Tài liệu Đề tài Tìm hiểu thực trạng của quá trình phân phối và các giải pháp để nâng cao, hoàn thiện quan hệ phân phối ở Việt Nam trong thời gian tới: Lời mở đầu
Quá trình tái sản xuất là sự kết hợp hai hoà giữa các khâu: Sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng. Trong đó phân phối là một khâu quan trọng và không thể thiếu được của quá trình này. Nó nối liền sản xuất với trao đổi, tiêu dùng, phục vụ và thúc đẩy sản xuất, phục vụ tiêu dùng. Không những thế, quan hệ phân phối còn là một yếu tố rất trọng yếu của quan hệ sản xuất, nó phản ánh mối quan hệ giữa lợi ích của mỗi thành viên và lợi ích của toàn xã hội.
Trong thời gian đầu của thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta hiện nay, do nền kinh tế còn nhiều thành phần kinh tế nên cũng còn có nhiều hình thức lợi ích kinh tế khác nhau và tất yếu là còn xuất hiện nhiều mâu thuẫn giữa các hình thức lợi ích kinh tế đó. Một trong những yêu cầu của nền kinh tế là kịp thời phát hiện ra mâu thuẫn giữa các lợi ích và tìm cách giải quyết các mâu thuẫn đó. Việc giải quyết các quan hệ về lợi ích kinh tế được thể hiện thông qua quan hệ phân phối.
Từ vai trò quan trọng của phân phối trong quá trình...
24 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1027 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Tìm hiểu thực trạng của quá trình phân phối và các giải pháp để nâng cao, hoàn thiện quan hệ phân phối ở Việt Nam trong thời gian tới, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Quá trình tái sản xuất là sự kết hợp hai hoà giữa các khâu: Sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng. Trong đó phân phối là một khâu quan trọng và không thể thiếu được của quá trình này. Nó nối liền sản xuất với trao đổi, tiêu dùng, phục vụ và thúc đẩy sản xuất, phục vụ tiêu dùng. Không những thế, quan hệ phân phối còn là một yếu tố rất trọng yếu của quan hệ sản xuất, nó phản ánh mối quan hệ giữa lợi ích của mỗi thành viên và lợi ích của toàn xã hội.
Trong thời gian đầu của thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta hiện nay, do nền kinh tế còn nhiều thành phần kinh tế nên cũng còn có nhiều hình thức lợi ích kinh tế khác nhau và tất yếu là còn xuất hiện nhiều mâu thuẫn giữa các hình thức lợi ích kinh tế đó. Một trong những yêu cầu của nền kinh tế là kịp thời phát hiện ra mâu thuẫn giữa các lợi ích và tìm cách giải quyết các mâu thuẫn đó. Việc giải quyết các quan hệ về lợi ích kinh tế được thể hiện thông qua quan hệ phân phối.
Từ vai trò quan trọng của phân phối trong quá trình phát triển kinh tế thì việc nghiên cứu quan hệ phân phối là hết sức cần thiết, đặc biệt là đối với nền kinh tế nước ta hiện naycòn đang trong quá trình phát triển. Muốn phát triển nền kinh tế thị trường nước ta theo định hướng XHCN thì việc giải quyết các quan hệ phân phối là hết sức cần thiết để góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội vì mục tiêu công bằng xã hội.
Nghiên cứu phân phối là một phần trong quá trình ngiên cứu kinh tế ở tầm vĩ mô, đó là một vấn đề lớn lao. Do trình độ, khả năng và thời gian còn hạn chế nên trong bài viết này em không thể nghiên cứu được hết. Phạm vi nghiên cứu của bài viết này chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu các vấn đề cơ bản nhất về phân phối, các hình thức phân phối. Cụ thể là nghiên cứu các hình thức phân phối ở nước ta, đặc biệt là phân phối theo lao động và các hình thức thu nhập hay phân phối thu nhập.
Trong quá trình nghiên cứu, chủ yếu nghiên cứu quan hệ phân phối ở Việt Nam từ những năm 1985 cho đến nay. Đó là thời kỳ nền kinh tế đất nước ta bắt đầu chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Nền kinh tế thị trường là môi trường tốt cho quan hệ phân phối được thể hiện rõ nét, đặc biệt là khi nền kinh tế nước ta còn đang trong quá trình quá độ và gặp nhiều khó khăn.
