Đề tài Tìm hiểu về phật giáo Hòa Hảo ở Việt Nam

Tài liệu Đề tài Tìm hiểu về phật giáo Hòa Hảo ở Việt Nam: TÌM HIỂU VỀ PHẬT GIÁO HÒA HẢO Ở VIỆT NAM —&– I. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ ĐẠO HÒA HẢO Là một tôn giáo do người việt nam khởi xướng nhằm chấn hưng đạo phật, điểm thên tinh hoa khổng lão canh tân phương thức hành đạo, hình thành hình thành một nền đạo phật đăc thù tại việt nam vào nửa đầu thế kỉ XX đó là “Phật giáo hòa hảo”. 1. Nguồn gốc tên gọi Tên đạo được lấy từ tên quê hương của đức Huỳnh giáo chủ - làng Hòa Hảo Tân Châu, tỉnh Châu Đốc (nay là tỉnh An Giang). Mặt khác tên của đạo cũng là tôn chỉ, mục đích của giáo phái, đó là hướng tới tinh thần “hiếu hòa” và “giao hảo”. 2. Người sáng lập Đạo Hòa Hảo ra đời tại làng Hòa Hảo, quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc (nay thuộc thị trấn Phú Mỹ, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang) vào năm 1939 do Huỳnh Phú Sổ (ảnh)Huỳnh Phú Sổ, sinh ngày 15 tháng 11 năm 1920 (tức 25/11 Kỷ Mùi), là con của Huỳnh Công Bộ, một con người điềm đạm trầm tính, ít nói, thường xa lánh chốn đông người ồn ã. Ông được cha cho học hết bậc sơ Pháp-Việt tại một trường ở huyện, có n...

doc20 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1236 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Tìm hiểu về phật giáo Hòa Hảo ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TÌM HIỂU VỀ PHẬT GIÁO HÒA HẢO Ở VIỆT NAM —&– I. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ ĐẠO HÒA HẢO Là một tôn giáo do người việt nam khởi xướng nhằm chấn hưng đạo phật, điểm thên tinh hoa khổng lão canh tân phương thức hành đạo, hình thành hình thành một nền đạo phật đăc thù tại việt nam vào nửa đầu thế kỉ XX đó là “Phật giáo hòa hảo”. 1. Nguồn gốc tên gọi Tên đạo được lấy từ tên quê hương của đức Huỳnh giáo chủ - làng Hòa Hảo Tân Châu, tỉnh Châu Đốc (nay là tỉnh An Giang). Mặt khác tên của đạo cũng là tôn chỉ, mục đích của giáo phái, đó là hướng tới tinh thần “hiếu hòa” và “giao hảo”. 2. Người sáng lập Đạo Hòa Hảo ra đời tại làng Hòa Hảo, quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc (nay thuộc thị trấn Phú Mỹ, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang) vào năm 1939 do Huỳnh Phú Sổ (ảnh)Huỳnh Phú Sổ, sinh ngày 15 tháng 11 năm 1920 (tức 25/11 Kỷ Mùi), là con của Huỳnh Công Bộ, một con người điềm đạm trầm tính, ít nói, thường xa lánh chốn đông người ồn ã. Ông được cha cho học hết bậc sơ Pháp-Việt tại một trường ở huyện, có năng khiếu thơ, văn và thông minh, nhạy cảm. Nhưng do sức khỏe luôn đau ốm nên ông không tiếp tục học lên bậc cao hơn. Ông phải lên núi Cấm tìm thầy chữa bệnh và tại đây ông đã tu theo phái Bửu sơn Kỳ Hương do Phật thầy Đoàn Minh Huyên (1807-1856) làm giáo chủ. Huỳnh Phú Sổ tự nhận mình là bậc "sinh như tri", biết được quá khứ nhìn thấu tương lai, được thọ mệnh cùng với Phật A-di-đà và Phật Thích-ca mâu-ni, xuống hạ giới có nhiệm vụ truyền bá cho dân chúng tư tưởng Bửu Sơn Kỳ Hương để "Chấn hưng Phật giáo, cứu độ chúng sinh khỏi sông mê, biển khổ và đưa tới chốn Tây phương cực lạc". Ông chữa bệnh cho người dân bằng các bài thuốc đã học và chính những lúc đi chữa bệnh đó ông đã kết hợp rao giảng về Tứ ân hiếu nghĩa của Phật thầy Tây An Đoàn Minh Huyên qua những bài sấm kệ do ông soạn thảo. Vì vậy chỉ trong vòng 2 năm từ 1937 đến 1939 số người tin theo ông đã khá đông và ông trở nên nổi tiếng khắp vùng. Ngày 18 tháng 5 năm Kỷ Mão (tức 4/7/1939) được ông chọn làm ngày khai đạo, khi ông chưa tròn 20 tuổi. Nơi tổ chức lễ khai đạo chính là gia đình ông. Ông đã lấy tên ngôi làng Hòa Hảo nơi mình sinh ra để đặt tên cho tôn