Tài liệu Đề tài Tìm một số biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế trong sản xuất kinh doanh ở công ty cổ phần chế biến thực phẩm Hải Tân - Yên Hưng - Quảng Ninh: PHẦN THỨ NHẤT
MỞ ĐẦU
1.1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Có thể nói công nghiệp chế biến thuỷ sản đông lạnh là một bộ phận của công nghiệp chế biến thực phẩm, được Nhà nước rất quan tâm. Đó là việc thực hiện các hoạt động bảo quản, giữ gìn, cải biến và nâng cao giá trị sử dụng các nguyên liệu đầu vào thông qua các quá trình cơ - nhiệt - hoá và sinh học, tạo ra các sản phẩm có chất lượng cao đáp ứng nhu cầu thị trường, tăng khả năng tiêu thụ và đem lại hiệu quả cao.
Hiện nay, hầu hết các nước trên thế giới đều bắt đầu công nghiệp hoá bằng phát triển công nghiệp chế biến. Vì công nghiệp chế biến cho phép sản xuất ra những sản phẩm có giá trị cao, nó là nhân tố hết sức quan trọng kích thích nền kinh tế tăng trưởng nhanh và mang lại hiệu quả kinh tế xã hội cao, đồng thời thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước.
Công nghiệp chế biến thuỷ sản đông lạnh là một bộ phận của công nghiệp chế biến nói chung, nó được phát triển mạnh mẽ trên thế giới do ứng dụng tiến bộ khoa h...
90 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1030 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Tìm một số biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế trong sản xuất kinh doanh ở công ty cổ phần chế biến thực phẩm Hải Tân - Yên Hưng - Quảng Ninh, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN THỨ NHẤT
MỞ ĐẦU
1.1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Có thể nói công nghiệp chế biến thuỷ sản đông lạnh là một bộ phận của công nghiệp chế biến thực phẩm, được Nhà nước rất quan tâm. Đó là việc thực hiện các hoạt động bảo quản, giữ gìn, cải biến và nâng cao giá trị sử dụng các nguyên liệu đầu vào thông qua các quá trình cơ - nhiệt - hoá và sinh học, tạo ra các sản phẩm có chất lượng cao đáp ứng nhu cầu thị trường, tăng khả năng tiêu thụ và đem lại hiệu quả cao.
Hiện nay, hầu hết các nước trên thế giới đều bắt đầu công nghiệp hoá bằng phát triển công nghiệp chế biến. Vì công nghiệp chế biến cho phép sản xuất ra những sản phẩm có giá trị cao, nó là nhân tố hết sức quan trọng kích thích nền kinh tế tăng trưởng nhanh và mang lại hiệu quả kinh tế xã hội cao, đồng thời thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước.
Công nghiệp chế biến thuỷ sản đông lạnh là một bộ phận của công nghiệp chế biến nói chung, nó được phát triển mạnh mẽ trên thế giới do ứng dụng tiến bộ khoa học trong công nghệ đông lạnh. Hơn nữa thuỷ sản là một ngành cung cấp những sản phẩm có giá trị dinh dưỡng cao (tỷ lệ đạm cao) như tôm, cá, cua, ghẹ, ba ba… mà Việt Nam là nước có lợi thế rất lớn về nguồn lợi thuỷ sản, với 3260 km2 thềm lục địa và 2 triệu km2 mặt nước. Sản lượng khai thác và nuôi trồng thuỷ sản đạt trên 2 triệu tấn/năm.
Tuy nhiên, để thực sự trở thành nền kinh tế mũi nhọn, tăng tốc độ phát triển và ổn định cần phải có sự đóng góp không nhỏ của tất cả các đơn vị kinh tế trong ngành, đặc biệt là các công ty chế biến. Chính vì vậy, công ty cổ phần chế biến thực phẩm Hải Tân - Yên Hưng - Quảng Ninh cũng như các đơn vị chế biến khác của nước ta hiện nay làm sao phải tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao, giá thành hạ và nâng cao được hiệu quả kinh doanh là một việc làm hết sức cần thiết. Do vậy, các công ty cần phải luôn phân tích, đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mình để tìm ra mặt hạn chế và cách khắc phục những điểm yếu còn tồn tại. Bên cạnh đó, công ty phải tìm cách khai thác có hiệu quả tiềm năng nguồn lực, thế mạnh của mình trong sản xuất kinh doanh.
Để đánh giá hiệu quả kinh tế và tìm các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả, hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh tại công ty, từ đó đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả kinh tế trong sản xuất kinh doanh chúng tôi nghiên cứu đề tài:
“Một số biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế trong sản xuất kinh doanh ở công ty cổ phần chế biến thực phẩm Hải Tân - Yên Hưng - Quảng Ninh”.
1.2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Đề tài nghiên cứu nhằm
- Góp phần hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn khi đánh giá hiệu quả kinh tế trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Phân tích hiệu quả kinh tế hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty cổ phần chế biến thực phẩm Hải Tân - Yên Hưng - Quảng Ninh.
- Phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến kết quả, hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty cổ phần chế biến thực phẩm Hải Tân - Yên Hưng - Quảng Ninh. Trên cơ sở đó, đề xuất một số biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế trong sản xuất kinh doanh ở công ty cổ phần chế biến thực phẩm Hải Tân – Yên Hưng – Quảng Ninh.
1.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty cổ phần chế biến thực phẩm Hải Tân - Yên Hưng - Quảng Ninh.
1.4. PHẠM VI VÀ THỜI GIAN NGHIÊN CỨU
- Phạm vi không gian
Đề tài được nghiên cứu tại công ty cổ phần chế biến thực phẩm Hải Tân - Yên Hưng - Quảng Ninh.
- Pham vi thời gian
Thu thập số liệu, phân tích, đánh giá hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty trong 3 năm (2003, 2004, 2005).
PHẦN THỨ HAI
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ HIỆU QUẢ KINH TẾ
2.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ KINH TẾ
2.1.1. Khái niệm về hiệu quả kinh tế
Qúa trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là quá trình tái sản xuất trải qua các giai đoạn T – H – SX – H’ – T’. Doanh nghiệp dùng tiền mua vật tư, thiết bị, công nghệ, kết hợp với sức lao động tạo ra hàng hoá; bán hàng hoá đi thu tiền với mục đích thu được số tiền lớn hơn số tiền đã bỏ ra ban đầu.
Như vậy, quá trình sản xuất kinh doanh chính là sự phối hợp toàn diện, thống nhất của nhiều giai đoạn, kết quả thực hiện ở mỗi giai đoạn đều ảnh hưởng đến kết quả của cả quá trình. Qua quá trình tổ chức sản xuất kinh doanh, hiệu quả mà doanh nghiệp đem lại bao gồm nhiều mặt: Hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội và hiệu quả môi trường. Trong phạm vi đề tài này, chúng tôi chỉ tập chung nghiên cứu hiệu quả kinh tế. Tác giả Thái Bá Cẩn cho rằng: “việc phân tích, đánh giá hiệu quả kinh tế và tìm các biện pháp nâng cao hiệu quả kinh tế là vấn đề rất khó khăn phức tạp về lý luận cũng như thực tiễn chưa giải quyết triệt để”.
Có quan điểm cho rằng: Hiệu quả kinh tế là kết quả đạt được trong hoạt động kinh tế. Quan điểm này không phù hợp bởi vì cùng một kết quả sản xuất nhưng với hai mức chi phí khác nhau thì hiệu quả cũng khác nhau.
Có quan điểm cho rằng: Hiệu quả kinh tế được xác định bằng nhịp độ tăng tổng sản phẩm xã hội hoặc tổng thu nhập quốc dân. Hiệu quả sẽ cao khi nhịp độ tăng cao. Quan điểm này chưa đúng, bởi vì các yếu tố bên trong và bên ngoài nền kinh tế có ảnh hưởng khác nhau.
Có quan điểm lại cho rằng: hiệu quả kinh tế là thước đo độ hữu ích của sản phẩm. Quan điểm này không thuyết phục vì giá trị sử dụng của mỗi sản phẩm khác nhau tuỳ thuộc vào công dụng của sản phẩm đó và nhu cầu của người sử dụng đối với sản phẩm. Không thể so sánh các sản phẩm khác nhau nếu chỉ căn cứ vào giá trị sử dụng của chúng.
Quan điểm khác cho rằng: Trong lĩnh vực SXKD, ở bất kỳ phạm vi nào, các nhà sản xuất đều tìm cách huy động và kết hợp các yếu tố đầu vào sao cho chi phí ở mức nhỏ nhất và giá trị sản phẩm sản xuất là cao nhất. Mọi quá trình sản xuất đều liên quan mật thiết đến hai yếu tố cơ bản, đó là chi phí và kết quả thu được từ chi phí đó.
Quan điểm khác cho rằng: Hiệu quả kinh tế được hiểu là mối tương quan so sánh giữa phần giá trị thu được của sản phẩm đầu ra với phần chi phí các yếu tố nguồn lực đầu vào. Mối tương quan đó được xét cả về so sánh tương đối và tuyệt đối, cũng như xét mối quan hệ chặt chẽ giữa hai đại lượng đó.
Với các hệ thống quan điểm trên đây chúng ta xét thấy khái niệm về hiệu quả kinh tế chưa được đầy đủ và toàn diện. Do vậy, cần có khái niệm bao quát hơn, chính xác hơn: Hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế liên quan đến sản xuất hàng hoá. Hiệu quả kinh tế biểu hiện mối quan hệ so sánh giữa kết quả đạt được với lượng chi phí bỏ ra để đạt kết quả đó: với một nguồn lực nhất định làm thế nào để tạo ra được nhiều sản phẩm nhất hoặc tạo ra lượng sản phẩm nhất định với chi phí bỏ ra ít nhất. Hiệu quả kinh tế phản ánh trình độ khai thác và sử dụng các nguồn lực.
2.1.2. Bản chất của hiệu quả kinh tế
Bản chất của HQKT xuất phát từ mục đích của sản xuất và sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, đó là sự thoả mãn ngày càng tăng về nhu cầu vật chất và tinh thần của mọi thành viên trong xã hội. Đánh giá kết quả sản xuất là đánh giá về mặt số lượng, giá trị sản phẩm sản xuất ra đã thoả mãn được nhu cầu của xã hội hay không, còn đánh giá hiệu quả sản xuất tức là xem xét tới mặt chất lượng của quá trình sản xuất đó.
Nói đến hiệu quả kinh tế chúng ta không thể không xem xét tới công trình nghiên cứu của Farrell (1957) trình bày rõ bản chất của phạm trù hiệu quả kinh tế. Khi nghiên cứu hoạt động kinh tế của các nhà sản xuất ngang tài ngang sức và tiêu biểu nhưng lại đạt kết quả khác nhau do cách kinh doanh khác nhau và như vậy thì chỉ có thể ước tính đầy đủ hiệu quả kinh tế theo nghĩa tương đối. Để giải thích kết luận này ông phân biệt hiệu quả kỹ thuật, hiệu quả phân bổ và hiệu quả kinh tế.
- Hiệu quả kỹ thuật (Technical Efficiency): Là khả năng tác động của kỹ thuật nhằm thu được kết quả sản xuất tối đa, với yếu tố đầu vào xác định, trong điều kiện sản xuất nhất định. Hiệu quả kỹ thuật mang tính xã hội, do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quyết định.
- Hiệu quả phân bổ (Allocative Efficiency): Là việc nghiên cứu cách thức tổ chức quản lý khoa học để với các yếu tố đầu vào cố định, người sản xuất có thể thu được lợi nhuận tối đa, có xem xét tới yếu tố đầu vào, đầu ra.
Hiệu quả kinh tế = hiệu quả kỹ thuật U hiệu quả phân bổ
Ta thấy hiệu quả kỹ thuật chỉ liên quan đến những đặc tính của sản xuất vật chất, mục đích này phổ biến thích hợp với mọi hệ thống kinh tế, nó mang tính chất xã hội. Hiệu quả phân bổ liên quan đến yếu tố tổ chức quản lý sản xuất nhằm đạt mục đích kinh tế của người sản xuất có lợi nhuận tối đa.
2.1.3. Các quan điểm về hiệu quả kinh tế
Có rất nhiều quan điểm về hiệu quả kinh tế, song bản chất chung của hiệu quả kinh tế chính là sự so sánh giữa kết quả sản xuất thu được với chi phí bỏ ra để đạt kết quả đó. Người ta có thể quy về ba hệ thống quan điểm sau:
Hệ thống quan điểm thứ nhất: Hiệu quả kinh tế được đo bằng hiệu số giữa giá trị sản xuất đạt được và lượng chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó trong một thời gian nhất định.
Công thức: H = Q – K
Trong đó: H - Hiệu quả kinh tế
Q - Kết quả đạt được
K - Chi phí sản xuất bỏ ra
Theo quan điểm này, hiệu quả kinh tế được thể hiện bằng số tuyệt đối.
Hệ thống quan điểm thứ hai: Hiệu quả kinh tế là tỷ số giữa kết quả đạt được và chi phí sản xuất bỏ ra để đạt được kết quả đó.
Theo quan điểm này, hiệu quả kinh tế được thể hiện bằng số tương đối.
Công thức: Q K
H = (1a); H = (1b)
K Q
Hệ thống quan điểm thứ ba: Hiệu quả kinh tế là tỷ lệ phần tăng thêm của kết quả so với phần tăng thêm của chi phí.
Công thức: ∆Q ∆K
H = (2a); H = (2b)
∆K ∆Q
Trong đó: ∆Q – Phần tăng thêm của kết quả
∆K – Phần tăng thêm của chi phí
Theo quan điểm này, các nhà kinh tế chỉ quan tâm đến hiệu quả của phần mở rộng, phần tăng thêm của sản xuất trong kỳ. Quan điểm này không đề cập đến mức chi phí ban đầu đã bỏ ra cũng như kết quả đã thu được tương ứng với mức đầu tư đó.
Mỗi hệ thống quan điểm trên đều có những ưu và nhược điểm nhất định.
Hệ thống quan điểm thứ nhất cho biết kết quả một cách cụ thể, chính xác, phản ánh quy mô khối lượng rõ ràng, song chưa phản ánh trình độ sử dụng nguồn lực, chưa nghiên cứu kết quả đạt được trong mối liên hệ chặt chẽ với các yếu tố đầu vào (với cùng kết quả như nhau nhưng sử dụng nguồn lực khác nhau thì hiệu quả kinh tế cũng khác nhau), chưa rút ra được bản chất và xu hướng kinh doanh.
Hệ thống quan điểm thứ ba cho phép phân tích so sánh giữa mức độ tăng trưởng của kết quả và mức tăng thêm của chi phí biến đổi, phản ánh được trình độ sử dụng nguồn lực song không phản ánh được quy mô sử dụng nguồn lực, chưa cho biết kết qủa bằng số liệu cụ thể có sức thuyết phục. Nếu chỉ sử dụng quan điểm thứ ba thì có thể doanh nghiệp có hiệu quả kinh tế nhưng toàn xã hội lại không đạt hiệu quả kinh tế vì nguồn lực bị khan hiếm, bị giới hạn. Quan điểm này thường được áp dụng khi phân tích hiệu quả đầu tư theo chiều sâu hay áp dụng các biện pháp thâm canh để lựa chọn phương án cho phù hợp.
Theo quan điểm của nhiều nhà kinh tế trong và ngoài nước: Hiệu quả kinh tế là phạm trù kinh tế liên quan đến sản xuất hàng hoá, chịu sự tác động của các quy luật kinh tế, phản ánh chất lượng của các hoạt động SXKD, phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực trong sản xuất. Khi phân tích hiệu quả kinh tế trong sản xuất kinh doanh người ta phải kết hợp các hệ thống quan điểm với nhau, trong đó các doanh nghiệp thường chú trọng sử dụng hệ thống quan điểm thứ hai (H = Q/K). H > 1 chứng tỏ doanh nghiệp làm ăn có lãi, H càng lớn có nghĩa là hiệu quả kinh tế càng cao.
