Đề tài Tìm hiểu vai trò của đầu tư tới sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam

Tài liệu Đề tài Tìm hiểu vai trò của đầu tư tới sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam: B. Nội dung Chương I. Lý luận chung về đầu tư và chuyển dịch cơ cấu kinh tế I. Đầu tư. Khái niệm về đầu tư dưới các góc độ khác nhau. Dưới góc độ tài chính thì đầu tư là một chuỗi hoạt động chi tiêu để chủ đầu tư nhận về một chuỗi các dòng thu. Dưới góc độ tiêu dùng thì đầu tư là sự hy sinh tiêu dùng hiện tại để thu được mức tiêu dùng nhiều hơn trong tương lai. Khái niệm chung: Đầu tư là việc bỏ vốn hoặc chi dùng vốn cùng các nguồn lực khác ở hiện tại để tiến hành một hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả có lợi trong tương lai. 2. Vai trò của đầu tư. 2.1. Trên góc độ toàn bộ nền kinh tế. Đầu tư với việc tăng cường khả năng khoa học- công nghệ của đất nước. Công nghệ là trung tâm của CNH. Đầu tư là điều kiện tiên quyết của sự phát triển và tăng cường khả năng công nghệ của nước ta hiện nay. Có 2 con đường cơ bản để có công nghệ là tự nghiên cứu phát minh ra công nghệ và nhập công nghệ từ nước ngoài. Dù là sự nghiên cứu hay nhập nó thì cũng cần phải có vốn đầu tư. Mọi p...

doc39 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1000 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Tìm hiểu vai trò của đầu tư tới sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
B. Nội dung Chương I. Lý luận chung về đầu tư và chuyển dịch cơ cấu kinh tế I. Đầu tư. Khái niệm về đầu tư dưới các góc độ khác nhau. Dưới góc độ tài chính thì đầu tư là một chuỗi hoạt động chi tiêu để chủ đầu tư nhận về một chuỗi các dòng thu. Dưới góc độ tiêu dùng thì đầu tư là sự hy sinh tiêu dùng hiện tại để thu được mức tiêu dùng nhiều hơn trong tương lai. Khái niệm chung: Đầu tư là việc bỏ vốn hoặc chi dùng vốn cùng các nguồn lực khác ở hiện tại để tiến hành một hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả có lợi trong tương lai. 2. Vai trò của đầu tư. 2.1. Trên góc độ toàn bộ nền kinh tế. Đầu tư với việc tăng cường khả năng khoa học- công nghệ của đất nước. Công nghệ là trung tâm của CNH. Đầu tư là điều kiện tiên quyết của sự phát triển và tăng cường khả năng công nghệ của nước ta hiện nay. Có 2 con đường cơ bản để có công nghệ là tự nghiên cứu phát minh ra công nghệ và nhập công nghệ từ nước ngoài. Dù là sự nghiên cứu hay nhập nó thì cũng cần phải có vốn đầu tư. Mọi phương án đổi mới công nghệ không gắn với nguồn vốn đầu tư sẽ là những phương án không khả thi. Đầu tư và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Chính đầu tư quyết định qua trình chuyển dịch kinh tế ở các quốc gia nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh của toàn bộ nền kinh té. Về cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãng thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo, phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế, kinh tế, chính trị…của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn, làm bàn đạp thúc đẩy những vùng khác cùng phát triển. Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế. Muốn giữ tốc độ tăng trưởng ở mức trung bình thì tỷ lệ đầu tư phải đạt từ15- 20% so với GDP tuỳ thuộc vào ICOR của mỗi nước: ở các nước phát triển, ICOR thường lớn từ 5- 7. ở các nước chậm phát triển ICOR thấp từ2- 3. Đối với các nước đang phát triển, phát triển về bản chất được coi là vấn đề đảm bảo các nguồn vốn đầu tư dủ để dạt được một tỉ lệ tăng thêmsản phẩm quốc dân dự kiến. Có sự khác nhau trên là vì chỉ tiêu ICOR phụ thuộc mạnh vào cơ cấu kinh tế và hiệu quả đầu tư trong các ngành các vùng lãnh thổ cũng như phụ thuộc vào hiệu quả của chính sách kinh tế nói chung. Thông htường ICOR trong nông nghiệp thấp hơn trong công nghiệp, ICOR trong giai đoạn chuyển đổi cơ chế chủ yếu do tận dụng năng lực. Do đó ở các nước phát triển, tỷ lệ đầu tư thấp thường đãn đến tốc độ tăng trưởng thấp. 2.2. Trên góc độ vi mô. Đầu tư quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của mỗi cơ sở. Chẳng hạn, để tạo dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho sự ra đời của bất kỳ cơ sở nào đều cần phải xây dựng nhà xưởng, cấu trúc hạ tầng, mua sắm và lắp đặt máy móc trên nền bệ, tiến hành các công tác xây dựng cơ bản và thực hiện các chi phí khác gắn liền với sự hoạt động trong một chu kỳ của các cơ sở vật chất kỹ thuật vừa được tạo ra. Các hoạt động này chính là hoạt động đầu tư. Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ đang tồn tại sau một thời gian hoạt động, các cơ sở vật chất - kỹ thuật của các cơ sở này hao mòn, hư hỏng. Để duy trì được sự hoạt động bình thường cần định kỳ tiến hành sửa chữa lớn hoặc thay đổi các cơ sở vật chất - kỹ thuật và nhu cầu tiêu dùng của nền sản xuất xã hội, phải mua sắm các trang thiết bị mới thay thế cho các trang thiết bị cũ đã lỗi thời, cũng có nghĩa là phải đầu tư. Cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế Cơ cấu kinh tế Phát triển kinh tế với tốc độ cao và bền vững là mục tiêu phấn đấu của tất cả các nước. Để thực hiện được mục tiêu đó cần thiết phải xây dựng 1 cơ cấu kinh tế hợp lý. Trong đó cần phải xác vai trò, tỷ trọng và mối quan hệ hợp thành giưã các ngành kinh tế quốc dân, giữa các vùng, lãnh thổ và giữa các thành phần kinh tế. Các yếu tố hợp thành cơ cấu kinh tế phải được thể hiện cả về mặt số lượng cũng như về mặt chất lượng và được xác định trong những giai đoạn nhất định, phù hợp với những đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội cụ thể của mỗi quốc gia qua từng thời kỳ. Có thể hiểu cơ cấu kinh tế là một tổng thể các bộ phận hợp thành kết cấu (hay cấu trúc) của nền kinh tế trong quá trình tăng trưởng sản xuất xã hội. Các bộ phận đó gắn bó với nhau, tác động qua lại lẫn nhau và biểu hiện ở các quan hệ tỷ lệ về số lượng, tương quan về chất lượng trong những không gian và thời gian nhất định, phù hợp với những điều kiện kinh tế xã hội nhất định nhằm đạt được hiệu quả kinh tế xã hội cao. Cơ cấu kinh tế không phải là một hệ thống tĩnh bất biến mà luôn ở trạng thái vận động, biến đổi không ngừng. Chính vì vậy, cần phải nghiên cứu các qui luật khách quan, thấy được sự vận động phát triển của lực lượng sản xuất xã hội để xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, phù hợp với những mục tiêu chiến lược kinh tế xã hội của từng thời kỳ lịch sử nhất định. Một cơ cấu kinh tế hợp lý phải có các bộ phận kết hợp một cách hài hoà, cho phép khai thác tối đa các nguồn lực của đất nước một cách có hiệu quả, đảm bảo nền kinh tế tăng trưởng với nhịp độ cao và phát triển ổn định, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, văn hoá tinh thần của người dân. Nước ta trong thời gian tương đối dài, nền kinh tế tồn tại theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Từ khi thực hiện công cuộc đổi mới, sau 15 năm nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu có ý nghĩa to lớn. Đại hội VI đảng ta chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển 3 chương trình kinh tế lớn. Sản xuất lương thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, chú trọng phát triển kết cấu hạ tầng vào 3 chương trình và thực hiện luật đầu tư nước ngoài. Đến Đại hội VII, VIII, IX khi công cuộc đổi mới bắt đầu đi vào chiều sâu, đảng ta tiếp tục khẳng định xây dựng cơ cấu kinh tế hợ lý là một nội dung quan trọng của CNH – HĐH, phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa xã hội. 2. Phân loại cơ cấu kinh tế 2.1. Cơ cấu kinh tế ngành. Ngành nông nghiệp: Là tổ hợp các ngành gắn liền với các quá trình sinh học gồm: nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp. Do sự phát triển của phân công lao động xã hội, các ngành này hình thành và phát triển tương đối độc lập, nhưng lại gắn bó mật thiết với nhau. Nông nghiệp là một ngành cơ bản của nền kinh tế cả nước, vừa chịu sự chi phối chung của nền kinh tế quốc dân, vừa gắn bó mật thiết với các ngành khác trên địa bàn nông thôn, đồng thời lại phản ánh những nét riêng biệt mang tính đặc thù của 1 ngành mà đối tượng sản xuất là những cơ thể sống. Theo nghĩa hẹp: nông nghiệp bao gồm trồng trọt và chăn nuôi, theo nghĩa rộng thì nông nghiệp còn bao gồm cả lâm nghiệp và thuỷ sản. Ngành công nghiệp: Là một ngành quan trọng của nền kinh tế bao gồm ngành công nghiệp nhẹ: Chế biến nông, lâm, thuỷ sản, may mặc, da – giầy, điện tử – tin học, một số sản phẩm cơ khí và hàng tiêu dùng. Công nghiệp nặng: Dầu khí, luyện kim, cơ khí chế tạo, hoá chất cơ bản, phân bón, vật liệu xây dựng…. Ngành dịch vụ: Đây là một ngành kinh tế ra đời và phát triển gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Dịch vụ bao gồm rất nhiều loại: Thương mại, dịch vụ vận tải hàng hoá, hành khách, dịch vụ bưu chính – viễn thông, dịch vụ tài chính tiền tệ như tín dụng, bảo hiểm, kiểm toán, chứng khoán…dịch vụ kỹ thuật, dịch vụ tư vấn, dịch vụ phục vụ đời sống. Đối với Việt Nam hiện nay, du lịch đang thực sự trở thành 1 ngành kinh tế mũi nhọn. 2.2. Cơ cấu kinh tế vùng – lãnh thổ. Trong từng Quốc gia do những điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội khác nhau nên trong quá trình phát triển đã hình thành các vùng kinh tế sinh thái khác nhau. Cơ cấu vùng – lãnh thổ kinh tế là sự phân công lao động xã hội theo lãnh thổ trên phạm vi cả nước. Cơ cấu vùng – lãnh thổ được coi là nhân tố hàng đầu để tăng trưởng và phát triển bền vững các ngành kinh tế được phân bố ở vùng. Việc xác lập cơ cấu kinh tế vùng – Lãnh thổ 1 cách hợp lý nhằm phân bố trí các ngành sản xuất trên vùng – lãnh thổ sao cho thích hợp để triển khai có hiệu quả mọi tiềm năng và lợi thế của từng vùng. Việc bố trí sản xuất ở mỗi vùng không khép kín mà có sự liên kết với các vùng khác có liên quan để gắn với cơ cấu kinh tế của cả nước: ở nước ta có thể chia ra các vùng kinh tế như sau: Trung du và miền núi bắc bộ Tây Nguyên Đồng bằng sông cửu long Vùng KTTĐ Bắc bộ Vùng KTTĐ Miền trung Vùng KTTĐ Phía Nam 2.3. Cơ cấu thành phần kinh tế (gồm có): Kinh tế nhà nước: Phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Kinh tế tập thể: Phát triển với nhiều hình thức hợp tác đa dạng, trong đó hợp tác xã là nòng cốt. Kinh tế cá thể, tiểu chủ: Cả ở nông thôn và thành thị có vị trí quan trọng lâu dài. - Kinh tế tư nhân. - Kinh tế hỗn hợp: Dưới các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư nhân trong và ngoài nước. - Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài: Là một bộ phận của nền kinh tế Việt Nam được khuyến khích phát triển, hướng mạch vào sản xuất, kinh doanh hàng hoá và dịch vụ có công nghệ cao, xây dựng kết cấu hạ tầng. 3. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế Sự cần thiết phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Từ khi đổi mới đến nay cơ cấu kinh tế đã có sự chuyển biến tích cực nhưng vẫn chưa thoát khỏi tình trạng sản xuất nhỏ và nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn, các ngành nghề chưa được phát triển. Nhìn chung cơ cấu kinh tế ở nước ta còn bất hợp lý, dẫn tới sản xuất đạt hiệu quả thấp, chưa khai thác hết mọi tiềm năng của đất nước. Do đó chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một tất yếu cần thiết để phát triển đất nước. