Đề tài Tìm mâu thuẫn biện chứng trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Tài liệu Đề tài Tìm mâu thuẫn biện chứng trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam: A. Lời nói đầu Mâu thuẫn là hiện tượng có trong tất cả các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy con người. Trong hoạt động kinh tế, mặt trận cũng mang tỉnh phổ biến, chẳng hạn như cung - cầu, tích luỹ và tiêu dùng, tỉnh kế hoạch hoá của từng xí nghịêp, từng Công ty và tính tự phát vô Chỉnh phủ của nền sản xuất hàng hoá ... Mâu thuẫn tồn tạn khi sự vật xuất hiện đến khi sự vật kết thúc. Trong mỗi một sự vật mâu thuẫn hình thành không phải chỉ là một mà là nhiều mâu thuẫn, và sự vật trong cùng mọt lúc có nhiều mặt đối lập thì mâu thuẫn này mất đi thì mâu thuẫn khác lại hình thành... Trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta do Đảng khởi xướng và lãnh đạo đã dành được nhiều thắng lợi bước đầu mang tyình Quyết định, quan trọng trong việc chuyển nền kinh tế từ cơ chế quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong những chuyển biến đó đã đạt được nhiều thàh công to lớn nhưng trong những thành công đó luôn luôn tồn tại những mâu thuẫn làm ...

doc40 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1301 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Tìm mâu thuẫn biện chứng trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. Lời nói đầu Mâu thuẫn là hiện tượng có trong tất cả các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy con người. Trong hoạt động kinh tế, mặt trận cũng mang tỉnh phổ biến, chẳng hạn như cung - cầu, tích luỹ và tiêu dùng, tỉnh kế hoạch hoá của từng xí nghịêp, từng Công ty và tính tự phát vô Chỉnh phủ của nền sản xuất hàng hoá ... Mâu thuẫn tồn tạn khi sự vật xuất hiện đến khi sự vật kết thúc. Trong mỗi một sự vật mâu thuẫn hình thành không phải chỉ là một mà là nhiều mâu thuẫn, và sự vật trong cùng mọt lúc có nhiều mặt đối lập thì mâu thuẫn này mất đi thì mâu thuẫn khác lại hình thành... Trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta do Đảng khởi xướng và lãnh đạo đã dành được nhiều thắng lợi bước đầu mang tyình Quyết định, quan trọng trong việc chuyển nền kinh tế từ cơ chế quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong những chuyển biến đó đã đạt được nhiều thàh công to lớn nhưng trong những thành công đó luôn luôn tồn tại những mâu thuẫn làm kìm hãm sự phát triển của công cuộc đổi mới. Đòi hỏi phải được giải quyết và nếu được giải quyết sẽ thúc đẩy cho sự phát triển của nền kinh tế. Với mong muốn tìm hiểu thêm những vẫn đề của nền kinh tế quan điểm lý luận cũng như những vướng mắc trong giải pháp, qui trình xử lý các vấn đề chính trị - xã hội có liên quan đến quá trình tiến hành cải cách trong việc chuyển nền kinh tế tôi chọn " Mâu thuẫn biện chứng trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam " làm đề tài cho tiểu luận môn Triết học Mác - Lê Nin. B Nội dung I. Lý luận chung Qui luật mâu thuẫn 1. Vai trò của qui luật Mỗi một sự vật, hiện tượng tồn tại đều là một thể thống nhất được tạo tnàh với các mặt các khuynh hướng các thuộc tính phát triển ngược chiều nhau, đối lập nhau chúng tạo thành các mâu thuẫn tồn tại trong sự vật hiện tượng. Mâu thuẫn là một hiện tượng có trong tất cả các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy con người. Trong hoạt động kinh tế hiện tượng đó cũng mang tính phổ biến chẳng hạn như mâu thuẫn giữa cung - cầu, tích luỹ và tiêu dùng, tính kế hoạch hoá cảu từng xí nghiệp, công ty với tính tự phát vô Chính phủ của nền sản xuất hàng hoá. Mâu thuẫn tồn tại từ khi sự xuất hiện cho đến khi sự vật kết thúc tồn tại của mình. trong mỗi sự vật mâu thuẫn hình thành không chỉ có một mà có nhiều mâu thuẫn và sự vật trong cùng mọt lúc có nhiều mặt đối lập mâu thuẫn này mất đi thì mâu thuẫn khác lại hình thành. Những người theo chủ nghĩa duy tâm tìm nguồn gốc của sự vận động và sự phát triển ở lý trí, ở ý muốn của con người của cá nhân kiệt xuất hay ở các lực lượng siêu nhân. Do phủ nhận sự tồn tại khách quan của các mâu thuẫn trong sự vật và hiện tượng, những người theo quan điểm siêu hình tìm nguồn gốc của sự vận động và sự phát triển ở sự tác động từ bên ngoài đối với sự vật. Rốt cuộc họ đã phải nhờ đến "cái huých đầu tiên như Niutơn hay cầu viện tới Thượng đế như Arixtốt. Như vậy bằng cách này hay cách khác, quan điểm siêu hình về nguồn gốc vận động và phát triển sớm hay muộn sẽ dẫn tới chủ nghĩa duy tâm. Dựa trên những thành tựu khoa học và thực tiễn, chủ nghĩa duy vật biện chứng tìm thấy nguồn gốc của vận động và phát triển ở mâu thuẫn, ở sự đấu tranh giữa các khuynh hướng, các mặt đối lập tồn tại trong các sự vật và hiện tượng. Dưới hình thức chung nhất, tư tưởng xem mâu thuẫn là nguồn gốc của vận động và phát triển đó được Hêraclít nói tới và được Hêghen phát triển lên trong sự vận dụng vào nhận thức. Hêghen viết " mâu thuẫn thực tế là cái thúc đẩy thế giới". Hơn nữa ông còn xem " mâu thuẫn là cội nguồn của tất cả vận động và sự sống". C.Mác - Ph. Ăngghen và V.I Lê Nin đã luận chứng và phát triển hơn nữa những luận điểm đó trên cơ sở biện chứng duy vật. C.Mác viết " Cái cấu thành bản chất của sự vận động biện chứng, chính là sự cùng nhau tồn tại của hai mặt mâu thuẫn. Sự đấu tranh giữa hai mặt ấy và sự dung hợp của hai mặt ấy thành một phạm trù mới ". Nhấn mạnh hơn nữa tư tưởng đó V.I Lê Nin viết sự phát triển là một cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập. Để hiểu được kết luận đó, chúng ta lưu ý rằng, theo Ph. Ăngghen nguyên nhân chính và cuối cùng của mọi sự vật là sự tác động lẫn nhau. Chính sự tác động qua lại đó tạo thành nguồn gốc của sự vận động và phát triển. Mâu thuẫn là sự tác động qua lại, sự đấu tranh của các mặt đối lập qui định một cách tất yếu những thay đổi của các mặt đang tác động qua lại cũng như của sự vật nói chung, nó là nguồn gốc vận động và phát triển, là xung lực của sự sống. Chẳng hạn bất kỳ một sự vật nào cũng chỉ có thể tồn tại và phát triển được khi có sự tác động qua lại giữa đồng hoá và dị hoá. Sự tiến hoá của các giống loài không thể có được, nếu không có sự tác động qua lại giữa di truyền và biến dị. Tư tưởng và nhận thức của con người không thể phát triển nếu không có sự cọ sát thường xuyên với thực tiễn, không có sự tranh luận để làm rõ đúng sai. Đảng ta nói chung, từng Đảng viên nói riêng không thể ngày càng hoàn thiện bản thân mình, khi không đẩy mạnh phê bình và tự phê bình với tư cách là hình thức đặc biệt của đấu đấu tranh giữa các mặt đối lập trong Đảng, giữa tích cực và tiêu cực, giữa nhận thức - tư tưởng đúng và sai. Cho nên Hội nghị lần thứ VI (lần 2) Ban chấp hành Trung ương khoá VIII của Đảng đã xem việc thực hiện nghiêm túc chế độ phê bình và tự phê bình là một trong 10 nhiệm vụ cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay. Sự vận động và sự phát triển bao giờ cũng là sự thống nhát giữa tính ổn định và tính thay đổi. Thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập qui định tính ổn định và tình thay đổi của sự vật. Do vậy, mâu thuẫn chính là nguồn gốc của sự vận động và sự phát triển. Mặt khác, không có thống nhất của các mặt đối lập thì cũng không có đấu tranh giữa các mặt đó, do vậy cũng không có mâu thuẫn nói chung. Hơn nữa, sự vận động và sự phát triển bao giờ cũng là sự thống nhất giữa tính ổn định và tính thay đổi. Sự ổn định là điều kiện cho sự phân hoá, cho sự thay đổi và phát triển. Mâu thuẫn là một hiện tượng khách quan và phổ biến, nó tồn tại ở trong tất cả các sự vật và hiện tượng, ở mỗi giai đoạn tồn tại và phát triển của sự vật và hiện tượng. Nhưng ở các sự vật hiện tượng khác nhau, ở các giai đoạn phát triển khác nhau của một sự vật, ở mỗi lĩnh vực, mối yếu tố cấu thành một sự vật sẽ có những mâu thuẫn khác nhau. 2. Nội dung của qui luật 2.1 Nội dung của qui luật mâu thuẫn phép biện chứng Qui luật mâu thuẫn là một trong ba qui luật của phép biện chứng duy vật và là hạt nhân của phép biện chứng. Nội dung của qui luật chỉ ra cho chúng ta thấy nguồn gốc, động lực của sự phát triển. Mâu thuẫn và mặt đối lập thường được dùng như những khái niệm đồng nghĩa, Chẳng hạn, người ta có thể nói rằng các sự vật có mâu thuẫn hay các sự vật là sự thống nhất của các mặt đối lập về thực chất là một. Nhưng hiểu cho đúng hơn thì mâu thuẫn là mối quan hệ giữa các mặt đối lập, còn mặt đối lập là mỗi mặt hợp thành của mâu thuẫn. Mỗi mặt đó hợp thành từ nhiều thuộc tính, nhiều khuynh hướng khác nhau. Ví dụ: Hai mặt đối lập trong chu kỳ tuần hoàn máu, trong sự trao đổi chất của thực, động vật với môi trường ... Tuy nhiên không nên nhầm lẫn mặt đối lập nói chung với mâu thuẫn. Trong thực tế không phải mặt đối lập nào cũng tạo thành mâu thuẫn, chỉ những mặt đối lập nào liên hệ với nhau thành một chỉnh thể, tác động qua lại với nhau mới thành mâu thuẫn. Khái niện khác nhau chỉ một trong những hình thức biểu hiện, một giai đoạn phát triển của mâu thuẫn. Ví dụ: Giá trị sử dụng và giá trị trao đổi trong hàng hoá, chỉ về sau trong điều kiện khác của nền sản xuất hàng hoá, như trong chủ nghĩa Tư bản chẳng hạn, sự khác nhau đó đã biến thành mặt đối lập, thành mâu thuẫn. Tuy nhiên, không chỉ có sự khác nhau biến thành mặt đối lập, thành mâu thuẫn mà còn có cả quá trình những mặt đối lập, mâu thuẫn biến thành sự khác nhau. Ví dụ, sự đối lập giữa thành thị và nông thôn, giữa lao động trí óc và lao động chân tay trong điều kiện các xã hội phân chia thành giai cấp đã chuyển thành sự khác biệt ( khác nhau ) trong chủ nghĩa xã hội. Quan điểm siêu hình cho rằng sự vật là một thể thống nhất tuyệt đối, chúng không có mâu thuẫn bên trong. Thực chất của quan điểm này là phủ nhận mâu thuẫn là nguồn gốc, động lực của sự phát triển. Còn quan điểm của chủ nghĩa duy vật cho rằng vật hiện tượng luôn luôn có mâu thuẫn mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn là hiện tượng khách quan chủ yếu bởi vì vật hiện tượng của thế giới khách