Đề tài này được bố cục gồm 2 chương chính :
Chương I : Lý luận chung về phân phối trong nền kinh tế thị trường
Trong phần này sẽ trình bày những vấn đề chung nhất, cơ bản nhất về phân phối: bản chất, vai trò của quan hệ phân phối và nội dung chủ yếu của quan hệ phân phối, đặc biệt phần này còn có kinh nghiệm của một số nước về phân phối
Chương II : Thực trạng của quá trình phân phối và các giải pháp để nâng cao, hoàn thiện quan hệ phân phối ở Việt Nam trong thời gian tới
Từ những vấn đề cơ bản về phân phối, ở chương này sẽ nghiên cứu cụ thể quá trình phân phối ở Việt Nam, các hình thức phân phối đặc biệt là phân phối thu nhập. Thông qua đó nêu ra các giải pháp nhằm thực hiện quan hệ phân phối để đạt mục tiêu công bằng xã hội.
Em xin trân thành cảm ơn sự hướng dẫn và quan tâm của thầy đã giúp em hoàn thành đề án này. Trong bài viết còn nhiều sai sót mong thầy chỉ bảo để em rút kinh nghiệm lần sau sửa chữa. Em cám ơn thầy.
Chương 1
Bản chất mối quan hệ phân phối và các hình thức phân phối ở nước ta hiện nay
1.1. Bản chất của quan hệ phân phối.
Phân phối là một khâu không thể thiếu được của quá trình tái sản xuất. Nó nối liền sản xuất và tiêu dùng, phục vụ và thúc đẩy sản xuất, phục vụ tiêu dùng. Mặt khác, quan hệ phân phối còn là một yếu tố rất trọng yếu của quan hệ sản xuất, nó phản ánh mối quan hệ giữa lợi ích của mỗi thành viên và lợi ích của toàn xã hội.
1.1.1. Mối quan hệ chung giữa sản xuất và phân phối, trao đổi, tiêu dùng.
Trong qúa trình sản xuất, phân phối xác định tỷ lệ theo đó mỗi cá nhân tham dự vào sản phẩm đã sản xuất ra ; trao đổi đem lại cho cá nhân những sản phẩm nhất định mà anh ta muốn dung phần nhận được do phân phối để trao đổi lấy ; cuối cùng, trong tiêu dùng, các sản phẩm trở thành những vật phẩm tiêu dùng và đối tượng của việc chiếm hữu cá nhân. sản xuất tạo ra những vật phẩm thích hợp với các nhu cầu ; phân phối, phân chia các vật đó theo những quy luật xã hội ; trao đổi lại, phân phối lại cái đã được phân phối, theo những nhu cầu cá biệt ; cuối cùng, trong tiêu dùng, sản phẩm thoát ra khỏi sự vận động xã hội đó trực tiếp trở thành đối tượng và kẻ phục vụ cho một nhu cầu cá biệt, và thoả mãn nhu cầu đó trong qúa trình tiêu dùng. Như vậy, sản xuất thể hiện ra là điểm xuất phát, tiêu dùng là điểm cuối cùng, phân phối và trao đổi là điểm trung gian, điểm trung gian này lại có hai yếu tố, vì phân phối được quy định là yếu tố xuất phát từ xã hội, còn trao đổi là yếu tố xuất phát từ cá nhân. Nhưng phân phối không phải là một lĩnh vực độc lập, đứng bên cạnh sản xuất và bên ngoài sản xuất. Phân phối thuộc phạm trù quan hệ sản xuất là kết quả của sự phân phối những công cụ sản xuất.
Phân phối xác định tỷ lệ (số lượng) sản phẩm dành cho cá nhân ; trao đổi xác định những sản phẩm trong đó cá nhân đòi hỏi cái phần do phân phối dành cho mình.
Như vậy sản xuất, phân phối, tiêu dùng hình thành một tam đoạn luận đúng cách: Sản xuất là cái chung, phân phối và trao đổi là cái đặc thù, tiêu dùng là cái đơn nhất khép kín tổng thể. Đương nhiên, cái đó đúng là một mối liên hệ, nhưng là mối liên hệ hời hợt bề ngoài. Sản xuất hình như là do các quy luật phổ biến của tự nhiên quy định ; phân phối do sự ngẫu nhiên của xã hội quyết định, vì vậy nó có thể ảnh hưởng ít nhiều thuận lợi đến sản xuất ; trao đổi nằm giữa hai khâu đó, như là một sự vận động xã hội có tính chất hình thức, còn hành vi cuối cùng – tiêu dùng – không được coi là điểm kết thúc, mà còn là mục đích cuối cùng, nói thực ra là nằm bên ngoài kinh tế, trừ trường hợp nó tác động trở lại điểm xuất phát và làm cho toàn bộ qúa trình bắt đầu lại.