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế. - Cơ cấu kinh tế ngành: Có sự chuyển dịch từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Đẩy nhanh CNH – HĐH nông nghiệp và nông thôn tiếp tục phát triển và đưa nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp lên một trình độ mới bằng ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ nhất là công nghệ sinh học. Công nghiệp: Vừa phát triển các ngành sử dụng nhiều lao động, vừa đi nhanh vào một số ngành lĩnh vực có công nghệ hiện đại, công nghệ cao. Phát triển mạnh công nghiệp chế biến nông sản, thuỷ sản, may mặc….Xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng quan trọng. Sản xuất tư liệu sản xuất cần thiết để trang bị cho các ngành kinh tế và quốc phòng, khai thác có hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ, thương mại, kể cả thương mại điện tử, các loại hình vận tải, bưu chính – viễn thông, du lịch, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm…. - Cơ cấu kinh tế vùng lãnh thổ: Phát huy vai trò của vùng kinh tế trọng điểm có mức tăng trưởng cao, tích luỹ lớn, đồng thời tạo điều kiện phát triển các vùng khác trên cơ sở phát huy thế mạnh của từng vùng, liên kết với vùng trọng điểm tạo mức tăng trưởng khá,. Quan tâm phát triển kinh tế- xã hội gắn với tăng cường quốc phòng- an ninh ở các vùng miền núi, đồng bào các dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo chú trọng các vùng tây nguyên, tây bắc, tây nam. Có chính sách hỗ trợ nhiều hơn cho các vùng khó khăn để phát triển cơ cấu hạ tầng, nguồn nhân lực, nâng cao dân trí, xoá đói giảm nghèo, đưa các vùng này vượt qua tình trạng kém phát triển. - Cơ cấu thành phần kinh tế. Chú trọng phát triển các hình thức tổ chức kinh doanh đan xen, hỗn hợp nhiều hình thức sở hữu, giữa các thành phần kinh tế khác nhau, giữa trong nước và nước ngoài. Phát triển mạnh hình thức tổ chức kinh tế cổ phần nhằm huy động và sử dụng rộng rãi vốn đầu tư xã hội. III Vai trò của đầu tư trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam Vai trò của đầu tư trong việc chuyển dịch cơ cấu ngành Cơ cấu ngành của nền kinh tế là tổ hợp các ngành, hợp thành các tương quan tỷ lệ, biểu hiện mối liên hệ giữa các ngành đó của nền kinh tế quốc dân. Chuyển dịch cơ cấu ngành của nền kinh tế là sự thay đổi có mục đích, có định hướng và dựa trên cơ sở phân tích đầy đủ căn cứ lý luận và thực tiễn, cùng với việc áp dụng đồng bộ các giải pháp cần thiết để chuyển cơ cấu ngành từ trạng thái này sang trạng thái khác, hợp lý và hiệu quả hơn Chuyển dịch cơ cấu ngành phải được coi là điểm cốt tử, một nọi dung cơ bản lâu dài trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nếu xác định phương hướng và giải pháp chuyển dịch đúng sẽ đảm bảo hiệu quả kinh tế xã hội cao trong sự phát triển. Ngược lại sẽ phải trả giá đắt cho những sự phát triển về sau . Chuyển dịch cơ cấu ngành của nền kinh tế thành công hay thất bại phụ thuộc rất nhiều vào khâu quyết định chủ trương chuyển dịch và tổ chức thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ đã xác định. ở đây, nhà nước có vai trò quyết định trong việc hoạch định chủ trương và chính sách kinh tế vĩ mô, còn các doanh nghiệp thì có vai trò quyết định việc thực thi phương hướng, nhiệm vụ chuyển dịch. Một nền kinh tế quốc dân bao gồm nhiều ngành sản xuất khác nhau. Do đó, 1 quốc gia muốn phát triển và đạt được tốc độ tăng trưởng cao phả có 1 cơ cấu ngành hợp lý. Đối với Việt Nam, để thực hiện mục tiêu CNH – HĐH đất nước, phấn đầu năm 2010 cơ bản trở thành 1 nước công nghiệp thì điều này lại càng có ý nghĩa. Chính vì vậy, việc đầu tư vào chuyển dịch cơ cấu ngành, tạo sức bật cho nền kinh tế đóng 1 vai trò hết sức quan trọng. Vai trò này của đầu tư được thể hiện ở những khía cạnh sau: Thứ 1: Đầu tư tác động làm thay đổi tỷ trọng đóng góp vào GDP của các ngành: Đây là 1 hệ quả tất yếu của đầu tư. Đầu tư vào ngành nào càng nhiều thì ngành đó càng có khả năng đóng góp lớn hơn vào GDP. Việc tập trung đầu tư vào ngành nào phụ thuộc vào chính sách và chiến lược phát triển của mỗi quốc gia. Thông qua các chính sách và chiến lược, nhà nước có thể tăng cường khuyến khích hoặc hạn chế đầu tư đối với các ngành cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển. Dẫn đến sự tăng đầu tư vào 1 ngành sẽ kéo theo sự tanưg trưởng kinh tế của ngành đó và thúc đẩy sự phát triển của các ngành, các khu vực có liên quan. Vì vậy sẽ tạo ra sự tăng trưởng kinh tế chung của đất nước. Việc xác định nên tập trung đầu tư vào ngành nào có tính chất quyết định sự phát triển của quốc gia. Nhưng kinh nghiệm của các nước trên thế giới đã cho thấy con đường tất yếu có thể tăng trưởng nhanh với tốc độ mong muốn là tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển ở khu vực công nghiệp và dịch vụ. Do đó, để thực hiện được các mục tiêu đã định, Việt Nam cũng không thể nằm ngoài sự phát triển. Thứ 2: Như đã nói ở trên, đầu tư đã làm thay đổi tỷ trọng của các ngành trong cả nền kinh tế. Sự thay đổi này lại đi liền với sự thay đổi cơ cấu sản xuất trong từng ngành hay nói cách khác, sự phân hoá cơ cấu sản xuất trong mỗi ngành kinh tế là do có tác động của đầu tư. Sự phân hoá này cũng là một tất yếu để phù hợp với sự phát triển của ngành. Trong từng ngành, đầu tư lại hướng vào các ngành có điều kiện thuận lợi để phát triển, phát huy được lợi thế của ngành đó và làm điểm tựa cho các ngành khác cùng phát triển. Thứ 3: Nhờ có đầu tư mà quy mô, năng lực sản xuất của các ngành cũng được tăng cường. Mọi việc như mở rộng sản xuất, đổi mới sản phẩm, mua sắm máy móc ….Suy cho cùng đều cần đến vốn, 1 ngành muốn tiêu thụ rộng rãi sản phẩm của mình thì phải luôn đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm đa dạng hoá mẫu mã, kiểu dáng, nghiên cứu chế tạo các chức năng, công dụng mới cho sản phẩm. Do đó việc đầu tư để nâng cao hàm lượng khoa học công nghệ trong sản phẩm là 1 điều kiện không thể thiếu được nếu muốn sản phẩm đứng vững trên thị trường, nhờ vậy mà nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ trên thị trường. 2. Vai trò của đầu tư đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng – lãnh thổ. Đầu tư thúc đẩy phát triển kinh tế của một số vùng- lãnh thổ. Một số vùng – lãnh thổ khi có nguồn vốn đầu tư vào sẽ có thể có nhiều cơ hội để sản xuất kinh doanh, tạo đà cho sự tăng trưởng kinh tế của mình. Tác động này của đầu tư có thể xem xét trên 2 khía cạnh như sau: Thứ nhất là: Đầu tư giúp các vùng – lãnh thổ phát huy được tiềm năng, thế mạnh kinh tế của vùng. Với nhưng vị trí địa lý, đặc thù tự nhiên khác nhau mỗi vùng – lãnh thổ sẽ có những thế mạnh kinh tế khác nhau, nhưng để phát triển kinh tế thì không chỉ dựa vào những tài nguyên vị trí địa lý sẵn có đó, mà phải có đủ điều kiện để khai thác và sự dụng nó có hiệu quả. Điều này đòi hỏi phải có nguồn vốn đầu tư. Vì khi được dầu tư thích đáng các vùng sẽ có điều kiện để xây dựng cơ sở hạ tầng, máy móc công nghệ hiện đại, xác định các phương hướng phát triển đúng đắn để tận dụng, phát huy sức mạnh của vùng. Như một số vùng miền núi có địa hình đồii núi cao ( Sơn La – Hoà Bình ) trước khi được đầu tư vùng không có công trình nào lớn mạnh thực sự, nhưng nhờ đầu tư khai thác thế mạnh sông núi của vùng nhà máy thuỷ điện đã được xây dựng, góp phần làm phát triển nền kinh tế của vùng. Thứ hai là: Đầu tư góp phần nâng cao tỷ trọng đóng góp vào GDP của các vùng – lãnh thổ được đầu tư. Như phân tích trên đầu tư giúp các vùng tận dụng được thế mạnh của mình, tạo đà cho sự phát triển kinh tế của vùng. Khi nền kinh tế phát triển hơn thì khả năng đóng góp vào GDP cũng sẽ cao hơn so với trước kia. GDP % 1990 1995 1999 ĐB sông Hồng 18,6 20,5 20,3 Đông nam bộ 24,6 31,5 32,3 Như vậy đầu tư tác động làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng, vùng nào có sự đầu tư nhiều hơn sẽ có cơ hội phát triển kinh tế nhiều hơn, khả năng đóng góp vào GDP của vùng tăng cao hơn, thúc đẩy sự phát triển kinh tế của vùng cao hơn các vùng – lãnh thổ ít được đầu tư khác. Đầu tư tác động nâng cao đời sống của dân cư. Nguồn vốn đầu tư được sử dụng vào các hoạt động sản xuất và dịch vụ góp phần tạo công ăn việc làm cho người lao động. Nhờ có nguồn vốn đầu tư mà các vùng mới có điều kiện để xây dựng các nhà máy, cơ sở hạ tầng trên lãnh thổ của vùng. Ngay khi những công trình của dự án đầu tư mới đang được xây dựng thì đã là cơ hội tạo việc làm cho nhiều người dân của vùng, thu hút lao động nhàn rỗi của vùng. Cho đến khi các cơ sở đó đi vào hoạt động cũng đã thu hút được nhiều lao động trong vùng. Như hàng loạt các nhà máy đường, xi măng được đầu tư xây dựng đã thu hút công nhân lao động trong vùng vào làm, giải quyết nhiều công ăn việc làm cho khu vực đó. Đầu tư giúp nâng cao thu nhập của dân cư, giúp xoá đói giảm nghèo, người dân từ chỗ bế tắc, thất nghiệp, sau khi có nguồn vốn đầu tư thu hút lao động, tạo việc làm, người dân có thể có thu nhập cao hơn, ổn định cuộc sống, phát huy năng lực của mình. Có thể phân tích qua ví dụ cụ thể sau: ở huyện Thạch Thành – Thanh Hoá Trước khi có nhà máy đường liên doanh Đài Loan – Việt Nam, người dân trồng mía chỉ để bán lẻ hoặc bán với giá quá rẻ, nhiều người dân không có việc làm. Nhưng sau khi có nhà máy đường ở tại đó, người dân trồng mía có nơi tiêu thụ lại với giá cao hơn, nên người dân đã có thu nhập cao hơn, nhiều người dân đã có việc làm, góp phần nâng cao đời sống của mình. Đầu tư góp phần giải quyết những mất cân đối về phát triển kinh tế giữa các vùng. Nguồn vốn đầu tư thường được tập trung ở những vùng kinh tế trọng điểm của đất nước, thúc đẩy nhanh sự phát triển kinh tế của những khu vực đó, và đến lượt mình những vùng phát triển này lại làm bàn đạp thúc đẩy những vùng khác cùng phát triển. Các vùng kinh tế trọng điểm được đầu tư phát huy thế mạnh của mình, góp phần lớn vào sự phát triển chung của cả đất nước, kéo con tàu kinh tế chung của đất nước đi lên, khi đó các vùng kinh tế khác mới có điều kiện để phát triển. Đầu tư cũng đã thúc đẩy các vùng kinh tế khó khăn có khả năng phát triển, giảm bớt sự chênh lệch kinh tế với các vùng khác. Các vùng kinh tế khó khăn khi nhận được sự đầu tư, giúp họ có thể có đủ điều kiện để khai thác, phát huy tiềm năng của họ, giải quyết những vướng mắc về tài chính, cơ sở hạ tầng cũng như phương hướng phát triển,tạo đà cho nền kinh tế vùng , làm giảm bớt về sự chênh lệch với nền kinh tế các vùng khác. Qua những phân tích trên cho thấy , đầu tư có sự tác động quan trọng đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng _lãnh thổ, từng vùng có khả năng phát triển kinh tế cao hơn, phát huy được thế mạnh của vùng, đời sống nhân dân trong vùng có nhiều thay đổi, tuy nhiên trên thực tế mức độ đầu tư vào từng vùng là khác nhau, điều đó làm cho nền kinh tế giưa các vùng vẫn luôn có sự khác nhau, chênh lệch nhau. 3. Vai trò của đầu tư đối với chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế. Đầu tư đã có tác động tạo ra những chuyển biến về tỷ trọng đóng góp vào GDP của các thành phần kinh tế. Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và nhà nước, trong những năm qua cơ cấu thành phần kinh tế ở nước ta đã có sự chuyển dịch theo hướng tiến bộ và bước đầu đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ. Bên cạnh khu vực kinh tế trong nước, khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài FDI cũng ngày càng có những đóng góp tích cực vào sự tăng trưởng kinh tế của cả nước. Đáng chú ý là trong khu vực kinh tế trong nước (bao gồm các thành phần kinh tế nhà nước, tập thể, tư nhân, cá thể và kinh tế hồn hợp ). Cơ cấu của các thành phần đã có sự chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng các thành phần kinh tế ngoài nhà nước và giảm tỷ trọng của kinh tế nhà nước phù hợp với chủ trương đa dạng hoá các thành phần kinh tế nhưng vẫn đảm bảo vai trò quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Tạo ra sự phong phú đa dạng về nguồn vốn đầu tư Nền kinh tế bao cấp đã chỉ rõ những nhược điểm của mình với 2 thành phần kinh tế và nguồn vốn chỉ do ngân sách cấp, do đó không mang lại hiệu quả cao. Nhưng từ khi nước ta chuyển sang kinh tế thị trường thì nền kinh tế không chỉ tồn tại 2 thành phần như trước đây là kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể mà đã xuất hiện thêm các thành phần kinh tế khác như kinh tế tư nhân, kinh tế cá thể, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Cùng với sự xuất hiện này là sự đa dạng về nguồn vốn đầu tư do các thành phần kinh tế mới mang lại. Các thành phần kinh tế mới đã bổ sung một lượng vốn không nhỏ vào tổng vốn đầu tư của toàn xã hội, tạo nên một nguồn lực mạnh mẽ hơn trước để phát triển kinh tế. Việc có thêm các thành phần kinh tế đã huy động và tận dụng được các nguồn lực trong xã hội một cách hiệu quả hơn, khuyến khích được mọi cá nhân tham gia đầu tư làm kinh tế. Vốn đầu tư của họ có thể đến được những nơi, những lĩnh vực mà nhà nước chưa đầu tư đến hoặc không có đủ vốn để đầu tư. Chính vì vậy, việc đa dạng hoá nguồn vốn là một yếu tố không thể thiếu được trong đầu tư phát triển. Chương II Thực trạng về tác động của đầu tư đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam. I. Tổng quan chung về đầu tư và chuyển dịch cơ cấu kinh tế Trong những năm gần đây, thế giới đã biết Việt nam như một nước đang thực hiện thành công công cuộc đổi mới. Để đạt được những thành công này, Đảng và chính phủ đã có những chính sách cải cách và mở cửa hết sức đúng đắn. Những chính sách này đã mang lại những tích cực trong việc thu hút vốn đầu tư để phát triển nền kinh tế vốn còn chậm phát triển của Việt Nam và một trong những thành công nổi bật của đầu tư trong công cuộc đổi mới là sự chuyển dịch cơ câú kinh tế theo hướng CNH- HĐH. Điều đầu tiên mà chúng tôi đề cập đến ở đây là sự thành công của Việt Nam trong việc từng bước chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu sang nền kinh tế công nghiệp tiên tiến, tức là tăng dần tỉ trọng của công nghiệp và dịch vụ trong GDP so với nông nghiệp.Bình quân trong những năm qua, giá trị của ngành dịch vụ ở mức 39%, của ngành công nghiệp là 38% và con số này của ngành nông nghiệp là 23%.Công nghiệp việt nam đang bước từng bước vững chắc và đang chứng tỏ là một ngành có thể kéo