quan đều được tạo thành từ nhiều nhân tố, nhiều bộ phận, nhiều quá trình khác nhau. Giữa chúng có mối liên hệ, tác động lẫn nhau trong đó sẽ có những liên hệ trái ngược nhau, gọi là các mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn của sự vật. Các mặt đối lập thường xuyên tác động qua lại lẫn nhau gây nên một biến đổi nhất định, làm cho sự vật vận động phát triển. Các mặt đối lập và những mặt có xu hướng phát triển trái ngược nhau nhưng chúng lại có quan hệ chặt chẽ với nhau trong một chủ thể duy nhất là sự vật. Quan hệ đó thể hiện các mặt vừa thống nhất vừa tiêu diệt nhau. Sự thống nhất giữa các mặt đối lập là sự nương tựa, ràng buộc, phụ thuộc lẫn nhau làm tiền đề tồn tại và phát triển cho nhau, có mặt này mới có mặt kia. Đấu tranh giữa các mặt đối lập là sự bài trừ gạt bỏ, phủ định lẫn nhau giữa chúng. Hai mặt đối lập cùng tồn tại trong một thể thống nhất, chúng thường xuyên muốn tiêu diệt lẫn nhau. Đó là một tất yếu khách quan không tác rời sự thống nhất giữa chúng. Quan hệ giữa thống nhất và đấu tranh là hai mặt đối lập tồn tại không tách rời nhau. Sự thống nhất giữa các mặt chỉ diễn ra trong những điều kiện nhất định với một thời gian xác định. Bất cứ sự thống nhất nào cũng diễn ra sự đấu tranh giữa các mặt đối lập làm cho nó luôn luôn có xu hướng chuyển thành cái khác. Còn đấu tranh diễn ra từ khi thể thống nhất xác lập cho đến khi nó bị phá vỡ để chuyển thành mới. Đấu tranh giữa các mặt đối lập diễn ra trải qua nhiều giai đoạn với nhiều hình thức khác, từ khác biệt đến đối lập, từ đối lập đến xung đột, từ xung đột đến mâu thuẫn. Đến đây nếu có đủ điều kiện thích hợp thì nó diễn ra sự chuyển hoá cuối cùng giữa các mặt đối lập. Cả hai đều có sự thay đổi về chất, cùng phát triển đến một trình độ cao hơn. Từ đó mâu thuẫn được giải quyết sự vật mới ra đời thay thế sự vật cũ và quá trình lại tiếp tục. Vì thế đấu tranh giữa các mặt đối lập, là nguồn gốc, động lực bên trong của sự phát triển. 2.2 Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan và phổ biến Mâu thuẫn tồn tại khách quan trong các sự vật hiện tượng, nó không những tồn tại độc lập, không phụ thuộc vào ý thức, ý chí con người mà còn qui định có ý thức, ý chí con người. Mâu thuẫn mang tính chất phổ biến, mâu thuẫn có trong mọi sự vật, hiện tượng của thế giới bao gồm cả tự nhiên, xã hội lẫn tư duy con người. Mâu thuẫn có trong mọi giai đoạn phát triển khác nhau của sự vật và tồn tại giữa các sự vật, hiện tượng với nhau. Mâu thuẫn mang tính đa dạng. Mỗi sự vật, mỗi quá trình của thế giới khách quan tồn tại những mâu thuẫn khác nhau. Mâu thuẫn trong tự nhiên khác mâu thuẫn trong xã hội, khác mâu thuẫn trong tư duy. Bản thân mỗi quá trình khác nhau trong tự nhiên, xã hội, tư duy lại có những mâu thuẫn khác nhau. Như vậy sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập cho thấy mối liên hệ khách quan cơ bản, tất yếu và phổ biến của các sự vật hiện tượng, nó qui định nguồn gốc, động lực phát triển tất yếu của thế giới vật chất. Đó chính là qui luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, một trong những qui luật cơ bản của phép biện chứng duy vật. 2.3 Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập. Trong phép biện chứng duy vật khái niệm mặt đối lập là sự khái quát các thuộc tính, khuynh hướng phát triển ngược chiều nhau, tồn tại trong cùng một sự vật, hiện tượng và tạo nên sự vật, hiện tượng đó. Do đó cần phải phân biệt rằng bất kỳ hai mặt đối lập nào cũng tạo thành mâu thuẫn. Bởi vì trong các sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan, không phải chỉ tồn tại trong đó hai mặt đối lập. Trong cùng một thời điểm ở mỗi sự vật có thể tồn tại nhiều mặt đối lập. chỉ có những mặt đối lập là tồn tại thống nhất trong cùng một sự vật như một chỉnh thể nhưng có khuynh hướng phát triển ngược chiều nhau, loại trừ, phủ định và chuyển hoá lẫn nhau. Sự chuyển hoá này tạo thành nguồn gốc, động lực đồng thời qui định cái bản chất, khuynh hướng phát triển của sự vật thì hai mặt đối lập như vậy mới gọi là hai mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn. Sự thống nhất của các mặt đối lập là " nương tựa" vào nhau, là điều kiện tồn tại của nhau. Nếu thiếu một trong hai mặt đối lập chính tạo thành sự vật thì nhất định không có sự tồn tại của sự vật. Bởi vậy, sự thống nhất của các mặt đối lập là điều kiện không thể thiếu được cho sự tồn tại của bất kỳ sự vật, hiện tượng nào. Sự thống nhất này do những đặc điểm của bản thanh sự vật tạo nên. Ví dụ: Nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp và nền kinh tế thị trường (KTTT) là điều kiện chọ sự tồn tại và phát triển của công cuộc đổi mới nền kinh tế ở Việt Nam, hai nền kinh tế hoàn toàn khác nhau vì bản chất và những biểu hiện của có nhưng nó lại hết sức quan trọng. Vì có là sự thống nhất tạo nên quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam. Thiếu sự thống nhất này nền KTTT ở Việt Nam không thể tồn tại với ý nghĩa là chính nó. Ví dụ: Lực lượng sản xuất - quan hệ sản xuất trong phương thức sản xuất: Khi lực lượng sản xuất phát triển thì cùng với nó quan hệ sản xuất cũng phát triển, hai mặt này chính là điều kiện tiền đề để cho sự phát triển của phương thức sản xuất. Lực lượng sản xuất là yếu tố động luôn luôn vận động theo hướng hoàn thiện, quan hệ sản xuất phải vận động theo để cho kịp với trình độ của lực lượng sản xuất, tạo động lực phát triển lực lượng sản xuất và có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế. Tuy nhiên khái niệm thống nhất này cũng chỉ tương đối. Bản thân khái niệm đã nói lên tính chất tương đối của nó. Thống nhất của các đối lập trong thống nhất đã bao hàm trong nó sự đối lập. Tồn tại trong một thể thống nhất, hai mặt đối lập luôn luôn tác động qua lại với nhau, " đấu tranh" với nhau. Đấu tranh giữa các mặt đối lập là sự tác động qua lại theo xu hướng bài trừ và phủ định lẫn nhau giữa cá mặt đó. Sự thống nhất của các mặt đối lập trong cùng một sự vật không tác rời sự đấu tranh chuyển hoá giữa chúng. Bởi vì các mặt đối lập cùng tồn tại trong một sự vật hống nhất như một chỉnh thể trọn vẹn nhưng không nằm yêu bên nhau mà điểu chỉnh chuyển hoá lẫn nhau tạo thành động lực phát triển của bản thân sự vật. Sự đấu tranh chuyển hoá bài trừ và phủ định lẫn nhau giữa các mặt trong thế giới khách quan thể hiện dưới nhiều dạng khác nhau. Ví dụ: Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong xã hội có giai cấp đối kháng, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất tiên tiến với quan hệ sản xuất lạc hậu kìm hãm nó diễn ra gay gắt quyết liệt. Chỉ có thông qua các cuộc cách mạng xã hội bằng nhiều hình thức kể cả bạo lực mới có thể giải quyết được mâu thuẫn một cách căn bản. Sự đấu tranh của các mặt đối lập được chia làm nhiều giai đoạn. Thông thường, khi mới xuất hiện mặt đối lập chưa thể hiện rõ sự xung khắc gay gắt người ta gọi đó là giai đoạn khác nhau. Tất nhiên không phải bất kỳ sự khác nhau nào cũng được gọi là mâu thuẫn. Chỉ có những mặt khác nhau, tồn tại trong một sự vật hiện tượng liên kết hữu cơ với nhau, phát triển ngược chiều nhau, tạo thành động lực bên trong của sự phát triển, khi hai mặt ấy mới hình thành bắt đầu của mâu thuẫn. Khi hai mặt đối lập của mâu thuẫn phát triển đến giai đoạn xung đột găy gắt, nó biến thành độc lập. Nếu hội đủ các mặt cần thiết hai mặt đối lập sẽ chuyển hoá lẫn nhau. Sự vật cứ mất đi, sự vật mới xuất hiện. Sau khi mâu thuẫn được giải quyết sự thống nhất của hai mặt đối lập cũ được thay thế bằng sự thống nhất của hai mặt đối lập mới, hai mặt đối lập mới lại đấu tranh chuyển hoá tạo thành mâu thuẫn. Mâu thuẫn được giải quyết, sự vật mới hơn xuất hiện với trình độ cao hơn. Cứ như thế, đấu tranh giữa các mặt đối lập cho sự vật bién đổi không ngừng từ thấp lên cao. Chính vì vậy Lê Nin khẳng định: " sự phát triển là một cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập". Khi bàn về mối quan hệ thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập Lê Nin khẳng định rằng: "Mặc dù thống nhất chỉ là điều kiện để sự vật tồn tại với ý nghĩa nó chính là nhờ có sự thống nhất giữa các mặt đối lập mà chúng ta nhận biết được sự vật, hiện tượng tồn tại trong thế giới khách quan. Song bản thân của sự thống nhất chỉ tương đối tạm thời. Đấu tranh giữa các mặt đối lập mới là tuyệt đối. Nó diễn ra thường xuyên và liên tục trong suốt quá trình tồn tại cảu sự vật. Kể cả trong trạng thái sự vật ổn định, cũng như khi chuyển hoá nhảy vọt về chất của các mặt đối lập là có điều kiện thoáng qua, tạm thời tương đối. Sự đấu tranh của các mặt đối lập bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối cũng như sự phát triển, sự vận động là tuyệt đối. 2.4 Sự chuyển hoá của các mặt đối lập. Không phải bất kỳ sự đấu tranh nào của các mặt đều dẫn đến sự chuyển hoá giữa chúng. Chỉ có sự đấu tranh của các mặt đối lập phát triển đến một trình độ nhất định hội đủ các điều kiện cần thiết mới chuyến hoá, bài trừ và phủ định lẫn nhau. Trong giới tự nhiên chuyển hoá của các mặt đối lập thường xuyên diễn ra một cách tự phát, còn trong xã hội sự chuyển hoá của các mặt đối lập nhất thiết phải diễn ra thông qua hoạt động có ý thức của con người. Chuyển hoá của các mặt đối lập chính là lúc mâu thuẫn được giải quyết, sự vật cứ mất đi, sự vật mới ra đời, đó chính là quá trình diễn biến rất phức tạp với nhiều hình thức phong phú. Do đó không nên hiểu sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các mặt đối lập chỉ là sự hoán vị đổi vị trí một cách đơn giản, máy móc. Thông thường thì mâu thuẫn chuyển hoá theo hai phương thức: Phương thức thứ nhất: Mặt đối lập này chuyển hoá thành mặt đối lập kia nhưng ở trình độ cao hơn, xét về mặt phương diện chất của sự vật. Ví dụ: Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong xã hội phong kiến đấu tranh chuyển hoá lẫn nhau để hình thành quan hệ sản xuất mới là quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và lực lượng sản xuất mới cao hơn về trình độ. Phương thức thứ hai: Có hai mặt chuyển hoá lẫn nhau để hình thành hai mặt đối lập hoàn toàn. Ví dụ: Nền kinh tế Việt Nam chuyển từ kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ những mâu thuẫn trên cho thấy trong thế giới hiện thực, bất kỳ sự vật hiện tượng nào cũng chứa đựng trong bản thân nó những mặt những thuộc tính có khuynh hướng phát triển ngược chiều nhau. Sự đấu tranh chuyển hoá của các mặt đối lập trong những điều kiện cụ thể tạo thành mâu thuẫn. Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan phổ biến của thế giới. Mâu thuẫn được giải quyết sự vật cũ mất đi, sự vật mới hình thành sự vật mới lại nảy sinh các mặt đối lập và mâu thuẫn mới. Các mặt đối lập này đấu tranh chuyển hoá và phủ định lẫn nhau để tạo thành sự vật mới hơn. Cứ như vậy mà các sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan thường xuyên biến đổi và phát triển không ngừng. Vì vậy, mâu thuẫn và nguồn gốc, là động lực của mọi quá trình phát triển. II. Sự cần thiết khách quan phải phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, sự tồn tại của sản xuất hàng hoá là một tất yếu khách quan. Bởi vì, trong nền kinh tế nước ta lực lượng sản xuất xã hội còn rất thấp, đang tồn tại nhiều thành phần kinh tế khác nhau, sự phân công lao động xã hội yếu và sự tồn tại nhiều chủ thể sở hữu khác nhau như các thực thể kinh tế độc lập. Trong những điều kiện đó, viẹc trao đổi sản phẩm giữa các chủ thể sản xuất với nhau không thể thực hiện theo nguyên tắc nào khác là nguyên tắc trao đổi ngang giá, tức là thực hiện sự trao đổi hàng hoá thông qua thị trường, sản phẩm phải trở thành hàng hoá. Về phương diện kinh tế, có thẻ khái quát rằng, lịch sử phát triển của sản xuất và đời sống xã hội của nhân loại đã và đang trải qua hai kiểu tổ chức kinh tế thích ứng với trình độ phát triển cảu lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội, hai thời kỳ kinh tế khác hẳn nhau về chất. Đó là thời đại kinh tế tự nhiên, tự cung tự cấp, và thời đại kinh tế hàng hoá, mà giai đoạn cao của nó được gọi là kinh tế thị trường. Kinh tế tự nhiên là kiểu tổ chức kinh tế xã hội đầu tiên của nhân loại. Đó là phương thức sinh hoạt kinh tế ở trình độ thấp ban đầu là sự dụng những tặng vật của tự nhiên và sau đó là được thực hiện thông qua những tác động trực tiếp vào tự nhiên để tạo ra những giá trị sử dụng trong việc duy trì sự sinh tồn của con người. Nó được bó hẹp trong mối quan hệ tuần hoàn kép kín giữa con người và tự nhiên. Kinh tế tự nhiên lấy quan hệ trực tiếp giữa con người và tự nhiên mà tiêu biểu là giữa lao động và đất đai làm nền tảng. Hoạt động kinh tế đó gằn liền với xã hội sinh tồn, với kinh tế nông nghiệp, tự cung tự cấp. Nó đã tồn tại và thống trị trong các xã hội cộng sản nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến và tuy không còn giữ địa vị thống trị nhưng vẫn còn tồn tại trong xã hội tư bản cho đến ngày nay. Kinh tế tự nhiên, hiện vật, sinh tồn, tự cung, tự cấp gắn liền với kém phát triển và lạc hậu. Kinh tế khó khăn bắt đầu bằng kinh tế hàng hoá đơn giản, ra đời từ khi chế độ cộng sản nguyên thuỷ tan rã, dựa trên hai tiền đề cơ bản là có sự phân công lao động xã hội và có sự tách biệt về kinh tế do chế độ chiếm hữu lẫn nhau về tư liệu sản xuất. Chuyển từ kinh tế tự nhiên tự cung tự cấp sang kinh tế hàng hoá là đánh dấu bước chuyển sang thời đại kinh tế của sự phát triển thời đại văn minh cảu nhân loại. Trong lịch sử phát triển của mình vị thế của kinh tế hàng hoá cũng đang được đổi thay từ chỗ như là kiểu tổ chức kinh tế xã hội không phổ biến không hợp thời trong xã hội chiếm hữu nô lệ củ những người thợ thủ công và nông dân đã đi đến chỗ được thừa nhận trong xã hội phong kiến và đến chủ nghĩa tư bản thì kinh tế hàng hoá giản đơn không những được thừa nhận mà còn phát triển lên giai đoạn cao hơn đó là kinh tế thị trường. Chỉ đến cuối những năm 80 về cơ bản, trong nền kinh tế nước ta, sản xuất nhỏ vẫn còn là phổ biến, trạng thái kinh tế tự nhiên hiện vật, tự cung, tự cấp còn chiếm ưu thế. Xã hội Việt Nam về cơ bản vẫn dựa trên nền tảng của văn minh nông nghiệp lúa nước, nông dân chiếm đại đa số. Việt Nam vẫn là một nước nghèo nàn lạc hậu và kém phát triển. Phát triển trở thành nhiệm vụ , mục tiêu đối với toàn Đảng toàn dân ta trong bước đường đi tới. Muốn vậy, phải chuyển toàn bộ nền kinh tế quốc dân sang trạng thái của sự phát triển, là phát triển nền kinh tế thị trường cùng với nó là thực hiện công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá. ở nước ta, trong thời kỳ quá độ muốn phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất thì phải xã hội hoá và chuyên môn hoá lao động. Quá trình ấy chỉ có thể diễn ra một cách thuận lợi trong một nền kinh tế hàng hoá sản xuất càng xã hội hoá, chuyên môn hoá thì càng đòi hỏi phát triển sự hợp lại và trao đổi hoạt động trong xã hội càng phải thông qua sự trao đổi hàng hoá giữa các đơn vị sản xuất để đảm bảo những nhu cầu cần thiết của các loại hoạt động sản xuất khác nhau. Chỉ có đẩy mạnh sản xuất hàng hoá mới làm cho nền kinh tế nước ta phát triển năng động. Kinh tế tự nhiên, do bản thân của nó, chỉ duy trì tái sản xuất giản đơn. Trong cơ chế kinh tế cũ, vì coi thường qui luật giá trị nên các cơ sở kinh tế cũng thiếu sức sống và động lực để phát triển sản xuất. Sử dụng sản xuất hàng hoá là sản xuất qui luật giá trị, qui luật này buộc mỗi người sản xuất tự chịu trách nhiệm về hàng hoá do mình làm ra. Chính vì thế mà nền kinh tế trở nên sống động, Mỗi người sản xuất đâều chịu sức ép buộc phải quan tâm tới sự tiêu thụ trên thị trường, sao cho sản phẩm của mình được xã hội thừa nhận và cũng từ đó họ mới có được thu nhập. Phát triển sản xuất hàng hoá là sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội, xũng có nghĩa là sản phẩm xã hội ngày càng phong phú, đáp ứng nhu cầu đa dạng của mọi người. ở nông thôn nước ta, sự phát triển kinh tế hàng hoá và việc tăng tỷ lệ hàng hoá nông sản đã làm cho hàng hoá bán ra của nông dân nhiều lên, thu nhập tăng lên, đồng thời các ngành nghề ở nông thôn cũng ngày một phát triển, tạo ra cho nông dân nhiều việc làm. Đó cũng là điều đã diễn ra ở thành phố đối với những người lao động thành thị. Phát triển sản xuất hàng hoá có thể đào tạo ngày càng nhiều các bộ quản lý và lao động. Muốn thu được lợi nhuận, họ cần phải vận dụng nhiều biện pháp để quản lý kinh tế, thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật, hạ giá thành sản phẩm, làm cho sản xuất phù hợp với nhu cầu của thị trường, nâng cao hơn nữa hiệu quả kinh tế. Qua cuộc cạnh tranh trên thị trường, những nhân tố quản lý kinh tế và lao động thành thạo xuất hiện ngày càng nhiều và đó là một dấu hiệu quan trọng của tiến bộ kinh tế. Cái được lớn nhất từ khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường là con người trở lên năng động hơn, thái độ dựa dẫm, ngồi chờ, ỷ lại vào cấp trên và vào Nhà nước đã mất đi đáng kể. Các chính sách kinh tế mới và cơ chế thị trường thực sự đã khơi dậy và nâng cao vai trò chủ động kích thích sự sáng tạo của con người quản lý điều hành làm người trực tiếp sản xuất tính hiệu quả của sản xuất và kinh doanh được quan tâm đặc biệt được coi là tiêu chuẩn quan trọng nhất để đánh giá một ngành sản xuất hoặc kinh doanh nào đó. Nền kinh tế được cởi trói đã làm sáng lại biết bao nhiêu tiềm năng vật chất và trí tuệ, giải phóng được lực lượng sản xuất, đã khơi dậy được các động lực cho chính nó. Như vậy mà đời sống của nhân dân ở nhiều vùng được cải thiện rõ nét và điều quan trọng nhất là đất nước đã ra khỏi khủng hoảng đã có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế. Cái thời mà nhiệm vụ thường trực số 1 của Chính phủ là lo điều hoà lương thực giữa các vùng các miền để cho dân có gạo ăn ở mức quy định còn người dân muốn mua từ cái kim sợi chỉ, lạng đường mớ rau cũng đều phải chen chúc xếp hàng và theo tem phiếu và xem các mặt hàng làm sao đủ sức cạnh tranh với hàng ngoại, chen chân vào được và hơn nữa trụ lại được ở thị trường của các nước khác. Như vậy phát triển sản xuất hàng hoá đối với nước ta là một tất yếu kinh tế, một nhiệm vụ kinh tế cấp bách để chuyển nền kinh tế lạc hậu thành nền kinh tế hiện đại hội nhập vào sự phân công lao động quốc tế. Đó là con đường đúng đắn để phát triển lực lượng sản xuất khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng của đất nước để thực hiện nhiệm vụ công nghiệp hoá hiện đại hoá. Kinh tế hàng hoá không đối lập với các nhiệm vụ kinh tế - xã hội của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội mà trái lại thúc đẩy các nhiệm vụ đó phát triển mạnh mữ hơn. Thực tiễn những năm đổi mới chỉ ra rằng, việc chuyển sang mô hình kinh tế hàng hoá là hoàn toàn đúng đắn. Nhờ mô hình kinh tế đó chúng ta đã bước đầu khai thác được tiềm năng trong nước đi đôi với thu hút vốn và kỹ thuật nước ngoài, giải phóng được năng lực sản xuất trong xã hội, phát triển lực lượng sản xuất, góp phần quyết định bảo đảm nhịp độ tăng trưởgn GDP bình quân hàng năm trong những năm 1991 - 1995 là 8,3% vượt mức đề ra ( 5,5% - 6%) 1. Bản chất, đặc điểm của nền kinh tế thị trường (KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Chuyển nền kinh tế từ hoạt động theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung - hành chính - quan liêu - bao cấp sang phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là nội dung, bản chất và đặc điểm khái quát nhất đối với nền kinh tế nước ta trong hiẹn tại và tương lai. Đặc biệt, cương lĩnh xây dựng đất nước, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VII thông qua vào năm 1991 cũng đã nêu lên 6 đặc trưng bản chất của xã hội xã hội chủ nghĩa và những quan điẻm phương hướng tổng quát và phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Tuy nhiên cũng cần phải phân tích sâu thêm bản chất, đặc điểm đã được khái quát nói trên, đã có thể hiểu rõ và thống nhất hơn trong nhận thức và hành động. 2. Nền KTTT định hướng XHCN mà nước ta sẽ xây dựng là nền KTTT