan trọng của vấn đề nhân lực, Công ty đã không ngừng khuyến khích CBCNV học tập trao dồi nghiệp vụ, nâng cao tay nghề. Đối với các cán bộ quản lý, Công ty tạo điều kiện cho đi học thêm bằng đại học thứ 2 hoặc cao học. Công ty còn liên hệ với các trường đại học lớn trong nước tổ chức nâng cao kiến thức quản lý kinh tế, kiến thức về kỹ thuật cho CBCNV của mình. Do công việc chính, sản phẩm chính của đơn vị là tư vấn thiết kế và xây dựng nên đòi hỏi lực lượng lao động phải bao gồm chủ yếu là cán bộ có trình độ đại học trở lên. Nhờ có hệ thống đào tạo tuyển chọn từ trước nên hiện nay Công ty có một đội ngũ lao động tương đối đồng đều về chất lượng, năng động sáng tạo và có khả năng hoàn thành công việc được giao. Cụ thể hiện nay công ty có tổng số lao động là 764 người. Trong đó lực lượng trong danh sách của Công ty là 787 người, lực lượng thuê ngoài và hợp đồng lâu dài là 1257 người. Lực lượng lao động trong Công ty gồm hai khối: Cán bộ khoa học kỹ thuật và khối quản lý kinh tế. Trải qua 30 năm trưởng thành và phát triển, ngày nay Công ty xây dựng cầu 75 đã phát triển ngày càng lớn mạnh với đội ngũ CBCNV có trình độ như sau: + Giám đốc điều hành đạt tiêu chuẩn quốc tế 11 + Thạc sĩ 5 + Kỹ sư xây dựng 150 + Kiến trúc sư 25 + Kỹ sư máy 12 + Kỹ sư điện 7 + Kỹ sư nước 11 + Kỹ sư cơ khí 8 + Kỹ sư thuỷ lợi 13 + Kỹ sư cầu đường 14 + Kỹ sư kinh tế xây dựng 15 + Cử nhân kinh tế 30 + Cử nhân luật 3 + Cử nhân tin học 3 + Công nhân xây dựng bậc cao 286 + Công nhân cơ giới 77 + Công nhân lắp máy điện nước bậc cao 33 + Công nhân cơ khí bậc cao 64 + Công nhân lành nghề hợp đồng 1257 I.5./ Đặc điểm về nguyên vật liệu: I.5.1./ Cung cấp các loại nguyên vật liệu chủ yếu: Trong thực tế sản xuất,Công ty có thể sử dụng vật liệu thay thế để sản xuất sản phẩm. Song điều đó không có nghĩa là đối với bất kỳ loại vật tư nào cũng thay thế được. - Các loại vật tư không thể thay thế được gọi là vật tư chủ yếu nó tham gia cấu thành nên thực thể sản phẩm. Do vậy Công ty muốn đảm bảo sản xuất liên tục trước hết phải đảm bảo việc cung cấp về các loại vật tư trong xây lắp như: đá, cát, sỏi, xi măng,.... - Khi đánh giá chung tình hình cung cấp vật tư chủ yếu Công ty không lấy vật tư cung cấp vượt kế hoạch để bù cho số vật tư cung cấp hụt mức kế hoạch về các loại vật tư chủ yếu. Điều đó chỉ cần một loại vật tư chủ yếu có khối lượng cung cấp thực tế giảm so với kế hoạch cũng để để kết luận rằng Công ty không hoàn thành cung cấp về vật tư. I.5.2./ Công ty đảm bảo nguyên vật liệu cho quá trình sản xuất: Để đảm bảo cho quá trình sản xuất được tiếp diễn liên tục cần phải cung cấp đầy đủ nguyên vật liệu cho sản xuất được thể hiện ở các mặt như: đảm bảo đầy đủ về số lượng, mặt hàng, quy cách từng loại nguyên vật liệu theo yêu cầu sản xuất được xác lập. - Trước hết cần phải đánh giá tình hình nhập về số lượng các loại nguyên vật liệu cho sản xuất. - Cần phải kiểm tra mức độ hoàn thành kế hoạch khối lượng nhập từng loại nguyên vật liệu. - Khả năng đảm bảo tối đa về nguyên vật liệu cho quá trình sản xuất hoạt động bình thường. - Khoảng thời gian đảm bảo nguyên vật liệu cho sản xuất. - Tính chất đều đặn và kịp thời của việc cung cấp nguyên vật liệu cho sản xuất. Trong thực tế việc cung cấp nguyên vật liệu cho Công ty không thể làm một lầm mà theo kế hoạch người ta tiến hành tổ chức cung