2.1.4. Hiệu quả kinh tế trên quan điểm kinh tế học sản xuất
Xã hội chịu sự chi phối bởi quy luật khan hiếm nguồn lực, thực tế các nguồn lực như đất đai, lao động, vốn, tài nguyên thiên nhiên... khan hiếm. Trong khi đó nhu cầu của xã hội tăng nhanh cả về số lượng, chất lượng. Do vậy, vấn đề đặt ra là phải tiết kiệm nguồn lực, từng bước nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực nói chung, trước hết mỗi quá trình sản xuất phải lựa chọn đầu vào tối ưu. Khi đề cập tới hiệu quả các nguồn lực, thông thường người ta nói tới hiệu quả kinh tế về việc sử dụng các nguồn lực đó. Hiệu quả sản xuất đã được nhiều học giả bàn tới như Farrell (1957), Schultz (1964), Rizzo (1979), Ellis (1993). Các học giả đều đi đến thống nhất là phải phân biệt rõ ba khái niệm cơ bản về hiệu quả :
Hiệu quả kỹ thuật (Technical Efficiency)
Hiệu quả phân bổ (Allocative Efficiency)
Hiệu quả kinh tế (Economic Efficiency)
Khi bàn về lý thuyết về hiệu quả sản xuất như Farell (1957) đã đưa ra hiệu quả của một doanh nghiệp bao gồm hai bộ phận cấu thành. Một là hiệu quả kỹ thuật, phản ánh khả năng của doanh nghiệp tối đa hoá sản lượng đầu ra với một lượng đầu vào và công nghệ nhất định. Hai là hiệu quả phân bổ, phản ánh khả năng của doanh nghiệp sử dụng đầu vào ở quy mô tốt nhất với mức giá và công nghệ sản xuất nhất định. Khi hãng đạt cả hiệu quả kỹ thuật và hiệu quả phân bổ thì sẽ đạt HQKT.
Xác định hiệu quả kỹ thuật đã đạt được của doanh nghiệp sẽ giúp chúng ta đi đến quyết định nên thay đổi công nghệ sản xuất hay tiếp tục nâng cao hiệu quả kỹ thuật để nâng cao sản lượng đầu ra.
Hiệu quả kỹ thuật rất quan trọng trong phát triển sản xuất, đặc biệt ở những nước đang và chậm phát triển, các nước có nguồn lực khan hiếm, ít có cơ hội phát triển và phát triển công nghệ mới là cực kỳ khó khăn. Ở các nước này có thể nâng cao lợi ích kinh tế bằng cách nâng cao hiệu quả kỹ thuật mà không cần đầu tư thêm nguồn lực hay phát triển công nghệ mới.
2.2. SỰ CẦN THIẾT NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH TẾ TRONG SẢN XUẤT KINH DOANH
Thông qua quá trình tổ chức sản xuất, đáp ứng nhu cầu về hàng hoá dịch vụ cho xã hội, mục tiêu của các doanh nghiệp là tìm kiếm sự chênh lệch giữa kết quả và chi phí (chính là lợi nhuận). Trong phạm vi hoạt động của doanh nghiệp kinh doanh, hiệu quả kinh tế đồng nghĩa với lợi nhuận. Muốn đạt lợi nhuận tối đa, người ta cần quan tâm đến các biện pháp nâng cao hiệu quả kinh tế. Hiệu quả kinh tế là mối quan tâm hàng đầu, là mục tiêu của mọi nền sản xuất bởi vì:
- Bản chất của hiệu quả là nâng cao năng suất lao động xã hội, tiết kiệm mọi hao phí lao động cần thiết. Tiết kiệm hao phí lao động là mục tiêu phấn đấu của mọi nền sản xuất xã hội.
- Các nguồn lực bị giới hạn và ngày càng khan hiếm, trong khi nhu cầu của xã hội ngày càng cao, đòi hỏi sử dụng nguồn lực phải khoa học, hiệu quả.
Hiệu quả kinh tế có ý nghĩa quyết định đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Có hiệu quả, doanh nghiệp mới có điều kiện để đầu tư đổi mới thiết bị và công nghệ, sản xuất sản phẩm có chất lượng cao, giá thành thấp, mở rộng thị trường tiêu thụ, tạo công ăn việc làm và tăng thu nhập, cải thiện đời sống cho người lao động. Vì vậy, nâng cao hiệu quả kinh tế trong SXKD là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài, có ý nghĩa sống còn đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
2.3. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ KINH TẾ
Hiệu quả kinh tế của quá trình sản xuất kinh doanh dưới cái nhìn tổng quát nó phản ánh mối quan hệ tương quan giữa chi phí bỏ ra cho đầu vào và kết quả thu được ở đầu ra. Đồng thời phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực để đạt hiệu quả mong muốn. Để có được kết quả như ý muốn, tất cả các công ty, doanh nghiệp phải tính đến các yếu tố có thể ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến kết quả của mình. Đó có thể là yếu tố ngay trong bản thân doanh nghiệp nhưng cũng có thể là các tác động từ bên ngoài cụ thể như sau:
2.3.1. Nhóm nhân tố chủ quan bên trong doanh nghiệp
Ta chỉ xét đến những doanh nghiệp, công ty làm ăn vì mục đích kinh tế, sự tồn tại và phát triển của chúng phụ thuộc trực tiếp vào phương tiện và con người sử dụng phương tiện đó và hơn cả là sự kết hợp các yếu tố này với nhau. Các yếu tố đó gồm: lao động, nguyên vật liệu đầu vào, công nghệ, kinh nghiệm và trình độ của ban quản trị… Mỗi sự thay đổi của các yếu tố đó có thể có ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả sản xuất của đơn vị, doanh nghiệp đó.
* Nhân tố lao động
Lao động là yếu tố không thể thiếu được của quá trình sản xuất.
Lao động trong doanh nghiệp là toàn bộ đội ngũ lao động với trình độ tay nghề và năng lực cá nhân riêng. Vai trò tích cực của người lao động trong doanh nghiệp phụ thuộc vào khả năng tiếp thu tay nghề cùng với ý thức chấp hành kỷ luật lao động cũng như khả năng của người lao động trong việc phân công công việc vào chế độ tiền lương, thưởng cho lao động của doanh nghiệp.
Chất lượng lao động là yếu tố quyết định đến hiệu quả của quá trình sản xuất kinh doanh, nó liên quan đến sức khoẻ và sự gắn bó của người lao động với doanh nghiệp. Chất lượng lao động phụ thuộc vào trình độ thành thạo tay nghề của công nhân (số công nhân ở từng bậc thợ, số công nhân đã qua đào tạo, số công nhân có trình độ cơ khí hoá, tự động hoá…) của doanh nghiệp. Trong thời đại ngày nay, khoa học công nghệ tiến bộ rất nhanh, đòi hỏi chất lượng lao động không ngừng được tăng lên, lao động phải có văn hoá, có tri thức, nắm bắt được khoa học kỹ thuật, trình độ lành nghề, phải thường xuyên nâng cao trình độ thì mới có thể điều khiển máy móc trang thiết bị hiện đại, sản xuất ra sản phẩm có chất lượng cao đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội, phục vụ nhu cầu sản xuất hàng hoá để xuất khẩu. Chất lượng lao động còn phụ thuộc vào trình độ quản lý, cách thức tổ chức sản xuất của bộ máy gián tiếp.
Tóm lại, người lao động và chất lượng lao động của họ sẽ giúp doanh nghiệp tồn tại và phát triển hoặc kéo doanh nghiệp thụt lùi… Chính sách quản lý lao động phải động viên, khuyến khích người lao động đem hết khả năng, sức lực cống hiến cho doanh nghiệp. Nếu làm tốt doanh nghiệp sẽ tạo được đội ngũ lao động có trình độ và chất lượng cao, qua đó sẽ góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
* Trình độ phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật – công nghệ
Nhân tố này có ảnh hưởng sâu sắc và toàn diện tới hiệu quả của quá trình sản xuất kinh doanh. Nó quyết định quy mô sản xuất, năng suất lao động, chiến lược sử dụng các nguồn lực sản xuất. Công nghệ được hiểu là tất cả các phương thức, những quá trình áp dụng khoa học kỹ thuật để chuyển hoá các nguồn lực sản xuất, là tập hợp các quá trình sử dụng các yếu tố, điều kiện nhằm mục đích tạo ra sản phẩm với chất lượng tốt nhất với giá cả phù hợp.
Quyết định về công nghệ phải phù hợp với từng giai đoạn của quá trình sản xuất, phù hợp với trình độ và năng lực của những người trực tiếp sử dụng công nghệ nhằm mục tiêu nâng cao hiệu quả sử dụng công nghệ và hiệu quả của quá trình sản xuất kinh doanh.
* Lựa chọn và tổ chức các yếu tố đầu vào
Đây là yếu tố có ảnh hưởng đặc biệt quan trọng đối với doanh nghiệp chế biến. Để tiến hành sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần có nguồn đầu vào chủ yếu là nguyên liệu chính, đây là công việc đầu tiên của các nhà kinh doanh. Yêu cầu cơ bản đặt ra là phải cung cấp đầy đủ, đúng số lượng, chất lượng, chủng loại nguyên liệu cần thiết cho quá trình sản xuất kinh doanh. Việc cung cấp đầy đủ, đúng tiến độ, đúng nhu cầu của nơi sản xuất sẽ góp phần đảm bảo chất lượng sản phẩm, tiếp tục duy trì và thu hút khách hàng hơn nữa. Cung cấp đúng, đủ và đảm bảo chất lượng của nguyên liệu sẽ giúp doanh nghiệp xây dựng và thực hiện tốt kế hoạch sản xuất.
Đối với công ty cổ phần chế biến thực phẩm Hải Tân – Yên Hưng – Quảng Ninh, do đặc thù của hoạt động sản xuất kinh doanh là chế biến hàng xuất khẩu nên nguyên liệu đã đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Nguyên liệu chính dùng cho sản xuất là thuỷ, hải sản như tôm, cá, mực... nên công ty phải hết sức chú ý đến vấn đề thu mua và bảo quản nguyên liệu do những yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn vệ sinh thực phẩm mà Bộ y tế ban hành.
Như vậy, việc thu mua nguyên liệu, bảo quản chúng một cách tối ưu, việc tổ chức các phương án xây dựng và phát triển vùng nguyên liệu, việc kiểm tra chất lượng nguyên liệu... là những nhân tố quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
* Thông tin và văn hoá trong doanh nghiệp
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, sự trao đổi thông tin qua lại giữa những người trực tiếp lãnh đạo với các bộ phận, phòng ban, các phân xưởng sản xuất sẽ truyền đi những thông tin có liên quan đến hoạt động của bộ phận mình.
Văn hoá trong doanh nghiệp bao gồm: Các quan hệ ứng xử giữa các thành viên, các bộ phận, các cấp bậc trong doanh nghiệp và các triết lý kinh doanh, các thói quen hoạt động, đạo đức kinh doanh. Chúng tạo lên một môi trường hoà đồng, gắn kết khuyến khích người lao động làm việc có trách nhiệm, có hiệu quả và cùng hướng tới mục đích chung của doanh nghiệp.
Thực tế chứng tỏ doanh nghiệp nào xây dựng được môi trường thông tin kịp thời, nhanh và mối quan hệ tốt trong hoạt động sản xuất kinh doanh thì chất lượng và hiệu quả của quá trình sản xuất kinh doanh sẽ không ngừng tăng lên.
2.3.2. Nhóm nhân tố khách quan tác động tới hiệu quả kinh tế
Nền kinh tế nói chung, mỗi một doanh nghiệp nói riêng, chịu sự tác động rất nhiều từ những nhân tố khách quan, doanh nghiệp chỉ có thể thích nghi mà không thể kiểm soát và quản lý được, những nhân tố này có thể tác động tích cực hoặc tiêu cực đến sự phát triển kinh tế, đến hiệu quả kinh tế. Cụ thể do các nhân tố:
* Điều kiện tự nhiên
Hoạt động sản xuất kinh doanh là hoạt động có mục đích của con người, địa bàn hoạt động trải rộng trên toàn bộ lãnh thổ. Khí hậu thời tiết có thể tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến sản xuất kinh doanh của mỗi ngành, mỗi doanh nghiệp và tác động đến HQKT. Ngày nay do sự tàn phá dữ dội của con người, môi trường tự nhiên và hệ sinh thái biến động xấu. Do vậy, khí hậu thời tiết có nhiều biến đổi không tuân theo quy luật như quy luật mưa, nắng, bão, lũ...
* Môi trường kinh tế
Ngày nay hầu hết các nước trên thế giới đều phát triển kinh tế mở, theo xu hướng toàn cầu hoá. Do vậy, sự biến động của kinh tế thế giới sẽ tác động đến kinh tế mỗi nước và ngược lại. Tuy nhiên, sự biến động của kinh tế mỗi nước tác động đến kinh tế thế giới mạnh hay yếu lại phụ thuộc vào vị thế kinh tế của nước đó trong hệ thống kinh tế thế giới. Ví dụ nền kinh tế Mỹ, nền kinh tế giữ vị trí số một thế giới, sau sự kiện ngày 11/9/2001, kinh tế Mỹ biến động ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển kinh tế của thế giới nói chung. Sự biến động này tác động trước hết đến xuất - nhập khẩu và gây biến động giá ở một số thị trường hàng hoá trên thế giới, như vậy tác động đến kết quả và HQKT của mỗi ngành, mỗi doanh nghiệp.
ª Trạng thái kinh tế của kinh tế thế giới và kinh tế trong nước: Sự vận hành của mỗi nền kinh tế chi phối bởi quy luật chu kỳ kinh doanh. Biểu hiện ở ba trạng thái đó là: Kinh tế thịnh vượng, kinh tế cân bằng tối ưu và kinh tế suy thoái. Thời kỳ kinh tế thịnh vượng toàn bộ nền kinh tế nói chung, mỗi ngành, mỗi doanh nghiệp nói riêng phát triển nhanh. Do vậy, HQKT ngành và các doanh nghiệp cao, ngược lại nền kinh tế ở vào thời kỳ suy thoái sản xuất đình đốn, giá cả biến động. Do vậy, quy mô sản xuất của các doanh nghiệp giảm, kết quả và HQKT thấp.
* Môi trường chính trị và pháp luật
Đây là nền tảng để quy định các yếu tố khác nhau của môi trường kinh doanh và môi trường sản xuất kinh doanh. Quan điểm đường lối chính trị sẽ tạo cơ hội hoặc là cản trở hoạt động sản xuất kinh doanh.
Hệ thống pháp lý gồm hệ thống luật và các văn bản dưới luật, các chính sách chế độ, các quy định pháp luật về sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đều có tác động trực tiếp đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Môi trường chính trị, luật pháp ổn định lành mạnh sẽ giúp doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả hơn trong cơ chế thị trường hiện nay.
Ngày nay, hầu hết các quốc gia đều tổ chức nền kinh tế của mình theo mô hình kinh tế hỗn hợp, thể chế tư nhân và Nhà nước cùng tham gia quản lý và điều tiết nền kinh tế, tư nhân điều tiết theo cơ chế “bàn tay vô hình”, Nhà nước điều tiết bằng luật lệ, thể chế và các chính sách kinh tế vĩ mô.
Từ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986), Việt Nam đã đổi mới cơ chế quản lý chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp (kinh tế chỉ huy) sang nền kinh tế thị trường có quản lý vĩ mô của Nhà nước theo định hướng XHCN. Thực chất đây là mô hình kinh tế hỗn hợp.
Chính phủ can thiệp vào nền kinh tế bằng các luật lệ, chính sách trước hết là chính sách tài khoá, chính sách tiền tệ và chính sách kinh tế đối ngoại... Các chính sách này tác động trực tiếp hoặc gián tiếp tới sản xuất. Như vậy, ảnh hưởng đến kết quả và hiệu quả kinh tế của các ngành và các doanh nghiệp. Ngoài ra Chính Phủ có thể can thiệp trực tiếp đến giá cả và tiêu dùng bằng cách áp đặt giá trần, giá sàn, chính sách tiền lương... Do vậy, sẽ làm thay đổi chi phí sản xuất và HQKT.
* Môi trường kỹ thuật công nghệ
Bao gồm các nhân tố: Khoa học kỹ thuật, phát minh sáng chế, thành tựu và tiến bộ kỹ thuật. Chúng ảnh hưởng trực tiếp và quyết định đến chất lượng và giá bán của sản phẩm hàng hoá và dịch vụ của doanh nghiệp trên thị trường như vậy chúng đã tác động tới thị trường, tới nhà sản xuất, tới khách hàng, tới quá trình sản xuất kinh doanh và vị thế cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Các ảnh hưởng của môi trường kỹ thuật công nghệ còn thể hiện khá rõ trong lĩnh vực thu thập, xử lý, lưu trữ truyền đạt thông tin kinh tế – xã hội phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
* Yếu tố giá cả trên thị trường
Trong kinh tế thị trường giá cả luôn biến động, khi giá cả thay đổi ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả và HQKT của mỗi doanh nghiệp. Khi nói đến giá cả trên thị trường, chúng ta phải đề cập tới giá các yếu tố đầu vào và giá sản phẩm đầu ra. Trên thị trường giá các yếu tố đầu vào tăng sẽ làm cho chi phí sản xuất tăng, chi phí sản xuất tăng sẽ làm cho kết quả và HQKT của doanh nghiệp giảm. Mặt khác khi giá sản phẩm đầu ra tăng, kích thích sản xuất của doanh nghiệp phát triển, kết quả và HQKT cũng tăng.