hiện đại với tính chất xã hội hiện đại. Khi nhìn lại những sai lầm trong thời kỳ thực hiẹn "cơ chế tập trung quan liêu bao cấp" tại ở Đại hội lần thứ VI (12/1986) Đảng ta thừa nhận: " chúng ta đã có những thành kiến không đúng, trên thực tế, chưa thật sự thừa nhận những qui luật của sản xuất hàng hoá đang tồn tại khách quan, do đó không vận dụng chúng vào việc chế định các chủ trương chính sách kinh tế" Trong nhận thức cũng như trong hành động chúng ta chưa thật sự thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta còn tồn tại trong một thời gian tương đối dài, chưa nắm vững và vận dụng đúng qui luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ cảu lực lượng sản xuất. Mặc dù nền kinh tế nước ta đang nằm trong tình trạng lạc hậu và kém phát triển nhưng khi nước ta chuyển sang phát triển kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường, thì thế giới đã chuyển sang giai đoạn kinh tế thị trường hiện đại ( do những khiếm khuyết của kinh tế thị trường tự do ). Bởi vậy chúng ta không thể và không nhất thiết phải trải qua giai đoạn kinh tế hàng hoá giản đơn và giai đoạn kinh tế thị trường tự do, mà đi thẳng vào phát triển kinh tế thị trường hiện đại. Đây là nội dung và yêu cầu của sự phát triển rút ngắn. Mặt khác, thế giới vẫn đang nằm trong thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, cho nên, sự phát triển kinh tế xã hội nước ta phải theo định hướng xã hội chủ nghĩa là cần thiết, khách quan và cũng là nội dung, yêu cầu của sự phát triển rút ngắn. Sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh vừa là mục tiêu, vừa là nội dung, nhiệm vụ của việc phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đảng và Nhà nước khuyến khích mọi người dân trong xã hội làm giàu một cách hợp pháp. Dân có giàu thì nước mới mạnh, nhưng dân giàu phải làm cho nước mạnh, bảo đảm độc lập tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia. 3 Nền kinh tế của chúng ta là nền kinh tế hỗn hợp nhiều thành phần với vai trò chỉ đạo của kinh tế Nhà nước. Trong thời kỳ quá độ còn tồn tại nhiều thành phần kinh tế do lịch sử để lại và còn có lợi ích cho sự phát triển kinh tế chủ nghĩa xã hội. Kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế cá thể. Thực tế ở Việt Nam, thành phần kinh tế tư nhân đã có đóng góp ngày càng tăng vào tổng sản phẩm trong nước (GDP) từ đầu thập niên đến nay. Nếu tính toàn bộ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh nói chung, đóng góp của khu vực này qua các năm như sau (theo giá năm 1989 ) đơn vị: Tỷ đồng. 1990 1991 1992 1993 1994 19856 20755 22201 23623 25224 Cao hơn so với thành phần kinh tế quốc doanh lần lượt là: 10186 tỷ; 10224 tỷ; 10411 tỷ; 10511 tỷ; 10466 tỷ. Tỷ lệ đóng góp vào ngân sách qua thuế công thương nghiệp, dịch vụ của kinh tế ngoài quốc doanh so với GDP cũng tăng liên tục từ năm 1991 đến 1994 3,8%; 5,2%; 6,3%; và 5,5%. Thành phần kinh tế cá thể có khả năng đóng góp nhiều lợi ích cho xã hội như tiền vốn, sức lao động, kinh nghiệm, truyền thống sản xuất. Nó có phạm vi hoạt động rộng trong phạm vi cả nước, có mặt các vùng kinh tế, sản xuất trong nhiều lĩnh vực. Trong quá trình cải tạo XHCN nền kinh tế cũ, nảy sinh những thành phần kinh tế mới. Kinh tế tư bản Nhà nước, các loại kinh tế HTX. Trong quá trình hình thành và phát triển nền kinh tế mới vẫn còn bị ảnh hưởng những khuyết tật của cơ chế cũ, cơ chế tập trung quan liêu bao cấp đã phủ định những mâu thuẫn vốn có của nền kinh tế quá độ. Sự mâu thuẫn giai cấp trong xã hội tuye không gay gắt những cũng có những hạn chế nhất định đối với sự phát triển của xã hội. Mâu thuẫn giai cấp là một tất yếu khách quan, của bất kỳ một xã hội nào và mâu thuẫn chính là cơ sở cho sự phát triển của xã hội đó. ở nước ta bên cạnh mâu thuẫn giai cấp còn có mâu thuẫn chế độ sở hữu. Mấy măn trước đây đã ồ ạt xóa bỏ chế độ tư hữu xác lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất dưới hai hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Đại hội lần thứ VI của Đảng đã phát hiện và kiên quyết thông qua đổi mới đã khắc phục sai lầm đó, bằng cách thừa nhận vai trò cảu sự tồn tại của hình thức tư hưu trong tính đa dạng các hình thức sở hữu. Cần gắn với lợi ích sở hữu kinh tế vì lợi ích kinh tế là bản chất kinh tế của xã hội. Nước ta quá độ lên CNXH, bỏ qua chế độ Tư bản, từ một nước xã hội vốn là thuộc địa nửa phong kiến, lực lượng sản xuất rất thấp. Đất nước trải qua hàng chục năm chiến tranh, hậu quả để lại còn nặng nề, kinh tế nông nghiệp kém phát triển. Bên cạnh những nước XHCN đã đạt được những thành tựu to lớn về nhiều mặt, đã từng là chỗ dựa cho phong trào hoà bình và cách mạng thế giới, cho việc đẩy lùi nguy cơ chiến tranh hạt nhân góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội vẫn còn là một nước XHCN lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Vì thế mâu thuẫn giữa CNXH và CNTB đang diễn ra gay gắt. Trước mắt CNTB còn có tiềm năng phát triển kinh tế nhờ ứng dụng những thành tựu đổi mới khoa học công nghệ, cải tiến phương pháp quản lý. Chính nhờ những thứ đó mà các nước tư bản có nền đại chủ nghĩa tư bản phát triển. Các nước XHCN trong đó có Việt Nam phải tiến hành cuộc đấu tranh rất khó khăn và phức tạp, chống nghèo nàn lạc hậu, chống chủ nghĩa thực dân mới dưới mọi hình thức chống sự can thiệp và xâm lược của chủ nghĩa đế quốc nhằm bảo vệ độc lập và chủ quyền dân tộc. Chính sự vận động của tất cả các mâu thuẫn đó đã dẫn tới hậu quả tất yếu phải đổi mới nền kinh tế nước ta và một trong những thành tựu về đổi mới nền kinh tế là bước đầu hình thành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần khắc phục được tình trạng độc quyền, tạo ra động lực cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá phát triển. Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là đặc trưng cơ bản của kinh tế quá độ, vừa là tất yếu cần thiết vừa là phương tiện đã đạt được mục tiêu của nền sản xuất xã hội nó vừa tạo cơ sở làm chủ về kinh tế vừa đảm bảo kết hợp hài hoà hệ thống lợi ích kinh tế. Đó là động lực của sự phát triển. Trong phát triển kinh tế vai trò chủ đạo cua kinh tế Nhà nước trong một số lĩnh vực, một số khâu quan trọng có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Nền kinh tế hàng hoá, nền kinh tế thị trường phải là một nền kinh tế đa thành phần, đa hình thức sở hữu. Thế nhưng nền kinh tế thị trường mà chúng ta sẽ xây dựng là nền kinh tế thị trường hiện đại, cho nên cần có sự tham gia bởi "bàn tay hữu hình" của Nhà nước trong điều tiết, quản lý nền kinh tế đó. Đồng thời chính nó sẽ bảo đảm sự định hướng phát triển của nền kinh tế thị trường. Sự quản lý, điều tiết, định hướng phát triển nền kinh tế thị trường của Nhà nước là thông qua các công cụ chính sách kinh tế vĩ mô và vai trò chủ đạo của khu vực kinh tế Nhà nước. Kinh tế Nhà nước phải nắm giữ vai trò chủ đạo ở một số lĩnh vực then chốt, có ý nghĩa là " đài chỉ huy" là "mạch máu" của nền kinh tế. Cùng với việc nhấn mạnh vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước, cần coi trọng vai trò của khu vực kinh tế tư nhân và kinh tế hỗn hợp, đặt chúng trong mối quan hệ gắn bó hữu cơ, thống nhất, không tách rời, biệt lập. 4. Nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở nước ta là Nhà nước pháp quyền XHCN,là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Vai trò quản lý của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường hết sức quan trọng. Sự quản lý của Nhà nước bảo đảm cho nền kinh tế tăng trưởng ổn định, đạt hiệu quả, đặc biệt là sự bảo đảm công bằng và tiến bộ xã hội. Không có ai ngoài Nhà nước lại có thể giảm bớt được sự chênh lệch giữa giàu và nghèo, giữa thành thị và nông thôn, giữa công nghiệp và nông nghiệp giữa các vùng của đất nước. Tuy vậy cần nhấn mạnh rằng thành tố quan trọng mang tính quyết định trong nền kinh tế thị trường hiện đại là Nhà nước tham gia vào các quá trình kinh tế. Nhưng khác với Nhà nước của nhiều nền kinh tế thị trường trên thế giới. Nhà nước ta là Nhà nước "của dân, do dân và vì dân", Nhà nước công nông, Nhà nước của đại đa số nhân dân lao động, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Nó có đủ bản lĩnh, khả năng và đang tự đổi mới để bảo đảm giữa vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong việc phát triển nền kinh tế thị trường hiện đại ở nước ta. Sự khác biệt về bản chất Nhà nước là một nội dung và là một điều kiện, một tiền đề để cho sự khác biệt về bản chất của mô hình kinh tế thị trường ở nước ta so với nhiều mô hình kinh tế thị trường khác trên thế giới. 5. Cơ chế vận hành của nền kinh tế được thực hiện thông qua cơ chế thị trường với sự tham gia quản lý điều tiết của Nhà nước. Điều đó có nghĩa là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta cũng vận động theo những qui luật kinh tế nội tại của kinh tế thị trường nói chung, thị trường có vai trò quyết định đối với việc phân phối các nguồn lực kinh tế. Sư quản lý của Nhà nước nhằm hạn chế, khắc phục những thất bại của thị trường, thực hiện các mục tiêu xã hội, nhân đạo mà bản thân thị trường không thể làm được. Mọi hoạt động sản xuất - kinh doanh trong nền kinh tế được thực hiện thông qua thị trường. Các qui luật của kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường (qui luật giá trị, qui luật cung cầu, qui luật cạnh tranh - hợp tác ... ) sẽ chi phối các hoạt động kinh tế. Qui luật giá trị qui định mục đích theo đuổi trong hoạt động kinh tế và lợi nhuận ( là giá trị không ngừng tăng lên ) qui định sự phân bố các nguồn lực vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh khác nhau, đồng thời đặt các chủ thể kinh tế trong một cuộc cạnh tranh quyết liệt. Thông qua các củng cố, chính sách kinh tế vĩ mô, cùng với việc sử dụng các lực lượng kinh tế của mình ( kinh tế Nhà nước ), Nhà nước tác động lên mối quan hệ tổng cung - tổng cầu thực hiện sự điều tiết nền kinh tế thị trường. Như vậy, cơ chế hoạt động của nền kinh tế là thị trường điều tiết nền kinh