Tài liệu Đề tài Tìm hiểu Việt Nam trong quá trình hội nhập: Phần 1: Tiến trình của Việt Nam trên con đường hội nhập
1.Mở đầu
Việt Nam tiến hành những cải cách kinh tế sâu rộng từ cuối thập kỷ 1980. Một bộ phận quan trọng của những chương trình cải cách đó là chính sách mở cửa, tự do hóa thương mại – đầu tư, và hội nhập kinh tế quốc tế. Từ chỗ chỉ có quan hệ mậu dịch với Liên Xô và các nước XHCN Đông Aâu trước đây, Việt Nam đã mở rộng quan hệ với các nước khác, đặc biệt là các nền kinh tế có vai trò quan trọng trong thương mại thế giới như Mỹ, liên minh Châu Aâu (EU), Nhật, Trung Quốc và các con rồng Châu Á ( Singapore, Hồng Kông, Đài Loan và Hàn Quốc). Việt Nam đã có những cải cách quan trọng và những thay đổi căn bản trong chính sách thương mại, đồng thời mở cửa cho đầu tư nước ngoài kể từ năm 1988. Về hội nhập quốc tế, Việt Nam đã có những bước đi quan trọng trong việc gia nhập các tổ chức kinh tế – ...
33 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1143 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Tìm hiểu Việt Nam trong quá trình hội nhập, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần 1: Tiến trình của Việt Nam trên con đường hội nhập
1.Mở đầu
Việt Nam tiến hành những cải cách kinh tế sâu rộng từ cuối thập kỷ 1980. Một bộ phận quan trọng của những chương trình cải cách đó là chính sách mở cửa, tự do hóa thương mại – đầu tư, và hội nhập kinh tế quốc tế. Từ chỗ chỉ có quan hệ mậu dịch với Liên Xô và các nước XHCN Đông Aâu trước đây, Việt Nam đã mở rộng quan hệ với các nước khác, đặc biệt là các nền kinh tế có vai trò quan trọng trong thương mại thế giới như Mỹ, liên minh Châu Aâu (EU), Nhật, Trung Quốc và các con rồng Châu Á ( Singapore, Hồng Kông, Đài Loan và Hàn Quốc). Việt Nam đã có những cải cách quan trọng và những thay đổi căn bản trong chính sách thương mại, đồng thời mở cửa cho đầu tư nước ngoài kể từ năm 1988. Về hội nhập quốc tế, Việt Nam đã có những bước đi quan trọng trong việc gia nhập các tổ chức kinh tế – thương mại khu vực quốc tế. Đó là việc gia nhập Hiệp Hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) và Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (AFTA) năm 1995; gia nhập Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC) năm 1998; nộp đơn xin gia nhập và Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) năm 1995 và đang tiến hành đàm phán để trở thành thành viên chính thức. Ngoài ra, Việt Nam đã kí Hiệp định khung về hợp tác với EU năm 1995 và Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ năm 2000.
Trong quá trình mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam có những điều chỉnh chính sách quan trọng. Ngược lại, những thay đổi đó có tác động tích cực và tiêu cực như thế nào đối với Việt Nam? Vì thế một vấn đề lớn được đặt ra là liệu Việt Nam có nên tiếp tục đẩy mạnh tiến trình hội nhập quốc tế hay không?
Quá trình hội nhập thương mại thế giới của Việt Nam đang trên đà hội nhập, trong khi đó nền kinh tế Việt Nam chỉ là nền kinh tế kém phát triển và chưa theo đuổi được nền kinh tế của các nước phát triển khác; để có thể thực sự tiến gần đến cánh cửa WTO thì vẫn còn rất nhiều việc mà Việt Nam phải làm và phải chứng minh bằng hành động cụ thể. Hiện nay, một trong những vấn đề được quan tâm nhất là liệu Việt Nam có kịp gia nhập vào WTO vào năm 2005 hay không, vì điều này sẽ tác động rất lớn đến đời sống kinh tế của Việt Nam.
2.Việt Nam hội nhập quốc tế : các cấp độ khác nhau
Việt Nam đang tham gia hội nhập quốc tế ở những cấp độ khác nhau.
Cấp độ thứ nhất là đơn phương, nghĩa là Việt Nam tiến hành cải cách kinh tế và thương mại một cách độc lập, không phụ thuộc vào các cam kết quốc tế. Thực tế Việt Nam bắt đầu tiến hành cải cách mạnh mẽ trong lĩnh vực thương mại từ năm 1988, ngay cả trước khi Việt Nam gia nhập các tổ chức khu vực như AFTA và APEC, như cải cách tỷ giá hối đoái, cắt giảm thuế xuất khẩu và nhập khẩu, giảm số mặt hàng chịu thuế xuất khẩu và nhập khẩu, bãi bỏ độc quyền ngoại thương của Nhà nước, trao quyền tham gia họat động xuất nhập khẩu cho các địa phương và doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp tư nhân. Những biện pháp đó đã góp phần thúc đẩy kinh tế ngoại thương Việt Nam phát triển mạnh mẽ từ năm 1989.
Cấp độ thứ hai là hội nhập kinh tế ở mức tiểu khu vực Đông Nam Á thông qua ASEAN và AFTA. Việt Nam bắt đầu tham gia AFTA tháng 12-1995, và hiện đang tiến hành cải cách theo cam kết và lịch trình của AFTA. Cốt lõi của AFTA là Chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (Common Effective Preferential Tariff, CEPT) trong đó các nước thành viên sẽ cắt giảm thuế quan đối với hầu hết các sản phẩm có xuất sứ ASEAN xuống mức 0-5% đồng thời loại bỏ hàng rào phi thuế quan, trong thời hạn quy định đối với mỗi nước. Đối với Việt Nam thời hạn thực hiện CEPT bắt đầu từ 1-1-1996 và dự định kết thúc và 1-1-2006.
Cấp độ tiếp theo là hội nhập kinh tế ở mức khu vực rộng lớn hơn là Châu Á - Thái Bình Dương thông qua tổ chức APEC mà nước ta gia nhập tháng 11-1998. Mục tiêu của APEC là đưa Châu á – Thái Bình Dương tiến tới một khu vực tự do thương mại và đầu tư vào năm 2010 đối với các nước phát triển và 2020 đối với các nước đang phát triển. Các nước thành viên APEC thực hiện các cam kết của mình chủ yếu thông qua Chương trình hành động của từng nước (Individual Action Plan, IAP). Việt Nam bắt đầu thực hiện IAP của mình từ năm 1999, trong đó cam kết cắt giảm hàng rào thuế quan để đảm bải đạt được mục tiêu tự do hóa thương mại của APEC vào năm 2020, đồng thời mở cửa hơn nữa cho đầu tư nứơc ngoài, nhất là các lĩnh vực dịch vụ như tư vấn pháp lý, bảo hiểm, hàng không và viễn thông.
Cuối cùng, bao trùm tất cả là hội nhập ở mức toàn cầu. Hiện Việt Nam đang trong quá trình đàm phán để trở thành thành viên của WTO. Khi trở thành thành viên của WTO, Việt Nam sẽ được hưởng lợi do thâm nhập được vào thị trường rộng lớn của khoảng 148 nước thành viên, song đồng thời Việt Nam cũng phải mở cửa cho hàng hóa và dịch vụ của các nước đó vào cạnh tranh với các ngành sản xuất trong nước.
3.Phân tích tác động của hội nhập kinh tế quốc tế
3.1.Các kịch bản:
Hội nhập kinh tế quốc tế có nhiều nội dung, như điều chỉnh chính sách thương mại và đầu tư cho phù hợp với thông lệ quốc tế, cắt giảm thuế nhập khẩu, cắt giảm các hàng rào phi thuế quan… trong phần này, cắt giảm thuế quan được lựa chọn như một hình thức đại diện để đánh giá tác động việc Việt Nam hội nhập quốc tế.
Bốn kịch bản sau được sử dụng, thể hiện tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam ở các cấp độ khác nhau, từ đơn phương đến tiểu khu vực (AFTA) đến đại khu vực (APEC) đến toàn cầu (xem bảng dưới). Để đơn giản và tiện cho so sánh kết quả, trong cả 4 kịch bản đều sử dụng mức cắt giảm 50% mức thuế quan nhập khẩu hiện tại.
Bảng 3.1 TÓM TẮT CÁC KỊCH BẢN HỘI NHẬP QUỐC TẾ
Kịch bản
Tình huống
Đơn phương
Việt Nam đơn phương cắt giảm 50% mức thuế nhập khẩu hiện có đối với tất cả các mặt hàng, trong khi các nước khác không giảm.
AFTA
Các nước AFTA kể cả Việt Nam cắt giảm 50% mức thuế nhập khẩu hiện có đối với tất cả các mặt hàng, trong khi các nước khác không giảm.
APEC
Các nước APEC kể cả Việt Nam cắt giảm 50% mức thuế nhập khẩu hiện có đối với tất cả các mặt hàng, trong khi các nước khác không giảm
Toàn cầu
Tất cả các nền kinh tế trên thế giới cắt giảm 50% mức thuế nhập khẩu hiện có đối với tất cả các mặt hàng.
3.2 Tác động tích cực của hội nhập quốc tế đối với kinh tế Việt Nam
Các kịch bản trên cho thấy hội nhập kinh tế thông qua tự do hóa thương mại có tác động tích cực đối với kinh tế Việt Nam (bảng 3.2). Trong cả 4 kịch bản, GDP và xuất nhập khẩu đều có sự gia tăng ở những mức độ khác nhau.
Trong kịch bản đơn phương, GDP của Việt Nam tăng 2,9%, xuất khẩu tăng 1,7%. Tuy nhiên do hàng rào thuế quan giảm, nhập khẩu tăng mạnh (8,5%), vượt cả mức tăng xuất khẩu, nên thâm hụt trong thương mại cũng tăng. Kịch bản APEC cho thấy nếu Việt Nam tự do hóa thương mại trong khung cảnh các thành viên khác của APEC cũng tiến hành mở cửa, thì lợi ích mà Việt Nam đạt được càng lớn: GDP tăng 4%, xuất khẩu tăng 3,3%, nhập khẩu tăng 9,9%. Như vậy kịch bản 1,3 và 4 cho thấy phạm vi hội nhập càng mở rộng thì lợi ích Việt Nam thu được càng lớn.
Bảng 3.2 TÁC ĐỘNG CỦA HỘI NHẬP ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ
VIỆT NAM
Thông số vĩ mô
Mức tăng
Kịch bản 1
(đơn phương)
Kịch bản 2
(AFTA)
Kịch bản 3
(APEC)
Kịch bản 4
(toàn cầu)
Xuất khẩu
%
1,7
0,4
1,8
3,3
Nhập khẩu
%
8,5
2,7
7,8
9,9
Cán cân thương mại
Triệu USD
-575
-198
-518
-577
GDP
%
2,9
1,6
3,2
4,0
Tuy nhiên, hội nhập trong khuôn khổ AFTA không hòan toàn theo quy luật đó. Trong kịch bản 2, AFTA tuy có tác dụng tích cực đối với kinh tế Việt Nam, song lợi ích hầu như không đáng kể: GDP chỉ tăng 1,6%, xuất khẩu tăng 0,4%, nhập khẩu tăng 2,7%. So với kịch bản khác, kể cả kịch bản đơn phương, mức tăng này khá nhỏ bé.
Nguyên nhân là do nước ta và một số nước ASEAN khác (như Indonesia, Philippines và Thái Lan) có những ngành lợi thế so sánh tương tự, như nông sản, thủy sản, may mặc và giày dép. Do vậy Việt Nam và các nước này hiện cạnh tranh nhau hơn là bổ dung lẫn nhau trong các lĩnh vực đó. Do tính cạnh tranh này, lợi ích thu được từ tự do hóa thương mại trong khuôn khổ AFTA là không đáng kể.
