Đề tài Tìm hiểu thực trạng và giải pháp quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Nhật Bản

Tài liệu Đề tài Tìm hiểu thực trạng và giải pháp quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Nhật Bản: Lời nói đầu v ào những năm đầu những năm của thập kỷ 90 trở lại đây, việc mở rộng hội nhập và hợp tác kinh tế đã và đang trở thành một xu thế tất yếu của quá trình phát triển nền kinh tế. Những lợi ích kinh tế của việc hội nhập kinh tế quốc tế đã mang lại cho mỗi thành viên tham gia, những lợi ích kinh tế mà không một quốc gia nào có thể phủ nhận. Việt Nam cũng vậy, để đẩy mạnh quá trình Công nghiệp hoá Hiện đại hoá, Đảng và nhà nước ta đã và đang thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hoá và đa phương hóa quan hệ kinh tế quốc tế, lấy mục tiêu vì hoà bình và phát triển làm tiêu chuẩn cho mọi hoạt động đối ngoại. Đồng thời, trong bối cảnh phân công lao động quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ, việc hợp tác kinh tế quốc tế… đã và đang trở thành cách tốt nhất để các quốc gia phát huy được tối đa lợi thế của mình, cũng như khai thác triệt để những lợi ích của các quốc gia khác để phục vụ cho nước mình. Không nằm ngoài xu thế trên, cả Việt Nam và Nhật Bản đều đã tìm thấy ở nhau những ...

doc60 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 998 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Tìm hiểu thực trạng và giải pháp quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Nhật Bản, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu v ào những năm đầu những năm của thập kỷ 90 trở lại đây, việc mở rộng hội nhập và hợp tác kinh tế đã và đang trở thành một xu thế tất yếu của quá trình phát triển nền kinh tế. Những lợi ích kinh tế của việc hội nhập kinh tế quốc tế đã mang lại cho mỗi thành viên tham gia, những lợi ích kinh tế mà không một quốc gia nào có thể phủ nhận. Việt Nam cũng vậy, để đẩy mạnh quá trình Công nghiệp hoá Hiện đại hoá, Đảng và nhà nước ta đã và đang thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hoá và đa phương hóa quan hệ kinh tế quốc tế, lấy mục tiêu vì hoà bình và phát triển làm tiêu chuẩn cho mọi hoạt động đối ngoại. Đồng thời, trong bối cảnh phân công lao động quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ, việc hợp tác kinh tế quốc tế… đã và đang trở thành cách tốt nhất để các quốc gia phát huy được tối đa lợi thế của mình, cũng như khai thác triệt để những lợi ích của các quốc gia khác để phục vụ cho nước mình. Không nằm ngoài xu thế trên, cả Việt Nam và Nhật Bản đều đã tìm thấy ở nhau những điều kiện thuận lợi, cũng như lợi ích kinh tế của bản thân mỗi nước khi xây dựng, phát triển và củng cố mối quan hệ hợp tác song phương giữa hai nước. Bên cạnh những kết quả khả quan đã đạt được, trong quan hệ buôn bán giữa Việt Nam - Nhật Bản còn có một số hạn chế cần được khắc phục, loại bỏ nhằm phát triển hơn nữa cho xứng với tiềm năng của hai nước, đưa mối quan hệ này lên tầm cao mới. Việc nghiên cứu những thành tựu và những mặt tồn tại đó là rất cần thiết. Vì vậy em đã chọn đề tài: “Quan hệ Thương mai giữa Việt Nam và Nhật Bản thực trạng và giải pháp”. Với yêu cầu của khoá luận về mặt kiến thức tổng hợp, kiến thức am hiểu sâu rộng về thực tế chính sách là rất cao. Nhưng do sự hạn chế về mặt thời gian, tài liệu cũng như năng lực nghiên cứu của mình nên trong đề tài em chỉ tập trung vào lĩnh vực (quan hệ Thương mại giữa Việt Nam – Nhật Bản giai đoạn từ năm 1992 trở lại đây). và em rất mong được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô cũng như bạn đọc để cho đề tài được hoàn thiện hơn nữa. Qua đây, em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của các thầy các cô và đặc biệt là thầy giáo TS Nguyễn Xuân Thiên đã trực tiếp hướng dẫn em hoàn thành tốt khoá luận tốt nghiệp này. Chương 1 Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Nhật Bản Cơ sở lý luận. Có thể nói, chiến tranh lạnh kết thúc vào đầu thập niên 90 của thế kỷ thứ 20, tạo ra một diện mạo mới cho các quan hệ kinh tế quốc tế. Nó tác động lớn tới nhiều quốc gia, làm thay đổi hẳn cục diện thế giới. Mở đầu, được đánh dấu bằng sự tan rã của của chế độ chính trị ở đất nước Liên Xô và một loạt các nước Xã hội Chủ nghĩa ở Đông Âu. Tình hình an ninh chính trị trên thế giới, về cơ bản đã ở trong trạng thái ổn định. Nguy cơ của bùng nổ chiến tranh hạt nhân (thế chiến thứ 3) đã bị đẩy lùi. Người ta đã cảm thấy yên tâm hơn, để tập trung vào đầu tư phát triển kinh tế và củng cố đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề bất cập, gây ảnh hưởng trực tiếp tới quan hệ ngoại giao giữa các nước như: hệ thống tôn giáo của các nước rất phức tạp, quyền lợi các bên hay bị xung đột, gây ra chiến tranh liên miên, làm cho nhiều khu vực trên thế giới không ổn định như: khu vực Châu Phi, vùng Trung Cận Đông… mà điển hình là các lò lửa chiến tranh ấn Độ – Pakistan; ixaren – Plestin, mà gần đây nhất là sự kiện ngày 11/09/2001 làm chấn động nước Mỹ. làm dấy lên làn sóng khủng bố khắp nơi trên thế giới; rồi sự kiện chiến tranh irắc; vấn đề hạt nhân ở Bắc Triều Tiên…đã trở thành vấn đề mà các quốc gia luôn phải cân nhắc. Các xu thế cạnh tranh đối địch giữa các quốc gia, mâu thuẫn luôn luôn cùng tồn tại và phát triển. Nhưng nó không thể nào, ngăn cản được xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá. Ngày nay, xu thế này đã trở thành một yêu cầu khách quan của nền kinh tế thế giới. Thêm vào đó là, sự bùng nổ của cách mạng khoa học kỹ thuật – công nghệ, đã mở ra một kỷ nguyên mới cho sự phát triển, cạnh tranh và hợp tác giữa các nước trên thế giới mà nổi bật là vấn đề toàn cầu hoá. Vậy toàn cầu hoá là gì? Toàn cầu hoá là xu thế tất yếu đã được dự đoán từ lâu. Về logic, xu hướng này bắt nguồn từ bản chất của hệ thống kinh tế thị trường là hệ thống “mở” không bị giới hạn bởi các đường biên giới quốc gia. Đây là kết quả của quá trình phân công lao động quốc tế, được đẩy nhanh trong mấy thập niên thập niên gần đây. Phân công lao động quốc tế đã đạt đến trình độ, không chỉ chuyên môn hoá chi tiết sản phẩm cho nhà máy, từng vùng mà còn đến từng quốc gia, khu vực. Trên cơ sở đó, xuất hiện hình thái quan hệ hợp tác, ràng buộc và phụ thuộc lẫn nhau trong phân công lao động giữa các nước trong khu vực và trên thế giới. Hiện nay, sản xuất của một nước phụ thuộc rất nhiều vào lao động của một nước khác, bất kể nước đó phát triển hay kém phát triển. Không còn tình trạng, chỉ có nước nhỏ, nước kém phát triển phụ thuộc một chiều, phụ thuộc tuyệt đối vào các nước lớn, nước phát triển mà đã xuất hiện và gia tăng xu hướng ngược lại: các nước lớn, nước phát triển cũng phụ thuộc vào nước nhỏ, nước lạc hậu. Quá trình toàn cầu hoá, đã thúc đẩy nền kinh tế thế giới phát triển theo một chiều hướng mới. Với lực lượng sản xuất phát triển như vũ bão chưa từng có, trên cơ sở của nền công nghệ mới hiện đại được thể hiện ở một số mặt sau: Thứ nhất, có thể nói, xu hướng toàn cầu hoá các hoạt động kinh tế là nhân tố đầu tiên tác động đến việc thiết lập các chiến lược kinh tế đối ngoại của các nước. Nhằm thích ứng với một môi trường kinh tế quốc tế mới, đã và đang thay đổi. Mục tiêu cuối cùng của các nhà kinh doanh là lợi nhuận, thị phần và những ảnh hưởng quốc tế ngày càng sâu rộng của mình tới thị trường các nước. Để đạt được mục đích này, các quốc gia phải bắt kịp, thích ứng và thậm chí phải đón đầu, đi trước thời đại với những công nghệ mới hiện đại và cả những triển vọng phát triển mới của nền kinh tế thế giới trong tương lai. Thứ hai, trong quá trình toàn cầu hoá, tiến bộ công nghệ nói chung, đặc biệt là sự bùng nổ của cách mạng tin học trong những năm gần đây, đã đẩy mạnh, đẩy nhanh quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tin học trong nhiều quốc gia trên thế giới. Đây là nhân tố nổi bật, giúp cho việc điều hành dễ dàng, các hoạt động kinh tế quốc tế phân tán ở nhiều nước khác nhau trên thế giới. Bằng cách sử dụng rộng rãi các thiết bị tin học, viễn thông ở nhiều quốc gia. Nhờ đó mà, các quốc gia phát triển và các nhà kinh doanh, doanh nghiệp… không những có thể mở rộng các hoạt động kinh tế về quy mô ra nước ngoài, mà còn có thể tăng cường các hoạt động kinh tế về chiều sâu, đổi mới về phương thức tổ chức và quản lý. Thứ ba, dưới tác động của toàn cầu hoá và cách mạng tin học, quá trình liên kết khu vực cũng đang diễn ra mạnh mẽ giữa các nước, đòi hỏi các quốc gia phải sử dụng tối ưu các nguồn lực để hội nhập có hiệu quả vào quá trình hợp tác và phân công lao động quốc tế. Các tiến trình này sẽ làm nảy sinh nhu cầu kết hợp chặt chẽ giữa các chính sách thương mại với đầu tư và viện trợ…, đẩy mạnh tự do hoá thị trường, bằng cách dỡ bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế quan giữa các nước. Tuy nhiên, toàn cầu hoá kinh tế như con dao hai lưỡi. Một mặt nó là cỗ xe có động cơ mạnh làm tăng tốc độ phát triển kinh tế, tạo cơ hội to lớn để cải thiện điều kiện sống của người dân ở các nước giầu lẫn nước nghèo. Nhưng mặt khác, nó cũng là cả một tiến trình đầy gian nan và thách thức. Nó sẽ tiến công vào chủ quyền của mỗi quốc gia, có thể làm xói mòn nền văn hoá và truyền thống của dân tộc, dẫn tới nguy cơ phân hoá xã hội, tạo ra hố ngăn cách giữa các quốc gia cũng như các tầng lớp trong xã hội và nó ngày càng trở nên mạnh mẽ và sâu sắc hơn. Như vậy toàn cầu hoá là một xu hướng khách quan và xu hướng này đang trong quá trình vận động không ngừng, tạo những cơ hội và cả những thách thức cho tất cả các quốc gia. Vì vậy, các quốc gia cần phải biết khai thác những ưu thế và hạn chế những thách thức của toàn cầu hoá kinh tế quốc tế, từ đó tạo ra cơ hội để tham gia ngày càng có hiệu quả hơn vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Cùng với quá trình toàn cầu hoá, khu vực hoá cũng đang diễn ra đặc biệt mạnh mẽ. Xu hướng tự do hoá thương mại và đầu tư được thúc đẩy bởi sự gia tăng mạnh mẽ các hoạt động của các tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực hiện có cũng như đang hình thành. Các khối, tổ chức kinh tế ngày càng đóng vai trò quan trọng trong những cuộc thương lượng, sắp xếp và giải quyết các vấn đề khu vực và quốc tế, đặc biệt là trong việc thúc đẩy tự do hoá thương mại và giao lưu kinh tế quốc tế. Bất kỳ một nước nào muốn phát triển được trong tương lai thì đều phải tìm cách trở thành thành viên của ít nhất một trong những tổ chức kiểu như vậy. Quá trình toàn cầu hoá đã dẫn đến việc hình thành các khối kinh tế – mậu dịch tự do trong khu vực. Hiện nay, nền kinh tế thế giới có rất nhiều khối liên minh, liên kết kinh tế hoặc mậu dịch tự do. Ví dụ như, liên minh Châu Âu (EU): được coi là một tổ chức liên kết khu vực rất điển hình, đường biên giới giữa các quốc gia đã bị xóa bỏ không còn hàng rào thuế quan. Mặc dù tiến trình này, diễn ra không hoàn toàn suôn sẻ như mong muốn, song việc hình thành một thị trường thống nhất đang ngày được hoàn thiện hơn. Mục tiêu của toàn cầu hoá kinh tế đó là, lưu thông tự do hàng hoá; các yếu tố - công nghệ sản xuất cả những kinh nghiệm, kỹ năng quản lý… trên phạm vi toàn cầu. Nhưng trong tương lai gần, mục tiêu này chưa thể thực hiện được. Chính vì vậy, việc từng nhóm nước liên kết lại với nhau, cùng đưa ra những ưu đãi cho nhau cao hơn những ưu huệ quốc tế hiện hành như: loại bỏ những hàng rào ngăn cách, lưu thông hàng hoá và các yếu tố sản xuất… giữa các nước. Đây là một khâu quan trọng, đặt nền móng cho quá trình toàn cầu hoá về kinh tế được xúc tiến nhanh hơn. Từ đó có thể khẳng định rằng, khu vực hoá và hợp tác kinh tế toàn cầu hoàn toàn không mâu thuẫn với nhau mà hỗ trợ cho nhau, thúc đẩy lẫn nhau và bổ trợ cho nhau. Khu vực hoá chỉ nảy sinh trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế đã phát triển đến một mức độ nhất định nào đấy. Nhưng, trong trình độ hợp tác của khu vực hoá lại cao hơn so với toàn cầu hoá kinh tế và khu vực hoá phát triển rộng rãi trên thế giới sẽ lại giúp cho hợp tác kinh tế toàn cầu phát triển ngày càng sâu sắc hơn. Hai tổ chức khu vực có tác động và ảnh hưởng trực tiếp nhất, liên quan mật thiết đến quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta, đặc biệt là quan hệ kinh tế Việt Nam – Nhật Bản. Đó là, Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á thái Bình Dương (APEC) và Hiệp hội các nước Đông Nam á (ASEAN). APEC được thành lập vào tháng 11 năm1989. Lúc đầu, chỉ có 18 nước thành viên. Hiện nay, có 21 nước trong đó có Nhật Bản và Việt Nam. Đây là tổ chức hợp tác kinh tế khu vực có quy mô lớn nhất thế giới. Dân số xấp xỉ 2165,5 triệu người (bằng 45,6 % dân số thế giới); diện tích lãnh thổ 43.631,8 triệu km2 (chiếm khoảng 46,7 % diện tích lãnh thổ của toàn thế giới); GDP 15.526,23 tỷ USD (chiếm khoảng 55,8 % GDP của toàn thế giới); và kim ngạch xuất khẩu 2.255,6 tỷ USD (chiếm khoảng 43,8 % tổng kim ngạch xuất khẩu của toàn thế giới). Chính vì vậy, mô hình hợp tác kinh tế Châu á Thái Bình Dương và tiềm năng to lớn của sự hợp tác kinh tế - kỹ thuật của APEC, đã và đang cuốn hút sự chú ý của toàn thế giới. Thế kỷ 