giáo mới của mình: đạo Hòa Hảo hay Phật giáo Hòa Hảo. Ông đã được các tín đồ suy tôn làm giáo chủ Hòa Hảo. Huỳnh Phú Sổ được xưng tụng là Phật thầy mượn thân xác mình để cứu độ chúng sinh. Ông làm nhiều bài ca dao, thơ ca, nói thiên cơ, sau được tập hợp lại thành bài giảng "Giác mê tâm kệ" có phần gần gũi tư tưởng thần bí, tín ngưỡng dân gian nên trong hoàn cảnh đời sống nhân dân Nam Bộ đầu những năm 40 thế kỷ 20 dễ đi vào lòng người, được quần chúng tin theo. Người tính dồ Phật Giáo Hòa Hảo có một câu răng lòng mình la: "Một đời, một đạo đến ngày chung thân". 3. Hoàn cảnh ra đời đạo Hòa Hảo Những năm 40 của thế kỉ 20 lịch sử dân tộc việt nam và thế giới có nhiều biến động, chiến tranh thế giới lần 2 lan rộng nhân dân ta phải chịu cảnh “một cổ hai tròng”, Nhật Pháp thay nhau khủng bố các phong trào yêu nước đời sống nhân dân lâm vào cảnh lầm than khổ ải, tâm trạng bế tắc nhu cầu về niềm tin, tâm linh là vấn đề cấp bách. Trong hoàn cảnh đất nước sống quằn quại dưới gót sắt của thực dân Pháp, phát xít Nhật, những người hơi tỏ ra yêu nước, thương nòi bị thực dân kiềm chế, giam cầm. Còn đa số quốc dân trí thức đuổi theo danh lợi, lãng quên sự nghiệp tổ tông. Về người khối dân quê, đông đảo nhất, thuần phác nhất, giữ được nhiều đức tính của dân tộc nhất thì lại dốt nát, cơ cực, không người lãnh đạo. Mà chính khối dân quê này trong suốt dòng lịch sử lại là chủ động với cuộc phục hưng dân tộc như: cuộc khởi nghĩa của Đinh Tiên Hoàng, Lê Lợi, Quang Trung đều do nông dân hoàn thành bằng việc cung cấp nhân lực, tài lực, vật lực. Nếu không chú trọng đến nông dân thì chỉ làm các công việc của dã tràng xe cát. Vì lý do đó mà Phật giáo Hòa Hảo xuất hiện ngay trong lòng nông dân để giác ngộ họ, giúp họ tiến lên tự giải thoát chính mình, giải phóng dân tộc rồi góp phần vào công việc giải thoát loài người. Giáo chủ là người sinh trưởng ở nông thôn, đau khổ cái đau khổ của nhân dân, ước ao hy vọng cái ước ao hy vọng của nhân dân nên mới hiểu được họ, cảm hóa được họ. II. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN 1.Thời kỳ Nhật xâm chiếm Tổ đình Phật giáo Hòa Hảo, xưa thuộc làng Hòa Hảo, nay thuộc thị trấn Phú Mỹ, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang. Sang năm 1941, đạo Hòa Hảo tiếp tục gia tăng số lượng tín đồ của mình một cách nhanh chóng. Khi Nhật vào Đông Dương, Pháp lo ngại Nhật tranh thủ giáo phái Hòa Hảo nên đã câu thúc Huỳnh Phú Sổ ở Châu Đốc, Bạc Liêu, Cần Thơ. Năm 1942, Nhật vận động được giáo chủ Hòa Hảo về Sài Gòn. Tại đây ông đã vận động được nhiều nhân vật hoạt động chính trị thân Nhật vào đạo Hòa Hảo để gây thanh thế, đồng thời thời gian này nhiều thanh niên theo đạo Hòa Hảo cũng tham gia các tổ chức của Nhật. Năm 1946, Huỳnh Phú Sổ cùng với những người lãnh đạo Hòa Hảo thành lập tổ chức việt Nam Dân chủ Xã hội Đảng gọi tắt là "Đảng Dân xã" vào Tháng Chính năm 1946 bao gồm lực lượng nòng cốt trong Hòa Hảo và tổ chức Việt Nam Quốc gia Độc lập Đảng. Đảng Dân xã có điều lệ và chương trình hành động, cơ cấu tổ chức riêng, có vai trò như một tổ chứcchính trị. Từ đó Hòa Hảo vừa có đạo vừa có đảng mang hình thức gần với một tổ chức chính trị. Khối Hòa Hảo còn tổ chức lại lực lượng vũ trang vào Tháng Sáu năm 1946 mang tên "Nghĩa quân Cách mạng Vệ quốc liên đội nguyễn Trung Trực" Savani, A. M. Trang 89. 2. 