Các ngành được hưởng lợi từ hội nhập quốc tế là dệt may, chế tạo máy và dịch vụ (bảng 3.3). Sự phát triển của ngành dệt may là rõ nét nhất: sản lượng ngành may mặc tăng 21,7% trong kịch bản Đơn phương, 20% trong kịch bản AFTA và 28% trong kích bản Toàn cầu. Ngành dệt cũng được lợi, tuy mức tăng thấp hơn. Điều này phù hợp với thực tế dệt may và giày dép là các ngành sử dụng nhiều lao động với giá nhân công rẻ mà Việt Nam đang có lợi thế cạnh tranh.
Tuy nhiên trong kịch bản 2 (AFTA) sản lượng ngành dệt đã giảm 2,7% và của ngành may mặc giảm 1.4%. Điều này phản ánh thực tế là một số nước ASEAN như Thái Lan, Indonesia và Philppines hiện có ưu thế lớn trong lĩnh vực này.
Ngành chế tạo máy móc có mức tăng nhẹ, tuy đây là ngành Việt Nam hiện chưa có nhiều lợi thế so sánh. Song nếu lưu ý đây là trong phân nhóm ngành của nghiên cứu này, ngành chế tạo máy bao gồm cả điện tử là lĩnh vực phát triển khá nhanh và hiện nay đang vươn lên trở thành một mặt hàng xuất khẩu chủ lực, nhờ đầu tư trực tiếp nước ngoài khá lớn và lĩnh vực này những năm gần đây.
Các ngành dịch vụ cũng tăng, lý do chính là dịch vụ là lĩnh vực sử dụng nhiều nhân công, mà Việt Nam đang khá dồi dào nhân lực. Hơn nữa sự tăng trưởng nhanh của ngành du lịch cũng là một nguyên nhân thúc đẩy mức tăng chung của ngành dịch vụ. Nếu được quan tâm đầu tư, ngành dịch vụ sẽ phát triển và có thể thu hút được lực lượng lao động dư thừa từ nông nghiệp.
3.3 Các tác động tiêu cực:
Hội nhập quốc tế không chỉ có tác động tích cực mà cả tác động tiêu cực. Do mở cửa, sẽ có những ngành sản xuất trong nước không cạnh tranh nổi với nước ngoài. Kết quả mô hình cho thấy các ngành chịu tác động tiêu cực tự do hóa thương mại là nông nghiệp, thực phẩm, hóa chất, kim lọai và thiết bị vận tải.
Đáng lưu ý nhất là sự suy giảm của nông-lâm-ngư nghiệp thô (giảm 2,6% đến 3,3% và hầu như không tăng trong kịch bản 2). Trên thực tế, hiện tại Việt Nam có lợi thế so sánh nhất định trong nông-lâm-ngư nghiệp, dựa trên những ưu thế có sẵn về tự nhiên (đất đai, vùng biển, khí hậu nhiệt đới) và về lao động. Việt Nam hiện vẫn là nền kinh tế dực nhiều vào nông nghiệp, một lĩnh vực chiếm khoảng 1/3 GDP. Các mặt hàng nông lâm thuỷ sản chiếm tỷ trọng lớn trong xuất khẩu, chỉ riêng 3 mặt hàng gạo, cà phê và thủy sản đã chiếm một phần tư tổng kim ngạch xuất khẩu. Với những lợi thế như vậy, ngành nông-lâm-ngư nghiệp của Việt Nam được kỳ vọng là sẽ tiếp tục phát triển, ít nhất trong tầm ngắn hạn và trung hạn trong quá trình hội nhập quốc tế. Song kết quả của mô hình lại tương phản với kỳ vọng này.
Ngành công nghiệp chế biến thực phẩm cũng bị suy giảm khá mạnh. Trong khi Việt Nam hiện có lợi thế tự nhiên nhất định về nông-lâm-ngư nghiệp, thì công nghiệp chế biến thực phẩm mới đang ở giai đọan bắt đầu phát triển và chưa có nhiều lợi thế so sánh. Việt Nam là nước xuất khẩu lớn các sản phẩm của nông-lâm-ngư nghiệp thô, song đồng thời cho đến những năm gần đây vẫn phải nhập khẩu lớn các thực phẩm chế biến như thuốc lá, rược, bia, nước giải khát, sản phẩm từ sữa, thịt chế biến. Do vậy, với tự do hóa thương mại, công nghiệp chế biến của Việt Nam khó có thể cạnh tranh được với nước ngoài.
Bảng 3.3 TÁC ĐỘNG CỦA HỘI NHẬP ĐỐI VỚI CÁC NGÀNH SẢN XUẤT (mức thay đổi %)
Mã
Tên ngành
Kịch bản 1
(đơn phương)
Kịch bản 2
(AFTA)
Kịch bản 3
(APEC)
Kịch bản 4
(Toàn cầu)
RAG
Nông-lâm-ngư nghiệp (thô)
-2,8
0,2
-2,6
-3,3
FPR
Chế biến thực phẩm
-17,3
-10,2
-18,6
-23,2
MIN
Khai khoáng
-0,3
0,1
-0,1
-0,3
TEX
Dệt
2,6
-2,7
3,6
6,4
WEA
May
21,7
-1,4
10
28
OLM
Các ngành CN nhẹ khác
-7,8
-2,6
-6,5
-7,4
CHE
Hóa chất
-5,7
-3,3
-5
-5,1
MET
Kim loại
-10,2
-1,5
-9
-11
TRP
Thiết bị vận tải
-39,9
-9,3
-36,4
-42,1
MCN
Máy móc thiết bị
0,2
0,2
0,1
-0,5
SER
Dịch vụ
2,4
1,2
2,4
2,5
Sự suy giảm các ngành khác như hóa chất, kim loại, thiết bị giao thông là điều có thể giải thích được. Đó là những lĩnh vực đòi hỏi nhiều vốn và trình độ công nghệ mà hiện Việt Nam không có nhiều ưu thế, do đó Việt Nam hiện nay không có khả năng cạnh tranh với các nước công nghiệp có ưu thế lớn. Song điều đó không có nghĩa là Việt Nam sẽ từ bỏ những lĩnh vực này, mà Việt Nam cần có chiến lược chuyển dần cơ cấu nền kinh tế sang phát triển các ngành công nghiệp kỹ thuật cao, thì mới có cơ hội vượt lên trong cuộc cạnh tranh quốc tế. Và đây cũng là điều mà một trong những nhà hoạch định chính sách kinh tế nước ta quan tâm:
Các ngành hàng có sức cạnh tranh kém của Việt Nam chủ yếu là những ngành đòi hỏi vốn lớn, công nghệ cao. Phần lớn khả năng cạnh tranh và phát triển của các ngành này dựa trên công nghệ hiện đại, ít phụ thuộc vào yếu tố lao động và điều kiện tự nhiên. Hiện tại với nguồn vốn hạn chế, việc đầu tư thiếu hiệu quả, công nghệ thiết bị kém hiện đại, sẽ khó có thể nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Vì vậy cần có biện pháp thúc đẩy nhanh chuyển đổi cơ cấu kinh tế.
4.Kết luận ,một số nhận định và đề xuất
Kể từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới cuối thập kỷ 1980, Việt Nam đã có những bước tiến dài trong lĩnh vực mở cửa và hội nhập quốc tế. Những cải cách kinh tế nói chung và lĩnh vực thương mại và đầu tư nói riêng, đã tạo tiền đề thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam phát triển mạnh mẽ, đưa Việt Nam từ vị trí một bạn hàng nhỏ bé trong nền thương mại khu vực và thế giới, lên vị trí một bạn hàng ít ra là ở mức trung bình. Tuy nhiên, mặc dù có những bước tiến quan trọng đó, nhưng hiện nay nền kinh tế Việt Nam vẫn còn nhỏ bé, lạc hậu. Lợi thế so sánh của nước ta chủ yếu chỉ dựa trên các sản phẩm nông nghiệp, nguyên liệu thô, và hiện mới bắt đầu chuyển dịch một số ngành công nghiệp nhẹ sử dụng nhiều sức lao động như dệt may, giày da, túi xách.
Hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế dù ở cấp độ nào cũng sẽ mang lại lợi ích cho Việt Nam. Lợi ích sẽ tăng khi khuôn khổ tự do hóa thương mại được mở rộng, từ đơn phương đến APEC rồi đến toàn cầu. Do đó đề xuất ở đây là Việt Nam nên tiếp tục tiến trình hội nhập kinh tế khu vực đặc biệt là trong khuôn khổ APEC và WTO. Vấn đề quan trọng ở đây là “cần chủ động và tích cực chuẩn bị điều kiện hội nhập, đồng thời lựa chọn đúng giải pháp và bước đi cho quá trình này”.
Tuy là tự do hóa trong khuôn khổ AFTA có tác dụng khá hạn chế đối với nước ta cũng như một số nước ASEAN khác và các nước có khuynh hướng cạnh tranh nhau hơn là bổ sung lẫn nhau, nhưng nếu hội nhập trong khuôn khổ AFTA được kết hợp và bổ sung với sự hội nhập trong khuôn khổ APEC và toàn cầu thì lợi ích thu được sẽ lớn hơn nhiều. Có thể nhìn nhận việc Việt Nam hội nhập vào AFTA là sự chuẩn bị và tập dượt để Việt Nam bước vào hội nhập ở mức độ rộng lớn hơn là APEC và toàn cầu.
Hội nhập kinh tế gắn liền với chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Để đảm bảo cho chuyển dịch cơ cấu được êm thấm, tránh những hậu quả xã hội mà trước hết là nạn thất nghiệp, nhà nước cần có ưu tiên và khuyến khích đầu tư mở rộng các ngành công nghiệp nhẹ sử dụng nhiều lao động (như dệt may, giày dép) và một số ngành dịch vụ, để hấp thụ lao động dư thừa từ nông nghiệp chuyển sang. Nhà nước cũng cần lưu ý việc đào tạo tay nghề, để số lao động dư thừa từ nông nghiệp có thể làm việc trong các ngành phi nông nghiệp đó.
Riêng các ngành đòi hỏi vốn đầu tư và trình độ công nghệ cao như hóa chất, kim loại, và phương tiện vận tải còn chưa có cơ may phát triển ở nứơc ta thì trong thời gian trước mắt, Việt Nam chủ yếu nhập khẩu các mặt hàng đó để phục vụ cho công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Vấn đề là ta nên xem xét xem nên nhập khẩu từ đâu là tốt nhất cả về chất lượng và giá cả. Song về lâu dài, nhà nước cần có chiến lược chuyển dịch dần cơ cấu nền kinh tế sang phát triển các ngành công nghiệp kĩ thuật cao, thì Việt Nam mới có cơ hội vượt lên trong cạnh tranh quốc tế.
Phần 2: Quan điểm – thành tựu bước đầu và những thách thức trên đường hội nhập
1. Quan điểm và thành tựu bước đầu của Việt Nam về hội nhập kinh tế quốc tế
Nhìn lại lịch sử của quá trình hội nhập của Việt Nam chúng ta thấy, ngay từ những năm 80, nước ta đã hội nhập quốc tế thơng qua Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV) do Liên Xơ đứng đầu, đồng thời đã mở rộng quan hệ kinh tế với Liên Xơ, Trung Quốc và các nước trong phe xã hội chủ nghĩa cũng như một số ít nước ngồi phe xã hội chủ nghĩa. Sự hội nhập này đã mang lại nguồn lực quan trọng về vật chất và tinh thần trong những năm đầu khơi phục và xây dựng kinh tế sau chiến tranh. Tuy nhiên, ở một gĩc độ khác thì hiệu quả kinh tế - tài chính của hội nhập kinh tế lúc đĩ khơng được như mong muốn do thực hiện theo cơ chế kế hoạch tập trung, bao cấp.
Bước sang thời kỳ đổi mới, xuất phát từ các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội với sự lựa chọn theo định hướng xã hội chủ nghĩa, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta đã cĩ những chuyển biến cả về chất và lượng theo tinh thần Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hồ bình, độc lập và phát triển. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, mọi đường lối, chủ trương, chính sách và hệ thống pháp luật được thực thi bằng bộ máy quyền lực của Nhà nước với các cơng cụ hành chính và kinh tế, đồng thời cũng mở rộng quyền dân chủ của nhân dân, nhanh chĩng hội nhập cĩ hiệu quả với nền kinh tế khu vực và thế giới.