tế, Nhà nước điều tiết thị trường và mối quan hệ Nhà nước - thị trường - các chủ thể kinh tế là mối quan hệ hữu cơ, thống nhất. Như đã biết, nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa đã đưa đến những hậu quả nghiêm trọng về mặt xã hội. Ngay từ năm 1848, trong " tuyên ngôn của Đảng cộng sản" C.mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra rằng: xã hội tư bản "không để lại giữa người và người một mối quan hệ nào khác ngoài mối lợi lạnh lùng và lối "trả tiền ngay" không tình nghĩa". Ngày nay chính một nhà nghiên cứu phương Tây Egát Moring đã đưa ra nhận xét chua chát: " trong các nền văn minh được gọi là phát triển của chúng ta, tồn tại một tình trạng kém phát triển thảm hại về văn hoá, trí não, đạo đức và tình người". Vì vậy nền kinh tế thị trường ở nước ta không phải là kinh tế thị trường tự do, thả nổi mà là nền kinh tế có định hướng mục tiêu xã hội - xã hội chủ nghĩa. Sự phát triển kinh tế thị trường được xem là phương thức, con đường thực hiện mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Mở cửa, hội nhập nền kinh tế trong nước với nền kinh tế thế giới trên cơ sở giữ vững độc lập tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia là nội dung quan trọng của nền kinh tế thị trường ở nước ta. Nền kinh tế thị trường ở nước ta là nền kinh tế mở, hội nhập với kinh tế thế giới và khu vực thị trường trong nước gần với thị trường thế giới thực hiện những thong lệ trong quan hệ kinh tế quốc tế, nhưng vẫn giữ được độc lập chủ quyền và bảo vệ được lợi ích quốc gia, dân tộc trong quan hệ kinh tế đối ngoại. Thực ra, đây không phải là đặc trưng riêng của nền kinh tế thị trường định hướng mà là xu hướng chung của nền kinh tế trên thế giới hiện nay ( ở đây muốn nhấn mạnh sự khác biệt giữa nền kinh tế đóng, khép kín trước đổi mới) trong điều kiện hiện nay chỉ có mở cửa kinh tế, hội nhập vào kinh tế thế giới và khu vực mới thu hút được vốn, kỹ thuật - công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý trên tiền đề khai thác tiềm năng và thế mạnh của nước ta, thực hiện phát triển kinh tế thị trường theo kiểu rút ngắn. Thực hiện mở cửa kinh tế theo định hướng đa phương hoá và đa dạng hoá các hình thức kinh tế đối ngoại, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu những sản phẩm mà trong nước sản xuất có hiệu quả. Quá trình phát triển của kinh tế thị trường đi liền với xã hội hoá nền sản xuất xã hội. Tiến trình xã hội hoá trên cơ sở phát triển của kinh tế thị trường là không có biên giới quốc gia và phương diện kinh tế. Một trong những đặc trưng quan trọng cảu kinh tế thị trường hiện đại là việc mở rộng giao lưu với kinh tế nước ngoài. Sự mở cửa hội nhập được thực hiện trên ba nội dung chính là: thương mại, đầu tư và chuyển giao khoa học - công nghệ. Tuy nhiên sự mở cửa, hội nhập không có nghĩa là sự hoà tan, đánh mất mình mà phải trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh và không ngừng nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, giữ vững độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. III. Mâu thuẫn biện chứng trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. 1. Thực chất nền kinh tế thị trường ở Việt Nam 1.1 Khái niệm kinh tế thị trường Kinh tế thị trường là một kiểu quan hệ kinh tế xã hội mà trong đó, sản xuất xã hội gắn chặt với thị trường, tức là gắn chặt với quan hệ hàng hoá, tiền tệ, với quan hệ cung cầu ... trong nền kinh tế thị trường nét biểu hiện có tính chất bề mặt của đời sống xã hội là quan hệ hàng hoá, Mọi hoạt động xã hội đều phải tình đến quan hệ hàng hoá hay ít nhất thì cũng phải sản xuất các quan hệ hàng hoá như mắt khâu trung gian. 1.2 Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. Thành tựu của 10 năm đổi mới vừa qua ở nước ta đã có tác dụng làm cho nước ta quen dần với các quan hệ hàng hoá. Hàm lượng kinh tế trong các hoạt động xã hội ngày càng được chú ý. Những kế hoạch những hoạt động xã hội bất chấp kinh tế hoặc phi kinh tế đã giảm đáng kể. Bước chuyển sang kinh tế thị trường này đương nhiên không tránh khỏi có những mặt tiêu cực của nó, nhưng dẫu sao nó cũng nói lên sức sống và khả năng tác động của những quan hệ thị trường " ở Việt Nam, dù nền kinh tế thị trường mới chỉ đang hình thành, còn đang trong những bước chập chững ban đầu và được điều tiết một cách có ý thức theo định hướng XHCN, song cũng tác động khá rõ đén mọi mặt của đời sống xã hội và để lại đó những dấu ấn của mình..." Nếu như trước đây, nền kinh tế nước ta chỉ có một kiểu sở hữu thuần nhất với hai thành phần kinh tế tập thể và quốc doanh, thì hiện nay cùng với thành phần sở hữu chủ đạo là sở hữu Nhà nước thì còn tồn tại nhiều thành phần sở hữu khác, về tổng thể, chúng là những bộ phận khách quan của nền kinh tế, có khả năng đáp ứng những đòi hỏi đa dạng và năng động của kinh tế thị trường. Trên con đường CNH - HĐH, việc chúng ta bắt đầu sử dụng thị trường như một công cụ, một phương thức để đảm bảo tăng trưởng kinh tế, trên thực tế, đã đem lại những kết quả tích cực về cả phương diện, thực tiễn lẫn phương diện nhận thức. Một hành trang có ý nghĩa mà công cuộc đổi mới cho chúng ta là, sản xuất hàng hoá cùng với "nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thh " hiện nay đã được chúng ta hiểu là không mâu thuẫn với CNXH. Với tính cách là sản phẩm của văn minh nhân loại, một cơ hội để cộng đồng mở cửa, tiếp xúc với bên ngoài. Kinh tế thị trường rõ ràng là khách quan là tất yếu đối với công cuộc xây dựng CNXH. Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta, thị trường vừa là căn cứ, vừa là đối tượng của công tác kế hoạch hoá. Việc điều tiết vĩ mô đối với thị trường, một mặt là nền kinh tế nước ta thực sự trở thành một thị trường thống nhất - thống nhất trong cả nước và thống nhất với thị trường thế giới, mặt khác còn có tác dụng làm cho mỗi đơn vị kinh tế buộc phải tự khẳng định mình - vai trò của mình trong thị trường. 2. Những mâu thuẫn phát sinh trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. + Một số vấn đề lý luận chung của chủ nghĩa Mác - Lênin về quan hệ giữa kinh tế và chính trị. Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin thì kinh tế quyết định chính trì: " Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế " Trong lịch sử phát triển xã hội loài người không phải báo về cũng có vấn đề chính trị. Xã hội nguyên thuỷ chưa có giai cấp, chưa có vấn đề về chính trị. Từ khi xã hội xuất hiện giai cấp và Nhà nước thì vấn đề chính trị mới hình thành. Vấn đề chính trị là vấn đề thuộc quan hệ giai cấp và đấu tranh giai cấp. TRung tâm của vấn đề chính trị là vấn đề đấu tranh giữa các giai cấp, các lực lượng xã hội nhằm giành và giữ chính quyền Nhà nước và sử dụng chính quyền đó là công cụ để xây dựng và bảo vệ chế độ xã hội phù hợp với lợi ích của giai cấp cầm quyền. Bản thân vấn đề chính trị ra đời hoàn toàn là do kinh tế quyết định. Chính trị không phải là mục đích, mà chỉ là phương tiện để thực hiện mục đích kinh tế. Khi phê pháp quan niệm của Đuyrich cho rằng bạo lực chính trị quyết định kinh tế,. F. Engen đã khẳng định " bạo lực cho là phương tiện, còn lợi ích kinh tế là mục đích". Trong tác phẩm "Lútvích Phoiơbăc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức", F.Engen đã chỉ rõ "để thoả thuận những lợi ích kinh tế thì quyền lực chính trị chỉ được sử dụng là một phương tiện đơn thuần. Quyền lực chính trị là công cụ mạnh mẽ nhất để bảo vệ chế độ xã hội. Sự thống trị về chính trị của một giai cấp nhất định là điều kiện đảm bảo cho giai cấp đó thực hiện được sự thống trị về kinh tế . Đấu tranh giai cấp, về thực chất là đấu tranh vì lợi ích kinh tế, được thực hiện thông qua đấu tranh chính trị. Theo F.Engen " bất cứ cuộc đấu tranh giai cấp nào cũng đều là đấu tranh chính trị, xét đến cùng, đều xoay quanh vấn đề giải phóng về kinh tế". Để nhấn mạnh vai trò của chính trị V.I Lênin đã khẳng định " chính trị không thể chiếm vị trí hàng đầu so với kinh tế " khẳng định đó của Lênin không có nghĩa là phủ nhận hoàn toàn vai trò quyết định của kinh tế đối với chính trị, mà muốn nhấn mạnh tác động tích cực của chính trị đối với kinh tế. Vấn đề kinh tế không thể tách rời vấn đề chính trị mà nó được xem xét giải quyết theo một lập trường chính trị của giai cấp đó nhằm phục vụ cho mục tiêu kinh tế xã hội nhất định. Và lập trường chính trị đúng hay sai sẽ thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế. V.I Lênin còn khẳng định " không có một lập trường chính trị đúng thì một giai cấp nhất định nào đó không thể nào giữ vững được sự thống trị của mình và do đó, cũng không thể hoàn thành được nhiệm vụ của mình trong lĩnh vực sản xuất". Khi thể chế chính trị không phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thì kinh tế tất yếu sẽ mở đường đi. Khi đó, việc thay đổi thể chế chính trị cho phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế là điều kiện quyết định để thúc đẩy kinh tế phát triển. Như vậy, chúng ta có thể khẳng định rằng kinh tế và chính trị là thống nhất và biện chứng với nhau trên nền tảng quyết định là kinh tế. Đây là cơ sở phương pháp luận quan trọng trong việc nhận thức xã hội nói chung, nhận thức công cuộc đổi mới ở Việt Nam nói riêng. Từ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII ( tháng 6/1994) Đảng ta đã khẳng định: " Về quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị phải tập trung sức làm tốt đổi mới kinh tế, đáp ứng những đòi hỏi cấp bách của nhân dân về đời sống, việc làm và nhu cầu xã hội khác, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH, coi đó là điều kiện quan trọng để tiến hành đổi mới trong lĩnh vực chính trị. Đồng thời với đổi mới kinh tế , phải từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, phát huy ngày càng tốt quyền làm chủ và năng lực sáng tạo của nhân dân trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội. Vì chính trị đụng chạm đến tất cả các mối quan hệ đặc biệt nhạy cảm và phức tạp trong xã hội, nên việc đổi mới