đoàn tàu kinh tế tiến lên. Giá trị của nông nghiệp tuy có giảm nhưng ngành nông nghiệp của nước ta vẫn không chỉ đảm bảo được an ninh lương thực mà còn luôn giữ vững vị trí là một trong 3 nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới. Bên cạnh những thành công này không thể khôg kể đến nỗ lực của Đảng và Nhà nước trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng- lãnh thổ. Các vùng kinh tế: Tây bắc, Đông bắc, Đồng bằng sông hồng, Khu 4, Duyên hải miền trung, Tây nguyên, Đông nam bộ và Đồng bằng sông cửu long đã xây dựng được cho mình các thế mạnh về cây, con để đầu tư sản xuất, cải thiện đáng kể đời sống nhân dân và đã hình thành được các vùng kinh tế trọng điểm làm động lực cho sự phát triển của cả nước. Một thành tựu lớn của Việt Nam trong công cuộc cải cách kinh tế đã được cả thế giới ghi nhận là đã xoá được đói, giảm được nghèo ở những vùng kém phát triển với tỉ lệ đói nghèo xuống xấp xỉ 10%. Một điều cần nói đến nữa ở đây là sự chuyển biến về cơ cấu thành phần kinh tế, ngoài 2 thành phần kinh tế cũ là kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể các thành phần kinh tế khác như kinh tế tư nhân, kinh tế cá thể, kinh tế hỗn hợp và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài cũng đã góp phần làm đa dạng hoá nguồn vốn đầu tư, bổ sung cho nguồn vốn của nhà nước. Năm 2003, tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt mức 35,6% GDP. Điều đó thể hiện vai trò tích cực của các thành phần kinh tế trong việc đầu tư vào các ngành, vùng để phát triển kinh tế. Đặc biệt, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận không thể tách rời trong sự nghiệp phát triển kinh tế Việt Nam. Trong những năm qua, khu vực này đã có bước phát triển khá, tạo thêm một số mặt hàng mới, thị trường mới, tăng thêm sức cạnh tranh của sản phẩm, góp phần quan trọng vào các thành tựu kinh tế- xã hội của đất nước. II. Thực trạng của hoạt động đầu tư đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành. Sau nhiều năm thực hiện mở cửa nền kinh tế. Nước ta đã nhận được rất nhiều nguồn vốn từ nước ngoài đổ vào, cùng với lượng vốn trong nước, tạo thành 1 nguồn vốn đầu tư lớn cho nền kinh tế. Đây là 1 điều kiện rất tốt để chúng ta thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế cho phù hợp với xu hướng phát triển chung của thế giới. Và vì vậy, cơ cấu ngành cũng không thể không có những sự thay đổi. Sự thay đổi này được thể hiện ở những mặt sau. Thứ 1: Nhờ có nguồn vốn lớn cùng với chính sách cải cách và đổi mới của Đảng, cơ cấu ngành đã có sự chuyển dịch tích cực theo hướng CNH – HĐH, phát huy được lợi thế của từng ngành, làm tăng hiệu quả và chất lượng phát triển kinh tế. Đúc rút kinh nghiệm của các nước đi trước, Việt Nam đã chú trọng vào phát triển khu vực công nghiệp và dịch vụ, 2 khu vực có khả năng đem lại tốc độ tăng trưởng nhanh cho nền kinh tế. Chính vì vậy tỷ trọng đóng góp vào GDP của các ngành công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ cũng có sự chênh lệch khác nhau. Tỷ trọng ngành nông – lâm – thuỷ sản trong GDP tiếp tục có xu hướng giảm từ 27,2% năm 1995 xuống 25,4% năm 1999 và còn 23% năm 2002 trong khi tỷ trọng ngành công nghiệp – xây dựng phát triển từ 28,7% lên 34,5% và lên đến 38,6% năm 2002 (Trong đó tỷ trọng ngành công nghiệp chế biến tăng từ 18% năm 1999 lên 20,4% năm 2002). Ngành dịch vụ tăng từ 38,6% năm 1990 lên 44,1% năm 1999 và sau đó lại giảm còn 38,4% năm 2002. Sự thay đổi này phản ánh xu hướng ngày càng phát triển của khu vực công nghiệp và dịch vụ trong những năm gần đây, mức đóng góp vào GDP của 2 khu vực này ngày càng tăng và chiếm tới khoảng 79%. Hiện nay vốn đầu tư vào 2 khu vực này cũng đang tăng mạnh, đặc biệt là công nghiệp. Tổng số dự án đầu tư nước ngoài đầu năm 2002 được cấp giấy phép là 104 dự án, tăng 50,7% với tổng vốn đăng ký hơn 159 triệu USD, tăng gần 50%. Có 34 dự án đầu tư vào ngành công nghiệp nặng với tổng vốn đăng ký hơn 33 triệu USD ( bình quân gần 1 triệu USD/dự án). Điều này hứa hẹn nền công nghiệp nước ta sẽ tiếp tục có những chuyển biến đáng kể, góp phần hơn nữa vào quá trình đẩy mạnh CNH – HĐH đất nước. Cơ hội và thách thức đối với sự phát triển công nghiệp: Những thành công trong chính sách đổi mới của Việt Nam đã đưa nước ta từng bước hoà nhập với nền kinh tế thế giới. Việc chính phủ Mỹ tuyên bố chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam ( 7/1975) và hiệp định khung giữa Việt Nam và EU được ký kết, Việt Nam là thành viên chính thức của Hiệp hội các nước ASEAN đã tạo điều kiện thuận lợi cho nước ta phát triển. Cùng từ những thành công của chính sách đổi mới, vị trí và uy tín cuả Việt Nam trên thế giới ngày càng tăng, quan hệ giữa Việt Nam với các nước trong khu vực ( nhất là ASEAN) ngày càng xích lại gần nhau hơn. ở trong nước, các ngành, các doanh nghiệp đã vượt qua nhiều thử thách và đang từng bước khởi sắc, chấp nhận sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường quốc tế và trong nước để tồn tại và phát triển bền vững. Hướng phát triển công nghiệp trong những năm tới: Chặng đường phát triển kinh tế Việt Nam từ nay tới năm 2020 gắn liền với công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Theo các nhà dự báo chiến lược của Việt Nam, từ nay tới năm 2020 được chia thành 2 chặng: + Từ nay tới năm 2010: Chặng đường đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, đưa đất nước vượt qua giai đoạn trung bình của quá trình công nghiệp hoá ( GDP bình quân đầu người đạt khoảng 1000 USD theo giá 1990, vào năm 2010). + Từ 2010 – 2020: Chặng đường đẩy nhanh hiện đại hoá. * Việc định hướng phát triển các ngành công nghiệp, cần quán triệt các quan điểm sau: + Tăng tốc độ phát triển công nghiệp và do đó nâng cao tỷ trọng công nghiệp trong nền kinh tế. + Trong cơ cấu ngành của công nghiệp, cần chú ý sản phẩm và cơ cấu sản phẩm của nó vì đây là yếu tố năng động, linh hoạt trước những diễn biến của thị trường so với ngành nghề. + Trong phát triển công nghiệp, cơ cấu ngành cần kết hợp với cơ cấu vùng và với cơ cấu theo thành phần để thực hiện được các mục tiêu. + Kết hợp hướng ngoại với hướng nội, trong đó hướng ngoại là chủ yếu + Chú ý hiệu quả kinh tế – xã hội của cơ cấu. Luôn định hướng và tạo điều kiện cho các ngành trọng điểm, mũi nhọn phát triển Ngành trọng điểm, mũi nhọn trong sự phát triển công nghiệp được xác định dựa vào các tiêu chuẩn sau: + Vai trò, vị trí của ngành đó đối với nền KTQD + Khả năng đáp ứng nhu cầu thị trường, đặc biệt là nhu cầu thị trường quốc tế. + Khả năng và lợi thế trong nước cho việc phát triển các ngành đó: + Thực trạng hiện có và có thể có cho sự phát triển sau đây: Ngành trọng điểm, mũi nhọn chịu sự tác động của nhiều nhân tố, nên có thể thay đổi theo từng thời ký phát triển. Với những năm tới, trong sự phát triển công nghiệp, các ngành trọng điểm, mũi nhọn có thể là: + Các ngành khai thác tài nguyên khoáng sản mà ta có thế mạnh, trữ lượng và chất lượng khai thác và chế biến cho phép ( ví dụ dầu khí) + Các ngành phục vụ cho kết cấu hạ tầng của nền kinh tế. Xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng sẽ là một trọng điểm cuả nước ta từ nay tới 2010 cũng trong thời kỳ đó nhu cầu xây dựng nhà cửa và tiêu dùng của dân cư cũng rất lớn, ta lại có điều kiện và khả năng phát triển các ngành này ( Điện lực, xi măng). + Một số ngành chế biến nông, lâm, hải sản nhiệt đới mà ta có tiềm năng( diện tích chưa khai thác còn nhiều, đầu tư còn ít), nhu cầu lớn ( ví dụ chế biến gạo, thuỷ sản, hải sản, cà phê, chè mía đường, hoa quả và bia, nước giải khát) + Một số ngành mà ta có lực lượng lao động dồi dào, có truyền thống tay nghề cao, giải quyết việc làm và đóng góp cho xuất khẩu ( ví dụ giày dép, dệt). - Cơ cấu ngành công nghiệp đã có sự chuyển dịch theo hướng tăng tốc độ phát triển và tỷ trọng các ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và xuất khẩu phát huy được lợi thế của ngành, hình thành được một số ngành mũi nhọn. Một số khu công nghiệp , khu chế xuất có công nghệ cao đồng thời phát triển một số ngành chế biến nông sản. Đến năm 2000, các ngành công nghiệp khai thác chiếm khoảng 15% tổng giá trị ngành công nghiệp, trong đó ngành dầu khí đã chiếm tới 12%. Đây là một ngành đầy tiềm năng bởi nước ta có vùng biển rộng lại là nơi có nhiều mỏ dầu khí. Vì vậy cần có sự đầu tư thích đáng vào ngành này để tận dụng được triệt để nguồn lợi về nguyên thiên nhiên. Công nghiệp chế tác, bao gồm sản xuất thực phẩm, sản phẩm phi kim loại, sản phẩm dệt, hoá chất, sản phẩm da, giả da và kim loại, sản phẩm điện tử, công nghệ thông tin chiếm tới 79% tổng giá trị nàgnh công nghiệp. Điều đó cho thấy ngành này ngày càng đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Nhu cầu cao về các sản phẩm của ngành này đã kéo theo sự phát triển của ngành đặc biệt là các ngành như sản xuất chế biến thực phẩm ( chiếm 23,6% tổng giá trị ngành công nghiệp), dệt ( 5,6%), sản phẩm phi kim loại (9,2%), hoá chất (5,4%), sản phẩm da và giả da (4,7%). Đây cũng là những mặt hàng xuất khẩu đem lại lợi nhuận cao. Cuối cùng là ngành điện, ga và nước các ngành này chiếm khoảng 6% tổng giá trị ngành công nghiệp, trong đó điện và ga là 5,6% còn nước chỉ chiếm gần 0,4% sở dĩ có điều này là bởi vì nhu cầu điện cho sản xuất, sinh hoạt đang tăng lên với tốc độ rất nhanh. Đầu tư vào ngành này mang lại lợi nhuận cao và hơn nữa nước ta lại có điều kiện thuận lợi để phát triển ngành như có nhiều con sông để xây dựng nhà máy thuỷ điện thuỷ điện, có nhiều mỏ than phục vụ cho nhiệt điện…còn đầu tư vào ngành nước lại rất hạn chế do chi phí quá cao cho việc xây dựng các nhà máy lọc và xử lý nước, nguồn nước sạch lại khan hiếm, một lí do nữa là do ý thức, thói quen và tập quán sinh hoạt của người dân. Phát triển công nghiệp 10 năm qua đã góp phần đáng kể giữ được nhịp độ tăng trưỏng của nền kinh tế. Trong GDP, năm 1990 công nghiệp chiếm tỷ trọng19,1%, năm 1995 chiếm 22,5% và nưm 2000 chiếm 26,9%. Việc phân bổ lao động trong công nghiệp đã có sự chuyển dịch hợp lý hơn, tạo tiền đề cho hình thành nhiều cơ sở công nghiệp, nhiều trung tâm công nghiệp mới, trong đó đặc biệt là trên địa bàn các vùng kinh tế trọng điểm của đất nước như khu vực ngoại thành các đo thị lớn Hà nội, TP HCM, Đà Nẵng, Hải phòng, Đồng Nai, Bà Rịa ,Vũng Tàu, Bình Dương, Khánh Hoà, Cần thơ, Quảng Ninh…Đã hình thành và phát triển thêm nhiều ngành công nghiệp mới, tăng khả năng cạnh tranh của công nghiệp Việt Nam trên thị trường nội địa và quốc tế. Các ngành này đều nhập thiết bị tiên tiến hiện đại, sản phẩm có chất lượng cao phù hợp với nhu cầu của người sản xuất và tiêu dùng và tham gia thị trường thế giới. Ngoài ra chúng ta đã tập trung phát triển mạnh một số sản phẩm công nghiệp chiến lược làm cơ sở cho sự phát triển bên vùng của công nghiệp nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung như dầu thô, điện, than, thép, xi măng, giấy, vải. Bên cạnh đó còn hình thành được nhiều trung tâm công nghiệp mới, Đặc biệt là trên địa bàn các vùng kinh tế trọng điểm…Đây là những cơ sở vật chất rất quan trọng để chuẩn bị cho thực hiện chiến lược 2001-2010. Để tạo điều kiện cho các ngành trọng điểm mũi nhọn hình thành và phát triển nhanh chóng, vấn đề cực kỳ quan trọng là nhà nước cần xây dựng và ban hành các chính sách phát triển công nghiệp một cách đúng đắn và tổ chức thực hiện chúng một cách nghiêm túc. Trong từng chính sách đó cần xác định rõ giới hạn tác động của nhà nước, của thị trường và của doanh nghiệp, hộ gia đình đến ngành, nghề, mặt hàng, ngành hàng sản xuất – kinh doanh. Nói chung, nhà nước chỉ nên tập trung vào các ngành mũi nhọn, ngành trọng điểm mà ở đó cần có sự tập trung vật lực, tài lực, trí lực mới có thể phát triển được. Những thành quả trên cho thấy cơ cấu công nghiệp tiếp tục có sự chuyển dịch đáng kể, song các ngành công nghiệp lại chưa tạo được bước đột phá về chất lượng, hiệu quả và các sản phẩm công nghiệp có chất lượng cao còn chiếm tỷ trọng nhỏ. Chính vì vậy, một sự đầu tư thích đáng hơn nữa theo chiều sâu là một điều hết sức cấp bách. - Nông nghiệp vẫn là ngành chiếm vị trí hàng đầu trong cơ cấu kinh tế quốc dân ở nước ta. Tuy không thể làm giàu bằng nông nghiệp nhưng những chuyển biến tích cực của nông nghiệp đã góp phần không nhỏ vào việc giải quyết những vấn đề kinh tế – xã hội cấp thiết, đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng và tạo tiền đề cho những bước phát triển mạnh hơn trong tương lai. + Nền nông nghiệp Việt Nam đang vận động theo những xu hướng Tích cực, đang chuyển dần từ thế độc canh, tự cấp tự túc sang kinh tế thị trường phát huy lợi thế của từng vùng sinh thái để hình thành các vùng chuyên canh. + So với yêu cầu của quá trình CNH – HĐH nền nông nghiệp Việt Nam về cơ bản chưa thoát khỏi tình trạng sản xuất nhỏ, thị trường nông thôn còn ở giai đoạn đầu của sự hình thành. + Khả năng sinh thái đa dạng chưa được khai thác đầy đủ và có hiệu quả. Tỷ suất hàng hóa thấp. Trồng trọt, đặc biệt là trồng cây lương thực, vẫn chiếm vị trí hàng đầu, chăn nuôi theo kiểu sản xuất hàng hóa chưa phát triển mạnh. Trong nông nghiệp, cơ cấu cây trồng vật nuôi được dịch chuyển theo hướng tăng tỷ trọng các loại sản phẩm có năng suất và hiệu quả kinh tế cao, khai thác được lợi thế theo cây, con. Tập trung phát triển một số cây công nghiệp và ăn quả có tiềm năng xuất khẩu và sức cạnh tranh quốc tế. Tốc độ chăn nuôi tăng nhanh hơn trồng trọt, cây công nghiệp và cây ăn quả tăng nhanh hơn cây lương thực.