1.1.2 Cơ sở kinh tế của sự phân phối
Cơ sở kinh tế của sự phân phối, ở đây bao hàm ý nghĩa nói đến việc phân phối vật phẩm tiêu dùng cho cá nhân mỗi thành viên trong xã hội. Nhưng vì phân phối bao giờ cũng gồm cả phân phối cho sản xuất xem là yếu tố của sản xuất và phân phối cho tiêu dùng xem là kết quả của qúa trình sản xuất, cho nên không phải là toàn bộ sản phẩm xã hội tạo ra đều được phân phối cho tiêu dùng cá nhân. Trước hết, xã hội cần phải trích ra một phần để:
Bù đắp những tư liệu sản xuất đã hao phí ;
mở rộng sản xuất; lập quỹ dự trữ để phòng khi tai hoạ bất ngờ.
Phần trích này là một điều tất yếu về kinh tế, vì nếu không khôi phục và mở rộng sản xuất thì không thể đáp ứng được nhu cấu ngày càng tăng của xã hội.
Phần còn lại của tổng sản phẩm xã hội thì để tiêu dùng. Nhưng trước khi tiến hành phân phối trực tiếp cho tiêu dùng cá nhân, còn phải trích một phần để:
Chi phí về quản lý hành chính và tổ chức, bảo vệ tổ quốc.
Mở rộng các sự nghiệp phúc lợi công cộng và cứu tế xã hội .
Sau đó, phần vật phẩm tiêu dùng còn lại mới được trực tiếp phân phối cho tiêu dùng cá nhân của những người làm việc trong nền sản xuất xã hội phù hợp với số lượng và chất lượng của lao động cũng như số lượng vốn và tài sản mà họ đóng góp vào qúa trình sản xuất.
Như vậy, tổng sản phẩm xã hội vừa được phân phối để tiêu dùng cho sản xuất, vừa được phân phối để tiêu dùng cá nhân.
1.1.3. Vai trò của quan hệ phân phối trong nền sản xuất xã hội.
Bàn về vai trò của phân phối trong nền sản xuất xã hội, F.Ănghen cho rằng “sự phân phối chừng nào mà còn bị những nhân tố lý do thuần tuý kinh tế chi phối, thì nó sẽ được điều tiết bởi lợi ích của sản xuất, rằng sản xuất sẽ được thuận lợi trên hết trong mọi phương thức phân phối mà mọi thành viên trong xã hội có thể phát triển, duy trì và thực hành những năng khiếu của họ một cách hoàn thiện nhất ”. Phân phối không chỉ đơn thuần là một kết quả tiêu cực của sản xuất và trao đổi ; nó cũng tác động lại mạnh như thế đến cả sản xuất lẫn trao đổi. Bất cứ phương thức sản xuất mới nào và bất cứ hình thức trao đổi mới nào, lúc đầu không những đều bị những hình thức cũ và những thiết chế chính trị tương ứng ngăn trở, mà còn bị cả phương thức phân phối cũ ngăn trở. Những phương thức sản xuất mới và những hình thức trao đổi mới ấy, trước hết đều phải trải qua một cuộc đấu tranh lâu dài mới dành được sự phân phối thích ứng với chúng. Nhưng một phương thức trao đổi và sản xuất nhất định càng linh hoạt bao nhiêu, càng dễ phát triển và tiến triển bao nhiêu thì sự phân phối càng chóng đạt tới trình độ thoát khỏi chính ngay những điều kiện đã đẻ ra nó và càng chóng trở nên xung đột với phương thức sản xuất và trao đổi cũ bay nhiêu.
1.2.Các hình thức phân phối chủ yếu ở nước ta hiện nay
1.2.1 .Phân phối theo lao động: Là nguyên tắc phân phối vật phẩm tiêu dùng cho các cá nhân trong xã hội căn cứ vào số lượng, chất lượng lao động hay hiệu quả lao động mà họ đã cống hiến cho xã hội không phân biệt màu da, tôn giáo, đảng phái, nam nữ.
1.2.2 .Phân phối theo vốn và tài sản : Là nguyên tắc phân phối vật phẩm tiêu dùng cho cá nhân căn cứ vào vốn và tài sản mà họ có để phân phối.
1.2.3.Phân phối ngoài thù lao lao động thông qua các quỹ phúc lợi khác: Là nguyên tắc phân phối vật phẩm tiêu dùng cho cá nhân nhằm đảm bảo những nhu cầu chung của xã hội và đảm bảo cuộc sống cho một số người không có khả năng lao động.
Trong các hình thức cơ bản đó, phân phối theo lao động là cách chủ yếu, nhưng phân phối ngoài thù lao lao động qua các quỹ phúc lợi xã hội ngày càng trở nên quan trọng trong qúa trình phát triển của xã hội. Đây là cách phân phối vật phẩm tiêu dùng luôn luôn kết hợp với nhau và tác động cùng một lúc trong thực tiễn. Hai cách phân phối này dựa vào nhau và bổ sung cho nhau để góp phần giải quyết những yêu cầu chung của xã hội. Đồng thời, phân phối theo tài sản , vốn và những đóng góp khác ngày nay cũng trở thành một tất yếu, hợp quy luật.