cấp nhiều lần tuỳ theo nhu cầu sản xuất và khả năng tổ chức cung cấp. Do đó việc cung cấp nguyên vật liệu cần phải kịp thời và đều đặn đảm bảo cho quá trình sản xuất không gây ra ứ đọng, chúng làm khó khăn vê vốn lưu động cho các doanh nghiệp. I.5.3./ Công ty xây dựng cầu 75 đảm bảo việc mua sắm nguyên vật liệu. a./ Nguyên vật liệu dự trữ. - Khi nhịp điệu sản xuất khẩn trương, việc nắm bắt kịp thời tiến độ cung cấp từng loại vật tư chủ yếu là cần thiết đối với mọi đơn vị sản xuất bởi vì nó liên quan đến tiến độ sản xuất. Tuỳ thuộc trọng điểm vật tư cần quản lý một cách sát sao mà xác định loại vật tư nào cần phải thường xuyên phân tích và ra thông báo kịp thời để chấn chỉnh tồn tại ở khâu cung cấp. Lượng nguyên vật liệu dự trữ thường xuyên được tính bằng công thức sau: NVLDTTX = Vn x Tn Trong đó: NVLDTTX : Nguyên vật liệu dự trữ thường xuyên Vn : Lượng nguyên vật liệu tiêu hao bình quân ngày một lần Tn : Thời gian dự trữ thường xuyên Bằng cách so sánh số ngày dự trữ với khoảng cách giữa 2 lần cung cấp vật tư xác định được ảnh hưởng của việc cung cấp đến tình hình sản xuất và sử dụng vốn ở xí nghiệp. Ví dụ: Căn cứ vào tại liệu hạch toán nghiệp vụ về tình hình cung cấp vật liệu nhựa đường trong tháng 12 năm 2003 có thể lập bảng phân tích như sau: Bảng 1: Bảng tình hình cung cấp nguyên vật liệu trong tháng 12 năm 2003 Đơn vị tính Vật liệu nhập về kho Công ty Ngày Lượng nhựa đường nhập Lượng nhựa đường xuất Lượng nhựa đường còn lại Số ngày dự trữ Mức đảm bảo sản xuất Tháng trước chuyển sang Đợt 1 10 3 tấn 15 tấn 6 tấn 2 tấn + 2 Đợt 2 19 9 tấn 6 tấn 9 tấn 3 tấn - 5 Đợt 3 28 21 tấn 9 tấn 21 tấn 7 tấn - 3 Đợt 4 31 15 tấn 4,5 tấn 31,5 tấn 10,5 tấn + 11 Ghi chú: Biết mức tiêu hao bình quân 1 ngày về mặt vật liệu nhựa đường là 1,5 tấn. Nhìn bảng số liệu trên ta có nhận xét như sau: Do lượng nhựa đường của tháng trước chuyển sang là 18 tấn, Công ty sử dụng chứng từ ngày 10 hết: 10 x 1,5 = 15 tấn; ngày 10 đợt vật liệu thứ nhất nhập kho với số lượng nhập là 6 tấn. Như vậy cuối ngày 10 số vật liệu còn lại trong kho là 18 tấn + 3 tấn – 15 tấn = 6 tấn . Chỉ đủ đảm bảo cho sản xuất trong vòng 4 ngày (6 tấn: 1,5 tấn = 4 ngày). + Để đảm bảo co sản xuất liên tục, chậm nhất là chiều ngày 14 thì đợt vật liệu thứ hai phải nhập cho Công ty. Nhưng thực tế đến ngày 19 vật liệu mới về. Do đó trong khoảng thời gian từ ngày 10 – 19 xí nghiệp phải ngừng sản xuất 5 ngày vì thiếu vật liệu. - Lượng nhập đợt 2 là 9 tấn chỉ đủ sản xuất trong vòn 6 ngày (9 tấn: 1,5 tấn = 6 ngày). Vậy quá trình sản xuất không bị gián đoạn, chậm nhất chiều 25 đợt vật liệu thứ 3 phải nhập kho. Thực tế vật liệu đến ngày 18 mới về, trong khoảng thời gian từ ngày 19 – 28 xí nghiệp lại phải ngừng sản xuất trong vòng 3 ngày vì thiếu vật liệu. - Lượng nhập đợt 3 là 21 tấn đủ đảm bảo sản xuất trong 14 ngày (21 tấn: 1,5 tán = 14 ngày) Tiếp đó la đợt 4 vật liệu nhập kho 15 tấn; nâng mức dự trữ cuối kỳ lên quá cao (hơn 10 ngày tình hình này chắc chắn làm cho vốn bị ứ đọng trong khâu dự trữ). b./ Nguyên vật liệu cần dùng. Căn cứ vào số liệu sau đây về tình hình tiêu dùng các loại nguyên vật liệu để sản xuất các loại sản phẩm khác nhau trong một doanh nghiệp. NVL = = Phương pháp tính nguyên vật liệu cần dùng. NVL = = Trong đó: Si: Sản lượng sản phẩm loại i D: Định mức tiêu hao nguyên vật liệu cho L