Đã hình thành được một số vùng chuyên canh phục vụ công nghiệp chế biến và xuất khẩu.Đã hình thành một số mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn như gạo, cà phê, cao su, điều, tôm… - Trong ngành nông nghiệp, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra như sau: Đơn vị: % 1990 1995 2000 Toàn ngành nông nghiệp 100 100 100 - Trồng trọt 74,4 80,4 80 - Chăn nuôi 24,1 16,6 17,3 - Dịch vụ nông nghiệp 3,0 2,7 Qua biểu trên, ta thấy tỷ trọng giữa các ngành trong toàn ngành nông nghiệp có sự thay đổi nhưng sự thay đổi naỳ diễn ra khá chậm chạp. Tỷ trọng ngành trồng trọt có xu hướng giảm dần , trong khi đó ngành chăn nuôi tăng lên. Tuy nhiên mức tăng của ngành chăn nuôi tăng nhanh hơn mức giảm của ngành trồng trọt (0,7% so với 0,4%). Điều này cho thấy chăn nuôi ngày càng được chú trọng hơn và đang chứng tỏ là một ngành có khả năng đem lại lợi nhuận cao. - Dịch vụ là một lĩnh vực hoạt động của nền kinh tế quốc dân bao hàm tất cả những hoạt động phục vụ sản xuất và đời sống dân cư. Theo nghĩa đó, hoạt động dịch vụ bao hàm cả hoạt động thương mại. Nhưng thông thường, do vị trí đặc biệt quan trọng và những đặc thù riêng, hoạt động thương mại thường được tách riêng khỏi phạm trù dịch vụ và được coi là một vế ngang bằng với hoạt động dịch vụ. Trong chuyên đề này thương mại – dịch vụ được xem xét với tư cách một ngành kinh tế thực hiện qua trình lưu thông trao đổi hàng hoá và thực hiện các công việc phục vụ tiêu dùng của sản xuất và của dân cư trên các thị trường. Các ngành dịch vụ chiếm tỷ trọng trong GDP từ 38,6% năm 1990 tăng lên 40,5% năm 2000, vừa đáp ứng được nhu cầu phát triển tổng kinh tế, vừa phục tốt đời sống, từng bước nâng cao chất lượng phục vụ. Cơ cấu các ngành dịch vụ trong tổng giá trị dịch vụ đã có sự chuyển dịch bước đầu: + Ngành thương mại trong nhiều năm gần đây luôn phát triển và dẫn đầu về tỷ trọng đóng góp trong tổng giá trị ngành dịch vụ, từ 37,2% năm 1995 đến 37,3 năm 2000 + Ngành giao thông, bưu điện cũng đang chứng tỏ mình là một ngành có thế mạnh và đang trên đà phát triển đóng góp vào tổng giá trị của ngành tăng từ 7,6% năm 1990 lên 9,0% năm1995 vào năm 2000 là 9,4%. Các ngành như giao thông, y tế, quản lý nhà nước cũng tăng từ 20% năm1995 lên 20,5% năm 2000. Trong đó khoa học và giáo dục đào tạo là hai ngành tiếp tục có tốc độ tăng trưởng cao nhất trong khu vực dịch vụ (9,1% và 8,5% năm 2002), thể hiện mức độ ưu tiên cao, quyết tâm và nỗ lực của Chính phủ trong việc thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực khoa học công nghệ. Bên cạnh đó lại có sự giảm xuống ngành tài chính, ngân hàng. Năm 1995, tỷ lệ đóng góp của ngành này là 4,6%, đến năm 2000 giảm xuống còn 4,1% và chỉ còn xấp xỉ 2% vào 2002. Điều này cho thấy sự giảm sút trong đầu tư vào lĩnh vực này và đây là một điều bất cập bởi trong điều kiện kinh tế phát triển như hiện nay thì các dịch vụ về tài chính và ngân hàng là rất quan trọng. Các ngành như giao thông, bưu điện, giáo dục, y tế… tuy phát triển nhưng hầu hết đều phát triển rất chậm. Tuy nhiên, với mộtnước mới đi vào tiến trình CNH – HĐH như Việt Nam thì tỷ trọng 38% - 40% GDP của khu vực dịch vụ không phải là thấp ( con số tương ứng của Trung Quốc; Inđonexia và Mianma là 33,6%; 37,1% và 32,5%). Vấn đề là ở chỗ nhà nước cần phải có các chính sách và biện pháp phù hợp nhằm khai thác hết các tiềm năng, phát huy lợi thế và nâng cao giá trị của ngành. Nếu xét trong năm 2003 chúng ta có: Tỷ trọng trong GDP (2003) Nông nghiệp 21,80% Công nghiệp và xây dựng 39,97% Dịch vụ 38,23% ( Nguồn: Vụ kinh tế đối ngoại, Bộ kế hoạch đầu tư ) Các mặt hàng xuất khẩu chính (2003): Dầu thô(19%), hàng dệt may(18%), hải sản(11%), giày dép(11%), gạo(4%), cà phê(3%), các loại khác(34%). Nếu xét trong năm 2003, tỷ trọng đóng góp trong GDP của ngành Công nghiệp vẫn chiếm cao nhất là 39,97%. Ngành Nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng thấp nhất là 21,80%. Chúng ta đã xây dựng một sống ngành công nghiệp mũi nhọn có khẳ năng xuất khẩu như công nghiệp khai thác, công nghiệp dệt may, giày dép.... Thứ 2: Mặc dù cơ cấu ngành đã có những chuyển biến tích cực nhưng sự chuyển dịch giữa các ngành và trong từng ngành còn chậm và chưa hợp lý. Sản xuất công nghiệp phát triển chậm, chưa ổn định, tốc độ tăng trưởng toàn ngành mới đạt bình quân hàng năm 12,2%, còn thiếu nhiều yếu tố và cơ sở cho phát triển lâu dài, hội nhập và cạnh tranh. Cơ cấu ngành công nghiệp và cơ cấu sản phẩm công nghiệp chậm chuyển dịch theo hướng hiệu quả, tăng sức cạnh tranh và phát huy lợi thế của từng ngành sản xuất công nghiệp. Việc này là do chúng ta chỉ chú trọng đến đầu tư mở rộng, phát triển công suất sản xuất, chỉ coi trọng quy mô mà chưa quan tâm nhiều đến đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm, đổi mới công nghệ hiện đại nhằm đáp ứng nhu cầu phù hợp với thị trường. Một lý do nữa khiến cho việc chuyển dịch trong ngành còn chậm chạp là do công tác dự báo, xây dựng và quản lý quy hoạch công nghiệp chưa tốt, dẫn tới việc đầu tư dàn trải, theo phong trào và phát triển quá mức trong một số ngành như xi măng, mía đường, lắp ráp xe gắn máy 2 bánh, ô tô, rượu, bia,….Điều này vừa gây lãng phí, kém hiệu quả trong đầu tư, vừa gây mất cân bằng cung cầu trên thị trường. Một ví dụ điển hình như trong năm ngoái là ngành sắt thép đã phải chịu thua lỗ nặng nề do có quá nhiều nhà máy sản xuất, trong khi nhu cầu lại tăng không đáng kể. Hay như hiện nay, phong trào khu công nghiệp, khu chế xuất ở các tỉnh đang phát triển rầm rộ. Kết quả bước đầu cũng rất đáng khích lệ, nhưng việc xây dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất này đã phù hợp với điều kiện cụ thể của từng vùng, từng lĩnh vực hay chưa, liệu nó có căn cứ vào tình hình phát triển kinh tế chung hay không, thì phải cần đến sự quản lý ở cấp vĩ mô, tránh để xảy ra tình trạng như của sắt thép, xây dựng xong lại không thể đi vào hoạt động hoặc hoạt động chỉ cầm chừng. Việc hình thành và phát triển có chọn lọc một số ngành công nghiệp nặng mà ta có điều kiện vẫn chưa thực hiện được. Một số ngành công nghiệp theo chốt như cơ khí, chế tạo, công nghiệp đóng tàu, công nghiệp luyện kim phát triển chậm. Trong số các dự án đầu tư vào công nghiệp thì quy mô các dự án đầu tư vào ngành công nghiệp nặng quá nhỏ nên khó có khả năng đầu tư công nghệ hiện đại, mà phần lớn chỉ làm gia công, chế biến và làm dịch vụ. Sản phẩm công nghiệp làm ra tính theo đầu người còn thấp nhưng đã có hiện tượng tồn đọng dư thừa làm cho sản xuất cầm chừng. - Trong nông nghiệp, cơ cấu sản xuất cũng còn những hạn chế, bất cập và chuyển dịch rất chậm. Cho đến nay, chăn nuôi vẫn còn là ngành phụ. Giá trị sản xuất của chăn nuôi vẫn còn là ngành phụ. Giá trị sản xuất của chăn nuôi qua các năm 1999, 2000, 2001 là 18,5%; 19,3%; 19,5%. Trong khi đó con số tương ứng của trồng trọt là: 79,2%; 78,2% và 77,8%. Tức là giá trị của chăn nuôi có tăng lên nhưng cũng chỉ bằng 1/4 so với trồng trọt. Đây là 1 điều bất hợp lý bởi trong xu thế phát triển hiện nay, nhu cầu chất lượng cuộc sống tăng cao đòi hỏi chăn nuôi phải lớn hơn trồng trọt. Nguyên nhân chính của việc chăn nuôi chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ là do phương thức chăn nuôi còn mang tính tự cung tự cấp, qui mô nhỏ, phân tán theo từng hộ gia đình, với kỹ thuật lạc hậu, tận dụng sản phẩm phụ của trồng trọt là chính, lấy công làm lãi. Cả nước hiện có trên 10,7 triệu hộ nông nghiệp, đã chăn nuôi trên 2,8 triệu con trâu, gần 4,1 triệu con bò, trên 23,1 triệu con lợn và 233,3 triệu con gia cầm, với sản lượng thịt hơi đạt trên 2 triệu tấn. Tính đến ngày 11-10-2001, cả nước có 1762 trang trại chăn nuôi, chỉ chiếm 2,9 tổng số trang trại và mới sản xuất được khoảng 1/10 sản lượng sản phẩm chăn nuôi. Do vậy, chất lượng và chủng loại sản phẩm chăn nuôi còn thấp, giá cả còn cao, chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường cả trong nước và xuất khẩu. Tỷ lệ xuất khẩu đạt được còn thấp so với sản lượng sản xuất, mặc dù về số lượng gia súc, gia cầm Việt Nam đứng thứ hạng cao (Số lượng lợn đứng thứ nhất khu vực, thứ hai Châu á, thứ 5 thế giới, chỉ sau Mỹ, Trung Quốc, Braxin, Đức; số lượng Bò đứng thứ 4 khu vực, thứ 14 Châu á, thứ 53 thế giới; số lượng Trâu đứng thứ 2 khu vực, thứ 6 châu á, thứ 18 thế giới).Nói chung,sự chuyển dịch cơ cấu trong nông nghiệp còn mang tính tự phát.Trong ngành trồng trọt, tình trạng “trồng-chặt” vẫn còn diễn ra ở nhiều nơi, mỗi khi có lên xuống của giá cả trong nước và thế giới.Đây lại là một lỗi nữa của công tác dự báo nhu cầu thị trường và quy hoạch vùng nguyên liệu hợp lý. Cơ cấu sản xuất của khu vực nông lâm nghiệp và thuỷ sản mặc dù đã có chuyển dịch nhưng còn chậm và mang nặng tính độc canh. Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP mặc dù đã giảm từ năm 1999 đến nay, nhưng vẫn còn ở mức khá cao, chiếm 81,9% năm 1999; 80,8% năm 2000 và 78,5% năm 2001. Tỷ trọng lâm nghiệp liên tục giảm sút, mặc dù lâm nghiệp có nhiều tiềm năng về rừng và đất rừng. Năm 1999, ngành này chỉ chiếm 5,6% GDP, nhưng 2 năm sau con số này còn thấp hơn với trung bình mỗi năm giảm 0,1%. Tỷ trọng thủy sản từ năm 2000 đến nay đã tăng khá hơn nhưng vẫn còn thấp; từ 13,8% năm 2000 lên 16% năm 2001. Tuy đã có những chuyển biến tích cực trong chuyển dịch cơ cấu, song sản xuất của các ngành trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp và thuỷ sản vẫn chủ yếu là dưới dạng thô và sơ chế. Đây chính là một nguyên nhân khiến cho sản phẩm của ta thường bị ép giá và không mang lại hiệu quả xuất khẩu cao. Vì vậy việc đầu tư vào các ngành công nghiệp chế biến, tăng hàm lượng khoa học công nghệ trong sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh đang là một đòi hỏi cấp bách không chỉ của riêng các sản phẩm nông nghiệp mà còn cả các sản phẩm công nghiệp, nhất là trong bối cảnh Việt Nam cần đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Cơ cấu nông thôn, nông, lâm nghiệp , thuỷ sản đã có sự chuyển dịch nhưng nói chung vẫn còn chậm, vẫn mang tính thuần nông, độc canh, năng suất, chất lượng, hiệu quả thấp. Cần phải có sự tác động vào khâu giống, khâu chế biến, khâu tiêu thụ để tăng giá trị tăng thêm; chuyển vốn, chuyển nhà máy về nông thôn để chuyển dịch cơ cấu nông thôn nông nghiệp tăng thu nhập, nâng cao năng suất, hiệu quả trên cơ sở rút bớt lao động sang làm công nghiệp – dịch vụ. Nếu chúng ta không nhanh chóng chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, nông thôn thì chẳng những còn bị tụt hậu so với những nước cùng chặng đường mà còn khó thực hiện được mục tiêu cơ bản trở thành nước công nghiệp vào năm 2020. Bên cạnh nhưĩng xu thế biến đổi có tính tích cực đã nêu ra ở trên, sự vận động của nông nghiệp trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế cũng bộc lộ rõ một loạt những tồn tại, khó khăn và cản trở sau: Thứ nhất, Cơ cấu sản xuất nông nghiệp có trình độ sản xuất hàng hóa thấp kém, tính chất độc canh, quảng canh, tự cấp tự túc còn nặng nề. Thứ hai, Các bộ phận hợp thành nền nông nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, ngư nghiệp ) chưa gắn với nhau chặt chẽ trong cơ cấu. Ngoại trừ mối quan hệ tất yếu giữa trồng trọt và chăn nuôi, tất cả các bộ phận hợp thành nền nông nghiệp phát triển rất rời rạc, thậm chí trong một số trường hợp lại mâu thuẫn hoặc triệt tiêu nhau. Có thể dẫn ra một vài ví dụ để chứng minh: + ở vùng núi, để giải quyết nhu cầu lương thực, người ta đã tàn phá rừng làm rẫy. + Việc khai thác rừng vô tổ chức, vô kế hoạch, khai thác một cách hủy hoại tài nguyên rừng, trong khi công tác trồng và tu bổ rừng rất yếu kém. Thứ ba, chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp không gắn chặt với việc xây dựng nông thôn. Các hoạt động phi nông nghiệp ( tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp chế biến, thương mại dịch vụ, giao thông vận tải....) kém phát triển. Chính sự mất cân đối này đã và đang trở thành nhân tố tiêu cực, cản trở và kìm hãm sự