21 này, chắc chắn sẽ là thế kỷ phát triển đầy năng động của khu vực Châu á Thái Bình Dương mà APEC là tổ chức hạt nhân. Việt Nam và Nhật bản đều là thành viên chính thức của APEC. Do đó, các quan hệ kinh tế song phương giữa hai nước cũng chịu sự ràng buộc, chi phối của những nguyên tắc mà tổ chức này đã đề ra. Cùng với APEC, tổ chức kinh tế khu vực thứ hai có vai trò quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến các quan hệ kinh tế đối ngoại của Việt Nam và Nhật Bản là hiệp hội các nước Đông Nam á (ASEAN). ASEAN được thành lập ngày 8 tháng 8 năm 1967, lúc đầu thành lập mới có 5 nước thành viên. Hiện nay, đã phát triển và mở rộng ra toàn bộ các nước Đông Nam á. Bao gồm 11 nước, trong đó có Việt Nam. Ngay trong ngày đầu thành lập, ASEAN đã long trọng tuyên bố mục tiêu hàng đầu của hiệp hội là: “thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội và phát triển văn hoá trong khu vực thông qua các nỗ lực chung trên tinh thần bình đẳng, hợp tác nhằm tăng cường cơ sở vật chất cho một cộng đồng các nước Đông Nam á hoà bình, hợp tác và thịnh vượng”. Kể từ đó cho đến nay, các nước này luôn coi hợp tác kinh tế là một trong những nội dung chủ yếu trong các hoạt động của mình. Là một nước thành viên của ASEAN, các quan hệ kinh tế của Việt Nam với Nhật Bản, nhất là trong quan hệ của ASEAN cộng 3 gồm (Trung Quốc; Nhật Bản; Hàn Quốc) vừa chịu sự chi phối của những nguyên tắc chung trong hợp tác kinh tế của hiệp hội với các nước trong khu vực và các khu vực khác, vừa nằm trong bối cảnh chung quốc tế, chịu sự chi phối của các chính sách kinh tế đối ngoại của Nhật Bản với các nước trong khu vực này. Mặc dù có sự thành công không giống nhau, song thực tiễn hoạt động của các hình thức liên kết khu vực như trên cho thấy, quá trình khu vực hoá giúp các quốc gia trong khu vực có cùng những điều kiện nhất định hỗ trợ nhau cùng phát triển, tạo ra lợi thế cạnh tranh chung (lợi thế so sánh khu vực) trên pham vi toàn cầu. Đồng thời, tạo điều kiện để có được quan hệ giao lưu kinh tế phát triển rộng rãi, không chỉ giữa các quốc gia trong khu vực với nhau mà giữa khu vực với khu vực và giữa các quốc gia trong khu vực với các quốc gia khác trên thế giới. Cùng với sự phát triển không ngừng của xu thế này, sự dựa vào nhau, hỗ trợ nhau, tác động và ảnh hưởng lẫn nhau của kinh tế các nước ngày càng sâu sắc. Trách nhiệm của chính phủ các nước, phải dựa trên cơ sở của tinh thần: cùng nhau gánh chịu trách nhiệm và sự rủi ro (nếu có) để tiến hành hợp tác, phối hợp quốc tế rộng rãi và có hiệu quả trong việc tham gia vào quá trình toàn cầu hoá và khu vực hoá. Tóm lại, toàn cầu hoá và khu vực hóa luôn gắn liền với nhau, tạo động lực thúc đẩy nhau làm cho hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng phát triển. Trong xu thế ngày nay, mỗi dân tộc (quốc gia), đều tìm cố gắng tìm cho mình một chỗ đứng để nâng cao vị thế của mình trên trường quốc tế. Vị thế chính trị của mỗi nước, phụ thuộc rất nhiều vào sức mạnh kinh tế của nước đó. Vì vậy, mỗi nước đều phải cố gắng thích nghi với luật chơi chung của các nước trong khối, thế giới. đồng thời phải cố gắng bảo vệ lợi ích dân tộc mình, giữ gìn bản sắc văn hoá truyền thống của dân tộc. 1.2 Cơ sở thực tiễn Bao gồm các nhân tố cả chủ quan cũng như thực tiễn khách quan của hai phía Việt nam và Nhật Bản. 1.2.1 Các nhân tố từ phía Nhật Bản. Sự sụp đổ của Liên xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu vào đầu những năm 1990, làm cho chiến tranh lạnh kết thúc. Không còn sự chạy đua vũ trang giữa hai cực nữa. người ta coi cuộc chiến tranh lạnh mà thực chất là sự đối đầu về tư tưởng, chính trị quân sự giữa Liên Xô và Hoa Kỳ đã chấm dứt. Tình hình thế giới đã mở ra một kỷ nguyên mới cho sự phát triển, ở đó hợp tác và cạnh tranh trở thành hai mối quan tâm lớn của các quốc gia. Cơ cấu hai cực chấm dứt và phát triển, xu hướng tiến tới đa cực. Trước sự biến chuyển tình hình kinh tế thế giới, chủ yếu dựa vào sức mạnh kinh tế của mình, các nhà hoạch định chính sách kinh tế Nhật Bản đã xây dựng chiến lược kinh tế, với mục tiêu vươn lên trở thành một cường quốc cả về kinh tế lẫn chính trị. Mục tiêu của Nhật Bản trong những năm tiếp tới đây là, vươn lên vị trí trở thành một cường quốc chính trị, kinh tế. Mục tiêu này được thể hiện rất rõ trong chiến lược kinh tế nói chung và trong chiến lược kinh tế đối ngoại nói riêng của Nhật Bản. Nhật Bản từng bước giảm dần sự phụ thuộc vào Mỹ, vươn lên vị trí ngang hàng với Mỹ (Nhật Bản có thể trả lời “không” trong đàm phán với Mỹ). Để thực hiện được chiến lược đó, Nhật Bản ra sức phát triển quan hệ với các khu vực kinh tế thông qua hoạt động thương mại, đầu tư trực tiếp và các khoản viện trợ cho các nước. Bên cạnh đó, trước sự tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ của các quốc gia khu vực Châu á trong vài thập kỷ qua và với những lợi thế gần gũi về mặt địa lý, văn hoá xã hội, Nhật Bản đã xây dựng được mối quan hệ tốt đẹp với các nước. Họ đã có một chiến lược kinh tế đối với các khu vực Châu á. Đây được coi là chiến lược trọng tâm để phát triển chiến lược kinh tế đối ngoại của Chính phủ Nhật Bản trong thời gian tới. Thay đổi chiến lược của Nhật Bản thời kỳ sau chiến tranh lạnh là, chú trọng vào khu vực Châu á - Thái Bình Dương, phát triển các quan hệ phụ thuộc lẫn nhau cùng nhau phát triển trong khu vực; phát huy vai trò toàn diện của các tổ chức hợp tác khu vực. Hợp tác với các tổ chức quốc tế như Liên Hợp Quốc và tổ chức mậu dịch thế giới... Điều này, thể hiện trong chính sách áp dụng vào Châu á của Nhật Bản, nhằm phát huy tối đa vai trò của mình ở Châu á và sử dụng Châu á làm căn cứ để Nhật Bản vươn lên trở thành một cường quốc. Nhật Bản tranh thủ sự phát triển kinh tế của ở Đông á để đối phó với những chính sách bảo hộ mậu dịch của Mỹ và bảo vệ lợi ích của Nhật Bản ở Châu á - Thái Bình Dương bằng các cơ chế kinh tế. đồng thời đóng vai trò chủ đạo trong công cuộc xây dựng trật tự mới ở Châu á. Thông qua cuộc họp thượng đỉnh APEC ở Seattle, Nhật Bản cảm thấy Mỹ đang chuyển chính sách hướng về Châu á. Sợ rằng, vai trò lãnh đạo Châu á - Thái Bình Dương sẽ có thể rơi vào tay Mỹ sẽ làm mất đi vai trò ảnh hưởng của mình. Hơn nữa, trước việc Mỹ, Canada, Mêhicô tăng cường bảo hộ mậu dịch với việc thành lập khu vực mậu dịch tự do của ba nước và sự lớn mạnh của cộng đồng kinh tế Châu á đã buộc Nhật Bản phải có chính sách phát triển hợp lý trong trong nội bộ nước mình và đối với các nước Châu á. Trong quan hệ kinh tế quốc tế, Nhật Bản luôn giữ vai trò là đại diện ở khu vực Châu á. Nhưng quan hệ với các nước khu vực Châu á thì Nhật Bản lại đóng vai trò quan trọng dường như là quốc gia ngoài khu vực. chính vì lẽ đó, các nước thuộc khu vực Châu á vừa là lực lượng đối tác “sân sau” của Nhật Bản trong quan hệ kinh tế với Mỹ và các khu vực kinh tế khác, đồng thời là một “bãi cỏ” con voi Nhật Bản khai thác. Nhật Bản đang thực hiện chiến lược kinh tế đối ngoại hướng về Châu á, xuất phát từ nhiều lý do khác nhau. ở phương diện kinh tế, cần nhấn mạnh tới, đây là khu vực có nhiều lợi thế về địa lý – Kinh tế, dân số, xã hội… * Châu á là khu vực có số dân chiếm khoảng hơn 1/3 dân số thế giới, chiếm gần 1/3 diện tích toàn cầu với hệ sinh thái, tài nguyên đa dạng, phong phú, nguồn nhân lực dồi dào với trình độ khá cao. Do đó, gia tăng quan hệ kinh tế với các nước ở Châu á có nền nông nghiệp lạc hậu để tăng cường sự lệ thuộc về kinh tế, chính trị. để có vốn và công nghệ hiện đại cho quá trình công nghiệp hoá, các nước này sẵn sàng mở rộng các quan hệ hợp tác kinh tế với các nước khác đặc biệt là Nhật Bản. * Hơn nữa, nếu chỉ xét riêng về phía Nhật Bản, có thể nói đây là quốc gia có tiềm lực kinh tế hàng đầu trong khu vực lại luôn dư thừa vốn, công nghệ hiện đại, trình độ quản lý tiên tiến... Với sự phát triển năng động của Châu á, làm cho ý tưởng quay về với Châu á ngày càng trở nên rõ nét hơn trong chính sách của các nhà lãnh đạo cũng như các nhà kinh doanh Nhật Bản. * Ngoài ra, sự tác động xu hướng toàn cầu hoá và khu vực hoá được coi là yếu tố quan trọng thúc đẩy sự thay đổi trong chính sách đối ngoại, đẩy mạnh bành chướng kinh tế ra bên ngoài của Nhật trong những năm 1990, đặc biệt là vào các nước ở khu vựoc Châu á. * Sau chiến tranh lạnh, Nhật Bản nhận thức được rằng, tình hình phát triển ở khu vực Châu á sẽ tiến triển theo chiều hướng tích cực. ở đó, người ta tìm thấy sự hợp tác chặt chẽ giữa các quốc gia, nhằm tận dụng những lợi thế so sánh để tiếp tục duy trì sự phát triển đó cũng là giải pháp tốt để các quốc gia trong khu vực này vượt qua, khắc phục được cuộc khủng hoảng kinh tế trong khu vực. Dường như, các đối tác đều nhận thức được tầm quan trọng của mối liên kết toàn diện. sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế và an ninh …ngày càng phát triển, bất chấp sự khác biệt về chế độ chính trị. Đây là nét mới về chất trong quan hệ kinh tế quốc tế và khu vực những năm đầu thập kỷ 90. Nếu trước đây, sự khác biệt về chế độ chính trị là một trở ngại trong việc xác lập các quan hệ quốc tế, tin cậy lẫn nhau mà người ta cố gắng vượt lên, song đã không thành công thì ngày nay tình hình đã đổi khác. Chính bối cảnh này, tình hình khu vực đã tạo tiền đề cho Nhật Bản thực thi tốt chính sách mở rộng hợp tác kinh tế, chính trị và văn hoá với các nước ASEAN, trong đó có Việt Nam. Trên cơ sở đó có thể thấy rằng, vào đầu thập kỷ 90, quan hệ hai nước Việt Nam - Nhật Bản đã phát triển nhanh chóng cả về bề rộng lẫn chiều sâu. tạo cơ sở vững chắc cho sự phát triển ổn định trong thế kỷ XXI. Trong giai đoạn quá độ của quá trình toàn cầu hoá, việc cơ cấu lại tương quan lực lượng trong khu vực và trên thế giới, làm cho quan hệ Việt – Nhật có điều kiện phát triển thuận lợi hơn so với các nước khác, do hai nước có những lợi ích tương đồng là cùng ở Châu á; cùng có nhu cầu hoà bình và ổn định để phát triển; có tiềm năng kinh tế cần bổ sung cho nhau và cần có sự ủng hộ lẫn nhau trong việc nâng cao vai trò chính trị ở khu vực cũng như trên thế giới. Hơn nữa, Việt Nam ngày càng có vị trí quan trọng trong chính sách của Nhật Bản đối với Châu á - Thái Bình Dương đặc biệt là Đông Nam á. trong sự vận động của quan hệ Nhật – Mỹ, Nhật – Trung, Nhật – ASEAN, Nhật Bản có lợi ích lớn về kinh tế, chính trị… trong quan hệ với Việt Nam. 1.2.2 các nhân tố từ phía Việt Nam Nước ta và một số nước khác, đã có lúc xem xét vấn đề độc lập kinh tế, xây dựng một nền kinh tế hoàn chỉnh mang tính tự túc (tự cung tự cấp) để tránh sự lệ thuộc vào bên ngoài. Có thể nói, việc mở rộng thương mại quốc tế cùng các mối quan hệ kinh tế đối ngoại khác, vận dụng một trong những bài học kinh nghiệm quý báu, được rút ra từ thực tiễn của nước ta trong những năm qua. Kế thừa và phát huy có chọn lọc các quan điểm đổi mới của Đại hội Đảng VI, Đại hội Đảng VII của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã đề ra như: chiến lược ổn định và phát triển kinh tế – Xã hội đến năm 2000 tiếp tục khẳng định quyết tâm thực hiện công cuộc đổi mới, phát triển một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự định hướng của nhà nước theo định hướng XHCN. Trong lĩnh vực ngoại thương, để tiến tới “tự do hoá thương mại”, từng bước tham gia, hội nhập với các tổ chức thương mại khu vực và toàn cầu, nhiều văn bản, chính sách mới về các hoạt động xuất nhập khẩu, đặc biệt là khuyến khích các thành phần kinh tế trong và ngoài nước sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu, kêu gọi các nhà đầu tư nước ngoài tham gia đầu tư liên doanh với Việt Nam để phát triển sản xuất các mặt hàng xuất khẩu… đã được chính phủ ban hành. Với nhiều biện pháp cải cách mạnh mẽ và táo bạo, sau 15 năm kiên trì thực hiện đường lối đổi mới, Việt Nam đã từng bước hình thành nền kinh tế thị trường với những nét đặc trưng riêng của mình. Không chỉ vượt ra khỏi khủng hoảng về kinh tế mà còn, thu được những thành tựu đáng kể trên các lĩnh vực cả về kinh tế và xã hội. Thời kỳ từ năm 1991 – 1995, GDP tăng bình quân hằng năm xấp xỉ 8,2 %; thời kỳ từ năm 1996 – 2000, mặc dù chịu ảnh hưởng bất lợi của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực nhưng mức tăng trưởng GBP vẫn đạt mức bình quân xấp xỉ 7 %. Nhờ vậy, tổng thu nhập trong 10 năm đã qua tăng hơn 2 lần, cơ cấu kinh tế có sự dịch chuyển tích cực theo hướng CNH – HĐH (công nghiệp hoá - hiện đại hoá), tạo tiền đề cho những thay đổi sâu sắc cho nền kinh tế Việt Nam phát triển và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Với phương châm “muốn làm bạn với tất cả các nước”, Việt Nam đã thực hiện một chính sách đối ngoại rộng mở. Tính đến nay, Việt Nam đã là thành viên chính thức của hai tổ chức kinh tế khu vực là ASEAN, APEC và đang tích cực chuẩn bị gia nhập WTO. Ngoài ra, Việt Nam có quan hệ thương mại với gần 170 nước và vùng lãnh thổ, ký hiệp ước thương mại với hơn 60 nước và nhận được ưu đãi tối huệ quốc của 68 nước. Nhật Bản, với tư cách là một nước có tiềm năng về kinh tế, có vai trò ổn định và hỗ trợ phát triển trong khu vực… đã trở