1947-1963 lực lượng võ trang Năm 1947, Huỳnh Phú Sổ mất tích trong khi trên đường đi hòa giải giữa Việt Minh và Hòa Hảo; theo các tài liệu Tây phương và Việt Nam Cộng hòa thì ông bị Việt Minh thủ tiêu. Sau đó nội bộ Hòa Hảo tách ra làm mấy nhóm; có nhóm ngả theo Việt Minh, nhóm thì chống lại, gây ra những vụ thanh toán và tranh giành ảnh hưởng có khi đẫm máu. Mỗi nhóm cát cứ ở những vùng như Long Xuyên, Châu Đốc, Cần Thơ. Chính phủ Đệ nhất cộng hòa sau khi thành lập năm 1955 thì mở những cuộc hành quân như "Chiến dịch Đinh Tiên Hoàng" rồi "Chiến dịch Nguyễn Huệ" để bình định các giáo phái hầu thống nhất quân lực. Các lãnh tụ Hòa Hảo như tướng Trần Văn Soái (biệt danh Năm Lửa) rút về cố thủ Đồng Tháp; tướng Lê Quang Vịnh (Ba Cụt) thì đem quân về chống giữ ở Châu Đốc, long Xuyên, Rạch Giá. Bị truy nã Trần Văn Soái ra hàng còn Lê Quang Vinh thì bị bắt, sau đem xử tử Chuyện Năm Lửa và Ba Cụt . 3. Thời kì 1963-1975 Năm 1964 đạo Hòa Hảo có sự củng cố lại về tổ chức, xây dựng mở mang các cơ sở tôn giáo, văn hóa, xã hội. Hệ thống Ban trị sự được kiện toàn từ trung ương đến cơ sở (hình thành cơ cấu tổ chức 4 cấp trung ương, tỉnh, huyện, xã). Đảng Dân xã cũng được củng cố để hỗ trợ cho đạo, đồng thời cơ quan lãnh đạo Hòa Hảo có sự phân đôi thành 2 ban trị sự trung ương: phái cũ do Lương Trọng Tường, phái mới do Huỳnh Văn Nhiệm đứng đầu. Năm 1972 Lê Quang Liêm tách ra khỏi phái cũ của Lương Trọng Tường thành lập ban trị sự trung ương mới. Lúc này đạo Hòa Hảo có tới 3 ban trị sự trung ương cùng tồn tại cho đến thống nhất đất nước. Dù phân hóa, Phật giáo Hòa Hảo tiếp tục phát triển vào thời Đệ nhị Cộng hòa trong đó một sự kiện lớn là việc thành lập Viện Đại học hòa Hảo năm 1972 ở Long Xuyên. Khi chính thể Việt Nam Cộng hòa sụp đổ thì các nhóm Hòa Hảo điều hành tổng cộng sáu trường trung học phổ thông, một viện đại học và hai bệnh viện. Tất cả những cơ sở này bị chính quyền mới tịch thu. Tình hình Pg Hòa Hảo Sôi Động, Báo Viet Báo tường thuật 4. Thời kì sau 1975 Đạo Hòa Hảo ra đời trong tình hình chính trị phức tạp, từng bị các thế lực phản động lôi kéo lợi dụng. Trên thực tế sự lợi dụng này có lúc khá nặng nề, gây thiệt hại cho cách mạng và còn tạo ra tình trạng chia rẽ không bình thường trong nội bộ của đạo Hòa Hảo. Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, ngày 19-6-1975, Tổ đình đạo Hòa Hảo tuyên bố giải tán. Ban trị sự các cấp, kêu gọi tín đồ tu tại gia như lúc đầu. Cho đến đầu năm 1999, đạo Hòa Hảo không có tổ chức giáo hội, tín đồ tu tại gia. Hàng năm đến ngày khai đạo (18 tháng 5 Âm lịch) các tín đồ tổ chức hành hương về Tổ đình (nơi sinh sống của gia tộc ông Huỳnh Phú Sổ). Ngày 26-5-1999, Đại hội đại biểu đạo Hòa Hảo lần thứ I được tổ chức tại An Giang, thông qua chương trình đạo sự, quy chế tổ chức, hoạt động của Ban đại diện, đồng thời đã bầu ra Ban Đại diện nhiệm kỳ I và ngày 11-6-1999, Ban Tôn giáo của Chính phủ đã chấp thuận quy chế đạo Hòa Hảo, tổ chức hoạt động và nhân sự của Ban đại diện và cho đến nay, hoạt động của đạo Hòa Hảo đã trở nên bình thường. Ngày nay tín đồ bắt tay  vào công tác từ thiện như bếp ăn tình thương, làm cầu đóng giếng, cấp học bổng, cứu trợ bệnh nhân nghèo, xây nhà tình thương…vì thế nghi lễ tôn giáo rất đơn giản và việc ma chay cưới hỏi cũng đơn giản. Họ dồn lực lượng thực hiện việc công ích thực tiển hơn. III.- SỐ TÍN-ĐỒ PHẬT-GIÁO HÒA-HẢO Tổng-số tín đồ P.G.H.H. được ước lượng vào khoảng trên 5 triệu người trong toàn quốc, đại diện là tỉ-số 38% trên tổng dân-số 16,133,434 người của Đồng Bằng Sông Cửu Long. Có những tỉnh như An Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ, Vĩnh Long, Bạc Liêu tín-đồ Phật-Giáo Hòa-Hảo lên đến 90% dân-số; ở các tỉnh khác, tỷ-số này thay đổi từ 10 đến 60%. Nếu các tín-đồ Phật-Giáo Hòa-Hảo tham-gia các cuộc bầu-cử ứng-cử trong nhiệm-vụ đại-biểu nhân-dân, thì họ sẽ chiếm được đại đa số ghế. Tỷ-dụ trong cuộc bầu cử Hội-đồng hàng Tỉnh 1965, tại các tỉnh An-giang, Châu-Đốc, tất