1.3. Kinh nghiệm của một số nước về phân phối
1.3.1.Sự vận dụng nguyên tắc phân phối của chủ nghĩa xã hội tại Liên Xô
Trong thời gian đầu sau chiến tranh, nền kinh tế Liên Xô gặp nhiều khó khăn do hậu quả của chiến tranh. Hơn nữa, trong xã hội Liên Xô lúc đó tồn tại nhiều giai cấp: những địa chủ còn sót của xã hội phong kiến, những nhà tư bản non trẻ mới xuất hiện ở Liên Xô và giai cấp công nhân tầng lớp chính và chiếm vai trò chủ đạo trong việc điều hành đất nước sau chiến tranh.
Một yêu cầu đặt ra là phải điều tiết việc tiêu dùng trong xã hội. Đầu tiên là việc dùng phiếu bánh mì - kiểu điều tiết tiêu dùng cổ điển của những tư bản lúc bấy giờ, nhằm thực hiện một nhiệm vụ: phân phôi bánh mì hiện có, làm sao cho ai nấy đều có bánh ăn. Nhưng việc thực hiện đó gặp nhiều khó khăn do sự phá hoại của thế lực thù địch vì vậy chính phủ đã dề ra một chính sách mới: trước hết chính sách đó phải thêm vào chế độ phiếu bánh mì việc cưỡng bức tập hợp toàn thể nhân dân thành những hội tiêu dùng vì đó là phương phấp duy nhất để thực hiện dược việc kiểm soát tiêu dùng ; hai là bắt bọn nnhà giáu phải làm nghĩa vụ lao động, chúng phải đảm nhiệm những chức vụ không công trong các hội tiêu dùng ; ba là phân đều cho nhân dân tổng số thực tế của sản phẩm trong xã hội để đảm bảo công bằng.
Chính quyền Xô viết lúc đó kiên quyết tiếp tục thay thế việc buôn bán bằng chế độ phân phối sản phẩm một cách có kế hoạch và có tổ chức trên quy mô toàn quốc. Mục đích là tổ chức toàn thể nhân dân vào các công xã sản xuất và tiêu dùng có khả năng phân phối tất cả những sản phẩm cần thiết một cách nhanh chóng nhất, có kế hoạch nhất và tiết kiệm nhất, tốn ít nhân công nhất, bằng cách tập trung chặt chẽ bộ máy phân phối. Và hợp tác xã là một phương tiện quá độ để thực hiện mục đích đó. Việc sử dụng hợp tác xã là một vấn đề giống như việc sử dụng chuyên gia tư sản vì đứng đầu bộ máy hợp tác xã do CNTB để lại là những người có thói quen suy nghĩ và quản lý kinh tế của tư sản. Đảng Cộng sản Nga buộc tất cả các đảng viên phải làm việc trong hợp tác xã, lãnh đạo các hợp tác xã đó phải theo tinh thần cộng sản, làm cho tổng thể nhân dân đều vào hợp tác xã và biến các hợp tác xã đó từ trên xuống dưới thành một hợp tác xã thống nhất cả nước. Đặc biệt là việc chuyển đổi từ chế đọ trưng thu lương thực trong chính sách cộng sản thời chiến sang thuế lương thực cho phù hợp với nhân dân và thực hiện mục tiêu công bằng. Mặt khác, Đảng cộng sản Nga còn sử dụng biện pháp quản lý sự phân phối thông qua sự kiêm kê và kiểm soát của toàn dân đối với sản xuất và phân phối sản phẩm.
1.3.2. Vấn đề phân phối trong quá trình phát triển kinh tế Trung Quốc thời kỳ cải cách
Chúng ta sẽ nghiên cứu vai trò của phân phối đặc biệt là phân phối thu nhập trong quá trình phất triển kinh tế của Trung Quốc.Trung Quốc là một đất nước có dân số đông, kinh tế - văn hoá lạc hậu, nhưng 20 năm qua nhờ thực hiện cải cách mở cửa mà bộ mặt kinh tế - xã hội của nước này đã thay đổi rõ rệt. Từ thực tiễn đó, các nhà khoa học Trung Quốc đã rút ra nhận xét cho răng: “Phân phối thu nhập không chỉ biểu hiện một kết quả của tăng trưởng kinh tế, đồng thời nó lại ảnh hưởng, thậm chí là một đại lượng biến đổi quan trọng quyết định kinh tế tăng trưởng”
Trong thời gian đầu khoảng 20 năm trước cải cách (1956-1976), trung Quốc là một xã hội có trình độ bình quân hoá rất cao nhưng cung lại là một xã hội vẫn tồn tại một số nhân tố bất bình đẳng. Xã hội Trung Quốc như vậy là do: Chế độ XHCN ở Trung Quốc là chế độ lấy công hữu về tư liệu sản xuất nên sau khi từng bước thực hiện công hữu hoá về tư liệu sản xuất, người dân trừ một số ít thu nhập từ lãi suất tiêt kiệm ra còn hầu như không có thu nhập tài sản khác; và ình hình đất nước trong thời kỳ đấu cần tăng tích luỹ, giảm tiêu dùng, nên thu nhập lao động cũng được bình quân ở mức thấp. Nhưng s ự chênh lệch thu nhập giữa các tầng lớp nhân dân và các khu vực là khá lớn. Về phương thức phân phối hàng tiêu dùng, Trung Quốc đã nhấn mạnh phương thức phân phối hiện vật, tức là thực hiện chế độ cung cấp, bài xích phương thức phân phối theo thị trường (thông qua tiền tệ mua bán).