sản phẩm loại P: Số lượng phế phẩm loại i cho phép P: Số lượng phế phẩm phế liệu dùng lại K: Tỷ lệ phế phẩm loại i cho phép so với (S) K: Tỷ lệ phế phẩm loại i dùng lại. Bảng số 2: Tình hình tiêu dùng các loại nguyên vật liệu. Loại sản phẩm Số lượng sản phẩm thực tế Tên nguyên vật liệu Giá đơn vị nguyên vật liệu kế hoạch Mức hao phí nguyên vật liệu cho 1 đơn vị Định mức Thực tế Bê tông 20 x 20 900kg/m3 Xi măng 910 800kg/m3 800kg/m3 900kg/m3 Đá 90.000 900kg/m3 1400kg/m3 Cát 80.000 700kg/m3 700kg/m3 Thép 70.000 200kg/m3 220kg/m3 Do ngành xây dựng là một ngành đặc biệt nên về mặt số lượng phế liệu và phế phẩm không có. Nên ta tính được các loại nguyên vật liệu cần dùng cho quá trình sản xuất là: Xi măng = [(900 x 800) + (0 x 1000) – 0] = 720.000kg/m3 Đá = [(9000 x 900) + (0 x 900) – 0] = 8100000 kg/m3 Cát = [(900 x 700) + (0 x 900) – 0] = 630.000 kg/m3 Thép = [(900 x 200) + (0 x 90) – 0] = 180000 kg/m3 Phương hướng phát triển xây dựng nguồn nguyên vật liệu * Tình hình khai thác các nguồn vật tư. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, Công ty có quyền chủ động khai thác các nguồn khả năng về vật tư để sản xuất. Bên cạnh khối lượng nguyên vật liệu nhập từ các đơn vị cung ứng vật tư của Nhà nước. Các xí nghiệp có thể tự nhập khẩu liên doanh liên kết và nhập từ các nguồn thu khác Mở rộng cơ chế mới trong việc cung cấp vật tư, tạo điều kiện cho các xí nghiệp thoát khỏi sự bế tắc kéo dài trong suốt thời kỳ bao cấp. Để đánh giá đúng thành tích của Công ty trong việc thực hiện kế hoạch cung cấp vật tư cần chỉ rõ sự cố gắng của Công ty trong việc khai thác khả năng nguồn nguyên vật liệu để đảm bảo nhu cầu sản xuất. Khố lượng vật tư cung cấp trong kỳ có liên quan mật thiết với tình hình sản xuất, dự trữ và sử dụng vật tư. Mặt khác cũng cần xem xét việc cung cấp có đảm bảo các yêu cầu đầy đủ kịp thời, đúng chủng loại và quy cách, phẩm chất hay không. Chỉ khi nào thực hiện tốt 4 yêu cầu đó thì xí nghiệp mới được coi là hoàn thành tốt kế hoạch cung cấp vật tư. Bảng số 3: Bảng phân tích tình hình khai thác các nguồn khả năng. Chỉ tiêu Kế Hoạch Thực tế Tổng số Nhập từ cơ quan vật tư của Nhà nước Tự nhập khẩu Nhập từ Tổng công ty Nhập từ đơn vị khác SGT VTnhập về XN 100000 120.000 60.000 24.000 24.000 12000 - So với kế hoạch 12% 60% 24% 24% 12% - So với thực tế 50% 20% 20% 10% Qua bảng số liệu trên ta rút ra nhận xét như sau: So với kế hoạch, tổng giá trị vật tư thực tế cung cấp tăng 20%. Đây là biểu hiện tốt trong việc khai thác các nguồn khả năng về vật tư. Đi sâu vào quá trình phân tích ta thấy rằng: khối lượng vật tư thực tế nhập từ các cơ quan vật tư của Nhà nước chiếm 50%, tự nhập khẩu 20% từ tổng công ty chiếm 20% và nhập từ đơn vị khác là 10% - Như vậy có thể nói, vật tư khai thác từ các nguồn khả năng về vật tư thì chắc chắn trong kỳ có lúc đã phải ngừng sản xuất trong tổng giá trị vật tư thực tế cung cấp. Đây là biểu hiện tốt về sự cố gắng của xí nghiệp trong công tác cung cấp vật tư thực tế cung cấp, và cũng là biểu hiện tốt về sự cố gắng của xí nghiệp trong công tác cung cấp vật tư. I.6./ Đặc điểm về cơ sở vật chất, máy móc thiết bị: Máy khoan nhồi : BG25, QJ 250, QGBS 20. Hệ thống : Đà, Giáo, Ván, Khuôn, Đúc, Hẫng. Trạm trộn bê tông 60m3/h và các thiết bị đồng bộ kèm theo . Cẩu Q51. Xe vận tải . Xe chuyên dùng chở bê tông . Máy