Tài liệu Đề tài Tìm hiểu tổ chức lưu thông phân bón vô cơ theo cơ chế thị trường ở Việt Nam: Lời mở đầu
1-/ Tính cấp thiết của đề tài:
Nước ta là nước nông nghiệp thuộc khu vực nhiệt đới gió mùa quanh năm nóng ẩm. Diện tích trồng tra ở nước ta chiếm một tỷ trọng lớn trong đất đai, dân số làm nghề nông ở nước ta nhiều. Do điều kiện thuận lợi về tự nhiên và khí hậu thích hợp với cây trồng, Đảng ta đã xác định “Nông nghiệp là mặt trận hàng đầu” trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ 6 đã cụ thể hoá bằng 3 chương trình kinh tế lớn là “lương thực, thực phẩm - hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu”.
Về lương thực, từ chỗ ta phải lo đủ ăn đến phấn đấu có xuất khẩu và đến nay ta đã làm được điều đó, sản lượng lương thực năm 1993 đã ở mức 25 triệu tấn/năm song xu hướng những năm tới không những vừa phải đảm bảo đủ lương thực tiêu dùng cho toàn quốc mà còn phấn đấu xuất khẩu một lượng lớn hơn nhiều. Để làm được điều đó, một trong những vấn đề quan trọng là phải đảm bảo đủ cả về số lượng, chủng loại và chất lượng phân bón vô cơ đúng thời vụ cho sả...
196 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1096 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Tìm hiểu tổ chức lưu thông phân bón vô cơ theo cơ chế thị trường ở Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
1-/ Tính cấp thiết của đề tài:
Nước ta là nước nông nghiệp thuộc khu vực nhiệt đới gió mùa quanh năm nóng ẩm. Diện tích trồng tra ở nước ta chiếm một tỷ trọng lớn trong đất đai, dân số làm nghề nông ở nước ta nhiều. Do điều kiện thuận lợi về tự nhiên và khí hậu thích hợp với cây trồng, Đảng ta đã xác định “Nông nghiệp là mặt trận hàng đầu” trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ 6 đã cụ thể hoá bằng 3 chương trình kinh tế lớn là “lương thực, thực phẩm - hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu”.
Về lương thực, từ chỗ ta phải lo đủ ăn đến phấn đấu có xuất khẩu và đến nay ta đã làm được điều đó, sản lượng lương thực năm 1993 đã ở mức 25 triệu tấn/năm song xu hướng những năm tới không những vừa phải đảm bảo đủ lương thực tiêu dùng cho toàn quốc mà còn phấn đấu xuất khẩu một lượng lớn hơn nhiều. Để làm được điều đó, một trong những vấn đề quan trọng là phải đảm bảo đủ cả về số lượng, chủng loại và chất lượng phân bón vô cơ đúng thời vụ cho sản xuất nông nghiệp.
Nền kinh tế nước ta hiện nay là nền kinh tế thị trường trong thời kỳ quá độ. Vấn đề lưu thông phân bón vô cơ theo cơ chế thị trường ở điều kiện cụ thể của nước ta hiện nay phải được tổ chức như thế nào để vừa đảm bảo nhiệm vụ đặt ra, vừa đảm bảo cho doanh nghiệp làm công tác lưu thông tồn tại và có lãi. Với tư cách là cán bộ công tác tại Tổng Công ty Vật tư Nông nghiệp tiếp xúc với quá trình kinh doanh phân bón, tác giả xin chọn đề tài “Tổ chức lưu thông phân bón vô cơ theo cơ chế thị trường ở Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu.
2-/ Mục đích của đề tài:
- Làm rõ cơ sở lý luận của lưu thông hàng hoá nói chung và đặc điểm tổ chức lưu thông phân bón vô cơ nói riêng trong nền kinh tế thị trường.
- Phân tích thực trạng tổ chức lưu thông phân bón vô cơ ở nước ta hiện nay rút ra những vấn đề mang tính quy luật của quá trình lưu thông phân bón.
- Đề xuất kiến nghị nhằm hoàn thiện việc tổ chức lưu thông phân bón vô cơ phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta.
3-/ Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu và xây dựng cơ sở lý luận và phương pháp luận về tổ chức lưu thông phân bón vô cơ. Đề tài nghiên cứu việc lưu thông phân bón vô cơ trong phạm vi cả nước.
4-/ Phương pháp nghiên cứu:
Sử dụng phương pháp vật biện chứng, duy vật lịch sử nghiên cứu tổng thể vấn đề. Các phương pháp toán, thống kê, phân tích cũng được sử dụng để nghiên cứu các vấn đề cụ thể.
5-/ Kết cấu của đề tài.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo. Đề tài gồm 3 chương:
Chương I - Đặc điểm và nội dung cơ bản của tổ chức lưu thông phân bón vô cơ trong nền kinh tế thị trường.
Chương II - Nghiên cứu, phân tích tình hình lưu thông phân bón vô cơ ở Việt Nam hiện nay.
Chương III - Phương hướng và biện pháp cơ bản nhằm hoàn thiện quá trình lưu thông phân bón vô cơ ở Việt Nam hiện nay.
Chương 1
Đăc điểm và nội dung cơ bản
của tổ chức lưu thông phân bón vô cơ
trong nền kinh tế thị trường ở việt nam
1-/ Tổ chức lưu thông tư liệu sản xuất trong nền kinh tế thị trường.
1.1-/ Lưu thông và vị trí của lưu thông trong nền kinh tế quốc dân
Lưu thông là đưa sản phẩm từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng, là cầu nối trung gian một bên là sản xuất và phân phối và một bên là tiêu dùng.
Thực tế cho thấy, thích ứng với mỗi cơ chế quản lý kinh tế công tác lưu thông được thực hiện bằng các hình thức khác nhau. Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, Nhà nước quản lý kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh, các cơ quan hành chính, kinh tế can thiệp sâu vào nghiệp vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhưng lại không chịu trách nhiệm về các quyết định của mình. Quan hệ giữa các ngành là quan hệ dọc, được kế hoạch hoá bằng chế độ cấp phát và lao động sản phẩm. Lưu thông trong thời kỳ này chủ yếu là giao nộp sản phẩm cho các đơn vị theo địa chỉ và giá cả do Nhà nước định sẵn. Tóm lại trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung khi mà ba vấn đề trung tâm của nền kinh tế là: sản xuất cái gì? sản xuất bằng cách nào? sản xuất cho ai? đều do Nhà nước quyết định thì lưu thông hàng hoá chỉ là việc bán sản phẩm hàng hoá sản xuất ra theo kế hoạch và giá cả được ấn định trước.
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp đều có quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh hay nói khác đi các doanh nghiệp phải tự quyết định ba vấn đề kinh tế trung tâm (sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? sản xuất cho ai?) thì lưu thông hàng hoá không thể đơn thuần là việc bán sản phẩm hàng hoá ra theo kế hoạch và giá cả ấn định trước.
Muốn thực hiện được chức năng là cầu nối trung gian giữa sản xuất, phân phối và tiêu dùng thì lưu thông hàng hoá phải được hiểu là một quá trình kinh tế bao gồm nhiều khâu từ việc nghiên cứu thị trường, xác định nhu cầu khách hàng, đặt hàng và tổ chức sản xuất, thực hiện các nghiệp vụ tiêu thụ, xúc tiến bán hàng nhằm mục đích đạt hiệu quả cao nhất. Quan niệm lưu thông hàng hoá là quá trình tiêu thụ sản phẩm, Hiệp hội kế toán quốc tế định nghĩa: Tiêu thụ (bán hàng hàng hoá, lao vụ, dịch vụ) là việc chuyển dịch quyền sở hữu sản phẩm, hàng hoá, lao vụ dịch vụ đã thực hiện cho khách hàng đồng thời thu được tiền hàng hoặc được quyền thu tiền bán hàng.
Lưu thông hàng hoá nếu xét trên mối quan hệ kinh tế quốc tế thì được chia ra lưu thông hàng hoá trong nước và lưu thông hàng hoá nước ngoài, hay được gọi là nội thương và ngoại thương (xuất nhập khẩu). Căn cứ vào tính chất của hàng hoá lưu thông trên thị trường chia ra: lưu thông tư liệu sản xuất (vật tư thiết bị); lưu thông tiền vốn; sức lao động và cuối cùng là lưu thông vật phẩm tiêu dùng.
Quá trình tái sản xuất xã hội bao gồm bốn khâu: sản xuất - phân phối - trao đổi (lưu thông) - tiêu dùng.
Sản xuất là khâu mở đầu, là quá trình con người sử dụng tư liệu sản xuất để tạo ra sản phẩm (dưới hai dạng: tư liệu sản xuất và vật phẩm tiêu dùng) cho con người.
Phân phối là một khẩu của quá trình tái sản xuất xã hội nói lên cách chia sản phẩm (tư liệu sản xuất và vật phẩm tiêu dùng) như thế nào tuỳ theo việc ai là chủ tư liệu sản xuất đó.
Trao đổi là một khẩu trung gian đưa tư liệu sản xuất và vật phẩm tiêu dùng đến nơi tiêu dùng. Trao đổi có thể tiến hành dưới dạng hiện vật hoặc dưới dạng mua bán thông qua đồng tiền. Trong điều kiện kinh tế phát triển sản xuất hàng hoá, thì từ ngữ trao đổi thường được dùng với hàm ý là mua bán, thông qua mua bán để trao đổi hàng hoá với nhau. Lưu thông cũng là một hoạt động kinh tế trung gian gắn sản xuất với tiêu dùng. Tham gia khâu lưu thông này có các hoạt động của các ngành vận tải, thu mua (lưu thông nông sản vật tư) cung ứng vật tư và hoạt động trao đổi mua bán của nội thương và ngoại thương. Như vậy khái niệm lưu thông bao hàm nội dung đầy đủ hơn, rộng hơn khái niệm trao đổi.
Mỗi chu kỳ tái sản xuất bắt đầu từ khâu sản xuất và kết thúc ở khâu tiêu dùng. Sản xuất là điểm xuất phát, tiêu dùng là điểm cuối cùng, còn phân phối trao đổi (lưu thông) là khâu trung gian, vì sản phẩm sau khi được sản xuất ra muốn được tiêu dùng phải qua phân phối và trao đổi. Có thể thấy rõ vị trí của lưu thông trong quá trình tái sản xuất xã hội theo sơ đồ dưới đây.
Sản xuất
Phân phối
Lưu thông
Tiêu dùng
Giữa các khâu của quá trình tái sản xuất có mối quan hệ quyết định và tác động thúc đẩy lẫn nhau.
+ Xét hình thức bên ngoài, mối quan hệ này thể hiện, trong quá trình sản xuất, các thành viên của xã hội thích nghi (tạo ra, cải biến) các sản phẩm của tự nhiên cho phù hợp với yêu cầu của con người; phân phối xác định tỷ lệ mỗi cá nhân tham gia vào sản phẩm đã sản xuất ra.
+ Lưu thông đem lại cho cá nhân những sản phẩm nhất định mà anh ta muốn dùng phần nhận được do phân phối để trao đổi (lưu thông); cuối cùng, trong tiêu dùng các sản phẩm trở thành đối tượng tiêu dùng và đối tượng của việc chiếm hữu cá nhân. Sản xuất sáng tạo ra những sản phẩm thích hợp với các nhu cầu, phân phối phân chia các vật đo ra theo những quy luật xã hội; trao đổi (lưu thông) lại phân phối lại cái đã được phân phối theo những nhu cầu cá biệt; cuối cùng trong tiêu dùng, sản phẩm vượt ra khỏi vận động xã hội đó, trực tiếp trở thành đối tượng phục vụ cho một nhu cầu cá biệt và thoả mãn nhu cầu đó trong quá trình tiêu dùng. Như vậy sản xuất thể hiện ra là điểm xuất phát, tiêu dùng là điểm cuối cùng, phân phối trao đổi là điểm trung gian. Điểm trung gian này lại có hai yếu tố và phân phối được coi là yếu tố xuất phát từ xã hội và trao đổi là yếu tố xuất phát từ cá nhân.
+ Đi sâu phân tích mối quan hệ giữa các khâu của quá trình sản xuất, ta thấy sản xuất luôn là cái quyết định, quy định đối với phân phối, trao đổi và tiêu dùng. Song phân phối, trao đổi và tiêu dùng không phải chỉ đơn thuần chịu sự quy định một cách thụ động mà nó còn có tác động trở lại trong mối quan hệ biện chứng.
* Quan hệ giữa sản xuất và tiêu dùng. Sản xuất cũng trực tiếp là tiêu dùng- Tiêu dùng về hai mặt, chủ quan và khách quan: cá nhân phát triển năng lực của mình trong quá trình sản xuất, đồng thời cũng tiêu phí, tiêu dùng các năng lực đó trong hành vi sản xuất, cũng giống như hành vi sinh con đẻ cái là sự tiêu phí sức sống. Mặt khác sản xuất là tiêu dùng các tư liệu sản xuất mà người ta sử dụng các tư liệu sản xuất đó hao mòn đi một phần phân giải thành những yếu tố cơ bản của sản phẩm. Vì vậy bản thân hành vi sản xuất trong mọi nhân tố của nó cũng đồng thời là hành vi tiêu dùng. Trong trường hợp này, sản xuất được coi là trực tiếp đồng nhất với tiêu dùng và tiêu dùng được coi là trực tiếp ăn khớp với sản xuất. Và được các nhà kinh tế học gọi là tiêu dùng sản xuất.
Tiêu dùng đồng thời cũng trực tiếp là sản xuất, cũng như trong tự nhiên, tiêu dùng các nguyên tố hoá chất là sự sản xuất thực vật, hay trong quá trình ăn uống, một trong những hình thức tiêu dùng con người sản xuất ra bản thân cơ thể của mình. Điều đó cũng có giá trị đối với mọi hình thức tiêu dùng khác, những hình thức tiêu dùng này về mặt này hay mặt khác, mỗi hình thức một kiểu đã góp phần vào việc sản xuất ra con người. Đó là sự sản xuất có tính chất tiêu dùng. Sự sản xuất có tính chất tiêu dùng này - mặc dù nó là một sự thống nhất trực tiếp của sản xuất và tiêu dùng - về căn bản khác với sản xuất theo đúng nghĩa của nó. Sự thống nhất trực tiếp, trong đó sản xuất trực tiếp với tiêu dùng, và tiêu dùng đồng nhất với sản xuất, vẫn giữ tính chất hai mặt trực tiếp của chúng.
Vậy, sản xuất trực tiếp là tiêu dùng, tiêu dùng trực tiếp là sản xuất. Mỗi cái trực tiếp là cái đối lập của nó. Nhưng đồng thời giữa hai cái đó có vận động môi giới. Sản xuất là môi giới cho tiêu dùng, sản xuất tạo ra những vật liệu cho tiêu dùng, không có vật liệu này thì tiêu dùng sẽ không có đối tượng. Nhưng tiêu dùng cũng là môi giới của sản xuất vì chỉ có tiêu dùng tạo ra các chủ thể cho các sản phẩm, mới làm cho sản phẩm trở thành sản phẩm đối với chủ thể. Sản phẩm chỉ đạt đến sự kết thúc cuối cùng của nó trong tiêu dùng mà thôi. Không có sản xuất thì không có tiêu dùng, nhưng không có tiêu dùng cũng chẳng có sản xuất vì trong trường hợp đó sản xuất sẽ không có mục đích. Tiêu dùng tạo ra sản xuất thể hiện chỉ có trong tiêu dùng thì sản phẩm mới thực sự trở thành sản phẩm, mới đem đến cho sản phẩm một sự hoàn thiện cuối cùng và tiêu dùng tạo ra nhu cầu về một sản phẩm mới.
Sản xuất tạo ra tiêu dùng bằng cách, tạo ra vật liệu cho tiêu dùng xác định phương thức tiêu dùng, làm nảy ra ở người tiêu dùng các nhu cầu của đối tượng là sản phẩm do sản xuất tạo ra, do đó sản xuất sản xuất ra đối tượng tiêu dùng, phương thức tiêu dùng và sự kích thích tiêu dùng.