hệ thống chính trị nhất thiết phải trên cơ sở nghiên cứu và chuẩn bị rất nghiêm túc, không cho phép gây mất ổn định chính trị dẫn đến sự rối loạn. Nhưng không vì thế mà tiến hành chậm trễ đổi mới chính trị nhất là về tổ chức bộ máy và các bộ, các mối quan hệ giữa Đảng vaqf Nhà nước và các đoàn thể nhân dân, bởi đó là điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội và thực hiện dân chủ" Điều đó cho thấy Đảng ta đã không tách rời đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Đảng ta khẳng định rằng phải tập trung sức làm tốt đổi mới kinh tế và đồng thời với đổi mới kinh tế phải tiến hành từng bước đổi mới chính trị, nhưng phỉa thận trọng không gây mất ổn định về chính trị. Tư tưởng trên đã được tiếp tục phát triển một cách rõ ràng hơn ở Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII ( tháng 7 năm 1996 ) của Đảng ta. Khi tổng kết các bài học của 10 năm đổi mới, Đảng ta đã khẳng định phải kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị. Đây là một bài học khái quát mới, hoàn toàn khoa học. Nó vừa phù hợp với lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin vừa phù hợp với thực tiễn công cuộc đổi mới ở nước ta. TRong khi đề ra đổi mới chính trị, Đảng ta luôn nhấn mạnh phải ổn định chính trị, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng. Điều này tưởng như một nghịch lý nhưng hoàn toàn có lý và khoa học. ổn định về chính trị, nói một cách khái quát là giai cấp cầm quyền phải tăng cường quyền lực chính trị của mình. Nhà nước của giai cấp đó phải mạnh và có hiệu lực, luật pháp phải nghiêm minh, chế độ xã hội đã xác lập phải được giữ vững. Đối với nước ta hiện nay, ổn định về chính trị thực chất là giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo cảu Đảng, tăng cường vai trò của Nhà nước XHCN bảo vệ và xây dựng thành công CNXH. Thực tiễn trên thế giới cho thấy, ổn định chính trị là điều kiện hết sức cơ bản để phát triển kinh tế. Nó tạo ra môi trường để thu hút nguồn đầu tư trong nước và trên thế giới, tạo điều kiện phát triển sản xuất kinh doanh. Những thành tựu trong 10 năm đổi mới vừa qua ở nước ta cũng khẳng định điều đó. Những thành tựu đó không thể tách rời việc chúng ta giữ được ổn định về chính trị. ổn định về chính trị lại không thể tách rời đổi mới về chính trị. Nhưng đổi mới chính trị không phải là đổi mới vô nguyên tắc, mà đổi mới là để giữ vững ổn định về chính trị, giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, vai trò tổ chức quản lý của Nhà nước XHCN. Đổi mới chính trị phải gắn liền với đổi mới về kinh tế, phù hợp với yêu cầu phát triển của kinh tế thì mới có thể tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng và vai trò tổ chức quản lý của Nhà nước XHCN và nhờ đó mới giữ vững ổn định về chính trị. Song đổi mới về kinh tế cũng không phải đổi mới một cách tuỳ tiện mà theo một định hướng nhất định. Đó là chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang "nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa" hay nói ngắn gọn là kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN là nhằm thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh" và đó cũng là cơ sở để giữ vững ổn định về chính trị. Tóm lại: ổn định và đổi mới về chính trị là hai mặt đối lập nhưng thống nhất biện chứng với nhau. Có ổn định thì mới đổi mới, và đổi mới là điều kiện để ổn định. Hai mặt đó tác đọng qua lại với nhau và gắn bó chặt chẽ với đổi mới kinh tế, trên nền tảng của đổi mới kinh tế. Như vậy, chúng ta thấy trong quá trình đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị luôn gắn bó chặt chẽ với nhau, thống nhất với nhau, trong đó đổi mới kinh tế là trọng tâm, đổi mới chính trị tiến hành từng bước phù hợp với đổi mới kinh tế, đáp ứng yêu cầu của đổi mới kinh tế. Điều khẳng định đó là sự khái quát kinh nghiệm của 10 năm đổi mới vừa qua là kết quả của việc vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam. Khái quát đó hoàn toàn khoa học và có giá trị định hướng cho giai đoạn phát triển tiếp theo - giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. + Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất: Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý cua nhà nước theo định hướng XHCN ở nước ta hiện nay, vấn đề lực lượng sản xuất - quan hệ sản xuất là một vấn đề hết sức phức tạp, mâu thuẫn giữa hai lực lượng này và những biểu hiện của nó xét trên phương diệt triết học Mác - Lênin theo đó lực lượng sản xuất là nội dung của sự vật còn quan hệ sản xuất là ý thức của sự vật, lực lượng sản xuất là yếu tố quyết định quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất là yếu tố động luôn thay đổi. Khi lực lượng sản xuất phát triển đến một trình độ nhất định thì quan hệ sản xuất sẽ không còn phù hợp nữa và trở thành yếu tố kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển. Để mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển cần thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng một quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Chính quan hệ sản xuất tự phát triển để phù hợp với lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất đó là quy luật kinh tế chung cho sự phát triển xã hội. Quá trình mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất tiên tiến với quan hệ sản xuất lạc hậu kìm hãm nó diễn ra gay gắt, quyết liệt và cần được giải quyết. Nhưng giải quyết nó bằng cách nào? đó chính là các cuộc cách mạng xã hội chuyển đổi nền kinh tế mà cuộc chuyển đổi nền kinh tế ở nước ta là một ví dụ. Khi một mục tiêu, một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng, thể hiện tính chất cách mạng của công cuộc đổi mới hiện nay ở Việt Nam là phấn đấu xây dựng nước ta trở thành quốc gia công nghiệp hoá, hiện đại hoá, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Công nghiệp hoá đất nước là chủ trương, biện pháp vừa mang tính chách mạng vừa mang tính khoa học để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nói đến công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước chính là nói đến nền sản xuất tiên tiến và đó chính là lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, nói đến khoa học, đến sự anh minh trí tuệ là nói đến một phương thức tối ưu để thoát khỏi tình trạng sản xuất nhỏ, nông nghiệp lạc hậu, nhằm tạo điều kiện và cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội được xây dựng và phát triển. Không thể ăn đói, mặt rách với cái cuốc trên vai cộng thêm tấm lòng cộng sản để kiến thiết chủ nghĩa xã hội, chuyển sang nền kinh tế thị trường. Khẳng định cái mới, đúng đắn tự bản thân nó đã bao gồm cả ý nghĩa ổn định gạt bỏ cả quan niệm cũ sai lầm về điều kiện và cách thức xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trước đây chúng ta thiếu quan tâm đúng mức đến vai trò của trí tuệ, khoa học đến việc tạo lập cơ sở kinh tế vật chất của chủ nghĩa xã hội. Bằng chứng là một thời chúng ta đã coi trọng không đúng mức tầng lớp trí thức và khoa học trong môi trường tương quan với đội ngũ những người lao động khác. Do thế, hậu quả tất yếu đã xảy ra là khoa học ở nước ta là chậm hoặc ít có điều kiện môi trường phát triển, đất nước không thoát khỏi nền sản xuất nhỏ, nông nghiệp lạc hậu, và cũng không thể nói đến công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. + Mâu thuẫn giữa các hình thái sở hữu trước đây và trong nền kinh tế thị trường. Trước đây người ta quan niệm những hình thức sở hữu trong CNXH là : Sở hữu chủ nghĩa xã hội tồn tại dưới hai hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Sự tồn tại hai hình thức sở hữu đó là tất yếukhách quan bởi những điều kiện lịch sử khi tiến hành cách mạng chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội quyết định. Sau khi giành được chính quyền giai cấp công nhân đứng trước hai hình thức sở hữu tư nhân khác nhau. Sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa và sở hữu tư nhân của những người sản xuất nhỏ. Thực tế đòi hỏi giai cấp công nhân phải có thái độ và phát triển giải quyết khác nhau. Đối với hình thức sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa bằng cách tước đoạt hoặc chuộc lại để chuyển thẳng lên sở hữu toàn dân, còn đối với hình thức sở hữu tư nhân của những người sản xuất hàng hoá nhỏ thì không thể dùng những biện pháp như trên mà phải kiên trì giáo dục, thuyết phục tổ chức họ trên cơ sở tự nguyện chuyển lên sở hữu tập thể bằng con đường hợp tác hoá hai hình thức. Sở hữu đó là hai con đường thù tiến lên chủ nghĩa cộng sản của giai cấp công nhân và nông dân tập thể. Các hình thức sở hữu trước đây là trong thời kỳ quá độ chuyển sang kinh tế thị trường ở Việt Nam. Hơn 10 năm đổi mới đất nước theo định hướng xã hội ở nước ta đã chứng minh tính đúng đắn của đường lối đổi mới cua chính sách đa dạng hoá các hình thức sở hữu do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo toàn dân thực hiên. Thực tiễn đã cho thấy mọt nền kinh tế nhiều thành phần đương nhiên phải bao gồm nhiều hình thức sở hữu chứ không phải chỉ có hai hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể như quan niệm trước đây... Trong giai đoạn hiện nay nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN mà chúng ta đang xây dựng và phát triển bao gồm nhiều hình thức sở hữu như sở hữu toàn dân, sở hữu nhà nước sở hữu tập thể, sở hữu cá thể và sở hữu hỗn hợp. Trong các hình thức sở hữu này khái quát lại chỉ có hai hình thức sở hữu cơ bản là công hữu và tư hữu, còn các hình thức khác chỉ là hình thức trung gian quá độ hoặc hỗn hợp ở đây mỗi hình thức lại có nhiều phương thức biểu hiện về trình độ thể hiện khác nhau. Chúng được hình thành trên cơ sở có cùng bản chất kinh tế là tuỳ theo trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và năng lực quản lý. Về sở hữu toàn dân: Trước đây người ta quan niệm sở hữu toàn dân trùng với sở hữu nhà nước. Nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần thì đương nhiên là nó bao gồm nhiều hình thức sở hữu, trong đó kinh tế