xúc , máy đào ,máy san, máy lu. Máy trộn bê tông . Thiết bị đúc dầm bê tông . Máy phát điện . Máy bơm nước. Máy nén khí và thiết bị phá đá , bê tông . Máy gia công cơ khí. Các vật tư luân chuyển . Thiết bị văn phòng . I.7./ Đặc điểm về thị trường, cạnh tranh: I.7.1./ Đặc điểm về thị trường : Công ty xây dựng Cầu 75 là công ty xây dựng các công trình vừa và nhỏ, thuộc nhóm B, thị trường công ty hoạt động từ Nam ra Bắc. Sản phẩm là các công trình như cầu, cống, bến cảng,… nhóm khác hàng chủ yếu của công ty là các tổ chức, các cơ quan, các cá nhân. I.7.2./ Đặc điểm về tình hình cạnh tranh : Trong tình hình hiện nay, khi nền kinh tế chuyển hướng theo nền kinh tế thị trường, công ty luôn đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt. Mặc dù là một trong những nhà thầu có uy tín trong lĩnh vực xây lắp, nhưng trong điều kiện các dự án đầu tư lớn ngày càng giảm, tốc độ xây dựng không còn nhanh như trước, các công ty xây dựng trong và ngoài nước ngày càng phát triển, nên để dành được phần thắng trong các cuộc đấu thầu các công trình lớn, ngoài việc cạnh tranh với các doanh nghiệp trong ngành xây dựng Việt Nam như Tổng Công ty Vinaconex, Tổng Công ty xây dựng Sông Đà. Công ty còn đối mặt với các hãng đầu tư nước ngoài có nhiều vốn, nhiều kinh nghiệm, kỹ thuật cao, máy móc hiện đại. I.7.3./ Đặc điểm về kỹ thuật công nghệ của công ty : Có hai quy trình công nghệ chính đó là quy trình công nghệ làm cầu và quy trình công nghệ làm đường, mức độ trung bình tiên tiến so với công ty khác. Quy trình công nghệ làm đường: Gồm ô tô, thiết bị đầm, lu, máy ủi, máy xúc, máy đào, máy dải bê tông và máy dải xi măng, một trạm trộn bê tông tươi Quy trình công nghệ làm cầu: Khoan nhồi, căng kéo đầm, bê tông dưỡng lực, bộ ván khuân đào ngầm, tời trục. Về tổ chức nghiên cứu và phát triển: do trực thuộc tổng công ty giao thông 1 nên công tác nghiên cứu và phát triển đều dưới sự điều hành và chỉ đạo của tổng công ty, công ty chỉ áp dụng. Gần đây các công trình công ty tự tìm kiếm là chủ yếu, chiếm phần lớn nên cần đòi hỏi nhiều máy móc và thiết bị do vậy do vậy công ty phải đầu tư nhiều loại máy móc thiết bị với giá trị lớn, được thể hiện rõ ở biểu 2.3. Đội ngũ lao động cũng được đào tạo và tổ chức phù hợp công nghệ mới. Về vật liệu được sử dụng phù hợp với từng loại công trình, đã được tiêu chuẩn hoá nhất định. Công tác nghiên cứu đa số tập trung ở phòng kế hoạch, phòng thiết bị vật tư, phòng kỹ thuật. Phòng máy có kế hoạch nghiên cứu để sử dụng máy móc với nhân công hợp lý... Trong việc tính đơn giá tổng hợp và chi tiết sản phẩm, công ty phải dựa vào tiêu chuẩn hoá do Nhà Nước quy định, quy trình các công việc phải tiến hành các hạng mục công trình phải đảm bảo kỹ thuật nhất định. Luôn cập nhật các văn bản pháp quy của bộ chủ quản về việc áp dụng các quy phạm và quy trình kỹ thuật đang ban hành: soát xét, bổ sung, sửa đổi hoặc xây dựng các quy trình kỹ thuật mới, đúc rút các kinh nghiệm đã làm và cập nhật các thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến. Về sửa chữa, bảo dưỡng máy móc thiết bị. Vì là công ty xây dựng nên tài sản đa số là máy móc thiết bị với giá trị lớn, công nghệ phức tạp do đó công ty có một đội sửa chữa di động, làm nhiệm vụ sửa chữa khi cần thiết, bảo dưỡng sửa chữa thường xuyên. Đội ngũ sử dụng máy móc thiết bị này lớn bao