cả các đại-biểu nhân-dân đều là tín-đồ Phật-Giáo Hòa-Hảo; và tại các tỉnh Kiến-phong, Vĩnh-long, Phong-dinh, tín-đồ P.G.H.H. đã chiếm 80% số ghế. Tỷ-số này cũng đã được thể hiện trong cuộc bầu cử Quốc-Hội Lập-Hiến Việt-Nam Cộng-Hòa ngày 11-9-65, và liên danh đắc-cử nhiều phiếu nhứt trong toàn-quốc là liên danh của tín-đồ P.G.H.H. tỉnh An-giang. II. GIÁO LÝ HÒA HẢO Giáo lý Hòa Hảo được thể hiện trong những bài sấm kệ do Huỳnh Phú Sổ biên soạn, bao gồm 6 tập: Sấm khuyên người đi tu niệm Kệ của người Khùng Sấm giảng Giác mê tâm kệ Khuyến thiện Những điều sơ học cần thiết của kẻ tu hiền Giáo lý Hòa Hảo là sự tiếp thu và nâng cao tư tưởng Bửu Sơn Kỳ Hương, gồm phần “Học Phật” và phần “Tu Nhân”. 1. Phần Học Phật: chủ yếu dựa vào giáo lý Phật giáo là ác pháp, chân pháp và thiện pháp. - Ác pháp: là các pháp gây nên tội lỗi khiến con người không thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi. - Chân pháp: là các pháp phá tan những mê hoặc, tối tăm, giúp trí bừng sáng để giác ngộ chân lý. - Thiện pháp: là các pháp lành, con người cần tu tập để trở thành người tốt, sửa thân tâm cho trong sạch. Tinh thần chính là khuyên tín đồ ăn ngay ở hiền. 2. Phần Tu Nhân: Tu Nhân là tu “tứ ân hiếu nghĩa”, bao gồm: ân tổ tiên cha mẹ, ân đất nước, ân đồng bào nhân loại, ân tam bảo (Phật, Pháp, Tăng). - Ân tổ tiên cha mẹ: phải hiếu nghĩa, nghe lời răn dạy, không làm điều xấu, chăm sóc cha mẹ lúc già yếu ốm đau. - Ân đất nước: yêu quê hương, góp phần làm cho quê hương giàu mạnh, bảo vệ đất nước khi có ngoại xâm, không được phản bội làm tay sai cho ngoại bang. - Ân đồng bào nhân loại: Đồng-bào ta và ta cùng chung một chủng-tộc, cùng một nòi-giống rồng tiên, cùng có những trang lịch-sử vẻ-vang oanh-liệt, cùng tương trợ lẫn nhau trong cơn nguy- biến, cùng chung phận-sự đào-tạo một tương-lai rực rỡ trong bước tiền đồ của giang-sơn đất nước. Đồng-bào ta và ta có một liên-quan mật-thiết không thể rời nhau, chẳng thể chia nhau và chẳng khi nào có ta mà không có đồng-bào, hay có đồng-bào mà không có ta. Thế nên ta phải ráng giúp đỡ họ hầu đền đáp cái ơn mà ta đã thọ trong muôn một. - Ân tam bảo: tôn kính tam bảo ghi nhớ công ơn khai mở trí huệ cứu vớt chúng sinh ra khỏi vùng luân hồi khổ ải. Đạo Hòa Hảo khuyên tín đồ vừa học Phật vừa tu nhân để tạo nên công đức. Có công đức để trở thành bậc hiền nhân. Song, họ đặc biệt yêu cầu tín đạo phải tu nhân, cho rằng việc tu hành phải dựa trên đạo đức, trước hết đạo làm người: Thiên kinh vạn điển, hiếu nghĩa vi tiên (Không có tu nhân thì không thể học Phật, hoặc học Phật mà chẳng tu nhân thì cũng vô nghĩa); Dụng tu Tiên đạo, tiên tu Nhân đạo; Nhân đạo bất tu, Tiên tu viễn ký (Muốn tu thành Tiên Phật trước hết phải tu đạo làm người, đạo người mà không tu thì Tiên Phật còn xa vời). III. NGHI LỄ VÀ TỔ CHỨC 1. NGHI LỄ Đạo Hoà Hảo chủ trương tu tại gia hơn là đi lễ chùa. Họ chủ trương giúp đỡ người nghèo hơn là cúng tiền xây chùa hay tổ chức lễ hội tốn kém. Những buổi lễ được tổ chức rất đơn giản và khiêm tốn, không có ăn uống, hội hè. Lễ lộc, cưới hỏi hay ma chay không cầu kỳ như thường thấy ở những tôn giáo khác. Họ cho đó là những sự phung phí thay vì dùng tiền đó dể giúp đỡ những người thực sự cần đến. Đạo Hòa Hảo không có tu sĩ, không có tổ chức giáo hội mà chỉ có một số chức sắc lo việc đạo và cả việc đời. Không có nơi thờ công cộng, trung tâm của đạo ở làng Hòa Hảo gọi là tổ đình cũng chỉ mang tính gia tộc. Đạo này không xây dựng chùa chiền, không có tượng ảnh thờ. Vật thờ của đạo Hòa Hảo là miếng vải đỏ (trần điều) trên bàn thờ (còn gọi là trang thờ) đặt ở gian chính giữa và xây một bàn thông thiên ở sân trước của