thành một đối tác đang là hướng ưu tiên để Việt Nam thiết lập quan hệ lâu dài. điều này, không chỉ nhằm mục đích duy trì môi trường ổn định xung quanh, mà Việt Nam còn mong muốn nhận được sự giúp đỡ từ phía Nhật Bản. Hơn thế nữa, Nhật Bản cũng đã bắt đầu thể hiện vai trò của mình bằng các sáng kiến trong hành động cụ thể của mình, đặc biệt trong quan hệ với các nước Đông Nam á. Vì thế, những thắc mắc trở ngại trong quan hệ giũa hai nước dễ dàng được tháo gỡ, nhanh chóng tìm kiếm các biện pháp để thúc đẩy các mối quan hệ ảnh hưởng này. Khi Việt Nam mở cửa hội nhập, chính thức trở thành viên chính thức của Hiệp hội các nước Đông Nam á (ASEAN). cũng như trong quan hệ với Việt Nam chắc chắn Nhật Bản sẽ có điều kiện mở rộng ảnh hưởng của mình. Điều này, không chỉ tạo ra sự cân bằng trong quan hệ với các nước, mà còn là dấu hiệu về tính chủ động và độc lập trong chính sách đối ngoại của Nhật Bản nhằm nâng cao vị thế của mình trong khu vực và trên thương trường quốc tế. 1.3 ý nghĩa của quan hệ thương mại giữa Việt Nam – Nhật Bản. Việt Nam, hiện đang trong giai đoạn nền kinh tế chuyển đổi, quá trình tái cơ cấu nền kinh tế theo hướng CNH – HĐH đang được đẩy mạnh. Chu trình đổi mới toàn diện được bắt đầu từ năm 1986, đã làm cho nền kinh tế thay đổi một cách cơ bản. Những thành tựu, mới đạt được là bước đầu nhưng rất quan trọng. như việc chuyển từ một nền kinh tế thiếu hụt về lương thực, thực phẩm sang một nền kinh tế có dư thừa và xuất khẩu lương thực, kiểm soát được lạm phát, không ngừng mở rộng, phát triển các mối quan hệ kinh tế với các nước bên ngoài, tăng trưởng kinh tế cao, cải thiện điều kiện sống… và những nhu cầu cơ bản khác của mọi tầng lớp xã hội được đáp ứng. điều quan trọng nhất là, sự chuyển đổi của cả một hệ thống kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là những nhân tố quyết định, đánh dấu sự cố gắng nỗ lực của toàn thể dân tộc Việt Nam để đạt tới “điểm cất cánh”. và đây cũng là những nhân tố, làm cho Việt Nam có khả năng thực hiện một chiến lược mới về CNH – HĐH đất nước. Để thực hiện được chiến lược mới này trong tương lại, Việt Nam cần thực hiện ba nhiệm vụ chiến lược chính sau đây: - Thứ nhất; phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - Xã hội và thực hiện tái đầu tư theo hướng CNH – HĐH. - Thứ hai; Tổ chức lại và phát triển các lực lượng chủ chốt trong cơ cấu kinh tế đa sở hữu, đặc biệt là khu vực nhà nước một khu vực đóng góp rất lớn cho tổng thu nhập quốc dân (GDP) của Việt Nam. Nó có thể tiếp tục, đóng vai trò là lực lượng chính và cơ bản trong nền kinh tế thị trường trong khoảng hai đến ba thập kỷ tới. - Thực hiện chính sách: kết hợp giữa tăng trưởng cao với công bằng xã hội. Để thực hiện tốt những nhiệm vụ này, Việt Nam phải đương đầu với những khó khăn lớn như: + Thiếu hụt vốn. + Thiếu công nghệ hiện đại. + Thiếu kinh nghiệm quản lý cả về vĩ mô cũng như là vi mô. + Sự cách biệt thu nhập ngày càng gia tăng tạo nên hố ngăn cách, phân hoá giữa giầu và nghèo. Những tiêu cực trong phát triển nền kinh tế thị trường như: tham nhũng, buôn lậu và sự sa sút môi trường… Những khó khăn trên đây, không thể vượt qua được nếu chỉ dựa vào những nỗ lực của bản thân Chính phủ và nhân dân Việt Nam. Thực hiện chính sách đối ngoại theo hướng đổi mới, Việt Nam đã thiết lập quan hệ hữu nghị với tất cả các nước trong khu vực, lần đầu tiên trong lịch sử có quan hệ ngoại giao với tất cả các nước tư bản lớn. Việt Nam cũng có quan hệ thân thiện với các nước Tây Bắc âu; duy trì quan hệ truyền thống với các nước Đông Âu và các quốc gia thuộc Liên Xô cũ; có uy tín trong các nước đang phát triển và phong trào không liên kết. Vai trò và uy tín quốc tế của Việt Nam sẽ tăng lên gấp bội, khi Việt Nam đủ điều kiện cất cánh về kinh tế. Với điều kiện địa lý tự nhiên thuận lợi, cộng với sự tương đồng về văn hoá, phong tục tập quán giữa hai dân tộc Việt Nam – Nhật Bản tạo thêm nhiều thuận lợi để phát triển mối quan hệ kinh tế – thương mại ngày càng tốt đẹp hơn, mang lại nhiều lợi ích hơn nữa cho cả hai bên. Nhận thức được điều này, trong những năm qua, với sự cố gắng nỗ lực của cả hai bên đã làm cho quan hệ giữa hai nước đã được thiết lập và mang lại những thành công đáng kể cho cả hai bên. Trước hết đối với Việt Nam, việc phát triển quan hệ kinh tế thương mại sẽ đem lại nhiều thuận lợi cho quốc gia trong lĩnh vực ngoại thương. Nhật Bản, có một thị trường tiêu thụ rộng lớn cho các sản phẩm của Việt Nam như: dầu thô, hàng dệt may, giầy dép da, than, Cafe… và các hàng nông sản khác. Nhờ đó, tích luỹ được một nguồn ngoại tệ đáng kể cho đất nước, góp phần đáng kể vào công cuộc đổi mới đất nước. Mặt khác, thông qua nhập khẩu, nhu cầu tiêu dùng của người Việt Nam sẽ được thoả mãn với những hàng hoá có chất lượng tốt hơn, mẫu mã đẹp hơn, nhiều tính năng tác dụng do Nhật Bản sản xuất. Đây cũng là một động lực để nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước với hàng hoá nhập khẩu từ Nhật Bản. Hơn nữa khi tham gia vào quan hệ ngoại thương với Nhật, Việt Nam có thể nhập khẩu máy móc thiết bị hiện đại từ một nước có công nghệ tiên tiến như Nhật Bản, để từ đó đẩy mạnh, nhanh hơn quá trình CNH – HĐH đất nước, nâng cao năng xuất lao động cho nền kinh tế nói chung. Mặt khác, nhờ có một đội ngũ lao động lành nghề, có trình độ chuyên môn cao và khả năng tiếp thu các thành tựu khoa học kỹ thuật hiện đại, nên Nhật Bản đã khai thác và sử dụng hiệu quả nhân tố này trong quá trình sản xuất, để tạo ra những sản phẩm có lợi thế so sánh. Bên cạnh đó, Nhật Bản còn có lợi thế trong việc sử dụng và phát huy vốn đầu tư của mình. Thông qua hoạt động đầu tư, Việt Nam đã thu hút được một nguồn vốn đầu tư lớn từ Nhật đó là: vốn viện trợ phát triển chính thức (ODA) và vốn đầu tư trực tiếp (FDI); cũng như tiếp thu được những công nghệ mới, kinh nghiệm quản lý tiên tiến của Nhật Bản... Với luồng vốn đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam, sẽ cải thiện phần nào tình trạng thiếu vốn, thiếu công nghệ mà các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam đang vấp phải. Trong quan hệ kinh tế đối ngoại với Nhật Bản, Việt Nam nhận được nhiều những khoản viện trợ phát triển chính thức (ODA) từ Nhật Bản. Đây là hoạt động viện trợ mang tính chất chính phủ của Nhật Bản đối với công cuộc kiến thiết, phát triển đất nước của Việt Nam. Hoạt động này được chính phủ Nhật Bản tiến hành từ khá lâu và đóng một vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của Việt Nam cho tới nay. Thông qua nguồn vốn ODA, Nhật bản đã hỗ trợ cho Việt Nam xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội vốn lạc hậu, hư hỏng và xuống cấp nghiêm trọng. với các dự án xây dựng, tu sửa đường xá, cẩu cống, xây dựng hệ thống thông tin liện lạc, khai thác nguồn năng lượng… làm thay đổi bộ mặt của đất nước, đồng thời làm tăng sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Trong quan hệ kinh tế – thương mại giữa Việt Nam – Nhật bản, không chỉ mang lại nhiều thuận lợi cho Việt Nam mà về phía Nhật Bản cũng có nhiều lợi ích, góp phần vào mục tiêu kinh tế – chính trị của họ. Về mặt kinh tế, Việt Nam là một thị trường rộng lớn của các doanh nghiệp Nhật Bản, đặc biệt là các mặt hàng như đồ điện tử, điện lạnh. xe máy, ô tô…. Ngoài ra, Việt Nam còn là một quốc gia có nguồn tài nguyên tương đối đa dạng và phong phú. Việt Nam nằm ở vùng nhiệt đới, thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp và các cây công nghiệp. Bờ biển từ Bắc xuống Nam của Việt Nam chuyển hướng, uốn khúc theo hình chữ “S”, kéo dài trên 15 vĩ độ. Bờ biển dài trên 3000 km là điểm thuận lợi để Việt Nam phát triển các ngành thuỷ hải sản, cảng biển vận tải biển, du lịch, giao thông. Bên cạnh đó, vùng Biển Việt Nam có thềm lục địa mở rộng hứa hẹn nhiều tài nguyên khoáng sản đặc biệt là các kim loại quí hiếm và dầu mỏ. Mặt khác, cùng với sự gia tăng đầu tư sang Việt Nam, một thị trường lao động rẻ, trẻ, có trình độ văn hoá khá… các doanh nghiệp Nhật Bản cũng tiết kiệm được chi phí sản xuất, cạnh tranh tốt hơn trong xuất khẩu, gia tăng hiệu quả của nền sản xuất nói chung. Ngoài những lợi ích về kinh tế, Nhật Bản còn đạt được những mục tiêu chính trị của mình. Có thể nhận thấy rằng, từ khi Việt Nam gia nhập ASEAN vào năm 1995, bình thường hoá quan hệ với Mỹ, được xét kết nạp vào diễn đàn APEC, cùng với những hoạt động tại liên hợp quốc và các tổ chức quốc tế khác, tiếng nói của Việt Nam trên các diễn đàn quốc tế và khu vực được các nước khác coi trọng. Với uy tín quốc tế của Việt Nam ngày càng tăng, quan hệ chính trị giữa Việt Nam và Nhật Bản có cơ hội phát triển lên một tầm cao mới. Điều này góp phần làm tăng thêm vai trò vị trí quốc tế của Nhật Bản. Tuy Việt Nam không phải là một trong những ưu tiên hàng đầu trong chính sách ngoại giao của Nhật Bản, song Nhật Bản muốn phát huy vai trò chủ đạo ở khu vực và vai trò chính trị quốc tế, Nhật bản không thể không tính đến thực tại và tiềm năng của Việt Nam ở trong khu vực. Thực tế quan hệ lịch sử của hai nước và quan hệ quốc tế trong khu vực đã khẳng định điều này. Từ lâu, Nhật Bản nhận thức rõ tầm quan trọng của Việt Nam trong chiến lược Đông Nam á của mình. Sự ổn định chính trị và hợp tác quốc gia trong khu vực, có ý nghĩa tích cực đối với mục tiêu và lợi ích trong chiến lược của Nhật Bản.Trên thực tế, trong khi tình hình chiến tranh lạnh đang căng thẳng, sự đối đầu tại khu vực còn nổi trội hơn xu hướng hợp tác và quan hệ hữu nghị giữa các quốc gia, thì Nhật bản không thể triển khai được chính sách ngoại giao tích cực độc lập. Trong bối cảnh khu vực như vậy, Nhật Bản bị sức ép từ bên ngoài phải đứng vào vị trí của một bên, chống lại phía bên kia ngoài ý muốn. Hiện nay, trong xu thế hợp tác, liên kết phát triển. Thực tế, Việt Nam đã gia nhập ASEAN, thì tình hình này rất có lợi cho Nhật Bản, khi mà Nhật quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Người ta không thể hình dung được một Đông Nam á hoà bình, ổn định, phát triển mà không có Việt Nam, một nước có tiềm năng và được coi là một nước cỡ lớn ở khu Vực Đông Nam á. Chính sách thúc đẩy quan hệ toàn diện với khu vực Đông Nam á của Nhật Bản có nhiều cơ hội thành công khi quan hệ giữa Việt Nam – Nhật Bản được tăng cường. Mặt khác, Việt Nam có vị trí chiến lược quan trọng ở khu vực Đông Nam á, nằm án ngữ các tuyến đường giao thông biển ở khu vực Thái Bình Dương, có nhiều cửa ngõ thông ra biển thuận lợi, có các hải cảng như cảng Hải Phòng, Cam Ranh, Đà Nẵng, Vũng Tầu… có ý nghĩa về mặt quân sự cũng như kinh tế. Quyết định sử dụng những hải cảng này của Vệt Nam trong tương lai, có thể xem như là một nhân tố tác động đến chiến lược an ninh của Nhật Bản. Nhật Bản muốn bảo vệ được vận tải biển qua biển Đông, cũng như bảo đảm an ninh ở phía Tây Nam thì, không thể không tính tới nhân tố này. An ninh kinh tế cũng như an ninh quốc phòng của Nhật Bản phụ thuộc nhiều vào khu vực biển Đông, nơi mà Việt Nam là một trong những đối tác chính. Chương 2 Thực trạng quan hệ thương mại việt nam - nhật bản từ năm 1992 đến nay Sau hơn 30 năm (1973 – 2004) thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức, quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam - Nhật Bản trong mối quan hệ mới không ngừng được củng cố và hoàn thiện. Trên cơ sở lợi ích riêng của hai nước, mặc dù có sự khác biệt về chính trị, nhưng hai nước đã có nhiều cố gắng duy trì và phát triển mối quan hệ này. Đặc biệt từ năm 1992 đến nay, do đã có các bước tiến triển khả quan với nhiều sự kiện lớn trong quan hệ chính trị, ngoại giao, kinh tế giữa hai nước khiến cho các hoạt động xuất nhập khẩu đã diễn ra với tốc độ và quy mô ngày càng mạnh mẽ, sôi động hơn hẳn so với giai đoạn từ năm 1986 đến 1991. Trước khi đề cập đến quan hệ giữa hai bên từ năm 1992 đến nay, chúng ta cần có cái nhìn tổng quan nhất về động thái phát triển kinh tế thương mại giữa hai nước giai đoạn trước năm 1992. 