gồm 119 người. Các đối tượng này được bồi dưỡng và đào tạo thường xuyên để kịp thời sử dụng, sửa chữa các máy móc hiện đại. Năm 2002 công ty đã đầu tư thêm một số máy móc thiết bị: Ô tô Misubishi, bộ căng kéo cầu dự ứng học, cần trục B.Lop Nissan, cẩu ADX 125-3, máy khon đập cáp, máy kính kỹ quay cơ, máy ủi KMATSU, máy toán đạc điện tử, máy xúc, trạm trộn bê tông nhựa nóng. Đa số sản xuất từ các nước Trung Quốc, Liên Xô, Đức, Nhật và liên doanh, các thiết bị này đều mới và mua từ quý hai năm 2002. Các thiết bị cũ đang được sử dụng đa số được sử dụng gần 10 năm lại đây, nguyên giá là 34.899.552.176 đã khấu hao 14.718.814.915 giá trị còn lại 20.180.737.261. Số liệu này được tính tới ngày 31/12/2002 Biểu 3.1: Bảng kê khai thiết bị cũ năm 2002. Đơn vị: 1.000.000 đồng Stt Tên thiết bị Số Lượng Nguyên giá Khấu hao Giá trị còn lại Tình trạng hoạt động Tổng 528 34.899 14.718 20.180 A Máy làm đất (ủi,xúc,san, lu,đầm) 80 11.842 4.948 6.894 35%hỏng,60%ĐHĐ, 5% sửa B Máy xây dung (trộnBT,ép các loại,biến thế,hàn) 28 2.012 1.441 571 53,57%hỏng, 46,43% ĐHĐ C Máy vận chuyển ngang(ô tô tảidu lịch) 46 13.225 4.331 8.983 8,7%hỏng ; 80,5%ĐHĐ 10,8%sửa D Máy vận chuyển cao 5 612.772 428 184 100%đanghoạt động E Máy phát điện 9 171 85 85 33%hỏng, 67% đanghoạt động F Các máy khác 347 6.970 2.458 4.511 100%đanghoạt động G Thiết bị khảo sát 13 64 1 52 100%đanghoạt động Về trang thiết bị thì đa số là đủ thi công cho các công trình, các thiết bị có thể lưu chuyển giữa các công trình với nhau để giảm thiểu chi phí luân chuyển và cất giữ. Chỉ có các công trình ở xa và có thời gian thi công ngắn thì mới vận động máy móc tại chỗ trên cơ sở áp dụng bài toán kinh tế tối ưu nhất. Sử dụng máy móc tại chỗ chủ yếu là lợi dụng hợp tác, liên doanh với các doanh nghiệp xây dựng khác về máy móc thiết bị và có thể sử dụng của nhau trên cùng địa bàn hoạt động. Đối với các máy móc thiết bị hỏng thì đội sửa chữa huy động thợ sửa chữa đến có máy hỏng sửa chửa kịp thời để đưa vào sử dụng. II./ Phân tích hiệu quả sử dụng vốn của Công ty xây dựng cầu 75: II.1./ Tình hình sử dụng vốn của Công ty: II.1.1./ Cơ cấu vốn sản xuất kinh doanh và sự biến động: Đối với doanh nghiệp xây dựng, vấn đề huy động vốn là một vấn đề rất quan trọng, đảm bảo được nguồn vốn là đảm bảo được tiến độ thi công, thời hạn bàn giao công trình hơn thế nữa nó còn đảm bảo được chất lượng công trình, đến uy tín của doanh nghiệp vì thế nó tạo ra ưu thế trong cạnh tranh cho doanh nghiệp trong việc thắng thầu các công trình xây dựng lớn Như ta đã biết đặc điểm riêng có của ngành xây dựng là chu kỳ kinh doanh dài, tổ chức sản xuất theo kiểu dự án, quy trình sản xuất không đồng bộ, hơn thế nữa sản phẩm dở dang có giá trị lớn, dự trữ nguyên vật liệu nhiều do vậy nhu cầu về vốn lưu động là rất lớn. Mặt khác không thể doanh nghiệp nào cũng cũng có thể đảm bảo được nguồn vốn kinh doanh cho các công trình xây dựng của mình bằng nguồn vốn tự có, đặc biệt là các doanh nghiệp xây dựng thêm vào đó là chi phí sử dụng vốn tự có thường lớn hơn là vốn vay, vì vậy việc huy động vốn phù hợp với công ty của mình từ các nguồn vốn khác nhau là một đầu tư tất yếu, đòi hỏi các nhà quản trị tài chính phải có cái nhìn đúng đắn Công ty cầu 75 cũng nằm trong tình trạng chung của các công ty xây dựng Việt Nam, đó là rất khó khăn trong việc huy