Ngoài ra trong chiến lược phát triển kinh tế mở, tỷ giá hối đoái thay đổi cũng ảnh hưởng đến kết quả và HQKT của mỗi doanh nghiệp. Đặc biệt những ngành, những doanh nghiệp sử dụng nhiều yếu tố đầu vào từ nguồn nhập khẩu, hoặc sản phẩm sản xuất ra chủ yếu để xuất khẩu.
Tóm lại: Trong quá trình sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp chịu tác động bởi nhiều yếu tố khách quan và chủ quan. Vấn đề quan trọng ở đây là mỗi doanh nghiệp phải nhận thức đúng đắn các nhân tố này, lợi dụng mặt tích cực, hạn chế tác động tiêu cực làm chủ thời cơ kinh doanh sẽ đạt kết quả và HQKT cao đứng vững trên thương trường.
2.4. HỆ THỐNG CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP
Hệ thống các chỉ tiêu hiệu quả SXKD của doanh nghiệp đều xoay quanh chỉ tiêu lợi nhuận. Lợi nhuận là chỉ tiêu quan trọng nhất. Mục tiêu cơ bản, quan trọng nhất của doanh nghiệp kinh doanh trong nền kinh tế thị trường là lợi nhuận. Mọi hoạt động của doanh nghiệp đều xoay quanh lợi nhuận, hướng đến lợi nhuận, tất cả vì lợi nhuận. Lợi nhuận là chỉ tiêu tổng hợp, bao hàm nhiều mối liên hệ. Nếu chỉ phân tích chỉ tiêu này thì không thể thấy rõ những nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận. Vì vậy, khi nghiên cứu hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp, người ta cần kết hợp nghiên cứu mối quan hệ giữa lợi nhuận với các chỉ tiêu về doanh thu (kết quả) và chi phí, phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến doanh thu và chi phí cũng chính là các nhân tố chi phối lợi nhuận.
2.4.1. Một số chỉ tiêu sử dụng khi đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh
Doanh thu (Doanh thu tiêu thụ sản phẩm): Là toàn bộ số tiền thu về bán sản phẩm hàng hoá, cung ứng dịch vụ được xác định tiêu thụ trong kỳ. Doanh thu là chỉ tiêu quan trọng, phản ánh hoạt động SXKD của doanh nghiệp được thị trường chấp nhận.
Doanh thu thuần: Là toàn bộ doanh thu của doanh nghiệp, sau khi đã trừ đi các khoản giảm trừ bao gồm: giảm giá hàng bán, chiết khấu thương mại, hàng bán bị trả lại, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu. Doanh thu thuần phản ánh số thu bán hàng thực tế mà doanh nghiệp thu được.
Tổng doanh thu: Là số tổng cộng của doanh thu sản phẩm + Thu hoạt động tài chính + Thu hoạt động khác.
Chi phí của doanh nghiệp: Là toàn bộ hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã chi ra trong một thời gian nhất định, để thực hiện hoạt động SXKD của mình. Người ta phân chia chi phí theo từng loại hoạt động, theo nội dung kinh tế, theo khoản mục và địa điểm phát sinh, theo phạm vi phát sinh chi phí. Chi phí SXKD của doanh nghiệp được chia thành các loại: chi phí khả biến và chi phí bất biến; chi phí quản lý và chi phí sản xuất chung; chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp. Chi phí của doanh nghiệp cấu tạo nên giá thành sản phẩm của doanh nghiệp.
Giá thành sản phẩm: Là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ chi phí của doanh nghiệp để hoàn thành việc sản xuất và tiêu thụ một đơn vị sản phẩm.
TR
Công thức: Z =
Q
Trong đó: Z – Giá thành sản xuất đơn vị sản phẩm
TC – Tổng chi phí sản xuất sản phẩm
Q – Số lượng sản phẩm sản xuất ra
Với chất lượng sản phẩm xác định, giá bán thị trường của sản phẩm không thay đổi thì giá thành đơn vị sản phẩm tỷ lệ nghịch với hiệu quả kinh tế, giá thành càng thấp thì hiệu quả càng cao và ngược lại. Giá thành là thước đo mức chi phí tiêu hao phải bù đắp, là căn cứ quan trọng để xác định hiệu quả sản xuất kinh doanh. Giá thành còn là công cụ để kiểm soát tình hình quản lý tài chính, xem xét hiệu quả của các biện pháp tổ chức, kỹ thuật.
Lợi nhuận: Là khoản chênh lệch giữa doanh thu và chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra trong quá trình SXKD. Lợi nhuận là chỉ tiêu cụ thể nhất, rõ ràng nhất hiệu quả SXKD của doanh nghiệp, quyết định sự tồn tại và phát triển doanh nghiệp.
Công thức: TPr = TR – TC
Trong đó: TPr – Lợi nhuận
TR – Tổng doanh thu
TC – Tổng chi phí
Lợi nhuận là chỉ tiêu đánh giá chất lượng của toàn bộ hoạt động SXKD, khẳng định khả năng cạnh tranh, bản lĩnh của doanh nghiệp trong nền kinh tế vốn dĩ đầy bất trắc và khắc nghiệt. Lợi nhuận còn là nguồn tích luỹ cơ bản để tái đầu tư và đầu tư mở rộng tại doanh nghiệp. Lợi nhuận là nguồn cải thiện đời sống, tăng thu nhập cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp.
Trong phạm vi nền kinh tế, lợi nhuận có ý nghĩa xã hội rất lớn: Nâng cao thu nhập của các tầng lớp dân cư, khuyến khích tiêu dùng, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, quyết định quá trình tái sản xuất mở rộng xã hội.
Vì vậy, tạo ra lợi nhuận là chức năng duy nhất của doanh nghiệp, lợi nhuận là chỉ tiêu vừa phản ánh kết quả và hiệu quả trong sản xuất kinh doanh.
2.4.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh
* Doanh thu/Lao động: Phản ánh số tiền thu bán hàng bình quân cho một lao động làm việc tại doanh nghiệp trong một thời gian nhất định (thường là một năm). Đây chính là chỉ tiêu tính năng suất lao động bình quân năm (NSLĐ BQ) theo doanh thu.
* Doanh thu/Vốn sản xuất: Phản ánh bình quân một đồng vốn sản xuất (bao gồm cả Vốn cố đinh và Vốn lưu động), trong một thời kỳ nhất định tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu.
- Doanh thu/Vốn cố định: Phản ánh một đồng vốn cố định trong một thời gian nhất định tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu.
- Doanh thu/Vốn lưu động: Phản ánh một đồng vốn lưu động trong một thời gian nhất định tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu.
* Lợi nhuận/Doanh thu: Là quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận với tổng doanh thu trong kỳ. Chỉ tiêu này phản ánh chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp: cứ mỗi đồng doanh thu trong một năm tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Lợi nhuận
Tsdt =
Doanh thu bán hàng
* Lợi nhuận/Chi phí: Là quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận với chi phí sản xuất sản phẩm, phản ánh cứ một đồng chi phí tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Lợi nhuận
Tz sx =
Tổng chi phí sản xuất
* Lợi nhuận/Vốn sản xuất: Là quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận đạt được với tổng số vốn bình quân trong kỳ (bao gồm vốn cố định bình quân và vốn lưu động bình quân). Phản ánh bình quân một đồng vốn bỏ ra trong kinh doanh thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Lợi nhuận
Tsv =
Vốn sản xuất bình quân
- Lợi nhuận/Vốn cố định: Là quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận với số vốn cố định bình quân trong năm. Phản ánh một đồng vốn cố định trong một năm tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Lợi nhuận
Tvcđ =
Vốn cố định bình quân
- Lợi nhuận/Vốn lưu động: Là quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận và số vốn lưu động bình quân trong năm, phản ánh một đồng vốn lưu động trong một năm tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Lợi nhuận
Tvlđ =
Vốn lưu động bình quân
2.5. CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
2.5.1. Tình hình xuất khẩu thuỷ sản trên thế giới
Thuỷ sản là một loại thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao (tỷ lệ đạm cao), nó đóng vai trò quan trọng đối với đời sống, sự tồn tại và phát triển của con người. Nhìn chung nhu cầu về dinh dưỡng trên thế giới ngày một tăng vì vậy để đáp ứng nhu cầu đó, xuất khẩu thuỷ sản đang là chiến lược của những nước có tiềm năng kinh tế biển.
Nếu xét trên bình diện toàn cầu, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản trên thế giới tăng mạnh qua các năm. Năm 1985 giá trị kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản trên thế giới đạt 17 tỷ USD; năm 1990 là 35,8 tỷ USD; năm 1994 đạt đến 47 tỷ USD và trong vài năm gần đây kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản trên thế giới đã đạt trên 60 tỷ USD. Điều đó cho thấy nhu cầu về thuỷ sản của thế giới không ngừng được nâng cao.
Trong số 10 nước dẫn đầu thế giới về nuôi trồng thuỷ sản, thì có tới 8 nước châu Á. Đứng đầu thế giới về nuôi trồng và xuất khẩu thuỷ sản vẫn là Trung Quốc, xếp thứ hai là Ấn Độ, Inđônexia và Việt Nam giữ vị trí thứ tư.
2.5.2. Tình hình sản xuất và xuất khẩu thuỷ sản ở Việt Nam
Tính đến năm 2006, cả nước đã có 439 nhà máy chế biến thuỷ sản xuất khẩu, trong đó có 171 doanh nghiệp được xếp vào danh sách xuất khẩu vào thị trường EU, 300 doanh nghiệp áp dụng quy trình quản lý chất lượng sản phẩm theo HACCP đủ tiêu chuẩn xuất khẩu vào thị trường Mỹ, 222 doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn xuất khẩu sản phẩm vào Hàn Quốc, 295 doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn xuất khẩu vào Trung Quốc... Những con số đó cho thấy sự trưởng thành của công nghiệp chế biến xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam cả về quy mô công nghệ, kỹ thuật và trình độ quản lý. Các doanh nghiệp chế biến thuỷ sản xuất khẩu Việt Nam đã đạt trình độ tiên tiến trong khu vực, đã tiếp cận, đáp ứng các yêu cầu về tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm khắt khe nhất của thị trường quốc tế.
Từ những thành tựu trong hoạt động khai thác và nuôi trồng thuỷ sản cộng với sự chuyển biến mạnh mẽ của các doanh nghiệp đã tạo nên thành tích to lớn trong lĩnh vực xuất khẩu thuỷ sản của nước ta. Hiện nay, thuỷ sản Việt Nam đã có mặt tại 105 nước và vùng lãnh thổ. Năm 2000 kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản đạt 1,47 tỷ USD; năm 2001 đạt 1,76 tỷ USD; năm 2003 kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản đã vượt 2,5 tỷ USD; năm 2004 kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản đạt 2,4 tỷ USD; năm 2005 đạt 2,65 tỷ USD, tăng 10,38% so với 2004.
PHẦN THỨ BA
TỔNG QUAN VỀ ĐỊA BÀN VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
3.1. TỔNG QUAN VỀ ĐỊA BÀN
3.1.1. Lịch sử ra đời và phát triển của Công ty
Nằm trên một vùng đất giàu truyền thống lịch sử, nơi diễn ra những chiến công hiển hách của cha ông ta, cách đây hơn 700 năm tại thị trấn Quảng Yên – huyện Yên Hưng – tỉnh Quảng Ninh đã diễn ra ba trận đánh Bạch Đằng lịch sử của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đánh đuổi quân Nguyên Mông khiếp hồn bạt vía, giữ yên bờ cõi.
Công ty cổ phần chế biến thực phẩm Hải Tân được thành lập tháng 2/1999 và đến tháng 12/1999 bắt đầu đi vào hoạt động, tiền thân ban đầu là xí nghiệp vừa và nhỏ mới đầu chỉ có 100 cán bộ công nhân viên trực tiếp và gián tiếp sản xuất. Cho đến nay, công ty đã phát triển và tăng thêm số cán bộ công nhân viên lên tới 382 người.
Công ty cổ phần chế biến thực phẩm Hải Tân có trụ sở nằm trên đường 10, xã Yên Giang – huyện Yên Hưng – tỉnh Quảng Ninh, trên khu đất rộng 20.000 m2.
Phía Bắc giáp quốc lộ 10.
Phía Nam giáp sông Bạch Đằng.
Phía Đông giáp quần đảo Hà Nam, Cát Bà, Cát Hải.
Phía Tây giáp Hải Phòng.
Với vị trí như vậy, rất thuận lợi cho việc thu mua, chế biến, tiêu thụ thuỷ hải sản của Công ty, tạo điều kiện cho Công ty ngày càng phát triển.
Tên giao dịch của Công ty: HATACO
Hoạt động của Công ty thuộc ngành công nghiệp chế biến thực phẩm, có đặc điểm khác với nhiều doanh nghiệp khác là sử dụng kết quả ngành nuôi trồng làm nguyên liệu đầu vào để chế biến nên sản xuất của công ty chịu ảnh hưởng khá lớn vào kết qủa của ngành nuôi trồng thuỷ sản.
Nhiệm vụ chủ yếu của công ty là thu mua, chế biến, xuất – nhập khẩu thuỷ sản, chế biến thức ăn cho tôm, kinh doanh công cụ đánh bắt như lưới, vó...
3.1.2. Bộ máy tổ chức và lao động của Công ty
Công ty cổ phần chế biến thực phẩm Hải Tân là một doanh nghiệp thực hiện chế độ hạch toán độc lập, có tư cách pháp nhân và có con dấu riêng. Công ty cung cấp cho thị trường trong và ngoài nước một số mặt hàng thực phẩm có chất lượng cao,đó là thuỷ hải sản đông lạnh. Do đặc điểm của công ty là vừa chế biến, vừa tiêu thụ nên đòi hỏi công tác quản lý phải bố trí một cách hợp lý để phù hợp với tình hình hoạt động SXKD mới đạt hiệu quả cao. Nhận thức được tầm quan trọng của bộ máy quản lý nên công ty đã nghiên cứu và bố trí tương đối hợp lý cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý sản xuất của công ty.
Qua sơ đồ 1 ta thấy cơ cấu tổ chức quản lý sản xuất của công ty gồm 2 bộ phận chính.
- Bộ phận quản lý gồm: Hội đồng quản trị, Giám đốc, Phó giám đốc và các phòng ban.
- Bộ phận sản xuất gồm: Phân xưởng chế biến và phân xưởng cơ điện lạnh.
Nhiệm vụ, chức năng của mỗi bộ phận như sau:
- Hội đồng quản trị do Đại hội cổ đông bầu ra, nhiệm kỳ hai năm một lần, gồm có 3 người, có nhiệm vụ xây dựng chiến lược kinh doanh, định hướng đầu tư, tổ chức bộ máy trong công ty.
- Giám đốc phụ trách chung, có nhiệm vụ chỉ đạo điều hành bộ máy tổ chức sản xuất theo định hướng đã được Hội đồng quản trị phê duyệt, là người đại diện hợp pháp của doanh nghiệp trước cơ quan Nhà nước.
HĐQT
Chủ tịch
HĐQT
Các Phó giám đốc
Giám đốc
điều hành
Phòng Kinh doanh
Phòng Tổ chức hành chính
Phòng kế toán
Phân xưởng chế biến
Phân xưởng cơ điện lạnh
Sơ đồ 1: Sơ đồ bộ máy quản lý sản xuất của Công ty
Ghi chú: + Quan hệ chỉ đạo trực tiếp
+ Quan hệ phối hợp
- Phó giám đốc phụ trách kỹ thuật chế biến có chức năng chỉ đạo kỹ thuật từ khâu thu mua nguyên liệu, bảo quản nguyên liệu, chế biến và bảo quản thành phẩm. Có nhiệm vụ xây dựng quy trình, cải tiến kỹ thuật chế biến và xây dựng hệ thống định mức kỹ thuật trong chế biến
- Phòng kinh doanh
+ Có nhiệm vụ kết hợp với phó giám đốc thu mua nguyên liệu, đảm bảo cả về số lượng và chất lượng phục vụ cho chế biến, xác định phương thức thu mua hợp lý, tổ chức vận chuyển nhanh, thanh toán gọn đảm bảo uy tín cho công ty. Mặt khác, nghiên cứu khảo sát vùng nguyên liệu tham mưu cho giám đốc xây dựng kế hoạch thu mua nguyên liệu và chế biến của công ty.