phát triển của bản thân nông nghiệpvà bảo đảm đời sống của nhân dân. Thứ tư, giữa nông nghiệp và công nghiệp, dịch vụ chưa tạo thành cơ cấu kinh tế thống nhất. Trên bình diện chung có thể thấy công nghiệp có những đóng góp nhất định cho sự chuyển biến vượt bậc của nông nghiệp ở mức độ nhất định đã tạo ra những điều kiện thuận lợi hơn cho phát triển công nghiệp. Nhưng đi vào khía cạnh cụ thể, có thể thấy sự chuyển biến của mối quan hệ giữa chúng để tạo lập cơ cấu kinh tế thống nhất còn chậm chạp và nhỏ bé. Một số hạn chế trong phát triển ngành nông nghiệp: Thứ nhất, Đất đai canh tác – tư liệu sản xuất chủ yếu không có gì thay thế được – là một đại lượng có hạn và đang có xu hướng giảm dần. Hiện nay ở nước ta việc quản lý và sử dụng đất đai đang đứng trước một loạt mâu thuẫn. Những mâu thuẫn này không dễ gì có thể giải quyết được Dù đã có những mệnh lệnh cấm chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp ở những vùng trọng điểm, nhưng trên thực tế, bằng cách này cách khác, diện tích đất nông nghiệp vẫn đang bị thu hẹp mạnh. Thứ hai, Tác động tích cực của những động lực tạo ra từ những năm đầu đổi mới cơ chế quản lý đang đi dần đến đỉnh điểm của sự tới hạn. Sự giới hạn trong tác động của những động lực hiện tại còn biểu hiện trên nhiều mặt khác: + Sự cách biệt ngày càng lớn giữa thành thị và nông thôn, giữa miền xuôi và miền núi. + Giá cánh kéo giữa hàng nông phẩm thô và hàng tư liệu sản xuất (vật tư nông nghiệp ), hàng tiêu dùng thiết yếu có xu hướng ngày càng mở rộng; hàng nông sản xuất khẩu chủ yếu dưới dạng thô hoặc chế biến đơn giản. Thực tiễn cho thấy, bên cạnh việc chú trọng áp dụng những thành tự khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ sinh học, vào sản xuất nông nghiệp, cần tìm trong những nhân tố kinh tế – xã hội những động lực trực tiếp, mạnh mẽ mới cho sự phát triển nông nghiệp và nông thôn. + Sự manh mún phân tán của kinh tế hộ hạn chế trực tiếp khả năng ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ và phát triển các vùng chuyên canh. Kinh tế hộ nông nghiệp và nông thôn bộc lộ những nhược điểm nhất định, mà rõ nhất là ở hai phương diện: * Khả năng ứng dụng các thành tựu mới của khoa học công nghệ. * Khả năng hình thành và phát triển ổn định các vùng chuyên canh. + Tiềm năng thủy sản lớn nhưng chưa phát huy được thế mạnh, khả năng khai thác còn hạn chế. Trong những năm qua, thủy sản được phát triển khá mạnh và toàn diện trên cả phương diện nuôi trồng, khai thác và chế biến. Nhưng kết quả đạt còn nhỏ bé so với tiềm năng kinh tế của đất nước. Tuy vậy, sự phát triển này hiện đang đương đầu với một loạt khó khăn: * Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ đánh bắt còn thấp kém, việc đánh bắt hải sản chủ yếu mới thực hiện ở vùng biển gần, chưa đủ sức vươn ra khơi xa. Việc đầu tư tăng cường cưo sở vật chất lại gặp khó khăn về vốn liếng và cơ cấu tổ chức. * Công nghệ chế biến thấp kém, công nghệ cjhế biến mới dừng ở mức sơ chế, giá trị kinh tế của xuất khẩu thấp. * Việc phát triển nuôi trồng thủy sản vùng nước lợ ở nhiều vùng đã dẫn đến tình trạng tàn phá rừng tràm, rừng đước nguyên sinh, phá hoạt môi trường sinh thái. * Nguy cơ tiềm tàng về bất ổn định do tranh chấp vùng biển đông cùng có tác động tiêu cực đến sự phát triển khai thác thủy sản. Ngành dịch vụ phát triển chậm so với tiềm năng và khả năng có thể khai thác được. Tỷ trọng các ngành dịch vụ trong GDP có xu hướng giảm, trong đó thương nghiệp chỉ chiếm khoảng 14,5% GDP là quá thấp. Dịch vụ vận tải kho bãi, thông tin liên lạc mặc dù đã có những bước tiến khá nhanh, nhưng cũng chỉ mới chiếm gần 4% GDP. Ngành du lịch, một ngành đầy triển vọng mang lại giá trị cao với 5 di sản thiên nhiên thế giới và hàng nghìn thắng cảnh nổi tiếng có thể khai thác tốt, đặc biệt là khi Việt Nam được coi là điểm đến an toàn nhất Châu á. Vậy mà ngành công nghiệp không khói này cũng mới chỉ đóng góp khoảng 3,1% vào GDP. Nguyên nhân chủ yếu là do tình trạng yếu kém về cả cơ sở vật chất lẫn phương thức hoạt động, sự quản lý lỏng lẻo và không có chiến lược phát triển rõ ràng . Các loại hình dịch vụ khác như tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, bưu chính viễn thông, vận tải hàng không, đường biển…cũng vẫn còn chậm phát triển và đóng góp vào GDP không nhiều. Bên cạnh những xu thế vận động tích cực đã nêu trên, sự phát triển thương mại dịch vụ ở nước ta cũng đã lộ rõ những tồn tại, yếu kém đó là: Thứ nhất, sự phát triển thương mại dịch vụ chưa gắn bó chặt chẽ với sự phát triển các ngành kinh tế trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành kinh tế quốc dân. Về nguyên tắc, sự phát triển tương mại – dịch vụ phải dựa trên cơ sở sự phát triển các ngành sản xuất và có tác động tích cực đến sự phát triển các ngành ấy. Trên thực tế, sự thiếu gắn bó trong phát triển thương mại dịch vụ với các ngành khác thể hiện trên những khía cạnh sau đây: * Cơ cấu các mặt hàng kinh doanh chưa thật sự hợp lý so với cơ cấu sản xuất và cơ cấu tiêu dùng cuản toàn xã hội. Từ nhấn mạnh yêu cầu “phục vụ” trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, trong cơ chế mới, thiên hướng “Kinh doanh thuần tuý” chạy theo những mặt hàng có lợi nhuận cao, tập trung vào thị trường thành phố, đồng bằng...bộc lộ ngày càng rõ nét. Từ đó dẫn đến tình trạng mà người ta vẫn gọi là thương mại đã “bỏ trống nhiều trận địa”: Hàng tư liệu sản xuất thông thường, hàng tiêu dùng thiết yếu cho vùng cao, vùng sâu và vùng nông thôn. * Tiềm năng xuất khẩu chưa được khai thác đầy đủ, thị trường xuất khẩu không ổn định đã hạn chế việc sử dụng các khả năng sản xuất hiện có và có thể, Hàng nhập khẩu là nguyên vật liệu để sản xuất tư liệu tiêu dùng chiếm tỷ trọng lớn. Nhiều hàng tiêu dùng nhập khẩu là những hàng hoá trong nước có khả năng sản xuất đã gây nên khó khăn cho sản xuất trong nước. Các tư liệu lao động ( thiết bị ) nhập khẩu có trình độ thấp, chưa thúc đẩy hiệu quả của qúa trình đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ của các ngành sản xuất. * Hệ thống dịch vụ phát triển mạnh, nhưng chủ yếu hướng vào dịch vụ sinh hoạt. Đó là lĩnh vực có khả năng sinh lợi lớn mà rủi ro trong kinh doanh thấp. Thứ hai, với tư cách là môi trường thực hiện sự giao lưu đổi đổi hàng hoá giữa các chủ thể kinh tế, hệ thống thị trường ở nước ta mới đang trong giai đoạn đầu của quá trình hình thành, vì thế chúng chủ yếu còn ở dạng sơ khai, manh nha và thiếu đồng bộ. Với một môi trường như vậy, việc phát triển sản xuất và lưu thông hàng hoá tất yếu gặp những khó khăn cản trở, lợi thế từng vùng không được phát huy đầy đủ. Tình trạng sơ khai manh nha và thiếu đồng bộ của các thị trường là bạn đồng hành của tình trạng thiếu hoàn thiện và đồng bộ của hệ thống chính sách và luật pháp về kinh tế. Chính trong bối cảnh đó mà những khuyết tật của thị trường đã phát sinh và phát triển tới mức không thể không nói là mạnh mẽ. chẳng hạn, tình trạng buôn lậu, trốn thuế, làm hàng giả... Thật ra, việc hình thành đồng bộ thị trường và hệ thống các chính sách, luật pháp là một quá trình. Tình trạng giao thoa, đan xen giữa cơ chế quản lý cũ và cơ chế quản lý mới trong những giai đoạn nhất định của quá trình chuyển đổi là không tránh khỏi. Nhưng tình trạng ấy đã bị lợi dụng và gây ra những nhiễu loạn nhất định trong sản xuất và lưu thông hàng hoá. Cũng chính trong bối cảnh này, những “ tín hiệu” phát ra từ thị trường không phải lúc nào cũng hoàn toàn xác thực và do vậy, người gặp khó khăn trước hết vẫn là các doanh nghiệp sản xuất. Thứ ba, cơ cấu thị trường hàng hoá giữa các vùng, các khu vực phát triển không đều Trên tổng thể toàn bộ lãnh thổ đất nước có thể thấy rằng thị trường thành phố, các trung tâm dân cư và các cửa khẩu biên giới phát triển nhanh, Nhịp độ hoạt động khẩn trương, hàng hoá phong phú và đa dạng. Trong khi đó thị trường nông thôn , đặc biệt là là thị trường miền núi, vùng sâu, vùng xa rất chậm phát triển, nếu không muốn nói là tụt lùi so với những năm dưới thời bao cấp. Đương nhiên, không thể nào có sự phát triển đồng đều trên tất cả các vùng, vì khả năng, điều kiện của các vùng rất khác nhau. Song sự phát triển phiếm diện của thị trường ở các vùng phản ánh sự phiến diện trong khai thác tiềm năng lợi thế của các vùng và trách nhiệm của thương mại dịch vụ trong việc đáp ứng nhu cầu hàng hóa của các vùng, qua đó thực hiện sự bình đẳng về kinh tế xã hội của dân cư các vùng. Trong thực tế đã xẩy ra nghịch lý tài nguyên sơ khai ở miền núi (lâm sản, sản phẩm cây công nghiệp dài ngày...) bị thu hút mạnh về các thành phố, trung tâm công nghiệp lớn, trong khi các nơi khai thác tài nguyên có trình độ kinh tế xã hội vẫn thấp kém, dân cư ở đó vẫn thiếu hàng hóa tiêu dùng thiết yếu (gạo, mắm muối, vải, kim, chỉ,,,). Nói cách khác rằng hàng đi – về không cân xứng đã đào sâu thêm hố ngăn cách và làm tăng thêm sự cách biệt giữa thành thị và nông thôn, miền núi và miền xuôi. Việc chuyển dịch cơ cấu ngành của nền kinh tế chịu tác động của nhiều yếu tố: thị trường, tiến bộ khoa học – công nghệ, các nguồm lực, định hướng phát triển của Chính Phủ, kinh tế đối ngoại, điều kiện, môi trường lịch sử xã hội của sự phát triển kinh tế .....ở đây xin nêu một số yếu tố ảnh hưởng sau đây: Thị trường, đặc biệt là nhu cầu và tình hình cạnh tranh trên thị trường (trong và ngoài nước) là yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp và quyết định đầu tiên tới cơ cấu ngành của nền tế. Chính nhu cầu, cơ cấu nhu cầu và xu thế vận động của chúng đặt ra những mục tiêu cần vươn lên để thỏa mãn, là cơ sở để đảm bảo tính thực thi và hiệu quả của phương án cơ cấu ngành của nền kinh tế. Những định hướng chiến lược và vai trò quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước cũng có vai trò rất quan trọng đối với việc hình thành cơ cấu ngành. Trong trường hợp phó mặc cho sự tác động của thị trường thì sự hình thành cơ cấu ngành mong muốn sẽ quá chậm, nhất là những ngành bao gồm các doanh nghiệp hoạt động không vì mục đích lợi nhuận hoặc mức lãi thấp (sản xuất hàng hóa công cộng, nguyên liệu cho công nghiệp, xây dựng cơ sở hạ tầng .....). Ngược lại, những định hướng thiếu cơ sở khách quan. hoặc sự can thiệp quá sâu của Nhà nước trong quá trình thực hiện đều dẫn tới chỗ hình thành cơ cấu ngành kém hiệu quả. Tác động của tiến bộ khoa học – công nghệ có ảnh hưởng nhiều mặt đến cơ cấu ngành của nền kinh tế. ở nước ta, yếu tố này đã thúc đẩy sự ra đời và phát triển một số ngành như dầu khí, điện tử... làm thay đổi quy mô, tốc độ phát triển của các ngành chế biến, dịch vụ. III. Thực trạng của đầu tư đối với chuyển dịch cơ cấu vùng – lãnh thổ 1. Đầu tư tạo ra những chuyển biến tích cực trong kinh tế của vùng. 1.1 Đầu tư đã có những tác động tới chuyển dịch cơ cấu GDP tính theo vùng. Trong những năm qua đầu tư đã có những tác động tích cực tới chuyển dịch cơ cấu GDP tính theo vùng. Tỷ trọng GDP của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam tăng 1,72%, trong khi đó tỷ trong dân số của vùng này chỉ tăng 0,4% nghĩa là tỷ trọng GDP tăng nhanh hơn tỷ trọng tăng dân số. Tỷ trọng GDp vùng Tây Nguyên tăng 0,16%…trong khi tỷ trọng dân số tăng 0,87% làm cho GDP bình quân đầu người của Tây Nguyên so vơi cả nước giảm đi 0,2%, cùng giảm tỷ lệ GDP bình quân đầu người so với cả nước là vùng Trung du và miền núi Bắc bộ giảm đi 0,03%. Như vậy dưới tác động của cải cách đầu tư, GDP của các vùng đã thay đổi theo chiều hướng tăng tỷ trọng của vùng Tây Nguyên và vùng trọng điểm kinh tế phía Nam, giảm đi ở những vùng còn lại. Bảng về chỉ tiêu GDP theo vùng Đơn vị: % GDP GDP/người so với tỷ lệ này của cả nước. 1995 1999 99-95 1995 1999 99-95 Trung du và miền núi B.Bộ 9,13 8,43 - 0,7 0,5 0,47 - 0,03 Tây nguyên 3,36 3,52 0,16 0,54 0,52 - 0,02 ĐB Sông cửu Long 26,69 25,97 - 0,72 0,95 0,97 0,02 Vùng KTTĐ Bắc bộ 18,37 17,99 - 0,38 1,33 1,33 0 Vùng KTTĐ miền trung 5,24 5,16 - 0,08 0,71 0,72 0,01 Vùng KTTĐ phía nam 37,21 38,93 1,72 2,62 2,72 0,1 Tổng số sáu vùng 100,0 100,0 (Theo nguồn: Tạp chí quản lý nhà nước) Thực tế trong những năm qua cho thấy trong khuôn khổ sự tăng trưởng, phát triển kinh tế chung của cả đất nước là khá cao thì tốc độ giữa các địa phương (vùng, tỉnh) là khá chênh lệch. Tốc độ tăng trưởng cao nhất đạt được ở những Tỉnh, những vùng có các lợi thế và điều kiện phát triển sơ bộ (cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực, vốn, thị trường và tài nguyên thiên nhiên), phù hợp hơn với những đòi hỏi của cơ chế thị trường. Đó là các thành phố lớn như Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng, Bà Rịa - Vũng Tàu, Quảng Ninh – là những địa phương có cơ sở hạ tầng tương đối tốt hơn, trình độ lao động và năng lực công nghiệp cao hơn, có lợi thế khả năng tạo