2.1 Sự tiến triển của quan hệ thương mại giữa Việt Nam – Nhật Bản từ năm 1973 đến năm 1991 Sau khi hiệp định Pari, về việc chấm dứt cuộc chiến tranh Việt Nam được ký kết, ngày 21/9/1973 Việt Nam và Nhật Bản đã chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước. Hai năm sau, vào tháng 10 năm 1975, cả hai bên đã cùng mở đại sứ quán ở thủ đô của nhau. đã mở ra, một thời kỳ mới trong quan hệ hợp tác toàn diện giữa hai nước. cũng từ đó, quan hệ hai nước bước sang một trang mới. Trước năm 1986, ngoài quan hệ với các thị trường truyền thống khu vực 1 (các nước XHCN) Việt Nam đã từng bước mở rộng quan hệ thương mại với các nước khác, các thị trường khu vực II (các nước TBCN và các nước đang phát triển). Đặc biệt năm 1976, Nhật Bản đã trở thành bạn hàng lớn thứ hai sau Liên Xô về cả xuất khẩu và nhập khẩu hàng hoá. Bảng 1: Danh sách 5 bạn hàng xuất khẩu lớn nhất cuả Việt Nam giai đoạn (1976 – 1990) Nước Tỷ trọng trong tổng Kim ngạch Xuật khẩu Việt nam (%) Xếp hạng Liên Xô 44.1 1 Nhật Bản 40.6 2 Singapore 7.0 3 Hồng Kông 7.0 4 Ba Lan 3.9 5 (Nguồn: Nguyễn Trần Quế: Kinh tế đối ngoại Việt Nam – Thực tiễn và chính sách, viện Kinh tế thế giới, Hà Nội,1992) Bảng 2: Danh sách 5 bạn hàng nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam giai đoạn (1976- 1990) Nước Tỷ trọng trong tổng Kim ngạch Nhập khẩu Việt Nam (%) Xếp hạng Liên Xô 67.1 1 Nhật Bản 6.7 2 Pháp 2.7 3 Tiệp Khắc 2.3 4 Hồng Kông 2.1 5 Nguồn: Nguyễn Trần Quế - Kinh tế đối ngoại Việt Nam – thực tiễn và chính sách. Viện kinh tế thế giới, Hà Nội, 1992 Trong ba năm liền từ năm 1976 - 1978, quan hệ mậu dịch của hai nước tiếp tục phát triển, với tổng kim ngạch hàng năm tương ứng khoảng 159 triệu USD, 247 triệu USD và 268 triệu USD. Như vậy, có sự gia tăng quá nhanh về quy mô và giá trị. Bước sang năm 1979, do nhiều yếu tố phi kinh tế tác động nên mậu dịch song phương của hai nước có sự giảm sút. Kim ngạch xuất khẩu chỉ còn 50 triệu USD, nhiều hợp đồng làm ăn bị hoãn lại. Lý do cơ bản là vì các năm này, Nhật bản không vượt ra khỏi áp lực chính trị vì ảnh hưởng dư luận phản đối của các nước tư bản chủ nghĩa trên thế giới mà đứng đầu không phải ai khác là Mỹ. Về thực trạng diễn biến quân sự, chính trị giữa Việt Nam và Trung Quốc qua cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc, cuộc dẹp bỏ chế độ Pôn-Pốt của Việt Nam ở Campuchia phía Tây Nam, cộng thêm một số vấn đề khác nữa… đã dẫn đến quyết định tối cao của Bộ ngoại giao Nhật Bản ngày 8/1/1987, là sẽ hoãn viện trợ cho Việt Nam cho đến khi nào các vấn đề trên được giải quyết ổn thoả. Tuy nhiên, Nhật Bản chỉ đình chỉ mọi cuộc tiếp xúc ngoại giao hoặc tài trợ nhân đạo. Nói cách khác, đồng thời với việc đình chỉ tài trợ kinh tế, Nhật Bản vẫn tiếp tục duy trì sự giúp đỡ nhân đạo cho việt Nam trong suốt thời gian từ năm 1979 đến trước khi nối lại tài trợ ODA toàn diện cho Việt Nam năm 1992. Bảng 3: Tài trợ của Nhật Bản và các nước thuộc tổ chức DAC cho Việt Nam thời kỳ 1979 – 1991 (đơn vị: triệu đô la Mỹ) Năm Từ Nhật Bản Từ DAC Năm Từ Nhật Bản Từ DAC 1979 38,7 229,6 1986 1,5 54,2 1980 3,7 158,4 1987 0,3 90,0 1981 0,9 129,4 1988 4,8 65,8 1982 1,3 104,9 1989 1,6 - 1983 0,7 73,5 1990 1,3 - 1984 1,1 80,7 1991 7,1 107,7 1985 0,6 54,2 (Nguồn: OECD, Development Assistance Committe Statistic và Japan’s ODA Annual Report 1995) Từ năm 1983 – 1986, quan hệ thương mại giữa Việt Nam – Nhật Bản có xu hướng gia tăng. Hoạt động xuất nhập khẩu được đẩy mạnh, điều này xuất phát từ nhu cầu kinh tế của cả đôi bên như: Việt Nam muốn có các sản phẩm hàng hoá công nghiệp cần thiết, phục vụ cho nhu cầu thiết yếu, các thiết bị công nghệ hiện đại, phục vụ cho việc CNH - HĐH đất nước. còn về phía Nhật Bản, họ lại muốn khai thác tài nguyên thiên nhiên, thị trường, lao động… của Việt Nam. Do vậy mà tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt gần 214 triệu USD vào năm 1985. Trong đó, Việt Nam xuất sang Nhật Bản những sản phẩm thô có giá trị thấp và nhập từ Nhật những hàng hoá có hàm lượng “chất xám” cao. Bảng 4: Buôn bán giữa Việt Nam – Nhật Bản giai đoạn (1973 – 1986) (đơn vị: Nghìn đồng) Năm Kim ngạch xuất khẩu Kim ngạch nhập khẩu Tổng kim ngạch Xuất nhập khẩu 1973 7.627 4.429 12.056 1974 30.194 20.394 50.588 1975 26.697 2.973 69.670 1976 39.906 8.795 158.701 1977 71.848 174.669 246.517 1978 50.834 216.820 267.654 1979 48.228 117.734 165.692 1980 48.627 113.090 161.717 1981 37.334 109.449 146.793 1982 36.018 92.339 128.357 1983 37.625 119.221 156.846 1984 51.206 119.221 170.224 1985 65.027 148.036 213.863 1986 82.923 189.187 272.110 Nguồn; Bộ công nghiệp và mậu dịch quốc tế Nhật Bản (Ghi chú: Từ năm 1973 – 1975, chỉ tính kim ngạch buôn bán với Bắc Việt Nam) Giữa những năm 1980, nước ta rơi vào cuộc khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng do lạm phát ba con số (lạm phát phi mã) gây nên. đời sống của nhân dân rất khó khăn. Bên cạnh đó, Mỹ lại thực hiện chính sách bao vây, cấm vận, ngừng viện trợ và đầu tư, kể cả các khoản đã cam kết với chính phủ Việt Nam. Trước tình hình đó năm 1986, nước ta đã thực hiện một bước chuyển đổi cơ bản, từ chỗ nền kinh tế đóng sang mở cửa nền kinh tế. Việc chuyển đổi này, đã giúp Việt Nam gặt hái được nhiều thành công trong thương mại quốc tế. Được sự ủng hộ và quan tâm hợp tác phát triển kinh tế của nhiều quốc gia, trong đó có Nhật Bản. chỉ riêng trong lĩnh vực ngoại thương, các hoạt động xuất nhập khẩu đều có sự tăng trưởng và phát triển khả quan. Thực tiễn phát triển đã cho thấy, kể từ năm 1989 trở đi, cùng với các sự kiện Việt Nam rút hết quân ra khỏi Campuchia, hoà bình dược thiết lập lại ở Đông Dương. Kinh tế – xã hội Việt Nam sau một số năm thực hiện đổi mới, đã ngày càng ổn định hơn… tạo ra những tiền đề kinh tế - chính trị cần thiết đó, cũng là những động lực thúc đẩy các quan hệ hợp tác kinh tế – văn hoá giữa Nhật Bản - Việt Nam ngày càng phát triển mạnh mẽ hơn. nhiều cơ quan chính phủ và phi chính phủ, phụ trách về hợp tác kinh tế đối ngoại của Nhật Bản đã đến Việt Nam để xúc tiến dần các hoạt động hợp tác kinh tế giữa hai nước. Đó là, các cơ quan như Tổ chức xúc tiến mậu dich Nhật Bản (JETRO); Cục hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA); Quỹ hợp tác kinh tế với nước ngoài (OECF); Liên đoàn các tổ chức kinh tế Nhật Bản (Keidanren)… để chuẩn bị cho quá trình hợp tác kinh tế giữa hai nước ngày càng phát triển tốt hơn, phía Nhật Bản đã tổ chức các hoạt động giao lưu: Diễn đàn “kinh tế và văn hoá Nhật Bản” vào tháng 6 năm 1989 tại Tokyo… Đến tháng 9 năm 1989, phía Việt Nam đã phối hợp với Nhật Bản tổ chức hội thảo “giao lưu kinh tế Nhật - Việt” tại Hà Nội… Nhờ những nỗ lực trên đây, các quan hệ hợp tác kinh tế giữa hai nước đã có những bước chuyển biến rõ rệt cả về thương mại và đầu tư. Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt – Nhật năm 1991, đạt 879 triệu USD tăng 70,3 % so với năm 1989 và nếu so với năm 1986 là năm đầu tiên của thời kỳ Việt Nam đổi mới thì đã tăng hơn 223,2 %. Đặc biệt là kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật, ngay từ những năm 1991 đã lên tới 662 triệu USD, tăng 697,7%. Nhật Bản đã vươn lên trở thành bạn hàng nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam, thay thế vị trí của Liên Xô (cũ) khi đó đã và đang bị tan rã cùng với các nước XHCN ở Đông Âu cũ. Có thể nói tóm lại, tình hình trước năm 1992, cho phép chúng ta có thể rút ra được những nhận xét như sau: - Sau một loạt những thay đổi của tình hình quốc tế và khu vực Châu á Thái Bình Dương từ chính trị, đến an ninh, kinh tế, toàn cầu hoá và khu vực hoá trước những năm 1992 đã tạo ra những cơ hội và thách thức cho các quốc gia trong quan hệ cả song phương lẫn đa phương…, hối thúc các quốc gia thiết lập và mở rộng giao lưu kinh tế song phương; quan hệ kinh tế giữa hai nước Việt – Nhật được “tái lập” lại và thúc đẩy mạnh hơn. - Nếu chúng ta coi bối cảnh quốc tế và khu vực là yếu tố tác động “bề ngoài”, thì yếu tố Việt Nam – sự tiếp tục đổi mới kinh tế, những lợi thế và nhu cầu lợi ích… là những yếu tố “bên trong” quan trọng thúc đẩy sự tái lập và phát triển quan hệ kinh tế với Nhật Bản. Cả hai yếu tố này đều không thế thiếu, trong việc tạo ra cơ sở để cho quan hệ giữa Việt – Nhật được phát triển. - “Yếu tố Nhật Bản”, cũng là yếu tố “bên trong” không kém phần quan trọng trong việc thúc đẩy quan hệ của hai nước. Nói khác đi, chính tiếm lực kinh tế, chính sách kinh tế đối ngoại hướng về Châu á và lợi ích của Nhật Bản trong quan hệ với Việt Nam đã tạo ra cơ sở cho quan hệ song phương Việt Nam – Nhật Bản được phát triển. 2.2 Thực trạng phát triển Quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản giai đoạn từ năm 1992 đến nay. 2.2.1 Tình hình chung của quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Nhật Bản trong giai đoạn từ 1992 đến nay. Trong thời kỳ từ năm 1991 đến năm 1996, là thời kỳ khó khăn nhất của Việt Nam, do khối thị trường mà Việt Nam có quan hệ chính trong hơn 40 năm qua là Liên Xô và các nước Đông Âu cũ đã bị sụp đổ vaò năm 1991. Thời kỳ có nhiều sự kiện quan trọng, tạo bước ngoặt lớn trong quá trình phát triển kinh tế của nước ta. Trước năm 1991, khối thị trường Liên Xô và các nước Đông Âu cũ, chiếm tới hơn 50% thị phần xuất khẩu và gần 60% thị phần nhập khẩu của Việt Nam. Sự sụp đổ của khối thị trường này, làm cho kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam giảm 13% và kim ngạch nhập khẩu giảm 15% vào năm 1991. Nhưng nhờ có chính sách đổi mới của Chính phủ, Việt Nam đã nhanh chóng hội nhập vào nền kinh tế khu vực, thế giới. Kết quả cho thấy thị trường xuất nhập khẩu của Việt Nam được mở rộng, từ quan hệ ngoại thương với 40 nước năm 1990 đã tăng lên 174 quốc gia và vùng lãnh thổ năm 2003, trong đó hai châu lục có nhiều bạn hàng nhất là Châu á (27,9%) và Châu Phi là (25,6%). Trong các hoạt động kinh tế đối ngoại nói chung và ngoại thương nói riêng, nhờ có nỗ lực thực thi một chiến lược phát triển kinh tế mở với nhiều giải pháp chính sách, cơ chế quản lý ngày càng thông thoáng hơn trước, nên chúng ta đã được sự quan tâm ủng hộ hợp tác phát triển kinh tế của nhiều quốc gia, không phân biệt chế độ chính trị khác nhau trên thế giới, do đó đã gặt hái được nhiều thành công trong mọi hoạt động kinh tế đối ngoại. Điều khá nổi bật, đang được nhiều nhà ngoại giao, nhà kinh doanh quan tâm. Và cũng chính ở thời kỳ này, quan hệ Việt - Nhật được phát triển mạnh mẽ và toàn diện. mang trong nó nhiều đặc trưng mới, điều mà không phải thời kỳ nào cũng có được nếu không muốn nói là chưa bao giờ có. Vì vậy, người ta đã nói đến một thời kỳ mới trong quan hệ Việt – Nhật. chính sự phát triển này, đã tạo lập những tiền đề vững chắc trong quan hệ hai nước hướng tới thế kỷ 21. Đặc biệt từ năm 1992 đến nay, đã có sự tiến triển khả quan với nhiều sự kiện đáng ghi nhớ trên các lĩnh vực thương mại, đầu tư trực tiếp FDI và viện trợ phát triển chính thức ODA. Sự kiện đầu tiên diễn ra trong tháng11/1992 đó là: khi chính phủ Nhật Bản tuyên bố nối lại viện trợ phát triển chính thức ODA cho Việt Nam thì mọi rào chắn đã được tháo gỡ, quan hệ hữu nghị Việt – Nhật ngày càng trở nên thân thiện. Cũng ngay sau đó, vào tháng 12/1992, chính phủ Nhật Bản tiếp tục tuyên bố huỷ bỏ chế độ quy chế “hạn chế xuất khẩu một số hàng hoá kỹ thuật cao, hàng chiến lược sang các nước XHCN trong đó có Việt Nam đã được áp dụng từ năm 1977”. nhờ đó, Việt Nam đã có thể nhập khẩu những máy móc thiết bị hiện đại của Nhật Bản để phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá nền kinh tế, điều mà nhiều năm trước đó không thể làm được. Chính vì thế năm 1992, đã được ghi nhận là năm có ý nghĩa rất quan trọng trong quan hệ giữa hai nước, vì đó chính là một bước ngoặt trong sự tiến triển của quan hệ thương mại Việt Nam – Nhật Bản. Việc Nhật Bản cung cấp trở lại ODA cho Việt Nam, không chỉ đơn thuần có ý nghĩa khai thông quan hệ cung cấp viện trợ của họ cho ta, mà còn là tín hiện bật đèn xanh khai thông cho cả quan hệ kinh tế thương mại và đầu tư phát triển. từ đó trở đi, sẽ có thêm nhiều thuận lợi cho sự phát triển quan hệ kinh tế thương mại giữa hai nước. Thực tiễn phát triển những năm qua kể từ năm 1992 trở đi, đã cho thấy rõ tình hình khả quan này. Các quan hệ thương mại, đầu tư trực tiếp FDI và viện trợ phát triển chính thức ODA đều gia tăng liên tục và có điểm mới nhất là tất cả các quan hệ đó đều đã tạo động lực hỗ trợ, thúc đẩy nhau cùng phát triển. Nói tóm lại, hoàn cảnh môi trường quốc tế và khu vực thuận lợi; công cuộc đổi mới của Việt Nam với các chính sách phát triển kinh tế đối ngoại năng động, phù hợp với xu thế phát triển thời đại, lợi ích của hai bên Nhật Bản - Việt Nam đã là những nguyên nhân cơ bản nhất, quan trọng nhất thúc đẩy các quan hệ hợp tác kinh tế - thương mại giữa hai nước phát triển ngày càng mạnh mẽ, sôi động hơn và cũng ngày càng đi vào thế ổn định hơn, vững chắc hơn. Đương nhiên, đó mới chỉ là những nguyên nhân có tính khách quan bên ngoài đối với Nhật Bản. Điều cần lưu ý là về phía những nhân tố chủ quan Nhật Bản đã tạo ra. Như đã phân tích ở chương 1, sở dĩ trong suốt thập niên 90 vừa qua, đã có nhiều nỗ lực trong các quan hệ hợp tác kinh tế thương mại với Việt Nam còn là do sự chuyển hướng chiến lược trong chính sách đối ngoại và chính sách kinh tế đối ngoại của Nhật Bản đối với các nước ASEAN nói chung và Việt Nam nói riêng. 