* Quan hệ giữa sản xuất và phân phối: cơ cấu của sự phân phối hoàn toàn do cơ cấu của sản xuất quy định. Bản thân sự phân phối là sản vật của sản xuất, không chỉ về mặt nội dung vì người ta có thể đem phân phối những kết quả của sản xuất thôi mà về cả hình thức, vì phương thức nhất định của việc tham gia vào sản xuất quy định hình thái đặc thù của phân phối, hình thái theo đó người ta tham gia vào sự phân phối. Tuy nhiên phân phối có tính độc lập tương đối đối với sản xuất. Bởi vì phân phối biểu hiện thành phân phối sản phẩm và do đó hình như nó rất cách xa đối với sản xuất và tựa hồ như độc lập với sản xuất. Nhưng trước khi là phân phối sản phẩm thì phân phối là phân phối những công cụ sản xuất và phân phối các thành viên xã hội theo những loại sản xuất khác nhau, cái đó tức là một sự quy định khác của mối quan hệ trên (việc các cá nhân lệ thuộc vào những quan hệ sản xuất nhất định). Rõ ràng phân phối sản phẩm chỉ là kết quả của sự phân phối đó mà thôi, sự phân phối này đã bao hàm trong bản thân quá trình sản xuất và quyết định cơ cấu sản xuất. Như vậy, sản xuất phải xuất phát từ một sự phân phối nhất định về công cụ sản xuất, nên theo ý nghĩa đó thì phân phối ít nhất của phải có trước sản xuất, là tiền đề của sản xuất và do đó quyết định sản xuất.
* Quan hệ giữa sản xuất và trao đổi: bản thân lưu thông chỉ là một yếu tố nhất định của trao đổi, hoặc là của trao đổi xét trên toàn bộ của nó. Vì trao đổi chỉ là một yếu tố trung gian, một mặt là giữa sản xuất và phân phối do sản xuất quyết định, và mặt khác là với tiêu dùng, còn bản thân phân phối lại thể hiện ra một yếu tố của sản xuất, nên rõ ràng là trao đổi bao hàm trong sản xuất với tư cách là yếu tố của sản xuất. Trước hết, sự trao đổi hoạt động và năng lực được thể hiện trong bản thân sản xuất là một bộ phận trực tiếp của sản xuất và là mặt căn bản của sản xuất; Thứ hai, đối với trao đổi sản phẩm sự trao đổi là phương tiện để sản xuất ra thành phẩm nhằm phục vụ cho sự tiêu dùng trực tiếp. Trong phạm vi đó, bản thân trao đổi là một hành vi bao gồm ở trong sản xuất; Thứ ba, sự trao đổi giữa các nhà kinh doanh với nhau xét về mặt tổ chức của nó là hoàn toàn do sản xuất quyết định, đồng thời nó lại là hoạt động sản xuất. Trao đổi chỉ độc lập với sản xuất, không dính gì với sản xuất ở trong giai đoạn cuối cùng mà thôi - khi sản phẩm được trao đổi trực tiếp để tiêu dùng. Nhưng không có phân công lao động thì không có trao đổi; trao đổi tư nhân giả định phải có nền sản xuất tư nhân và cường độ của trao đổi, tính chất phổ cập của trao đổi cũng như hình thái trao đổi là do sự phát triển và kết cấu của nền sản xuất quyết định. Do đó trong mọi yếu tố của nó trao đổi hoặc là trực tiếp bao gồm trong sản xuất, hoặc do sản xuất quyết định.
* Sự phân tích giữa quan hệ giữa các khâu của quá trình tái sản xuất cho thấy giữa sản xuất - phân phối- lưu thông - tiêu dùng là những bộ phận của tổng thể, là những sự phân biệt trong nội bộ một khối thống nhất. Trong đó sản xuất chi phối bản thân nó với tất cả sự đối lập trong tất cả những tính quy định của nó, cũng như nó chi phối các yếu tố khác chính là bắt đầu từ sản xuất mà quá trình lặp lại không ngừng. Bản thân sản xuất đến lượt nó cũng do các yếu tố khác quyết định. Khi thị trường nghĩa là lĩnh vực trao đổi mở rộng ra thì quy mô sản xuất cũng tăng lên và sự phân công trong sản xuất cũng trở nên sâu sắc hơn; phân phối biến đổi, sản xuất cũng biến đổi theo; cuối cùng thì những yêu cầu của tiêu dùng quyết định sản xuất.
1.2-/ Lưu thông tư liệu sản xuất trong nền kinh tế kế hoạch tập trung
Lưu thông tư liệu sản xuất cũng là cầu nối giữa sản xuất với sản xuất, là mắt xích không thể thiếu được giữa các chu kỳ sản xuất trong điều kiện phân công lao động đã phát triển. Lưu thông không chỉ đơn thuần là việc “phân phối ” tư liệu sản xuất trong quá trình tái sản xuất xã hội, nó thực sự là tấm gương phản chiếu khá đầy đủ bộ mặt kinh tế của một đất nước; Mặc dù vậy bản chất của nó đó là một khâu của tái sản xuất có thể xem là bắt đầu của sản xuất và cũng là kết thúc của sản xuất. K- Mác đã tóm tắt lưu thông tư bản bởi công thức:
T - H (sx) H-T- H(sx)- H-....
(1)
Lưu thông tư liệu sản xuất xảy ra ở (1) tức là nối sản xuất với sản xuất. Mặt khác K.Mác đã chứng minh luận đề: Lưu thông không tạo ra giá trị hàng hoá. Nhưng trong (1) Ta thấy có sức xuất hiện của tiền (T) tức là phải có sự trao đổi thông qua hình thái tiền tệ. Xã hội phát triển hình thành một bộ phận mới đó là những tổ chức và cá nhân chuyên kinh doanh trong lĩnh vực lưu thông. Trong đó có kinh doanh tư liệu sản xuất. Lĩnh vực hoạt động này ngày càng phát triển và trong sự phát triển đa dạng đó nảy sinh những hình thức kinh doanh gây thiệt hại cho sản xuất và đời sống xã hội, mà trước tiên là nó gây thiệt hại cho chính những người làm lưu thông thực sự và chân chính.
Từ sơ đồ sau:
TLSX- SLĐ Sản xuất TLTD
Pk A Pk+1
TLSX.
Trong đó giả sử nền kinh tế sản xuất n loại hàng hoá .
Gọi: Pk = (Pjk ) là giá hàng tại chu kỳ sản xuất thứ k của loại hàng hoá J (J = 1,n)
A = (aij )nxn - là ma trận chi phí
Để đơn giản giả định tiêu dùng SLĐ khi tính chi phí sản xuất như TLTD
Như vậy trong điều kiện cân bằng và nếu kinh tế hầu như đóng trên thị trường khu vực thì:
Hay P= A.P
Nếu tính theo chu kỳ ta sẽ có:
Trong đó a là tỷ xuất lợi nhuận bình quân, tức là:
Pk+1 = (1+a) A Pk.
Do đó, sau t chu kỳ sản xuất:
Pt = (1 + a )t At P0.
Trong điều kiện bình thường ta có thể chọn a sao cho Pt hội tụ đến P, với một giá gốc nhất định. Và công thức P = A.P chính là cơ sở để giải thích nguồn gốc của lợi nhuận- đó là sức lao động, là chi phí lao động sống. Đương nhiên không phải vì thế mà lao động vật hoá không có vai trò quan trọng, đôi khi là quyết định trong việc tạo ra lợi nhuận. Vì vậy vấn đề đặt ra là: Muốn thực hiện đúng bản chất của lưu thông thì bất kỳ một loại tư liệu sản xuất nào cũng cần xác định một con đường qua lưu thông ngắn nhất, có thể hiểu theo nghĩa chi phí chứ không chỉ có ý nghĩa địa lý. Thường thì lưu thông hàng hoá nói chung hay tư liệu sản xuất nói riêng của các nước phát triển hay chưa phát triển, thì các tổ chức, cá nhân hay các doanh nghiệp thực hiện công tác lưu thông cũng không thể bán rẻ và không chịu mua rẻ.
ở Việt Nam trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung các hàng hoá mua bán trên thị trường chưa phải đã vận động theo quy luật Cung- cầu, nhiều yếu tố của sản xuất chưa trở thành hàng hoá, chẳng hạn: đất đai, sức lao động, phân bón, xăng dầu, chất xám, tiền tệ... Nó là nền kinh tế với nhiều hoạt động kinh tế trong xã hội chưa hoàn toàn theo đúng các quy luật của nền kinh tế, trong đó việc mua bán tư liệu sản xuất là một trường hợp điển hình. Trong thời kỳ này lưu thông tư liệu sản xuất ở nước ta được đánh giá là: Lộn xộn, vòng vèo, tính xã hội thấp.
Điều đó thể hiện ở chỗ người mua của người làm lưu thông không phải là người sản xuất tức là xảy ra hiện tượng lưu thông -lưu thông ... sản xuất, trong đó mục đích của lưu thông về mặt xã hội hầu như không phải là sản xuất dù người mua là người sản xuất. Từ đó dẫn đến tình trạng lộn xộn kinh doanh theo kiểu “cò mồi, chỉ trỏ”. Mặt khác tạo nên nhu cầu giả tạo hạn chế sức sản xuất, giá cả không phản ánh đúng quy luật giá trị, quy luật cung cầu. Hàng hoá tư liệu sản xuất lưu thông vòng vèo như một “vật ngon” thách thức người sản xuất. Và cuối cùng chi phí sản xuất tăng do phải chấp nhận giá tư liệu sản xuất quá cao (giá hạch toán). Còn lưu thông hầu như chỉ để lưu thông- để kiếm lời, qua quá trình lưu thông nhiều cấp. Vậy các tổ chức, cá nhân hay các doanh nghiệp làm công tác lưu thông trong nền kinh tế kế hoạch hoá thu được lợi nhuận ở đâu ra. Và điều này đựoc khẳng định là chắc chắn do một chủ thể kinh doanh mạnh dạn bỏ vốn ra, do đó phải thu lãi. Nên mỗi lần mua bán lại phải tuân theo quá trình là: Khi người sản xuất bán tư liệu sản xuất cho người chuyên kinh doanh tư liệu sản xuất thì phải trích ra một phần lợi nhuận ròng của mình để “nhờ ”bán hàng. Phần trích đó sẽ không bé hơn công sức người kinh doanh tư liệu sản xuất sẽ bỏ ra để bán hộ hàng cho mình. (K.Mác cũng đã chỉ ra lợi nhuận thương nghiệp hình thành như vậy). Hoặc ở góc độ khác nếu người kinh doanh đầu tiên không chia lợi nhuận đủ cho người kinh doanh tiếp theo và sau nữa thì phần lợi nhuận đó có người ứng trước cho họ- đó chính là người sản xuất hay đúng hơn là chu kỳ sản xuất sau đó. Vì 2 lý do: Thứ nhất có thể họ vẫn còn lãi dù lãi ít ; Thứ hai là họ buộc phải sản xuất nếu không muốn phá sản và cho không toàn bộ phần vốn cố định đã mua sắm. Hệ quả dẫn đến là sự luẩn quẩn trong lưu thông và làm ảnh hưởng đến các tổ chức và cá nhân có liên quan. Trong trường hợp đó chỉ có một cách duy nhất là phá sản một số ngành và giảm lương của bản thân người lao động để có thể làm cho chi phí sản xuất giảm tối thiểu. Điều này dẫn đến thất nghiệp tương đối và sức lao động, kể cả số người được đào tạo ngày càng hao mòn, năng suất lao động giảm. Mặc nhiên do yếu tố tâm lý lưu thông chu kỳ sau sẽ chấp nhận giá cao hơn một chút và chính điều đó làm cho người chuyên kinh doanh tư liệu sản xuất thấy có thể chấp nhận giá mua vào cao hơn, nếu xét một chu kỳ sản xuất, lưu thông thì thấy họ có lãi, nhưng nếu kéo dài, chu kỳ tăng lên thì tỷ lệ lãi giảm dần mà thuế doanh thu tăng dần, quan hệ đó có thể mô tả như sau:
PtT
Dt
L C
T
T0 t
Dt: Doanh thu
T: Thuế
C: Chi phí (giả định đơn giản)
Khi đó nếu ta thấy không có sự can thiệp đủ mạnh thì sau chu kỳ(t), kinh doanh bắt đầu thua lỗ thậm chí phá sản điều đó dẫn đến một nghịch lý đối với người kinh doanh tư liệu sản xuất chuyên nghiệp, chuyên doanh là càng buôn càng lỗ chứ không phải buôn gì cũng lãi. Vậy lãi vào tay ai-đó là những nhà kinh doanh thương mại cấp 2, cấp 3... thậm chí không cần vốn mà chỉ bằng vay ngân hàng hoặc môi giới - đó là những nhà làm lưu thông kiểu “cò mồi, chỉ trỏ” Những người tham gia phá trật tự lưu thông này thu lãi. Về mặt lý thuyết lãi còn được chi vào thuế ngân sách nhà nước, song thực tế không hẳn như vậy. Trong khi đó rõ ràng thị trường khu vực cũng như thị trường thế giới thông thường có tính ổn định theo thời kỳ, như vậy một đất nước quá nhiều tư liệu sản xuất như nước ta thời kỳ này, thì giá tư liệu sản xuất trên thị trường thực chất phụ thuộc vào giá nhập khẩu. Giá các loại tư liệu sản xuất không trực tiếp phụ thuộc vào sức sản xuất trong nước mà phụ thuộc vào giá chuyển đổi đồng ngoại tệ mạnh và các chính sách xuất nhập khẩu. ở đây lại xuất hiện một nguy cơ cho người sản xuất cũng như người chuyên kinh doanh tư liệu sản xuất, là làm cho quá trình thua lỗ vừa kéo dài vừa đột biến không dự báo được.
Trên cơ sở những phân tích đối với hoạt động lưu thông TLSX trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, một số kết luận được rút ra là:
- Nhà nước không kiểm soát được mạng lưới làm lưu thông TLSX bằng pháp luật, do thị trường chỉ có một giá; mặt khác một số TLSX cần cho sự phát triển của đất nước, các TLSX chủ chốt cần nhập khẩu nhà nước đã độc quyền - độc quyền nhập và độc quyền qua chính sách thuế quan.
- Đối với tất cả các cá nhân đơn vị sản xuất, kinh doanh nhà nước chưa thực hiện được chế độ kiểm toán, chưa buộc các cá nhân, đơn vị phải ghi chép hạch toán, theo một hệ thống chứng từ thống nhất nhằm đảm bảo thu quốc doanh, thuế không bị thất thoát.
- Nhà nước chưa tổ chức được những cơ quan thông tin kinh tế chuyên ngành nhằm thông báo không chỉ giá cả mà còn có chức năng hướng dẫn, làm cầu nối giữa cung- cầu về thông tin qua việc bán tin, bán những bộ số liệu khởi thảo cũng như đã xử lý. Làm cho Cung- cầu gặp nhau và giảm đáng kể hình thức lưu thông TLSX không trực tiếp đến người sản xuất. Các doanh nghiệp nhờ đó có thể kết hợp các thông tin khác nhau mà quyết định sử dụng TLSX.
- Đối với các nhà sản xuất cũng như các tổ chức, cá nhân đăng ký kinh doanh vật tư cần hoàn thiện dần qui trình nghiên cứu thị trường của mình. Sở dĩ trong thòi kỳ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung lưu thông rối loạn một phần cũng do chính người sản xuất không nghiên cứu thị trường cẩn thận, mặt khác, người kinh doanh TLSX cũng không có cách nắm chắc Cung- cầu hàng mình kinh doanh. Điều đó tất yếu dẫn đến việc xuất hiện lớp người làm lưu thông chỉ với mục đích kiếm lời nêu trên. Làm được việc này bản thân các doanh nghiệp phải được trang bị đầy đủ kiến thức về thị trường đặc biệt là thị trường TLSX cộng với kinh nghiệm đặc thù thực tiễn khi kinh doanh mỗi ngành hàng.
- Về sở hữu nhà nước chưa có người chủ thực sự của tài sản đó theo nghĩa chủ sở hữu. Đây là vấn đề phức tạp và không dễ giải quyết ngay. Nguyên nhân không thể mua rẻ cũng chính từ vấn đề sở hữu sinh ra, thậm chí sản xuất không cần có lãi (Lãi thực chứ không phải lãi giả) cũng xuất phát từ vấn đề sở hữu.
1.3-/ Kinh tế thị trường và tổ chức lưu thông tư liệu sản xuất.
1.3.1. Kinh tế thị trường và vai trò của lưu thông.
Kinh tế thị trường là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, ở đó sản xuất cái gì, như thế nào, cho ai đều được quyết định thông qua thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường, các quan hệ kinh tế của các cá nhân, các doanh nghiệp đều biểu hiện qua mua bán hàng hoá, dịch vụ trên thị trường. Thái độ cư xử của các thành viên tham gia thị trưòng là hướng vào tìm kiếm lợi ích của mình theo sự dẫn dắt của giá cả thị trường.