1.1 Quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về hội nhập kinh tế quốc tế
Những bước đi quan trọng của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đều được sự chỉ đạo chặt chẽ và kịp thời của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Bộ Chính trị. Từ Đại hội Đảng lần thứ VI, với đường lối đổi mới Đảng ta đã cĩ chủ trương: “Cơng bố chính sách khuyến khích nước ngồi đầu tư vào nước ta dưới nhiều hình thức, nhất là đối với các ngành và cơ sở địi hỏi kỹ thuật cao, làm hàng xuất khẩu. Đi đơi với việc cơng bố Luật đầu tư, cần cĩ các chính sách và biện pháp tạo điều kiện thuận lợi cho người nước ngồi và Việt kiều vào nước ta để hợp tác kinh doanh”1 Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VI, trang 58
. Đây là những nền tảng quan trọng để thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta. Đến Đại hội VII, Đảng ta tiếp tục chủ trương mở rộng hợp tác, bình đẳng và cùng cĩ lợi với tất cả các nước, các tổ chức quốc tế, khơng phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hồ bình. Để từng bước hội nhập vào nền kinh tế thế giới, tăng cường thu hút nguồn vốn từ nước ngồi phục vụ cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, Đảng ta chủ trương khai thơng quan hệ giữa các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế như Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB).., mở rộng quan hệ với các tổ chức hợp tác khu vực, trước hết ở châu Á - Thái Bình Dương. Một trong những biện pháp quan trọng là "Chúng ta cần tích cực cải thiện hơn nữa mơi trường đầu tư, đổi mới tổ chức và quản lý hoạt động hợp tác, liên doanh với nước ngồi, cĩ nhiều hình thức thích hợp để tận dụng mọi nguồn vốn đầu tư, chú trọng phát triển các quan hệ hợp tác với các cơng ty đa quốc gia, xuyên quốc gia nhằm tạo thế đứng trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới"2 Văn kiện Hội nghị Trung ương, trang 18
.
Trước những diễn biến phức tạp của tình hình kinh tế, chính trị thế giới, với tầm nhìn chiến lược, Đại hội VIII của Đảng đã khẳng định: “xây dựng một nền kinh tế mở”, “đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới”. Nghị quyết 04 của Ban chấp hành TW khố VIII đã nêu rõ: “tích cực và chủ động thâm nhập và mở rộng thị trường quốc tế”, “tiến hành khẩn trương, vững chắc việc đàm phán hiệp định thương mại với Mỹ, gia nhập APEC và WTO. Cĩ kế hoạch cụ thể để chủ động thực hiện các cam kết trong khuơn khổ AFTA". Tiếp đĩ, trong Báo cáo Chính trị Đại hội Đảng lần thứ IX đã nêu rõ quan điểm của Đảng: "Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, đảm bảo độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc dân tộc, bảo vệ mơi trường". Đây là một chủ trương lớn trong chính sách đối ngoại, hội nhập của Đảng và Nhà nước ta. Theo quan điểm này hội nhập kinh tế quốc tế trong điều kiện tồn cầu hố kinh tế là một quá trình mà trọng tâm là chủ động mở cửa kinh tế, tham gia sâu vào phân cơng hợp tác quốc tế, tạo điều kiện để kết hợp cĩ hiệu quả mọi nguồn lực trong nước và nước ngồi, mở rộng khơng gian và mơi trường để phát triển, nâng cao thế và lực của nước ta trong quan hệ kinh tế quốc tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế là một nội dung quan trọng của xu thế tồn cầu hố kinh tế. Nĩi hội nhập là nhấn mạnh đến tính chủ động tham gia vào quá trình tồn cầu hố. Hội nhập kinh tế quốc tế bao gồm một số nội dung chủ yếu như: chủ động tham gia vào hệ thống phân cơng lao động quốc tế, đặc biệt là trong những lĩnh vực kinh tế mới; chủ động tham gia và mở rộng thương mại quốc tế; chủ động tham gia vào các hoạt động tài chính quốc tế…v.v. Khẳng định tầm quan trọng của hội nhập kinh tế quốc tế, Nghị quyết 07-NT/TW của Bộ Chính trị, ngày 27/11/2001 về hội nhập kinh tế quốc tế đã đề ra 5 quan điểm chủ đạo trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta trong thời kỳ mới:
- Quán triệt chủ trương được xác định tại Đại hội IX là: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của dân tộc, giữ vững an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hố dân tộc, bảo vệ mơi trường”.
- Hội nhập kinh tế quốc tế là sự nghiệp của tồn dân; trong quá trình hội nhập cần phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của tồn xã hội, trong đĩ kinh tế nhà nước giữ vai trị chủ đạo.
- Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh và cạnh tranh, vừa cĩ nhiều cơ hội, vừa khơng ít thách thức, do đĩ cần tỉnh táo, khơn khéo và linh hoạt trong việc xử lý tính hai mặt của hội nhập tuỳ theo đối tượng, vấn đề, trường hợp, thời điểm cụ thể; vừa phải đề phịng tư tưởng trì trệ, thụ động, vừa phải chống tư tưởng giản đơn, nơn nĩng.
- Nhận thức đầy đủ đặc điểm nền kinh tế nước ta, từ đĩ đề ra kế hoạch và lộ trình hợp lý, vừa phù hợp với trình độ phát triển của đất nước, vừa đáp ứng các quy định của các tổ chức kinh tế quốc tế mà nước ta tham gia; tranh thủ những ưu đãi dành cho các nước đang phát triển và các nước cĩ nền kinh tế chuyển đổi từ kinh tế tập trung bao cấp sang kinh tế thị trường.
- Kết hợp chặt chẽ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với yêu cầu giữ vững an ninh, quốc phịng, thơng qua hội nhập để tăng cường sức mạnh tổng hợp của quốc gia, nhằm củng cố chủ quyền và an ninh đất nước, cảnh giác với những mưu toan thơng qua hội nhập để thực hiện ý đồ "diễn biến hồ bình" đối với nước ta.
Để cụ thể hố Nghị quyết của Đảng, thực hiện tốt Nghị quyết trong thực tiễn, Chính phủ đã thơng qua một Chương trình hành động bao gồm các nhiệm vụ cụ thể được phân cơng trách nhiệm thực hiện rõ ràng cho các bộ, ban, ngành và địa phương cĩ liên quan, cĩ sự phối hợp thực hiện với các cơ quan trung ương. Cụ thể đầu mối nhiệm vụ là: Uỷ ban Quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Văn hố - Thơng tin với cơng tác tư tưởng, thơng tin, tuyên truyền; Bộ Tư pháp với nhiệm vụ xây dựng, sửa đổi, bổ sung pháp luật, cơ chế, chính sách kinh tế thương mại; Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Uỷ ban Quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế với nhiệm vụ nghiên cứu về chuyển dịch cơ cấu kinh tế và nâng cao khả năng cạnh tranh; Uỷ ban Quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế với nhiệm vụ tổng hợp và hồn thiện Chiến lược tổng thể về hội nhập kinh tế quốc tế; Bộ Nội vụ chủ trì cùng với Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Tư pháp… với nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực; Bộ Ngoại giao với nhiệm vụ kết hợp hoạt động chính trị đối ngoại với kinh tế đối ngoại; Bộ Quốc phịng, Bộ Cơng an với nhiệm vụ củng cố an ninh quốc phịng; Trên cơ sở chỉ đạo của Bộ Chính trị và Chính phủ, Bộ Thương mại, Bộ Tài chính với nhiệm vụ về đàm phán gia nhập WTO; Bộ Thương mại, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Uỷ ban Quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế với nhiệm vụ mở rộng thị trường xuất khẩu, tranh thủ đầu tư và trợ giúp kỹ thuật của các nước và các tổ chức quốc tế. Và cuối cùng là cơng tác kiện tồn tổ chức của các bộ, cơ quan của Chính phủ.
1.2. Những thành tựu ban đầu trong quá trình thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế theo quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam
Với đường lối, chính sách đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế đúng đắn được thể hiện rõ ràng trong các Nghị quyết của Đảng, sau gần 17 năm thực hiện, quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam đã cĩ những bước biến đổi sâu sắc. Việt Nam đã từng bước thu được những kết quả quan trọng bước đầu về ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, từng bước xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ. Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 167 nước, mở rộng quan hệ thương mại với gần 200 nước, là thành viên của ASEAN, APEC, ASEM, ký hiệp định kinh tế - thương mại, tranh thủ đầu tư trực tiếp của các tập đồn và các cơng ty thuộc 77 nước và vùng lãnh thổ, trong đĩ đáng chú ý là Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa kỳ đã được ký kết ngày 13/7/2000; tranh thủ được viện trợ phát triển của hơn 45 nước và định chế tài chính quốc tế; tích cực tham gia các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới, đưa hội nhập quốc tế lên một tầm cao mới với những mốc đánh dấu quan trọng.
* Năm 1993, Việt Nam đã khai thơng quan hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế như IMF, WB, ADB đưa hoạt động hợp tác với các định chế này dần đi vào chiều sâu. IMF, WB đã hỗ trợ cho Việt Nam thơng qua chương trình tín dụng trung hạn, chương trình điều chỉnh cơ cấu (SAC) của WB và Chương trình điều chỉnh cơ cấu mở rộng (ESAF) của IMF. Nội dung đàm phán với các tổ chức này gắn bĩ mật thiết với những yêu cầu của WTO. Đối với Chương trình SAC và ESAF lần thứ hai cho thời kỳ 1999-2002, sau các đợt đàm phán hai bên đã đạt được nhiều thoả thuận cơ bản, những vấn đề cịn lại đang được tiếp tục đàm phán trong thời gian tới.
Ở Việt Nam hiện nay cĩ khoảng 25 nhà tài trợ song phương, 19 tổ chức tài trợ đa phương và hơn 300 tổ chức phi chính phủ (NGO) đang hoạt động. Trong giai đoạn 1991 - 2000, nguồn vốn ODA vào Việt Nam tăng trưởng liên tục và bổ sung một lượng vốn khơng nhỏ cho nền kinh tế nước ta. Hội nghị Tokyo tháng 12/1997, các nhà tài trợ đã cam kết tài trợ cho Việt Nam 2,4 tỷ USD, trong đĩ khoảng 25% là viện trợ khơng hồn lại, đưa tổng số cam kết từ năm 1993 đến 1997 lên 10,847 tỷ USD. Nếu tính giá trị ODA theo đồng tiền cam kết của từng nước tài trợ thì kết quả thu hút ODA ở Hội nghị Tokyo tăng 18%, thể hiện sự tín nhiệm của cồng đồng quốc tế đối với cơng cuộc đổi mới kinh tế của đất nước ta. Đến năm 1998, tại Hội nghị Paris, các nhà tài trợ quốc tế đã cam kết dành cho Việt năm 2,2 tỷ USD viện trợ tài chính, ngồi ra cịn cam kết dành thêm 500 triệu USD để ủng hộ việc thực hiện chương trình cải cách, đưa tổng số cam kết lên 2,7 tỷ USD. Bước sang năm đầu tiên của thế kỷ XXI, trước những biến động lớn của thế giới, các nền kinh tế lớn của thế giới bị suy thối nặng nề, nhưng tại Hội nghị CG 2001 tháng 12/2001, các nhà tài trợ vẫn tích cực hỗ trợ quá trình phát triển và các chính sách cải cách của Việt Nam với số tiền 2,356 tỷ USD viện trợ ODA, tương đương với mức tài trợ của năm 2000. Chỉ tính trong giai đoạn 1993 - 2001, qua 9 hội nghị, tổng số vốn ODA đã cam kết của các nhà tài trợ đã đạt 21.096 triệu USD. Theo số liệu thống kê của Chính phủ, tổng giá trị các chương trình và dự án vốn ODA đã ký từ năm 1993 hiện đã vượt quá 14 tỷ USD. Tính đến ngày 15/5/2003, tổng giá trị các hiệp định ODA được ký kết đạt 1.010,74 triệu USD, trong đĩ vốn vay là 905,64 triệu USD và viện trợ khơng hồn lại là 105,10 triệu USD.