quốc doanh giữ vị trí then chốt, liên kết và hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển theo hướng có lợi cho quốc tế dân sinh. Nhà nước quản lý kinh tế với tư cách là cơ quan có quyền lực đại diện cho lợi ích của nhân dân và là đại diện đối với tài sản sở hữu của toàn dân. ở nước ta hiện nay, như hiến pháp và luật đất đai đã quy định rõ: “đất đai thuộc sở hữu toàn dân”. Xét về mặt kinh tế đất đai là phương tiện tồn tại cơ bản của cả một cộng đồng xã hội. Xét về mặt xã hội đất đai là lãnh thổ nơi cư trú của cả một cộng đồng. Thế nhưng khi xét cả hai phương diện có thể nói rằng đất đai không thể là đối tượng sở hữu của riêng ai. Tuy nhiên, suy cho cùng, đất đai cũng là tư liệu sản xuất hay nói chính xác hơn đó là một bộ phận quan trọng của tư liệu sản xuất. Bởi thế, dù là đặc biệt thì trong nền kinh tế hàng hoá nó vẫn phải vận động theo quy luật của thị trường và chịu sự điều tiết của quy luật đó. Việc đất đai thuộc sở hữu toàn dân mà nhà nước là người đại diện sở hữu và quản lý không hề mâu thuẫn với việc trao quyền cho các hộ nông dân, kể cả quyền chuyển nhượng, quyền sử dụng đất đai nếu biết giải quyết cụ thể các vấn đề sở hữu, biết tách quyền sở hữu với quyền sử dụng. Chẳng hạn như ruộng đất vẫn thuộc quyền sở hữu toàn dân song người nông dân có quyền sử dụng ổn định lâu dài thì có thể đem lại một sức bật cho sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự tăng trưởng của nền kinh tế nói chung. Văn kiện đại hội VII của Đảng ta đã chỉ rõ: “Trên cơ sở chế độ sở hữu toàn dân về đất đai, ruộng đất được giao cho người nông dân sử dụng lâu dài. Nhà nước quy định bằng luật pháp các vấn đề về thừa kế, chuyển quyền sử dụng đất ...” (Đảng cộng sản Việt Nam văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII - Nhà xuất bản sự thật - Hà Nội năm 1991). Như vậy hình thức sở hữu toàn dân ở nước ta hiện nay đã được xác định theo nội dung mới, có nhiều khả năng để thực sự trở thành nguồn nhân lực phát triển kinh tế . Về sở hữu nhà nước. Trong thời kỳ bao cấp trước đây không chỉ có nước ta mà còn có những nước khác trong hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa thường đồng nhất sở hữu nhà nước với sở hữu toàn dân với chế độ công hữu tồn tại dưới hai hình thức sở hữu toàn dân và tập thể. Và cũng bởi sự sở hữu toàn dân gắn kết với sự phát triển của khu vực kinh tế quốc doanh mà chúng ta đang ra sức quốc doanh nền kinh tế với niềm tin cho rằng chỉ như vậy mới có chủ nghĩa xã hội nhiều hơn. Thực ra, với quan niệm đó, sở hữu toàn dân đã trở thành sở hữu không phải của một chủ thể cụ thể nào cả. Trong xã hội mà Nhà nước còn tồn tại thì sở hữu toàn dân chưa có điều kiện vận động trên bề mặt của đời sống kinh tế nói chung. Hình thức sở hữu nhà nước xét về tổng thể, mới chỉ là kết cấu bên ngoài của sở hữu. Còn kết cấu bên trong của sở hữu nhà nước ở nước ta có lẽ chủ yếu thể hiện ở quyền sở hữu đó ở khu vực kinh tế quốc doanh, khu vực các doanh nghiệp nhà nước. Về sở hữu tập thể: ở nước ta trước đây sở hữu tập thể tồn tại dưới hình thức HTX bao gồm cả HTX nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp với nội dung là cả giá trị và giá trị sử dụng đều là của chung và các xã viên là chủ sở hữu chính. Vì vậy với hình thức sở hữu này quyền mua bán và chuyển nhượng tư liệu sản xuất. Trên thực tế sản xuất và lưu thông hàng hoá ở nước ta diễn ra hết sức phức tạp. Quyền của các tập thể sản xuất thường rất hạn chế, song đôi khi lại có tình trạng lạm quyền. Sự không xác định, sự nhập nhằng với quyền sở hữu nhà nước và sở hữu tư nhân trá hình cũng là hiện tượng phổ biến. Để thoát khỏi tình trạng đó, trong bối cảnh của nền kế toán thị trường hiện nay cần phải xác định rõ quyền mua bán và chuyển nhượng tư liệu sản xuất đối với các tập thể sản xuất kinh doanh. Chỉ có như vậy thì sở hữu tập thể mới có thể trở thành hình thức sở hữu có hiệu quả. Chúng ta đã cần biết, HTX không phải là hình thức riêng có đặc trưng cho CNXH, nhưng nó là một hình thức sở hữu kinh tế tiến bộ trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Vì chúng ta duu trì và phát triển hơn nữa hình thức sở hưũ này khi xây dựng chủ nghĩa xã hội như V.I Lênin đã khẳng định “ chế độ của người xã viên hợp tác xã mìn là chế độ xã hội chủ nghĩa.” HTX là nhu cầu thiết thực của nề kinh tế hộ gia đình, của nền sản xuất hàng hóa. Khi lực lượng sản xuất trong nông nghiệp và công nghiệp nhỏ phát triển tới một trình độ nhất định, nó sẽ thúc đẩy quá trình hợp tác. Trong điều kiện của nền kinh tế hàng hóa, các nhu cầu về vốn, cung ứng vật tư, tiêu thụ sản phẩm… đòi hỏicác hộ sản xuất phải hợp tác với nhau mới có khả năng cạnh tranh và phát triển. Chính nhu cầu đó đã liên kết những người lao động lại voái nhau làm nảy sinh quan hệ sở hữu tập thể. Thực tiễn cho thấy, ở nước ta hiện nay đã có những hình thức HT X kiểu mới ra đời do nhu cầu tồn tại và phát triển của cơ chế thị trường “HTX đã được tổ chức trên cơ sở đóng góp cổ phần và sự tham gia lao động chực tiếp của xã viên, phân phối theo kết quả lao động và theo cổ phần mỗi xã viên có quyền như nhau, đôí với công việc chung ” (Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII – Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội – 1996 ). Điều này cho ta thấy kết cấu bên trong của sở hữu tập thể thay đổi phù hợp với hình thức thực tiễn ở đất nước ta hiện nay. +) Mâu thuẫn giữa kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng con người xã hội chủ nghĩa. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết phải có con người xã hội chủ nghĩa. Yếu tố con người vai trò cực kỳ quan trọng sự nghiệp cách mạng, bởi vì con người là chủ thể của mọi sáng tạo, của mọi nguồn của cả vật chất và văn hoá. Con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức là động lực của từ con người làm điểm xuất phát. Kinh Tế thị trường là một loại hình kinh tế trong đó các mối quan hệ kinh tế giữa con người với con người được biểu hiện thông qua thị trường, tức là thông qua việc mua bán trao đổi hàng hóa tiền tệ trên thị trường.. Trong kinh tế thị trường, các quan hệ hàng hóa tiền tệ phát triển mở rộng bao quát trên mọi lĩnh vực, có ý nghĩa phổ biến đối với người sản xuất và người tiêu dùng. Do nẩy sinh và hoạt động một cách khách quan trong điều kiện lịch sử nhất định kinh tế thị trường phản ánh đầy đủ trình độ văn minh và phát triển xã hội là nhân tố phát triển sức sản xuất, tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy xã hội tiến lên. Tuy nhiên, kinh tế thị trường cũng có những khuyết tật như sự cạnh tranh lạnh lùng, tính tự phát mù quáng dẫn đến sự phá sản, thất nghiệp, khủng hoảng chu kỳ. Xuất phát từ sự phân tích trên đây, chúng ta đã thấy rằng đổi mới ở nước ta hiện nay, không thể xây dựng và phát triển con người nếu thiếu yếu tố kinh tế thị trường. Do hậu quả của nhiều năm chiến tranh, của nền kinh tế kém phát triển, của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp… Nền kinh tế nước ta đã thụt hậu nghiêm trọng so với khu vực quốc tế. Trong bối cảnh đó, kinh tế thị trường là điều kiện rất quan trọng đưa nền kinh tế nước ta ra khỏi khủng hoảng và phát triển, phục hồi sản xuất, đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng, bắt kịp bước tiến của thời đại. Trên cơ sở đó, đời sống của nhân dân ngày được cải thiện và nâng cao, những nhu cầu sinh hoạt vật chất cơ bản ngày càng được đáp ứng một cách đầy đủ và nhanh chóng. Con người không thể có cơ thể khoẻ mạnh nếu thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu các điều kiện y tế hiện đại để chăm sóc giữ gìn sức khoẻ. Con người không thể có chí tuệ minh mẫn, phát triển nếu các điều kiện vật chất tiến hành các hoạt động học tập, nghiên cứu khoa học không được đáp ứng. Việc xây dựng, củng cố, hoàn thiện cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN cũng đồng nghĩa với việc tạo ra các điều kiện vật chất cơ bản để thực hiện chiến lựơc xây dựng và phát triển con người cho thế kỷXXI. Trong những năm qua, kinh tế thị trường ở nước ta đã được nhân dân hưởng ứng rộng rãi và đi vào cuộc sống rất nhanh chóng, góp phần khơi dậy nhiều tiềm năng sáng tạo, làm cho nền kinh tế sống động hơn, bộ mặt thị trường được thay đổi và sôi động hơn. Đây là kết quả đáng mừng, đáng được phát huy. Nó thể hiện sự phát hiện và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan của xã hội. Quá trình biện chứng đi lên CNXH từ khách quan đang trở thành nhận thức chủ quan trên quy mô toàn xã hội. Bên cạnh đó, có một khía cạnh cần được đề cập đến: Kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay không chỉ tạo điều kiện vật chất để xây dựng, phát huy nguồn lực con người mà tạo ra môi trường thích hợp cho con người phát triển hoàn toàn, toàn diện cả về vật chất lẫn tinh thần. Kinh tế thị trường tạo ra sự cạnh tranh, chạy đua quyết liệt. Điều đó buộc con người phải năng động sáng tạo, linh hoạt, có tác phong nhanh nhạy, có đầu óc quan sát, phân tích để thích nghi và hành động có hiệu quả. Từ đó, nâng cao năng lực hoạt động thực tiễn của con người góp phần làm giảm đi sự chậm chạp và vị trí trệ vốn có của người lao động trong nền kinh tế lạc hậu từ ngàn đời của người Việt Nam. Kinh tế thị trường tạo ra những điều kiện thích hợp cho con người mở rộng các quan hệ buôn bán giao lưu, từ đó hình thành các chuẩn mực văn hoá đạo đức theo tiêu trí thị trường như chữ tín trong chất lượng và giao dịch… Đây cũng là một hướng tốt đẹp bù đắp, những thiếu hụt trong hệ giải trí của con người Việt Nam. Tuy nhiên: Cần phải thấy rằng không phải cứ xây dựng được kinh tế thị trường là những phẩm chất tốt đẹp tự nó hình thành cho con người. Có những lúc, những lơi, kinh tế thị trường không những không làm cho con người ta năng động hơn, tốt đẹp hơn, mà ngược lại còn làm tha hoá bản chất con người, biến con người thành gã nô lệ sùng bái đồng tiền hoặc kẻ đạo đức giả chỉ biết tôn trọng sức mạnh và lợi ích cá nhân, sẵn sàng trà đạp nên nhân phẩm, văn hoá, đạo