Sau khi cải cách mở cửa đến nay quá trình phân phối thu nhập ở Trung Quốc có nhiều đột phá về lý luận: Đã đột phá vào quan niệm bình quân chủ nghĩa, xây dựng lý luạn cho phếp một số vùng một số người giàu lên trước, khuyến khích người giàu trước giúp đỡ người giàu sau, cuối cùng thực hiện cùng giàu có; Thực hiện chính sá “ưu tiên hiệu quả, chiếu cố công bằng” tức là tiến hành phân phối theo số lượng, chất lượng, hiệu suất lao động và bảo hộ thu nhập hợp pháp, thôn tính thu nhập phi pháp...; Đã đột phá vào quan điểm truyền thống cho rằng:phân phối theo lao động là đặc diểm của CNXH, phân phối theo vốn là đặc điểm của CNTB, xây dựng lý luận kiên trì phân phối theo lao động là chính, cho phép yếu tố sản xuất tham gia vào phân phối; Xây dựng và kiện toàn hệ thống bảo hiểm xã hội thích ứng với nền kinh tế thị trường XHCN.
Nhờ những chính sách và đổi mới đó nền kinh tế Trung Quốc đã đạt được một số thành tựu đáng kể: Nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao, tăng trưởng GDP bình quân hàng năm 1979-1997 đạt 9,8%, trở thành cường quốc đứng thứ 7 thế giới về kinh tế; Hàng hoá từ chỗ trước đây thiếu đã trở nên phong phú đáp ứng nhu cầu nội địa và xuất khẩu; Mức thu nhập và tiêu dùng của người dân được cải thiện và nâng cao, tăng trưởng GDP bình quân đầu người đã từ 379 NDT(1978) tăng lên 6079 NDT(1997); Mức tiêu dùng của dân cư cả nước từ 184 NDT (1979) lên đến 2036 NDT(1997).
Chương 2
Thực trạng quan hệ phân phối và những giải pháp để nâng cao hoàn thiện quan hệ phân phối ở nước ta trong thời gian tới.
2.1 Thực trạng của quan hệ phân phối ở nước ta
Trong giai đoạn xây dựng xã hội chủ nghĩa trước đổi mới, chúng ta chủ trương thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu và trên cơ sở đó thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động máy móc của Mác dưới CNXH vào hoàn cảnh chra chín muồi trong nền kinh tế tập trung ở nước ta. Dẫn tới hành động của chúng ta là nhanh chóng chóng cải tạo các thành phần kinh tế bằng mọi giá, để tạo lập hai hình thức sở hữu nhà nước và tập thể, và tưởng thế là chúng ta đã có được cơ sở kinh tế của CNXH làm cơ sở cho phân phối theo lao động. Mặt khác, trong lĩnh vực trao đổi, chúng ta lại thực hành phân phối bằng hiện vật một cách rộng khắp, từ sản xuất, đến tiêu dùng. Khiến quan hệ hàng tiền bị thủ tiêu, thước đo lao động bằng giá trị bị phủ định. Kết quả là trong phân phối ta không thực hiện được phân phối đúng cho lao động, đảm bảo công bằng xã hội mà lại đưa đến sự “quân bình xã hội”. Điều đó đã tạo ra kẻ hở, làm triệt tiêu những nhân tố tích cực, dám hy sinh vì nghĩa lớn, biết quên mình trong lao động. Đồng thời tạo ra chỗ dựa cho thói lười nhác, ỷ lại, dựa dẫm, ăn bám ở khắp mọi nơi mọi người. Đây cũng là một trong các nguyên nhân đẩy xã hội ta vào tình trạng trì trệ, nghèo nàn, chậm phát triển. Tất cả những khó khăn đó đã dẫn tới tổng sản phẩm xã hội từ năm 1976 - 1980 bình quân hàng năm chỉ tăng 1%, thu nhập quốc dân sản xuất bình quân hàng năm tăng 0,2 %, trong khi dân số tăng bình quân hàng năm là 2,25%. Điều này đã làm cho chỉ tiêu tổng hợp tính bình quân đầu người giảm xuống: thu nhập quốc dân sản xuất theo đầu người bình quân hàng năm từ năm 1976 - 1980 giảm 1,37%; thu nhập quốc dân sử dụng bình quân đầu người giảm 5,15%. Quỹ tiêu dùng cá nhân của dân cư liên tục giảm: năm 1976 là 100% thì năm 1977 còn 95,5%;1978:92,8%;1980:88,6%. Các chỉ tiêu khác do Đảng đề ra chỉ đạt ở mức thấp.