vốn, về tiềm năng tự nhiên hơn xét trên quan điểm thị trường. Với những ưu thế thực tế có thể khai thác và sử dụng ngay và có hiệu quả hơn như vậy, dòng vốn đầu tư, cả trong nước lẫn ngoài nước cũng tập trung mạnh hơn vào những địa phương này. Trong khi đó, ở các địa phương – nông thôn hay địa phương – miền núi, ngoại trừ sự gia tăng nào đó ở nông thôn thì tốc độ tăng trưởng chung thấp xa hơn các đô thị đáng kể. Xét theo vùng lớn, có tình trạng là vùng nào không có những đầu tàu công nghiệp - đô thị thực sự mạnh hoặc tương đối thiếu hơn ccác điều kiện phát triển sơ bộ kể trên nói chung đạt một tốc độ phát triển chỉ bằng 1/2 đến 2/3 tốc độ của các vùng khác. Sự so sánh giữa 2 vùng Bắc Trung Bộ và Đông Nam Bộ minh họa rõ hơn nhận xét đó. Vùng Đông Nam Bộ nói chung có những điều kiện thuận lợi hơn hẳn vùng Bắc Trung Bộ để đạt được tốc độ tăng trưởng cao hơn trong thời gian ngắn: có các trung tâm công nghiệp đô thị lớn và cực kỳ năng động như Thành Phố Hồ Chí Minh, Biên Hòa, Vũng Tàu, có cơ sở hạ tầng tốt hơn, điều kiện tự nhiên cho sự phát triển, từ đất đai, khí hậu cho đến khoáng sản đều thuận lợi hơn. Trong khi đó, vùng Bắc Trung Bộ, nếu xét toàn bộ, mặc dù có các thành phố Huế, Vinh và gần đây là Thanh Hóa với tư cách là những Trung tâm khu vực, rõ ràng vẫn thiếu những đô thị – công nghiệp đủ sức đóng vai trò là đầu tàu tăng trưởng của vùng. Điều kiện thiên nhiên không thuận lợi cho sự phát triển nông thôn dẫn tới chỗ dân nghèo, thiếu vốn phát triển, thiếu cơ sở hạ tầng. Bảng: Cơ cấu ngành của cả nước và của các vùng (%GDP) năm 1999: Tỷ phần của vùng trong GDP cả nước Công nghiệp trong GDP Nông, lâm nghiệp trong GDP vùng Xây dựng trong GDP của vùng Dịch vụ trong GDP của vùng Cả nước 22,08 28,75 7,65 41,68 Miền núi Tây Bắc 2,09 40,08 36,02 8,12 17,13 Đ.Bắc – Việt Bắc 8,56 14,13 39,15 11,02 40,16 Đ.Bằng sông Hồng 20,86 15,51 25,88 10,56 50,12 Bắc Trung Bộ 9,21 12,38 38,68 9,18 46,02 DHải miền Trung 8,05 14,07 34,75 8,02 48,02 Tây Nguyên 2,68 11,54 46,47 12,54 33,45 Đông Nam bộ 33,88 39,89 9,12 6,87 40,58 Tây nam bộ 19,56 11,31 51,02 4,38 38,08 (Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư, viện chiến lược phát triển) 1.2 Hình thành các khu công nghiệp tập trung, các vùng kinh tế trọng điểm. Các vùng kinh tế trọng điểm thường có sức thu hút vốn đầu tư lớn, do vậy vùng ngày càng phát huy được thế mạnh và tiềm năng của vùng, nền kinh tế có điều kiện phát triển mạnh hơn. Các vùng kinh tế trọng điểm đã phát huy được thế mạnh và tiềm năng của vùng. Hiện nay 3 vùng kinh tế trọng điểm đóng góp khoảng 50% GDP, trên 2/3 sản lượng công nghiệp, thu ngân sách và xuất khẩu. Cơ cấu kinh tế các vùng kinh tế trọng điểm đóng góp vào phát triển kinh tế chung của đất nước: Cơ cấu GDP của 3 vùng KTTĐ so với cả nước 1995 1999 Vùng KTTĐ phía Bắc 14,10% 13,8% Vùng KTTĐ phía Trung 4,10% 4,2% Vùng KTTĐ phía Nam 30,6% 31,1% Tổng 3 vùng 48,8% 49,1% Đầu tư giúp hình thành nên các khu công nghiệp, nhờ có đầu tư mà các khu vực có nguồn lực, có phương hướng phát triển kinh tế, các nhà máy được xây dựng…Như khu công nghiệp Dung Quất ở Quảng Ngãi, có nguồn tài nguyên dầu thô sẵn có, nhưng những năm trước, do không đủ điều kiện để xây dựng hệ thống, nhà máy khai thác nên vùng vẫn chỉ như là vùng đất bình thường, sau đó vào năm 1999 nhờ có sự đầu tư về công nghiệp, máy móc, cơ sở hạ tầng…Nhà máy lọc Dung Quất đã ra đời, hình thành nên khu công nghiệp Dung Quất phát triển, khai thác được tài nguyên của vùng. Khu công nghiệp Đồng Văn ở Hà Nam, 4 khu công nghiệp ở Đà Nẵng, 2 khu công nghiệp ở Thừa thiên Huế, khu công nghiệp Đồng Nai – Biên Hoà. Bảng: Tỷ trọng đầu tư theo vùng 2000 2001 2002 Tỷ trọng Đầu tư theo vùng giai đoạn 1991 – 2000(%) Tỷ trọng Đầu tư theo vùng giai đoạn 2001 – 2003(%) Cả nước 6,4 6,3 6,0 100 100 Tây Bắc 6,0 5,6 5,1 7,6 8,1 Bắc trung bộ 6,9 6,7 5,8 9,0 7,8 Tây Nguyên 5,2 5,6 4,9 2,6 5 ĐB Cửu Long 6,2 6,1 5,5 15,6 15,1 (Nguồn:Vụ quản lý các vùng, Bộ Kế hoạch đầu tư) 1.3 Thúc đẩy sự phát triển kinh tế các vùng, đặc biệt là vùng khó khăn. Nhờ nguồn vốn đầu tư, các vùng đã phát huy đực thế mạnh của mình, có điều kiện để khai thác sử dụng tài nguyên, giúp tăng trưởng kinh tế khu vực, có thể xem xét một số khu vực sau: Khu vực vực Đồng bằng Sông Hồng: Rộng khoảng 1,5 triệu ha, chiếm hơn 4,5% diện tích cả nước với một vùng biển bao quanh ở phía đông nam. Số dân của đồng bằng là 13,6 triệu người (1989), chiếm 21,1% dân số cả nước. Hiện tại cùng như trong tương lai, Đồng bằng sông hồng là một trong những vùng có ý nghĩa then chốt trong sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Đồng bằng sông hồng Có lợi thế về vị trí địa lý nơi tiếp xúc với bên ngoài của các tỉnh phía Bắc, nơi tiếp giáp với Đông Nam á và Bắc á, là trung tâm hàng đầu của đất nước. Đã thu hút được nguồn vốn đầu tư lớn thứ 2 trong cả nước. Vốn đầu tư phát triển cho vùng vào năm 1991 – 1995 là 26,9%; năm 1996 – 2000 là 25,5% tổng số vốn đầu tư phát triển của cả nước. Nguồn vốn đó đã được đầu tư vào các dự án: Phát triển dịch vụ, khoa học kỹ thuật, công nghệ thông tin, công nghiệp …thúc đẩy sự phát triển của khu vực . Khu vực miền núi phía Bắc: Có nhiều tài nguyên thiên nhiên phong phú là mái nhà xanh của Đồng Bằng Bắc Bộ, có nhiều đồi núi, sông ngòi. Tuy nhiên kinh tế Tây Bắc vẫn phát triển chậm so với nhiều vùng trong cả nước đang đứng trước nhiều khó khăn gay gắt, đời sống còn lạc hậu. Hiện nay nhà nước khuyến khích đầu tư vào khu vực này, nguồn đầu tư vào khu vực ngày càng nhiều hơn. Giai đoạn 1991 – 1995 vồn đầu tư phát triển cho vùng là 7,3%, giai đoạn 1996 – 2000 là 7,6% tổng vốn đầu tư phát triển của cả nước. Nhờ vậy, nhiều nhà máy, khu du lịch được xây dựng, phát triển dần nâng cao đời sống nhân dân, phát triển kinh tế, thu hút nhiều hơn nguồn vốn đầu tư (tốc dộ tăng vốn đầu tư bình quân hàng năm nhanh nhát là ở miền núi phía Bắc 19% năm, các vùng khác khoảng từ 15 – 17%). Khu vực Duyên Hải Miền Trung: Có nguồn đầu tư phát triển giai đoạn 1996 – 2000 là 11,6% tổng số vốn đầu tư phát triển của cả nước, đầu tư đảm bảo cho việc khai thác thiên nhiên,….và khu công nghiệp được hình thành và hoạt động có hiệu quả, nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế. Vùng Tây Nguyên: Tuy nguồn đầu tư vào vùng còn ít so với các khu vực khác, nhưng vẫn có xu hướng gia tăng vốn đầu tư. Từ 4,4% giai đoạn 1991 – 1995 đến 4,9% giai đoạn 1996 – 2000, đầu tư của Trung ương trên địa bàn vùng có tốc độ tăng rất lớn trong thời kỳ 1992 – 1994, đầu tư nước ngoài cũng đã tập trung ở Tây Nguyên ( 1995 có 23 dự án đầu tư nước ngoài). Nhờ những nguồn đầu tư này đã giúp cho vùng có điều kiện phát triển kinh tế, giao thông, thông tin, nhiều khu vực dân cư đã có điện, có ti vi…,thu ngân sách của vùng năm 1995 tăng 3,7 lần so với năm 1991.Thu nhập GDP/người thời kỳ 1990 – 1994 đã tăng từ 51 USD/người năm 1990 lên 166 USD/ người năm 1994. Tuy nhiên, nguồn đầu tư vào vùng còn là quy mô nhỏ, cơ sở hạ tầng vẫn còn yếu kém, chi nhiều hơn thu, cơ cấu kinh tế còn chậm đổi mới. Vùng còn khó khăn cũng có những tiến bộ khích lệ, mức sống của bộ phận đáng kể nông dân được nâng lên. Các chương trình hỗ trợ đầu tư của Chính phủ đã có tác động tích cực, theo con số tổng hợp sơ bộ, từ năm 1992 – 1998 tổng vốn ngân sách nhà nước hỗ trợ cho nhiệm vụ phát triển miền núi khoảng 3000 – 3200 tỷ đồng. Trong đó, vốn đầu tư cho chương trình quốc gia khoảng trên 500 tỷ đồng ( Cả thời kỳ 1986 – 1997 khoảng trên 800 tỷ đồng). Nhiều mặt kinh tế xã hội của miền núi đã có sự chuyển biến tốt, dân trí được nâng cao, hầu hết các xã miền núi có cơ sở y tế, trường học… Mức đóng góp vào GDP của cả nước của các vùng như sau: Đơn vị tính: % Cơ cấu vùng lãnh thổ GDP (%) 1990 1995 1999 Chuyển dịch cơ cấu vùng 10 năm 1991 – 2000 Chuyển dịch cơ cấu vùng 5 năm 1991 – 1995 Chuyển dịch cơ cấu vùng 5 năm 1996 - 2000 Tây Bắc 2,0% 1,5% 1,2% - 0,8 - 0,5 - 0,3 Đông Bắc 10,2% 7,4% 6,3% - 3,9 - 2,8 - 1,1 ĐB Sông Hồng 18,6% 20,5% 20,3% + 1,7 + 1,9 - 0,2 Khu 4 9,1% 9,1% 7,8% - 1,3 0,0 - 1,3 DH miền Trung 8,4% 9,0% 8,2% - 0,2 - 0,4 + 0,2 Tây Nguyên 3,2% 2,8% 3,6% + 0,4 - 0,4 + 0,8 Đông Nam Bộ 24,6% 31,5% 32,3% + 7,7 + 6,9 + 0,8 ĐBS Cửu Long 23,8% 19,2% 20,2% - 3,6 - 4,9 + 0,1 Như vậy, trong các năm qua chúng ta đã cố gắng tập trung đầu tư để phát triển các vùng, đặc biệt là khu vực khó khăn. Một số Định hướng phát triển vùng – lãnh thổ: Thứ nhất, Để đảm bảo tốc độ tăng trưởng dự kiến của toàn bộ nền kinh tế- một tốc độ thực sự là rất cao, trong điều kiện sức tăng trưởng không đều giữa các địa phương nên cần tập trung đầu tư để nâng tốc độ tăng trưởng của những vùng, địa phương có điều kiện thuận lợi hơn lên cao hơn tốc độ tăng trưởng bình quân của cả nước, thậm chí, có thể đến 2 lần, để bù lại cho những vùng khó có khả năng đạt tốc độ tăng trưởng cao. Hiện nay, những địa chỉ tăng trưởng cao này cũng đã được xác định và nói chung là hợp lý. Đó là các tam giác tăng trưởng như Hà nội- Hải phòng- Quảng ninh; Thành phố Hồ Chí Minh- Biên hòa- Vũng tàu và tuyến tăng trưởng miền trung Liên chiểu- Đà nẵng- Dung quất. Có ý nghĩa là trong giai đoạn tới, về mặt khách quan, phải chấp nhận tình huống phát triển không cân bằng giữa các vùng, các địa phương. Đây là điều kiện bắt buộc để đạt mục tiêu tăng trưởng cao chung của toàn bộ nền kinh tế. Vả lại, về mặt khách quan, sự khác nhau về trình độ xuất phát giữa các vùng qui định rằng trong tương lai gần, mức độ tích lũy và thu hút vốn đầu tư, đặc biệt là vốn đầu tư nước ngoài, giữa các vùng. Đây là luận cứ chủ yếu xác định tính hợp lý của sự lựa chọn phương án phát triển không cân bằng giữa các vùng dể đạt mục tiêu tăng trưởng dặt ra cho giai đoạn tới. Thứ hai, Việc tập trung đầu tư quá mức vào một số vùng , địa phương luôn luôn dẫn đến tình trạng phát triển mất cân đối giữa chúng. Hiện nay, chưa ai đo lường được chính xác mức độ tác động của tình trạng này đến mục tiêu tăng trưởng dài hạn của nền kinh tế. Song, điều rõ ràng là nó chứa đựng khả năng làm giảm hiệu quả phát triển kinh tế- xã hội nói chung, song song với việc tập trung đầu tư theo địa bàn như trên để đáp ứng mục tiêu tăng trưởng cao mang tính ngắn và trung hạn, cần có chiến lược đầu tư để tận dụng tối đa lợi thế phát triển của từng vùng. Trong quan điểm dài hạn, không nên kéo dài tình trạng chênh lệch phát triển quá mức giữa các vùng, địa phương. Gẩi quyết vấn đề này đòi hỏi phải tạo ra các điều kiện cơ bản để giảm dần sự chênh lệch về khả năng và cơ hội hấp dẫn đầu tư giữa các địa phương. Thứ ba, Đây là điểm tổ hợp cả hai điểm trên và liên quan trực tiếp đến sự lựa chọn cơ cấu ngành đã nêu ở trên, lựa chọn cơ cấu ngành phát triển cho từng vùng. Trước hết, cần thấy rõ quan điểm tăng trưởng với tốc độ chênh lệch giữa các vùng trong giai đoạn tới có liên quan về lôgic với định dạng cơ cấu ngành tổng quát. Các vùng- địa phương mà nông nghiệp- nông thôn chiếm tỷ trọng áp đảo trong cơ cấu, thiếu các đầu tàu tăng trưởng mạnh là các đô thị- công nghiệp cần và buộc phải chấp nhận một tốc độ tăng trưởng tương đối thấp hơn. Còn các địa phương- vùng công nghiệp- đô thị có thể và cần được quan tâm đầu tư đẻ dạt tốc độ tăng trưởng cao hơn hẳn. Mặt khác, xuất phát từ cách nhìn dài hạn, việc nâng dần tốc độ tăng trưởng của những đại phương- vùng hiện đang ở điểm xuất phát thấp và tốc độ tăng trưởng chậm hơn cần dựa trên cơ sở một chiến lược cơ cầu ngành hợp lý của riêng mình và trên cơ sở hình tàhnh những trung tâm tăng trưởng mạnh là các đô thị – Công nghiệp để đóng vai trò xung lực của tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu ngành của đại phương – vùng. Nếu không làm được điều đó, khó tránh khỏi sự chênh lệch phát triển quá đáng giữa các vùng địa phương. Hậu quả tất yếu là nền kinh tế nói chung không thể đạt được tốc độ tăng trưởng cao lâu bền, mục tiêu công bằng trong mô hình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xẫ hội chủ nghĩa. IV. Thực trạng đầu tư theo thành phần kinh tế Cơ cấu GDP theo thành phần kinh tế đã thay đổi đáng kể. Khu vực kinh tế nông nghiệp trong những năm gần đây đã có sự giảm liên tục, năm 1995 khu vực này chiếm tỷ trọng là40,18%, đến năm 2000 là 38,53%, năm 2001 là 38,4% và đến ,,,,, còn 38,31%. Cũng như vậy, khu vực kinh tế tập thể tiếp tục có sự suy giảm từ 10,6% năm 1995 xuống 8,5% năm 2000, năm 2001 là 8,06% và vào năm 2002 còn 7,98%. Khu vực kinh tế tư nhân lại có chiều hướng tăng lên từ 3,12% năm 1995 lên 3,38% năm 2000 và vào 2 năm 2001, 2002 là 3,73%và 3,93%. Con số này trong 4 năm 1995, 2000, 2001, 2002 của khu vực kinh tế cá thể là: 36,02%, 32,31%, 31,84%, 31,42%. Cũng qua 4 năm này, khu vực kinh tế hỗn hợp giàm từ 4,32% năm 1995 xuống còn 3,92% năm 2000, tuy nhiên 