đức, luận lý… Bên cạnh những tác động tích cực, kinh tế thị trường cũng có nhiều khuyết tật, hạn chế gây ra tác động xấu, Đơn giản ví dụ như: Tệ nạn thương mại hoá trường học, xem nhẹ truyền thống tôn sư trọng đạo. Quan hệ hàng hoá, tiền tệ làm sôi động thị trường nhưng cũng làm sói mòn nhân cách và phẩm chất con người. Ngoài ra, đi kèm vớ kinh tế thị trường là hàng loạt các tệ nạn xã hội. Cở bạc- rượu chè mại dâm, ma tuý, buôn lậu, tham ô, tham nhũng… là những căn bệnh chầm kha không dễ bề khắc phục trong kinh tế thị trường là con dao hai lưỡi, nếu dùng không cẩn thận sẽ bị đứt tay. Những phân tích trên đây cho thấy, kinh tế thị trường là mục tiêu xây dựng con người xã hội chủ nghĩa là một mâu thuẫn biện chứng trong thực tiễn nước ta hiện nay. Đây chính là hai mặt đối lập của một mâu thuẫn xã hội. Giữa kinh tế thị trường và quá trình xây dựng con người vừa có sự thống nhất,vừa có sự đấu tranh. Kinh tế thị trường vừa tạo ta những điều kiện để xây dựng, phát huy những nguồn lực con người vừa tạo ra những độc tố huỷ hoại đầu độc con người, việc giải quyết những mâu thuẫn trên đây là việc làm không hề đơn giản, đối với giaỉ quyết bằng vai trò lãnh đạo của Đảng, bằng sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng ta xác định ‘sản xuất hàng hóa không đối lập với CHXH mà là thành tựu phát triển nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan cần thiết cho công cuộc xây dựng XHCN và cả khi CNXH đã đượ xây dựng xã hội chủ nghĩa” như vậy Đảng ta đã vạch rõ sự thống nhất giữa kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng xã hội chủ nghĩa – việc áp dụng cơ chế thị trường đòi hỏi nâng cao năng lực quản lý tầm vĩ mô của Nhà nước, đồng thời xác nhận đầy đủ chế độ tự chủ của các đơ vị sản xuất kinh doanh. Thực hiện tốt các vấn đề này sẽ phát huy được những tác động tích cực to lớn cũng như ngăn ngừa hạn chế khắc phục kinh doanh phải hướng vào phục vụ công cuộc xây dựng nguồn lực con người. Cần phải tiến hành các hoạt động văn hoá giáo dục nhằm loại bỏ tâm lý sùng bái đồng tiền, bất chấp đạo lý coi thường các giá trị nhân văn. phải ra sức phát huy các gía trị tinh thần nhân đạo, thẩm mỹ, các di sản văn hoá nghệ thuật của dân tộc như nội dung của nghị quyết TW5 đã nêu. Đây là công cụ, là phương tiện quan trọng để tác động, để quyết định giải quyết mâu thuẫn đã nên trên. Sự mở rộng hợp tác kinh tế với thế giới đã thu hút được vấn đề đầu tư trực tiếp nước ngoài nhưng vấn đề còn nhiều hạn chế trong việc chuyển giao công ngh, đẩy nhanh công nghệ hoá - hiện đại hoá. Vì vốn vẫn là vấn đề man giải cho nền kinh tế thị trường nước ta. Với những thành tựu đã đạt được nền kinh tế thị trường đã góp phần tích cực nâng cao đời sống người dân. tuy nhiên nó cũng gây ra không ít hậu quả cho xã hội. Từ khi chúng ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, bên cạnh đó rất nhiều cái được đã xuất hiện những cách sống và lối sống sa lạ trái với các chuẩn mực của xã hội, bất chấp những truyền thống đạo đức tốt đẹp, của dân tộc. Một bộ phận trong các tầng lớp, thành phần xã hội khi mưu cầu lợi ích cá nhân đã trà đạp lên những khuôn mẫu, nhưngc giá trị đích thực. Nạm tham nhũng, buôn lậu và các tệ nạn xã hội khác đang phát triển tràn lan. Bên cạnh đó là sự ô nhiễm môi trường dinh thái, nạn phá rừng dẫm đến thiên tai lũ lụt. Cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên cũng cần phải hiểu rằng đây không phải là sự tác động một chiều mà chính là những hậu quả này sẽ là những yếu tố tác động trực tiếp lại nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đến đời sống của con người. Kinh tế thị trường đã ra đời và phát triển qua nhiều giai đoạn và cho đến bây giờ nó vẫn là kiểu kinh tế – xã hội tiến bộ nhất. Trải qua các giai đoạn kinh tế thị trường ngày nay càng được hoàn thiện và được áp dụng trên nhiều quốc gia. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam mặc dù mới ra đời cáhc đây hơn một thập kỷ nhưng cũng đã trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm, không ngừng vận động và luôn biến đổi dưới sự tác động của nhiều yếu tố cả bên ngoài lẫn bên trong bản thân nền kinh tế thị trường. Các yếu tố này vừa không ngừng có ảnh hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế thị trường vừa chịu sự tác động của chính nền kinh tế thị trường đó. Như thế, trải qua các giai đoạn lại hình thành nên những yếu tố mới khiến cho công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày nay phức tạp đòi hỏi phải có sự phân tích kỹ lưỡng chi tiết và kịp thời từng yếu tố chính vì vậy quan điểm lịch sử cụ thể luôn là quan điểm gắn liền cới quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong giai đoạn hiện nay, chúng ta đang từng bước xây dựng cơ sở vật chất để đẩy mạnh quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhanh chóng đưa đất nước lên thành nước công nghiệp phát triển và việc nghiên cứu tìm hiểu các yêú tố ảnh hưởng để tìm ra các giải pháp nhằm khắc phục những mặt yếu kém phát huy những mặt mạnh, tích cực, khắc phục những mặt yếu kém đang là việc làm bức thiết đó là: Đẩy mạnh việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trước mắt cần tiếp tục cải tiến hành chính trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài với những quy định rõ ràng thông suốt và giản đơn. Về lâu dài cần tiến tới xây dựng một một luật đầu tư chung một khung giá chung cho các nhà đầu tư nước ngoài cũng như trong nước để tạo một sân chơi bình đẳng. Huy động tối đa và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn trong nước. Trong lĩnh vực này, huy động tiết kiệm trong nước là mục tiêu hàng đầu từ đó sẽ phát huy được hết các nguồn nội lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Tiếp tục cần đổi lại cơ cấu giữa các thành phần kinh tế và các ngành. Về các thành phần kinh tế cần tìm hiểu vị trí vai trò của từng thành phần. Đẩy mạnh sự phát triển các thành phần kinh tế tư bản tư nhân, tư bản nhà nước phát triển tuy nhiên vẫn phải bảo đảm vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế Nhà nước. Về cơ cấu ngành, đẩy nhanh quá trình chuyển đổi cơ cấu theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp. Chú trọng việc phát triển kinh tế giữa các vùng hợp lý hơn. Với dk địa hình phức tạp và nguồn vốn ít ỏi, ta chưa thể phát triển kinh tế cùng một lúc ở tất các vùng. Vì thế cần tập trung phát triển, đầu tư ở các vùng có thuận lợi về địa hình tài nguyên và dân cư trước hình thành các vùng kinh tế giaù có để lấy đó làm cơ sở phát triển kinh tế ở các vùng có điều kiện khó khăn hơn tiến tới từng bước phát triển kinh tế trên toàn lãnh thổ. Tăng cường hội nhập hợp tác với các nền kinh tế trong khu vực và thế giới. Hội nhập với thế giới tạo điều kiện cho ta tranh thủ ngoại lực, tạo điều kiện cho ta bảo đảm an ninh quốc gia đặc biệt là an ninh kinh tế, tranh thủ và khai thác những qui chế, điều kiện ưu đãi mà phần lớn các thể chế quốc tế dành cho các nước chậm phát triển và đang phát triển. Vì vậy việc quan trọng và cấp bách nhất là phải xây dựng ngay một chiến lược tổng thể về hội nhập kinh tế quốc tế. Giữ vững vai trò quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước trong việc định hướng nền kinh tế thị trường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, lấy công bằng xã hội làm mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Muốn vậy cần không ngừng chỉnh đốn hoàn thiện bộ máy Nhà nước, nâng cao vai trò quyền lực của Nhà nước trong quản lý kinh tế. Bảo đảm nguồn nhân lực thông qua hệ thống giáo dục, đào tạo, bảo đảm ytế, nâng cao trình độ văn hoá cho người lao động. Giữ vững an ninh, trật tự xã hội, củng cố sự nghiệ quốc phòng nhằm ngăn chặn mọi thế lực phản động phá hoại trong nước và ngoài nước. Kết luận Mâu thuẫn là một hiện tượng khách quan phổ biến hình thành từ những cấu trúc và thuộc tính bên trong vốn có tự thân của tất cả các sự vật. Hiện tượng trong bản thân thế giới khách quan… Do đó trong hoạt động thực tiễn phân tích từ mặt độc lập tạo thành mâu thuẫn cụ thể để nhận thức được bản chất khuynh hướng vận động, phát triển của sự vật hiện tượng. Cần lắm vững nguyên tắc để giải quyết mẫu thuẫn. Đó là sự đấu tranh giữa hai mặt đối lập diễn ra theo quy luật phá vỡ những cái cũ để thiết lập cái mới tiến bộ hơn. Vì vậy, trong đời sống xã hội, mọi hành vi đấu tranh cần được coi là chân chính khi nó thúc đẩy sự phát triển. Trong thời kỳ chuyển nên kinh tế ở Việt Nam từ kế hoạch tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chủ chương lãnh đạo của Đảng là rất đúng đắn tuy nhiên trong thức hiện còn nhiều thiếu sót. Mâu thuẫn giữa các vấn để nẩy sinh, nhưng những mâu thuẫn đó đòi hỏi chúng ta phải giải quyết có như thế nền kinh tế mới phát triển theo đúng nghĩa đổi mới của nó. Mục lục Trang A. Lời nói đầu 2 B. Nội dung 3 I. Lý luận chung của mâu thuẫn 3 1. Vai trò của quy luật 3 2. Nội dung của quy luật 5 II. Sự cần thiết khách quan phải phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta 12 1. Bản chất, đặc điểm của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. 16 2. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta sẽ xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại với tính chất xã hội hiện đại. 16 3. Nền kinh tế của chúng ta là nền kinh tế hỗn hợp nhiều thành phần với vai trò chủ đạo của nền kinh tế nhà nước 17 4. Nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở nước ta là Nhà nước pháp quyền XHCN, là Nhà nước của dân, do dân, vì dân. 20 5. Cơ chế vận hành của nền kinh tế được thực hiện thông qua cơ chế thị trường với sự tham gia và quản lý điều tiết của nhà nước 20 III. Mâu thuẫn biện chứng trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Việt Nam . 22 1. Thực chất nền kinh tế thị trường ở Việt Nam 22 2. Những mâu thuẫn phát sinh trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội ở nước ta 24 Kết luận 40

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc60165.DOC
Tài liệu liên quan