Nhận rõ dược các sai lầm thiếu sót, từ năm 1986 đến nay, Đảng và Nhà nước ta đã chuyển hướng nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN có sự điều tiết của Nhà nước, đa dạng hoá các thành phần kinh tế lấy kinh tế quốc doanh làm nòng cốt, kinh tế tập thể không ngừng được mở rộng theo nguyên tắc hiệu quả, tự nguyện... Đồng thời thực hiện nguyên tắc phân phối vừa theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, vừa theo mức đóng góp vốn (trong đó phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu). Về nguyên tắc phân phối mới này, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng ta đã khẳng định: “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội ”
Nguyên tắc phân phối “vừa theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, vừa theo mức đống góp vốn” mà chúng ta thực hiện từ khi tiến hành sự nghiệp đổi mới so với nguyên tắc phân phối theo lao động mà chúng ta đã thực hiện trong thời gian trước có hai điểm khác nhau cơ bản :
Điểm khác nhau thứ nhất liên quan đến cách xác định sự cống hiến bằng sức lao động của mỗi người cho xã hội. Sự cống hiến của mỗi người trong xã hội dù được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, song vẫn có thể quy về hai loại cơ bản: cống hiến bằng sức lao động và cống hiến bằng sự góp vốn. Nguyên tắc phân phối theo lao động, như chúng ta đã biết, là nguyên tắc phân phối căn cứ vào cống hiến bằng sức lao động. Nếu chỉ thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động thì giá trị của tổng sản phẩm xã hội sẽ được chia thành hai phần: một phần được dành để tái sản xuất, để giải quyết các vấn đề xã hội chung ; phần còn lại sẽ được phân phối cho các cá nhân theo sự cống hiến bằng sức lao động của họ trong xã hội. Phân phối cho các cá nhân theo mức cống hiến bằng sức lao động có nghĩa là: ai làm nhiều hưởng nhiều, ai làm ít hưởng ít, ai không làm thì không hưởng. Còn trong thời kỳ đổi mới, chúng ta xá định sự cống hiến bằng sức lao động của mỗi người trong xã hội căn cứ vào “kết quả lao động và hiệu quả kinh tế”, nói gọn là căn cứ vào hiệu quả lao động
Điểm khác nhau cơ bản thứ hai là, trong thời kỳ trước đổi mới, chúng ta chủ trương chỉ thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động, còn trong thời kỳ đổi mới, chúng ta chu trương thực hiện đồng thời cả nguyên tắc phân phối theo lao động và phân phối theo mức đóng góp, trong đó nguyên tắc phân phối theo lao động là chủ yếu. Khi thực hiện đồng thời cả hai nguyên tắc thì giá trị tổng sản phẩm xã hội sẽ đựoc chia thành ba phần: một phần dành để tái sản xuất, phần thứ hai được phân phối cho người lao động theo mức cống hiến bằng sức lao động cho xã hội, phần thứ ba được phân phối cho người có vốn đóng góp (ai góp nhiều hưởng nhiều, ai góp ít hưởng ít, ai không góp không hưởng). Người nào vừa có vốn đóng góp, vừa có cống hiến bằng sức lao động sẽ được hưởng cả trong phần thứ hai và trong phần thứ ba. Trên thực tế, mỗi người do đều có quyền sở hữu một phần giá trị như nhau trong tổng số giá trị của tư liệu sản xuất thuộc sở hữu toàn dân nên đều có quyền thu nhập như nhau từ vốn góp của mình, thu nhập này được được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau trong đó có cả phúc lợi xã hội. Nhưng ngoài số thu nhập như nhau ấy, một số người có vốn đóng góp thêm còn có thêm thu nhập hợp páhp khác dù không trực hay gián tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, tức là dù không có cống hiến bằng sức lao động. Giá trị gia tăng của tiền cho vay mà người cho vay được hưởng là hình thức dễ nhìn thấy của thu nhập hợp pháp không phải do cống hiến bằng sức lao động mà do cống hiến bằng sự góp vốn.