+ Thực hiện tiêu thụ sản phẩm, ký kết hợp đồng tiêu thụ sản phẩm, tổ chức vận chuyển đảm bảo quá trình tiêu thụ sản phẩm tiến hành nhanh chóng, kịp thời; thăm dò khai thác thị trường, thông tin giá cả, xác định nhu cầu thị trường để tham mưu cho giám đốc xây dựng kế hoạch sản xuất.
- Phòng kế toán
Có nhiệm vụ tổ chức công tác hạch toán kế toán – thống kê theo quy định của pháp luật và yêu cầu quản lý của công ty, cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác và kịp thời tình hình tài sản, tiền vốn, kết quả SXKD và đề xuất những những biện pháp quản lý tài chính nhằm nâng cao hiệu quả SXKD, thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước, cán bộ công nhân viên và các cổ đông.
- Phòng Tổ chức hành chính có chức năng đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ cho người lao động, có nhiệm vụ xây dựng kế hoạch công tác, bộ máy quản lý và tổ chức sản xuất theo nhiệm vụ SXKD của công ty để đạt được hiệu quả cao, quy hoạch đội ngũ cán bộ, đào tạo, tuyển dụng cán bộ, xây dựng nội quy, quy chế SXKD, thực hiện các chế độ về lương, BHXH, BHYT… Đồng thời trực tiếp giám sát lao động trong quá trình sản xuất của công ty để có mức thưởng, phạt hợp lý, đảm bảo thực hiện tốt luật lao động.
- Phân xưởng chế biến có nhiệm vụ thực hiện chế biến thuỷ sản theo quy trình đã định và đảm bảo sản phẩm sản xuất ra có chất lượng tốt.
- Phân xưởng cơ điện lạnh có nhiệm vụ cung cấp nước đá, duy trì hoạt động máy móc đảm bảo điều kiện cho phân xưởng chế biến hoạt động.
Cả phân xưởng chế biến và phân xưởng cơ điện lạnh đều có ban quản đốc, bộ phận KCS và thống kê phân xưởng.
Nhìn chung, công ty sử dụng mô hình tổ chức quản lý theo kiểu trực tuyến, hợp lý và khoa học, phù hợp với đặc điểm SXKD của công ty, xoá bỏ khâu trung gian, phân công rõ trách nhiệm, thực sự phát huy hiệu quả lao động của mỗi cá nhân và của từng phòng ban, phân xưởng.
3.1.3. Tình hình lao động của Công ty
Lao động là yếu tố năng động nhất của nguồn lực, đồng thời là yếu tố đầu vào không thể thiếu đối với sản xuất. Do vậy, công tác quản lý và bố trí nhân lực được lãnh đạo công ty rất quan tâm. Lao động được sắp xếp sử dụng hợp lý, đúng khả năng trình độ của người lao động, tạo điều kiện để nâng cao năng suất lao động, hiệu suất công tác, giảm chi phí lao động sống trong mỗi đơn vị sản phẩm, hạ giá thành sản phẩm. Hoạt động chủ yếu của công ty là thu mua và chế biến các sản phẩm thuỷ hải sản dưới dạng đông lạnh, do đó lao động của công ty có đặc điểm rất khác biệt so với lao động của các doanh nghiệp khác.
- Có nhiều công việc nặng nhọc: Thu mua nguyên liệu ở các cảng, công việc thu mua thường vào ban đêm đòi hỏi phải làm việc vào buổi đêm, cần nam giới có sức khoẻ tốt, nhanh nhẹn, xốc vác.
- Có khâu công việc cần sự khéo léo, nhanh nhẹn song vẫn phải cẩn thận như sơ chế, chế biến, đóng gói… rất phù hợp với lao động nữ.
Bảng 1: Tình hình lao động của Công ty qua 3 năm (2003 – 2005)
Chỉ tiêu
2003
2004
2005
So sánh (%)
SL
(người)
CC (%)
SL
(người)
CC (%)
SL
(người)
CC (%)
04/03
05/04
BQ
Tổng số lao động
317
100,00
400
100,00
382
100,00
126,18
95,50
109,77
I. Theo hình thức tuyển dụng
+ Lao động hợp đồng ngắn hạn
218
68,77
301
75,25
284
74,35
138,07
94,35
114,13
+ Lao động hợp đồng dài hạn
99
31,23
99
24,75
98
25,65
100,00
98,98
99,49
II. Trình độ chuyên môn
+ Đại học và cao đẳng
10
3,15
11
2,75
11
2,88
110,00
100,00
104,88
+ Trung cấp
8
2,52
10
2,50
9
2,35
125,00
90,00
106,07
+ Công nhân kỹ thuật
14
4,42
14
3,50
15
3,93
100,00
107,14
103,51
+ Lao động phổ thông
285
89,91
365
91,25
347
90,84
128,07
95,06
110,34
III. Tính chất công việc
+ Lao động trực tiếp
275
86,75
358
89,50
343
89,79
130,18
95,81
111,68
+ Lao động gián tiếp
42
13,25
42
10,50
39
10,21
100,00
92,85
96,36
Nguồn: Phòng Tổ chức hành chính của công ty
Qua bảng 1 cho thấy: Trong 3 năm (2003 - 2005), lao động của công ty có sự biến động rõ rệt. Bình quân mỗi năm lao động tăng 9,77%. Năm 2003 có 317 người, năm 2004 có 400 người tăng so với năm 2003 là 26,18% (tăng 83 người). Nhưng năm 2005 so với năm 2004 tổng số lao động của công ty lại giảm 4,5% cụ thể giảm 18 lao động và chỉ còn 382 người.
Xét theo tính chất công việc: Lao động trực tiếp của công ty liên tục tăng, bình quân mỗi năm tăng 11,68%, làm cho cơ cấu lao động trực tiếp từ 86,75% (năm 2003) tăng lên 89,50% (năm 2004) và tăng lên tới 89,79% (năm 2005). Tỷ trọng lao động gián tiếp có xu hướng giảm từ 13,25% (năm 2003) xuống còn 10,50% (năm 2004) và xuống 10,21% (năm 2005). Điều đó chứng tỏ công ty chú trọng bố trí lao động vào các khâu sản xuất trực tiếp tạo ra sản phẩm, lao động gián tiếp giảm cả về số tuyệt đối và tỷ trọng. Điều này phù hợp với cơ chế mới và phù hợp với việc chuyển đổi bộ máy quản lý theo hướng chuyên tinh gọn nhẹ. Những tháng có khối lượng công việc lớn cần thực hiện giao hàng theo tiến độ kế hoạch, công ty huy động hết lực lượng lao động hiện có, kể cả lao động gián tiếp xuống phân xưởng cùng sản xuất với công nhân.
Xét theo trình độ chuyên môn của lao động: Lao động có trình độ đại học và cao đẳng của công ty nhìn chung biến động không đáng kể. Năm 2003 là 3,15%; năm 2004 là 2,75% và xuống 2,88% vào năm 2005. Lao động có trình độ trung cấp và công nhân kỹ thuật có sự biến động nhẹ, bình quân trong 3 năm tăng lần lượt là 6,07% và 3,51%. Lao động phổ thông chiếm phần lớn trong tổng số lao động, chiếm 89,91% năm 2003, chiếm 91,25 năm 2004 và 90,84% năm 2005.
Xét theo hình thức tuyển dụng: Lao động của công ty có sự biến động tương đối vì số lao động hợp đồng ngắn hạn chiếm 70%, còn lại 30% là lao động hợp đồng dài hạn nên sự gắn bó của công nhân với công ty chưa thật sâu sắc. Công ty cần có những chế độ và phương pháp quản lý thích hợp đối với công nhân để tạo cho công nhân có sự gắn bó lâu dài với công ty.
Qua tìm hiểu công ty cổ phần chế biến thực phẩm Hải Tân chúng tôi nhận thấy:
+ Công ty luôn quan tâm đến việc đào tạo nâng cao trình độ tay nghề cho cán bộ công nhân viên thông qua việc tổ chức đào tạo tại chỗ, thi tay nghề, cử các lao động trẻ có khả năng tiếp thu tốt đi học các lớp đào tạo ngắn hạn và dài hạn.
+ Công ty thực hiện hình thức trả lương khoán với hệ thống định mức khoán cụ thể cho từng công việc, khuyến khích người lao động tích cực hoàn thành nhiệm vụ bằng cách trả lương theo số lượng và chất lượng sản phẩm hoàn thành, có bình xét thi đua hàng tháng. Đời sống của cán bộ công nhân viên trong công ty cũng không ngừng được nâng cao cùng với sự phát triển của sản xuất. Các chế độ BHXH, BHYT, bảo hộ lao động và các chế độ khác như nghỉ ngày lễ tết, ốm đau thai sản... công ty đều thực hiện theo chế độ hiện hành của Nhà nước.
3.1.4. Cơ sở vật chất kỹ thuật của Công ty
3.1.4.1. Cơ sở hạ tầng của Công ty
Công ty cổ phần chế biến thực phẩm Hải Tân được xây dựng trên diện tích 20.000 m2. Trong đó diện tích nhà xưởng sản xuất là 3.032 m2.
Cơ sở hạ tầng khác phục vụ cho chế biến gồm các hệ thống thiết bị truyền dẫn bao gồm một trạm biến thế 560 KVA phục vụ cho công ty hoạt động. Ngoài nhu cầu về điện, nước cũng là một yếu tố quan trọng, đặc biệt đối với doanh nghiệp hoạt động chế biến thuỷ sản. Hệ thống cấp thoát nước của công ty gồm 2 trạm bơm với công suất 20 m3/h đáp ứng không những tốt về số lượng mà cả về chất lượng góp phần đảm bảo, nâng cao vệ sinh an toàn thực phẩm cho sản phẩm của công ty.
3.1.4.2. Điều kiện máy móc phục vụ chế biến của Công ty
Ngay từ khi mới thành lập (2/1999), ngoài hệ thống máy móc đã có từ trước công ty cổ phần chế biến thực phẩm Hải Tân đã đầu tư thêm một số hệ thống máy móc thiết bị đồng bộ ngoại nhập để phục vụ tốt nhất cho quá trình chế biến thuỷ sản của công ty.
Hệ thống máy móc và dây truyền phục vụ cho chế biến của công ty được thể hiện qua bảng 2.
Qua bảng 2 ta thấy: Mặc dù công ty cổ phần chế biến thực phẩm Hải Tân là một công ty nhỏ nhưng hệ thống máy móc thiết bị phục vụ cho sản xuất tương đối hiện đại và đầy đủ.
Ngoài việc sản xuất đá phục vụ cho chế biến còn phải phục vụ cho việc thu mua và bảo quản nguyên liệu. Đây chính là đặc trưng của ngành chế biến thuỷ sản.
- Máy sản xuất đá, hiện nay công ty có 2 máy sản xuất đá, máy đá vẩy với công suất là 10 tấn/ngày, máy đá tấm với công suất là 7 tấn/ngày phục vụ cho quá trình bảo quản nguyên liệu và sản xuất. Tuy nhiên vào những tháng mùa vụ, sản xuất cần rất nhiều đá, 2 máy sản xuất đá của công ty làm việc hết công suất vẫn không đủ phục vụ. Để khắc phục tình trạng này, công ty phải mua đá của công ty thuỷ sản (II), thậm chí phải mua cả của dân để đảm bảo cho quá trình sản xuất được diễn ra liên tục.
- Phòng tiền đông: Thuỷ hải sản sau khi được sơ chế, phân loại sẽ được đưa vào phòng tiền đông để giữ cho nguyên liệu được tươi. Công ty có một phòng tiền đông với công suất là 10 tấn.
- Tủ đông: Sản phẩm sau khi được phân loại theo kích cỡ, đóng gói được đưa vào tủ đông để làm đông lạnh. Hiện nay, công ty có 2 loại tủ đông.
+ 2 Tủ đông Plate, với công suất mỗi tủ là 760 kg/h.
+ 1 tủ đông IQF có công suất là 500 kg/h đảm bảo chất lượng thành phẩm.
- Kho trữ: Công ty có 2 kho trữ với thể tích kho trữ (I) là 70 tấn, kho trữ (II) là 200 tấn. Đảm bảo cho quá trình bảo quản thành phẩm trước khi tiêu thụ.
Bảng 2: Cơ sở vật chất phục vụ chế biến
STT
Tên thiết bị
ĐVT
Số lượng
Công suất
1
Máy đá vẩy
Cái
1
10 tấn / ngày
2
Máy đá tấm
Cái
1
7 tấn / ngày
3
Phòng tiền đông
Cái
1
10 tấn
4
Tủ đông Plate
Cái
2
760 kg / h
5
Tủ đông IQF
Cái
1
500 kg / h
6
Kho trữ 1
Cái
1
70 tấn
7
Kho trữ 2
Cái
1
200 tấn
8
Máy hút chân không
Cái
1
5 m3 / h
9
Hệ thống điều hoà nhiệt độ
Cái
1
9000 BTU
10
Hệ thống điều hoà không khí
Cái
1
216000 Kcal / h
11
Máy xay đá
Cái
2
2 tấn / h
12
Lò hơi
Cái
1
350 kg / h
13
Máy xay
Cái
2
50 kg / h
14
Máy trộn
Cái
2
50 kg / h
Nguồn : Phòng Kế toán của công ty
3.1.5. Tình hình nguồn vốn của Công ty
Vốn là yếu tố không thể thiếu đối với bất cứ doanh nghiệp nào khi hoạt động SXKD. Nó là một trong những yếu tố cơ bản trong SXKD. Do vậy, tạo nguồn vốn, quản lý và sử dụng vốn là một trong những nội dung nhằm đảm bảo cho quá trình SXKD tiến hành liên tục và đạt hiệu quả kinh tế cao.
Tình hình biến động vốn và sử dụng vốn của công ty 3 năm qua được thể hiện qua bảng 3.
Bảng 3: Tình hình sử dụng vốn của Công ty qua 3 năm (2003 – 2005)
Chỉ tiêu
2003
2004
2005
So sánh (%)
Giá trị
(1000đ)
Cơ cấu
(%)
Giá trị
(1000đ)
Cơ cấu
(%)
Giá trị
(1000đ)
Cơ cấu
(%)
04/03
05/04
BQ
Tổng nguồn vốn
7.749.235
100,00
5.721.463
100,00
5.932.242
100,00
73,83
103,68
87,49
I. Nợ phải trả
5.825.679
75,18
3.765.550
65,81
3.956.111
66,69
64,64
105,06
82,41
1. Nợ ngắn hạn
3.305.857
56,75
1.243.082
33,01
2.606.798
65,89
37,60
209,70
88,79
2. Nợ dài hạn
2.329.575
39,99
2.219.880
58,95
1.200.000
30,33
95,29
54,06
71,77
3. Nợ khác
190.247
3,26
302.588
8,04
149.313
3,78
159,05
49,35
88,59
II. Nguồn vốn chủ sở hữu
1.923.556
24,82
1.955.913
34,19
1.976.131
33,31
101,68
101,03
101,35
1. Nguồn vốn SXKD
1.883.111
97,90
1.889.132
96,59
1.939.990
98,17
100,32
102,69
101,49
2.Các quỹ khác
40.445
2,10
66.781
3,41
36.141
1,83
165,12
54,12
94,53
Nguồn: Phòng Kế toán của công ty
Qua bảng 3 ta thấy: Tổng nguồn vốn của công ty năm 2003 là 7.749.235 nghìn đồng. Trong đó gồm vốn chủ sở hữu là 1.923.556 nghìn đồng, chiếm 24,82% tổng nguồn vốn của công ty; nợ phải trả là 5.825.679 nghìn đồng, chiếm 75,18% tổng nguồn vốn của công ty. Nợ phải trả của công ty phần lớn là nợ ngắn hạn 3.305.857 nghìn đồng, chiếm 56,75% nợ phải trả; nợ dài hạn chiếm 39,99% nợ phải trả, tức là 2.329.575 nghìn đồng; nợ khác chiếm 3,26% tương đương với 190.247 nghìn đồng. Nguồn vốn chủ sở hữu chủ yếu là nguồn vốn SXKD chiếm 97,90%; các quỹ khác chiếm 2,10% nguồn vốn chủ sở hữu. Như vậy, trong cơ cấu nguồn vốn năm 2003, vốn chủ sở hữu chỉ chiếm 24,82% còn lại 75,18% là nợ phải trả. Điều đó cho thấy công ty phải vay số vốn lớn, kể cả vay ngắn hạn cũng như dài hạn, chi phí tiền lãi phải trả là khá lớn, sẽ ảnh hưởng đến kết quả SXKD.