Như vậy, Việt Nam đã trở thành một trong những quốc gia đứng đầu về thu hút được nguồn vốn ODA từ các nước phát triển như Nhật, Pháp, Đức, Anh, Đan Mạch và Thuỵ Điển. Trong đĩ, các nhà tài trợ của EU luơn luơn là những nhà tài trợ lớn, đứng thứ 3 trong nhĩm dẫn đầu các nhà tài trợ đa phương, sau WB và ADB. Tháng 1/2002, Ban Giám đốc điều hành ADB đã phê duyệt Chương trình và chiến lược quốc gia cho Việt Nam, dự kiến trợ giúp khoảng 945 triệu USD trong ba năm tiếp theo. ADB sẽ ưu tiên trợ giúp các cải cách trong lĩnh vực tài chính và nơng nghiệp; phổ cập giáo dục trung học cơ sở và cải thiện y tế; cải cách hành chính cơng và tăng cường quản trị; phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ và cung cấp năng lượng với giá cạnh tranh; và tiếp tục các dự án trợ giúp khu vực miền Trung, nới cĩ nhiều người nghèo sinh sống. Năm 2002, ADB tài trợ cho Việt Nam với tổng số vốn hơn 240 triệu USD, năm 2003 dự kiến khoảng 280 triệu USD. Hai bên cũng cam kết tiếp tục hợp tác chặt chẽ trong những nỗ lực nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam, đơn giản hố và hài hồ các thủ tục chính sách để thúc đẩy việc thực hiện các dự án; trợ giúp Việt Nam trong các dự án ở cấp tiểu khu vực, đặc biệt là Chương trình hợp tác tiểu vùng sơng Mê Cơng mở rộng (GSM).
* Ngày 28/7/1995, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN. Việt Nam đã tham gia đầy đủ các hoạt động của ASEAN và cĩ những đĩng gĩp bằng nhiều sáng kiến trong các lĩnh vực chính trị, ngoại giao, kinh tế, xã hội, các các hoạt động hợp tác với các nước, các tổ chức đối thoại của ASEAN, trong đĩ cĩ Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM), đối thoại ASEAN - EU. Gần 8 năm qua kể từ khi chính thức gia nhập ASEAN, Việt Nam đã cĩ nhiều đĩng gĩp vào cơng việc của Hiệp hội như: chủ trì nhiều hội nghị và hội thảo cấp cao trong ASEAN và giữa ASEAN với các bên đối thoại, tham gia xây dựng nhiều văn bản quan trọng về chiến lược phát triển và các chương trình hành động của ASEAN, tiêu biểu như: Hiệp ước Đơng Nam Á khơng cĩ vũ khí hạt nhân; Tuyên bố Hà Nội; Chương trình hành động Hà Nội; Tầm nhìn ASEAN 2020; gĩp phần tích cực và là động lực chính của ASEAN tại ARF. Việt Nam đã gĩp phần làm cho ASEAN cĩ một diện mạo mới, làm cho ASEAN trở thành một khu vực hữu nghị, hợp tác, ngày càng cĩ vai trị và ảnh hưởng to lớn trên trường quốc tế. Quan điểm và những sáng kiến của Việt nam về nhiều vấn đề khu vực thường được hưởng ứng và sự nhất trí cao trong ASEAN.
Hợp tác kinh tế, thương mại giữa Việt Nam với ASEAN đã gia tăng kể từ khi Việt Nam gia nhập ASEAN. Về thương mại, kim ngạch buơn bán hai chiều đă tăng lên nhanh chĩng từ 3,5 tỷ USD năm 1985 lên hơn 6 tỷ USD năm 1998 và đạt gần 7,3 tỷ USD năm 2001, năm 2002 đạt khoảng hơn 7,9 tỷ USD. Như vậy, hiện nay ASEAN chiếm khoảng 17,3% xuất khẩu và 29% nhập khẩu trong tổng kim ngạch mậu dịch của Việt Nam. Trong giai đoạn 1995 - 2000, các nước ASEAN cĩ 296 dự án đầu tư đang hoạt động tại Việt Nam với tổng vốn 7,365 tỷ USD chiếm 16% về số dự án và 29% về vốn trong tổng đầu tư nước ngồi nĩi chung. Năm 2002, số dự án đầu tư từ ASEAN vào Việt Nam tăng lên 15 dự án so với 13 dự án năm 2001, nhưng tổng vốn đăng ký giảm chỉ bằng 55,1%.
Từ 1/1/1996, Việt Nam bắt đầu thực hiện nghĩa vụ và các cam kết trong Chương trình ưu đãi thuế quan cĩ hiệu chung (CEPT) của AFTA. Năm 1999, Việt Nam đã đưa 3582 mặt hàng vào thực hiện CEPT/AFTA, bao gồm các mặt hàng cĩ thuế suất 0-5% và thấp hơn 20% và thực hiện cắt giảm nhất định đối với một số mặt hàng khơng quan trọng. Đến cuối năm nay, Việt nam sẽ tiếp tục đưa 760 mặt hàng vào diện cắt giảm thuế quan theo quy định của CEPT. Như vậy hiện nay, Việt Nam đã chuyển 5.550 dịng thuế trong tổng số 6.400 dịng thuế của Biểu thuế nhập khẩu vào danh mục hàng hố cắt giảm thuế quan ngay (IL), từ 1/7/2003, tiếp tục cắt giảm 755 dịng thuế thuộc danh mục loại trừ tạm thời (theo cách tính mới là 1.416 dịng). Từ 1/1/2003, thuế suất của 760 mặt hàng đang nằm trong danh mục loại trừ tạm thời (TEL) sẽ chuyển sang danh mục IL, trong đĩ 80% mặt hàng cĩ thuế suất 0-5%. Việc Việt Nam tham gia thực hiện CEPT/AFTA sẽ giúp hàng hố của Việt Nam xuất khẩu sang các nước ASEAN khác được hưởng thuế suất ưu đãi làm tăng khả năng cạnh tranh của các mặt hàng này, tạo điều kiện thúc đẩy xuất khẩu sang các thị trường trong khu vực. Các nhà sản xuất của Việt nam sẽ được hưởng lợi trong nhập khẩu vật tư, nguyên liệu từ các nước ASEAN khác với thuế suất thuế nhập khẩu thấp, gĩp phần giảm chi phí sản xuất. Ngồi ra, tham gia thực hiện AFTA đã mở ra cho Việt Nam cơ hội tiếp cận với những vấn đề quan trọng của đơì sống kinh tế và liên kết kinh tế thế giới, tạo ra những khả năng mới để tăng cường hợp tác đa phương và phát triển quan hệ song phương với các nền kinh tế vốn là những đối thương thương mại và đầu tư quan trọng của Việt Nam.
* Từ tháng 3/1996, Việt Nam đã tham gia ASEM với tư cách là một trong những nước thành viên sáng lập của ASEM. ASEM được thiết lập từ 10 nước ở châu á, bao gồm: Brunei, Inđơnêxia, Malayxia, Philippine, Singapo, Thái Lan, Việt Nam, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản và 15 nước thành viên EU cùng với sự tham gia của Uỷ ban châu Âu (EC) trong tiến trình hợp tác Á - Âu này. ASEM đã hình thành nên mối quan hệ đối tác cĩ tiềm lực hàng đầu thế giới với 44,2% dân số; 54,4% GDP và 35,4% trao đổi mậu dịch tồn thế giới. Việt Nam đã tham gia và cĩ những đĩng gĩp tích cực vào những thành cơng của cơ chế này, tham gia quá trình chuẩn bị, soạn thảo các văn kiện quan trọng của ASEM, gĩp phần xử lý các vấn đề dặt ra trong quá trình hợp tác á-Âu, trên cơ sở đĩ gĩp phần tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa hai châu lục, thúc đẩy quan hệ hợp tác kinh tế, khoa học, cơng nghệ, văn hố, giáo dục…
Tại Hội nghị ASEM-2 ở Luân Đơn, Việt Nam đã đưa ra các sáng kiến cĩ giá trị là “Kết hợp y dược học cổ truyền với y dược học hiện đại trong chăm sĩc sức khoẻ cộng đồng” và “Bảo tồn và phát huy di sản văn hố trong các nước ASEM”. Tại hội nghị ASEM-3 ở Xơ-un, Việt Nam đưa ra sáng kiến “Tăng cường cơ hội kinh doanh trong ASEM” nhằm hướng hợp tác kinh tế ASEM vào những mục tiêu cụ thể và thiết thực hơn nữa. Đĩ là những đĩng gĩp thiết thực của Việt Nam nhằm làm cho tiến trình hợp tác ASEM ngày càng đa dạng và phong phú hơn. Các cơ quan hữu quan của Việt Nam đã tham gia tích cực vào các hoạt động của ASEM, đĩng gĩp nhiều ý kiến xây dựng các văn bản và tích cực tham gia triển khai “Khuơn khổ hợp tác Á - ÂU; Nhĩm viễn cảnh Á - Âu; Kế hoạch hành động xúc tiến đầu tư (IPAP), Kế hoạch thuận lợi hố thương mại (TFAP), Diễn đàn doanh nghiệp Á - Âu (AEBF), Trung tâm cơng nghệ mơi trường Á - Âu. Ngay trước khi ASEM-4 khai mạc, Diễn đàn quốc tế “Những bài học về sự tham gia của cộng đồng trong phát triển bền vững tại các nước á-Âu và tiểu vùng Mê Cơng mở rộng” đã được tổ chức tại Hà Nội với mục tiêu là nhằm tạo ra cơ hội cho các nước trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm về sự tham gia của cộng đồng trong các dự án; việc tiếp cận thơng tin của cộng đồng; sự tham gia của cộng đồng trong việc ra quyết định và quản lý tài nguyên thiên nhiên.
Điều đáng chú ý hơn là quan hệ giữa Việt Nam với các bên đối tác trong khuơn khổ ASEM ngày càng phát triển. Quan hệ hợp tác giữa Việt Nam với EU, Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản trong những năm sau ASEM-3, ASEM-4 đều cĩ những bước tiến đáng kể, cĩ triển vọng sáng sủa trên tất cả các lĩnh vực. Quan hệ thương mại và đầu tư Việt Nam - Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật bản được thúc đẩy nhanh chĩng, đi vào chiều sâu và cĩ nhiều triển vọng thuận lợi với các cơ chế đan xen ASEAN+1, ASEAN+3. Tính đến năm 2000, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang các nước ASEM chiếm tới 67,6% và nhập khẩu của Việt Nam từ các nước ASEM chiếm 70,9% tổng kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu của Việt Nam; trong đĩ cĩ 10 nước cĩ khối lượng trao đổi mậu dịch lớn nhất là Nhật Bản, Trung Quốc, Singapore, Hàn Quốc, Thái Lan, Đức, Malayxia, Pháp, Anh và Philippin. Cũng đến năm 2000, với 944 dự án đầu tư của ASEM vào Việt Nam đạt tổng số vốn đăng ký lên tới 15,242 tỷ USD.
Sự tham gia của Việt Nam tại Hội nghị ASEM-4 ở Copenhagen vừa qua cĩ ý nghĩa quan trọng, gĩp phần triển khai chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hố và đa phương hố quan hệ, tăng cường hội nhập trong khuơn khổ hợp tác Á - Âu, phục vụ các yêu cầu phát triển đất nước, gĩp phần củng cố vị thế của Việt Nam trong ASEM, đặc biệt là hiện nay Việt Nam đang là điều phối viên châu Á trong ASEM và sẽ đăng cai tổ chức Hơị nghị cấp cao ASEM-5 vào năm 2004.