2.2.2 Thực trạng phát triển quan hệ thương mại Việt Nam – Nhật Bản giai đoạn từ năm 1992 đến nay. Như đã phân tích ở trên, quan hệ thương mại Việt Nam – Nhật Bản ngày càng phát triển, nhất là từ năm 1992 trở lại đây, do chính sách hợp tác hữu nghị, đã làm cải thiện thông thoáng hơn, sau khi có sự kiện Phía Nhật Bản đã chính thức nối lại viện trợ phát triển chính thức (ODA) cho Việt Nam vào tháng 11/1992. Đặc biệt là sau một loạt các sự kiện quan trọng trong hai năm 1994 và 1995: Mỹ huỷ bỏ chính sách cấm vận thương mại chống Việt Nam vàn tháng 7/1995; Việt Nam gia nhập ASEAN cũng vào tháng 7/1995 thì các quan hệ kinh tế, đặc biệt là quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản càng được phát triển mạnh mẽ và sôi động hơn. Nếu tính từ năm 1986, là năm khởi đầu công cuộc đổi mới với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nước mới ở mức rất khiêm tốn chỉ có 272 triệu USD, thì sau 5 năm đổi mới, năm 1991 con số đó đã lên tới 879 triệu USD tăng gần gấp 3,2 lần đến năm 2001 đã là 4.690 triệu USD tăng gấp 5,3 lần so với năm 1991. Năm 2003 trong 6 tháng đầu năm, xuất khẩu sang Nhật đạt 1.370 triệu USD (tăng 32,9 % so với cùng kỳ năm 2002) với các mặt hàng xuất khẩu chính là đồ thủy sản, dầu thô và các sản phẩm dệt may. Đặc biệt là các sản phẩm từ sữa. Nhập khẩu 6 tháng đầu năm từ Nhật đạt 1.470 triệu USD (tăng 2,98 % so với cùng kỳ năm 2002) các mặt hàng nhập khẩu chính là máy móc, thiết bị và phụ tùng máy móc thiết bị, sắt/thép, máy tính và các linh kiện máy tính Bảng 5: Tỷ trọng kim ngạch XNK Việt – Nhật trong tổng kim ngạch XNK của Nhật Bản thời kỳ 1992 – 2003 (đơn vị: triệu USD) Năm XNK Việt – Nhật Tổng kim ngạch XNK của Nhật Bản Tỷ trọng (%) 1992 1,321 573.395 0,23 1993 1,708 603.349 0,28 1994 1,994 671.251 0,3 1995 2,637 776.617 0,34 1996 3,160 760.627 0,42 1997 3,481 759.958 0,46 1998 3,262 624.700 0,52 1999 3,600 825.769 0,44 2000 4,653 925.926 0,50 2001 5,725 914.119 0,63 2002 4,950 2003* 2,840 (Nguồn : Tổ chức xúc tiến mậu dịch Nhật Bản JETRO) Ghi chú: (*) - Tính trong 6 tháng đầu năm Từ Bảng 4, cho ta thấy tỷ trọng kim ngạch xuất nhập khẩu Việt – Nhật trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Nhật Bản tăng rõ rệt trong từng năm. Điều đó thể hiện mối quan tâm của Nhật Bản đối với thị trường Việt Nam và triển vọng của mối quan hệ thương mại này. Những bảng số liệu trên cũng cho thấy thương mại của Nhật Bản với Việt Nam chỉ chiếm một tỷ trọng rất nhỏ bé 0,63 % năm 2001, nhỏ hơn rất nhiều so với tỷ trọng các nước như Trung Quốc là 13,2 %; Singapore là 2,9 %; Malaysia là 2,7%; Thái Lan là 2,6%; Philippin là 1,7%. Trong khi đó, bảng 5 lại cho thấy tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của Việt – Nhật trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam lại khá cao, chiếm tỷ trọng trung bình 15,7%. Điều này phản ánh sự phụ thuộc khá lớn của Việt nam trong quan hệ thương mại với Nhật Bản. Chỉ cần một thay đổi nhỏ trong nền kinh tế Nhật Bản sẽ dẫn đến những thay đổi lớn cho Việt Nam. Bảng 6: Tỷ trọng kim ngạch XNK Việt Nam – Nhật Bản trong tổng kim ngạch XNK của Việt Nam thời kỳ 1992 – 2003 (Đơn vị: triệu USD) Năm KNXNK Việt – Nhật Tổng KNXNK của Việt Nam Tỷ trọng(%) 1992 1.321 5.112 25,79 1993 1.708 6.909 24,72 1994 1.994 9.880 20.18 1995 2.637 13.604 19,38 1996 3.160 18.400 17,17 1997 3.418 20.777 16,75 1998 3.262 20.746 15,72 1999 3.600 23.159 15,54 2000 4.653 29.508 15,77 2001 5.725 31.200 18,35 2002 4.950 36.400 13,50 2003* 2.840 22.000 12,90 (Nguồn : Tổ chức xúc tiến mậu dịch Nhật Bản JERTRO) Ghi chú (*): Tính trong 6 tháng đầu năm Tuy nhiên, đáng lưu ý là tỷ trọng KNXNK Việt – Nhật trong tổng KNXNK của Việt Nam lại tăng giảm thất thường. Tình trạng đó là do một số nhân tố chủ yếu sau gây nên: * Tình trạng quan liêu giấy tờ, sự mập mờ trong các chính sách vẫn còn đè nặng mà nhà nước ta chưa có những biện pháp triệt để nhằm thúc đẩy sự phát triển thương mại. Đây là, lực cản lớn đối với tiềm năng phát triển quan hệ hợp tác thương mại song phương Việt – Nhật. Không những thế, về phía Nhật Bản, họ cho biết: khá nhiều nhà doanh nghiệp Nhật Bản muốn hợp tác với các nhà doanh nghiệp Việt Nam trong liên doanh đầu tư phát triển sản xuất và thương mại, đặc biệt là tập trung vào khai thác những lợi thế so sánh sẵn có của Việt Nam, để phát triển các mặt hàng có thể xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản. song họ còn e ngại môi trường đầu tư và kinh doanh ở Việt Nam còn có những vấn đề gây hạn chế bất cập cho họ. trong đó có sự e ngại về sự hay thay đổi chính sách và thủ tục hành chính còn quá nhiều phiền phức của Việt Nam (mặc dù, sự thay đổi chính sách của Chính phủ ta là; làm đơn giản thủ tục hành chính. nhưng sự thay đổi này, luôn diễn ra hàng năm gây ra tâm lý nghi ngờ…). Đây rõ ràng là một trở ngại lớn mà phía Việt Nam cần có giải pháp kịp thời khắc phục ngay; * Cho đến nay, nhiều nhà doanh nghiệp Việt Nam thiếu chủ động trong việc thanh toán nợ thương mại cho các doanh nghiệp Nhật Bản. Trong khi đó, Chính phủ Việt Nam lại chưa có những chính sách, biện pháp để giải quyết cho nhanh chóng, rõ ràng vấn đề này. Đây cũng là những đề bức bách mà các nhà doanh nghiệp Nhật Bản đang mong chờ sự hỗ trợ giải quyết của Chính phủ Việt Nam. * Mặc dù, quan hệ hợp tác kinh tế thương mại Việt Nam – Nhật Bản đã có một tiến trình phát triển khá lâu dài. Hai bên đã là bạn hàng tin cậy của nhau trong nhiều năm qua. nhưng cho đến nay phía Việt Nam vẫn chưa có các văn phòng xúc tiến thương mại của Chính phủ, khiến cho hoạt động thương mại của Việt Nam với Nhật Bản cũng bị hạn chế đi rất nhiều. Chính phủ Việt Nam vẫn phó thác việc này cho các tham tán thương mại tại sứ quán của mình ở Nhật Bản. * Cơ sở vật chất của ngành ngoại thương Việt Nam còn quá nghèo nàn lạc hậu. chính vì vậy, đã không đủ để đáp ứng được những đòi hỏi của hoạt động buôn bán quốc tế, nhất là các cơ sở hạ tầng như kho chứa hàng, các cảng còn chật hẹp, thiết bị bốc dỡ thô sơ, ít được nâng cấp…không đảm bảo cho các phương tiện vận tải hiện đại như tàu bè của các bạn hàng nước ngoài khi cập bến, cảng… * Sự thiếu hụt đội ngũ chuyên gia thương mại có năng lực, trình độ ngoại ngữ, ngoại giao kinh tế và kinh nghiệm chuyên môn trong không ít các công ty xuất nhập khẩu của Việt Nam đã làm hạn chế nhiều tới kết quả của các cuộc đàm phán, thương lượng để ký kết hoặc triển khai thực thi các hợp đồng thương mại. do đó, làm ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả của các hoạt động kinh doanh giữa đôi bên. Hạn chế này, cũng cần phải khắc phục nhanh, và nó trực tiếp liên quan đến việc đào tạo, giáo dục…. đòi hỏi, Chính phủ ta cần phải quan tâm nhiều hơn nưa trong việc đổi mới lại, nâng cao công tác giáo dục, đào tạo và tuyển chọn những người có năng lực, trình độ cũng như kinh nghiệm trong lĩnh vực kinh doanh thương mại. Để có thể hiểu rõ hơn về sự tăng giảm thất thường của việc xuất nhập khẩu hàng hoá này, cũng như thực trạng quan hệ buôn bán Việt – Nhật, chúng ta hãy đi xem xét hoạt động xuất nhập khẩu giữa hai nước trong thời gian qua. 2.2.2.1 Hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản. Kim ngạch xuất khẩu từ Việt Nam sang Nhật Bản từ đầu những năm 1990 đến nay, đã tăng nhanh và tương đối ổn định. Thực tế cho thấy, thị trường Nhật Bản là một thị trường khó tính. nhưng bước đầu đã có dấu hiệu cho thấy sự chấp nhận hàng hoá Việt Nam của thị trường này. Tuy số lượng giá trị tuyệt đối của (kim ngạch xuất khẩu sang Nhật Bản) tăng lên liên tục năm 1992: 870 triệu USD, năm 1997 là 2198 triệu USD tăng gấp 2,5 lần. Tuy nhiên, tỷ trọng của xuất khẩu Việt – Nhật trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam lại tăng giảm thất thường. Kim ngạch có xu hưởng giảm mạnh nhất là sau khi khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực xảy ra. Từ chỗ chiếm 33.71 % năm 1992 đã tăng lên 35,81 % năm 1993, sau đó lại xuống còn 23,93 % năm 1997, đến năm 2000, còn 17,7% năm 2001 tăng lên 23,25 %, nhưng năm 2002 và năm 2003 lại tiếp tục giảm xuống theo tỷ lệ tương ứng là: 15,03 % và 13,97 %. Bảng 7: Tỷ trọng xuất khẩu Việt – Nhật trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, 1992 – 2003 (Đơn vị: triệu USD) Năm Kim ngạch xuất khẩu Việt - Nhật Tổng KNXK của Việt Nam Tỷ trọng (%) 1992 870 2.581 33,71 1993 1.069 2.985 35,81 1994 1.350 4.054 33,30 1995 1.716 5.449 31,49 1996 2.020 7.256 27,84 1997 2.198 9.185 23,93 1998 1.792 9.356 19,16 1999 1.920 11.523 16,66 2000 2.532 14.308 17,70 2001 2.510 15.100 23,25 2002 2.440 16.700 15,03 2003* 1.370 9.800 13,97 (Nguồn số liệu thống kê của Bộ Thương mại Việt Nam). Ghi chú (*): Tính 6 tháng đầu năm Hiện tượng này, được lý giải một phần bởi chất lượng hàng tiêu dùng xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam chưa đủ đảm bảo đúng tiêu chuẩn về chất lượng cũng như mẫu mã. Các doanh nghiệp Việt Nam, đôi khi còn thiếu trung thực trong kinh doanh. Ví dụ như: đã ký hợp đồng một số mặt hàng sang Nhật Bản rồi nhưng lại đòi tăng giá mới chịu xuất hoặc tự ý huỷ bỏ hợp đồng hoặc lại xuất sang các nước khác để thu được nhiều lợi hơn. Có thể nói rằng, không ít doanh nghiệp Việt Nam ta không biết giữ chữ tín trong kinh doanh, không biết giữ bạn hàng. do vậy, số lượng hợp đồng xuất khẩu sang Nhật Bản cũng bị giảm sút đáng kể. Phần nữa, do áp lực của cuộc khủng hoảng kinh tế ở Nhật Bản từ đầu những năm 1990, việc mất giá của đồng tiền yen và các đồng tiền khác, đã khiến cho hàng hoá của Việt Nam mất đi lợi thế cạnh tranh, mất đi một phần thị phần trên thị trường Nhật Bản. Giá trị xuất khẩu này, bị giảm sút đã làm thiệt hại đáng kể cho tổng kim ngạch xuất khẩu của nước ta. Xét về cơ cấu xuất khẩu, những sản phẩm chế tác bị ảnh hưởng mạnh nhất trong đó có hàng dệt may, tôm đông lạnh… mặt hàng dầu thô và các mặt hàng nguyên liệu khác hầu như không bị ảnh hưởng lắm về số lượng nhưng do giá giảm nên tổng giá trị cũng bị giảm. Thêm vào đó, sự thay đổi chính sách thuế tiêu dùng, thuế xuất khẩu của chính phủ Nhật Bản trong năm 1997, đã tác động đến chi tiêu của người dân Nhật Bản làm giảm đi sức mua của người dân cũng như, làm hạn chế lượng hàng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản. Ngoài ra, do đặc điểm và xu hướng chuyển dịch cơ cấu khu vực thị trường xuất khẩu của Việt Nam từ năm 1991 đến nay cho thấy: một mặt, quan hệ buôn bán và phạm vi không gian thị trường xuất khẩu không ngừng được mở rộng; đồng thời Việt Nam không chỉ phát triển thị trường gần mà đã vươn nhanh đến các thị trường xa như (Tây Bắc, Bắc Mỹ, Châu Đại Dương…). Việt Nam đã chuyển dần cơ cấu thị trường, từ việc chỉ xuất khẩu sang các nước Châu á - Thái Bình Dương là chủ yếu, đến xuất khẩu sang cả các khu vực thị trường khác phù hợp với chủ trương đa phương hoá, đa dạng hoá kinh tế đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Nếu năm 1991, thị trường Châu á chiếm tới 80 % tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam thì năm 1994, giảm xuống còn 75,8% và năm 1997, chỉ còn chiếm 67,7 %. Riêng thị trường Đông Bắc á năm 1995, chiếm tới 50 % tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, nhưng đến năm 1997, chỉ còn chiếm 44,0 %. Thị trường xuất khẩu của Việt Nam, phát triển theo hướng mở rộng sang Châu Âu, đặc biệt Tây Bắc Âu. Ngoài ra, các thị trường Liên Bang Nga và thị trường các nước Châu Âu có dấu hiệu phục hồi. Năm 1995, thị trường các nước G7 (7 nước công nghiệp phát triển) chiếm tỷ trọng 39,7 % kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, riêng Nhật Bản chiếm tỷ trọng 31,49 % các nước còn lại chiếm 18,81 %. Năm 2003, Nhật Bản chỉ còn chiếm tỷ trọng 13,97 % trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Như vậy tất cả những nhân trên đã khiến cho tỷ trọng xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản giảm xuống. ă Cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản. Bảng 8 : Danh mục hàng hoá xuất khẩu của Việt sang Nhật giai đoạn (1995 – 2000) (Đơn vị : triệu USD) Tên hàng 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Dầu thô 684,2 757,7 416,5 294,0 403 503,3 Thuỷ Hải sản 336,9 311,1 360,4 347,1 414 488 Hàng Dệt may 210,5 309,5 325,0 320,9 532 691,5 Cà Phê 35,3 23,3 25,1 37,9 28,5 20,9 Cao Su 6,1 3,7 5,7 2,6 3,2 5,6 Gạo 0,1 0,2 1,1 3,6 3,2 2,5 (Nguồn Tổng cục Hải Quan) Qua bảng trên, ta có thể thấy rằng trong các mặt hàng mà Việt Nam xuất sang Nhật Bản chủ yếu là nguyên liệu, khoáng sản, hải sản; nguyên liêu thô hoặc mới qua sơ chế và những mặt hàng có mức đội gia công chế biến thấp. Cụ thể: * hàng dệt may đang xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản với kim ngạch trung bình hàng năm là gần 400 triệu USD, có dấu hiệu gia tăng mạnh theo các năm. Chỉ tính riêng 6 tháng đầu năm 2003 đạt 1.745 triệu đô tăng 66,6 % so với cùng kỳ năm 2002. Tuy nhiên, thị phần của Việt Nam về mặt hàng này hiện còn rất nhỏ bé so với các nước trong khu vực. Xu hướng nhập khẩu mặt hàng này tại Nhật tăng nhanh trong khoảng những năm từ 1980 đến 1990. nhưng trong vài năm trở lại đây, kim ngạch xuất lại giảm sút do sức mua của thị trường này giảm. Trong tương lai, khi nền kinh tế Nhất Bản phục hồi thì nhu cầu tiêu dùng trong nước tăng lên; triển vọng xuất khẩu của Việt Nam về mặt hàng này sẽ tăng lên. * Hải sản của Việt nam được thị trường Nhật Bản đánh giá khá cao. Tại Nhật, hơn 80 % nhu cầu về Tôm phải phụ thuộc vào nhập khẩu. Có thể nói đây là nước có một nhu cầu tiêu thụ rất lớn về Hải sản. Việt Nam hiện là một trong những nước xuất khẩu Tôm hàng đầu vào thị trường Nhật Bản. Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản vào Nhật đạt mức 600 triệu USD/năm và mục tiêu tăng trưởng mặt hàng này năm nay dự kiến tăng 720 triệu USD, chiếm 28 % tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của cả nước. * Kim ngạch xuất khẩu giày dép và sản phẩm da vào thị trường Nhật Bản còn khá khiêm tốn so với tiềm năng xuất khẩu của ngành giày da Việt Nam. Theo mạng tin Liên Hợp Quốc ngày 15 tháng 5 cho biết, Việt Nam hiện đang đứng thứ 8 trong các nước sản xuất và đứng thứ tư trong số 10 nước xuất khẩu da, giày lớn nhất thế giới. Đây là một bước nhảy vọt của Việt Nam trong lĩnh vực này. Hiện Chính phủ ta ký hiệp định thương mại với Băng- la-đet, một nước có mặt hàng da có chất lượng cao và rẻ, đây sẽ là cơ hội lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam sản xuất kinh doanh mặt hàng giầy dép và sản phẩm từ da. * Về than đá, Việt Nam là một trong bốn nước xuất khẩu hàng đầu mặt hàng này vào Nhật Bản và luôn luôn chiếm hơn 40 % thị phần nhập khẩu của nhật. * Hàng Cao Su của Việt Nam hiện nay không thâm nhập được nhiều vào thị trường Nhật Bản, mặc dù mức thuế nhập khẩu của mặt hàng này là không đáng kể. Nguyên nhân là do chủng loại Cao Su của Việt Nam chưa thích hợp với thị trường Nhật Bản, chất lượng không đáp ứng được yêu cầu của họ. Như vậy, những số liệu và phân tích trên cho thấy cơ cấu hàng xuất của ta vẫn còn đơn giản, diện hàng xuất khẩu, nhất là hàng xuất khẩu chủ yếu còn khá hạn hẹp, chưa có thay đổi nhiều so với những năm đầu thập kỷ 90. Mặc dù, nếu xét riêng về việc phấn đấu giảm tỷ trọng xuất khẩu các mặt hàng đã qua công đoạn chế tạo, chế biến thì ta cũng có nhiều tiến bộ. Cụ thể, nếu như những năm đầu thập niên 1990, hàng xuất sang Nhật Bản của ta chủ yếu là nguyên liệu thô và sản phẩm sơ chế chiếm 90 % tổng kim ngạch xuất khẩu, trong đó riêng Dầu thô đã chiếm đến 60 %. thì hiện nay, đã giảm xuống nhiều nhưng vẫn còn tới trên 50 % là nguyên liệu thô và sản phẩm sơ chế. Tuy nhiên, các mặt hàng nêu trên đều có đối thủ cạnh tranh như: Trung Quốc; Hàn Quốc; Đài Loan; Thái Lan; Malaixia; Philippin; ấn Độ… Do vậy, nếu ta không kịp thời cải tiến mẫu mã sản phẩm, giảm bớt chi phí thì sẽ khó có thể cạnh tranh được với các nước khác tại thị trường nước bạn cũng như là ở ngày thị trường trong nước. Có thể nói kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản còn khá khiêm tốn. Cho đến cuối năm 2003, tổng kim ngạch xuất là 2.909.151 nghìn USD. Hiện không tương xứng với tiềm năng tiêu thụ rất lớn thực có của nhu cầu người dân Nhật Bản. 2.2.2.2 Hoạt động nhập khẩu của Việt Nam từ Nhật Bản. nếu như, tỷ trọng xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam là khá cao (so với tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam). thì hoạt động nhập khẩu từ Nhật Bản lại diễn ra với nhịp độ khác. Kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Nhật Bản còn khá nhỏ so với kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này, cho đến cuối năm 2003. mới ở mức tương đương (kim ngạch xuất đạt 2.901.51 nghìn USD; kim ngạch nhập khẩu là 2.993.959 nghìn USD – nguồn: tổng cục Hải Quan) Bảng 9: Tỷ trọng nhập khẩu từ Nhật trong tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ (1992 – 2003). (Đơn vị: triệu USD) Năm Kim ngạch Nhập khẩu Việt – Nhật Tổng Kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam Tỷ trọng (%) 1992 451 2.541 17,75 1993 639 3.924 16,28 1994 644 5.826 11,05 1995 921 8.155 11,29 1996 1.140 11.144 10,23 1997 1.283 11.592 11,07 1998 1.470 11.390 12,91 1999 1.680 11.636 14,44 2000 1.121 15.200 13,96 2001 2.218 16.000 13,86 2002 2.510 19.700 12,74 2003 1.470 12.200 12,05 (Nguồn Tổng cục Hải quan) Trong số những thị trường nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam, Nhật Bản đã và đang là thị trường tiêu thụ lớn nhất mà Việt Nam có được. (mười bạn hàng thương mại lớn nhất của Việt Nam trong năm 2003 vẫn là Nhật Bản; Trung Quốc; australia; Singapore; Hoa Kỳ; Đài Loan; Đức; Anh; Pháp; Hàn Quốc.) Mặc dù Nhật Bản luôn chiếm vị trí dẫn đầu trong số những nước nhập khẩu hàng Việt Nam, nhưng nhìn chung tỷ trọng của nó trong tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam lại cũng tăng giảm thất thường. Thực tế cho thấy, chỉ có thời kỳ trước năm 1989, Việt Nam mới nhập siêu từ Nhật Bản. Cụ thể năm 1986 số lượng nhập khẩu lớn hơn xuất khẩu là 109 triệu USD, còn các năm sau kể từ năm 1989 đến nay, Việt Nam đều suất siêu sang nhật và mức xuất siêu này ngày càng tăng. Tuy bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực nên hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật trong những năm 1997 – 2000 có sự giảm sút. Bảng 10: Tình hình xuất siêu của Việt Nam sang Nhật giai đoạn (1992 - 2001) (Đơn vị : Triệu USD) Năm 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 XK 870 1069 1350 1716 2020 2198 1792 1920 2532 3510 2440 NK 451 639 644 921 1140 1283 1470 1680 2121.3 2215 2510 XS 419 430 706 795 880 915 322 240 410.7 1295 (-70) (Nguồn Tổng cục hải quan) Nhật Bản đứng đầu danh sách các nước xuất siêu lớn nhất thế giới, thăng dư thương mại của Nhật với Châu á lên tới 70.7 tỷ USD. Năm 1993, thặng dư thương mại của Nhật với Thái Lan lên tới 7.66 tỷ USD, với Singapore 13.2 tỷ USD. Các nước Châu á khác gồm Hàn Quốc; Indonesia… đều nhập siêu từ Nhật Bản. Tuy nhiên năm 2002 lần đầu tiên cán cân thương mại bị thâm hụt kể từ nă 1999. Đối với nền kinh tế Việt Nam, cán cân thương mại nghiêng về xuất khẩu là hiện tượng lành mạnh, vì nó tạo ra nguồn thu ngoại tệ đáng kể có thể chuyển thành vốn giúp cho sự phát triển của các ngành công nghiệp chế tạo, nó là cơ sở cho sự thay đổi cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam trong tương lai. * Cơ cấu hàng nhập khẩu của Việt Nam từ Nhật Bản. Cũng theo cách xem xét như đối với hàng xuất khẩu chủ yếu, cơ cấu hàng nhập khẩu chủ yếu từ Nhật Bản sang nước ta như sau: Bảng 11: Danh mục những mặt hàng chủ yếu nhập khẩu từ Nhật Bản. 1996 1997 1998 1999 Tên hàng Số lượng Trị giá triệu USD Số lượng Trị giá triệu USD Số lượng Trị giá triệu USD Số lượng Trị giá triệu USD Sắt thép (tấn) 99.503 43,3 109.337 50,4 358.207 102,4 - - Phân bón 187.991 39,3 157.002 25,8 242.896 22,6 - - Ôtô (chiếc) 2.420 28,2 166 21,2 759 15,5 436 11,5 Xăng Dầu (tấn) 105.995 20,2 151.591 23,6 19.902 2,67 11.658 16,1 Linh kiện ô tô (bộ) 1.341 7,95 4.286 31,1 1.881 16,2 2.160 20,85 (Nguồn Tổng cục Hải quan) Qua số liệu tổng hợp trên có thể thấy, các mặt hàng nhập từ Nhật là những hàng hoá sử dụng ít nguyên liệu thô, song hàm lượng chất xám cao như sản phẩm của các ngành công nghiệp nặng. Trong tổng số hàng nhập từ Nhật Bản của Việt Nam, các mặt hàng công nghiệp chế tạo chiếm trên 88 %, nguyên liệu khoáng sản gần 3 % và nguyên liệu thô là 1.5 %. Tóm lại, trong hoạt động xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Nhật Bản, sự hỗ trợ và quan tâm tích cực của Chính phủ, các công ty thương mại, các ngân hàng và qũy phát triển của Nhật Bản đã đẩy hiệu quả buôn bán kinh doanh với Việt Nam, khiến mối quan hệ này mở ra những triển vọng lớn trong tương lai. Tuy nhiên, vẫn còn một số khúc mắc và hạn chế sau: Trước hết, về kim ngạch buôn bán giữa hai nước mặc dù đã tăng lên một cách ổn định và tích cực nhưng quy mô buôn bán còn nhỏ bé so với tiềm năng kinh tế của hai nước. Tỷ trọng thương mại Việt – Nhật trong tổng kim ngạch ngoại thương của Nhật Bản là không đáng kể, khoảng gần 1% và chiếm trung bình các năm khoảng sấp xỉ 15 % tổng kim ngạch ngoại thương của Việt Nam. Với tình hình này, nếu không có thiện chí hợp tác, tương trợ lẫn nhau thì bất cứ một sự thay đổi nào trong chính sách ngoại thương của Nhật Bản cũng như sự trừng phạt buôn bán, sự tăng giảm giá của đồng Yen đều gây tác hại đối với nền kinh tế Việt Nam nhiều hơn những gì Việt Nam có thể gây ra cho Nhật Bản. Việt Nam thường xuất sang thị trường Nhật Bản những hàng hoá sử dụng nhiều lao động và tài nguyên thiên nhiên như Giầy dép; hàng may mặc; Dầu thô; Than đá; hàng thủ công và các loại nông sản khác… hàng thủ công cũng là một thế mạnh độc quyền của ta mà không phải lo sợ cạnh tranh trực tiếp. Hàng thủ công nhập khẩu vào Nhật được gia tăng. Năm 2003, tổng giá trị được xuất là 43.671.000 USD tăng 1,1 lần so với năm 2002 là 39.460.000 USD. Cơ cấu mặt hàng xuất còn tương đối đơn giản, chủng loại ít, chủ yếu là mặt hàng thô, chưa qua chế biến. Trong khi đó, Việt Nam lại nhập khẩu vào chủ yếu là máy móc, thiết bị, công nghệ kỹ thuật của ngành công nghiệp nặng và công nghiệp chế tạo những mặt hàng sử dụng ít nguyên liệu, chứa hàm lượng chất xám cao. Cơ cấu buôn bán giữa hai nước cũng có sự biến động nhưng rất chậm chạp… 2.3 Đánh giá quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản Có thể nói, buôn bán song phương giữa Việt Nam và Nhật Bản ngày càng phát triển và không ngừng tăng lên cả vể khối lượng và qui mô. Sự gia tăng này đã đáp ứng được về cơ bản nhu cầu của cả hai phía. Tuy nhiên, trao đổi thương mại giữa hai nước vẫn còn một số hạn chế sau đây: Quy mô buôn bán còn quá nhỏ so với tiềm năng kinh tế của hai nước; kim ngạch buôn bán giữa Việt Nam và Nhật Bản trong tổng kim ngạch ngoại thương của Nhật Bản là không đáng kể, khoảng chừng 0,7 – 0,9 % và chiếm khoảng trung bình 15 % tổng kim ngạch ngoại thương của Việt Nam trong các năm như đã nói ở trên. Điều này cho thấy, trong quan hệ thương mại song phương Việt Nam phụ thuộc đáng kể vào Nhật Bản, còn Nhật Bản không phụ thuộc nhiều vào Việt Nam. Mức độ phụ thuộc của Việt Nam vào Nhật lớn hơn nhiều so với các nước đang phát triển khác ở Châu á như Malaysia, Thái Lan, Inđônêxia… Vì vậy, nếu như có bất kỳ một sự thay đổi nào trong chính sách ngoại thương của Nhật Bản hoặc thị trường Nhật Bản thì sẽ gây cho nền kinh tế của Việt Nam một cú xốc tương ứng; ví dụ như: sự trừng phạt buôn bán, sự tăng giảm giá của đồng Yên hoặc sự thay đổi chính sách… đều gây tác hại đối với nền kinh tế Việt Nam nhiều hơn những gì mà thị trường Việt Nam có thể gây ra cho Nhật Bản. Cơ cấu hàng hoá trao đổi còn nhiều bất cập: Việt Nam xuất sang Nhật Bản nguyên liệu khoáng sản, thủy hải sản chủ yếu dưới dạng thô hoặc mới qua sơ chế và một số mặt hàng công nghiệp nhẹ, hàng gia công, nhưng lại nhập từ Nhật những hàng công nghiệp nặng. Như vậy, Việt Nam đã xuất sang thị trường này những hàng hoá sử dụng nhiều lao động, tài nguyên thiên nhiên, đồng thời nhập từ đó những loại hàng hoá sử dụng ít nguyên liệu nhưng chứa đựng một hàm lượng chất xám cao. Cơ cấu buôn bán giữa hai nước phản ánh giai đoạn phát triển hiện tại của nền kinh tế Việt Nam với những lợi thế tương đối về tài nguyên và lao động. Về mặt thực tiễn, cán cân thương mại nghiêng về xuất khẩu là một hiện tượng lành mạnh đối với nền kinh tế Việt Nam vì doanh thu ngoại tệ. khả dĩ có thể chuyển thành hàng hoá giúp cho sự phát triển các ngành công nghiệp chế tạo – cơ sở cho sự thay đổi cơ cấu hàng xuất khẩu Việt Nam trong tương lai. Tuy nhiên, cơ cấu này chỉ có ưu điểm trong thời gian ngắn từ 3 – 5 năm hoặc tối đa là 7 năm, nếu kéo dài sẽ hoàn toàn bất lợi đối với Việt Nam trong trao đổi mậu dịch. Thặng dư thương mại của Việt Nam với Nhật Bản trong thời gian qua chủ yếu là do dầu thô mang lại. Mức thặng dư của Việt Nam trong buôn bán vớ Nhật Bản là khá lớn nhưng những thiệt hại khác thì chưa ai tính được. Rất có thể, trong thời gian tới Việt Nam sẽ phải đương đầu với sự thâm hụt trở lại trong cán cân thương mại với Nhật Bản vì với yêu cầu của công nghiệp hoá, đòi hỏi Việt Nam phải nhập khẩu một khối lượng lớn máy móc; thiết bị, dây chuyền công nghệ hiện đại… Người ta dự báo rằng, với tiến trình Công nghiệp hoá đang diễn ra ở Việt Nam thì trong thời gian một vài năm tới (từ năm 2006 – 2010) Việt Nam sẽ nhập siêu từ Nhật. Mức nhập siêu sẽ không phải là nhỏ nếu; Việt Nam không nhanh chóng thay đổi cơ cấu hàng xuất khẩu của mình sang thị trường này. Quan hệ buôn bán giản đơn chưa gắn liền với hình thức hợp tác kinh tế quốc tế, đặc biệt là với hình thức đầu tư (liên doanh, liên kết) và tài trợ phát triển chính thức (ODA). Chính vì vậy, mà các doanh nghiệp Việt Nam chưa có chỗ đứng trên thị trường Nhật Bản. Trong khi đó, quan hệ buôn bán của phía Nhật Bản đã bước đầu được đặt trong mối quan hệ với ODA và hình thức đầu tư trực tiếp FDI cũng như phân bố mạng lưới sản xuất trong khu vực, do đó các doanh nghiệp Nhật Bản tạo được chỗ đứng vững chắc trên thị trường Việt Nam. Với thực trạng quan hệ thương mại Việt Nam – Nhật Bản như hiện nay, vấn đề đặt ra là Việt Nam phải giải quyết những tồn tại, và khắc phục các mặt hạn chế để thúc đẩy quan hệ thương mại song phương phát triển tương xứng vơí tiềm năng của hai nước. Nói cách khác, Việt nam cần phải mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động thương mại song phương với Nhật Bản. Chương 3: Những định hướng và giải pháp thúc đẩy quan hệ thương mại giữa Việt Nam - Nhật Bản Có thể nói, quan hệ kinh tế giữa hai nước Việt Nam - Nhật Bản nói chung và quan hệ thương mại của hai nước nói riêng. ta thấy chúng có nhiều thuận lợi, nhưng bên cạnh đó cũng còn tồn tại không ít những mặt khó khăn đã làm tác động không nhỏ tời quan hệ của hai nước, kìm hãm sự phát triển của quan hệ thương mại của hai nước trong tương lai. 3.1 Những thuận lợi và khó khăn trong quan hệ giữa hai nước Việt Nam – Nhật Bản. 