Kinh tế thị trường vận hành theo cơ chế thị trường, đến lượt nó, cơ chế thị trường tác động dưới sự chi phối của các quy luật thị trường trong môi trường cạnh tranh nhằm mục tiêu lợi nhuận.
Nhân tố cơ bản của thị trường, cơ chế thị trường là hàng hoá tiền tệ, người bán, người mua, từ đó hình thành mối quan hệ cơ bản của cơ chế thị trường là quan hệ cung cầu. Về bản chất, cơ chế thị trường là cơ chế giá cả tự do. Cơ chế này có một số đặc trưng sau:
-Các vấn đề liên quan đến phân bổ, sử dụng các nguồn tài nguyên, lao động, vốn được quyết định một cách khách quan thông qua hoạt động của các quy luật kinh tế.
-Hầu như tất cả các mối quan hệ kinh tế giữa các chủ thể kinh tế đều được tiền tệ hoá.
- Lợi nhuận là động lực thúc đẩy sản xuất phát triển, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và lợi ích kinh tế. Cơ chế thị trường dùng lỗ lãi để quyết định các vấn đề kinh tế cơ bản.
- Cạnh tranh là môi trường hoạt động của cơ chế thị trường, là yếu tố thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật, tăng năng suất lao động và hiệu quả của sản xuất.
- Cơ chế thị trường không phải là một mớ hỗn độn mà là một trật tự kinh tế, trật tự này được hình thành bởi sự tác động của hệ thống quy luật của thị trường.Thông qua sự hoạt động của các quy luật kinh tế, sự linh hoạt của hệ thống giá cả, nền kinh tế thị trường có khả năng duy trì được sự cân bằng của sức cung và sức cầu về hàng hoá, dịch vụ, ít khi gây ra sự khan hiếm và thiếu thốn hàng hoá.
Quá trình tái sản xuất xã hội có liên quan mật thiết với sự tuần hoàn và chu chuyển của vốn sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp, thể hiện ở lao động xã hội trong những hình thức khác nhau của nó. Sự vận động của lao động xã hội tạo thành nội dung các quá trình trao đổi phát sinh từ trong cơ cấu của nền kinh tế quốc dân và nhằm đáp ứng các nhu cầu của thị trường.
Do có mối liên hệ lẫn nhau trong quá trình chu chuyển vốn kinh doanh nên đòi hỏi phải có sự trao đổi hoạt động giữa những người lao động, giữa những tập thể sản xuất và các doanh nghiệp ...v.v. Trong nền kinh tế hàng hoá việc trao đổi được thực hiện được thông qua mua bán trên thị trường. Thường thì sự trao đổi các hoạt động trong nội bộ doanh nghiệp mang tính chất trực tiếp kỹ thuật còn sự trao đổi diễn ra giữa các doanh nghiệp mang tính chất lưu thông hàng hoá. Rõ ràng lưu thông chỉ là một giai đoạn trao đổi nhất định bao trùm một lĩnh vực các quan hệ sản xuất rộng lớn hơn.
Lưu thông hàng hoá phát sinh trong lĩnh vực lưu thông; Vậy lĩnh vực lưu thông là gì? và thực chất là gì? Trước hết cần khẳng định lĩnh vực lưu thông là lĩnh vực hoạt động mà dựa vào đó sự tuần hoàn và chu chuyển của vốn kinh doanh của doanh nghiệp được thực hiện. Nó cũng đòi hỏi có đối tượng lao động và tư liệu lao động cho việc thực hiện hoạt động đó. Việc hoạt động bình thường của lĩnh vực này, phù hợp với nhiệm vụ và chức năng xã hội của nó đòi hỏi hình thành hệ thống các tổ chức kinh doanh như doanh nghiệp thương mại, vận tải, kho vận, chuẩn bị hàng hoá...v.v. Thông qua hệ thống này một khối lượng hàng hoá khổng lồ, nhất là về tư liệu sản xuất được lưu chuyển.
Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, khi mà chuyên môn hoá sản xuất và phân công lao động xã hội phát triển cao độ thì hầu như mọi sản phẩm đều được sản xuất và tiêu dùng dưới hình thức hàng hoá. Vì vậy, sự vận động của một số lượng lớn sản phẩm xã hội từ lĩnh vực sản xuất đến lĩnh tiêu dùng đã hình thành quá trình lưu thông. Trên thực tế, quá trình lưu thông chính là quá trình hàng hoá không ngừng tách rời người sản xuất để tiếp cận với người tiêu dùng, cũng chính là sự tổng hoà các hành vi chuyển nhượng phát sinh giữa các chủ thể của thị trường khác nhau. Vì thế trao đổi là tế bào riêng biệt và yếu tố cấu thành lưu thông. Do mâu thuẫn bên trong của quá trình trao đổi sản sinh ra tiền tệ, cho nên trong lưu thông, một mặt là hiện tượng biểu hiện trong lưu thông của một số lượng lớn hàng hoá, mặt khác là sự vận động của tiền tệ ngược lại với phương hướng lưu thông hàng hoá. Sự tổng hợp các vận động của tiền tệ trên phương hướng khác nhau đã hình thành lưu thông tiền tệ. Vì vậy quá trình lưu thông trên thực tế là sự thống nhất của lưu thông hàng hoá và sự lưu thông tiều tệ. Lưu thông hàng hoá quyết định lưu thông tiền tệ, nhưng lưu thông tiền tệ lại có tác động ngược lại đến lưu thông hàng hoá nó là chất kích thích lưu thông hàng hoá, thậm chí sự vận động của tiền tệ còn có tác dụng hướng hàng hoá chảy về đâu.
Như vậy, lưu thông là một quá trình khách quan có liên hệ với sự vận động của giá trị sản phẩm xã hội. Lưu thông là sự thay đổi hình thức giá trị của hàng hoá. Dù là những hàng hoá dùng cho tiêu dùng sản xuất tiêu dùng cá nhân thì cũng như thế. Bản chất của quá trình lưu thông hàng hoá là mua và bán những hàng hoá này hay hàng hoá kia được thực hiện khác nhau. Điều này là do đặc tính về công dụng của những hàng hoá ấy quyết định. Điều cần nhấn mạnh ở đây là lưu thông hàng hoá là một quá trình thống nhất không phụ thuộc vào công dụng của hàng hoá nhưng các hình thức tổ chức để chuyển đưa đến tay người tiêu dùng lại khác nhau.
Vai trò của lưu thông trong nền kinh tế thị trường: Dưới góc độ vi mô, lưu thông đóng vai trò quan trọng, quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Khi quá trình lưu thông kết thúc, tức là sản phẩm của doanh nghiệp được tiêu thụ, là nó đã được người tiêu dùng chấp nhận để thoả mãn một nhu cầu nào đó. Sức tiêu thụ sản phẩm của một doanh nghiệp thể hiện ở mức bán ra, uy tín của doanh nghiệp, chất lượng sản phẩm, sự thích ứng với nhu cầu người tiêu dùng và sự hoàn thiện của các hoạt động dịch vụ. Nói cách khác lưu thông hàng hoá phản ánh đầy đủ điểm mạnh và điểm yếu của doanh nghiệp.
Lưu thông hàng hoá gắn giữa người sản xuất với người tiêu dùng, nó giúp cho các nhà sản xuất hiểu thêm về kết quả sản xuất của mình và nhu cầu của khách hàng.
Trên giác độ vĩ mô, lưu thông hàng hoá có vai trò quan trọng trong việc cân đối giữa cung và cầu, vì nền kinh tế quốc dân là một thể thống nhất với những cân bằng, với những tương quan tỉ lệ nhất định. Sản phẩm sản xuất ra được tiêu thụ (lưu thông) tức là sản xuất đang diễn ra một cách bình thường, trôi chảy, tránh được sự mất cân đối, giữ được bình ổn trong xã hội. Đồng thời lưu thông giúp các đơn vị, ngành, xác định phương hướng và bước đi của kế hoạch sản xuất cho giai đoạn tiếp theo.
Thông qua lưu thông hàng hoá có thể dự đoán nhu cầu tiêu dùng của xã hội nói chung và từng khu vực nói riêng đối với từng loại sản phẩm. Trên cơ sở đó các doanh nghiệp sẽ xây dựng được các kế hoạch phù hợp nhằm đạt hiệu quả cao nhất.
1.3.2. Lưu thông tư liệu sản xuất trong nền kinh tế thị trường
Lưu thông tư liệu sản xuất trong nền kinh tế thị trường là quá trình hoạt động kinh tế đưa sản phẩm vật tư sản xuất sang lãnh vực tiêu dùng. Nó là tên gọi chung của hoạt động trao đổi vật tư sản xuất dùng cho sản xuất giữa các hình thức kinh tế, các ngành kinh tế và giữa các doanh nghiệp. Vật tư lưu thông là sản vật được xã hội phân công, nó phát triển theo sự phát triển của phân công xã hội và sự phát triển của sản xuất. nó lấy sản xuất làm điểm khởi đầu, lấy ngành sản xuất khác làm điểm kết thúc, đồng thời nó là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng mang tính sản xuất. Sản xuất quyết định lưu thông, lưu thông lại tác động ngược lại sản xuất. quá trình lưu thông thông suốt, thúc đẩy sản xuất phát triển nhanh. Ngược lại, quá trình lưu thông ngưng trệ sẽ ảnh hưởng đến sản xuất. Quá trình đổi mới cơ chế kimh tế đã phá vỡ dần chế độ lưu thông tư liệu sản xuất quá tập trung trước đây, thay đổi cách làm cũ không hợp lý như: quá nhiều khâu lưu thông, cơ cấu tổ chức trùng lặp, kho bãi mọi nơi, vận chuyển vòng vèo... dựa vào các khu vực kinh tế để tổ chức lưu thông tư liệu sản xuất hợp lý, tức là dựa vào các nhân tố như: phân bố sản xuất, phân bố các xí nghiệp, quan hệ cung cầu, quan hệ sản xuất, quan hệ tiêu dùng, giao thông vận tải phải thực hiện hợp lý hoá, khoa học hoá và tối ưu hoá lưu thông vật tư. Từ đó, thông qua lưu thông tác động đến sản xuất. Trong nền kinh tế thị trường thì thị trường, gắn liền với sản xuất và lưu thông hàng hoá, thị trường là trung tâm của toàn bộ quá trình sản xuất và tái sản xuất: Cần sản xuất những hàng hoá gì? với số lượng bao nhiêu? cần có những dịch vụ gì? đều phải xuất phát từ nhu cầu của thị trường. Qua thị trường nhu cầu của cả người sản xuất lẫn người tiêu dùng được thoả mãn. Người sản xuất cần bán hàng, chuyển tiền thành những giá trị sử dụng khác nhau.
Như vậy, ta có thể thấy rõ thị trường là nơi diễn ra các quá trình trao đổi, mua bán hàng hoá, thị trường có tính không gian và thời gian, theo nghĩa này thị trường có thể là các chợ, các địa danh hoặc các khu vực tiêu thụ phân theo mặt hàng, ngành hàng.
Sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển, lượng sản phẩm hàng hoá lưu thông trên thị trường ngày càng dồi dào và phong phú, thị trường được mở rộng. Thị trường hiểu theo nghĩa đầy đủ hơn, nó là lĩnh vực trao đổi hàng hoá thông qua tiền tệ làm môi giới. Tại đây người mua và người bán tác động qua lại lẫn nhau để xác định giá cả và số lượng hàng hoá lưu thông trên thị trường.
Nếu nói đến thị trường, trước hết phải nói tới các nhân tố cơ bản cấu thành thị trường, đó là hàng và tiền, người mua và người bán, từ đó hình thành các quan hệ hàng hoá tiền tệ, mua-bán, cung-cầu và giá cả hàng hoá.
Nói tới thị trường là phải nói tới cạnh tranh tự do, ở đây luôn diến ra sự ganh đua, cọ sát lẫn nhau giữa các thành viên tham gia thị trường để giành phần có lợi cho mình, động lực của cạnh tranh là lợi nhuận. Với động lực đó trên thị trường khó tránh khỏi sự lừa gạt và gian lận.
Nói tới thị trường là nói tới tự do kinh doanh tự do mua bán, thuận mua vừa bán, tự do giao dịch. Quan hệ giữa các chủ thể trên thị trường là bình đẳng.
Theo lý thuyết hiện đại về kinh tế thị trường có thể chia thị trường thành 2 loại:
Một là: Thị trường hàng tiêu dùng và dịch vụ, ở thị trường này, người ta mua bán những tư liệu sinh hoạt và dịch vụ như: lương thực, thực phẩm, vải, quần áo, các phương tiện sinh hoạt gia đình, thuốc chữa bệnh...vv. Những hàng hoá tiêu dùng ngày càng nhiều theo đà tăng của sự phát triển kinh tế hàng hoá. Ngoài những hàng hoá vật chất phục vụ tiêu dùng cho cá nhân và gia đình, có những hàng hoá phi vật chất được coi là dịch vụ như: sửa chữa, phương tiện đi lại, sửa chữa Rađio, tủ lạnh, may vá, cắt tóc, làm đầu.... các hoạt động dịch vụ ngày càng phát triển và đưa lại thu nhập ngày càng cao.
Hai là: Thị trường các yếu tố sản xuất: trên thị trường này người ta mua, bán các yếu tố cần thiết cho quá trình sản xuất và kinh doanh như các loại nguyên nhiên vật liệu, thiết bị máy móc, phân bón, thuốc trừ sâu, sức lao động...
Sự phân chia thành 2 loại thị trường như trên là dựa trên cơ sở chủng loại hàng hoá đưa ra trao đổi trên thị trường và dựa vào sự mở rộng, phát triển của chính phạm trù hàng hoá. Hàng hoá mở rộng ra tới đâu thì thị trường cũng mở rộng ra tới đó.
Thị trường giữ vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Thị trường là trung tâm, của toàn bộ quá trình tái sản xuất là lực lượng hướng dẫn, đặt nhu cầu cho sản xuất.
Sản xuất là sự kết hợp giữa tư liệu sản xuất và sức lao động theo một mối quan hệ nhất định, quan hệ tỷ lệ tuỳ thuộc vào trình độ kỹ thuật của sản xuất, nếu như kỹ thuật tiên tiến thì với một lượng sức lao động nhất định sẽ vận hành được nhiều tư liệu sản xuất hơn. Để sản xuất, cần phải có các yếu tố của sản xuất. Thị trường chính là nơi cung cấp những yếu tố đó, bảo đảm cho quá trình sản xuất của các doanh nghiệp được tiến hành một cách bình thường.
Sản xuất hàng hoá là sản xuất để trao đổi, để bán, thị trường là nơi tiêu thụ những hàng hoá cho các doanh nghiệp; thông qua thị trường, giá trị hàng hoá được thực hiện, doanh nghiệp thu hồi được vốn và có lãi.
Như vậy doanh nghiệp là người mua các yếu tố của sản xuất và bán các sản phẩm mình làm ra. Qui mô của việc mua vào và bán ra sẽ quyết định qui mô của sản xuất. Nếu coi doanh nghiệp như một cơ thể sống thì thị trường là nơi bảo đảm các yếu tố cho sự sống và cũng là nơi thực hiện sự trao đổi chất để sự sống tồn tại và phát triển. Trên ý nghĩa đó, thị trường chính là điều kiện, là môi trường cho hoạt động sản xuất và kinh doanh của doanh nghiệp.
Thị trường là nơi kiểm tra cuối cùng về chủng loại hàng hoá cũng như chất lượng sản phẩm. Thị trường kiểm nghiệm tính phù hợp của sản xuất đối với tiêu dùng xã hội. Trên ý nghĩa đó có thể nói thị trường điều tiết sản xuất kinh doanh và là động lực của sản xuất kinh doanh. Thông qua thị trường, hoạt động kinh tế của các doanh nghiệp ngày càng năng động, sáng tạo hơn, hiệu quả của sản xuất kinh doanh ngày càng được nâng cao.
Thị trường còn là nơi cuối cùng để chuyển những lao động tư nhân, lao động cá biệt thành lao động xã hội.
Cung và cầu là khái quát hoá hai lực lượng cơ bản của thị trường là người bán và người mua, người sản xuất và người tiêu dùng. Quan hệ cung cầu chỉ ra rằng, mặc dù giá trị xã hội hay giá trị thị trường đã được hình thành trong quá trình sản xuất song nó có thể được thực hiện cao hơn, thấp hơn hay ngang bằng tuỳ theo tương quan cung cầu bằng một mức giá cụ thể. Quan hệ cung cầu ảnh hưởng trực tiếp đến từng hành vi trao đổi. Trên thị trường, người sản xuất đứng về phía cung và người tiêu dùng đứng về phía cầu gặp nhau để xác định giá cả và khối lượng hàng hoá như bán ra, mua vào. Vì vậy cung- cầu giữ vai trò quan trọng đối với việc hình giá cả thị trường và xác định lượng mua vào.