* Kể từ khi chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao (ngày 22/10/1990), quan hệ kinh tế, thương mại giữa Việt Nam và EU ngày càng được củng cố và phát triển. Một loạt những Hiệp định hợp tác kinh tế, thương mại đã được ký kết, trong đĩ cĩ Hiệp định khung về hợp tác Việt Nam - EU được ký kết ngày 17/7/1995 đã tạo ra cơ sở pháp lý thuận lợi để phát triển quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và EU. Ngồi ra, quan hệ kinh tế, thương mại giữa Việt Nam - EU được tăng cường đẩy mạnh với việc EU cơng nhận Việt Nam là nước cĩ nền kinh tế thị trường và tăng cường quan hệ hợp tác tồn diện thơng qua cơ chế hợp tác trong ASEM đã cĩ những tác động mạnh mẽ đến sự phát triển quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và EU. Trong những năm gần đây, kim ngạch buơn bán với EU chiếm tỷ trọng khơng nhỏ trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam. Khối lượng buơn bán của Việt Nam với EU từ năm 1991 đến nay đã tăng với tốc độ trung bình là 40%/năm; và từ năm 1997, Việt Nam luơn đạt thặng dư thương mại trong buơn bán với EU với tỷ lệ trung bình 91%/năm. Năm 2002, xuất khẩu của Việt Nam sang khu vực thị trường EU đạt 2,48 tỷ USD và nhập khẩu đạt 1,43 tỷ USD (tương ứng tăng 4,9% và 12,7% so với năm 2001); kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ EU chiếm khoảng 13% trong tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam. 13 trong số 15 nước EU hiện nay đã cĩ quan hệ buơn bán với Việt Nam, trong đĩ Pháp, Đức, Anh và Hà Lan nằm trong danh sách những bạn hàng lớn nhất, chiếm hơn 90% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường EU.
Nhìn chung, quan hệ kinh tế, thương mại giữa Việt Nam và EU ngày càng phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Trong hơn một thập kỷ qua, nguồn vốn FDI của EU vào Việt Nam đã tăng lên nhanh chĩng. Ngay từ cuối năm 1987, khơng ít các nhà đầu tư nước ngồi EU đã trở thành những nhà đầu tư nước ngồi tiên phong đầu tư vốn vào Việt Nam. Đến năm 1996, đầu tư của EU vào Việt Nam đã chiếm khoảng 12% tổng số vốn đầu tư của EU ở khu vực Châu á, nhiều hơn đầu tư của EU vào các nước khác trong khu vực. Phần xuất khẩu từ khu vực FDI đã chiếm tỷ trọng 22% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam trong những năm 1995 - 1998. Sự phát triển ổn định về kinh tế - xã hội của Việt Nam trong những năm qua đã tạo nên những niềm tin lớn cho các nhà đầu tư EU. Các nhà đầu tư nước ngồi của EU đang vươn lên trở thành một trong những nhà đầu tư lớn nhất vào Việt Nam. Tiêu biểu trong năm 2001, FDI của các nước thành viên EU vào Việt Nam đã cĩ nhiều khởi sắc với tổng số 63 dự án, trong đĩ, Hà Lan với khối lượng vốn là 573,9 triệu USD và Pháp với 407,2 triệu USD đã vươn lên trở thành nhà đầu tư lớn nhất đầu tư vào Việt Nam. Đầu tư nước ngồi từ EU cĩ mặt trên khắp các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân và cĩ những đĩng gĩp tích cực vào sự phát triển của kinh tế Việt nam trong những năm qua. Cho đến cuối năm 2002, EU cĩ 288 dự án đang hoạt động, chiếm 9% tổng số dự án đầu tư trực tiếp nước ngồi đang hoạt động ở Việt Nam; với số vốn đăng ký đạt 5,8 tỷ USD, chiếm 15,26% tổng vốn FDI đăng ký vào Việt Nam; vốn thực hiện khoảng 2,37 tỷ USD, chiếm hơn 11,3%.
* Ngày 18/11/1998, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của APEC. Tham gia APEC, Việt Nam đã xây dựng và tiến hành thực hiện Chương trình hành động quốc gia (IAP) để thực hiện các mục tiêu tự do hố và thuận lợi hố thương mại và đầu tư của APEC. Trong IAP cĩ hình thành các cam kết ở 15 lĩnh vực về thuế, phi thuế, dịch vụ, đầu tư, quyền sở hữu trí tuệ…. APEC quyết định thực hiện hội nhập đầy đủ vào năm 2010 đối với các nước thành viên phát triển và năm 2020 đối với các nước thành viên đang phát triển, trong đĩ cĩ Việt Nam. Ngồi ra Việt Nam cịn tham gia Chương trình hành động tập thể (CAP) phối hợp hành động với các thành viên khác trên các lĩnh vực thơng tin, phát triển nguồn nhân lực, thủ tục hải quan và tiêu chuẩn, hợp chuẩn để thí điểm triển khai các hoạt động của APEC. Việt Nam cũng đặc biệt quan tâm tham gia Chương trình hợp tác kinh tế kỹ thuật (ECOTECH), rất cần cho sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố ở nước ta hiện nay.
* Sau hơn 4 năm đàm phán, Hiệp định Thương mại song phương Việt - Mỹ đã được ký kết ngày 12/7/2000 và cĩ hiệu lực ngày 10/12/2001. Trong bối cảnh cĩ nhiều thuận lợi và cũng khơng ít khĩ khăn đan xen thì kết quả của việc thực hiện hiệp định giữa hai nước được xem là đáng khích lệ. Tổng kim ngạch buơn bán năm 2002 đạt hơn 2,8 tỷ USD, tăng 95% so với năm 2001 khi mới bắt đầu thực thi hiệp định; trong đĩ kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ đạt 2,4 tỷ USD, tăng 183% so với năm 2001 và kim ngạch nhập khẩu đạt hơn 400 triệu USD, tăng 26%. Các con số này vẫn tiếp tục tăng lên một cách đáng kể, mặc dù cĩ một số tranh chấp về cá tra, ba sa, hạn ngạch hàng dệt.... nhưng kim ngạch xuất khẩu của nước ta sang Mỹ trong 6 tháng đầu năm 2003 đã đạt 2,030.895 tỷ USD, kim ngạch nhập khẩu đạt 345,576 triệu USD và ước tính tổng kim ngạch vuơn bán hai chiều sẽ đạt gần 4 tỷ USD. Từ năm 2002, Mỹ đã trở thành thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam.
Về đầu tư của Mỹ vào Việt Nam, tuy cĩ tăng nhưng với mức độ chưa đáng kể. Hiện nay, Mỹ mới chỉ đứng hàng thứ 11 trong số các nước, vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam với 167 dự án, trị giá 1,155.6 tỷ USD. Tuy nhiên, khối lượng đầu tư của Mỹ vào Việt Nam trên thực tế cịn lớn hơn nhiều (khoảng gấp đơi số trên) do Mỹ cịn đầu tư thơng qua nhiều dự án của các chi nhánh của mình ở nước thứ ba.
* Tháng 12/1994, Việt Nam chính thức gửi đơn xin gia nhập WTO và từ đĩ đến nay đã tiến hành các cơng việc minh bạch hố chính sách, chuẩn bị và tiến hành các vịng đàm phán song phương mở cửa thị trường. Để gia nhập WTO, Việt Nam phải tiến hành đồng thời vừa đàm phán với WTO, vừa đàm phán tay đơi song song với một số nước cĩ chọn lọc. Hiện nay, Việt Nam đã vượt qua 8 vịng đàm phán, hồn thành việc trả lời 2.000 câu hỏi từ Ban thư ký của WTO và các nước thành viên; và đang xúc tiến chuẩn bị thực hiện phiên đàm phán thứ 7 với quyết tâm phấn đấu gia nhập WTO vào năm 2005, tất nhiên là với những điều kiện chấp nhận được đối với nền kinh tế của Việt Nam. Tuy nhiên, thời điểm gia nhập cịn phụ thuộc vào yêu cầu, đàm phán thực chất của các nước, tiến triển của vịng đàm phán Doha.
Tĩm lại, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam được thực hiện trong một thời gian chưa dài, kinh nghiệm cịn hạn chế nhưng đã mang lại những kết quả ban đầu đáng khích lệ đĩ là: Đẩy lùi được chính sách bao vây cơ lập, cấm vận của các thế lực thù địch, tạo dựng được mơi trường quốc tế, khu vực thuận lợi cho cơng cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc, nâng cao vị thế đất nước trên chính trường và thương trường quốc tế; Khắc phục được tình hình khủng hoảng thị trường do Liên xơ và hệ thống xã hội chủ nghĩa bị tan rã gây nên, mở rộng và đa dạng hố được thị trường xuất nhập khẩu; Thu hút được một nguồn vốn lớn đầu tư trực tiếp nước ngồi (FDI) và nguồn viện trợ phát triển chính thức (ODA), giảm đáng kể nợ nước ngồi; Từng bước tiếp thu khoa học và cơng nghệ, kỹ năng quản lý, gĩp phần đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý và cán bộ kinh doanh; Từng bước đưa hoạt động của các doanh nghiệp và cả nền kinh tế vào mơi trường cạnh tranh, nhờ đĩ đã tạo được tư tuy kinh doanh mới, thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng cơng nghiệp hố, hiện đại hố, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh; Kết hợp nội lực và ngoại lực hình thành sức mạnh tổng hợp gĩp phần đưa đến những thành kinh tế to lớn và nhờ vậy giúp chúng ta tiếp tục giữ vững, củng cố độc lập tự chủ, định hướng xã hội chủ nghĩa, an ninh quốc gia và bản sắc văn hố dân tộc.
Tuy nhiên bên cạnh những kết quả khả quan trên, trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam cũng đã bộc lộ những điểm yếu kém cần khắc phục, đĩ là cơng tác chuẩn bị khi cơng cuộc hội nhập quốc tế chuyển sang giai đoạn mới trong bối cảnh quốc tế cĩ nhiều biến động phức tạp; Chưa hình thành được một kế hoạch tổng thể và dài hạn về hội nhập kinh tế quốc tế và một lộ trình hợp lý cho việc thực hiện các cam kết quốc tế; Luật pháp, chính sách quản lý kinh tế, thương mại chưa hồn chỉnh, cịn nhiều bất cập; Các doanh nghiệp của Việt nam cịn yếu cả về sản xuất, trình độ quản lý và khả năng cạnh tranh; Nguồn nhân lực phục vụ cho tiến trình hội nhập cịn thiếu, trình độ chưa đáp ứng được yêu cầu cơ bản. Cơng tác tổ chức chỉ đạo chưa thích hợp. Ngồi những yếu kém cần khắc phục trên, Việt Nam cịn cần phải khẩn trương xây dựng kế hoạch mang tính chiến lược dài hạn để đối phĩ với những thách thức mới do biến động phức tạp của tình hình quốc tế mang lại.
2.Thử thách trên con đường hội nhập
2.1 Thử thách trong nước
2.1.1 Doanh nghiệp nhà nước
Hội nhập đòi hỏi Việt Nam mở cửa thị trường, nhất là về khu vực công nghiệp chế biến để cho hàng ngoại quốc được tự do cạnh tranh với hàng nội hóa. Hai nguyên tắc thương mại chính (tối huệ quốc và quy chế công dân) bảo đảm đầu tư ngoại quốc được đối xử bình đẳng như dân bản xứ, nghĩa là không bị kì thị hay gây khó khăn trong việc đầu tư sản xuất. Vấn đề đặt ra cho Việt Nam là đa số hàng bản xứ đều do doanh nghiệp nhà nước độc quyền sản xuất, còn doanh nghiệp tư nhân thì chưa nắm vai trò quan trọng. Sau hội nhập, doanh nghiệp nhà nước bắt buộc phải đạt được mức sản xuất tối ưu để cạnh tranh ngoại quốc. Muốn như vậy các doanh nghiệp này cần phải được giúp vốn đầu tư đầy đủ để phát triển về kỹ thuật sản xuất lẫn khả năng quản trị. Mặt khác doanh nghiệp nào yếu kém , tiếp tục lỗ lã thâm hụt , vô phương sản xuất tối ưu thì phải bị đào thải. Như vậy, Việt Nam cần có một hệ thống doanh nghiệp nhà nước vừa nghiêm khắc minh bạch rõ ràng, mà lại vừa áp dụng đồng đều không thiên vị.