Năm 2004, tổng nguồn vốn của công ty giảm 26,17% so với năm 2003 chỉ còn 5.721.463 nghìn đồng. Mặt khác nợ phải trả của công ty giảm tương đối nhiều so với năm 2003. Năm 2004, nợ phải trả của công ty chỉ còn 3.765.550 nghìn đồng, bằng 64,64% so với năm 2003. Trong cơ cấu nợ phải trả chủ yếu là nợ dài hạn chiếm 58,95%, nợ ngắn hạn so với năm 2003 giảm 62,4%, chiếm 33,01% nợ phải trả của công ty. So với năm 2003, nguồn vốn chủ sở hữu của công ty tăng 1,68%, trong đó nguồn vốn SXKD tăng 0,32%, các quỹ tăng 165,12%.
Năm 2005, tổng nguồn vốn của công ty tăng so với năm 2004 là 3,68%. Trong đó nợ phải trả tăng 5,06%, vốn chủ sở hữu tăng 1,03%. Xét trong cơ cấu nợ phải trả của công ty năm 2005 thì nợ ngắn hạn tăng hơn 2 lần so với năm 2004 chiếm 65,89% tổng nợ phải trả, nhưng nợ dài hạn của công ty lại giảm 45,94%, chiếm 30,33% tổng nợ phải trả.
Qua phân tích cho thấy tổng nguồn vốn của công ty có sự biến động mạnh qua các năm. Vì nợ phải trả của công ty bình quân qua 3 năm giảm 17,59%, trong đó nợ dài hạn liên tục giảm qua các năm, bình quân giảm 28,23%. Về nguồn vốn chủ sở hữu của công ty luôn tăng qua các năm, bình quân qua 3 năm tăng 1,35%. Điều này cho thấy công ty hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả, nhưng tổng nguồn vốn của công ty còn có sự biến động giảm (chưa bảo toàn được vốn). Vì vậy, công ty cần có các biện pháp quản lý sử dụng vốn một cách có hiệu quả hơn.
Một số nhận xét sau khi nghiên cứu tình hình cơ bản của công ty cổ phần chế biến thực phẩm Hải Tân.
- Công ty có vị trí rất thuận lợi, nằm trên trục đường chính nối Hải Phòng với Quảng Ninh, mặt bằng của công ty rất rộng 20.000 m2. Thị trường cung cấp nguyên liệu dồi dào, tiết kiệm được chi phí vận chuyển nguyên liệu.
- Công ty có nguồn lao động tương đối ổn định. Cán bộ quản lý dày dạn kinh nghiệm trong thu mua, chế biến và tiêu thụ sản phẩm thuỷ sản đông lạnh.
- Từ khi thành lập đến nay, công ty đã đáp ứng được nhu cầu thị trường về số lượng cũng như chất lượng sản phẩm và công ty hoạt động đạt hiệu quả.
- Sản phẩm chủ yếu của công ty là tôm, mực, cá đông lạnh và các chế phẩm từ tôm và mực.
- Thị trường tiêu thụ sản phẩm chủ yếu là xuất khẩu sang Nhật, Trung Quốc và những đô thị lớn ở trong nước.
3.1.6. Tình hình tài sản của Công ty
Để tiến hành hoạt động SXKD, các doanh nghiệp, đơn vị cần phải có tài sản bao gồm tài sản lưu động (TSLĐ) và tài sản cố định (TSCĐ), để đảm bảo đầy đủ nhu cầu về tài sản là vấn đề cốt yếu để đảm bảo cho quá trình SXKD được tiến hành liên tục và có hiệu qủa. Tình hình tài sản và cơ cấu tài sản của công ty được thể hiện qua bảng 4.
Bảng 4: Tình hình tài sản của Công ty qua 3 năm (2003 - 2005)
Chỉ tiêu
2003
2004
2005
So sánh (%)
Giá trị
(1000đ)
Cơ cấu
(%)
Giá trị
(1000đ)
Cơ cấu
(%)
Giá trị
(1000đ)
Cơ cấu
(%)
04/03
05/04
BQ
Tổng tài sản
7.749.235
100,00
5.721.463
100,00
5.932.242
100,00
73,83
103,68
87,49
I. TSLĐ và Đầu tư ngắn hạn
2.906.519
37,51
2.721.699
34,39
3.306.242
55,73
93,64
121,48
106,65
1.Tiền
680.750
23,42
936.039
34,39
1.303.764
39,43
137,50
139,28
138,39
2. Các khoản phải thu
1.627.534
55,99
1.292.638
47,49
1.430.401
43,26
79,42
110,66
93,75
3. Hàng tồn kho
295.823
10,18
362.197
13,31
550.323
16,64
122,44
151,94
136,39
4. TSLĐ khác
302.412
10,41
130.825
4,81
21.754
0,67
43,26
16,63
26,82
II. TSCĐ và Đầu tư dài hạn
4.842.716
62,49
2.999.764
52,43
2.626.000
44,27
61,94
87,54
73,63
1. TSCĐ
4.835.716
99,86
2.992.764
99,77
2.619.000
99,73
61,89
87,51
73,59
2. Đầu tư dài hạn
7.000
0,14
7000
0,23
7000
0,27
100,00
100,00
100,00
Nguồn: Phòng Kế toán của công ty
Qua bảng 4 thấy: Tổng giá trị tài sản của công ty năm 2004 so với năm 2003 giảm 26,17% nhưng năm 2005 so với năm 2004 lại tăng 3,68%. Bình quân 3 năm giảm 12,51%.
Tài sản cố định (TSCĐ): Nhìn chung những năm qua tài sản của công ty luôn biến động giảm cả về giá trị và tỷ trọng. Năm 2003, TSCĐ và Đầu tư dài hạn chiếm 62,49% tổng giá trị tài sản của công ty. Năm 2004 so với năm 2003 giảm 38,06% và chiếm 52,43% tổng giá trị tài sản; so với năm 2004, TSCĐ và Đầu tư dài hạn năm 2005 giảm 12,46%, chiếm 44,27% tổng giá trị tài sản của công ty. Sở dĩ có sự giảm mạnh như vậy là do trong 3 năm công ty chưa được đầu tư, trang bị, đổi mới máy móc nhưng trong quá trình hoạt động công ty vẫn phải trích khấu hao để trả nợ.
Tài sản lưu động (TSLĐ) và Đầu tư ngắn hạn của công ty những năm qua có sự biến động mạnh. Năm 2003 tài sản lưu động chiếm 37,51% tổng giá trị tài sản của công ty. Năm 2004 so với năm 2003 tài sản lưu động của công ty giảm 6,36% nhưng về tỷ trọng tăng, chiếm 34,39% tổng tài sản của công ty. Năm 2005 so với năm 2004 tài sản lưu động của công ty tăng cả về giá trị và tỷ trọng (tăng 21,48%) chiếm 55,73% tổng giá trị tài sản của công ty, bình quân 3 năm tài sản lưu động của công ty tăng 6,65%. Nhưng trong cơ cấu tài sản lưu động các khoản phải thu chiếm 55,99% trong tài sản lưu động (năm 2003), năm 2004 so với năm 2003 giảm 20,58% chiếm 47,49% tài sản lưu động, năm 2005 so với năm 2004 tăng 10,66% chiếm 43,26% tài sản lưu động của công ty. Như vậy, công ty bị chiếm dụng khá nhiều vốn trong tổng tài sản. Điều này đòi hỏi công ty phải có các biện pháp phù hợp để làm sao giảm bớt được các khoản phải thu trong thời gian tới.
Qua phân tích cho thấy tài sản cố định của công ty biến động giảm qua các năm, điều này cho thấy công ty còn bị hạn chế trong việc đổi mới công nghệ. Tài sản của công ty có sự biến động tăng, giảm qua các năm, nhưng về tỷ trọng thì tăng dần qua các năm. Điều này cho thấy công ty từng bước chủ động về vốn trong sản xuất kinh doanh.
3.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.2.1. Phương pháp nghiên cứu
3.2.1.1. Phương pháp thống kê kinh tế: Đây là phương pháp được dùng phổ biến trong nghiên cứu hoạt động kinh tế – xã hội. Thực chất của phương pháp này là tổ chức điều tra thu thập tài liệu trên cơ sở quan sát số lớn, tổng hợp và hệ thống hóa các tài liệu đã thu thập được bằng các biện pháp phân tổ thống kê, biểu đồ thống kê. Sử dụng các phương pháp phân tích thống kê như phân tích mức độ hiện tượng, phương pháp so sánh, phương pháp chỉ số để nêu bật tình hình biến động về hiện tượng kinh tế.
3.2.1.2. Phương pháp phân tích kinh doanh: Dựa vào tài liệu đã thu thập về tình hình SXKD của công ty trong thời gian 3 năm, tính toán và phân tích các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh tế, phân tích mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến hiệu quả kinh tế.
3.2.1.3. Phương pháp dự tính, dự báo: Dựa trên cơ sở phân tích thực trạng và tốc độ phát triển hiện tại, dựa trên các tiềm năng về nguồn lực (thị trường, vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật, lao động) để dự kiến xu hướng, tốc độ biến động về hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp trong tương lai.
3.2.2. Phương pháp cụ thể
3.2.2.1. Phương pháp thu thập tài liệu
Tài liệu thứ cấp: Đây là nguồn tài liệu có vị trí rất quan trọng, là nguồn tài liệu không thể thiếu trong quá trình nghiên cứu. Tài liệu này thu thập được chủ yếu thông qua sách báo, niên giám thống kê, các báo cáo chuyên đề, báo cáo tổng kết, đặc biệt là nguồn tài liệu lưu trữ của bộ phận thống kê kế toán, bộ phận kinh doanh, tổ chức hành chính, các tài liệu ở công ty cổ phần chế biến thực phẩm Hải Tân, các tài liệu về chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước trong chế biến thực phẩm.
Tài liệu sơ cấp: Tài liệu này thu thập được thông qua điều tra thực tiễn tình hình sản xuất ở phân xưởng, phương thức tổ chức sản xuất, tổ chức quản lý ở công ty.
3.2.2.2. Phương pháp so sánh
Phương pháp so sánh là một trong những phương pháp cơ bản của phân tích thống kê. Đây là phương pháp được sử dụng lâu đời và phổ biến nhất thông qua việc đối chiếu, so sánh các chỉ tiêu, các hiện tượng kinh tế đã được lượng hoá có cùng nội dung, một tính chất tương tự để xác định xu hướng, mức độ biến động của chỉ tiêu. Trên cơ sở đó đánh giá các mặt phát triển hay kém phát triển, hiệu quả hay kém hiệu quả để tìm ra các giải pháp tối ưu trong từng trường hợp.
Tóm lại: Qua việc sử dụng tổng hợp các phương pháp trên, nêu bật một cách cụ thể, rõ ràng bản chất hiệu quả kinh tế ở công ty trong 3 năm (2003 – 2005), nhận thức rõ ràng những ưu điểm và nguyên nhân tồn tại, dự báo xu hướng phát triển trong thời gian tới, trên cơ sở căn cứ khoa học đề xuất những biện pháp nâng cao hiệu quả kinh tế ở doanh nghiệp.
PHẦN THƯ TƯ
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1. THỰC TRẠNG SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA CÔNG TY QUA 3 NĂM (2003 – 2005)
4.1.1. Đặc điểm kinh tế kỹ thuật trong chế biến thuỷ sản đông lạnh
4.1.1.1. Đặc điểm của hoạt động chế biến thuỷ sản đông lạnh
- Nguyên liệu chính dùng để chế biến là thuỷ hải sản tươi sống hoàn toàn phụ thuộc vào nguồn cung cấp ở thị trường trong nước. Số lượng, chất lượng, giá cả nguyên liệu có ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả và hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Do đặc điểm của nguyên liệu là những sinh vật sống, quá trình thu mua phải ăn khớp nhịp nhàng với quá trình sản xuất (nguyên liệu không thể dự trữ với quy mô lớn và thời gian lâu như là sản xuất các sản phẩm khác), cho nên số lượng nguyên liệu thu mua phải căn cứ vào khả năng sản xuất và khả năng tiêu thụ sản phẩm trên thị trường.
+ Chất lượng nguyên liệu có ảnh hưởng quyết định đến chất lượng sản phẩm. Do vậy, nguyên liệu phải được tuyển chọn kỹ trước khi đưa vào sản xuất.
+ Giá cả nguyên liệu lên xuống hàng ngày, theo từng vùng, từng mùa vụ khai thác đòi hỏi doanh nghiệp cần thường xuyên thăm dò khảo sát để xác định giá thu mua sát với giá thị trường.
- Công nghệ chế biến thuỷ sản có ảnh hưởng rất quan trọng đến kết quả và hiệu quả SXKD. Công nghệ tiến bộ góp phần nâng cao chất lượng, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm (VSATTP), mẫu mã chủng loại sản phẩm đa dạng phong phú, chi phí chế biến thấp. Công nghệ lạc hậu thì VSATTP không đảm bảo, mẫu mã đơn điệu, chi phí chế biến cao, hiệu quả SXKD thấp.
- Về mặt tiêu thụ sản phẩm thuỷ sản có đặc điểm: Tiêu thụ trong nước phụ thuộc rất lớn vào tập quán tiêu dùng của người Việt Nam (chủ yếu tiêu thụ sản phẩm tươi sống). Sản phẩm thuỷ sản đã qua chế biến mới chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong thực phẩm tiêu dùng trong nước, tập trung ở các đô thị lớn, khu công nghiệp, khu chế xuất có mật độ đông dân cư, mức thu nhập cao hơn và đòi hỏi chất lượng chế biến cao, có thể tiêu dùng được ngay. Do vậy, sản phẩm thuỷ hải sản đông lạnh chủ yếu phục vụ cho xuất khẩu. Thị trường xuất khẩu chịu sự cạnh tranh của các sản phẩm cùng loại ở khu vực và thế giới về chất lượng, mẫu mã, giá cả và VSATTP.
4.1.1.2. Đặc điểm quy trình công nghệ chế biến thuỷ hải sản đông lạnh
Công nghệ chế biến thuỷ hải sản đông lạnh tại công ty cổ phần chế biến thực phẩm Hải Tân là một quy trình sản xuất bán tự động, liên tục qua nhiều công đoạn với nhiều khâu chế biến khác nhau. Nguyên liệu chính để chế biến thuỷ sản đông lạnh là các loại tôm, cá, ghẹ và thuỷ sản khác. Có thể khái quát quy trình sản xuất chế biến thuỷ sản của công ty qua sơ đồ 2.
Thuỷ sản tươi sống
Bán thành phẩm
Cấp đông
T = - 450C
Thành phẩm bảo quản kho lạnh
T = - 180C -150C
Sơ chế
Phân loại,
cỡ hạng
xếp khuôn
Ra đông,
đóng gói
Xuất bán
Sơ đồ 2: Quy trình công nghệ chế biến thuỷ sản đông lạnh
Thuỷ sản tươi sống trong đó tôm là loại nguyên liệu chủ yếu được đưa vào chế biến, bao gồm các loại tôm:
Tôm he Tôm sắt
Tôm bột Tôm sú
Ngoài ra công ty còn chế biến một số thuỷ sản khác như :
Cá gồm cá thu, cá lục, cá nhòng.
Ghẹ có ghẹ nâu mảnh và xanh mảnh.
Thuỷ sản khác có: mực, ngao, sò, vạng, ngán, bề bề...
Nguyên liệu trên được đưa vào chế biến, sản phẩm đông lạnh gồm 4 nhóm hàng chính
+ Tôm đông lạnh
+ Cá đông lạnh
+ Ghẹ đông lạnh
+ Thuỷ sản khác đông lạnh
Tôm là loại nguyên liệu chủ yếu được đưa vào chế biến như sau: Trước khi nhập kho nguyên liệu, tôm được rửa sạch và bảo quản trong các bể lạnh và để đảm bảo độ tươi sống cho nguyên liệu, thời gian lưu kho không quá 45 giờ.
Quy trình sản xuất tôm được thể hiện theo sơ đồ 2 bao gồm 4 giai đoạn chủ yếu sau:
- Giai đoạn 1: giai đoạn sơ chế
Tôm được bảo quản trong bể lạnh được xuất ra chế biến vào giai đoạn 1 tức là sơ chế. Công nhân được bố trí 6 người 1 bàn và chế biến theo từng loại tôm.
+ Loại nguyên con (ký hiệu là HOSO) là những con tôm tươi, không giãn đốt, rửa sạch và chuyển sang bàn phân cỡ hạng.
+ Loại bỏ đầu (A1) là những con tôm không còn được tươi song vẫn còn màu sắc tự nhiên, không giãn đốt được ghỡ bỏ đầu và chuyển sang bàn phân cỡ hạng.
+ Loại bóc vỏ, bỏ đầu, rút ruột (A2) là những con tôm không còn màu sắc tự nhiên, đã bị giãn đốt được bóc vỏ, bỏ đầu, rút ruột và chuyển sang bàn phân cỡ hạng.