2 năm 2001, 2002 lại tăng từ 4,22% lên 4,45%. Trong khi đó, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài lại có sự gia tăng nhanh chóng từ 6,3% năm 1995 lên tới 13,3% năm 2000, 2 năm tiếp sau đó, tỷ trọng của khu vực này vẫn tăng lên nhưng mức độ tăng không còn nhiều như trước, chỉ từ 13,75% lên 13,9%. Chúng ta có tốc độ tăng trưởng kinh tế các năm từ 1990 – 2003 như sau: 1990 1995 2000 2003 Tốc độ tăng GDP bình quân các năm ( 1990 – 1995); (1996 – 2000); (2001 – 2003)% 4,4 8,2 6,9 7,1 Tốc độ tăng GDP bình quân các năm 1990 – 2003% 6,12 ( Nguồn: Viện kế hoạch và phát triển, Bộ kế hoach đầu tư) Như vậy, quá trình đổi mới đã chứng kiến sự thay đổi mạnh mẽ giữa các thành phần kinh tế. Kinh tế nhà nước vẫn chiếm vị trí chủ đạo trong nền kinh tế nhưng tỷ trọng của thành phần này trong GDP đang có xu hướng giảm dần. Thời kì này đánh dấu sự phát triển nhanh chóng của khu vực kinh tế có vốn đàu tư nước ngoài và kinh tế tư nhân. 2 khu vực này có tốc độ tăng trưởng nhanh chóng và ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong GDP. Thể hiện ngày càng rõ vai trò quan trọng của mình. Điều này thể hiện chính sách đúng đắn của Đảng và nhà nước trong việc mở cửa nền kinh tế, khuyến khích mọi cá nhân tham gia hoạt động kinh tế. Ngược lại, thành phần kinh tế hợp tác xã, lại có xu hướng giảm dần, phản ánh sự đầu tư chưa đúng mức và tổ chức chưa phù hợp với điều kiện biến đổi của nền kinh tế. Tuy nhiên, khu vực này cũng đã có sự đóng góp không nhỏ vào GDP chung và góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Kinh tế nhà nước chuyển dịch theo hướng sắp xếp lại và đổi mới. Khu vực kinh tế nhà nước sau thời gian bị chao đảo khi chuyển sang cơ chế thị trường đã sớm được phục hồi và phát triển có hiệu quả hơn. Các doanh nghiệp nhà nước đảm nhiệm những sản phẩm và dịch vụ quan trọng có tác động trực tiếp đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực của nềm kinh tế quốc dân, nhất là trong công nghiệp, cơ sở hạ tầng và tài chính tín dụng. Đã củng cố tổ chức và sắp xếp lại các tổng công ty theo quyết định 91 TTg và các Tổng công ty theo quyết định 90 TTg với hàng nghìn các đơn vị thành viên, chiếm phần lớn tài sản, vốn liếng trong khối doanh nghiệp nhà nước. Hoạt động của các tổng công ty có tác dụng hỗ trợ và giúp cho các doanh nghiệp thành viên về vốn, công nghệ, thiết bị, thị trường để duy trì và phát triển sản xuất, kinh doanh, tăng sức mạnh trong cạnh tranh, trong đấu thầu,….Các tổng công ty đã thựuc hiện việc liên kết về hành chính, nghiệp vụ quản lý, mở rộng thị trường và hỗ trợ kỹ thuật cho các đơn vị thành viên. Một số tổng công ty thống nhất cả về điều hành xuất, nhập khẩu, quản lý thống nhất vốn đầu tư, đổi mới công nghệ như tổng công ty than, tổng công ty xi măng, tổng công ty tàu biển… Đến cuối năm 1999 toàn quốc có 370 DNNN được chuyển thành công ty cổ phần, trong đó các bộ phận quản lý 69 doanh nghiệp, các tổng công ty quản lý 28 doanh nghiệp và các địa phương quản lý 273 doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cổ phần hoá đang hoạt động tốt, nhiều chỉ tiêu kinh tế cơ bản đều tăng: 1998 so với năm 1997 vốn tăng 3,1%, doanh thu tăng 133,5%, lợi nhuận sau thuế tăng 131%, các khoản nộp ngân sách tăng 153%, lao động tăng 9%, thu nhập bình quân tăng 29% và giá trị cổ tức dặt bình quân 2,6%/tháng, cao gần gấp 3 lần lãi suất tiền gửi ngân hàng. Tỷ trọng đóng góp của thành phần kinh tế nhà nước giảm từ năm 1994 đến nay tăng lên và ổn định ở mức trên dưới 40% GDP cụ thể là: Năm %GDP 1994 40,12 1995 40,20 1996 39,90 1997 40,50 1998 40,20 2000 40,20 Kinh tế dân doanh, kinh tế hợp tác và các thành phần kinh tế khác ngày càng có sự đóng góp đáng kể vào GDP. Kinh tế hợp tác sau thời kì dài bị suy giảm, bước đầu được tổ chức lại theo luật hợp tác xã mới, có tác dụng tích cực. Nhiều hợp tác xã hoạt động có hiệu quả trên cơ sở góp cổ phần và lao động trực tiếp của xã viên, phân phối theo kết quả lao động và theo cổ phần thực hiện nguyên tắc tự nguyện và cơ chế quản lý dân chủ, công khai về tài chính và kinh doanh. Một số mô hình liên kết giữa hợp tác xã nông nghiệp và các cơ sở chế biến đã ra đời. Do trong nền kinh tế hiện nay thành phần kinh tế hợp tác xã không còn hấp dẫn, nên số người tham gia hợp tác xã giảm dần, do đó tỷ trọng đóng góp của thành phần kinh tế hợp tác xã bị liên tục suy giảm trên phạm vị toàn quốc từ 10,06% năm 1995 xuống còn 7,98% năm 2002. Mặc dù vậy thành phần kinh tế hợp tác xã vẫn đóng góp 1 phần đáng kể vào GDP. Kinh tế cá thể tiểu chủ trong các lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp, tiểu chủ công nghiệp và dịch vụ thương mại phát triển nhanh, đã góp phần quan trọng vào các thành tựu kinh tế xã hội. Nhà nước đã có nhiều chính sách khuyến khích phát triển thành phần kinh tế này, nhiều ngành và địa phương đã giải quyết các khó khăn về vốn, công nghệ, thị trường và kinh nghiệm quản lý nhằm tạo môi trường thuận lợi để mở rộng sản xuất, kinh doanh và nâng cao hiệu quả kinh tế. Cũng như kinh tế hợp tác tỷ trọng thành phần kinh tế cá thể tiểu chủ trong GDP cũng có chiều hướng suy giảm từ 1995 đến nay cụ thể là: Năm GDP 1995 36,02% 2000 32,3% 2001 31,84% 2002 31,42% Khu vực kinh tế tư nhân trong nước được hình thành và ngày càng mở rộng phạm vi hoạt động trong rất nhiều lĩnh vực của nền kinh tế, hiện nay khu vực này đang được khuyến khích phát triển không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm. Hàng vạn doanh nghiệp tư nhân, công ty THHH ra đời với quy mô vừa và nhỏ là chủ yếu, nhưng cũng có Một số doanh nghiệp có quy mô tương đối lớn, sử dụng nhiều lao động. Hoạt động của khu vực kinh tế tư nhân ngày càng được mở rộng nên tỷ trọng đóng góp của thành phần kinh tế tư nhân trong GDP phát triển liên tục nhưng vẫn ở mức độ thấp. Cụ thể là: Năm GDP 1995 3,12% 2000 3,38% 2001 3,73% 2002 3,93% Trong đó không chỉ tăng đối với tư nhân nước ngoài mà phát triển cả đối với tư nhân trong nước. Kinh tế hỗn hợp bao gồm các hình thức hợp tác, liên doanh giữa kinh tế nhà nước với tư nhân trong nước và tư nhân nước ngoài đang phát triển mạnh nhờ công nghệ mới, kỹ thuật sản xuất tiên tiến, đã và đang sản xuất ra nhiều loại sản phẩm có sức cạnh tranh, thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH – HĐH. Tỷ trọng khu vực kinh tế này trong GDP đã tăng khá nhanh từ 10,78% năm 1995 tăng lên 13,4% năm 2000; Trong đó khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã góp phần trên 10% vào tăng trưởng kinh tế, tạo thêm 1 số mặt hàng mới, công nghệ mới, tăng thêm sức cạnh tranh của sản phẩm, thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH – HĐH. Khu vực kinh tế nhà nước chiếm đại bộ phận trong các ngành quan trọng Doanh nghiệp nhà nước giữ vị trí then chốt. Thứ nhất: Doanh nghiệp nhà nước vẫn nắm những ngành công nghiệp then chốt của nền kinh tế quốc dân như sản xuất giấy, hoá chất, cơ khí chế tạo, chế biến, dệt may. Thứ hai: Trong các doanh nghiệp nhà nước, máy móc trang thiết bị được đổi mới theo hướng HĐH bằng đầu tư chiều sâu dựa vào nguồn vốn đầu tư của nhà nước và vốn tự có của doanh nghiệp là chính. Thứ ba: Có đội ngũ cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề đông về số lượng, đồng bộ về ngành nghề và khá về chất lượng. Thứ tư: Doanh nghiệp nhà nước có vị trí hàng đầu trong đóng góp vào nguồn thu của ngân sách nhà nước hàng năm (trên 40%). Theo kết quả điều tra doanh nghiệp nhà nước 1/1/2003 thì trong năm 2002 doanh nghiệp nhà nước chỉ chiếm 8% về số doanh nghiệp nhưng chiếm 41,6% về số lao động; 55,9% về số vốn; 49,4% về doanh thu và chiếm 46,1% về tổng số nộp ngân sách của tất cả các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế. Qua những số liệu trên mặc dù số lượng DNNN giảm nhưng DNNN vẫn giữ được vị trí theo chốt của mình và vẫn khẳng định được vai trò quan trọng của mình trong sự đóng góp vào GDP. Khả năng cạnh tranh thấp. Khu vực kinh tế nhà nước chiếm đại bộ phận trong các ngành quan trọng, giành vị trí có lợi nhất trong kinh doanh và được hưởng nhiều ưu đãi của nhà nước nhưng hiệu quả kinh doanh kém, chưa thể hiện vai trò làm chủ trong nền kinh tế quốc dân, số doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ còn quá lớn, đó là điều đáng lo ngại. Các chính sách ưu đãi cho khu vực kinh tế nhà nước, thực chất là “ Tại bao cấp”, làm cho khả năng vươn lên của khu vực này bị hạn chế, tính năng động kém. Tiến dộ thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp còn chậm, chưa tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ về cơ chế huy động vốn và phát huy đúng lúc trong công cuộc đổi mới DNNN. Chủ yếu là do lãnh đạo các ngành và các doanh nghiệp chưa nhận thức đầy đủ có ý nghĩa của chủ trương cổ phần hoá, lo ngại bị ảnh hưởng đến quyền lợi, chưa yên tâm về hiệu quả nên chần chừ do dự, né tránh, sợ trách nhiệm, e ngại chệch hướng…Mặt khác, phương pháp đánh giá tài sản doanh nghiệp trong điều kiện chưa có thị trường vốn còn nhiều bất cập. Việc thí điểm bán cổ phần cho người nước ngoài chưa đợc hướng dẫn cụ thể. Những điều này đã làm cản trở khả năng hoạt động của khu vực này. Khu vực kinh tế hợp tác chậm được củng cố và phát triển, Các chính sách khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế chỉ dừng lại ở những Chỉ thị, Nghị quyết chưa thực hiện sự đi vào cuộc sống, còn có nhiều phân biệt đối xử đối với các thành phần kinh tế ngoài khu vực nhà nước làm cho các thành phần kinh tế chưa phát huy nội lực, chưa thực sự khuyến khích mọi thành phần kinh tế và hạn chế kết quả thu hút đầu tư nước ngoài. Việc phát huy và khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển còn chậm, hiệu quả thấp. Các chính sách vĩ mô một mặt chưa triển khai đồng bộ, mặt khác chưa đủ sức hấp dẫn để các tầng lớp dân cư bỏ vốn vào đầu tư. Chương III. Các Giải pháp Qua những phân tích, đánh giá ở trên chúng ta nhận thấy rằng hoạt động đầu tư trong việc chuyển dịch cơ cấu ở Việt Nam đã và đang có những thành tựu đáng kể, góp phần không nhỏ vào việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển và thực hiện các mục tiêu đã đề ra. Tuy nhiên cũng phải thẳng thắn thừa nhận rằng đầu tư không phải lúc nào cũng đem lại hiệu quả. Sự đầu tư dàn trải, manh mún, không đúng nơi, đúng chỗ sẽ kéo theo sự phát triển chậm chạp, dậm chân tại chỗ của các ngành, vùng, thành phần kinh tế hay thậm chí còn gây ra sự phản tác dụng. Điều này sẽ làm tổn hại đến nền kinh tế, gây thất thoát vốn đầu tư và làm giảm lòng tin của nhân dân vào các chính sách của Đảng. Từ thực trạng đó đòi hỏi phải có các giải pháp nhằm khắc phục những mặt hạn chế của đầu tư. Vì vậy chúng tôi xin đưa ra một số giải pháp sau: Cải thiện môi trường đầu tư. Đây là 1 điều kiện rất quan trọng nhằm thúc đẩy các cá nhân, doanh nghiệp tham gia vào hoạt động đầu tư. Trong tình hình điều kiện ngân sách nhà nước eo hẹp, không thể đủ trang trải cho mọi lĩnh vực đầu tư thì nguồn vốn ngoài ngân sách đóng một vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế. Chính vì vậy việc làm thế nào để thu hút được nhiều vốn đầu tư không thể không cần đến sự hỗ trợ của nhà nước về các mặt sau: Hoàn thiện môi trường pháp lý. + Cần nghiên cứu xây dựng văn bản pháp quy có tính pháp lý cao hơn các văn bản pháp lý hiện hành (luật hay pháp lệnh về quản lý vay nợ và viện trợ nước ngoài), đồng thời sớm sửa đổi các quy chế, quy định của chính phủ liên quan đến việc thực hiện các chương trình, dự án đầu tư ( các nghị định về quản lý đầu tư và xây dựng quy chế đấu thầu, đền bù, giải phóng mặt bằng …) để làm giảm bớt bất cập nhằm đẩy nhanh tiến độ triển khai thực hiện và hiệu quả sử dụng vốn của các chương trình, các dự án đầu tư. + Xây dựng cơ chế tạo nguồn vốn dự phòng cho ngân sách nhà nước dành riêng cho dự án đầu tư nhằm đáp ứng kịp thời nguồn vốn cho chuẩn bị dự án, giảm bớt tính bị động trong điều hành vốn. + Ban hành bổ sung một số văn bản quản lý về cơ chế thẩm định giá, định mức chi tiêu, phí tư vấn đối với cơ quan tư vấn trong và ngoài nước, quy chế kiểm tra, kiểm toán đối với các dự án đầu tư. + Có cơ chế thực thi để tăng cường quản lý các công trình, dự án sử dụng vốn vay nước ngoài, quy định bắt buộc việc đánh giá công trình dự án đầu tư hiệu quả mang lại sau khi đã hoàn thành. Nâng cao chất lượng quy hoạch và sử dụng đồng vốn để tạo môi trường ổn định cho đầu tư. + Quy hoạch cần hướng việc huy động vốn theo từng nhà tài trợ trên cơ sở dự báo hạn mức, cơ cấu, điều kiện của mỗi nhà tài trợ. Bên cạnh đó cũng phải cân đối với các nguồn lực khác và khả năng hấp thụ của nền kinh tế. + Quy hoạch sử dụng đồng vốn theo định hướng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, xoá đói giảm nghèo và đạt được các chỉ tiêu xã hội khác, việc xây