nhà. Việc thờ phụng này thể hiện tư tưởng của Phật giáo: "Phật tại tâm, tâm tức Phật". Đạo Hòa Hảo thờ Phật, ông bà tổ tiên và các anh hùng tiên liệt có công với đất nước, không thờ các thần thánh nếu không rõ nguyên nhân.. Các ngày lễ tết Trong một năm, theo âm lịch đạo Hòa Hảo có các ngày lễ, Tết chính: Ngày 1 tháng Giêng: Tết Nguyên Đán Ngày Rằm tháng Giêng: Lễ thượng nguyên Ngày 8 tháng 4: Lễ Phật đản Ngày 18 tháng 5: Lễ khai đạo Ngày Rằm tháng 7: Lễ trung nguyên Ngày 12 tháng 8: Vía Phật thày Tây An Ngày Rằm tháng 10: Lễ hạ nguyên Ngày Rằm tháng 11: Lễ Phật A-di-đà Ngày 25 tháng 11: Lễ sinh nhật giáo chủ Huỳnh Phú Sổ Ngày 8 tháng Chạp: Lễ Phật thành đạo Trong chủ trương canh tân nói trên, sự thờ phượng trong nhà các tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo thật là giản dị. 2. HỆ THỐNG TỔ CHỨC Trong các Xã, Ấp có những độc giảng đường trang bị máy phóng thanh, để mỗi ngày trong những giờ nhất định, có những giảng viên đến đọc kinh giảng hay thuyết pháp cho người chung quanh cùng nghe. Ðộc Giảng Ðường Phật Giáo Hòa Hảo là những ngôi chùa thâu hẹp chỉ để truyền đạo, chớ không phải để cư trú, nên nhỏ hơn chùa, bởi bản chất Phật Giáo Hòa Hảo là cư sĩ tại gia. Hiện nay ( trước 1975) chỗ nào có nhiều tín đồ PGHH đều có Ðộc Giảng Ðường, với nét kiến trúc đặc biệt của Phật Giáo Hòa Hảo. Theo kiểm kê năm 1965, Phật Giáo Hòa Hảo có 390 Ðộc Giảng Ðường. (Sau 1975, trên 300 độc giảng đường đã bị nhà cầm quyền Việt Nam đập bỏ) . Đạo Hoà Hảo tuy về mặt giáo lý, chủ yếu dựa vào đạo Phật, nhưng về mặt tổ chức lại chịu ảnh hưởng của phương Tây: Thí dụ Hòa Hảo thành lập đảng chính trị, sử dụng phương tiện in ấn để truyền đạo. Sử liệu đạo Hòa Hảo cho biết, từ năm 1939 đến 1965, nhiều bài giảng của Huỳnh Phú Sổ tái bản hơn 200 lần, với tổng số bản in là 800.000 bản. Đoàn thể phật giáo hòa hảo được quản trị bởi một hệ thống ban trị sự. các ban trị sự được thiết lập từ mỗi ấp, xã, quận, tỉnh. Trwn hết là một hội đồng trị sự trung ương. Mỗi ấp chia thành nhiều chi hội. nhờ một tổ chức chặt chẽ và đi sâu vào tới hạ tầng cơ sở quần chúng nên sự điều hành công việc dược chặt chẽ và cac chỉ thị được thi hành suốt từ trung ương đến chi hội. Nguyên tắc tổ chức là điều khiển và dân chủ tập trung. Tức là Bầu củ: các tín đồ lựa chòn đại diện của mình vào các ban trị sự ấp sau đố các ấp bầu ban trị sự xã, ấp xã bầu ban trị sự quận, tỉnh.rồi tất cả ấp, xã, quận, tỉnh bầu lên hội đồng trị sự trung ương. Lãnh đạo tổ đình giáo hội phật giáo hòa hảo lo việc phụng tự và nghi lễ tại thánh địa hòa hảo. nguyên tắc dân chủ tập trung làm cho các trị sự viên được bầu có tính chất đại diện bởi đả được lựa chọn theo tiêu chuẩn đạo đức, nên đương nhiên có uy tín để điều hành mọi việc. Do đó, giáo quyền được tôn trọng theo nguyên tắc hạ cấp phục tòng thượng cấp. Bên cạnh hội đồng trị sự trung ương có một hội đồng Bảo Pháp đặc trách vấn đề thi hành kỉ luật theo giới điều của đạo. trên hết có vị lãnh đạo tinh thần tối cao là Đức Huỳnh Giáo Chủ đại khai sáng mối đạo. IV GIÁO LUẬT Mỗi ngày người tín đồ PGHH làm lễ cúng Phật, ít nhứt hai lần, buổi sáng và buổi tối. Trong các ngày rằm, mồng một, ngày vía Chư Phật, họ đến chùa hay hội quán hành lễ, và nghe kinh giảng hay nghe thuyết pháp Ngoài ra đạo Hòa Hảo còn có một số quy định về tôn giáo và quan hệ gia đình, xã hội. Ví dụ người nhập môn phải tuyên thệ trước Tam Bảo, nam tín đồ phải để vấn tóc (búi) để giữ hiếu nghĩa với ông bà tổ tiên, tín đồ phải thực hiện ăn chay từ thấp đến cao (4 đến 10 ngày trong 1 tháng hoặc trường chay như đạo Cao Đài, ngày tín đồ phải 2 lần cầu nguyện và khấn lạy trước bàn thờ (sáng, tối). Lời khấn nguyện khi cúng lễ của tín đồ Hòa Hảo là câu Nam mô nhất nguyện, Thiên hoàng, Địa hoàng, Nhân hoàng, Liên hoa hải hội, thượng Phật từ bi, Phật vương độ chúng, thế giới bình an. IV.