Sản phẩm của giai đoạn sơ chế là tôm bán thành phẩm được chuyển sang giai đoạn 2.
- Giai đoạn 2: Phân cỡ hạng
Tất cả các loại tôm sau khi qua sơ chế được chuyển sang bàn phân cỡ hạng. Phân hạng thì tiêu chuẩn căn cứ vào độ tươi sống của sản phẩm mà phân thành hạng 1 và hạng 2 (xem bảng 5).
Phân cỡ là tính số con/1 kg
ví dụ: 8 – 12 con/kg
- Giai đoạn 3: giai đoạn xếp khuôn
Sau khi phân cỡ hạng, tôm được tiến hành vào khuôn theo từng cỡ, loại và đổ nước vào để cấp đông ở nhiệt độ – 450C. Sau 5 giờ thì bộ phận ra khuôn tiến hành ra đông. Mỗi khuôn được gọi là 1 Block.
- Giai đoạn 4: Ra đông, đóng gói và bảo quản thành phẩm
Sau khi được tách khuôn thì thành phẩm được đưa vào túi PE dán kín miệng cho vào đóng kiện theo từng loại, từng cỡ hạng và đưa vào bảo quản tại kho thành phẩm trước khi tiêu thụ ở nhiệt độ -180C.
Ngoài các mặt hàng trên, công ty còn tiến hành sản xuất các mặt hàng cao cấp như:
+ Tôm sạch, là loại tôm được sản xuất ở phòng vô trùng.
+ Tôm xay, sau khi tiến hành bóc vỏ, bỏ đầu, rút ruột ở phòng vô trùng. Tôm được tiến hành xay nhỏ, trộn với vật liệu phụ, các gia vị và được chế biến thành các thành phẩm có giá trị như trả tôm, nem tôm... Đó đều là những thành phẩm có chất lượng cao mà người tiêu dùng ưa thích.
Đặc điểm của sản phẩm đông lạnh
Các loại thuỷ sản được tiến hành sản xuất trên cùng 1 dây truyền sản xuất. Sau khi chế biến sản phẩm đòi hỏi phải có một chế độ bảo quản nghiêm ngặt, chặt chẽ.
Bảng 5: Bảng phân cỡ hạng tôm
Hạng
Cỡ (con/kg)
Hạng
Cỡ (con/kg)
Hạng 1 (H1)
6 - 8
8 - 12
13 - 15
16 - 20
21 - 25
26 - 30
31 - 40
41 - 50
51 - 60
61 - 70
71 - 90
91 - 120
100 - 200
200 - 300
300 - 500
Brocken
Hạng (H2)
6 - 8
8 - 12
13 - 15
16 - 20
21 - 25
26 - 30
31 - 40
41 - 50
51 - 60
61 - 70
71 - 90
91 - 120
100 - 200
200 - 300
300 - 500
Brocken
Nguồn: Phòng Kế toán của công ty
Ghi chú: Hạng1 ( H1 ) là loại còn màu sắc tự nhiên.
Hạng 2 ( H2 ) là loại không còn màu sắc tự nhiên.
Brocken là loại tôm vụn.
4.1.2. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh
4.1.2.1. Tình hình thu mua nguyên liệu cho sản xuất
Công ty xác định rõ ràng là: Muốn sản xuất kinh doanh ổn định, có hiệu quả trước hết phải tổ chức thật tốt khâu thu mua nguyên liệu vì thu mua là khâu đầu tiên để quá trình sản xuất được liên tục, đặc biệt là trong công nghiệp chế biến thuỷ sản. Chất lượng nguyên liệu ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm, chi phí nguyên liệu ảnh hưởng giá thành sản phẩm. Nguyên liệu chế biến của công ty là thuỷ hải sản tươi sống gồm tôm, cá, ghẹ và một số thuỷ sản khác như mực, sò, ngao, vạng... có yêu cầu rất cao về mặt chất lượng (kích cỡ, độ tươi sống) và rất khó dự trữ bảo quản. Nếu thiếu nguyên liệu, sản xuất sẽ bị gián đoạn. Nếu dự trữ nguyên liệu quá lớn, gây ra ứ đọng vốn, hao hụt trọng lượng, bị nhiễm bệnh, chết hàng loạt. Giá nguyên liệu ít ổn định, lên xuống hàng ngày. Do vậy, công tác tổ chức thu mua phải khoa học chặt chẽ.
Kết quả thu mua nguyên liệu của công ty được thể hiện qua bảng 6.
Qua bảng 6 thấy: 3 năm qua sản lượng nguyên liệu thu mua của công ty có sự biến động mạnh.
Năm 2003 tổng sản lượng nguyên liệu thu mua của công ty là 513.365,3 kg nguyên liệu thuỷ sản các loại. Trong đó, tôm là loại nguyên liệu chủ lực cho chế biến với 442.899,3 kg chiếm 86,27% tổng nguyên liệu thu mua của công ty, còn lại 13,73% là các thuỷ sản khác.
Năm 2004 so với năm 2003 tổng sản lượng nguyên liệu của công ty tăng 65,13%, cụ thể tăng 334.369,9 kg. Năm 2005 so với năm 2004 sản lượng nguyên liệu của công ty giảm 36,17%, giảm 306.604,3 kg. Mặc dù công ty nằm gần vùng thu mua nguyên liệu nhưng sản lượng thu mua nguyên liệu của công ty có sự giao động mạnh, như vậy chứng tỏ công ty vẫn chưa chủ động được nguồn nguyên liệu đầu vào.
Qua thực tế tìm hiểu cho thấy nguyên liệu của công ty phần lớn được thu mua tại các bến cảng. Công ty mua trực tiếp từ tàu, thuyền của người dân đánh bắt thuỷ hải sản nhưng công ty lại chưa có một hợp đồng chính thức lâu dài với họ.
Bảng 6: Tình hình thu mua nguyên liệu của Công ty qua 3 năm (2003 - 2005)
Chỉ tiêu
2003
2004
2005
So sánh (%)
Số lượng
(kg)
Giá trị
(1000đ)
Số lượng
(kg)
Giá trị
(1000đ)
Số lượng
(kg)
Giá trị
(1000đ)
04/03
05/04
BQ
1.Tôm
442.899,3
13.294.121,3
827.294,4
39.672.524,9
535.321,5
29.351.434
186,79
64,71
109,94
Tôm he
80.867
3.839.405,8
121.283,1
4.589.753,3
68.053,7
4.341.856,5
149,98
56,11
91,74
Tôm bột
92.796,5
3.954.320,6
137.283,2
5.466.790,4
95.279,7
4.021.477
147,94
69,40
101,33
Tôm sú
23.622,7
2.079.364,2
168.972,0
15.194.651,0
194.865,3
17.383.967
745,29
115,32
287,21
Tôm rảo
245.613,1
3.421.030,7
399.756,1
14.421.330,2
177.122,8
3.604.133,5
162,76
44,31
84,92
2. Cá
16.424,3
199.106,6
15.130,3
195.577,6
3.168,5
38.297,5
92,12
20,94
43,92
Cá thu
11.775,3
173.035,2
11.810,7
175.820,8
803,2
12.541
100,30
0,46
6,76
Cá phèn
4.566,3
25.176,6
3.319,6
19.756,8
-
-
72,69
-
-
Cá nhòng
82,7
894,8
-
-
2.365,3
25.756,5
-
-
-
3. Ghẹ mảnh
34.650,0
412.200,0
5.249,5
76.906,5
2.529,7
35.693
15,15
48,19
27,02
4. Thuỷ sản khác
19.391,7
175.104,1
61
582
111,2
2.873,5
0,31
182,29
7,52
Mực
18.872,9
172.139,7
-
-
81,7
2.553,5
-
-
-
Sò
385,6
1.287,9
10
33,3
-
-
2,59
-
-
Ngao, ngán
133,2
1.676,5
51
548,7
29,5
320
38,29
57,84
47,06
Tổng số
513.365,3
14.080.532
847.735,2
39.945.591
541.130,9
29.428.298
165,13
63,83
102,67
Nguồn:Phòng Kế toán của công ty
Biểu đồ 1: Số lượng nguyên liệu thu mua của Công ty
qua 3 năm (2003 - 2005)
Mặt khác, công ty còn phải cạnh tranh gay gắt với công ty thuỷ sản (II) mà công ty này cũng có địa bàn đặt tại huyện Yên Hưng và một số công ty ở những huyện lân cận. Do vậy, các nhà cung cấp nguyên liệu rất nhạy bén với sự thay đổi của giá cả và gây không ít khó khăn cho việc thu mua nguyên liệu của công ty. Mặc dù công ty đã mua nguyên liệu tại các bến cảng để đảm bảo độ tươi sống và sự đảm bảo về giá để có thể cạnh tranh về chất lượng sản phẩm cũng như giá thành của thành phẩm với các công ty khác.
Do đặc điểm của nguyên liệu là sản phẩm của nuôi trồng và đánh bắt nó phụ thuộc rất nhiều vào thời tiết khí hậu (tính thời vụ). Qua tìm hiểu cho thấy sản lượng thu mua của công ty chủ yếu từ tháng 5 đến tháng 10 điều này cũng ảnh hưởng không nhỏ đến việc bố trí sản xuất và tổ chức lao động, đến hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Đối với những tháng này công ty phải huy động công nhân làm tăng ca, tăng giờ và thậm chí công ty còn huy động cả lao động gián tiếp xuống phân xưởng cùng sản xuất với công nhân để giải quyết nhanh chóng lượng nguyên liệu thu mua, tránh sự xuống cấp của nguyên liệu.
4.1.2.2. Kết quả chế biến của Công ty
Như chúng ta đã biết sản phẩm của ngành thuỷ sản rất đa dạng và phong phú. Đối với công ty cổ phần chế biến thực phẩm Hải Tân, sản phẩm của công ty bao gồm 4 nhóm hàng chính đó là tôm, cá, ghẹ và thuỷ sản khác đông lạnh.
Kết quả chế biến của Công ty được thể hiện qua bảng 7.
Qua bảng 7 cho thấy: Tổng sản lượng của công ty năm 2003 đạt 249.688 kg, trong đó tôm đông lạnh là 202.164 kg chiếm 80,97% tổng sản lượng chế biến thuỷ sản của công ty. Xét về mặt giá trị năm 2003 tổng sản lượng chế biến của công ty đạt 16.279.099 nghìn đồng.
Năm 2004 là năm công ty đạt cao nhất về sản lượng cũng như giá trị. Cụ thể về sản lượng đạt 414.994 kg sản phẩm, về giá trị đạt 45.708.740 nghìn đồng tăng gấp 2,8 lần so với năm 2003; trong đó giá trị sản lượng tôm đông lạnh là 45.459.079 nghìn đồng chiếm 97,05% tổng giá trị sản lượng của công ty. Các sản phẩm cá, ghẹ và thuỷ sản khác năm 2004 so với năm 2003 có sự giảm mạnh do những sản phẩm này khó tiêu thụ nên công ty đã không tập trung chế biến những sản phẩm này mà chỉ tập chung vào mặt hàng chính là tôm.
Năm 2005 so với năm 2004 các chỉ tiêu đều giảm do giá sản phẩm tiêu thụ giảm, vì vậy công ty phải điều chỉnh giá nguyên liệu đầu vào do đó sản lượng thu mua của công ty giảm nên kết quả chế biến của công ty giảm. Tổng sản lượng của công ty chỉ đạt 291.060 kg, giá trị tổng sản lượng là 32.878.436 nghìn đồng, giảm 28,1% so với năm 2003 (giảm 12.830.304 nghìn đồng).
Nhưng nếu ta so năm 2005 với năm 2003 thì tổng sản lượng của công ty tăng 16,6% (tăng 41.374 kg), giá trị tổng sản lượng tăng gấp 2,01 lần. Điều này cho thấy sản phẩm của công ty có giá trị gia tăng cao qua mỗi năm.
Bảng 7: Kết quả chế biến của Công ty qua 3 năm (2003 - 2005)
Năm
Chỉ tiêu
ĐVT
Tổng số
Mặt hàng
Tôm đông lạnh
Cá đông lạnh
Ghẹ đông lạnh
Thuỷ sản khác đông lạnh
2003
Sản lượng sản phẩm
Cơ cấu
Giá trị sản lượng
Kg
%
1000đ
249.688
100,00
16.279.099
202.164
80,97
15.331.988
15.713
6,29
203.957
18.359
7,35
485.344
13.452
5,39
257.810
2004
Sản lượng sản phẩm
Cơ cấu
Giá trị sản lượng
Kg
%
1000đ
414.994
100,00
45.708.740
402.770
97,05
45.459.079
9.654
2,33
142.865
2.559
0,61
106.549
11
0,01
247
2005
Sản lượng sản phẩm
Cơ cấu
Giá trị sản lượng
Kg
%
1000đ
291.060
100,00
32.878.436
287.445
98,76
32.794.755
2.372
0,81
34.829
1.171
0,40
46.128
72
0,03
2.724
Nguồn: Phòng Kế toán của công ty
Biểu đồ 2: Số lượng sản phẩm chế biến của Công ty
qua 3 năm (2003 - 2005)
Do đặc trưng của chế biến thuỷ sản là các sản phẩm đều được chế biến trên cùng dây truyền công nghệ, hơn nữa giá trị sản phẩm phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng nguyên liệu (kích cỡ, chủng loại). Do vậy việc đánh giá chi phí (tính giá thành) cho đơn vị sản phẩm cùng loại là rất khó, mặc dù đề tài không hình thành được biểu bảng tính giá thành cho một tấn sản phẩm từng loại nhưng qua tham khảo tài liệu, sổ sách kế toán của công ty cho thấy: Trong tổng chi phí sản xuất thì chi phí về nguyên liệu luôn chiếm tỷ trọng cao chiếm 80 – 85% giá thành sản xuất, hệ số tiêu hao nguyên liệu còn lớn từ 1,8 – 2,3 kg/1 thành phẩm. Điều này cho thấy sự tận dụng nguyên liệu của công ty còn hạn chế. Do vậy công ty cần có những biện pháp quản lý, sử dụng nguyên liệu một cách có hiệu quả để giảm chi phí nguyên liệu, giảm giá thành trong sản xuất.
Các khoản chi phí khác như BHXH, BHYT, KPCĐ, chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp, khấu hao tài sản cố định còn tương đổi lớn. công ty cần khắc phục giảm giá trong các khâu như quản lý doanh nghiệp, chi phí nhiên liệu và dụng cụ...
Chi phí nhân công chiếm tỷ trọng thứ 3 sau chi phí nguyên liệu và chi phí sản xuất chung. Do đặc điểm lao động trong khu vực là tương đối rẻ, công ty đã tận dụng điều này và tiết kiệm được một khoản lớn và góp phần hạ giá thành sản phẩm. Tuy nhiên để thu hút lao động và sử dụng lao động có hiệu quả công ty cần có kế hoạch đào tạo sơ cấp cho những lao động phổ thông và nâng cao tay nghề cho các công nhân khác nhằm nâng cao khả năng sản xuất của công nhân cũng như tạo sự tin tưởng của công nhân đối với công ty.
Vấn đề làm giảm chi phí cho các yếu tố đầu vào luôn là vấn đề bức xúc đối với mỗi doanh nghiệp. Công ty cổ phần chế biến thực phẩm Hải Tân luôn phải xác định được phương hướng sản xuất và tìm ra biện pháp để hạ giá thành sản phẩm, đó là một trong những “bí quyết” đóng vai trò trọng yếu đến thắng lợi trong kinh doanh.
4.1.2.3. Tình hình tiêu thụ sản phẩm của Công ty
4.1.2.3.1. Tình hình tiêu thụ sản phẩm của Công ty
Tiêu thụ là quá trình thực hiện giá trị và giá trị sử dụng của sản phẩm hàng hoá. Qua tiêu thụ sản phẩm hàng hoá chuyển từ hình thái hiện vật sang hình thái tiền tệ và hoàn thành vòng chu chuyển vốn. Kết quả tiêu thụ thể hiện tính hữu ích của sản phẩm hàng hoá được thị trường chấp nhận, doanh nghiệp thu hồi được toàn bộ chi phí liên quan đến chế tạo sản phẩm, chi phí bán hàng, chi phí quản lý. Đối với doanh nghiệp tiêu thụ có ý nghĩa vô cùng quan trọng, quyết định sự thành bại, là quá trình thực hiện lợi nhuận, đó là mục tiêu duy nhất của doanh nghiệp. Kết quả tiêu thụ của doanh nghiệp thể hiện ở bảng 8.