Cầu là số lượng hàng hoá và người tiêu dùng muốn mua và có khả năng mua tại các mức giá khác nhau trong khoảng thời gian nhất định(Các yếu tố khác không đổi). Có 2 khái niệm liên quan là cầu cá nhân và cầu thị trường. Cầu thị trường là tổng hợp của tất cả các cầu cá nhân lại với nhau theo chiều ngang. Quy luật cầu được biểu hiện số lượng hàng hoá được cầu trong khoảng thời gian đã cho tăng lên khi giá cả của hàng hoá giảm xuống và ngược lại. Quy luật cầu tương ứng với trực giác, khi giá cả giảm xuống, người tiêu dùng đã cho có thể sẵn sàng và có khả năng mua một lượng nhiều hơn và các người tiêu dùng mới cũng sẵn sàng và có khả năng xâm nhập thị trường.
Giá cả của chính hàng hoá nào đó là yếu tố quan trọng, song không phải là yếu tố duy nhất quyết định lượng hàng cần mua. Quyết định lượng nhu cầu còn có nhiều yếu tố khác.Trên thực tế giá cả còn phụ thuộc vào các biến số như: Thu nhập của người mua; giá cả của hàng hoá và dịch vụ có liên quan; dự đoán về sự thay đổi của chính hàng hoá đó trong tương lai; thị hiếu của người tiêu thụ.
Cung hàng hoá được định nghĩa là những số lượng khác nhau của cùng một loại hàng hoá nhất định mà những người bán sẵn sàng và có khả năng cung ứng ra thị trường ở mức giá khác nhau. Cung thị trường là tổng hợp của tất cả các cung cá nhân.Quy luật về cung được biểu hiện, khi giá cả thị trường tăng lên, người sản xuất thu được lợi nhuận họ sẽ mở rộng thêm sản xuất, hợp lý hoá sản xuất, tăng năng suất lao động và đưa ra thị trường nhiều sản phẩm hơn, làm cho cung tăng lên. Ngược lại khi giá cả thị trường giảm xuống, người sản xuất thu được lợi nhuận ít, hoặc không có lợi nhuận, họ sẽ thu hẹp sản xuất, lượng sản phẩm được đưa ra thị trường vì thế sẽ ít hơn, vì thế giá cũng sẽ giảm xuống. Ngoài giá bán hiện tại của sản phẩm lựơng hàng hoá và dịch vụ tung ra thị trường còn phụ thuộc vào các yếu tố: thuế- thuế là công cụ điều tiết vĩ mô của nhà nước, thuế có ảnh hưởng đến đường cung của doanh nghiệp vì rằng thuế là chi phí mà doanh nghiệp phải chịu. Khi đánh thuế vào hàng hoá thì đường cung dịch chuyển; trình độ công nghệ có thể áp dụng; giá của các hàng hoá liên quan trong sản xuất; giá của các yếu tố đầu vào; số lượng người sản xuất...
Kết hợp qui mô về cung và quy luật về cầu chúng ta sẽ hiểu về quy luật cung cầu.
Theo quy luật cung- cầu thì hàng hoá sẽ được bán theo giá cả vừa phù hợp với cung, lại vừa phù hợp với cầu.
Giá thị trường có xu hướng vận động xung quanh điểm cân bằng cung cầu. Nếu giá cả lên cao điểm thì cung sẽ tăng lên, cầu sẽ giảm xuống. Điều này làm xuất hiện dư thừa, dư thừa sẽ gây ra áp lực làm giá cả giảm xuống, khi giá cả giảm thấp hơn điểm cân bằng cung cầu thì cung sẽ giảm và cầu lại tăng lên.
Điều này,làm xuất hiện tình trạng khan hiếm hàng hoá, khan hiếm là điều kiện để nâng cao giá lên, giá cả có xu hướng vận động trở về điểm cân bằng cung cầu.
1.3.3. Yêu cầu của tổ chức lưu thông tư liệu sản xuất trong nền kinh tế thị trường
Phân tích ở tên cho thấy lưu thông là cầu nối giữa một bên là sản xuất và phân phối, một bên là trao đổi. Các khâu của quá trình tái sản xuất, có mối quan hệ mật thiết với nhau trong đó, sản xuất là điểm xuất phát, là khâu quyết định quá trình tái sản xuất. Do vậy, tổ chức lưu thông không thể đơn thuần là tổ chức trao đổi hàng hoá mà là một quá trình có liên quan tới tất cả các khâu của quá trình tái sản xuất. Vì vậy yêu cầu đặt ra là:
+ Muốn giải quyết đúng đắn các vấn đề của tổ chức lưu thông tư liệu sản xuất thì phải đặt nó trong tổng thể nền kinh tế, trong mối quan hệ chặt chẽ với sản xuất và đời sống. Tổ chức lưu thông tư liệu sản xuất phải dựa vào sản xuất, chủ động thúc đẩy sản xuất phát triển. Đặt lưu thông tư liệu sản xuất trong tổng thể nền kinh tế có nghĩa là đặt nó như những bộ phận hữu cơ của quá trình tái sản xuất thống nhất bao gồm các khâu: sản xuất, phân phối-lưu thông, tiêu dùng. Trong quá trình tái sản xuất, sản xuất là cái gốc có tác dụng quyết định nhất vì chỉ có sản xuất mới tạo ra của cải vật chất để phân phối, lưu thông và đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng. Tiêu dùng là mục đích của sản xuất cũng như của phân khối, lưu thông tư liệu sản xuất tiêu dùng bao gồm tiêu dùng cho sản xuất, đời sống, quốc phòng,... nó gắn liền với việc thực hiện ba nhiệm vụ cơ bản, còn phân phối lưu thông tư liệu sản xuất là những khâu trung gian nối liền sản xuất với tiêu dùng cho nên công tác lưu thông tư liệu sản xuất phải lấy trình độ sản xuất, phải lấy khối lượng sản phẩm đã sản xuất ra làm điểm xuất phát; giữa khả năng và nhu cầu, bảo đảm quá trình tái sản xuất thông suốt và không ngừng mở rộng trên cơ sở hoàn thành các nhiệm vụ cách mạng.
+ Muốn giải quyết đúng vấn đề tổ chức lưu thông tư liệu sản xuất phải đặt nó trong toàn bộ công tác cải tiến quản lý của Nhà nước: lưu thông tư liệu sản xuất là một khâu cơ bản của quá trình tái sản xuất, một bộ phận của nền kinh tế quốc dân, cải tiến công tác tổ chức lưu thông tư liệu sản xuất phải đặt trong toàn bộ công tác cải tiến quản lý kinh tế. Hệ thống quản lý kinh tế ở nước ta phải lấy kế hoạch hoá làm trung tâm, đồng thời sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hoá tiền tệ, các đòn bẩy kinh tế, thực hiện hạch toán kinh tế. Hoạt động lưu thông tư liệu sản xuất biểu hiện cụ thể chủ yếu dưới hình thức quan hệ hàng hoá - tiền tệ (giá cả tiền lương, tài chính, thương nghiệp, thương mại,...) song trong quá trình quản lý kinh tế đó không phải là những quan hệ hàng hoá tiền tệ hoạt động tự phát mà là hoạt động có tổ chức có kế hoạch. Nhà nước phải sử dụng kế hoạch hoá định hướng làm công cụ chính, đồng thời vận dụng quan hệ hàng hoá tiền tệ để chủ động tổ chức vào quản lý lưu thông tư liệu sản xuất, gắn nó với sản xuất, phục vụ và thúc đẩy sản xuất và đáp ứng tốt các nhu cầu của sản xuất, đời sống và quốc phòng. Mặt khác phạm trù lưu thông tư liệu sản xuất là những đòn bẩy kinh tế có hiệu lực rất nhạy bén do đó phải phát huy được tác dụng đòn bẩy của chính sách lưu thông tư liệu sản xuất phân phối, thúc đẩy sản xuất và lưu thông tư liệu sản xuất theo kế hoạch, thúc đẩy hạch toán kinh tế. Chúng ta khẳng định lấy kế hoạch hoá làm chính để quản lý lưu thông tư liệu sản xuất phân phối, nhưng đó không phải là kế hoạch hoá tập trung quan liêu mà là kế hoạch hoá bảo đảm sự kết hợp lãnh đạo tập trung của Nhà nước với mở rộng quyền chủ động của các ngành, các cấp nhất là cơ sở. Chúng ta khẳng định các chính sách lưu thông tư liệu sản xuất phân phối là những đòn bẩy kinh tế, nhưng là những đòn bẩy thúc đẩy sản xuất, kinh doanh có hiệu quả theo phương hướng của kế hoạch, thực hiện tốt hạch toán kinh tế. Do đó phải khắc phục tính chất hành chính - bao cấp trong các chính sách lưu thông tư liệu sản xuất phân phối. Hoạt động lưu thông tư liệu sản xuất phân phối chủ yếu biểu hiện dưới hình thức quan hệ hàng hoá - tiền tệ. Do đó trong công tác phân phối lưu thông tư liệu sản xuất, biết vận dụng đúng đắn các phạm trù giá trị và quy luật giá trị, biết mở rộng thị trường có tổ chức và quản lý thị trường không có tổ chức. Cần thấy rằng phạm trù giá trị chỉ là hình thức, là phương tiện để lưu thông tư liệu sản xuất phân phối, để phân chia và đưa sản phẩm từ sản xuất đến tiêu dùng. Cho nên trong công tác lưu thông tư liệu sản xuất phân phối phải coi trọng mặt giá trị, coi trọng quy luật giá trị. Nhưng phải luôn luôn coi giá trị sử dụng là quan trọng nhất vì chỉ có giá trị sử dụng mới đáp ứng được nhu cầu của xã hội về sản xuất.
+ Muốn giải quyết đúng đắn vấn đề lưu thông tư liệu sản xuất bảo đảm thúc đẩy sản xuất, ổn định cải thiện đời sống thì các chính sách lưu thông tư liệu sản xuất, kết hợp tốt ba lợi ích xã hội, tập thể, cá nhân. Kết hợp ba lợi ích phải căn cứ vào tình hình và nhiệm vụ của từng thời kỳ. Trong điều kiện hiện nay phải chú ý hơn nữa đến nhu cầu về đời sống của người lao động, người sản xuất, vì từ lao động và sản xuất mà tạo ra mọi của cải và thu nhập quốc dân để phân phối cho ba lợi ích. Xét về bản chất ba lợi ích là thống nhất, song cũng có những mặt mâu thuẫn, lưu thông tư liệu sản xuất, khắc phục những mặt mâu thuẫn đấy, bảo đảm cho ba lợi ích đó kết hợp hài hoà với nhau tạo ra động lực thúc đẩy người lao động, các đơn vị cơ sở, các ngành và địa phương chăm lo đẩy mạnh sản xuất, tăng năng suất lao động và hiệu quả kinh tế.
+ Lưu thông tư liệu sản xuất phải bảo đảm tốt mối quan hệ giữa công nghiệp với nông nghiệp, củng cố liên minh công - nông. Kết hợp công nghiệp với nông nghiệp, xây dựng cơ cấu kinh tế là một nội dung cơ bản của chúng ta hiện nay. Để giải quyết đúng đắn các mối quan hệ đó, trong lĩnh vực lưu thông tư liệu sản xuất phải có các chính sách và phương thức đúng đắn để tổ chức và trao đổi sản phẩm giữa Nhà nước và nông dân, thực hiện sự viện trợ tài chính và kỹ thuật cho nông nghiệp. Huy động nguồn tích luỹ từ nông nghiệp cho công nghiệp, cải thiện đời sống nhân dân. Chính sách lưu thông tư liệu sản xuất phải thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển, tăng nhanh sản phẩm hàng hoá phục vụ đời sống, và tạo nguyên liệu cho công nghiệp, tăng xuất khẩu.
1.3.4. Nhà nước và tổ chức lưu thông tư liệu sản xuất tư liệu sản xuất trong nền kinh tế thị trường
Ưu điểm của cơ chế thị trường:
+ Cơ chế thị trường có khả năng tự động điều tiết nền sản xuất xã hội, tự động phân bổ các nguồn tài nguyên vào các khu vực, các ngành kinh tế mà không cần bất cứ sự điều khiển từ trung tâm nào.
+ Cơ chế thị trường, với sự dẫn dắt của động lực lợi nhuận có thể phát huy cao nhất tính năng động, tài năng của mỗi người. Kích thích áp dụng kỹ thuật mới, giảm chi phí sản xuất, sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả các nguồn lực... thúc đẩy LLSX phát triển, tăng trưởng kinh tế cả theo chiều rộng và chiều sâu.
+ Cơ chế thị trường có thể đáp ứng nhu cầu đa dạng, phong phú của con người và xã hội. Cơ chế thị trường buộc người sản xuất phải không ngừng cải tiến kỹ thuật, mẫu mã sản phẩm để phù hợp với sở thích và lợi ích của người tiêu dùng, trên cơ sở thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng mà tối đa hoá lợi nhuận, từ đó làm cho chất lượng cuộc sống không ngừng được nâng cao.
+ Nhờ những ưu thế của mình, cơ chế thị trường có khả năng đảm bảo tốc độ tăng trưởng và phát triển nhanh chóng về kinh tế, thúc đẩy tiền bộ xã hội mà không một cơ chế nào trước đây có thể sánh được. Paul A.samuelson nhận xét rằng:”Một nền kinh tế thị trường là một cơ chế tinh vi để phối hợp một cách không tự giác nhân dân và doanh nghiệp thông qua hệ thống giá cả và thị trường. Nó là một phương tiện để giao tiếp, để tập hợp tri thức của hàng triệu cá nhân khác nhau, không có bộ óc trung tâm, nó vẫn giải được bài toán mà máy tính lớn nhất ngày nay không thể giải được. Không ai thiết kế ra nó, nó tự xuất hiện và cũng như xã hội của loài người nó đang thay đổi.”
Những nhược điểm của cơ chế thị trường:
+ Cơ chế thị trường có thể gây ra những mât ổn định và thường xuyên phá vỡ cân đối trong nền sản xuất xã hội. Thực tế phát triển kinh tế thị trường chỉ rõ những vấn đề lạm phát và thất nghiệp, chu kỳ kinh doanh luôn là những căn bệnh kinh niên không thể khắc phục được nếu không có sự can thiệp của nhà nước.
+ Cơ chế thị trường bao hàm cả những thất bại thị trường, nó là môi trường đẻ ra các tệ nạn kinh tế như buôn lậu, hàng giả, lừa đảo, cạnh tranh không lành mạnh.... làm giảm hiệu quả của nền kinh tế.
+ Cơ chế thị trường có xu hướng làm cho sự phân hoá thu nhập ngày càng tăng giữa các tầng lớp dân cư, gây ra những bất bình đẳng về kinh tế trong xã hội.
+ Trong cơ chế thị trường, vì mục tiêu lợi ích cá nhân, một số hoạt động kinh tế có khả năng là tăng mức ô nhiễm môi trường, tâm lý chạy theo đồng tiền làm xuất hiện lối sống ích kỷ, thực dụng, có thể gây ra những hậu quả xấu về mặt xã hội.
+ Hơn nữa, các lĩnh vực hoạt động rất cần cho sự ổn định và tăng trưởng kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội như có mức sinh lợi thấp, thời gian thu hồi vốn chậm thường không được giới kinh doanh chú ý đầu tư phát triển,
Qua sự phân tích trên cho thấy, nền kinh tế thị trường không phải là một hệ thống được tổ chức hài hoà mà bản thân hệ thống đó chứa đựng rất nhiều nhược điểm. Những khuyết tật của cơ chế thị trường cần phải được khắc phục hạn chế. Song bản thân thị trường không thể tự giải quyết những vấn đề đó. Vì vậy, kinh tế thị trường ngày nay không thể thiếu được vai trò quản lý của nhà nước. Kinh tế thị trường không phải là gậy thần, liều thuốc vạn năng. Thành công của mỗi quốc gia khi chuyển sang kinh tế thị trường chủ yếu phụ thuộc vào sự kết hợp giữa khả năng điều tiết của thị trường (bàn tay vô hình) và sự quản lý điều tiết của nhà nước (bàn tay hữu hình). Đến nay vai trò của nhà nước trong kinh tế thị trường đã được khẳng định cả về mặt lý luận và thực tiễn. Vấn đề chỉ còn là sự vận dụng trong từng điều kiện và hoàn cảnh cụ thể như thế nào để đảm bảo có hiệu và thành công. Vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường được thể hiện ở những mặt sau đây:
- Thứ nhất: Nhà nước tạo môi trường diều kiện cho kinh tế thị trường phát triển. Nhà nước bảo đảm sự ổn định về mặt kinh tế, chính trị xã hội. Nhà nước tập trung xây dựng cơ sở vật chất, tài chính, giáo dục và luật pháp. Đối với những nước mới chuyển sang cơ chế thị trường như nước ta thì phải chú ý nhiều đến kết cấu hạ tầng, luật pháp và giáo dục.