2.1.2 Lao động dư thừa
Cải cách doanh nghiệp nhà nước thì sẽ dư thừa lao động. Nếu doanh nghiệp nhà nước phải bán đi, chia cổ phần, hay giao cho tư nhân quản trị, thì vấn đề không tránh được là ban quản trị mới sẽ cắt giảm chi phí sản xuất bằng cách cho lao động nghỉ việc. Thành ra, giải pháp cải cách doanh nghiệp kéo ra vấn đề thất nghiệp. Thất nghiệp là chỗ khác biệt chính yếu giữa nhà nước và tư nhân. Đối với nhà nước, mục tiêu an sinh xã hội được xếp ngang hàng với các mục tiêu kinh tế khác. Ngược lại, đối với tư nhân, lợi nhuận được coi là mục tiêu tối cao. Nếu cần phải giảm chi phí lao động để giữ lợi nhuận, thì doanh nghiệp tư nhân sẽ không ngần ngại sa thải lao động. Việt Nam cần phải có chương trình cải cách lương bổng đi song đôi với cải cách doanh nghiệp Nhà nước để bảo vệ lao động trong giai đọan hội nhập, lao động là tài nguyên của đất nước, không thể phí phạm bằng cách để sống nghèo khó thui chột trong xã hội mới. Như vậy, lao động từ các doanh nghiệp Nhà nước, nếu còn trẻ và đủ sức làm việc, cần phải được huấn luyện để có thêm khả năng làm việc trong môi trường mới.
2.1.3 Xóa đói giảm nghèo
Xáo trộn trong thị trường lao động là phản ứng ngắn hạn của nền kinh tế bị co giãn dưới sức ép của hội nhập. Do đó cần phải có chính sách lao động hay xã hội an sinh để điều chỉnh nền kinh tế trong lúc hội nhập. Đối với nước chậm tiến như Việt Nam, hội nhập hay không hội nhập, nạn nghèo đói luôn luôn là một vấn đề trường kỳ nan giải. Đó là chưa kể thêm vấn đề chêch lệch giàu nghèo giữa nông thôn và thành thị: 80% dân số sống ở nông thôn chỉ chiếm dưới phân nửa sản lượng quốc gia; ngược lại, 20% dân số sống ở thành thị chiếm hơn phân nửa sản lượng quốc gia. Hội nhập đưa tới những câu hỏi cực kỳ quan trọng về nghèo đói. Liệu hội nhập sẽ làm tăng hay giảm nghèo đói? Nếu hội nhập làm tăng nghèo đói thì phải có những chính sách nào xóa đói giảm nghèo để chạy song song với hội nhập? Hơn nữa, liệu 80% dân Việt Nam sống ở nông thôn có thể hưởng thành quả của hội nhập hay không? Hay là hội nhập chỉ có lợi cho 20% dân số sống ở thành thị? Làm cách nào để toàn dân trong nước được hưởng đồng đều kết quả của hội nhập? Câu trả lời nằm trong chính sách phân chia lợi tức đồng đều giữa nông thôn và thành thị.
2.1.4 Cấu trúc kinh tế
Việt Nam cập nhật hóa nhiều văn kiện pháp luật cho phù hợp với hội nhập. Các cơ sở hạ tầng về luật pháp (như luật sở hữu trí tuệ, đầu tư ngoại quốc, tài khoản thuế khóa, tư bản, và lao động) cần phải được sửa đổi hoặc tạo dựng để bảo vệ đầu tư cũng như tiêu dùng trong nước. Căn bản lý thuyết kinh tế thị trường dựa trên ba thành phần chính: sản xuất, tiêu thụ và Chính phủ. Thành phần chủ độnt hường là người tiêu thụ nắm quyền sở hữu cơ cấu sản xuất trong nước. Tuy nhiên, nền kinh tế chuyển tiếp Việt Nam, Chính phủ đóng vai trò chủ động và giữ hết cơ cấu sản xuất (kể cả tư bản và ruộng đất). Sản xuất cũng lại là chính phủ dưới dạng doanh nghiệp nhà nước. Người tiêu thụ đóng vai trò rất phụ và thụ động, nghĩa là chỉ làm công và tiêu thụ. Còn doanh nghiệp tư nhân thì vừa ít vừa nhỏ không đủ sức cạnh tranh với doanh nghiệp ngoại quốc tràn vào lúc hội nhập. Doanh nghiệp nhà nước cũng không thể cạnh tranh do hiệu quả sản xuất thấp. Như vậy, thử thách cho Việt Nam là phải xây dựng kịp thời cơ sở doanh nghiệp ( tư nhân hoặc nhà nước hoặc cả hai) cho cò đủ khả năng cạnh tranh với ngoại quốc.
2.2 Thử thách ngoài nước
2.2.1 Quan hệ Trung Quốc
Trung Quốc luôn đóng một vai trò quan trọng đối với Việt Nam về lịch sử, văn hóa, chính trị và kinh tế. Hai nước đều kết thúc thương thuyết với Mỹ năm 2001, vừa để thiết lập quan hệ thương mại vừa để thỏa mãn điều kiện gia nhập WTO. Ngày nay Trung Quốc cũng đã gia nhập vào WTO rồi. Vấn đề đặt ra cho Việt Nam là nhận định vai trò quan hệ với Trung Quốc: Việt Nam với Trung Quốc nên được coi là bổ sung (như bát với đũa) hay là thay thế (như cơm với cháo)? Trong trường hợp nào thì hàng Việt Nam nên cạnh tranh với hàng Trung Quốc? VÀ trong trường hợp nào thì hàng Việt Nam nên bổ sung hàng Trung Quốc? Trên đường hội nhập trong 10 năm tới, hai nước sẽ đều là thành viên chính thức của WTO, APEC, … khi đó lợi điểm của Việt Nam đối với Trung Quốc sẽ ra sao? Liệu hàng Việt Nam có khả năng cạnh tranh với hàng Trugn Quốc trong thị trường tự do hay không?
2.2.2 Quan hệ Việt kiều
Mỗi năm Việt Kiều gởi về Việt nam trên 2 tỷ Mỹ kim và về thăm nhà đông đảo trong những dịp Tết nhất, mang nguồn lợi tức và ngoại tệ đáng kể cho nền kinh tế trong nước. Việt kiều cũng là khối tiêu thụ mạnh nhất cho hàng xuất khẩu từ Việt Nam (thí dụ: mắm tôm Việt Nam bán sang Mỹ thì chắc chắn chỉ có Việt kiều là tiêu thụ nhiều). Nhiều Việt kiều, nhất là thế hệ thứ hai hay thứ 3, đã thành công trong phương diện tài chính, văn hóa, khoa học và giáo dục. Họ cũng bắt đầu biết dùng vận động hành lang với chính phủ Mỹ để bảo vệ tiếng nói và quyền lợi của mình. Một thử thách cho Việt Nam là tìm cách “hội nhập” hai nền kinh tế Việt: nền kinh tế trong nước và nền “kinh tế vệ tinh” ngoài nước. Gần đây Việt Nam đã có những dấu hiệu khích lện đáng kể như biện pháp khuyến khích Việt Kiều về nước đầu tư, sửa đổi thủ tục mua nhà và bỏ chính sách lưỡng giá. Việt Nam đã xúc tiến hội nhập với nền kinh tế toàn cầu thì không có lý do gì mà không cố gắng hội nhập với “kinh tế vệ tinh” của nhóm dân Việt sống nơi đất khách quê người.
2.2.3 Tranh chấp quốc tế:
Trên lý thuyết thì thế giới ca tụng tự do hóa thương mãi và hội nhập. Tuy nhiên, trên thực tế thí các nứơc còn giữ rất nhiều rào cản quan thuế và phi quan thuế để ngăn chặn hàng ngoại quốc vào thị trường nội địa. Ngay cản cường quốc như Mỹ cũng phải dùng biện pháp cản hàng ngoại quốc. Những biện pháp cấm cản này gây nên tranh chấp quốc tế và phân xử tại WTO. Việt Nam đã nếm bài học hội nhập đầu tiên ( và chưa phải bài học cuối cùng) trong vụ cá tra với Mỹ. Việt Nam chưa vào WTO nên không có tiếng nói hay ra tòa kiện tụng để bảo vệ quyền lợi của mình trong thương trường quốc tế; công thêm nước vừa nhỏ vừa nghèo, nên không có khả năng đòi hỏi đối với các nước khác. Cho tới khi Việt Nam có thêm nhiều lợi khí để làm áp lực, thương thuyết là phương tiện độc nhất hiện có về phương diện đối ngoại. Việt Nam có thể bắt chước Canada và Trung Quốc bằng cách tăng ngâns ách ngoại giao, nhất là Mỹ, để tạo áp lực (lobby) thuận lợi cho mình ngay trong nội địa nước Mỹ. Đây là một điểm rất quan trọng cho các nước nhỏ muốn thương thuyết thành công với Mỹ.
2.2.4 Trợ nông trên thế giới
Trợ nông là một hiện tượng chung trên toàn thế giới, nhất là các nước tiên tiến. Thí dụ, các nước Liên Minh Aâu Châu, Bắc Mỹ, Nhật vẫn giữ mức độ trợ nông rất cao: 38% trong năm 1886 và 31% trong 2001, nghĩa là chỉ giảm có 7% trong suốt 15 năm (1986-2001). New Zealand và Úc được coi là thị trường tự do nhất bởi vì Chính phủ ít dùng trợ nông để can thiệp trong thị trường. Ngược lại, ba nước Thụy Sỹ, Na Uy và Nhật đứng đầu về chính sách can thiệp tích cực. Về nông nghiệp, gạo là nông phẩm được bảo vệ nhiều nhất. Thí dụ, ngoài trợ nông, nhật còn đánh quan thuế nhập khẩu cao tới 490% để giữ gạo trong nước hoàn toàn biệt lập với thị trường quốc tế. Chính sách bảo vệ thị trường triệt để này là một điểm đáng quan tâm cho Việt Nam vốn là nước xuất khẩu gạo lớn thứ 3 trên thế giới, sau Thái Lan và Aán độ.
Các nước phát triển dùng cả hai chính sách: vừa trợ nông để giúp dân trong nước, vừa tỏa cảng để ngăn hàng ngoại quốc nhập khẩu. Các nước đang phát triển, chuyên về nông phẩm, mà lại không vào được thị trường của các nước phát triển để bán. Do đó, vấn đề giảm trợ nông và mở cửa thị trường nông nghiệp là một trong những tranh chấp gay go nhất trong các hội nghị thương mại quốc tế.
Sau hai thập niên áp dụng Đổi mới và mười năm hội nhập, Việt Nam đã đạt được kết quả khả quan cũng như bài học đáng giá. Những kinh nghiệm này chắc chắn sẽ giúp Việt Nam tiến trên con đường hội nhập trong thời gian tới.
Phần 3: Những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy nhanh quá trình hội nhập
1. Nhĩm giải pháp về điều chỉnh chính sách và các biện pháp thực hiện chính sách thương mại
* Phối hợp điều chỉnh để chính thức hố và cơng bố cơng khai các lộ trình cam kết về điều chỉnh chính sách và các cơng cụ của chính sách
Trong quá trình thực hiện các điều chỉnh chính sách và các cơng cụ của chính sách, đặc biệt là chính sách thương mại cĩ thể nảy sinh những điểm khơng thống nhất, khơng đồng bộ và khơng hợp lý do vậy trong quá trình chính thức hố đưa vào thực hiện cần cĩ sự điều chỉnh. Nĩi một cách khác là cần cĩ một chiến lược tổng thể và một lộ trình tổng thể về điều chỉnh chính sách trong quá trình hội nhập.
Sau khi cĩ sự điều chỉnh cần cơng bố cơng khai, rộng rãi cho các ngành, các doanh nghiệp biết để cĩ sự chuẩn bị và chủ động tham gia vào lộ trình hội nhập.