3.1.1 Những thuận lợi. Quan hệ Việt Nam - Nhật Bản phát triển tốt đẹp như hiện nay, đó là nhờ sự cố gắng nỗ lực của cả hai nước. xu thế hoà nhập, hợp tác của khu vực, thế giới là điều kiện hết sức quan trọng để khởi động, thúc đẩy quan hệ ngày càng tốt đẹp giữa hai nước; mang lại những lợi ích cho cả hai bên, thể hiện ở: Thứ nhất, Những thuận lợi bắt nguồn từ bối cảnh khu vực và quốc tế được bắt đầu từ những năm 1990, sẽ tiếp tục tác động tích cực đến quan hệ kinh tế hai nước Việt Nam – Nhật Bản trong những năm tới. Xu hướng hội nhập và liên kết kinh tế quốc tế được gia tăng từ đầu những năm 1990, đến nay, vẫn tiếp tục phát triển sâu rộng trên tất cả các khu vực trên thế giới. Nếu từ đầu những năm 1990, khi mà đón nhận xu hướng này, có không ít các quốc gia do dự, trong đó có Việt Nam, bởi họ sợ những tác động tiêu cực nhiều hơn, sợ bị lệ thuộc nhiều hơn vào các nước lớn và sợ bị các nước lớn chi phối khi mà họ tham gia sâu hơn vào quá trình hội nhập và liên kết kinh tế kinh tế toàn cầu. Trải qua hơn một thập niên liên kết và hội nhập, người ta mới hiểu ra rằng, lợi ích do quá trình này mang lại thực sự to lớn. khác với trước đây, sự chủ động hội nhập trở thành một trong những yếu tố chiến lược của sự mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế. Điều này, cũng được thể hiện ở chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm đầu của thế kỷ XXI mà Đại hội Đảng lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra. Đó là: “gắn chặt việc xây dựng nên kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế”. Độc lập, tự chủ về kinh tế tạo cơ sở cho hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả. Hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả sẽ tạo điều kiện cần thiết để xây dựng kinh tế độc lập tự chủ. Chính điều này sẽ tạo ra nhiều cơ hội hơn để thúc đẩy quan hệ kinh tế - thương mại Việt Nam - Nhật Bản. Thứ hai, là những kinh nghiệm của nhiều thập niên xây dựng và phát triển quan hệ kinh tế Việt Nam - Nhật Bản. Đây được coi là một thuận lợi lớn cho quan hệ kinh tế Việt Nam - Nhật Bản. Bởi vì những kinh nghiệm “hay” sẽ được được nhân lên và những kinh nghiệm “dở” sẽ được cả hai phía khắc phục, từ đó tạo cơ hội cho quan hệ của hai nước ngày càng phát triển. Những kinh nghiệm hợp tác song phương giữa hai nước trong thập niên qua cho đến nay, chưa có một công trình nghiên cứu nào tổng kết lại. song người ta hiểu rằng, nhờ đó Việt Nam và Nhật Bản hiểu biết nhau hơn cả trên tất cả cấp độ chính phủ, nhà doanh nghiệp và nhân dân; hai phía đều hiểu rõ nhu cầu của hai quốc gia và đặc biệt nhu cầu của người tiêu dùng. Hiểu rõ hơn, đặc điểm của từng thị trường. Trên cơ sở của sự hiểu biết đó, cả phía Việt Nam và Nhật Bản có thể trao đổi, thương lượng và chia sẻ lợi ích trong quá trình hợp tác (hợp tác hai bên cùng có lợi). 3.1.2 Những khó khăn. Bên cạnh những mặt thuận lợi trên, quan hệ giữa Việt Nam và Nhật Bản cũng đang vấp phải những mặt khó khăn đó là: * Khó khăn do những biến động từ môi trường quốc tế. Như đã nói ở trên, xu hướng hội nhập, liên kết khu vực và quốc tế gia tăng đã và đang đem lại nhiều lợi thế cho các quốc gia tham gia vào quá trình này, trong đó có cả Việt Nam và Nhật Bản. song cũng chính sự tiến triển của quá trình này, trong bối cảnh các nền kinh tế không có cùng trình độ phát triển, rất có thể chúng sẽ gây tác động ngược, và sẽ ảnh hưởng tới quan hệ kinh tế – thương mại Việt Nam – Nhật Bản. Có thể kể một số tiêu cực do quá trình này gây ra: Trước hết, để tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế nước ta phải giảm dần thuế quan và tiến tới rỡ bỏ hàng rào phi thuế quan, điều này sẽ làm cho hàng hoá và dịch vụ nước ngoài ồ ạt đổ vào thị trường nội địa, cạnh tranh “bóp chết” các hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước. Thứ hai, do hội nhập kinh tế quốc tế mà mọi chấn động tiêu cực trong hệ thống kinh tế toàn cầu (tiền tệ, tài chính, giá cả nguyên nhiên liệu…) cũng có thể ảnh hưởng đến nước ta. Ngoài ra, phải kể đến khá nhiều tác động tiêu cực khác, song những tác động tiêu cực này có thể lớn hay nhỏ, điều đó còn tuỳ thuộc vào các chính sách hội nhập kinh tế quốc tế của chúng ta. Nếu chúng ta có các chính sách hội nhập đúng đắn và thích hợp thì ảnh hưởng của những mặt tiêu cực sẽ bị hạn chế. Điều này, đòi hỏi ta phải nghiên cứu một cách toàn diện, triệt để những cơ hội và thách thức mà vấn đề toàn cầu hoá đặt ra để định ra đường lối đúng đắn và hoạch định chiến lược phát triển của đất nước trong thời gian tới. Các chính sách này sẽ tác động tới quan hệ tới quan hệ kinh tế quốc tế nói chung và quan hệ kinh tế Việt Nam – Nhật Bản nói riêng trong quan hệ kinh tế quốc tế. * Khó khăn từ phía Nhật Bản. Tuy là một nước giầu có, nhưng với sự đổ vỡ của nền kinh tế bong bóng đầu thập niên 1990, nước Nhật lâm vào cuộc suy thoái gần như liên tục và trong đó cũng là quốc gia gián tiếp bị cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính tiền tệ Châu á trong hai năm 1997 và 1998. Ngoài ra, trong bối cảnh tình hình chính trị quốc tế diễn biến hết sức phức tạp về thương mại song phương và sản phẩm công nghệ cao, sức ép của Mỹ trong quan hệ với Nhật Bản ngày càng gia tăng. Nhật Bản đang đứng trước thách thức của một loạt nhân tố kìm hãm rất gay gắt được tích tụ sau hàng chục năm qua. Chẳng hạn, hàng loạt các tổ chức tín dụng không thanh toán được các khoản nợ đã vay ngân hàng, không có tiền cho các khoản vay mới dẫn đến nguy cơ đổ vỡ, các doanh nghiệp bị phá sản làm cho hàng loạt người lao động bị mất việc; tỷ lệ thất nghiệp của đất nước vốn đã nhiều năm nổi tiếng là thất nghiệp thấp nhất (dưới 1%) trong số hệ thống các nước tư bản, nay đã tăng vọt đến mức 5,2 % vào quý 1 năm 2002; còn năm 1999 chỉ số tăng trưởng kinh tế là âm (2,2%); không những thế thị trường tài chính tiền tệ thường xuyên biến động, lên xuống thất thường, đồng yen trở nên yếu kém… Tình trạng trên, đã biến cho giới đầu tư trong và ngoài nước không có lòng tin đối với thị trường tài chính Nhật Bản. Do vậy ngay từ đầu những năm 1990, Nhật Bản đã tiến hành cải cách kinh tế nhằm hình thành một cơ cấu kinh tế mới theo kịp tiến bộ khoa học - kỹ thuật, biến đổi và duy trì sức mạnh chính trị của Nhật Bản. Với việc kết thúc thời kỳ suy thoái đuổi kịp Châu Âu và Mỹ. Do tác động của quá trình toàn cầu hoá, Nhật Bản phải điều chỉnh lại toàn bộ cơ cấu kinh tế và cơ chế quản lý nhằm đáp ứng với yêu cầu công nghệ cao, tăng năng xuất lao động, hội nhập nền kinh tế Nhật Bản vào thế giới. Bên cạnh đó, chính những sự tác động tích cực của sự phát triển kinh tế nhiều năm trước đây đã dấn đến xu hướng dân số bị già hoá ở Nhật Bản tăng nhanh. Có nghĩa là, hoạt động kinh doanh bị thu hẹp lại, do thiếu sức lao động, nhất là lực lượng lao động trẻ được đào tạo có kỹ thuật bị giảm sút mạnh. Điều này gây nên giá cả lao động tăng cao làm ảnh hưởng đến đầu tư phát triển sản xuất. Tiền tiết kiệm và tiền đầu tư vào phát triển kinh tế như vậy cũng co lại nhường cho phúc lợi xã hội, hưu trí và chăm sóc người già, làm tăng gánh nặng cho ngân sách Nhà nước. Chính sự già hoá dân số tăng nhanh ở Nhật Bản đã là một trong những nguyên nhân xã hội “góp phần” làm cho nền kinh tế Nhật Bản trong những năm 1990 bị lâm vào tình trạng suy thoái kéo dài. Ngoài những khó khăn bên trong nền kinh tế Nhật, thì những yếu tố khách quan bên ngoài cũng gián tiếp tác động làm cho nền kinh tế Nhật Bản càng lún sâu hơn trong tình trạng suy thoái, trì trệ trong các năm 1997 – 1998, đó là ảnh hưởng tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ của khu vực Châu á. Sở dĩ như vậy là do, Nhật Bản có mối quan hệ hợp tác kinh tế thương mại lâu dài và đầu tư từ lâu với các nước trong khu vực Châu á. Kết quả là, cuộc khủng hoảng này đã làm thiệt hại lớn đến cán cân xuất nhập khẩu và đầu tư của Nhật Bản tại thị trường này. Có thể nói, những khó khăn mà đất nước Nhật Bản đang phải đối phó không những ảnh hưởng tới khả năng kinh tế của nước này mà còn ảnh hưởng xấu tới quan hệ kinh tế quốc tế, trong đó có quan hệ với Việt Nam. * Khó khăn từ phía Việt Nam. Mặc dù, con đường phát triển phía trước còn nhiều cơ hội đang rộng mở, nhưng nước ta vẫn còn phải đối mặt với nhiều thách thức vá khó khăn chồng chất. - Một là, trước hết, về cơ bản Việt Nam vẫn còn là một nước nông nghiệp, cơ sở vật chất và trình độ công nghệ còn thấp xa với các nước trong khu vực, lại phải chịu hậu quả năng nề của những thập kỷ bị chiến tranh tàn phá. Do vậy, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp, cơ cầu kinh tế chuyển biến chậm, hướng đầu tư chưa cao, kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của nền kinh tế. - Hai là, các cân đối vĩ mô của nền kinh tế còn chưa ổn định vững chắc; tỷ lệ tiết kiệm, đầu tư còn thấp do thu nhập bình quân của người dân chưa cao. Đến năm 2003, tiết kiệm nội địa mới đạt khoảng 23 % GDP và GDP trên đầu người mới đạt được xấp xỉ 400 USD. Lĩnh vực tài chính ngân hàng còn nhiều bất cập, chất lượng tín dụng chưa cao, kinh nghiệm huy động vốn cho vay còn nhiều hạn chế, chưa đủ làm động lực để thúc đẩy, thu hút đầu tư. - Ba là, hệ thống luật pháp về kinh tế còn đang trong quá trình hoàn thiện nên thiếu tính đồng bộ, một số văn bản ban hành chậm và thiếu nhất quán đã gây cản trở quá trình thực hiện, chưa tạo ra động lực mới để vượt qua khó khăn, thúc đẩy kinh tế phát triển. Cải cách hành chính tiến hành chậm và thiếu kiên quyết nên bộ máy hành chính hoạt động chưa hiệu quả, hiệu lực thấp. một bộ phận công chức còn yếu về năng lực, phẩm chất…(nên hoạt động theo kiểu làm công ăn lương). - Bốn là, nền kinh tế nước ta có thể nói là kinh tế thị trường nhưng chưa phát triển; hệ thống thị trường chưa hoàn thiện; chẳng hạn như thị trường bất động sản, thị trường lao động, thị trường chứng khoán, bảo hiểm… do đó, không thu hút được các nhà đầu tư cũng như làm méo mó sự phân bổ các nguồn lực. Ngoài ra, hệ thống tín dụng ngân hàng ở nước ta còn nhiều yếu kém, chưa được hiện đại hoá cao, gây mất thời gian, tăng chi phí và giảm sự năng động của các doanh nghiệp. Ví dụ như là việc đặt máy rút tiền tự động cũng chỉ đặt trong những ngân hàng lớn, ở những thành phố lớn và xa nơi công cộng làm cho việc rút tiền chậm chạp…. - Thứ năm, đó là sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước còn thấp, đặc biệt là các doanh nghiệp trong khu vực kinh tế nhà nước. Mặc dù các doanh nghiệp này được hưởng sự đầu tư, ưu đãi của nhà nước và chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế quốc dân, nhưng nhiều doanh nghiệp nhà nước đều nằm sâu trong tình trạng làm ăn thua lỗ, không hiệu quả. Hiện nay, Nhà nước đã thực hiện quá trình sắp xếp, tổ chức lại các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả nhưng tiến trình cải cách còn chậm, mới chỉ cổ phần hoá được một số các doanh nghiệp nhà nước, dù quá trình cổ phần hoá diễn ra đã khá lâu. Đây là một cách thức lớn đối với nước ta trong quá trình hội nhập thế giới và phát triển quan hệ kinh tế với các nước, trong đó có Nhật Bản. Cuộc khủng hoảng kinh tế trong khu vực, những khó khăn của nền kinh tế hiện đại cùng với sự gia tăng mạnh mẽ cạnh tranh quốc tế càng làm bộc lộ rõ những yếu kém của và làm chậm lại nhịp phát triển tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Hơn lúc nào hết, thách thức lớn nhất đối với Việt Nam là nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước phát triển nếu không duy trì được mức tăng trưởng trên 9 %. Vấn đề đặt ra hiện nay là, cần xác định rõ lộ trình các bước đi, đặt ra từng kế hoạch 5 năm có sự cam kết của các tổ chức, doanh nghiệp; cụ thể hoá kế hoạch chuyển dịch cơ cấu kinh tế đặc biệt là phương hướng, biện pháp nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. bố trí đào tạo cán bộ có đủ năng lực kiến thức, tinh thần làm việc theo kiểu công nghiệp để thực hiện thành công quá trình hội nhập. những cam kết Nhà nước ta phải thực hiện đối với từng tổ chức tạo điều kiện làm việc, kinh doanh ưu đãi, thời gian thực hiện để từ đó mỗi doanh nghiệp tích cực, chủ động tổ chức sản xuất, kinh doanh sao cho có hiệu quả. 3.2 Triển vọng mối quan hệ thương mại Việt Nam – Nhật Bản. Nhật Bản thiết lập quan hệ ngoại giaovới Việt Nam từ tháng 9/1973, nhưng quan hệ Việt - Nhật thực sự phát triển vững chắc kể từ sau năm 1991, bắt đầu bằng việc nối lại viện trợ phát triển chính thức (ODA) cho Việt Nam. Kết quả sau nhiều vòng đàm phán là vào tháng 11/1992, hai bên đã ký kết hiệp định về việc Nhật Bản viện trợ có hạn định cho Việt Nam 45 tỷ 500 triệu Yên – mở ra một trang sử mới trong quan hệ Việt Nam – Nhật Bản tháng 3/1993. Tháng 11/1993, tại hội nghị các nước viện trợ cho Việt Nam, Nhật Bản đã quyết định viện trợ 60 tỷ Yên (khoảng 560 triệu USD) và trở thành nước viện trợ trực tiếp cao nhất cho Việt Nam. Tháng 8/1994, thủ tướng Murayama là vị thủ tướng đầu tiên của Nhật Bản sang thăm Việt Nam, trong cuộc hộ đàm với thủ tướng Võ Văn Kiệt, hai bên đã nhất trí thắt chặt quan hệ hợp tác giữa hai