-Thứ hai: Nhà nước định hướng sự phát triển nền kinh tế thông qua việc xây dựng và tổ chức thực hện các chiến lược kinh tế xã hội, các chương trình mục tiêu, các kế hoạch ngắn và dài hạn.
-Thứ ba: Nhà nước bảo đảm dân chủ, công bằng xã hội. Xây dựng một xã hội văn minh, dân chủ rộng rãi, tôn trọng nhân cách của con người là điều kiện cho sự phát triển của xã hội. Trong kinh tế thị trường, sự phân hoá giàu nghèo và giai tầng rất lớn. Nhà nước cần phải có các chính sách xã hội hợp lý để bảo đảm cuộc sống của những người nghèo và các đối tượng chính sách xã hội; bảo đảm cho mọi người được tự do hành nghề, bình đẳng trước pháp luật; bảo đảm môi trường vật chất tinh thần cho mọi công dân.
-Thứ tư: Nhà nước trực tiếp quản lý các doanh nghiệp nhà nước. Các doanh nghiệp này ra đời do kết quả của quốc hữu hoá các doanh nghiệp tư nhân, xây dựng mới các doanh nghiệp trong quá trình phát triển kinh tế xã hội. Đây là những doanh nghiệp mà nhà nước dựa vào để điều tiết và điều chỉnh nền kinh tế, bảo đảm cho sự phát triển cân đối cho nền kinh té quốc dân và có thu nhập để trang trải một phần các chi phí hoạt động của bộ máy nhà nước.
Đối với tổ chức lưu thông tư liệu sản xuất trong nền kinh tế thị trường nhà nước, vai trò của Nhà nước thể hiện trên các mặt sau đây:
+ Phải khẩn trương chấn chỉnh lại tổ chức sản xuất và điều chỉnh kế hoạch trong tất cả các ngành, các địa phương, các đơn vị kinh tế trên cơ sở phát huy mọi tiềm năng tiềm tàng và hiện thực các điều kiện vật chất thực tế hiện nay như năng lượng, nguyên liệu lao động thiết bị, phân bón,... tập trung điều kiện vật chất cho các doanh nghiệp chủ yếu. Ra sức khai thác nguồn vật tư có thể khai thác, nhất là vật tư tồn kho tận dung lao động để duy trì và đẩy mạnh sản xuất. Nếu điều kiện vật chất không bảo đảm phải chuyển hướng sản xuất.
+ Đẩy mạnh xuất khẩu, nhập khẩu đề phát triển sản xuất. Các cấp các ngành, các doanh nghiệp phải chủ động tích cực khai thác mọi tiềm năng để sản xuất ra nhiều sản phẩm hơn, có năng suất cao hơn với những điều kiện vật chất Nhà nước cung cấp bằng hoặc ít hơn trước. Thi hành nghiêm ngặt chế độ tiết kiệm, nhất là tiết kiệm năng lượng, nhiên liệu, nguyên liệu,...
+ Trên cơ sở đẩy mạnh sản xuất, phải đảm bảo tập trung nguồn hàng vào tay Nhà nước, trước hết là những mặt hàng quan trọng đối với sản xuất như phân bón, xăng dầu, sắt thép,...vv.
+ ổn định tài chính tiền tệ vừa là mục tiêu vừa là điều kiện quan trọng để cải tiến công tác lưu thông tư liệu sản xuất, góp phần khắc phục mất cân đối cung cầu ổn định kinh tế. Biện pháp cơ bản để ổn định tài chính tiền tệ là dựa trên cơ sở đẩy mạnh sản xuất, tập trung nguồn hàng vào tay Nhà nước, cải tiến toàn bộ công tác lưu thông phân phối, thực hiện bằng được việc cân đối ngân sách một cách vững chắc bằng các biện pháp tăng thu, tiết kiệm chi.
2-/ Những vấn đề cơ bản của tổ chức lưu thông phân bón vô cơ trên thị trường Việt Nam
2.1-/ Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp ở việt nam và vai trò của phân bón vô cơ
Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp ở Việt nam
Trước năm 1950, trong sản xuất nông nghiệp người nông dân Việt Nam dường như chỉ dùng các loại phân hữu cơ (phân chuồng, phân xanh, phân bùn, phân bắc....) để bón cho các loại cây trồng. Phân hữu cơ có những ưu điểm là: làm cho đất tơi xốp, từng bước được cải tạo, nâng cao dần độ màu mỡ của đất, song nhược điểm là phân huỷ lâu, cây trồng sử dụng được ít. Vì thế năng suất cây trồng tăng chậm. Từ những năm 1960 trở lại đây, các loại phân bón vô cơ như ure, kali, lân.... được đưa vào sử dụng ngày một tăng ở Việt Nam. Ngày nay, để vừa cải tạo đất, vừa nâng cao năng suất cây trồng người nông dân Việt Nam thường dùng kết hợp giữa phân hữu cơ và phân vô cơ. Tuy nhiên phân hữu cơ chủ yếu được dùng từ miềnTrung trở ra và thường là các hộ nông dân, ai có bao nhiêu dùng bấy nhiêu, nó không phải là hàng hoá mua bán trên thị trường như phân vô cơ. ở đồng bằng Sông Cửu Long do đồng ruộng hàng năm luôn được phù xa bồi đắp nên người nông dân không có tập quán dùng phân hưũ cơ để bón ruộng.
Nói tới Cung- cầu về phân vô cơ là nói tới nhu cầu của người dân về loại phân này và khả năng cung ứng của các loại doanh nghiệp (thuộc mọi thành phần kinh tế ) cho họ. Tuy nhiên phân bón là một mặt hàng khá đặc biệt về cầu và cung. Mặt hàng này ở Việt Nam có những nét đặc trưng riêng hơi khác so với thị trường phân bón bình thường ở các nước có nền kinh tế phát triển hoàn hảo.
Thứ nhất, nông nghiệp là ngành có lịch sử phát triển lâu đời. Nó mang tính kế thừa sâu sắc về các kỹ thuật gieo trồng từ đời nọ sang đời kia qua hàng nghìn năm với tính bảo thủ cao và khó thay đổi.
Thứ hai, lao động trong nông nghiệp chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số lực lượng lao động nhất là ở những nước nông nghiệp như nước ta, những giá trị sản xuất nông nghiệp lại thấp hơn. Tuy nhiên, xu hướng biến đổi tỷ trọng nông nghiệp giảm dần về mặt số lao động và giá trị sản lượng. Theo quy luật tiêu thụ sản phẩm, sản phẩm nông nghiệp là sản phẩm thiết yếu, con người chỉ có thể tiêu dùng ở một mức độ nhất định mà không thể tăng mức tiêu dùng lên cao mãi được. Ngày nay, năng suất lao động ngày càng tăng, nên lao động cần cho sản xuất giảm. Như các ngành khác, nông nghiệp sẽ dần dần được cơ giới hoá sử dụng nhiều máy móc và chỉ cần ít người làm.
Thứ ba, sản xuất nông nghiệp phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan như đất đai, thời tiết, nguồn nước....Trong đó đất đai giữ vai trò quyết định, đây là tư liệu sản xuất cơ bản của sản xuất nông nghiệp. Gắn liền vơí vai trò chủ đạo của đất đai là ảnh hưởng của thời tiết- yếu tố quan trọng quyết định sản lượng của nông nghiệp cao hay thấp. Trong nông nghiệp sự khác nhau về chất lượng đất trồng, khí hậu và nguồn nước sẵn dẫn đến việc sản xuất lương thực khác nhau và các biện pháp để nâng cao năng suất của mùa vụ cũng khác nhau. Tuy khối lượng chất dinh dưỡng trong đất rất lớn nhưng trên thực tế cây trồng không thể huy động hết được. Mặt khác, tỷ lệ chất dinh dưỡng trong đất không giống nhau. Có loại đất chứa nhiều đạm nhưng ít lân, Ka li và ngược lại. Ngoài ra, chất dinh dưỡng còn bị các loại cây trên mặt đất sử dụng hoặc đất bị rửa trôi. Do đó mà việc sử dụng phân bón cho đất, cho cây là rất cần thiết.
Phân bón vô cơ và vai trò phân bón vô cơ trong nông nghiệp
Phân bón đã từng là một trong những nhân tố quan trọng (cùng với giống và thuỷ lợi) của cách mạng xanh, giúp cho nhiều nước đông dân tự túc được lương thực thoát khỏi đói nghèo.
Trước đây sản lượng ngũ cốc chủ yếu đưa vào 2 yếu tố: Diện tích và năng suất. Trong thời gian gần đây khi diện tích đất canh tác ngày càng tới gần giới hạn tối đa thì vai trò năng suất ngày càng quan trọng.Theo tính toán của IFPRI năm 1996, hiện nay tăng năng suất đóng góp trên 80% tăng sản lượng ngũ cốc và trong tương lai, việc tăng sản lượng sẽ cũng dựa vào tăng năng suất. Để đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, thâm canh gần như là giải pháp duy nhất đối với Việt Nam. Mà trong thâm canh, vai trò của phân bón lại càng quan trọng, phân bón có thể góp phần tăng năng suất cây trồng qua nhiều cơ chế tác động khác nhau. Song quan trọng hơn cả là phân bón cung cấp cho cây trồng những dinh dưỡng cần thiết mà đất không đủ khả năng cung cấp, góp phần duy trì độ phì nhiêu của đất trong canh tác. Thêm nữa, cùng với năng suất kinh tế, phân bón góp phần tăng lượng sinh khối và nhờ đó tăng hữu cơ trở lại cho đất- yếu tố cực kỳ quan trọng với đất nhiệt đới.
Cùng với gieo cấy các giống mới, việc nâng cao hệ số sử dụng đất thông qua tăng vụ cũng là nguyên nhân làm cho nhu cầu dinh dưỡng phải bổ sung tăng lên. Như vậy, ngoài những nguyên nhân gây thoái hoá đất như sói mòn, rửa trôi.... thì việc không đảm bảo cân bằng giữa lượng dinh dưỡng được bón vào đất cũng là một yếu tố làm đất thoái hoá (dạng thoái hoá này có xu hướng tăng lên).
ở những vùng đồi núi nơi mà nông dân có tập quán du canh thì trước đây thông thường chu kỳ bỏ hoá là 10- 15 năm. Hiện nay do áp lực về dân số nên chu kỳ bỏ hoá chỉ còn 5 năm, thậm chí 3 năm. Như vậy về mặt thời gian không đủ cho đất phục hồi phì nhiêu một cách tự nhiên. Việc xoá bỏ du canh, thiết lập một nền tảng thâm canh, trong đó cân bằng dinh dưỡng thông qua phân bón giữ một vị trí quyết định.
Ngoài ra, việc bón phân không những chỉ là cung cấp dinh dưỡng mà còn có ý nghĩa cải tạo đất, hoặc loại trừ các yếu tố hạn chế năng suất trong đất. Trong một số trường hợp, phân bón (nhất là Lân, Kali và một vài nguyên tố vi lượng khác) còn thúc đẩy quá trình cố định đạm của cây Bộ đậu, và tăng cường dinh dưỡng cho đất. Đồng thời việc kết hợp hài hoà các nguồn dinh dưỡng như hữu cơ, phân khoáng, phân sinh học... sẽ đảm bảo cho một nền thâm canh ổn định.
Khuyến nông phân bón.
(Chương trình thực hiện ở 15 tỉnh với 3726 ha )
Phương pháp bón Quy mô Số HTX Số hộ Sản lượng
tham gia tăng (Tấn)
- Bón phân cân đối cho
lúa vàng thâm canh 1.000 29 10610 800
- Bón phân cân đối cho
vùng nghèo dinh dưỡng 448 22 4.272 535
- Bón phân cân đối cho
vùng trũng 300 16 3.185 150
- Bón phân cân đối cho
vùng mặn 350 10 2.281 277
- Sử dụng các chế
phẩm vi sinh 538 27 5.686 215
- Bón phân phun lá 490 23 5.200 190
- Bón phân cân đối cho Ngô 300 17 3.110 -
- Bón phân cân đối cho
đậu tương 250 26 3.036 -
- Bón phân cân đối cho lạc 50 2 698 58
Cộng 3.726 172 38.120 2.225
Mặc dù đã có nhiều tiến bộ trong sử dụng phân bón vô cơ, song hệ số sử dụng phân đạm ở Việt Nam cũng chỉ mới đạt 30- 40%, phân lân và kali khoảng 50- 60%. Một lượng lớn phân vô cơ bị mất đi do rửa trôi, xói mòn, bay hơi, cố định chặt.... Chỉ tính riêng với phân đạm, hàng năm chúng ta mất đi xấp xỉ 1- 1,2 triệu tấn (quy ure) với giá trị hàng triệu USD/ năm, còn chưa kể đến những tác động môi trường do sự mất mát này đem lại. Bón phân cân đối hiện nay được coi là giải pháp quan trọng nhất để năng cao hiệu lực phân bón. Theo tổng kết của FAO, bón phân không cân đối có thể giảm hiệu lực phân bón từ 20- 50%. ở các nước đang phát triển như Việt Nam hiên nay, việc sử dụng không cân đối dinh dưỡng với liều lượng phân đạm tương đối cao đã làm giảm hiệu lực phân bón (khái niệm cân đối bao gồm: cân đối về nhu cầu và lượng hút của cây trồng, cân đối giữa các chất dinh dưỡng tại các thơì kỳ sinh trưởng khác nhau, cân đối với các điều kiện tự nhiên liên quan đến hiệu lực phân bón, cũng như cân đối với từng loại cây trồng trong một hệ thống luân canh). Tóm lại, phân bón nói chung và phân bón vô cơ nói riêng rất cần cho cây trồng. Song để sử dụng mang lại kết quả như mong muốn thì phải quan tâm và nghiên cứu đến tính chất, tác dụng từng loại phân cũng như đặc điểm đất đai, sử dụng hợp lý và đúng thời vụ.
2.2-/ Vai trò của tổ chức lưu thông phân bón vô cơ có hiệu quả trên thị trường Việt nam
Mọi hoạt động và con người suy cho cùng cũng đều nhằm đạt một hiệu quả nhất định. Tổ chức lưu thông phân bón vô cơ cũng không nằm ngoài quy luật này. Mục đích của việc đánh giá hiệu quả tổ chức lưu thông phân bón vô cơ nhằm qua đó giúp ta có cơ sở để rút ra những ưu điểm và hạn chế của các phương thức hoạt động. Trên cơ sở đó có thể đưa ra những giải pháp để hoàn thiện hệ thống hoạt động của nó.
Quan điểm đánh giá:
-Toàn diện: nên đánh giá trên nhiều khía cạnh khác nhau như việc bảo đảm đủ phân bón, kịp thời vụ, năng suất, sản lượng cây trồng, vấn đề lợi nhuận của người làm dịch vụ. Cần bảo đảm hài hoà giữa lợi ích của người làm dịch vụ, người tiêu dùng, lợi ích của Nhà nước, xã hội.
-Khách quan: điều này đòi hỏi cần phải tôn trọng bản chất vốn có của sự vật, không nên áp đặt những ý muốn chủ quan. Mọi sự đánh giá phải được thể hiện một cách cụ thể nghĩa là có thể đo, đếm được, hoặc ít ra cũng có thể nêu lên được những xu hướng.
Về các chỉ tiêu:
Để phản ánh được kết quả của việc đánh giá cần phải có các chỉ tiêu. Các chỉ tiêu chính là phương tiện giúp ta có thể phản ánh việc đánh giá hiệu quả tổ chức lưu thông phân bón vô cơ. Thông qua các chỉ tiêu này có thể biểu hiện được hiệu quả của một quá trình tổ chức lưu thông phân bón vô cơ.