* Xúc tiến nhanh việc xây dựng các chiến lược của các ngành, các doanh nghiệp cho phù hợp với những điều chỉnh về chính sách
Căn cứ vào các lộ trình hội nhập đã được cơng bố các ngành và các doanh nghiệp cần xây dựng các chiến lược cụ thể của ngành và của doanh nghiệp cho tương thích với các lộ trình đã cam kết.
Trong quá trình xây dựng chiến lược cần lưu ý:
Thứ nhất: các cam kết cĩ thể sẽ căn cứ vào thực tiễn năng lực sản xuất và cung cấp hàng hố của chính các ngành hay doanh nghiệp trong khoảng thời gian trước mắt 3 đến 5 năm. Ví dụ các cam kết về hạn ngạch dệt may, hoặc thuỷ sản trong khuơn khổ Hiệp định thương mại Việt – Mỹ. Do đĩ, khi xây dựng chiến lược cần phải lưu ý ngay từ những năm đầu cần khai thác hết năng lực sản xuất kinh doanh hiện cĩ, đồng thời với việc đầu tư để mở rộng các năng lực sản xuất kinh doanh mới.
Thứ hai: Phải tính đến vấn đề chuyển đổi ngành nghề, hoặc đa dạng hố sản phẩm dịch vụ trong chiến lược. Bởi lẽ cĩ những sản phẩm và dịch vụ sẽ khơng phù hợp hoặc tỏ ra khơng cĩ khả năng cạnh tranh trong quá trình thực hiện lộ trình hội nhập.
* Tích cực chuẩn bị các phương án để đàm phán tiếp trong các cuộc đàm phán song phương và đa phương về các lĩnh vực thuế, phi thuế, mở cửa thị trường dịch vụ, đầu tư...
Mặc dù đã đạt được những kết quả đáng kể trong việc cam kết thực hiện các lộ trình trong khuơn khổ của ASEAN, APEC và Hiệp định thương mại Việt – Mỹ, nhưng để gia nhập Tổ chức thương mại thế giới - WTO, dự kiến vào khoảng năm 2005 thì chúng ta cịn phải tiến hành nhiều cuộc đàm phán song phương và đa phương. Do vậy việc chuẩn bị các phương án để đàm phán là cần thiết. Khi xây dựng các phương án đàm phán tiếp theo cần tuân thủ các nguyên tắc và lộ trình đã được xác định trước, đồng thời cĩ tính đến thực tiễn của kinh tế quốc tế và kinh tế trong nước. Những lĩnh vực cần tập trung vẫn là: Thuế quan, phi thuế quan, các vấn đề về hàng nơng sản, thương mại dịch vụ, các biện pháp đầu tư cĩ liên quan đến thương mại và sở hữu trí tuệ.
2. Nhĩm giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh trong quá trình hội nhập
* Tạo dựng nhanh các yếu tố năng lực cạnh tranh của nền kinh tế để thay đổi vị thế của nền kinh tế trong tương quan với khu vực và thế giới
Các yếu tố tạo thành năng lực cạnh tranh của nền kinh tế bao gồm: Cơ sở hạ tầng, trình độ cơng nghệ, trình độ quản lý, độ ổn định và đồng bộ của hệ thống chính sách, hệ thống tài chính ngân hàng. Các yếu tố trên đây của nền kinh tế Việt Nam đang ở vị thế bất lợi trong so sánh với các nước trong khu vực và thế giới. Do vậy việc tạo dựng nhanh chĩng và đồng bộ yếu tố trên đây được xem như là việc làm cĩ ý nghĩa quyết định đến sự thành cơng của quá trình hội nhập. Tất nhiên, đối với nền kinh tế của Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi thì khơng thể địi hỏi cĩ một sự nhảy vọt đột biến được, mà cần phải cĩ thời gian. Trong quá trình tạo dựng các yếu tố này chúng ta cĩ thể kết hợp và tranh thủ các yếu tố từ bên ngồi như vốn và cơng nghệ, tức chính là sử dụng ngay lợi ích của hội nhập và học tập những kinh nghiệm của các nước đã đi trước để cĩ thể rút ngắn thời gian.
* Đầu tư, đổi mới cơng nghệ để nâng cao năng suất lao động và giảm giá thành đối với sản phẩm
Các sản phẩm xuất khẩu chủ lực của Việt Nam là những sản phẩm khai thác từ tự nhiên, cả những tài nguyên thiên nhiên khơng tái tạo, những sản phẩm nơng lâm ngư nghiệp chưa qua chế biến hoặc chế biến thơ. Các sản phẩm cơng nghiệp vẫn cịn nghèo về chủng loại, chất lượng thấp, giá thành cao do cơng nghệ lạc hậu lại tiêu tốn vật tư, nguyên liệu năng lượng. Do vậy, năng suất lao động thấp và khả năng cạnh tranh của sản phẩm hạn chế.
Việc đầu tư để đổi mới cơng nghệ một mặt cho chất lượng sản phẩm cao hơn, mặt khác tạo ra năng suất lao động cao và giảm được chi phí sản xuất. Việc đầu tư để đổi mới cơng nghệ cĩ thể thực hiện bằng các nguồn vốn huy động trong nước kể cả các nguồn vốn của doanh nghiệp, hoặc cĩ thể bằng các nguồn vốn từ bên ngồi, trong đĩ nguồn vốn đầu tư trực tiếp là nguồn quan trọng. Trong trường hợp đổi mới cơng nghệ bằng nguồn vốn đầu tư trực tiếp cần lưu ý đến trình độ tiên tiến của cơng nghệ và trợ giá của cơng nghệ. Trình độ tiên tiến của cơng nghệ phải thoả mãn các tiêu chí để so sánh với các cơng nghệ hiện cĩ ở Việt Nam đĩ là năng suất lao động, tiêu hao về năng lượng, nguyên liệu, nhiên liệu, sức lao động và phải đảm bảo an tồn lao động và mơi trường sinh thái khi sử dụng.
Khuyến khích ứng dụng các kết quả nghiên cứu ở trong nước và áp dụng hình thức R&D cho các cơ sở khoa học cơng nghệ nhằm gắn nghiên cứu khoa học cơng nghệ với thực tiễn sản xuất và kinh doanh.
*Áp dụng rộng rãi hệ thống quản lý chất lượng quốc tế trong mọi lĩnh vực
Hệ thống quản lý chất lượng nhằm mục tiêu bảo đảm chất lượng cho các sản phẩm và dịch vụ thoả mãn các yêu cầu của khách hàng. Ngày nay trong thương mại quốc tế và hợp tác kinh tế quốc tế, chất lượng giữ vai trị hàng đầu và là nhân tố quan trọng trong cạnh tranh. Nhiều nước mặc nhiên thống nhất với nhau rằng sang thế kỷ XXI, doanh nghiệp nào chưa cĩ chứng nhận phù hợp ISO 9000 hoặc các chứng chỉ tương đương như (GMP, HACCP, TQM) thì khơng thể tham gia vào xuất khẩu hay đấu thầu quốc tế. Điều quan trọng hơn là các quốc gia muốn cĩ sự cơng nhận lẫn nhau về chứng chỉ, bằng cấp thì các quốc gia cần phải áp dụng tiêu chuẩn quốc tế. Các bộ tiêu chuẩn ISO hoặc tương đương sẽ giải quyết được các yêu cầu trên đây của các quốc gia.
Hiện nay ở Việt Nam số các doanh nghiệp áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế vào hệ thống quản lý chất lượng cịn hạn chế. Một mặt do các doanh nghiệp chưa cĩ đủ điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị và con người để áp dụng, mặt khác cũng cịn nhiều doanh nghiệp chưa hiểu rõ về các hệ thống tiêu chuẩn này cũng như lợi ích của việc đưa các tiêu chuẩn này vào hệ thống quản lý chất lượng của doanh nghiệp mình. Vấn đề đặt ra là phải tạo điều kiện cho cả hai trường hợp trên đây cĩ thể sử dụng các tiêu chuẩn quốc tế cho doanh nghiệp của họ.
* Cải tiến và đa dạng mẫu mã chủng loại sản phẩm và dịch vụ cùng những dịch vụ hậu mãi
Trong quá trình cạnh tranh, khơng chỉ cĩ việc nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ và hạ giá thành cĩ ý nghĩa quan trọng mà các yếu tố như mẫu mã, chủng loại cũng như các dịch vụ hậu mãi cũng cĩ ý nghĩa khơng kém phần quan trọng mà cĩ lúc, cĩ trường hợp chính các yếu tố này lại là sự lựa chọn hàng đầu của khách hàng.
Đặc biệt việc xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm và dịch vụ của Việt Nam cần được các doanh nghiệp coi trọng. Đi đơi với thương hiệu là vấn đề đăng ký bản quyền và tơn trọng bản quyền đối với các sản phẩm, dịch vụ cùng loại.
Các dịch vụ sau bán hàng như cung ứng vận chuyển hàng hố, hướng dẫn lắp đặt, bảo hành, bảo trì ... cùng các điều kiện về giá cả và chất lượng sẽ tạo nên sản phẩm hay dịch vụ hồn hảo đáp ứng sự lựa chọn của khách hàng. Tuy nhiên, những dịch vụ kể trên phải thực sự lành mạnh, khơng trái với các tập quán quốc tế.
3. Nhĩm giải pháp hạn chế tác động xấu của quá trình hội nhập
* Chuyển dịch cơ cấu sản phẩm, cơ cấu thị trường cho phù hợp và khai thác các lợi thế sẵn cĩ của nền kinh tế
Hội nhập địi hỏi phải tái cơ cấu nền kinh tế để thích nghi và phát huy lợi thế so sánh riêng của mình một cách tốt nhất. Việc xây dựng chương trình điều chỉnh cơ cấu kinh tế địi hỏi phải hình dung được về cơ bản cơ cấu kinh tế của Việt Nam trong vịng 10-20 năm nữa (bao gồm cơ cấu ngành/hàng và cơ cấu vùng), xác định được những ngành mũi nhọn, những ngành cần ưu tiên phát triển trong một thời gian nào đĩ làm cơ sở xây dựng chiến lược hội nhập và các chính sách bảo hộ cụ thể. Điều này sẽ giúp chúng ta khơng bị tụt hậu quá xa so với các nước, tham gia vào kinh tế thế giới, tái phân cơng lao động xã hội, tăng thu nhập cho nhân dân và tạo thị trường tiêu thụ cho hàng hố.
Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế cần thực hiện theo những phương hướng sau:
- Tập trung giải quyết vấn đề lao động, chủ yếu là chuyển lao động từ nơng nghiệp, nơng thơn sang cơng nghiệp và dịch vụ. Cơng nghiệp và dịch vụ trong nước phải là thị trường chủ yếu tiêu thụ sản phẩm ổn định cho nơng nghiệp.
- Chú trọng phát triển dịch vụ, là ngành cần ít vốn nhưng lại tạo nhiều việc làm, nâng cao năng suất lao động, tăng thu nhập, cải thiện đời sống nhân dân. Ưu tiên các ngành dịch vụ sau: dịch vụ kinh doanh thương mại, dịch vụ tư vấn pháp luật, dịch vụ tư vấn đào tạo nghề nghiệp và việc làm, dịch vụ máy tính và các dịch vụ cĩ liên quan, dịch vụ nghiên cứu và phát triển, dịch vụ liên quan tới bất động sản, máy mĩc thiết bị và dịch vụ kinh doanh khác; dịch vụ xây dựng; các dịch vụ tài chính như bảo hiểm, ngân hàng; dịch vụ vận tải hàng khơng; vận tải đường biển; bưu chính, viễn thơng và du lịch…
- Trong đầu thế kỷ này, Việt Nam cần tiếp tục củng cố cơ cấu cơng nghiệp sử dụng nhiều lao động, đồng thời khuyến khích, hỗ trợ và hướng tới xây dựng và phát triển các ngành cơng nghiệp chế tác sử dụng nhiều vốn, tạo đà cho CNH-HĐH thời kỳ sau, tiến tới các ngành dịch vụ chuyên mơn cao.