Chủ trương thực hiện nguyên tắc phân phối vừa theo lao động, vừa theo mức đóng góp vốn là sự đổi mới quan trọng trong quan điểm quan trọng của Đảng ta về phân phối nói riêng, về con đường đi lên CNXH nói chung. Đay sẽ là chủ trương lâu dài, tương ứng với độ dài của thời kỳ quá độ lên CNXH. Bởivì, chỉ khi nào giá trị tư liệu sản xuất của Nhà nước ta nhiều đến mức không cần thu hút sự đóng góp của các cá nhân để phát triển sản xuất thì lúc đó chúng ta mới chấm dứt việc thực hiện nguyên tắc phân phối vừa theo lao động vừa theo mức đóng góp vốn để chuyển sang thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động. Và cũng chỉ khi đó, thời kỳ quá độ lên CNXH mới kết thúc và CNXH mới được hình thành.
Theo quan niệm mới về công bằng xã hội, sự góp vốn cũng được coi là cống hiến và thu nhập ở mức độ hợp lý có được do sự đóng góp vốn cũng là công bằng. Nên với việc thực hiện nguyên tắc phân phối đó trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta hiện nay, chúng ta hoàn toàn có thể thực hiện được mục tiêu công bằng xã hội, khái niệm “ông bằng xã hội” đã mang nội dung mới. Đó là nguyên nhân cơ bản làm cho tình hình kinh tế-xã hội của nước ta có nhiều chuyển biến tích cực: lực lượng sản xuất bước đầu phát triển, đời sống của đa số nhân dân tiép tục được cải thiện, xã hội cơ bản ổn định...
2.1.1 Ưu điểm
Quan hệ phân phối thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đất nước. Quan hệ phân phối tạo động lực cho người lao động sản xuất cũng như làm việc ngày càng nhiều vì lợi ích của bản thân, của doanh nghiệp cũng như của toàn xã hội, qua đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong nước từng bước nâng cao thu nhập của các tầng lớp dân cư. Cụ thể là
Trong 5 năm 1991-1995 nền kinh tế đã khắc phục được tình trạng trì trệ suy thoái ; đạt mức tăng trưởng khá cao, liên tục và tương đối toàn diện; thực hiện vượt mức hầu hêt các chỉ tiêu đề ra trong thời gian đó: tổng sản phẩm trong nước(GDP) tăng bình quân hằng năm là 8,2%; lạm phát bị đẩy lùi từ 774,7 năm 1986 xuống còn 67,1 năm 1991và 12,7 năm 1995. Đầu tư toàn xã hội bằng vốn trong và ngoài nước so với GDP năm 1990 là 15,8,n năm 1995 là 27,4. Lương thực không những đủ ăn mà còn xuất khẩu được mỗi năm khoảng 2 triệu tấn.
Còn trong 5 năm 1996-2000 nền kinh tế đã đạt được nhiều thành tựu: kinh tế tăng trưởng khá, tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng bình quân hằng năm 7%, trong đó GDP năm 2000 gấp đôi GDP năm 1990. Tổng quỹ tiêu dùng tăng bình quân hàng năm hơn 5%, tiêu dùng bình quân đầu người tăng hàng năm gần 3,5%; tỷ lệ tích luỹ trong tổng tích luỹ tiêu dùng bình quân 5 năm là 26,8%; riêng năm 2000 khoảng 28,7%; tỷ lệ tiêu dùng tương ứng khoảng 71,3%. Đời sống vật chất của nhân dân được cải thiện : mỗi năm thêm hơn 1,2 triệu việc làm mới; tỷ lệ hộ nghèo (theo tiêu chuẩn nước ta) từ trên 30% giảm xuống 10%. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên hàng năm từ 2,3 % giảm xuống 1,4%. Tuổi thọ trung bình tưng từ 65,2 tuổi lên 68,3 tuổi và nhiều những thành tựu khác nữa.