Các chỉ tiêu bao gồm:
2.2.1. Phát triển nông nghiệp- mục tiêu mũi nhọn của nền kinh tế việt nam
Khi đánh giá về những thành tựu đạt được trong sự nghiệp đổi mới kinh tế Việt Nam, các nhà kinh tế thế giới đều thống nhất nhận định rằng: Thành công lớn nhất là nông nghiệp. Điều đó hoàn toàn đúng, nông nghiệp Việt Nam bắt đầu đổi mới cơ chế quản lý từ sau Nghị quyết 10(4/1988). Nếu trước đổi mới nông nghiệp Việt Nam mang nặng tính tự túc tự cấp, làm không đủ ăn, lương thực thiếu triền miên từ năm này qua năm khác thì từ sau đổi mới, tình hình đã khác hẳn. Nông nghiệp Việt Nam hiện nay được xem là ngành quan trọng để phát triển kinh tế đất nước. Vai trò của nó được thể hiện như sau:
+ Sản xuất nông nghiệp đóng vai trò quan trọng trong quá trình tích luỹ vốn cho Công nghiệp hoá.
Trong nhiều năm trước đây, nông nghiệp đã tạo ra trên 40% thu nhập quốc dân sản xuất và hiện nay ngành này đang tạo ra gần 30% GDP và hơn 45% giá trị xuất khẩu của cả nước.
Tích luỹ từ nông nghiệp tuy không lớn về ngoại tệ, nhưng lại diễn ra trên phạm vi rộng (trên 10 triệu hộ nông nghiệp). Tích luỹ từ ngành này được thực hiện trực tiếp thông qua thuế nông nghiệp trước đây(nay là thuế sử dụng đất nông nghiệp). Đối với các Tỉnh, Huyện nông nghiệp thì đây là nguồn thu chủ yếu.
Biểu 1: tỷ lệ thuế nông nghiệp trong tổng thu ngân sách và GDP nông nghiệp (1993- 1998)
Năm
Tỷ lệ thuế nông nghiệp so với
Tổng thu ngân sách
Tổng GDP nông nghiệp
1993
4,7%
1,9%
1994
6,7%
2,3%
1995
6,1%
3,6%
1996
4,2%
3,3%
1997
2,7%
2,4%
1998
2,7%
2,5%
Mức và tỷ lệ đóng góp của thuế nông nghiệp vào ngân sách nhà nước và vào GDP tuy không lớn nhưng là nguồn thu ổn định, có ý nghĩa rất quan trọng đến sự phát triển kinh tế địa phương trong bước đi ban đầu của thời kỳ công nghiệp hoá.
+ Sản xuất nông nghiệp là nguồn cung cấp ngoại tệ nhờ xuất khẩu: Để hiện đại hoá và công nghiệp hoá đất nước thì nước ta phải tạo điều kiện dựa vào thế mạnh của mình- đó là sự thuận lợi cho phát triển nông nghiệp và sản xuất hàng tiêu dùng. Nhờ vậy sản phẩm nông nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc xuất khẩu, tạo điều kiện cho việc mở rộng và phân công hợp tác quốc tế.
+ Nông nghiệp và nông thôn là thị trường rộng lớn của công nghiệp và dịch vụ vì khu vực này chiếm 80% dân số cả nước. Có thể nói răng sức mua của nông dân có vai trò cực kỳ quan trọng, đôi khi là quyết định đối với quy mô và tốc đọ phát triển của công nghiệp và dịch vụ. Vì vậy, muốn phát triển kinh tế bền vững và ổn định phải dựa vào thị trường trong nước, trước hết là nông dân. Sức mua của thị trường này hiện nay còn rất thấp cho nên tiềm năng có thể khai thác là rất lớn. Nông dân càng giàu thì chênh lệch giữa nông thôn và thành thị càng thấp, sức mạnh của nông dân càng cao, tăng trương kinh tế càng lớn và ổn định. Ngược lai, thu nhập của nông dân càng thấp, chênh lệch mức sống giữa nông thôn và thành thị càng cao thì sức mua của nông thôn sẽ giảm, kéo theo nhiều vấn đề phức tạp như tỷ lệ đói nghèo cao, di cư từ nông thôn ra thành thị sẽ tăng, tỷ lệ thất nghiệp, lạm phát làm chậm quá trình tăng trưởng kinh tế.
+ Sản xuất nông nghiệp là nguồn cung cấp lương thực, thực phẩm cho đời sống và cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp. Cho đến nay, lương thực thực phẩm tạo ra từ nông nghiệp vẫn là nguồn nuôi dưỡng không thể thiếu được của xã hội loài người. Nhu cầu lương thực, thực phẩm ngày càng tăng do dân số ngày càng nhiều, cũng như qua trình công nghiệp hoá gắn liền với sự tăng liên tục của lực lượng lao động phi nông nghiệp. Lương thực, thực phẩm không những là yếu tố vật chất cơ bản nuôi sống con người mà còn cung cấp các nguyên liệu cần thíêt cho Công nghiệp chế biến. Quy mô và tốc độ tăng trưởng của công nghiệp chế biến phụ thuộc vào quy mô và tốc độ phát triển nông nghiệp. Hiện nay công nghiệp chế biến ở ở nước ta chưa đạt đến trình độ cao. Nhiều nông sản nguyên liệu vẫn phải xuất thô, giá trị thấp như cà phê nhân, cao su tấm, cao su xốp, chè sơ chế, thuỷ sản đông lạnh, gỗ ván sàn.... cùng với quá trình công nghiệp hoá, tình trạng đó sẽ được khắc phục dần bằng việc xuất khẩu các sản phẩm tinh chế qua công nghiệp kỹ thuật cao. Khi đó vai trò của nông nghiệp trong việc cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp càng tăng lên.
+ Nông nghiệp còn là nguồn cung cấp nhân lực cho công nghiệp và dịch vụ. Học thuyết về kinh tế và thực tiễn các nước đã qua công nghiệp hoá chỉ ra rằng, quá trình phát triển kinh tế theo hướng hiện đại đều gắn kết với việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động từ nông thôn ra thành thị, từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp. Công nghiệp hoá gắn liền với thành thị hoá và thu hút nguồn lao động từ nông nghiệp chuyển sang các ngành phi nông nghiệp. Quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá không đòi hỏi tăng nhanh số lượng lao động vào các hoạt động thuần tuý Công nghiệp nhưng đòi hỏi nhiều hoạt động dịch vụ hỗ trợ như vận chuyển, bao bì, đóng gói, phân loại sản phẩm, nhận hàng, tiếp thị, thông tin thị trường, y tế, văn hoá, giáo dục,....khi các hoạt động này tăng lên tất yếu đòi hỏi nguồn lao động bổ sung rất lớn từ nông nghiệp.
Từ sự phân tích trên, chúng ta có thể thấy rằng nông nghiệp giữ một vị trí cực kỳ quan trọng trong sự phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. Chính vì vậy, Đảng ta đã khẳng định: Phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn đã, đang và sẽ còn là mối quan tâm hàng đầu có vai trò quyết định đối với việc ổn định tình hình kinh tế, xã hội, tạo cơ sở cho phát triển công nghiệp.
2.2.2. ổn định thị trường phân bón vô cơ trong nước và đảm bảo có hiệu quả quá trình sản xuất kinh doanh và tiêu dùng phân bón vô cơ ở Việt nam
- Đối với người tiêu dùng (chủ yếu là nông dân) cần được thể hiện trên những chỉ tiêu sau:
Đủ phân bón tư cho sản xuất.
Kịp thời vụ.
Giá cả hợp lý.
Chất lượng đảm bảo.
Mua bán thuận tiện.
Sử dụng vật tư có hiệu quả và an toàn.
- Đối với nhà kinh doanh.
Có lợi nhuận hợp lý. Là chỉ tiêu quan trọng vì bất cứ nhà kinh doanh nào cũng cần có lợi nhuận để nuôi sống bản thân họ, tích luỹ để mở rộng sản xuất, kinh doanh.
Tạo được sự năng động và luôn đổi mới trong hoạt động kinh doanh, tạo sự cạnh tranh giữa người nhà kinh doanh, thúc đẩy các tiến bộ kỹ thuật về khoa học, công nghệ, quản lý nhằm hạ giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ. Nếu mất đi tính năng động này sẽ làm cho hoạt động của các doanh nghiệp thiếu cải tiến, dẫn đến chất lượng dịch vụ kém, có hại cho người tiêu dùng, Nhà nước và xã hội.
2.2.3. Đối với Nhà nước.
Có lợi nhuận hoặc bù lỗ ít nhất.
Cũng có trường hợp Nhà nước buộc phải bù lỗ vì một lý do nào đó như cấp kinh phí để trợ giá cước vận tải cho các vùng xa (phân bón cho các vùng miền núi, phân lân từ các nhà máy phía Bắc chở vào Nam, kinh phí cho dự trữ phân bón, bù lỗ cho phân đạm sản xuất trong nước). Tuy nhiên ngay cả trong trường hợp cần bù lỗ thì cũng cần phải tính toán sao cho chi phí do Nhà nước bỏ ra là hợp lý nhất.
Giảm bớt sự bận rộn trong điều hành. Đây là một chỉ tiêu quan trọng. Việc Nhà nước cần phải can thiệp vào các quá trình kinh tế là cần thiết. Vấn đề là ở chỗ can thiệp vào khâu nào, vào lúc nào và can thiệp như thế nào cho có hiệu quả. Nguyên tắc chung là Nhà nước cần giảm sự can thiệp trực tiếp vào các quá trình sản xuất, kinh doanh.
Nhiệm vụ của Nhà nước là tạo ra các chính sách vĩ mô hợp lí. Sự can thiệp không đúng sẽ làm cho Chính phủ mất rất nhiều thời gian để điều hành, xử lý những công việc có tính chất sự vụ nhưng kết quả cuối cùng thị trường vẫn bị rối loạn và kém hiệu quả.
Bảo đảm uy tín của Chính phủ.
Đây cũng là một trong các chỉ tiêu cần được xem xét. Nếu có giải pháp đúng, hoạt động tổ chức lưu thông phân bón vô cơ phát triển tốt, nông dân, Nhà nước, doanh nghiệp và xã hội đều có lợi. Uy tín của Chính phủ được nâng cao và ngược lại. Một “cơn sốt” về giá phân bón, sẽ giảm bớt uy tín của Chính phủ.
2.2.4. Đối với xã hội và môi trường
Ngày nay khi các hoá chất được dùng ngày càng nhiều trong nông nghiệp, nếu không sử dụng hợp lí sẽ ảnh hưởng lớn đến chất lượng sản phẩm nhất là các mặt hàng lượng thực thực phẩm, gây tác hại lớn đến sức khoẻ của con người. Một nền công nghiệp với những sản phẩm sạch ngày càng trở nên quan trọng.
Việc sử dụng nhiều các hoá chất trong nông nghiệp đã và đang gây ra mối lo cho nhiều người vì có nguy cơ gây ô nhiễm các nguồn nước, không khí, gây chết người do nhiều nguyên nhân.
2.3-/ Các nội dung cơ bản của tổ chức lưu thông phân bón vô cơ trên thị trường ở Việt nam
2.3.1. Hệ thống các quan điểm về tổ chức lưu thông phân bón vô cơ ở Việt nam
Quá trình chuyển sang cơ chế thị trường trong lĩnh vực lưu thông hàng hoá nói chung và phân bón vô cơ nói riêng chính là quá trình từng bước tiến tới tự do hoá lưu thông. Các chính sách lưu thông hàng hoá của Nhà nước ta từ năm 1988 đến nay được định hướng vào từng bước giảm độc quyền Nhà nước, tiến tới tự do hoá lưu thông. Chính sách tự do hoá lưu thông hàng hoá được định hình ở những nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất: xoá bỏ tình trạng độc quyền cao độ về lưu thông hàng hoá của hệ thống TNQD, xoá bỏ tình trạng “ngăn sống cấm chợ”, cắt khúc thị trường theo “nấc thang” và địa giới hành chính, cho phép các thành phần kinh tế được lưu thông hàng hoá theo pháp luật, hình thành một thị trường nội địa thống nhất.
Thứ hai: đa dạng hoá các hình thức và các kênh lưu thông hàng hoá, đảm bảo cho hàng hoá vận động theo con đường ngắn nhất từ sản xuất đến tiêu dùng, giảm tối đa các đầu mối tầng nấc trung gian trong lưu thông hàng hoá, gắn chặt sản xuất với tiêu thụ sản phẩm.
Thứ ba: đa dạng hoá mặt hàng kinh doanh và sử dụng tổng hợp các nguồn vốn tham gia vào lưu thông hàng hoá.
Thứ tư: mở rộng giao lưu hàng hoá và xuất nhập hànghoá qua biên giới nhằm đảm bảo thông thương và phát triển thị trường các vùng biên giới phía Bắc và Tây Nam, góp phần phát triển kinh tế - xã hội vùng núi, vùng đồng bào dân tộc ít người.
Các định chế của Nhà nước về kiểm soát, quản lí hoạt động lưu thông hàng hoá nói chung và phân bón vô cơ nói riêng trên thị trường, trong quá trình chuyển sang tự do hoá lưu thông ở nước ta:
Tự do hoá lưu thông không đồng nghĩa với tự do tuỳ tiện mà là lưu thông tự do theo Pháp luật qui định. Liên quan tới lĩnh vực này có các định chế sau:
Thứ nhất: những định chế quản lý, xử lý vi phạm chính sách đối tượng kinh doanh và chính sách mặt hàng của Nhà nước trong lưu thông hàng hoá.
Thứ hai: các định chế quản lý, kiểm soát lưu thông hàng hoá, chống nhập lậu, buôn lậu hàng hoá.
Thứ ba: những định chế kiểm soát, quản lý lưu thông nhằm chống lưu thông hàng giả, hàng không đảm bảo chất lượng.
2.3.2. Phân bón vô cơ- đối tượng quản lý và điều tiết của nhà nước.
Như trên đã phân tích, phân bón vô cơ là một trong những yếu tố quan trọng trong sản xuất nông nghiệp (là một loại tư liệu sản xuất) nó giúp cho nhiều nước đông dân trên thế giới tự túc được lương thực, thoát khỏi đói nghèo. Đồng thời phân bón vô cơ cũng là mặt hàng kinh doanh có nhiều rủi ro cả cho những nhà sản xuất lẫn doanh nghiệp lưu thông tư liệu sản xuất.
ở nước ta, có tới 80% dân số làm nông nghiệp, trong những năm tiến hành công cuộc đổi mới gần đây, nền nông nghiệp nước nhà có những bước phát triển tương đối ổn định, đã góp phần tăng trưởng kinh tế chung của đất nước, sản lượng lương thực mỗi năm một tăng, từ chỗ hàng năm thiếu ăn về lương thực, tới nay chúng ta không những đủ ăn, có dự trữ mà còn xuất khẩu gạo đứng thứ hai trên thế giới. Có được kết đó là do Chính phủ có những chủ chương, chính sách phù hợp với yêu cầu thực tiễn, phù với bối cảnh sản xuất hàng hoá trong cơ chế thị trường và đã làm tăng đáng kể năng suất cây trồng mỗi năm. Tuy nhiên, để đưa phân bón vô cơ vào sử dụng trong nông nghiệp, đáp ứng nhu cầu sử dụng cho người nông dân, nhằm tăng năng suất cây trồng, tăng sản lượng thì không thể không kể đến vai trò của các nhà sản xuất-kinh doanh-cung ứng phân bón vô cơ thên thị trường, đó là các nhà doanh nghiệp kinh doanh phân bón chuyên ngành, các doanh nghiệp Nhà nước, các doanh nghiệp và đại lý tư nhân. Theo con số thống kê của các nhà chuyên môn thì khả năng đáp ứng bằng sản xuất phân bón công nghiệp trong nước còn thấp, mới khoảng 65--75% về phân lân, 8-9% về phân đạm, còn lại đều phải nhập khẩu. Do vậy với nhu cầu phân bón sử dụng hàng năm cho nông nghiệp nước ta, ước tính năm 2000 là 2,95 triệu tấn thì số lượng phân bón các loại cần nhập khẩu hàng năm là rất lớn và phải bỏ hàng trăm triệu USD để nhập phân bón.Vì vậy, làm thế nào để nhập đủ phân bón, cung ứng đúng thời vụ nhưng lại không để tồn kho gây ứ đọng, gây hiệu quả kinh doanh thấp-đó thật sự là vấn đề khó đối với mỗi doanh nghiệp kinh doanh phân bón trên thị trường và các cơ quan quản lý vĩ mô của Nhà nước.