Bảng 8: Tình hình tiêu thụ sản phẩm của Công ty qua 3 năm
Chỉ tiêu
2003
2004
2005
Số lượng
( Kg )
Doanh thu
( 1000đ )
Số lượng
( Kg )
Doanh thu
( 1000đ )
Số lượng
( Kg )
Doanh thu
( 1000đ )
Tôm đông lạnh
205.875
16.617.847
401.476
46.676.526
276.860
33.269.502
Cá đông lạnh
22.357
297.229
6.430
113.589
5.684
152.720
Ghẹ đông lạnh
18.357
486.507
2.575
112.162
1.467
52.426
Thuỷ sản khác
11.338
225.979
1.576
16.985
207
2.419
Tổng số
257.927
17.627.562
412.057
46.919.262
284.218
33.477.067
Nguồn: Phòng Kinh doanh của công ty
Qua bảng 8 cho thấy: Năm 2003 tổng sản phẩm tiêu thụ của công ty là 257.927 kg sản phẩm các loại, doanh thu đạt 17.627.562 nghìn đồng. Năm 2004 là năm tổng sản phẩm tiêu thụ của công ty đạt cao nhất 412.057 kg sản phẩm các loại và đạt doanh thu là 46.919.262 nghìn đồng. Điều này cũng dễ hiểu bởi năm 2004 sản lượng chế biến của công ty là nhiều nhất. So với năm 2004 tổng sản phẩm tiêu thụ của năm 2005 chỉ đạt 68,96%, cụ thể là đạt 284.182 kg sản phẩm các loại và doanh thu của công ty năm 2005 giảm 28,6%, cụ thể giảm 13.442.195 nghìn đồng.
Biểu đồ 3: Số lượng sản phẩm tiêu thụ của Công ty
qua 3 năm (2003 - 2005)
4.1.2.3.2. Các kênh tiêu thụ của Công ty
Tuỳ theo mỗi doanh nghiệp mà chính sách tiêu thụ có thể khác nhau. Riêng đối với công ty cổ phần chế biến thực phẩm Hải Tân đã áp dụng chính sách tiêu thụ rộng rãi bằng tất cả các kênh tiêu thụ, các địa điểm bán hàng với quy mô khác nhau nhằm đưa sản phẩm của mình đến với các thị trường có thể. Cho đến nay, công ty đã thiết lập được hệ thống kênh tiêu thụ sản phẩm gồm 3 loại thể hiện trên sơ đồ 3:
Công ty
Ha
Ta
co
Người
tiêu
dùng
Kênh I
Kênh II
Đại lý
Bán buôn
Bán lẻ
Kênh III
Xuất khẩu
Sơ đồ 3: Kênh tiêu thụ của Công ty cổ phần chế biến thực phẩm
Hải Tân
Kênh I (chiếm 10%): Là kênh phân phối trực tiếp từ công ty đến người tiêu dùng thông qua cửa hàng giới thiệu sản phẩm, cửa hàng có bầy bán tất cả các chủng loại sản phẩm mà công ty sản xuất để giới thiệu khách hàng, thông qua đó khách hàng làm quen và được đáp ứng ngay tại chỗ với những khách hàng mua khối lượng ít. Và khối lượng sản phẩm tiêu thụ ở kênh này tăng giảm không đều qua các năm. Năm 2003 tiêu thụ được 26.271,24 kg, năm 2004 tiêu thụ đạt 41.205,7 kg và năm 2005 là 38.397,85 kg. Nhưng về tỷ trọng thì tăng dần qua các năm. Năm 2003 là 10,36% và đạt 13,51% vào năm 2005.
Kênh III: Đây là kênh tiêu thụ chủ đạo của công ty. Phần lớn thành phẩm (75 – 80% số lượng thành phẩm) của công ty được xuất khẩu sang Nhật Bản và Trung Quốc. Sản lượng tiêu thụ qua kênh này chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số lượng sản phẩm tiêu thụ và có xu hướng tăng dần qua các năm, năm 2003 chiếm 75,94% tổng số lượng sản phẩm tiêu thụ, đến năm 2005 chiếm 77,08% tổng số lượng sản phẩm tiêu thụ.
Kênh II (chiếm 10 – 15%): Kênh này có 3 khâu trung gian, các đại lý ở các tỉnh xa hợp đồng trực tiếp với công ty một khối lượng lớn và sau đó bán cho người bán buôn. Sản phẩm từ các nhà buôn này được phân tán đến những người bán lẻ rồi mới đến người tiêu dùng. Sản lượng tiêu thụ qua kênh này có xu hướng giảm dần qua các năm. Năm 2003 khối lượng sản phẩm được tiêu thụ là 35.335,99 kg chiếm 13,70% tổng số lượng sản phẩm tiêu thụ đến năm 2005 giảm xuống 26.744,91 kg chiếm 9,41% tổng số lượng sản phẩm tiêu thụ.
Tóm lại, lượng sản phẩm tiêu thụ ở kênh II giảm đi qua các năm và kênh III tăng dần qua các năm. Điều này cho thấy công ty đã nhận được những hợp đồng xuất khẩu ổn định, cho thấy khả năng thâm nhập vào thị trường xuất khẩu mới là rất cao. Điều này cũng cho thấy: Sản phẩm của công ty có đủ tiêu chuẩn để cạnh tranh với các sản phẩm thuỷ hải sản đông lạnh khác ở các công ty trong nước cũng như các công ty nước ngoài.
Bảng 9: Lượng sản phẩm tiêu thụ ở từng kênh qua các năm của Công ty
Chỉ tiêu
2003
2004
2005
Sản lượng
(kg)
Cơ cấu
(%)
Sản lượng
(kg)
Cơ cấu
(%)
Sản lượng
(kg)
Cơ cấu
(%)
Kênh I
26.721,24
10,36
41.205,7
10,00
38.397,85
13,51
Kênh II
35.335,99
13,70
44.831,80
10,88
26.744,91
9,41
Kênh III
195.869,77
75,94
326.019,50
79,12
219.075,24
77,08
Tổng số
257.927
100,00
412.057
100,00
284.218
100,00
Nguồn: Phòng Kinh doanh của công ty
Biểu đồ 4: Lượng sản phẩm tiêu thụ ở từng kênh
qua các năm của Công ty
4.1.2.3.3. Phương thức bán hàng của Công ty
Nhằm hoàn thiện và đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm cũng như đáp ứng được tối đa nhu cầu tiêu thụ sản phẩm trên thị trường trong và ngoài nước, cho mọi khách hàng thuộc mọi đối tượng với số lượng không hạn chế. Để mua được hàng thường xuyên, liên tục với khối lượng lớn, khách hàng phải ký kết hợp đồng tiêu thụ sản phẩm với công ty. Nếu khách hàng là đơn vị, tổ chức cá nhân ngoài quốc doanh khi đến liên hệ ký kết hợp đồng cần có giấy phép kinh doanh, đơn xác nhận của địa phương và tài sản thế chấp sở hữu hợp pháp, còn với khách hàng thuộc sở hữu của Nhà nước chỉ cần có giấy giới thiệu và giấy phép kinh doanh.
Tiêu thụ hàng hoá của công ty được tiến hành theo hai phương thức:
* Phương thức tiêu thụ trực tiếp: Theo phương thức này, khách hàng đến mua hàng như thế nào đều phải thanh toán tiền ngay, nếu khách hàng mua số lượng nhiều thì được hưởng triết khấu (triết khấu thương mại) là 3% doanh thu.
* Phương thức giao bán đại lý: Khách hàng muốn làm đại lý cho công ty phải tiến hành làm thủ tục ký kết hợp đồng đại lý, khách hàng phải thế chấp trước khi nhận hàng như: đất đai, nhà cửa, tiền… tuy nhiên lượng tiền này không nhiều và không cố định, mà việc giao hàng đại lý chủ yếu dựa trên sự tin tưởng lẫn nhau (tín chấp) và việc thanh toán của đại lý khác với tiêu thụ trực tiếp là được thanh toán chậm 20 ngày kể từ khi công ty giao hàng cho đại lý, hưởng hoa hồng là 2% doanh thu, khuyến mại bằng tiền hoặc hàng.
Việc theo dõi công tác tiêu thụ sản phẩm được phòng kế toán đảm nhận hàng ngày, kế toán căn cứ vào phiếu xuất kho kèm theo hoá đơn hoặc hoá đơn kiêm phiếu xuất kho để vào thẻ kho.
Thẻ kho được mở cho từng mặt hàng khác nhau, hàng tháng phòng kế toán tập hợp số liệu đưa vào sổ kho trong đó có xác định cụ thể số lượng từng sản phẩm nhập – xuất – tồn từng tháng trong năm.
4.1.2.3.4. Các hình thức thanh toán của Công ty
Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng, công ty đã vận dụng nhiều hình thức thanh toán khác nhau: Thanh toán bằng tiền mặt, bằng séc, chuyển khoản, ngân phiếu…
Trường hợp thanh toán ngay bằng tiền mặt thì kế toán lập chứng từ ban đầu làm phiếu thu tiền. Phiếu thu tiền còn gọi là chứng từ chứng minh cho việc thanh toán bằng ngân phiếu. Phiếu thu tiền được lập thành 3 liên: một liên giao cho khách hàng, một liên nộp cho phòng kế toán, một liên lưu.
Nếu khách hàng thanh toán băng séc (thường là séc chuyển khoản) thì số séc đó được phòng kế toán nộp vào tài khoản của công ty ở Ngân hàng công thương thành phố Hạ Long.
Ngoài trường hợp thanh toán ngay, công ty còn có hình thức thanh toán trả chậm, thời hạn trả từ 20 – 30 ngày. Nếu quá thời hạn thanh toán mà không có lý do chính đáng thì khách hàng sẽ phải thanh toán cả gốc lẫn lãi cho công ty theo lãi suất của Ngân hàng (thường chỉ có các khách hàng thuộc các đơn vị kinh tế Nhà nước và đã ký hợp đồng mua hàng với công ty thì mới được thanh toán chậm). Tổng số tiền mỗi khách hàng được trả chậm căn cứ vào số lượng mua tối đa đã được ghi rõ trong hợp đồng, nếu vượt quá số nợ trên công ty sẽ yêu cầu khách hàng thanh toán rồi mới tiếp tục giao hàng.
Hàng tháng, hàng quý phòng kế toán đối chiếu công nợ, gửi giấy báo đòi nợ đến khách hàng. Những quy định và phương pháp thực hiện trên vừa tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong quan hệ mua bán với công ty vừa đảm bảo an toàn cho tài sản, nguồn vốn.
4.1.2.4. Kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty
Kết quả sản xuất kinh doanh của công ty cổ phần chế biến thực phẩm Hải Tân được thể hiện trên 3 lĩnh vực: Hoạt động sản xuất kinh doanh thông thường, hoạt động tài chính và hoạt động khác. Từ bảng 10 ta có nhận xét:
- Tổng doanh thu tiêu thụ (tổng doanh thu từ hoạt động SXKD thông thường) không ngừng tăng qua các năm. Bình quân 3 năm (2003 – 2005) doanh thu tăng 37,81%. Đây là tốc độ khá lớn, chứng tỏ sản phẩm của công ty có sức cạnh tranh cả về chất lượng và giá cả, phản ánh vị trí vững vàng của nhà sản xuất trên thị trường.
Vì không có các khoản giảm giá hàng bán, chiết khấu thương mại, hàng bán bị trả lại nên doanh thu cũng chính là doanh thu thuần. Điều này cho thấy sản phẩm của công ty xuất bán đều được bảo quản tốt.
- Tổng chi phí gồm: Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp; chi phí nhân công trực tiếp; chi phí sản xuất chung; chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp. Trong đó:
+ Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp chiếm tỷ lệ rất cao trong tổng chi phí: >80% qua các năm (đặc thù của chế biến thuỷ hải sản là chi phí nguyên liệu trực tiếp chiếm tỷ lệ rất cao trong giá thành thành phẩm). Bình quân trong 3 năm, chi phí nguyên vật liệu trực tiếp tăng 44,57%. Điều này cho thấy công ty hoạt động hiệu quả.
+ Chi phí bán hàng tăng giảm không đều giữa các năm, bình quân giảm 12,29%/năm. Đây là mức giảm đáng kể. Điều này chứng tỏ công tác quản lý chi phí này có tiến bộ, rất có lợi cho hoạt động kinh doanh của công ty. Chi phí bán hàng có tỷ trọng thấp trong tổng chi phí (lần lượt trong 3 năm là 1,10%; 0,64%; 0,44%) và ngày càng có xu hướng giảm.
+ Chi phí nhân công trực tiếp chiếm tỷ trọng trong tổng chi phí của doanh nghiệp lần lượt qua 3 năm là: 3,6% (2003); 1,9% (2004); 1,7% (2005). Bình quân trong 3 năm giảm 4,47%, điều này rất có lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, góp phần làm công ty hoạt động đạt lợi nhuận cao.
+ Chi phí sản xuất chung của doanh nghiệp bình quân trong 3 năm tăng 35,49%. Đây là mức tăng đáng kể, điều này ảnh hưởng lớn đến hiệu quả kinh tế của công ty. Vì vậy, công ty cần phải có những biện pháp để làm giảm chi phí sản xuất chung trong những năm tới nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty lên.
+ Chi phí quản lý doanh nghiệp tăng giảm không đều qua các năm, bình quân qua 3 năm giảm 44,46%. Đây là mức giảm lớn, chứng tỏ công tác quản lý về chi phí quản lý doanh nghiệp đã có sự tiến bộ vượt bậc, rất có lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty.
- Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh của công ty lên xuống không ổn định. Năm 2003 công ty đã đầu tư cho quản lý doanh nghiệp rất lớn. Điều đó ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận thu được. Kết quả năm 2003, công ty chỉ thu được lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh là 25.471,3 nghìn đồng. Năm 2004 tăng so với năm 2003 là 16,39 lần. Nhưng sang năm 2005, do giá nguyên liệu thu mua tăng, làm cho kết quả của hoạt động SXKD thông thường so với năm 2004 chỉ đạt 24,16%.
- Công ty bị lỗ về hoạt động tài chính do phải trả lãi vay vốn với số dư đi vay lớn. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến kết quả hoạt động kinh doanh của công ty.
- Các chỉ tiêu về lợi nhuận trước thuế, thuế thu nhập doanh nghiệp và lợi nhuận sau thuế về số tương đối có sự biến động như nhau. Năm 2004 so với 2003 tăng 4,58 lần, năm 2005 so với năm 2004 giảm 80,41%.
Bảng 10: Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty qua 3 năm (2003 – 2005)
Chỉ tiêu
2003
2004
2005
So sánh (%)
04/03
05/04
BQ
1. Tổng doanh thu
17.627.562
46.919.262
33.477.067
266,17
71,35
137,81
2. Doanh thu thuần
17.627.562
46.919.262
33.477.067
266,17
71,35
137,81
3. Tổng chi phí
17.602.090,7
46.501.651,1
33.376.167
264,18
71,77
137,70
+ Chi phí nguyên, vật liệu trực tiếp
14.080.532
39.945.591
29.428.298
283,69
73,67
144,57
+ Chi phí nhân công trực tiếp
635.000
863.046
579.544
135,91
67,15
95,53
+ Chi phí sản xuất chung
1.563.594
4.900.103
2.870.594
313,38
58,58
135,49
+ Chi phí bán hàng
194.448,6
299.161,3
149.599,9
153,85
50,01
87,71
+ Chi phí quản lý doanh nghiệp
1.128.516,1
493.749,8
348.131,1
43,75
70,50
55,54
4. Lợi nhuận từ hoạt động SXKD
25.471,3
417.610,9
100.900
1.639,53
24,16
199,03
5. Lợi nhuận từ hoạt động tài chính
(300.715,3)
(77.994,3)
6. Tổng lợi nhuận trước thuế
25.471,3
116.895,6
22.905,7
458,93
19,59
94,82
7. Thuế thu nhập doanh nghiệp
6.367,8
29.223,9
5.726,4
458,9
19,59
94,82
8. Lợi nhuận sau thuế
19.103,5
87.671,7
17.179,3
458,9
19,59
94,81
Nguồn : Phòng Kế toán của công ty
4.1.3. Hiệu quả kinh tế sản xuất kinh doanh của Công ty
Lợi nhuận thực hiện được sau quá trình SXKD là một trong những chỉ tiêu quan trọng nhất phản ánh hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Lợi nhuận không chỉ phụ thuộc vào chất lượng hoạt động SXKD mà còn chịu tác động của quy mô sản xuất cho nên khi đánh giá hiệu quả SXKD của doanh nghiệp ta cần kết hợp cả số tương đối và số tuyệt đối. Số tuyệt đối thể hiện cụ thể quy mô của lợi nhuận. Số tương đối chính là tỷ suất lợi nhuận, phản ánh mối quan hệ giữa lợi nhuận với các chỉ tiêu có liên quan (doanh thu, giá thành, vốn kinh doanh...).