động vốn cho các công trình xây dựng, vả lại là một công ty lớn có uy tín hàng đầu trong ngành xây dựng luôn đảm đương các công trình lớn như Đường Hồ Chí Minh nên tài chính luôn là bài toán đặt ra cho các nhà quản trị kế toán của công ty Vốn chủ sở hữu Tỉ suất tự tài trợ = ắắắắắắắ x 100% Tổng nguồn vốn Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ mức độc lập về mặt tài chính của doanh nghiệp càng lớn bởi vì hầu hết tài sản của doanh nghiệp hiện có đầu tư bằng số vốn của mình và vay dài hạn. Năm 2001 tỉ suất tài trợ là 12,12%, năm 2002 là 8,2%, năm 2003 là 9,2%. Điều này chứng tỏ năm 2001 tính độc lập về mặt tài chính là lớn nhất. Năm 2002 là thấp nhất. Qua bảng bên ta thấy nguồn vốn chủ sở hữu chiếm một tỉ trọng chưa cao trong tổng nguồn vốn bởi vì do đặc thù của ngành xây dựng. Để biết rõ hơn cơ cấu nguồn vốn của công ty biến động như thế nào, ta tiến hành xem xét sự tăng giảm của từng loại nguồn vốn. Đơn vị: 1.000.000đồng Nguồn vốn Năm 2000 Năm 2001 Năm 2003 A. Nợ phải trả 57.331 82.551 97.685 I. Nợ ngắn hạn 52.543 67.785 1. Vay ngắn hạn 20.570 29.933 39.985 2. Phải trả cho khách hàng 18.788 18.122 14.100 3. Người mua trả tiền trước 731 3.710 24.183 4. Thuế và các khoản phải nộp cho nhà nước 1.234 567 407 5. Phải trả cho người lao động 0 176 0 6. Phải trả khác 11.219 15.277 II. Nợ dài hạn 4.788 10.239 8.547 1. Vay dài hạn 2.723 9.096 2. Nợ dài hạn 2.065 1.143 III. Nợ khác 0 4.527 B. Nguồn vốn chủ sở hữu 7.906 7.342 9.685 1. Nguồn vốn kinh doanh 7.259 7.531 8.439 2. Chênh lệch tỷ giá -7.720 -781 0 3. Quỹ 654 244 405 4. Lãi chưa sử dụng 0 527 420 5. Nguồn kinh phí 0 126 421 Tổng cộng nguồn vốn 65.237 89.893 107.370 Biểu 3.2. Bảng nguồn vốn của công ty II.1.2./ Cơ cấu vốn cố định : Chỉ tiêu Đầu năm 2001 Cuối năm 2003 Cuối năm so đầu năm Số tiền (tr.đồng) Tỉ trọng % Số tiền (tr.đồng) Tỉ trọng % Số tiền (tr.đồng) Tỉ trọng % A.Tài sản CĐ và ĐTdàihạn 21.871 22,1 24.430 22,75 +2.559 111,7 I.Tài sản cố định 1.277 21,5 24.420 22,74 +3.143 114,7 II.Đầu tư tài chính 10 0,01 10 0,01 0 100 III.Chi phí XDCB dở dang 584 0,59 0 0 -584 0 B. Tổng nguồn vốn 98.981 100 107.3370 100 +8.409 +108,5 Biểu 3.3: Tình hình cơ cấu vốn cố định Qua bảng phân tích cơ cấu vốn cố định ta thấy, tài sản cố định và đầu tư dài hạn cuối kỳ tăng lên so với đầu kỳ cả về số tuyệt đối lẫn tương đối, trong đó chủ yếu là tài sản cố định đã và đang đầu tư. Điều này là thuận lợi nếu công ty sử dụng hợp lý và có hiệu quả tài sản cố định. Ngược lại, hiệu quả sử dụng vốn sẽ giảm bởi vì tài sản cố định lưu chuyển chậm, kết hợp với tỷ suất đầu tư sẽ thấy rõ hơn (đầu năm=21861/98961=22,09%, cuối năm=24.420/107.370= 22,74%) Nguồn vốn cố định : Đơn vị: 1.000.000 đồng Chỉ tiêu Đầu năm 2002 Cuối năm 2003 Chênh lệch Tổng TSCĐ và ĐTDH 21.871 25.430 +2.559 Tổng NVĐT thường xuyên 15.085 18.250 +3.165 Biểu 3.4. Tình hình tài trợ vốn cố định Nguồn tài trợ thường xuyên là nguồn vốn mà doanh nghiệp được sử dụng thường xuyên, lâu dài vào hoạt động kinh doanh; bao gồm nguồn vốn chủ sở hữu và nguồn vốn vay-nợ dài hạn, trung hạn (trừ vay –nợ quá hạn). Qua bảng trên ta thấy: Nguồn tài trợ thường xuyên<tài sản cố định và đầu tư dài hạn cả đầu kỳ và cuối kỳ, như vậy nguồn vốn của doanh nghiệp không đáp ứng đủ nhu cầu về tài sản, do vậy công ty cần có biện pháp huy động vốn và sử dụng hợp lý (huy động nguồn tài trợ tạm thời hợp pháp hoặc giảm quy mô đầu tư…). Mặt khác qua bảng trên ta thấy mức chênh lệch đầu kỳ và cuối kỳ của nguồn tài trợ thường xuyên lớn hơn tài sản cố định và đầu tư dài hạn, chứng tỏ công ty đã nhận thức được và đang có biện pháp khắc phục dần. II.1.3. /Cơ cấu vốn lưu động : Chỉ tiêu Đầu năm 2003 Cuối năm 2003 Chênh lệch Số tiền (tr.