Nhìn lại, quá trình kinh doanh phân bón vô cơ từ năm 1991 trở về trước, việc nhập khẩu phân bón vô cơ (chủ yếu là Urê) nằm trong quỹ đạo của Kế hoạch hoá tập trung.Theo phương thức này, mặc nhiên Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước (nay là Bộ Kế hoạch và Đầu tư) và Bộ Tài chính thay mặt Chính phủ nhận nợ và thanh toán với phía nước bạn bằng nông sản và các loại hàng hoá khác. Tổng công ty VTNN tiếp nhận phân nhập khẩu xong, tổ chức tiêu thụ được đến đâu thì nộp tiền cho Bộ Tài chính đến đó. Như vậy”Kinh doanh” theo cơ chế này chẳng mấy khó khăn, phức tạp và Tổng công ty VTNN luôn an toàn, bởi vì được bao cấp trong giá nhập khẩu và tỷ giá ngoại tệ, đồng thời được hưởng chiết khấu lưu thông tư liệu sản xuất theo tỷ lệ ấn định doanh số. Từ tháng 8-1991, tình trạng bắt đầu biến đổi khác hẳn, Tổng công ty chỉ được tiếp nhận nốt 100.000 tấn URE theo nghị định thư bằng 10% số nhập khẩu theo kế hoặch hàng năm trước đó (do Liên xô cắt viện trợ),còn lại chuyển hướng khai thác nguồn hàng này ở khu vực II.Cùng thời gian đó, chúng ta thiếu ngoại tệ, Tổng công ty VTNN, toàn bộ vốn kinh doanh chỉ có 114 tỷ đồng, giá ngoại tệ tăng liên tục tới 7000Đ/USD và giá URE quốc tế cũng tăng từ 190-210USD/tấn. Như vậy Tổng công ty chỉ nhập thêm được 184.000 tấn URE từ thị trường mới, nâng tổng khả năng cung ứng lên hơn 284.000 tấn, bằng khoảng 25% nhu cầu phân bón cả nước lúc bấy giờ. Do sự mất cân đối cung-cầu này, lập tức dẫn tới cơn sốt phân bón vô cơ, tỷ giá cánh kéo bất hợp lý đến mức 1kgURE=2,5-2,6 kg thóc. Đến năm 1992&1993, việc kinh doanh nhập khẩu phân bón gần như được thả nổi toàn bộ theo cơ chế thị trường; Năm 1992 có tới trên 100 đầu mối nhập khẩu phân bón, năm 1993 các doanh nghiệp có chức năng hay không có đều đi buôn phân bón (khi đó chưa có hạn ngạch), nhiều doanh nghiệp vốn lưu động tuy ít nhưng do Nhà nước có chủ trương cho vay Đôla với điều kiện là phải nhập khẩu hàng hoá (đồng thời có chủ trương cấm nhập khẩu 17 mặt hàng) nên đã cố tình vay Ngân hàng, và vay vốn này dồn đi buôn phân bón về nhiều. Trong thời gian ngắn có tới gần 100 đơn vị đi buôn, phân bón về nhiều, ứ đọng, phát sinh tăng thêm các loại chi phí lưu kho,lưu bãi,hao hụt, hao hụt, lãi suất ngân hàng....Do vậy buộc phải bán giá thấp; giá lúc bấy giờ rẻ hơn nhiều vùng, nhiều nước trong khu vực. Đồng thời lúc này do do chênh lệch mức lãi suất giữa vay tiền đồng và tiền đô la càng khích lệ các doanh nghiệp nhẩy vào lãnh vực nhập khẩu phân bón. Cụ thể vay đô la thì mức lãi suất 0,5% tháng (=6% năm) trong khi tỷ giá ít thay đổi, nếu vay tiền đồng 2,1% tháng (=25,2% năm) như vậy chênh lệch lãi suất giữa vay đô la và tiền đồng trong 6 tháng là 9,6%, bán lỗ phân bón 5%(trong 6 tháng) nẫn còn lãi 4,6%. vì thế nên có nhiều doanh nghiệp làm ngơ chuyện lỗ lãi. Theo ước tính của các nhà kinh tế thì quý IV/1992 và cả năm 1993 cả nước lỗ khoảng 200-300 tỷ đồng, số lỗ này nhà nước gánh chịu chủ yếu vì vốn kinh doanh của các doanh nghiệp quốc doanh phần lớn là vốn ngân sách cấp. Bước sang năm 1994, do năm 1993 phân bón ứ đọng, thua lỗ nên Chính phủ đã cấm nhập khẩu phân bón tràn lan, gom lại chỉ có 17 đầu mối, trong đó có 16 đầu mối nhập khẩu 40% còn 01 đầu mối đảm nhận 60%. Sự thay đổi về nhập khẩu phân bón theo chiều hướng thu gọn lại đầu mối và các đơn vị được giao hạn ngạch nhập chưa đủ điều kiện đảm nhận đã đẩy đến sự hững hụt trong nhập khẩu phân bón, thị trường trong nước bị thiếu trầm trọng, con sốt phân bón thịnh hành. Để duy trì mặt hàng cung cấp liên tục phân bón cho hệ thống đại lý có phân bón phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh không có hạn ngạch phải đi kiếm hạn ngạch của các doanh nghiệp quốc doanh để nhập khẩu phân bón. Sang đầu năm 1995 do ảnh hưởng giá phân bón của thị trường thế giới liên tục tăng và tăng cao ở mức Urê khoảng 260-265 USD/T, lúc này cũng là thời điểm chuẩn bị phải sử dụng phân bón, các doanh nghiệp chạy theo lợi nhuận lại lại đua nhau nhập khẩu phân bón và tình trạng mua bán hạn ngạch giữa các doanh nghiệp quốc doanh và ngoài quốc doanh càng trở nên phức tạp và tiêu cực hơn. Cho đến tháng 4/1995 giá phân bón thế giới đột biến hạ Urê còn 215-220 USD/T và tồn kho vẫn nhiều, lập tức Ban vật giá Chính phủ đã có quyết định cho phụ thu phân bón nhập khẩu với mức 7% trên giá nhập thực tế và sau hơn 1 tháng hạ xuống còn 4%. Khi đó Tạp chí phân bón thị trường quốc tế ngày 8/5/1995 nhận xét: “Việc Chính phủ Việt nam cho ra phụ thu 7% thực tế là thuế nhập khẩu, mức thuế này nhằm mục đích là cứu lấy các doanh nghiệp kinh doanh “cá mập” ”, và kèm theo đó là trợ giá cước phí vận chuyển phân bón cho nông dân ở các tỉnh miền núi để nông dân ở các vùng này được hưởng giá tương ứng với giá ở các tỉnh miền xuôi. Như vậy, những giải pháp can thiệp của Nhà nước trong thời gian này nhằm bảo vệ lợi cho người đã nhập khẩu phân bón, tuy nhiên vẫn chỉ là các giải pháp tình thế, chắp vá bởi lẽ nó chỉ là các giải pháp cụ thể xảy ra từng năm. Khi đó nhiều ý kiến cho rằng, để doanh nghiệp kinh doanh phân bón tự xử lý tìm ra sự an toàn về tài chính, lấylãi lúc này bù lỗ lúc khác, tự giữ vốn tiếp tục hoạt động thì các doanh nghiệp phải tự vươn lên trở thành nghề kinh doanh, chấm dứt tình trạng kinh doanh theo kiểu “chụp dật, đánh quả”, có lời thì nhập khó khăn thì bỏ. Nhận thức này đã được dần sáng tỏ nên năm 1996-1997 cơ chế nhập khẩu và cơ chế quản lý giá phân bón đã có chặt chẽ hơn. Chính phủ trực tiếp quy định đầu mối nhập khẩu phân bón và thành lập tổ điều hành để chỉ đaọ, đôn đốc, kiểm tra việc nhập khẩu làm sao khớp với thời điểm mùa vụ, đảm bảo nhu cầu cho sản xuất nông nghiệp; cơ chế vay ngân hàng và bảo lãnh cũng được quy định chặt chẽ hơn, không bảo lãnh nhập trả chậm tràn lan như trước đây, vì thế đã hạn chế được việc mua bán hạn ngạch, hạn chế được phần rủi ro và hạn chế được việc gây rối loạn thị trường. Tuy vậy việc can thiệp của Nhà nước vào việc nhập khẩu phân bón như trên cũng hết sức khó khăn, bởi lẽ giá cả phân bón biến động phức tạp, giá URÊ trên thị trường thế giới có lúc giảm rất nhanh và chỉ còn 98-102 USD/tấn, gần đây giá DAP chỉ trong vòng hai tháng đã giảm tới 50-60 USD/tấn(từ 230USD/tấn còn 175USD/tấn). Thực sự cho tới quyết định 140TTg (7/3/1997) của Thủ tướng Chính phủ cho tới nay thì tình hình kinh doanh phân bón mới có nhiều tiến bộ và hiệu quả. Đó là việc lập kế hoạch nhập khẩu phân bón được tính toán khá sát với yêu cầu thực tế, đã có quyết định giao kế hoạch nhập khẩu ngay từ đầu năm, tạo điều kiện chủ động giao dịch, ký kết hợp đồng nhập khẩu và cung ứng kinh doanh trên thị trường.
Từ những phân tích trên, mục đích chứng minh rằng xây dựng cơ chế thị trường là bước đi tất yếu khách quan, nghĩa là chấp nhận trên thực tế sự tham gia kinh doanh phân bón vô cơ của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế khác, một khi các doanh nghiệp này có thực lực về kinh tế. Nhưng không có nghĩa là phó mặc cho thị trường tất cả, mà các cơ quan chức năng của Nhà nước cần giám sát chặt chẽ, tổ chức theo dõi thường xuyên việc thực thi nhiệm vụ kinh doanh phân bón, đặc biệt là nhập khẩu, để từng bước ổn định đội ngũ thương nhân chuyên kinh doanh phân bón có thực lực kinh tế.
2.3.3. Phân định hệ thống các cơ quan kinh doanh doanh phân bón vô cơ ở Việt nam
Các tiêu thức chung: Có rất nhiều cách phân loại DN và người ta cần phân loại DN theo những cách khác nhau tuỳ theo mục đích nghiên cứu, hoặc quản lý, kinh doanh.
- Phân theo ngành nghề hoạt động: Phân loại này cho phép phân tích các khu vực cần khuyến khích phát triển DN như khu vực dịch vụ (các lĩnh vực tài chính, bảo hiểm, dịch vụ Nhà nước, dịch vụ truyền thống ...). Khu vực công nghệ (chế biến, xây dựng ...). Cần lưu ý là DN ở mỗi ngành nghề có đặc thù riêng về vốn, tính chất kinh doanh, thị trường ... và điều này rất cần thiết khi phát triển hoặc quản lý DN.
- Phân theo quy mô (DN quy mô lớn, vừa, nhỏ) cho phép nghiên cứu cơ cấu quy mô và chỉ ra quy luật của hệ thống DN. Về tỷ trọng của các nhóm DN có quy mô khác nhau. Vấn đề là mỗi loại quy mô có ưu thế, nhược điểm riêng có ý nghĩa bổ sung cho nhau.
- Phân theo tính chất sở hữu để nghiên cứu cơ cấu thành phần kinh tế và các hình thức liên doanh liên kết hợp tác với nhau trong hoạt động, bao gồm các loại hình:
+ Doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước (DN Nhà nước) là loại hình DN hoạt động (kinh doanh) trong khu vực kinh tế Nhà nước (sở hữu cơ bản về vốn là sở hữu Nhà nước). Nói cách khác, DNNN là tổ chức kinh doanh do Nhà nước thành lập, đầu tư vốn và quản lý với tư cách là chủ sở hữu, đồng thời là một pháp nhân kinh tế, hoạt động theo pháp luật và bình đẳng trước pháp luật.
+ DN tư nhân: Do cá nhân làm chủ, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của Công ty. Chịu trách nhiệm vô hạn về các khoản nợ của mình.
+ Công ty cổ phần : Vốn của Công ty được chia đều thành những phần bằng nhau gọi là cổ phần. Người sở hữu các cổ phần là cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của Công ty cho đến hết giá trị cổ phần mà họ sở hữu. Công ty cổ phần có khả năng huy động vốn lớn thông qua việc phát hành cổ phiếu và trái phiếu. Trừ các trường hợp ngoài lệ, ngoài ra các cổ phiếu do Công ty phát hành được lưu thông tự do. Các thành viên của Công ty loại này không ít hơn 7.
+ Công ty trách nhiệm hữu hạn: là Công ty có ít nhất hai thành viên góp vốn thành lập và tất cả chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của Công ty cho đến hết giá trị phần vốn mà họ sở hữu. Phần góp vốn của các thành viên dưới bất kỳ hình thức nào (bằng hiện vật, bằng sở hữu công nghiệp hoặc bằng tiền) đều phải đóng đủ khi thành lập Công ty. Phần góp vốn của các thành viên không được thể hiện dưới hình thức chứng khoán nào.
Số vốn góp được ghi rõ trong điều lệ, mỗi thành viên được cấp một bản điều lệ là bằng chứng cho tư cách thành viên của mình.
+ Công ty liên doanh và Công ty có vốn 100 % của nước ngoài. Một loại hình đặc biệt trong đó có sự tham gia của một hoặc một vài chủ đầu tư, trong đó một phần hoặc toàn bộ vốn thuộc sở hữu của người hoặc tổ chức nước ngoài. Loại DN này được tổ chức và hoạt động theo luật đầu tư nước ngoài.
- Dựa vào hệ thống cơ quan quản lý ngành dọc các DN có thể có :
+ DN thuộc ngành.
+ DN không thuộc ngành.
Hệ thống các DN kinh doanh phân bón ở Việt Nam: Có nhiều cách để phân loại các DN sản xuất kinh doanh phân bón vô cơ ở Việt Nam. Dưới đây là một số cách phân loại thường dùng.
Phân loại theo tính chất hoạt động kinh doanh :
Theo các phân loại này hệ thống các DN kinh doanh phân bón vô cơ ở Việt Nam bao gồm:
- Các DN sản xuất phân bón
- Các DN thương mại kinh doanh phân bón.
Các DN sản xuất phân bón.
- Tổng Công ty Hoá chất Việt Nam là DN sản xuất phân bón lớn nhất ở nước ta cung cấp cho sản xuất nông nghiệp. Hiện nay Tổng Công ty Hoá chất có 4 cơ sở sản xuất phân lân, một cơ sở sản xuất phân u rê; 3 đơn vị sản xuất nguyên liệu: quặng Apatít, pyris và serpentin với tổng sản lượng quặng là 690.000 tấn/năm; 11 đơn vị sản xuất phân tổng hợp NPK với sản lượng 163.000 tấn/năm.
- Nhà máy supe phốt phát Long Thành: Đây là nhà máy sản xuất phân lân đầu tiên ở Miền Nam, với công suất 400.000 tấn/năm. Nhà máy Long Thành đã liên doanh với nước ngoài để sản xuất phân bón tổng hợp NPK với công suất thiết kế 350.000 tấn NPK/năm và đã đi vào sản xuất cuối năm 1998.
- Công ty Hoá chất và phân đạm Hà Bắc, từ sản lượng 45.000 tấn u rê năm 1992 đã nâng lên 110.000 tấn u rê vào năm 1995 và hiện nay đạt khoảng 130.000 tấn u rê/năm. Công ty đang có kế hoạch liên doanh với nước ngoài để nâng tổng công suất lên 410.000 tấn/năm.
- Công ty supe phốt phát và hoá chất Lâm Thao được cải tạo nâng công suất từ 300.000 tấn/năm lên 500.000 tấn/năm.
Ngoài Tổng Công ty hoá chất Việt Nam các tỉnh, địa phương củng cố các Xí nghiệp sản xuất phân bón với công suất không nhiều. Đáng chú ý là tại Bà Rịa - Vũng Tàu đang có dự án xây dựng nhà máy phân đạm sử dụng Gas thiên nhiên và khí tự nhiên với công suất thiết kế 575.000 tấn urê/năm. Các đơn vị ngoài Tổng Công ty hoá chất hiện có sản xuất NPK với tổng công suất ước tính 100.000 tấn/năm.
Các DN thương mại kinh doanh phân bón:
Đơn vị thực hiện kinh doanh thương mại gọi là DN thương mại - làm nhiệm vụ mua vào dự trữ, bán ra và thực hiện các dịch vụ. Nhờ có các DN thương mại có thể mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá đến tận người tiêu dùng, các DN thương mại tập trung dự trữ vật tư hàng hoá, làm giảm chi phí cho một đơn vị hàng hoá, nâng cao hiệu quả kinh tế.