Bảng 11 cho thấy các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế nhìn chung có mức giao động mạnh. Cụ thể:
- Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận/doanh thu.
Qua bảng 11 thấy: cứ 100 đồng doanh thu thì năm 2003 thu được 0,14 đồng lợi nhuận; năm 2004 thu được 0,24 đồng; đến năm 2005 chỉ còn 0,07 đồng lợi nhuận. Mặc dù chi phí lãi vay vốn năm 2004 và 2005 giảm song bình quân tỷ suất lợi nhuận/doanh thu trong 3 năm chỉ đạt 70,71% giảm 29,29%/năm. Rõ ràng tỷ suất lợi nhuận/doanh thu giảm là do khả năng sinh lợi của hoạt động SXKD giảm. Đây là mức giảm khá lớn mà đơn vị phải tìm ra nguyên nhân.
- Hiệu qủa sử dụng chi phí
Hiệu quả sử dụng chi phí của công ty trong 3 năm chỉ đạt bình quân 70,71%, giảm 29,29%/năm. Điều đó có thể dễ dàng nhận thấy: tốc độ tăng của tổng chi phí tăng bình quân 38,10% > tốc độ tăng của tổng doanh thu (chỉ tăng bình quân 38,05%). Cứ 100 đồng chi phí thu được 0,14 đồng lợi nhuận (năm 2003); thu 0,25 (năm 2004); chỉ thu được 0,07 đồng vào năm 2005.
- Hiệu quả sử dụng vốn
Hiệu quả sử dụng vốn tăng giảm không đều và có mức dao động mạnh. Cụ thể, cứ 100 đồng vốn sản xuất năm 2003 thu được 0,33 đồng lợi nhuận; năm 2004 thu được 2,04 đồng lợi nhuận; năm 2005 thu được 0,39 đồng lợi nhuận.
+ Hiệu quả sử dụng vốn cố định
Ta thấy hiệu quả sử dụng vốn cố định của công ty cũng có sự biến động rõ rệt. Năm 2003 chỉ tiêu này đạt 0,0052 lần, năm 2004 so với năm 2003 tăng 748,07% đạt 0,0389 lần nhưng năm 2005 so với năm 2004 lại giảm 77,64% và chỉ đạt 0,0087 lần. Điều này cho thấy năm 2003 và năm 2005 Công ty chưa sử dụng hết công suất của máy móc thiết bị.
+ Hiệu quả sử dụng vốn lưu động
Nhìn chung hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty cũng mang lại hiệu quả nhưng có sự biến động giảm, bình quân giảm 11,46%/năm, mặc dù năm 2004 so với năm 2003 chỉ tiêu này tăng 487,50% nhưng năm 2005 so với năm 2004 giảm 83,92%. Cụ thể chỉ tiêu này năm 2003 là 0,88% nghĩa là cứ 100 đồng vốn lưu động sẽ mang lại cho công ty 0,88 đồng lợi nhuận; năm 2004 thu được 4,29 đồng lợi nhuận; năm 2005 thu được 0,69 đồng lợi nhuận.
- Năng suất lao động bình quân/năm
Qua bảng 11 cho thấy: Năng suất lao động của công ty đạt cao nhất vào năm 2004 là 117.447,6 nghìn đồng/lao động, so với năm 2003 tăng 211,21% nhưng năm 2005 so với năm 2004 chỉ đạt 74,88%, cụ thể năm 2005 đạt 87.949,2 nghìn đồng/lao động. Bình quân năng suất lao động bình quân qua 3 năm tăng 25,76%.
- Lợi nhuận bình quân/lao động.
Lợi nhuận bình quân/lao động năm 2003 là 80,35 nghìn đồng, năm 2004 so với năm 2003 chỉ tiêu này tăng 363,70% và đạt 292,23 nghìn đồng/lao động nhưng năm 2005 lại giảm 79,50% chỉ đạt 59,91 nghìn đồng/lao động.
Bảng 11: Hiệu quả kinh tế sản xuất kinh doanh của Công ty qua 3 năm (2003 - 2005)
Chỉ tiêu
ĐVT
2003
2004
2005
So sánh
04/03
05/04
BQ
1.Tổng doanh thu
1000đ
17.6627.562
46.979.061,6
33.596.595,6
266,51
71,51
138,05
2.Tổng chi phí
1000đ
17.602.090,7
46.862.166
33.573.689,9
266,23
71,64
138,10
3.Tổng lợi nhuận
1000đ
25.471,3
116.895,6
22.905,7
458,93
19,59
94,82
4.Tổng vốn sản xuất
1000đ
7.749.235
5.721.463
5.932.242
73,83
103,68
87,49
+ Vốn cố định
1000đ
4.842.716
2.999.764
2.626.000
61,94
87,54
73,63
+ Vốn lưu động
1000đ
2.906.519
2.721.699
3.306.242
93,64
121,48
106,65
5.Tổng tiền lương
1000đ
1.635.000
1.863.046
1.279.544
113,95
68,68
88,46
6.Tổng lao động BQ năm
Người
317
400
382
126,18
95,50
109,77
Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả
7.Tỷ suất LN/ doanh thu
%
0,14
0,24
0,07
171,43
29,17
70,71
8.Tỷ suất LN/ chi phí
%
0,14
0,25
0,07
178,57
28,00
70,71
9.Tỷ suất LN/ vốn SX
%
0,33
2,04
0,39
618,18
19,12
108,72
+LN/ Vốn cố định
%
0,52
3,89
0,87
748,07
22,36
129,33
+LN/Vốn lưu động
%
0,88
4,29
0,69
487,50
16,08
88,54
10.Tỷ suất doanh thu/chi phí
%
100,14
100,25
100,07
100,11
99,82
99,96
11.Năng suất LĐ BQ/năm
1000đ
55.607,45
117.447,60
87.949,20
211,21
74,88
125,76
12.Lợi nhuận BQ/ lao động
1000đ
80,35
292,23
59,91
363,70
20,50
86,35
13.Hiệu suất tiền lương
%
1,56
6,27
1,76
401,92
28,07
106,22
Nguồn: Phòng kế toán của Công ty
Kết quả phân tích cho thấy: Hầu hết các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả SXKD của công ty đều giảm. Năm 2004 là năm công ty làm ăn có lời nhất, năm 2003 và 2005 hoạt động của công ty chưa được hiệu quả cho lắm. Kết luận trên cần được nghiên cứu và phân tích một cách cụ thể các nguyên nhân chủ quan và khách quan, các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả SXKD, từ đó đề ra một số biện pháp thiết thực nhằm nâng cao hiệu quả trong thời gian tới.
4.1.4. Những tồn tại xung quanh vấn đề hiệu quả kinh tế của Công ty
- Về thị trường tiêu thụ: Thị trường là nơi diễn ra quan hệ mua bán, là nơi giải quyết các mối quan hệ giữa cung và cầu sản phẩm hàng hoá, là biểu hiện của quá trình điều hoà giữa sản xuất với tiêu dùng, giữa những tiềm năng về vật tư, tiền vốn, lao động với việc sử dụng chúng... thông qua giá cả và quan hệ cung cầu. Thị trường có những quy tắc khắc nghiệt, đặc biệt thị trường tiêu thụ nông sản. Để chiếm lĩnh được thị trường đòi hỏi rất nhiều mặt: chất lượng, giá cả sản phẩm, uy tín và sự hiểu biết thương trường. Chỉ có chiếm lĩnh được thị trường, công ty mới giải quyết được “đầu ra” của quá trình sản xuất. Thị trường vừa là mục tiêu vừa là động lực, có ảnh hưởng quyết định đến lợi nhuận của doanh nghiệp.
Bảng 12: Sản lượng tiêu thụ theo thị trường qua 3 năm (2003 – 2005)
Thị trường
2003
2004
2005
So sánh (%)
Số lượng
(kg)
Cơ cấu (%)
Số lượng
(kg)
Cơ cấu (%)
Số lượng
(kg)
Cơ cấu (%)
04/03
05/04
bq
1. Thị trường xuất khẩu
195.869,77
75,94
326.019,50
79,12
219.075,24
77,08
166,45
67,20
105,76
- Nhật Bản
96.889,77
49,47
189.352
58,08
119.011
54,32
195,43
62,85
110,83
- Trung Quốc
98.980
50,53
136.667,5
41,92
100.064,24
45,68
138,07
73,22
100,54
2. Thị trường nội địa
62.057,23
24,06
86.037,50
20,88
65.142,76
22,92
138,64
75,71
102,45
Tổng cộng
257.927
100,00
412.057
100,00
284.218
100,00
159,75
68,97
104,97
Nguồn: Phòng Kinh doanh của công ty
Bảng 12 cho thấy: Sản lượng xuất khẩu chiếm tỷ trọng lớn và thường xuyên thay đổi theo yêu cầu của khách hàng. Năm 2003, sản lượng xuất khẩu đạt 195.869,77 kg (chiếm 75,94%) còn thị trường nội địa đạt 62.057,23 kg (chiếm 24,06%). Năm 2004 sản lượng xuất khẩu có sự tăng đột biến, đạt 326.019,50 kg (chiếm 79,12%); sản lượng tiêu thụ nội địa đạt 86.037,50 kg (chiếm 20,88%). Đây là năm công ty sản xuất nhiều nhất, do có nguồn nguyên liệu dồi dào... Năm 2005, sản lượng xuất khẩu đạt 219.075,24 kg (chiếm 77,08%), thị trường nội địa đạt 65.142,76 kg (chiếm 22,92%). Bình quân trong 3 năm, sản lượng xuất khẩu tăng mức 5,76%.
Nhận xét: Qua tìm hiểu thực tế tình hình xuất khẩu của công ty chúng tôi nhận thấy thị trường tiêu thụ chủ yếu của công ty trong thời gian 3 năm nay là Nhật Bản và Trung Quốc. Điều này chứng tỏ sản phẩm của công ty được khách hàng Nhật Bản và Trung Quốc chấp nhận, có vị thế ngày càng vững chắc. Song điều đó cũng đặt ra sự rủi ro tiềm tàng khi công ty bị lệ thuộc rất nhiều vào hai thị trường được xem là hai thị trường lớn và khó tính này. Vì vậy, để có thể tồn tại và đứng vững trên thương trường thì yêu cầu đặt ra đối với công ty là phải mở rộng thị trường (ở trong và ngoài nước) và không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm.
- Về chi phí: Đây là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp tới quá trình sản xuất kinh doanh của công ty. Chi phí về nguyên, vật liệu trực tiếp của công ty rất lớn chiếm hơn 80% giá thành sản xuất của sản phẩm xuất bán. Do vậy, công ty cần có những biện pháp quản lý, bảo quản và tiết kiệm nguyên, vật liệu trong chế biến để định mức nguyên liệu/kg sản phẩm ở mức tốt nhất. Chi phí công cụ, dụng cụ cũng chiếm tỷ trọng cao trong chi phí sản xuất chung, nên công ty cần có các biện pháp quản lý, sử dụng công cụ một cách tiết kiệm nhất.
- Về máy móc thiết bị: Hệ thống máy móc thiết bị của công ty nhìn chung không còn mới nữa và có nhiều máy móc đã lỗi thời cần nhượng bán để mua bổ sung thêm một số máy móc mới phục vụ tốt hơn cho quá trình sản xuất kinh doanh của công ty.
- Về lao động: Qua bảng 1 cho thấy lao động của công ty chủ yếu là lao động phổ thông, chiếm quá cao, chiếm trên 90% trong tổng số lao động của công ty. Điều này có ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty.
- Về vốn: Tỷ lệ nợ phải trả/Vốn chủ sở hữu là quá lớn, quá chênh lệch. Năm 2003 là 3,03 lần; năm 2004 là 1,92 lần; năm 2005 là 2,002 lần. Điều này cho thấy công ty còn lệ thuộc vào nhiều đơn vị khác thể hiện qua nợ phải trả, khả năng tự chủ về vốn của công ty còn thấp.
4.2. MỘT SỐ BIỆN PHÁP CHỦ YẾU NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH TẾ TRONG HOẠT ĐỘNG SXKD CỦA CÔNG TY
4.2.1. Căn cứ đề xuất các biện pháp
4.2.1.1. Cơ sở lý luận để đưa ra các biện pháp
Nâng cao kết quả, hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty cổ phần chế biến thực phẩm Hải Tân nói riêng là một vấn đề mang tính cấp thiết và lâu dài. Sự tồn tại và phát triển hiệu quả của công ty luôn là mục tiêu hàng đầu để phấn đấu, nhằm nâng cao đời sống của từng cán bộ công nhân viên trong công ty và của toàn xã hội. Đó luôn là mục đích và nhiệm vụ nặng nề nhưng có tính quyết định đến vấn đề sống còn của công ty trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Như vậy,để hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty mang lại hiệu quả cao đòi hỏi công ty cần áp dụng nhiều biện pháp khác nhau trong quá trình sản xuất kinh doanh. Để có được những giải pháp cụ thể, ta cần thâu tóm lại những thuận lợi, khó khăn và định hướng của công ty trong hoạt động sản xuất kinh doanh để từ đó đưa ra các biện pháp.
4.2.1.2. Cơ sở thực tiễn
4.2.1.2.1. Những thuận lợi của Công ty
Ngành thủy sản là một trong những ngành được Chính phủ xếp vào ngành kinh tế mũi nhọn, ngành kinh tế quan trọng của Đảng và Nhà nước. Được sự quan tâm đầu tư về vốn, khoa học, kỹ thuật cho vùng nguyên liệu và cơ sở chế biến đặc biệt là chính sách khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu đã có vai trò tích cực đối với các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu nói chung và công ty cổ phần chế biến thực phẩm Hải Tân nói riêng.
Thứ nhất: Công ty đã hình thành được vùng nguyên liệu rộng lớn, thường xuyên, tương đối vững chắc nằm trên địa bàn các huyện trong tỉnh Quảng Ninh và Hải Phòng (công ty có trụ sở đặt tại đường 10 của huyện Yên Hưng nối Hải Phòng với Quảng Ninh). Ngành nuôi trồng thuỷ sản bắt đầu đi theo hướng sản xuất hàng hoá, tập trung với quy mô lớn tạo nguồn nguyên liệu dồi dào phục vụ cho chế biến và xuất khẩu. Do khoảng cách thu mua gần nên chi phí thu mua giảm, là cơ sở để giảm giá thành. Nhìn chung công tác tổ chức thu mua của công ty linh hoạt, tương đối chặt chẽ, giám sát được cả số lượng và chất lượng nguyên liệu, phục vụ kịp thời nhu cầu sản xuất.
Hiện nay các vùng nguyên liệu được sự quan tâm của Chính phủ đầu tư, ngư dân mạnh dạn đổi mới phương thức, mở rộng diện tích nuôi trồng và bước đầu đã mang lại hiệu quả, sản lượng tăng qua các năm tạo điều kiện thuận lợi cho công ty hoạt động.
Thư hai: Công ty làm quen với thị trường xuất khẩu được 4 năm nay (mặc dù công ty mới đi vào hoạt động được 7 năm). Thị trường xuất khẩu đóng vai trò chủ đạo, sản lượng và kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh với bốn mặt hàng chính là tôm đông lanh, cá đông lạnh, ghẹ đông lạnh và thuỷ sản khác đông lạnh, chiếm từ 75 - 80% tổng sản lượng và doanh thu tiêu thụ. Trong đó thị trường Nhật Bản và Trung Quốc là thị trường xuất khẩu hiện nay tương đối ổn định và vững chắc, đạt hiệu quả kinh tế cao. Thị trường nội địa chiếm khoảng 15 – 20% sản lượng và doanh thu, đảm bảo sản xuất liên tục, giải quyết việc làm, tăng hiệu quả SXKD.
Thứ ba: Công ty thực sự là doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, bù đắp được chi phí và có lãi, mặc dù các chỉ tiêu hiệu quả có xu hướng giảm. Công ty có đội ngũ cán bộ công nhân đoàn kết, đồng lòng. Công nhân có đội ngũ kỹ thuật có tay nghề khá. Công tác quản lý và sử dụng lao động đã được đổi mới và đi vào nề nếp. Trình độ và kinh nghiệm tổ chức quản lý của cán bộ chủ chốt trong doanh nghiệp khá cao, năng động, sáng tạo, kỷ luật, biết giữ chữ “tín” trên thương trường, đã tạo cho doanh nghiệp thế và lực mạnh.
4.2.1.2.2. Những mặt còn tồn tại, khó khăn và thách thức
Thứ nhất: Khó khăn về chất lượng và giá cả nguyên liệu đầu vào. Nuôi trồng thuỷ sản ở nước ta chưa đi vào sản xuất tập chung chuyên môn hoá cao, còn mang tính chất tận dụng. Người dân nuôi trồng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- QT108.docx