dựng quy hoạch và sử dụng đồng vốn còn phải dựa trên cơ sở xác định phát triển ngành, vùng, lãnh thổ và thành phần kinh tế trong từng giai đoạn. Tổ chức thực hiện và theo dõi quy hoạch một cách có hiệu qủa, lựa chọn các chương trình, dự án đầu tư sử dụng đồng vốn không chỉ có hiệu quả về mặt tài chính, mà còn phải xét tới tác động đối với nghĩa vụ nợ phải trả trong tương lai và ngân sách, danh mục trả nợ của nhà nước. Tăng cường hiệu lực trong tổ chức quản lý và điều hành. Tổ chức quản lý và điều hành trong đầu tư rất quan trọng, nếu để cho đầu tư ồ ạt mà không quản lý thì sẽ dẫn đến việc nợ trong nước và nước ngoài ngày càng cao và đầu tư không đúng hướng vào các lĩnh vực, ngành, thành phần kinh tế làm cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế sẽ chậm hoặc là có xu hướng giảm xuống. Vì vậy phải có các tổ chức quản lý và điều hành trong các dự án đầu tư. + Công tác quản lý nợ nước ngoài nói chung và quản lý dự án đầu tư nói riêng cần được đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ chính trị, Ban Bí thư và Thủ tướng chính phủ. Đồng thời cần thống nhất trong công tác quản lý tài chính, nguồn vốn của chính phủ vào một đầu mối nhằm theo dõi quản lý, tổng hợp tình hình và hiệu quả sử dụng đồng vốn theo đúng quy định của luật ngân sách nhà nước. Nhà nước có thể giám sát và quản lý trên phương diện vĩ mô các hoạt động của chủ đầu tư. + Nâng cao tính tự chủ và vai trò trách nhiệm của chủ đầu tư. Chủ đầu tư có quyền quyết định lĩnh vực đầu tư phù hợp với quy hoạch phát triển của ngành hay của địa phương, đồng thời chủ đầu tư phải chịu trách nhiệm về hiệu quả của dự án. + Báo cáo nghiên cứu khả thi dự án đầu tư là căn cứ để đàm phán, ký kết hợp đồng dự án đầu tư. Do vậy chỉ ký kết hợp đồng dự án đầu tư sau khi báo cáo nghiên cứu khả thi dự án được duyệt, vừa đảm bảo việc triển khai dự án. Tuân thủ quyết định đầu tư, vừa tránh được dự án phải trả phí cam kết khống. + Thành lập các công ty tư vấn cấp quốc gia về đánh giá các chương trình, dự án và mua sắm quốc tế nhằm tăng cường hiệu quả quản lý của nhà nước về đầu tư, tiếp tục đơn giản hoá thủ tục hành chính. Cần rà soát và loại bỏ các thủ tục rườm rà và tổn phí thời gian trong các khâu phê duyệt dự án, ký kết hợp đồng theo hướng đơn giản hoá các giấy tờ và cấp trung gian xử lý. Ban hành quy chế theo dõi, kiểm tra và đánh giá dự án ( trước, trong và sau khi kết thúc dự án đầu tư ). Nâng cao nhận thức và mở rộng quan hệ đối tác tài trợ + Việt Nam cần khẳng định và thể hiện sự quan tâm đổi mới và cải cách để tranh thủ sự đồng tình của các tổ chức tài chính Quốc tế và Chính phủ bạn. Tăng cường các hình thức vận động tài trợ khác nhau như: Hội nghị nhóm tư vấn các nhà tài trợ (Hội nghị C.G), hội nghị tư vấn tài trợ ngành, hội nghị đối tác, uỷ ban liên chính phủ. + Cần tiếp tục phát triển quan hệ đối tác giữa các bên và nâng cao quan hệ này lên một bước phát triển mới cao hơn, trên cơ sở quan tâm và lợi ích chung của tất cả các bên tham gia với việc đề cao vai trò làm chủ của bên hưởng thụ. + Tăng cường trao đổi thông tin và đối thoại giữa các nhà tài trợ với cơ quan Việt Nam để cùng phân tích đánh giá tình hình phát triển của Việt Nam nói chung cũng như trên một số lĩnh vực cụ thể. Đồng thời quan tâm đến công khai hoá và minh bạch chính sách, chế độ tiến tới hài hoà các thủ tục, giảm bớt các cản trở đối với các luồng vốn đầu tư nước ngoài. Đầu tư thích đánh và có các chính sách ưu đãi đối với các vùng, lĩnh vực, thành phần kinh tế có nhiều khó khăn. Trong điều kiện hiện tại, khu vực các thành phố lớn vẫn là trung tâm phát triển công nghiệp. Vùng này dân số chỉ chiếm khoảng 14% nhưng đã thu hút hơn 70% vốn đầu tư tư nhân. Do vậy trong thời gian tới việc huy động vốn đầu tư cần thực hiện theo hướng mở rộng liên kết với các tỉnh lân cận, hình thành các vùng kinh tế trọng điểm có khả năng phát triển và có lợi thế so sánh trên thị trường quốc tế. Bên cạnh phát triển các vùng kinh tế trọng điểm đó cần phải chú trọng và đầu tư đối với các vùng, lĩnh vực, thành phần kinh tế có nhiều khó khăn, tạo điều kiện cho các vùng nghèo khó có cơ hội phát triển. Đối với những ngành, lĩnh vực có khó khăn, vùng sâu xa: Như vùng núi phía bắc, Tây nguyên, miền Trung nên có chính sách ưu đãi cởi mở hơn thu hút đầu tư của tư nhân vào những vùng đó hiệu quả hơn, huy động vốn dân doanh. Những vùng này có điều kiện cơ sở hạ tầng rất yếu kém, thêm vào đó là sự đầu tư vào những vùng này rất hạn chế. Chính sự đầu tư hời hợt này càng làm hạn chế sự phát triển kinh tế của các vùng này. Điều này đòi hỏi nhà nước và từng vùng phải có các chính sách cởi mở hơn, ủng hộ để khuyến khích đầu tư. Trong khu vực nông nghiệp, do đặc thù của ngành là có nhiều rủi ro vì phụ thuộc vào thời tiết thời gian thu hồi vốn lâu nên không hấp dẫn đối với các nhà đầu tư. Do đó phải có chính sách ưu đãi, ưu tiên cho khu vực này như giảm thuế, hỗ trợ bằng chính sách hỗ trợ giá… Tạo ra sự cạnh tranh bình đẳng trong việc huy động vốn giữa các thành phần kinh tế, có các chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế, đa dạng hoá đầu tư. Cần có các chính sách phù hợp để tạo vốn trong vùng, đây là nguồn vốn có ý nghĩa quyết định về lâu dài, đảo bảo đủ năng lực nội tại để đón nhận, lựa chọn và tham gia bình đẳng trong quan hệ hợp tác, đầu tư với nước ngoài. Để tạo ra nguồn vốn cho tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế cần phải huy động tổng lực các nguồn: Vốn từ ngân sách, vốn từ quỹ đất đai, vốn từ dân và các doanh nghiệp, vốn vay và nơi khác đầu tư, thuê mua tài chính, thu hút đầu tư nước ngoài, nguồn vốn ODA, vay nước ngoài. Để tranh thủ các nguồn vốn này, cần phải có những chính sách phù hợp. Đó là tăng ngân sách đầu tư trên cơ sở tăng nguồn thu thuế và lệ phí bằng cách khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư sản xuất kinh doanh, nuôi dưỡng nguồn thu. Tạo ra sự cạnh tranh bình đẳng trong việc huy động vốn giữa các thành phần kinh tế để từ đó khuyến khích các thành phần đó phát triển. Đổi mới cơ cấu gắn với nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. - Tháo gỡ mọi trở ngại về cơ chế, chính sách để huy động tối đa mọi nguồn lực Cần tạo lòng tin cho người dân yên tâm bỏ vốn ra đầu tư sản xuất kinh doanh bằng cách nhà nước tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi và hỗ trợ thuế và lãi suất tín dụng cho đầu tư phát triển, thủ tục đơn giản. Hiện nay, việc huy động vốn của nước ta rất phức tạp, không tạo sự yên tâm cho cá nhân và tổ chức. Chính điều đó đã làm cho việc thiếu vốn trầm trọng của các doanh nghiệp trong nước, có đến 55% doanh nghiệp là thiếu vốn. - Đổi mới và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Cần có các chính sách sử dụng vốn của toàn xã hội có hiệu quả, nâng cao cơ sở vật chất và trình độ công nghệ nhằm thực hiện có kết quả các mục tiêu kinh tế – xã hội, coi trọng việc huy động mọi khả năng nguồn vốn để phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đồng thời đẩy nhanh hơn việc tích tụ tập trung các nguồn vốn trong và ngoài nước vào những ngành mũi nhọn và các khu vực trọng điểm, tạo ra sức bật nhanh cho toàn bộ nền kinh tế. Dành đầu tư thích đáng cho xây dựng kết cấu hạ tầng để khôi phục tình trạng thiếu thốn và lạc hậu về cơ sở hạ tầng. Tăng nhanh vốn đầu tư cho đổi mới cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn. mở rộng đầu tư đổi mới công nghệ để thu hẹp dần sự chênh lệch so với các trung tâm kinh tế lớn và giữa các tỉnh 5. Tăng cường công tác quy hoạch và dự báo. Các cơ quan quản lý phải làm tốt chức năng quản lý của mình. Biết dự báo các khả năng có thể xẩy ra trong tương lai, các thông tin phải luôn được cập nhật để có thể ngăn ngừa và giảm thiểu những hậu quả xấu đối với nền kinh tế. Dự báo để nhằm giảm dần sự can thiệp trực tiếp vào các hoạt động kinh tế vi mô. Nắm vững đặc điểm của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế để quy hoạch cho hợp lý, thể hiện ở 3 khía cạnh: Một là: Chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường. Hai là: Chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp, thực hiện tiến trình công nghiệp hoá, mục tiêu 2020 cơ bản trở thành một nước có nền công nghiệp tiên tiến. Ba là: Chuyển từ nền kinh tế sản xuất ở mức độ thấp, lạc hậu, từng bước xây dựng nền kinh tế tri thức, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.Trong điều kiện của chúng ta hiện nay phải thực hiện đồng thời cả 3 quá trình này. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý trước hết phải được xây dựng trên cơ sở lợi thế so sánh của đất nước, của địa phương và phải gắn với quy hoạch vùng, lãnh thổ, các thành phần kinh tế đặc biệt là quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội thống nhất 0giữa các khu vực và các ngành trên đại bàn. Phải tính đến yêu cầu hội nhập khu vực và thế giới. Trong dài hạn, nên xây dựng những công trình quy hoạch, đầu tư có quy mô lớn, tập trung vào những ngành, những vùng, những khu vực có tác động mạnh mẽ đến tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hiện đại hoá sản xuất và tạo công ăn việc làm. Kết hợp vốn đầu tư trong nước và nước ngoài. Tỷ lệ vốn FDI thu hút vào lĩnh vực sản xuất vật chất, kết cấu hạ tầng kinh tế tăng từ 62% năm 95 lên 85% năm 2000. Vốn đầu tư từ bên ngoài có vị trí rất quan trọng nhất là khi nguồn tích luỹ trong nước còn thấp. Thu hút đầu tư từ bên ngoài không chỉ để tạo vốn mà còn là cơ hội để đổi mới công nghệ, đào tạo cán bộ kỹ thuật, lao động, quản lý hiện đại và mở rộng thị trường. Vì vậy cần phải có các chính sách ưu đãi để tăng sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Mục tiêu phát triển giai đoạn tới Việt Nam phải sẵn sàng bước vào nền kinh tế toàn cầu với tư thế chủ động, giữ vững ổn định và bảo vệ chủ quyền độc lập. Vì vậy, ngoài chính sách thu hút vốn đầu tư của nước ngoài thoả đáng thì cần tập trung vào khai thác nguồn nội lực. Dự kiến trong 5 năm từ 2001 – 2005, nguồn vốn trong nước sẽ chiếm khoảng từ 60 – 70% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Vồn đầu tư nước ngoài sẽ chỉ chiếm từ 30 – 40%. Với quan điểm như vậy, đầu tư trong giai đoạn tới sẽ có điểm tựa vững vàng để khai thác tối đa mọi nguồn lực, hấp thụ có hiệu quả nguồn ngoại lực và tạo sự kết dính giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội. Coi trọng quan hệ cung cầu của nền kinh tế thị trường, có tính đến yếu tố hiệu quả của nền kinh tế, nhận biết các tín hiệu do cung cầu thị trường, tránh đầu tư theo phong trào. Trong quá trình xây dựng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý phải coi trọng các yếu tố thị trường. Hoạt động đầu tư nên cải tiến theo hướng thu hẹp phạm vi đầu tư dựa trên những quy định hành chính của cơ quan nhà nước. Mở rộng phạm vi đầu tư do các tổ chức sản xuất kinh doanh lựa chọn trên cơ sở định hướng của nhà nước và thực tiễn vận động của thị trường. Các dự án nên tập trung làm tốt khâu nghiên cứu thị trường. Xác định khả năng cung ứng và nhu cầu tiềm năng nhằm tránh trường hợp mất cân đối cung cầu ảnh hưởng đến tình hình đầu tư và sản xuất như một số mặt hàng trong thời gian qua, dẫn đến các tác động tiêu cực làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế. Các cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực đầu tư không nên can thiệp quá sâu vào hoạt động đầu tư cụ thể mà tập trung làm tốt việc dự báo, cung cấp thông tin kinh tế, định hướng đầu tư. Phải biết phân tích và đánh giá các dự án đầu tư, để biết được đầu tư có hiệu quả hay không. Nhà nước phải dự báo và phân tích các thông tin kịp thời, kịp lúc để các nhà đầu tư có thể nhận biết được sự thay đổi của thị trường. Đầu tư theo phong trào là một việc làm rất nguy hiểm có thể dẫn đến sự phá sản hàng loạt của các doanh nghiệp. Chính điều đó sẽ làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế bị chậm lại. Vì vậy cần phải tránh đầu tư theo phong trào để có thể tránh những hậu quả xấu do nền kinh tế thị trường mang lại. Đảm bảo sự phát triển hợp lý giữa các vùng, có mối liên kết giữa các vùng. Giữa các vùng, khi xây dựng, chuyển dịch kinh tế phải đảm bảo sự chuyển dịch giữa chúng có sự đồng bộ, cân đối và phát huy được lợi thế so sánh của từng vùng, tạo điều kiện cho các vùng nghèo khó có cơ hội phát triển. Tuy nhiên, để tạo thế và lực trong phát triển, cần xây dựng một số vùng kinh tế trọng điểm (Không nên dàn trải làm phân tán nguồn lực). Giữa các vùng vừa liên kết, thúc đẩy hỗ trợ nhau cùng phát triển. Thực hiện tốt chính sách dân số phát triển, giải quyết việc làm cho người lao động là biện pháp quan trọng để nâng khả năng tích luỹ nhằm phát triển kinh tế.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docDA176.doc
Tài liệu liên quan