Các DN thương mại kinh doanh phân bón ở Việt Nam, bao gồm :
+ Các DN được chỉ định làm đầu mối nhập khẩu trực tiếp. Trong số này phải kể đến Tổng Công ty vật tư Nông nghiệp là đơn vị giữ vai trò chủ đạo trên thị trường phân bón Việt Nam được phân bổ nhiều Quota (Hạn ngạch) nhất (35 - 40%) trong tổng khối lượng nhập khẩu phân bón cả nước.
Đứng sau đó là các DN Trung ương, một số Công ty kinh doanh xuất nhập khẩu được phân bổ nhập từ 10.000- 20.000 tấn urê/năm. Một số Công ty trực thuộc quản lý của các tỉnh thành phố được giao chỉ tiêu nhập khẩu từ 10.000 á 15.000 urê/năm.
+ Các DN kinh doanh phân bón, nhưng không được chỉ định nhập khẩu trực tiếp. Đó là các đơn vị thuộc Tổng Công ty vật tư nông nghiệp (không được chỉ tiêu nhập khẩu phân bón, như Công ty vật tư nông sản); Các Công ty vật tư nông nghiệp thuộc tỉnh, thành phố quản lý (cũng không được phép nhập khẩu phân bón). Số này bao gồm một số đơn vị là DN Nhà nước và một số DN ngoài quốc doanh. Các DN này thường làm nhiệm vụ mua hàng từ các đầu mối nhập khẩu và tổ chức bán buôn cho các đại lý, các cửa hàng bán lẻ để họ trực tiếp bán cho nông dân. Một số DN cũng trực tiếp bán tận tay cho người tiêu dùng.
Phân loại theo hình thức sở hữu:
Các DN Nhà nước :
Các đơn vị sản xuất kinh doanh phân bón do Nhà nước bỏ vốn và thuộc sở hữu Nhà nước bao gồm:
+ Các đơn vị sản xuất kinh doanh phân bón trung ương như: Tổng công ty vật tư nông nghiệp; Tổng Công ty cà phê; Tổng Công ty lương thực Miền Nam...
+ Các đơn vị sản xuất kinh doanh phân bón cấp tỉnh, huyện như: Các cơ sở sản xuất của các địa phương thuộc sở hữu Nhà nước, các Công ty vật tư nông nghiệp tỉnh, huyện.
Các DN ngoài quốc doanh, đại lý, cửa hàng bán lẻ:
Đó là các Công ty, đại lý, cửa hàng kinh doanh phân bón không thuộc sở hữu của Nhà nước. Nguồn vốn do các thành viên, các cá nhân tự bỏ ra để thành lập. Thuộc loại này gồm có :
+ Các Công ty trách nhiệm hữu hạn, sản xuất , kinh doanh phân bón vô cơ, DN tư nhân, Công ty cổ phần.
+ Các đại lý tư nhân kinh doanh phân bón.
+ Các cửa hàng bán lẻ tư nhân, kinh doanh bán lẻ các mặt hàng phân bón.
Các DN 100% vốn nước ngoài, các Công ty liên doanh:
Đây là loại hình DN vốn đầu tư nước ngoài hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh phân bón. VD như: Nhà máy liên doanh sản xuất NPK Long Thành. Trong những năm tới hình thức DN này sẽ được phát triển mạnh và tạo tiềm năng mới cho ngành công nghiệp phân bón của Việt Nam.
Phân loại theo khu vực:
Có thể phân loại hệ thống các DN kinh doanh phân bón hiện nay theo các khu vực, các miền. Cụ thể là :
Miền Bắc : Bao gồm các DN sản xuất kinh doanh phân bón có cơ sở đặt tại các khu vực: Đồng bằng Sông Hồng, Miền núi phía Bắc và Trung Du ... Ví dụ như Công ty supe lân Lâm Thao, lân nung chảy Văn Điển, Công ty vật tư nông sản, Tổng Công ty vật tư nông nghiệp, Công ty vật tư Tổng hợp Hà Anh, Công ty HACIMEX Hải Phòng ... là các Công ty kinh doanh phân bón ở khu vực Miền Bắc vì có cơ sở chính (trụ sở chính, Nhà máy sản xuất) ở Miền Bắc.
Miền Nam: Tương tự như trên những DN có trụ sở chính, nhà máy sản xuất tại Miền Nam (gồm khu vực đồng bằng sông Cửu Long, Đông Nam Bộ, Tây Nam Bộ ...).
Miền Trung: gồm các nhà máy, đơn vị kinh doanh nằm tại các khu vực Nam Trung Bộ, Bắc Trung bộ, khu 4 cũ và Tây Nguyên ...
Phân theo cấp quản lý.
Doanh nghiệp ở Trung ương:
- Có Tổng Công ty vật tư nông nghiệp thuộc Bộ Nông nghiệp và PTNT. Nhiệm vụ của Tổng Công ty chủ yếu là nhập khẩu, bán buôn dự trữ lưu thông tư liệu sản xuất, góp phần bình ổn giá phân bón.
- Tổng Công ty phân bón và hoá chất cơ bản (Bộ công nghiệp).
.Doanh nghiệp ở địa phương
Trước kia, ở cấp tỉnh có Công ty vật tư nông nghiệp tỉnh trực thuộc Sở nông nghiệp. ở cấp huyện có Công ty vật tư nông nghiệp huyện trực thuộc UBND huyện. Cả 2 cấp này thời kỳ đầu trực thuộc tổng Công ty vật tư nông nghiệp và thống nhất thành một ngành dọc từ TW đến địa phương, sau này tách ra thành 3 cấp độc lập. Những năm gần đây Nhà nước có chủ trương gộp lại thành hai cấp. ở TW có Tổng Công ty VTNN. ở địa phương các Công ty VTNN huyện trực thuộc Công ty VTNN tỉnh . Với mục đích giảm số lần vay vốn, giảm lãi suất, trên cơ sở đó giảm chi phí. Hạ giá bán cho nông dân. Tuy nhiên việc tổ chức hiện nay không thống nhất, tăng theo quan điểm của từng địa phương nên có nhiều hình thức khác nhau, có thể chia làm 3 loại sau:
Loại 1: Chỉ có một Công ty vật tư nông nghiệp duy nhất hoạt động kinh doanh phân bón trên địa bàn tỉnh. Các Công ty vật tư nông nghiệp huyện trước đây nay trở thành trạm trực thuộc các Công ty vật tư nông nghiệp tỉnh. Loại này chủ yếu gồm các tỉnh Miền núi phía Bắc, thành phố Hải Phòng, các tỉnh khu 4, khu 5.
Loại 2: Trong một tỉnh có nhiều Công ty quốc doanh kinh doanh phân bón. ở đây các Công ty vật tư nông nghiệp huyện không trực thuộc trong Công ty vật tư nông nghiệp tỉnh. Ngoài ra còn có nhiều các quốc doanh khác như Công ty lương thực, Công ty xuất nhập khẩu tổng hợp. Các quốc doanh này hoạt động độc lập với nhau. Loại này chủ yếu ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu Long.
Loại 3: Công ty vật tư nông nghiệp kinh doanh cả phân bón và thuốc BVTV. Loại này không nhiều, chỉ một số địa phương như Hà Nội, Đồng Nai, Sông Bé.
Hệ thống hợp tác xã kinh doanh phân bón:
Trước đây trong thời kỳ nền kinh tế quản lý theo kế hoạch hoá tập trung, HTX là người nhận vật tư nông nghiệp để phân phối cho nông dân. Hiện nay nhiệm vụ quản lý của HTX đã thay đổi nên dịch vụ kinh doanh VTNN tuy vẫn còn nhưng không nhiêù. Năm 1989 trên dưới 90% số HTX có dịch vụ KD phân bón thì năm 1994 chỉ còn 23 % đối với phân bón.
Hệ thống kinh doanh phân bón tư nhân:
Đã phát triển nhiều Công ty trách nhiệm hữu hạn đã có vốn nhiều tỷ đồng, có hệ thống bán buôn bán lẻ trong nhiều tỉnh, như địa bàn TP Hồ Chí Minh đã hơn 10 Công ty TNHH kinh doanh phân bón hoá học. Ngay trên địa bàn Hà Nội cũng có khá nhiều cơ sở kinh doanh. Tại Nam Hà, có 1188 đại lý của tư nhân với 2334 người gấp 11 lần số cán bộ CNV của các DN phân bón NN bình quân mỗi xã có 3,88 đại lý tư nhân. ở Thái bình cũng vậy. Lượng phân bón do các Công ty tư nhân bán ra chiếm hơn 60% tổng lượng phân bón bán ra trong toàn tỉnh.
2.3.4. Lựa chọn và sử dụng các công cụ tổ chức lưu thông phân bón vô vơ trên thị trường Việt nam
Quản lý và điều tiết vĩ mô thị trường và lưu thông nói chung và phân bón vô cơ nói riêng là vấn đề phức tạp, khó khăn. Sự quản lý và điều tiết của các cơ quan nhà nước ở tầm vĩ mô phải hết sức mềm dẻo, linh hoạt, phải xuất phát từ mục tiêu định hướng, tôn trọng sự vận động khách quan của thực tiễn.Trong giai đoạn đầu chuyển sang kinh tế thị trường, xây dựng cơ chế quản lý kinh tế với rất nhiều mục tiêu và các giải pháp khác nhau. Các vấn đề kinh tế xã hội cấp bách đang đan xen vào nhau, vừa là tiền đề vừa là kết quả của nhau đòi hỏi phải giải quyết đồng bộ không được biệt lập, riêng rẽ. Những vấn đề cơ bản của nền kinh tế có những mục tiêu và giải pháp khác nhau, có khi mâu thuẫn nhau. Bởi vậy, phải đặt trong tổng thể của nền kinh tế quốc dân để giải quyết vấn đề. Mục tiêu điều tiết thị trường, lưu thông phân bón vô của Nhà nước nằm trong hệ thống mục tiêu kinh tế xã hội, đáp ứng mục tiêu cao nhất là ổn định và nâng cao đời sống nhân dân phát triển toàn diện con người, xây dựng xã hội lành mạnh, văn minh trên cơ sở một nền sản xuất hàng hoá phát triển cao. Nhà nước điều tiết lưu thông hàng hoá và phân bón vô cơ nhằm làm cho nó ngày càng phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu, phát huy mặt tích cực, hạn chế những tiêu cực phát sinh. Hướng lưu thông hàng hoá và phân bón vào các mục tiêu kinh tế xã hội của đất nước. Để đạt được hiệu quả cao, nhà nước cần linh hoạt sử dụng hệ thống công cụ điều tiết và quản lý vĩ mô:
2.3.4.1./ Chương trình có mục tiêu phát triển thương mại của nhà nước.
Tính cân đối của nền kinh tế quốc dân là yêu cầu khách quan cho sự phát triển của nó. Nền kinh tế quốc dân là một thể thống nhất bao gồm nhiều bộ phận hợp thành có quan hệ hữu cơ với nhau. Trong đó có những khâu, những bộ phận quan trọng có ý nghĩa quyết định tới sự phát triển của nền kinh tế. Thông qua sự tác động tới các yếu tố then chốt đó sẽ đảm bảo sự phát triển tối ưu của nền kinh tế. Kế hoạch hoá vĩ mô là kế hoạch định hướng, thực hiện những cân đối lớn nhằm đảm bảo tốc độ phát triển hợp lý và hiệu quả cao.
Kế hoạch định hướng ở tầm vĩ mô cũng phải được thay đổi linh hoạt phù hợp với sự vận động khách quan của nền kinh tế. Cùng với các chương trình mục tiêu, kế hoạch kinh tế quốc dân được xây dựng đúng đắn sẽ là một công cụ quan trọng. ở các nước Tư bản phát triển, các nước công nghiệp mới đã sử dụng thành công Kế hoạch kinh tế quốc dân như một công cụ trọng tâm, tác động vào nền kinh tế .
Mô hình kế hoạch hoá định hướng
+ Mục tiêu của KHHĐH: Là nhằm giữ một số cân đối lớn trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước.
+ Chủ thể của KHHĐH:Trong mô hình kế hoạch hoá cũ (Kế hoạch hoá tập trung), chủ thể của kế hoạch hoá là nhà nước, ở đây kế hoạch là cương lĩnh thứ 2 của Đảng, là pháp lệnh của cơ quan quyền lực nhà nước tối cao (Quốc hội, Hội đồng nhân dân). Chính phủ chỉ giữ vai trò tổ chức thực hiện kế hoạch.
Trong mô hình KHHĐH hiện nay, Đảng lãnh đạo làm chiến lược (không làm kế hoạch), Quốc hội làm Hiến pháp (không làm kế hoạch). Chủ thể của KHHĐH là Chính phủ. Chính phủ làm KHHĐH trong khuôn khổ chiến lược do Đảng quyết nghị và tuân thủ hệ thống pháp luật do Quốc hội quyết định. Sự phân định như vậy một mặt, đề cao đúng mức vai trò của Chính phủ, mặt khác không hạ thấp vai trò của Đảng, Quốc hội khi phải quyết định những dự án kế hoạch. Đồng thời làm cho mối quan hệ giữa chiến lược với luật pháp được thể hiện nhất quán trong kế hoạch mà sự nhất quán đó được quy tụ vào một nơi chịu trách nhiệm là Chính phủ.
+ Đối tượng của KHHĐH: Trong mô hình kế hoạch hoá tập trung trước đây, đối tượng của kế hoạch là các quá trình kinh tế diễn ra trong khu vực sở hữu công cộng, đặc biệt là khu vực doanh nghiệp quốc doanh do quan niệm rất hẹp về hàng hoá- tiền tệ, nên ngay trong khu vực sở hữu công cộng, nhiều quá trình kinh doanh đã nằm ngoài đối tượng của kế hoạch. Đặc biệt, khu vực kinh tế dịch vụ đã có một bộ phận lớn không nằm trong đối tượng của kế hoạch do có sự phân biệt giữa sản xuất vật chất (hệ thống phân ngành kinh tế MPS).
Trong mô hình KHHĐH, đối tượng của kế hoạch là toàn bộ quá trình vận động của nền kinh tế hàng hoá (kể cả những bộ phận chưa phải là hàng hoá trong thời kỳ chuyển đổi hiện nay). Trong đó tiền tệ sắm vai trò vĩ mô cực kỳ quan trọng.
+ Phương pháp KHHĐH:Trong mô hình kế hoạch hoá tập trung, kế hoạch được tiến hành theo phương pháp của hệ thống sản phẩm vật chất MPS ( Materal Product System). Phương pháp này không tính đến các dịch vụ, được quan niệm là không liên quan trực tiếp tới sản xuất vật chất như các dịch vụ giáo dục, y tế, thể thao, hành chính, ngân hàng. Phương pháp này cũng bỏ qua hạch toán khấu hao trong nền kinh tế (theo UNDP) phương pháp này bỏ qua 20- 30% tổng sản phẩm xã hội. Kế hoạch hoá định hướng đòi hỏi phải thể hiện đầy đủ mọi cục diện của nền kinh tế trong mỗi tác động qua lại giữa các nhân tố cấu thành của nó. Bởi vậy, KHHĐH buộc phải chuyển từ phương pháp cũ (MPS) sang phương pháp mới là phương pháp hạch toán quốc gia theo hệ thống tài khoá quốc gia SNA (System of Natinal Acount).
Trong mô hình kế hoạch hoá tập trung, kế hoạch không coi trọng phương pháp giá trị. Một loại chỉ tiêu giá trị quan trọng đã bị bỏ qua trong các kế hoạch như tổng tiêu dùng, tổng tiết kiệm, tổng thu thuế, chỉ số hàng tiêu dùng, tỷ giá, tỷ lệ lạm phát, chỉ số tăng tiền lương danh nghĩa, tổng sản phẩm xã hội tính theo trượt giá.... Trái lại trong mô hình KHHĐH, các chỉ tiêu giá trị trên đây trở thành các chỉ tiêu hệ trọng nhất trong khi đánh giá thực trạng nền kinh tế cũng như khi nêu ra các đinh hướng phát triển và ổn định. Việc chuyển từ phương pháp hiện vật (là chính) sang phương pháp giá trị (là chính) là sự chuyển biến về chất của phương pháp KHHĐH so với phương pháp kế hoạch trước đây. Nó không tuỳ thuộc ở các cơ quan định hướng hoạch định kế hoạch mà chủ yếu tuỳ thuộc ở thước giá trị trong nền kinh tế, ở mức
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 10224.DOC