- ĐẶC-TÍNH PHẬT-GIÁO HÒA-HẢO Hiện nay Phật-Giáo Hòa-Hảo là một trong số 4 tôn giáo quan trọng nhứt ở Việt Nam. Với khối quần chúng trên 5 triệu người P.G.H.H. không những có tánh chất của một khối quần chúng tâm lý sắt son tin tường nơi giáo lý cao siêu của Đức Huỳnh giáo chủ, mà còn thêm có tổ chức thành hàng ngũ, hệ thống chặt chẽ để chịu đựng mọi thử thách cam go mà tự tồn và phát-triển. ĐẶC TÍNH THỨ NHẤT : nằm trong truyền-thống Bửu Sơn Kỳ Hương đến Phật Giáo Hòa Hảo là một nền đạo Phật gần gũi với ĐẠO LÝ DÂN TỘC (NHÂN HIẾU TRUNG NGHĨA) Trên phươngdiện Nhân sinh và Xã hội, người ta cũng nhận định rằng bản chất thuần phác của ngưởi nông dân cho họ có căn-bản thuận-lợi để tu-học theo đạo Phật và thấm nhuần đạo lý làm người sống trong quan hệ với gia đình, xã hội, đất nước để rèn luyện trở thành những hạt giống tốt gieo trồng cho một tương lai toàn thiện, toàn mỹ sau này. Tuy gốc Đạo bám rễ trên tầng lớp nông dân nhưng từ đó các lớp tín hữu sau nhờ tiếp thu nền học vấn tiên tiến đã và đang vươn lên đến đỉnh trí tuệ để đóng góp cho đời bàn tay, khối óc của họ ĐẶC TÍNH THỨ HAI : Phật Giáo Hòa Hảo cũng như Bửu Sơn Kỳ Hương đều chủ trương tu hành tại gia. Bởi vì các vị Giáo chủ nay đã nghĩ rằng đạo Phật không những chỉ truyền bá ỏ thiên non mà còn phải phát-triển rộng-rãi đến mọi gia đình.Do đó các tín đồ P.G.H.H. không bắt buộc cạo đầu vào chùa, lìa bỏ mọi việc ngoài thế-gian, mà họ vẫn ở tại gia-đình, sống như mọi người côngdân khác, với nếp sống bình dịrong nông ghiệp, đồng thời tu hành theo giáo ý Đức Thích Ca.Tôn chỉ tu hành của Phật Giáo Hòa Hảo là HỌC PHẬT TU NHÂN, tức là noi theo giáo lý chơn truyền của Đức Phật mà tu sửa con người, để vừa làm tròn bổn-phận trong cõi đời đang sống, vừa dọn thân-tâm cho trong sáng đề được siêuthăng vào cõi Tịnh độ Cực lạc, giải thoát khỏi vòng luân hồi ĐẶC TÍNH THỨ BA : là sự canhtân phương pháp hành-đạo nhằm loại trừ mọi hình thức rườm-rà mê-tín dị-đoan. Đặc tính canh-tân này có mục đích loại bỏ âm-thinh sắc-tướng để phát-dương phần tinh-túy của Đạo Phật, đúng theo chánh-pháp vô-vi của Đức Phật. Đạo Phật-Giáo Hòa-Hảo chủ-trương canh-tân như sau: Không cất chùa đúc tượng thêm, ngoài những ngôi chùa đã sẳn có. Ai giầu lòng từ-thiện thì nên phát tâm bố-thí, cứutrợ kẻ nghèokhổ, thì hơn là cất chùa lớn đúc tượng cao Không chấp nhận thầy cúng, thầy lễ, thấy bói, thầy phù-thủy, cũng không dâng cúng chè-xôi thực-phẩm cho Phật, vì Phật không dùng những của hối-lộ đó. Không dùng cờ phướn, lầu kho, đốt giấy tiền vàng bạc, phí-tổn vô-ích . . . Không khóc lóc hay làm linh đình lúc tang ma, mà chỉ im lặng cầu nguyện cho linh hồn kẻ chết được siêu thoát Không ép hôn, thách thức tiền cưới hay tiệc rượu linh-đình, vì sẽ mang nợ, gay hại về sau. Tóm lại, giáo-pháp Vô-Vi Phật-Giáo Hòa-Hảo nhằm canh-tân phương-pháp hành-đạo để trở về với Giáo-lý chơn-truyền của-Đức Phật, là tu hành TÂM, chẳng phải ở hình-thức nghi-lễ bề ngoài V. NHẬN THỨC CỦA PHẬT GIÁO HÒA HẢO Phật giáo Hòa Hảo ra đời với sứ mạng là cứu vớt nhân loại. Phác vẽ cho mọi người thấy cái cảnh khổ não của xã hội Việt và xã hội nhân loại, rồi giác ngộ họ tìm đường giải thoát; nhằm khuyên răn người đời phải làm tròn bổn phận làm người cứu lấy bản thân mình, gia đình mình có một đời sống bác ái tự do. Từ đó, Phật giáo Hòa Hảo chủ trương cải tạo tôn giáo, cải tạo tâm lý và cải tạo xã hội gây một niềm tin lớn vào lòng người. 