đồng) % Số tiền (tr.đồng) % Số tiền (tr.đồng) % A.Tài sản lưu động I.Tiền II.Các khoản phải thu III.Hàng tồn kho IV.Tài sản lưu động khác 77.089 6.284 42.604 25.751 2.450 77,90 6,35 43,05 26,02 2,48 82.950 940 53.387 29.302 261 77,26 0,875 48,852 27,29 2,243 +5.861 - - 5.344 +10.783 +3.551 - 2.189 107,03 14,96 125,31 113,79 10,65 B.Tổng tài sản 98.961 100 107.370 100 +8.409 108,5 Biểu 3.5: Cơ cấu vốn lưu động Qua bảng phân tích trên ta thấy: Tài sản lưu động tăng cuối kỳ so với đầu kỳ là 5.861 triệu đồng tức là 7,03%; Trong đó là các khoản phải thu và hàng tồn kho tăng, trong đó các khoản phải thu tăng 10.783tr.đồng, gần gấp đôi lượng tăng tài sản cố định trong đó tiền và các tài sản lưu động khác giảm, tiền giảm 5.344 triệu đồng. Như vậy doanh nghiệp cần tăng cường khả năng thu nợ của khách hàng và giảm sự tồn kho đồng thời bổ sung thêm tiền mặt. Tỷ lệ tài sản lưu động so với tổng tài sản giảm từ 77,9% xuống 77,26%. II.1.4./Cơ cấu vốn theo nguồn: a./Nguồn vốn do ngân sách nhà nước : Công ty xây dựng Cầu 75 – thuộc Tổng Công Ty Công trình Giao Thông 8 là một doanh nghiệp nhà nước, do vậy trong nguồn vốn kinh doanh của công ty luôn có một phần là nguồn vốn do ngân sách Nhà Nước cấp. Trước đây nguồn vốn này đóng vai trò chủ đạo và gần như duy nhất. Song cùng với sự trưởng thành mạnh mẽ của công ty và phát triển của thị trường vốn của nước ta do vậy đây không phải là nguồn vốn duy nhất tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, như thế nữa lại hoạt động kinh doanh trong ngành xây dựng, một lĩnh vực có chu kỳ kinh doanh dài và tốc độ luân chuyển vốn chậm. Tuy nhiên nguồn vốn do ngân sách Nhà Nước cấp vẫn là nguồn vốn quan trọng đảm bảo vững chắc cho quá trình kinh doanh của mình. Đơn vị: 1.000.000 đồng Chỉ tiêu Năm20001 Năm2002 Năm2003 Tốc độ tăng vốn ngân sách 0% 0% 0% Tốc độ tăng vốn tự bổ sung 3,2% 14,9% 15,3% -Vốn tự bổ sung 3.382 3.886 4.470 -Vốn ngân sách _ _ _ Nguồn vốn kinh doanh 7.351 7.855 8.439 Biểu 3.6: Tình hình vốn kinh doanh b./Vốn tự bổ sung : Đây là vốn doanh nghiệp có được nhờ làm ăn có hiệu quả, nó được lấy từ sau thuế, về thực chất nó vẫn là nguồn vốn thuộc sở hữu Nhà Nước. Tuy nhiên nó là kết quả của những lỗ lực, cố gắng của toàn doanh nghiệp vì thế doanh nghiệp có toàn quyền quyết định sử dụng nó cho mục đích kinh doanh. Qua Biểu 3.6 nguồn vốn do ngân sách cấp không thay đổi qua các năm, còn vốn tự bổ sung tăng đều hàng năm, năm sau cao hơn năm trước. Đây là dấu hiệu làm ăn có hiệu quả, ngày càng làm tăng thêm vốn tự bổ sung c./Tín dụng dài hạn : Trong kinh doanh mỗi khi thiếu vốn, doanh nghiệp huy động với chi phí thấp nhất. Vay dài hạn là một giải pháp tốt huy động để đáp ứng nhu cầu về vốn. Nguồn vay dài hạn là một trong những thành phần của nguồn vốn thường xuyên, đây là một nguồn cực kỳ quan trọng, nó tài trợ cho các tài sản cố định phục vụ cho sản xuất và hơn thế nữa nó còn tài trợ cho tài sản lưu động của doanh nghiệp. Đa số tài trợ cho tài