nước, trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, giao lưu con người, hướng tới thời kỷ mới trong quan hệ Việt – Nhật. Tháng 4/1995, nhận lời mời của thủ tướng Murayama, Tổng bí thư Đỗ Mười đã sang thăm chính thức Nhật Bản. Đây là chuyến thăm đầu tiên của Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam đến Nhật Bản, đánh dấu một bước phát triển quan trọng trong việc tăng cường quan hệ hữu nghị giữa hai nước. Năm 1999 là năm kỷ niệm lần thứ 26 quan hệ ngoại giao Việt – Nhật, để khẳng định sự gắn bó đoàn kết giữa hai nước, các nhà lãnh đạo cấp cao của hai nước đã liên tục có những chuyến viếng thăm và làm việc với nhau. Tiếp theo là chuyến viếng thăm của thủ tướng Nhật Bản Keizo Obuchi nhân dịp dự hội nghị thượng đỉnh ASEAN vào tháng 12/1998 tại Việt Nam. Chuyến thăm của thủ tướng Phan Văn Khải vào tháng 3/1999, chuyến thăm của phó thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng sang Nhật Bản vào tháng 6/1999, chuyến thăm của Bộ trưởng tài chính Miyazawa vào tháng 5/1999; chuyến thăm của Hoàng tử và Công chúa Nhật Bản Akishino tới Việt Nam vào tháng 6/1999. Từ ngày mùng 4 đến mùng 6/6/2001 Thủ tướng PhanVăn Khải đã tham dự hội thảo “Tương lai Châu á” và đã thăm Nhật Bản. ngày 27/03/2002, Thủ tướng Nhật Bản Junichiro Koizumi cùng các thành viên trong đoàn đại biểu Chính phủ Nhật Bản đã đến Hà Nội, tại cuộc hộ đàm, Thủ tướng Phan Văn Khải và thủ tướng Koizumi đã dành nhiều thời gian trao đổi ý kiến về các biện pháp cụ thể nhằm tăng cường hơn nữa quan hệ hợp tác Việt Nam – Nhật Bản trên nhiều lĩnh vực để hướng tới kỷ niệm 30 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam – Nhật Bản vào năm 2003. Qua các chuyến thăm của các nhà lãnh đạo, Việt Nam và Nhật Bản đã ký kết với nhau nhiều hiệp định hợp tác kinh tế, giải quyết những vấn đề tồn đọng và xục tiến quan hệ mậu dịch, đầu tư giữa hai nước. Tính đến ngày 29/2/2004, tổng vốn đầu tư trực tiếp FDI của Nhật Bản lên tới 4,585 triệu USD và tổng vốn thực hiện là 3,947 triệu USD chiếm 86 %. Có thể nói Chính phủ ta đã có cố gắng nỗ lực trong việc tạo điều kiện tối đa cho các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư, liên doanh liên kết vào thị trường Việt Nam. Mấy năm gần đây Việt Nam dần dần hiểu rõ hơn thị trường Nhật Bản, các doanh nghiệp thành thạo hơn trong các nghiệp vụ xuất nhập khẩu và đã có sự chủ động hợp tác với nước bạn. Bên cạnh đó Nhật Bản cũng hiểu rõ khả năng hợp tác vớc các doanh nghiệp Việt Nam trên cơ sở đôi bên cùng có lợi. Cho đến nay, rất nhiều sản phẩm của các hãng nổi tiếng ở Nhật Bản như Toshiba, Mitsubisi, Tozota, HonDa, SamSung… đã trở nên khá quen thuộc và đã đi sâu vào cuộc sống hàng ngày của người dân Việt Nam. Tuy nhiên, không phải dễ dàng mà các sản phẩm trên đạt được điều này. Để có được điều đó, các công ty của Nhật đã phải nỗ lực trong việc tiếp thị, quảng cáo và hoạt động quan trọng hơn cả là tìm hiểu được thị hiếu người tiêu dùng Việt Nam. Phần nữa là nhờ vào những thiết bị máy móc tiên tiến hiện đại của mình mà Nhật Bản có thể sản xuất hàng hoá có chất lượng cao, mẫu mã đẹp được người tiêu dùng tin tưởng. Như vậy, các doanh nghiệp Nhật Bản đã dựa vào thế mạnh, uy tín của mình để phát huy. Còn Việt Nam thì sao? Các doanh nghiệp Việt Nam cũng đã nỗ lực phát huy những lợi thế so sánh của mình trong lĩnh vực hàng nông sản, dầu thô, dệt may… như lao động rẻ, nguyên liệu đầu vào rẻ… vì vậy, các doanh nghiệp của ta cũng đã từng bước thâm nhập vào thị trường Nhật Bản. Việc gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á (aesan), Diễn đàn hợp tác châu á - Thái Bình Dương ( apec) sẽ tạo ra những cơ hội mới cho hoạt động thương mại. Khi chưa tham gia vào WTO (tổ chức thương mại thế giới) thì việc gia nhập vào (APEC) sẽ giúp Việt Nam mở rộng thị trường với nhiều ưu đãi giúp hoạt động xuất khẩu của Việt Nam được đẩy mạnh. Nếu muốn tham gia vào WTO, Việt Nam buộc phải mở rộng thị trường của mình và phải chấp nhận một môi trường cạnh tranh ác liệt và hoàn toàn bình đẳng với các nước trong khu vực và thậm chí là với các nước có nền kinh tế phát triển như Mỹ, Nhật, Hàn Quốc… Đây vừa là thách đố vừa là động lực kích thích các doanh nghiệp Việt Nam phải khẩn trương nâng cao sức cạnh tranh các sản phẩm của mình cả trên thị trường trong nước cũng như thì trường ở nước ngoài. Để làm được điều này, Việt Nam phải thực hiện đổi mới công nghệ, trang thiết bị, nâng cao trình độ quản lí, tiếp thị, cải tiến mẫu mã, chất lượng, giảm giá thành sản phẩm. Việc Việt Nam tham gia các tổ chức quốc tế và khu vực Châu á Thái Bình Dương, một khu vực vẫn còn chứa nhiều yếu tố của sự phát triển năng động và đầy hứa hẹn trong thập kỷ tới. Với tư cách là một thành viên lâu đời của APEC và WTO, là bên đối thoại tích cực của ASEAN, Nhật Bản sẽ cho Việt Nam được hưởng các ưu đãi theo qui định của các tổ chức này trên các lĩnh vực khác nhau và cũng có điều kiện hơn trong việc hỗ trợ, giúp đỡ Việt Nam học hỏi những kinh nghiệm xúc tiến nhanh hơn quá trình hội nhập khu vực và quốc tế. Tóm lại, triển vọng hợp tác kinh tế Việt Nam – Nhật Bản trong thời gian tới rất khả quan. Nó phù hợp với chiến lược mở của thị trường tăng cường quan hệ kinh tế đối ngoại trên nguyên tắc đôi bên cùng có lợi. Tuy nhiên để triển vọng hợp tác đó trở thành hiện thực, chính phủ hai nước cần có những nỗ lực, cố gắn hơn nữa trong việc tạo dựng hành lang pháp lý, tạo điều kiện cho doanh nghiệp hai nước thâm nhập thị trường của nhau, thúc đẩy quan hệ hợp tác hai bên cùng có lợi, cùng phát triển. 3.3. Những giải pháp nhằm thúc đẩy quan hệ buôn bán giữa Việt Nam - Nhật Bản. Ngay từ đại hội Đảng lần thứ VI, Đảng ta đã khẳng định rõ ràng mục tiêu chiến lược trong những năm tiếp theo là giữ vững hoà bình tranh thủ điều kiện bên ngoài thuận lợi, tranh thủ thời gian nhằm từng bước giữ vững ổn định hoà bình để tập trung phát triển kinh tế. Phương hướng trong thời gian tới là chúng ta cần vận dụng đường lối độc lập, tự chủ, đa đạng hoá, đa phương hoá; cần xác định chiến lược đối ngoại mới vừa hợp tác vừa đấu tranh, củng cố sự tin cậy quốc tế và khu vực đối với nước ta bằng nhiều biện pháp, để các nước thấy Việt Nam là một đối tác tin cậy, một thị trường làm ăn có lợi. Mở rộng quan hệ làm ăn đối với tất cả các nước, trước hết là các nước lớn , các nước láng giềng, các nước trong khu vực, cố gắng làm tốt trách nhiệm của một thành viên ASEAN và hướng tới chủ động hoà nhập vào kinh tế khu vực Châu á - Thái Bình Dương. Đồng thời quan hệ với các nước khu vực khác, không vì quan hệ hẳn với một nước này mà phải tránh quan hệ với các nước khác. Tranh thủ sự hợp tác, đầu tư và viện trợ để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao và bền vững. Phát triển ngoại thương trên cơ sở xây dựng nền kinh tế mở, hướng mạnh về xuất khẩu thay thế hàng xuất khẩu bằng các mặt hàng sản xuất trong nước có chất lượng cao mẫu mã đẹp, giá thành ổn định. * Quan hệ kinh tế – thương mại với Nhật Bản là một trong những mối quan hệ lớn, ổn định lâu dài trong hoạt động kinh doanh đối ngoại của nước ta. Hơn nữa nước ta nằm trong khu vực châu á và đặc biệt là thành viên của khối các nước ASEAN nên chúng ta cùng chịu tác động chiến lược kinh tế tài chính của Nhật Bản đối với khu vực Châu á và của khối ASEAN đối với Nhật Bản. * Tăng cường hợp tác kinh tế với Nhật Bản nhằm tranh thủ các lợi ích kinh tế có được, phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, nhưng đồng thời để giảm tối thiểu sự phụ thuộc kinh tế vào Nhật Bản cũng như tác động xấu đến chiến lược phát triển kinh tế đất nước trong thời gian tới, chúng ta cần xây dựng những chiến lược cụ thể trong quan hệ kinh tế và quan hệ đối ngoại với Nhật Bản trên quan điểm: Đánh giá đúng chiến lược kinh tế các nước trong khu vực, các tổ chức quốc tế, thấy rõ những điểm chung điểm bất đồng giữa ta và họ, củng cố tăng cường các điểm chung, không bỏ lỡ thời cơ để hợp tác để tránh những bất đồng về lợi ích giữa các bên. * Cải tiến hệ thống chính sách thuế khoá và thuế quan phù hợp với xu thế tự do hoá thương mại thế giới : Nhanh chóng thực hiện các chương trình về thuế quan trong chương trình của khối ASEAN để có thể sớm hoà nhập vào thị trường khu vực, và có thể tham gia vào quá trình hội nhấp kinh tế quốc tế. Điều này, sẽ tạo cho chúng ta cơ hội tham gia vào các hoạt động thương mại với Nhật Bản. Thông qua việc cung cấp các nguyên - nhiên liệu đầu vào cho mạng lưới các công ty Nhật Bản, đã và đang được hình thành trên khu vực Châu á sẽ tăng thêm về mặt số lượng và hiệu quả kinh tế đối với hàng hoá của ta. Song với chương trình cắt giảm thuế quan trên, chúng ta cũng nên mạnh dạn áp dụng các mức thuế ưu đãi đối với thu nhập của các doanh nghiệp trong nước tạo điều kiện cho doanh nghiệp thu nhập cao hơn. Để tăng nhanh khối lượng hàng hoá qua chế biến, cách tốt nhất chính phủ nên đưa ra các chính sách tích cực, khuyến khích sự tham gia của các hãng Nhật Bản trong quá trình sản xuất, chế biến hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam. Đây chính là chìa khóa để Việt Nam nâng cao chất lượng và thay đổi cơ cấu hàng xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản và thị trường các nước khác. * Ngoài ra, Việt Nam cũng phải có những biện pháp hiệu quả trong việc chuyển dịch cơ cấu xuất nhập khẩu hợp lý để quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản phát triển thực sự với tiềm năng và nhu cầu của hai nước. nhất là về phía Việt Nam, chúng ta phải không ngừng đổi mới, hoàn thiện hệ thống hoạt động ngoại thương, không chỉ dừng lại trong việc nâng cao chất lượng của cơ sở hạ tầng mà ở ngay cả, các chính sách thuế quan, giấy phép xuất nhập khẩu, đội ngũ cán bộ công nhân viên…. Hiện tại, chúng ta phải chấp nhận cơ cấu xuất nhập khẩu như đã trình bảy ở (chương 2). song để giảm bớt sự “trả giá”, ngay từ bây giờ cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam sẽ phát triển theo hướng là: làm giảm và tiến tới loại bỏ các nguyên, nhiên liệu thô, gia tăng tỷ trọng xuất của những mặt hàng đã qua chế biến. Cơ cấu nhập khẩu cũng phải chuyển dịch theo hướng ưu tiên nhập khẩu những máy móc công nghệ đáp ứng nhu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong nước. Có nghĩa là các công nghệ hiện đại sẽ chiếm tỷ trọng cao trong giá trị nhập khẩu của Việt Nam từ Nhật Bản, bởi vì Nhật Bản là một nước có tiềm lực khoa học, công nghệ rất phát triển so với các nước trên thế giới. Các mặt hàng tiêu dùng, nếu không phải là thiếu yếu thì sẽ không nhập khẩu hoặc chỉ nhập khẩu với tỷ trọng không đáng kể, ưu tiên dành mọi nguồn lực cho nhập khẩu máy móc, công nghệ phục vụ công nghiệp hoá, hiện đaị hoá đất nước. * Tình trạng yếu kém trong khả năng tài chính của các công ty Việt Nam, nhất là các công ty nhà nước, khiến hoạt động xuất nhập khẩu giữa Việt Nam - Nhật Bản bị giảm sút. Do vậy, Chính phủ cũng cần có những chính sách và biện pháp tích cực để giải quyết triệt để những khoản nợ mà các công ty Việt Nam đang mắc phải (chủ yếu là nợ khó đòi). Cho phép các công ty mua lại dưới hình thức trả chậm. Chính phủ Việt Nam cũng cần phải có những biện pháp củng cố, sắp xếp, điểu chỉnh cơ cấu, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động các doanh nghiệp nhà nước kể cả những doanh nghiệp đã cổ phần hoá. Có thể cho giải thể những doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả trong các lĩnh vực ít phục vụ cho nền kinh tế quốc dân. Đẩy nhanh hơn tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước và nâng cao hơn nữa vai trò của thị trường Chứng khoán trong đời sống kinh tế quốc gia, đồng thời khuyến khích phát triển đa dạng hoá kinh tế tư bản tư nhân rộng rãi trong những ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm, đa dạng hoá cả những thành phần kinh tế ngoài 6 thành phần kinh tế chính mà Đại hội Đảng XI đã công nhận. * Mặt khác, Chính phủ ta cũng cần có biện pháp nghiên cứu tìm hiểu sâu sắc hơn về cách thức làm ăn của người Nhật, để điều chỉnh lại chính sách của mình cho phù hợp hơn và để tăng cường hiểu biết hơn nữa về thị trường đối tác của mình. Hiện nay, Việt Nam đã thành lập các trung tâm tư vấn chuyên về Nhật Bản trực thuộc Bộ thương mại nhằm giảm bớt những thua thiệt không đáng có của các công ty Việt Nam khi ký hợp đồng gia công, liên doanh… với các công ty Nhật Bản. * Một vấn đề nữa, không kém phần quan trọng đối với hoạt động thương mại đó là chúng ta phải tích cực đẩy mạnh việc tìm kiếm, mở rộng thị trường ra các nước trước hết với các nước trong khu vực ASEAN và thu hút nhiều quốc gia hợp tác để tránh tình trạng phụ thuộc vào các công ty Nhật Bản trong việc cung cấp sản phẩm đầu tư cũng như tiêu thụ sản phẩm đầu ra. Mục đích của việc này, một mặt là để hạn chế và chia nhỏ những rủi ro cho các nhà xuất khẩu Việt Nam khi các thị trường truyền thống bị biến động. Mặt khác, nâng cao tính cạnh tranh, vị thế của hàng hoá Việt Nam trên thị trường quốc tế, tránh bị ép giá do mất đầu ra. * Ngoài ra, cũng cần có các

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKQ66.doc
Tài liệu liên quan