1. Về cải tạo tôn giáo Giác ngộ cho mọi người hiểu cái yếu lý của tu hành: Giữ sao cho tâm linh luôn luôn được yên tĩnh, đừng để cho lòng dục sai khiến, nhất là khi một mình đối diện với một mình. Phật là sáng suốt, hiền hậu, từ bi. 2. Về cải tạo tâm lý Tâm lý người dân lúc bấy giờ như bị băng hoại, người người bon chen danh lợi, sống độc thiện kỳ nhân, ích kỷ, giả dối. Vì thế, Hòa Hảo đã tu niệm hướng cho họ tới một đức tin trong sạch. Nhưng tin không phải là mù quáng mà là đức tin dẫn dắt bởi lòng lành và soi sáng bằng trí tụê. Và Đức Huỳnh giáo chủ đã từng khuyên răn các tín đồ: “Phải điêu luyện khối tinh thần cho mạnh mẽ, tự lập con đường rõ ràng duy nhất của mối đạo mình theo đuổi; để lấy đó làm cương mục bài trừ những thành kiến, cố chấp thói quen, sự chần chừ, lòng ham muốn, tánh kiêu ngạo, dua nịnh, tư tâm, sự mê đắm trong bể dục tình và sự phiền não làm cho loạn cõi lòng”. 3. Về cải tạo xã hội Viễn cảnh xã hội diễn ra vô cùng băng hoại, thối nát. Dân chúng sống trong mê tín dị đoan. Nơi góc tường này, dưới gốc cây đa kia, người ta thấy nhan nhãn những bàn thờ ông thần, bàn thờ bà chúa. Ốm đau người ta không lo chạy chữa thuốc thang, mà chỉ lo cúng đền này phủ nọ, xin tàn hương nước thải về uống, hoặc lập đàn cúng kiếng rước thầy bùa ếm quỷ, ếm ma. Có việc khó khăn người ta không nghiên cứu lẽ thành bại mà lại đi coi bói toán, xem quẻ xin xâm. Rượu chè cờ bạc đàng điếm khắp nơi. Họ ca tụng những ai tiền nhiều lắm bạc, ngày tháng ăn chơi, tiêu xài hoang phí. Trước tình cảnh này, đạo Hòa Hảo đã dùng cái quyền uy của tinh thần, để tâm phúc mọi người bằng giác ngộ. Và trong tôn chỉ của Phật giáo Hòa Hảo tuyệt đối cấm rượu chè, thuốc sái. ³ Nguyên Nhân Phát Triển Ngoạn Mục Của Phật Giáo Hòa Hảo - Khéo khai thác truyền thống kể chuyện miệng bằng thơ Nôm ở Nam Bộ: đạo Hòa Hảo khai thác một cách tự nhiên, khéo léo truyền thống kể chuyện miệng của đồng bằng miền Tây Nam Bộ. Người dân đa số là nông dân ít học, lối truyền giáo bằng thi ca, bằng vè sẽ phù hợp với quần chúng, dễ nghe, dễ nhớ và dễ đi sâu vào lòng người. - Đạo Hòa Hảo còn sử dụng phương tiện in ấn để truyền đạo tạo sức lan tỏa nhanh chóng, ngoạn mục. - Lời kêu gọi của giáo chủ Hòa Hảo mang hình thức sấm truyền, có sức hấp dẫn đặc biệt. - Phật giáo Hòa Hảo có hình thức, nghi lễ đơn giãn, bồi dưỡng đức tự tin ở bản thân, coi trọng lối hành đạo gần gũi với dân chúng. - Có tiền thân lâu đời, nguồn gốc từ giáo lý của Phật Thích Ca. X.- TRONG CỘNG-ĐỒNG PHẬT-GIÁO THẾ-GIỚI Hiện nay Phật Giáo Hòa-Hảo là một trong số 4 tôn giáo quan trọng nhứt ở Việt Nam. Với khối quần chúng trên 5 triệu người, Phật Giáo Hòa-Hảo không những có tánh chất của một khối quần chúng tâm lý sắt son tin tưởng nơi giáo lý cao siêu của Đức Huỳnh Giáo-Chủ, mà còn thêm có tổ chức thành hàng ngũ, hệ thống chặt chẽ, để chịu đựng mọi thử thách cam go mà tự tồn và phát triển Trên bình-diện quốc-gia, Giáo-hội Phật-Giáo Hòa-Hảo là một hội-viên sáng-lập cùa Hội-Đồng Tôn-Giáo Việt-Nam, một cơ-quan đoàn-kết các tôn-giáo chánh-yếu như Thiên-Chúa-Giáo, Phật-Giáo, Phật-Giáo Hòa-Hảo, Cao-Đài-Giáo... Đồng thời đoàn thể P.G.H.H cũng tham gia các sanh hoạt quốc gia, đúng theo truyền-thống của một tôn-giáo dân-tộc. Ngoài ra, giáo-lý P.G.H.H. cũng đã được tiếp-nhận với nhiều cảm-tình bởi nhiều giới trí-thức Đông-Phương cũng như Tây-Phương. Bởi vì, với một giáo-thuyết hòa-đồng tinh-hoa Tam-giáo, Phật-Giáo Hòa-Hảo đã phát-dương giáo-pháp chơn-truyền của Đức Thích-Ca Mâu-Ni làm căn-bản giáo-lý, lại thêm các tư-tường Nho-giáo, Lão-giáo, đã ăn sâu vào tập-tục dân-tộc Việt-Nam, để kết thành một hệ-thống tư-tưởng Đạo-học có đặc-thái dân-tộc Việt-Nam. Với giáo-thuyết phong-phú ấy, Phật-Giáo