- Thực hiện chuyển dịch cơ cấu vùng, tiến lên một cơ cấu kinh tế phát triển cả đồng bằng, trung du, miền biển, hải đảo, các vùng kinh tế trọng điểm và khu kinh tế đặc biệt.
*Áp dụng linh hoạt những chính sách, biện pháp kể cả các biện pháp, chính sách về mặt xã hội để trợ giúp cho các doanh nghiệp buộc phải phá sản, buộc phải chuyển đổi ngành nghề
Phá sản và buộc phải chuyển đổi ngành nghề là những vấn đề mà hội nhập sẽ phải đối mặt. Một khi những vấn đề này xảy ra thì ngồi những thiệt hại, rủi ro về mặt kinh tế cịn cĩ những thiệt hại về mặt xã hội như vấn đề thất nghiệp, vấn đề phân hố giàu nghèo, đào tạo nghề nghiệp để chuyển đổi ngành nghề... Để giải quyết triệt để những vấn đề trên đây cần phải cĩ những chính sách hoặc những giải pháp linh hoạt từ cả phía Nhà nước và các đồn thể xã hội và doanh nghiệp. Thành lập các quỹ để hỗ trợ từ ngân sách hoặc từ các nguồn tài trợ quốc tế và dành các khoản tín dụng ưu đãi cho các mục tiêu trên đây…
* Giữ vững và đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế để tránh nguy cơ tụt hậu
Đây là một giải pháp tổng thể và cĩ tác động qua lại bởi cĩ giữ vững và đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế thì mới tranh thủ được những cơ hội và hạn chế được những thách thức của hội nhập. Đến lượt nĩ, hội nhập cĩ hiệu quả lại làm cho nền kinh tế phát triển với tốc độ nhanh và bền vững.
Trong những năm qua, thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về việc mở rộng quan hệ đối ngoại, tranh thủ các nguồn lực bên ngồi và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, trong đĩ cĩ việc mở rộng mạnh mẽ quan hệ hợp tác song phương và đa phương trong lĩnh vực thương mại và đầu tư nước ngồi. Việc đẩy mạnh quá trình hội nhập quốc tế đã cĩ những đĩng gĩp tích cực vào việc tăng cường tính hấp dẫn và cạnh tranh của thị trường trong nước và mơi trường đầu tư, tạo điều kiện để Việt Nam mở rộng thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi, cơng nghệ hiện đại và kỹ năng quản lý, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu theo hướng cơng nghiệp hĩa, hiện đại hĩa, gĩp phần nâng cao sức cạnh tranh của hàng hĩa, dịch vụ, tăng năng lực xuất khẩu, tạo ra những cơ hội và ưu thế mới để tham gia cĩ hiệu quả vào quá trình tự do hố thương mại tồn cầu và khu vực.
4. Nhĩm giải pháp về đào tạo nâng cao kiến thức về hội nhập
* Đưa nội dung kiến thức về hội nhập vào chương trình đào tạo của các trường đại học, đặc biệt các trường khối kinh tế, xã hội, nhân văn.
Hiện nay, trong chương trình đào tạo của các trường đại học thuộc khối kinh tế và xã hội nhân văn đã cĩ những mơn học đề cập đến kiến thức hội nhập. Song để phổ cập hơn nữa cần đưa thêm vào chương trình những kiến thức mới nhất về hội nhập khơng chỉ cho các trường kinh tế, xã hội, nhân văn mà cả với các trường khối kỹ thuật và chuyên ngành khác.
Bên cạnh những kiến thức về hội nhập, ngành giáo dục đào tạo cũng cần cải tiến chương trình, nội dung và phương pháp giảng dạy để nhằm cung cấp cho xã hội một nguồn nhân lực cĩ chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của hội nhập, tránh tình trạng tụt hậu.
Mặt khác, cần cĩ kế hoạch triển khai cụ thể Quyết định số 137/2003/QĐ-TTg ngày 11/4/2003 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt kế hoạch đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực cho cơng tác hội nhập kinh tế quốc tế giai đoạn 2003-2010.
* Củng cố bộ máy tổ chức điều hành cơng tác hội nhập trong tồn quốc và tăng cường cơng tác thơng tin tuyền truyền về hội nhập
Để thống nhất chỉ đạo cơng tác hội nhập kinh tế quốc tế, Uỷ ban quốc gia về Hợp tác kinh tế quốc tế với thành viên là các bộ/ngành do một phĩ Thủ tướng làm chủ tịch đã được thành lập từ tháng 2/1998. Tiếp đĩ, các đơn vị đầu mối ở tất cả các bộ/ngành và Uỷ ban nhân dân các tỉnh/thành trực thuộc Trung ương cũng đã được thành lập. Nhìn chung, trong thời gian qua, Uỷ ban và các đơn vị đầu mối đã hoạt động khá tích cực và cĩ kết quả tốt. Tuy nhiên, sự phối hợp giữa các bộ ngành cịn chưa chặt, thiếu đồng bộ; cịn tồn tại các quan điểm cục bộ trong xử lý cơng việc hoặc kiến nghị chủ trương; sự tham gia của các doanh nghiệp cịn cĩ nhiều hạn chế.
Để khắc phục tình trạng này, ta cần:
+Nghiên cứu khả năng phối hợp giữa Bộ Thương mại với Bộ Cơng nghiệp và Bộ Kế hoạch và Đầu tư nhằm đưa lại kết quả tốt hơn trong phối hợp các hoạt động kinh tế trong nước và ngồi nước trong quá trình hội nhập;
+ Lập cơ chế thơng tin thống nhất giữa các cơ quan trên tất cả các khâu, từ xử lý thơng tin đầu vào đến lấy ý kiến của các cơ quan hữu quan, từ việc đưa khuyến nghị lên Uỷ ban Quốc gia đến việc triển khai các quyết định của Uỷ ban và Chính phủ;
+ Tăng cường đội ngũ chuyên trách đàm phán các vấn đề kinh tế quốc tế trên cơ sở củng cố các Tổ cơng tác liên bộ, các đơn vị đầu mối và đào tạo cán bộ đàm phán;
+ Tăng cường sự tham gia của các doanh nghiệp thơng qua việc thiết lập các cơ chế tham vấn thường xuyên giữa Uỷ ban, các tổ cơng tác với Phịng Thương mại và Cơng nghiệp Việt Nam và các hiệp hội, câu lạc bộ doanh nghiệp.
Cơng tác thơng tin tuyên truyền về hội nhập cần được tổ chức sâu rộng trong tồn Đảng, các cơ quan Nhà nước và trong xã hội, làm cho mọi người hiểu rõ về những vấn đề cơ bản như xu thế phát triển khách quan của tồn cầu hố và hội nhập kinh tế quốc tế trên thế giới để thấy việc Việt Nam hội nhập là phù hợp với xu thế chung; quá trình hội nhập vừa qua của ta tuy cịn những khiếm khuyết nhưng đã đạt được những thành tựu to lớn gĩp phần quan trọng vào sự thành cơng của sự nghiệp đổi mới; nội dung của các định hướng hội nhập kinh tế quốc tế trong giai đoạn phát triển mới của đất nước cũng như các nguyên tắc, phương châm và các biện pháp bổ trợ bảo đảm cho sự thành cơng của hội nhập.
* Tập trung đào tạo một lực lượng cĩ kiến thức sâu và chuyên mơn giỏi để thực hiện các cơng việc chính của hội nhập ở các cấp từ Trung ương đến địa phương
Một trong những yếu tố quan trọng đảm bảo việc tham gia cĩ hiệu quả vào quá trình hội nhập là cần cĩ một lực lượng lao động được đào tạo tốt về nghề nghiệp và khoẻ mạnh về thể chất. Do đĩ, phát triển nguồn nhân lực phải là ưu tiên hàng đầu. Chúng ta cần tăng cường đầu tư để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực theo tiêu chuẩn quốc tế. Đồng thời phải chú trọng cơng tác đào tạo nguồn nhân lực bao gồm việc đào tạo những nhà hoạch định chính sách như chính sách xuất khẩu, chính sách nhập khẩu, đào tạo các chuyên gia về nghiệp vụ xuất nhập khẩu, về pháp luật thương mại quốc tế, về thị trường của từng ngành hàng như gạo, cà phê, cao su, dầu khí,...về thị trường như thị trường Châu Âu, Bắc Mỹ, Châu á - Thái Bình Dương, Trung Đơng và Châu Phi...về marketing xuất khẩu – nhập khẩu... Đồng thời, để đáp ứng những địi hỏi của các tiêu chuẩn thương mại quốc tế, Nhà nước cần chú trọng tới chính sách đào tạo và tái đào tạo lực lượng lao động cho phù hợp với những thay đổi và yêu cầu của thị trường khu vực và thế giới, cần cĩ thị trường lao động linh hoạt hơn. Song song với đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, chúng ta cần kiên quyết đưa ra khỏi bộ máy những cán bộ kém phẩm chất, khơng đủ năng lực.
Trên đây là các giải pháp chủ yếu nhằm đẩy nhanh tiến trình hội nhập của thương mại Việt Nam vào kinh tế khu vực và quốc tế. Việc hội nhập cĩ hiệu quả hay khơng, điều đĩ phụ thuộc rất lớn vào việc thực hiện một cách thiết thực, linh hoạt các giải pháp trên đây của Chính phủ, các bộ, ngành và các doanh nghiệp.
Kết luận
Từ tuổi mới cắp sách tới trường, người Việt Nam đã được dạy với niềm tự hào có lẽ mang theo suốt đời rằng chúng ta là « Con Rồng cháu Tiên » và có hành trang « Bốn ngàn năm Văn hiến » do cha ông để lại. Cho dù chỉ là huyền thoại về gốc gác nhưng ước mơ có tầm vóc cao rộng gan lọc này, với nhân dân ta đã ít nhiều trở thành thứ trang bị tinh thần mà mỗi khi cần khơi dậy niềm tự hào quốc gia hay mối tình tự dân tộc người ta thường viện cầu đến.
Bên cạnh hành trang tinh thần ấy, chúng ta có nguồn nhân lực mà năng lực và đức tính, khách quan có thể khẳng định là có khả năng đáp ứng được nhu cầu phát triển, tiếc rằng dường như chúng ta đã bỏ lỡ đi cơ hội hiện thực hóa cái ước mơ tổ tiên được gửi gấm qua huyền thoại mở nước.
Nhận ra như thế không phải là thái độ thụ động, mà để thẳng thắn nhận ra trách nhiệm trước mặt cho phần đời còn lại của mình và những thế hệ sắp tới. Chúng ta không quên mình là Con Rồng cháu Tiên dù nước mình còn nghèo và tụt hậu so với các nước láng giềng Châu Á, mà phải lấy đó là một chỉ tiêu so sánh cho những tiến bộ phải đạt được trong tương lai. Chúng ta, dù ở bất cứ phương trời nào, đều có thể góp tay vào công cuộc chung đó bằng sự khiêm tốn nhẫn nại làm việc, bằng tài sức và vật lực. Mỗi người trong lĩnh vực hoạt động và chỗ đứng riêng biệt của mình có thể có các đóng góp riêng theo hoàn cảnh cho guồng máy vận hành rộng lớn của một quốc gia. Khi xã hội tiến bộ, nền kinh tế trở nên phồn vinh, quốc gia thành hùng mạnh, chúng ta sẽ cùng chia sẻ niềm tự hào. Đây có lẽ là niềm thao thức chung của mọi người dân Việt.
Vì đã quan niệm việc phát triển sẽ đòi hỏi sự đóng góp của vài thế hệ hiện tại và tương lai, cho nên chúng ta – những thế hệ trẻ - hãy tiếp nối cầm bó đuốc đang trong tay các đàn anh đàn chị để đem vinh quang thịnh vượng dài lâu cho một Con Rồng Việt Nam thực sự trong tương lai.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Noi dung.doc