sản cố định vì nó có thể bảo toàn được vốn. Tuy nhiên chi phí sử dụng vốn khá cao, bởi vây để cho quá trình sản xuất kinh doanh được ổn định và phát triển vững chắc đòi hỏi các nhà quản trị phải có chính sách huy động hợp lý, tránh ứ đọng vốn, sử dụng vốn sai mục đích làm thất thoát vốn. Hình thức vốn này có thể huy động bằng phát hành trái phiếu, vay tín dụng ngân hàng... Đơn vị: 1.000.000 đồng Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Vay dài hạn 2.723 9.096 5.868 8.472 Nợ dài hạn 2.065 1.143 143 143 Tổng nợ dài hạn 4.788 10.239 6.111 8.515 Biểu 3.7: Tình hình nợ dài hạn Năm 2001 và năm 2003 vay dài hạn lớn tương ứng là 10.239 triệu và 8.515 triệu, chứng tỏ hai năm này công ty đã vay thêm để mua máy móc thiết bị, năm 2002 công ty đã đầu tư mua thêm hơn bảy tỷ cho tài sản cố định, như vậy công ty đã đầu tư đúng hướng, đó là vay dài hạn sử dụng cho dài hạn d./ Nợ tích luỹ: Nợ tích luỹ là các khoản nợ của doanh nghiệp đối với cán bộ công nhân viên, ngân sách Nhà Nước, các khoản phải trả nội bộ và các khoản phải trả và phải nộp khác. II.2./ Kết quả sản xuất kinh doanh: Qua Bảng 3.7 ta nhận thấy doanh thu năm 2003 so với năm 2002 giảm 14.240 triệu ( 85.856 triệu – 100.107 triệu) tức là giảm 14,22% nhưng giá vốn hàng bán lại giảm 18.790 triệu tức là giảm 20,16%. Nguyên nhân là do các khoản giảm trừ năm 2003 cao là 4293 triệu trong khi đó năm 2002 là 0 triệu. Còn chi phí quản lý, chi phí bán hàng tăng 3,9% (5.088triệu – 4.898 triệu) Do đó làm cho lợi tức từ hoạt động sản xuất kinh doanh giảm 314 triệu (1.717 triệu – 2.031 triệu) tức giảm 15,46%. Đơn vị: 1 đồng Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 1.Tổng doanh thu 64.330.243.281 100.106.941.302 85.867.000.000 2.Các khoản giảm trừ 0 0 4.293.350.000 3.Doanh thu thuần 64.330.243.281 100.106.941.302 81.573.650.000 4. Giá vốn hàng bán 58.693.254.856 93.178.089.113 74.387.656.303 5. Lợi nhuận gộp 5.636.718.425 6.928.852.289 6.805.693.697 6. Chi phí bán hàng 0 0 0 7. Chi phí QLDN 4.709.990.040 4.897.356.782 5.088.353.697 8. Lợi nhuận thuần 926.728.385 2.031.495.407 1.717.340.000 9. Lợi nhuận HĐTC 0 0 0 10. Lợi nhuận BT 56.560.812 27.110.400 28.582.502 11.Tổng lợi nhuận 938.289.197 2.058.605.807 1.745.922.502 12. Thuế thu nhập DN 245.822.299 514.651.452 436.480.626 13. Lợi tức sau thuế 737.466.898 1.543.954.355 1.309.441.876 Biểu 3.8: Bảng kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh II.3./ Hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của Công ty xây dựng Cầu 75 : Đơn vị: 1.000.000 đồng Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 1.Doanh thu thuần 64.330 100.107 81.574 2.Lợi nhuận tử HĐSXKD 927 2.031 1.717 3.Vốn chủ sở hữu 7.342 9.074 9.685 4.Tổng vốn 89.893 98.961 107.307 Khả năng sinh lời của vốn đầu tư 0.012 0,015 0,0166 Chỉ số sinh lợi của vốn chủ sở hữu 0.095 0,096 0,094 Mức sản xuất của vốn kinh doanh 0,829 1,060 0,791 Biểu 3.9: Tình hình hoạt động Qua bảng tính toán ở trên ta thấy năm 2001 tới năm 2003 khả năng sinh lợi của vốn đầu tư tương ứng là 0,012; 0,025; 0,0166. Năm 2003 là thấp nhất, chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn thấp nhất. Năm 2002 là cao nhất, chứng tỏ năm có hiệu quả sử dụng vốn cao nhất. Các chỉ số doanh lợi của vốn chủ sở hữu và mức s

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docQT020.doc