Hòa-Hảo là một tổ-chức đang hướng dẫn một phần nhơn-loại dưới ánh sáng của Đức Phật, để đưa con người trong thế kỷ hiện-tại đến những giá-trị tinh-thần mới, hầu cùng với các Phật-tử Thế-giới và các Giáo-hội Phật-giáo khắp các quốc-gia, biểu-dương Đạo-Phật, cải tạo xã-hội, giải-thoát Con Người. VI ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO HOÀ HẢO ĐỐI VỚI VIỆT NAM Phật giáo hoà hảo ra đời nhằm chấn hưng đạo phật, là chổ dựa tinh thần cho người dân khi niềm tin vào cuộc sống bị bế tắc trong cuộc sống lầm than dưới ách thống trị của kẻ xâm lăng, đạo hoà hảo còn giáo dục ý thức người dân hướng thiện trước sự xâm nhập của trào lưu văn hoá phương tây.Đóng góp vào công ích xã hội,chủ trương giúp đỡ người nghèo hơn là xây dựng chùa chiền,họ cho đó là tốn kém Đóng góp tích cực trên 40 tỷ đồng cho xã hội,từ thiện,góp phần làm thay đổi bộ mặt nông thôn Ngay khi mới ra đời, người truyền giảng đạo đồng thời là người thầy thuốc trị bệnh cứu người. Duy trì truyền thống đó, ngày nay đạo tổ chức khám chữa bệnh Nam Đông y, cấp thuốc, châm cứu, hỗ trợ bệnh nhân nghèo như hỗ trợ kinh phí cho hàng trăm bệnh nhân đi mổ mắt, hỗ trợ hàng trăm triệu đồng cho gia đình nghèo có người qua đời với tổng giá trị hàng chục tỷ đồng mỗi năm VII CẢM NHẬN CỦA BẢN THÂN VỀ ĐẠO PHẬT GIÁO HOÀ HẢO Sự ra đời của đạo hoà hảo là một sự cải biến linh hoạt trên cơ sở tổng hợp đạo phật với tín ngưỡng dân gian truyền thống của dân tộc việt nam đó là thờ cúng ông bà, tổ tiên một giá trị tinh hoa truyền thống trong nét văn hoá của dân tộc việt nam được lưu giử trong giáo lí của đạo hoà hảo lấy việc con cái phải có hiếu với ông bà cha mẹ xếp hàng thứ nhất trong “tứ ân”. Phật giáo hoà hảo ra đời trong trong hoàn cảnh đất nước bị giặc xâm lăng, dưới một hình thức tôn giáo đạo hoà hảo giáo dục ý thức tinh thần dân tộc, ý thức chống ngoại xâm sâu sắc (ơn đất nước) có đóng góp nhiều cho cách mạng việt nam. “sanh ra, ta phải nhờ tổ tiên cha mẹ, sống ta phải nhờ đất nước quê hương. Hưởng những tấc đát ăn những ngọn rau…ta có bổn phận bảo vệ đất nước khi bị kẻ xâm lăng giày đạp. ráng nâng đở xứ sở quê hương lúc nghiêng nghèo và làm cho được trở nên cường thịnh. Ráng cứu cấp nước nhà khi bị kẻ thống trị.đạo hoà hảo không có nghi lễ rườm rà, bài trừ mê tín dị đoan, ngưòi theo đạo có thể tu tại gia tham gia lao động sản xuất mà cũng không cần xuống tóc đó là một sự cách tân mới mẽ hơn so với đạo phật.trong hoàn cảnh đất nước còn nghèo đạo hoà hảo chủ trương tiết kiệm, không xây chùa, đúc tưọng, thay băng giúp ích vào những công việc thực tiển như xây cầu, đắp đường, giúp đở người nghèo mà hiếm có một tôn giáo nào làm được. VIII. KẾT LUẬN Hiện có khoảng 1,3 triệu tín đồ Hòa Hảo tập trung chủ yếu ở miền Tây Nam Bộ (đặc biệt là tứ giác Long Xuyên). Tôn giáo này đánh giá cao triết lý "Phật tại tâm", khuyến khích nghi lễ thờ cúng đơn giản (chỉ có hoa và nước sạch) và loại bỏ mê tín dị đoan. Những buổi lễ được tổ chức rất đơn giản và khiêm tốn, không có ăn uống, hội hè. Lễ lộc, cưới hỏi hay ma chay không cầu kỳ như thường thấy ở những tôn giáo khác. Đạo không có tu sĩ, không có tổ chức giáo hội mà chỉ có một số chức sắc lo việc đạo và cả việc đời. Nói chung, đạo Hòa Hảo kêu gọi mọi người sống hòa hợp. Chánh pháp chân truyền của nền đạo, không chỉ thu hút đông đảo tín đồ thuần trong một thời gian ngắn kỷ lục của lịch sử phát triển tôn giáo, nhanh chóng trở thành một trong sáu tôn giáo lớn tại Việt Nam mà còn ảnh hưởng sâu rộng trong các tầng lớp xã hội bên ngoài, và là đối tượng nghiên cứu của nhiều cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • dochoahao1_4197.doc
Tài liệu liên quan