Nó thực hiện công bằng xã hội, góp phần phân phối lại lực lượng lao động của toàn bộ xã hội. Nguyên tắc phân phối của nước ta hiện nay là:phân phối vừa theo lao động vừa theo mức đóng góp vốn. Việc phân chia công bằng tỷ lệ giữa phân phối theo lao động và phân phối theo mức đóng góp vốn để cả hai bên (người chủ sở hữu vốn và người lao động) đều hài lòng sẽ phụ thuộc vào tình hình cụ thể trong từng đơn vị và từng thời điểm; tỷ lệ ấy phải do thực tiễn cuộc sống quy định. Qua việc xác định các tỷ lệ đó mà thực hiện được sự phân phối đầy đủ cho các cá nhân trong toàn xã hội và thực hiện được công bẵng xã hội. Trước đay, chúng ta quan niệm rằng “không làm thì không hưởng” mới là công bằng, còn “không làm mà có hưởng” là bất công bằng. Quan niệm ấy là một nguyên nhân về nhận thức dẫn chúng ta tới chủ trương chỉ thực hiện nguyên tăcs phân phối theo lao động mà không thực hiện nguyên tắc phân phối vừa theo lao động, vừa theo mức đóng góp vốn. Nếu theo quan niệm cũ về công bằng xã hội thì hiện nay, chúng ta chưa thể thực hiện được mục tiêu công bằng xã hội. Bởi vì, Mục tiêu đó chỉ có thể đạt được khi mà mọi người đều có bình đẳng trong việc sở hữu tư liệu sản xuất, mà sự bình đẳng của tất cả mọi người trong việc sở hữu tư liệu sản xuất lại chỉ tất yếu xuất hiện khi giá trị của tư liệu sản xuất thuộc sở hữu toàn dân đã nhiều đén mức xã hội không cần sự góp vốn của các cá nhân. Theo quan niệm mới về “công bằng xã hội”, sự góp vốn cũng được coi là sự cống hiến và thu nhập ở mức độ hợp lý có được do sự đóng góp vốn cũng là công bằng. Với quan niệm mới này, chúng ta có thể đạt được mục tiêu công bằng xã hội trong giai đoạn hiện nay.
2.1.2 Nhược điểm và tồn tại của quan hệ phân phối ở nước ta
+ Sự chênh lệch, bất hợp lý giữa các bộ phận, các ngành nghề, các vùng khác nhau.
+ Tình trạng tham ô còn diễn ra.
+ Nhiều cán bộ chủ chốt bị tha hóa về đạo đức, nhân phẩm
2.2. giải pháp nhằm hoàn thiện quan hệ phân phối ở Việt Nam trong thời gian tới
Trong nền kinh tế nước ta hiện nay, quan hệ phân phối có vai trò rất quan trọng nhưng bên cạch đó vẫn còn xuất hiện những nhược điểm như trên chúng ta vừa xét. Đứng trước tình hình đó thì Đảng và Nhà nước ta có rất nhiều chính sách nhằm phát huy vai trò, động lực của phân phối đối với nền kinh tế đất nước.
2.2.1. Giải quyết sự mâu thuẫn giữa kinh tế quốc doanh-tập thể và kinh tế tư nhân
Hiện nay vẫn chưa có giải pháp hữu hiệu nào, ngoài giải pháp để cho các thành phần kinh tế quốc doanh tự đứng vững, tự phát triển trong cạnh tranh của cơ chế thị trường để giúp giải quyết sự yếu kém của thành phần kinh tế tập thể. Trong thời gian qua Đảng và Nhà nước ta đã ban hành luật cổ phần hoá rộng rãi các xí nghiệp quốc doanh, đồng thời công bố luật phá sản đối với các xí nghiệp làm ăn thua lỗ. Điều đó sẽ làm cho các xí nghiệp, công ty trong thành phần kinh tế tập thể – quốc doanh phải tự vươn lên đẻ chiến thắng các áp lực trong cạch tranh, phát triển đủ sức chi phối các thành phần kinh tế khác, đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần định hướng XHCN. Chúng ta cần thành phần kinh tế quốc doanh mạnh làm cơ sở kinh tế – xã hội để thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động. Nhà nước ta cần can thiệp bằng thiệp bằng luật lao động vào tiền lương tạo ra phân phối công bằng.
Đổi mới và tăng cường hoạt động của kinh tế tập thể trong lĩnh vực phân phối, lưu thông. Phát huy vai trò trung tâm kinh tế, khoa học - công nghệ, văn hoá - xã hội của doanh ngiệp nhà nước trong nông, ngư nghiệp, nhất là ở miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc ít người. Triển khai tích cực và vững chắc việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước để huy động thêm vốn, tạo thêm động lực thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, làm cho tài sản nhà nước ngày càng tăng lên, không phải để tư nhân hoá. Bên cạnh những doanh ngiệp 100% vốn nhà nước sẽ có nhiều doanh nghiệp nắm đa số hay nắm tỷ lệ cổ phần chi phối. Gọi thêm cổ phần hoặc bán cổ phần cho người lao động tại doanh nghiệp, cho các tổ chức và cá nhân ngoài doanh nghiệp tuỳ từng trường hợp cụ thể; vốn huy động được phải dùng để đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh.
Thành phần kinh tế tư nhân được khuyến khích phát triển không hạn chế về quy mô trong những ngành, nghề, lĩnh vực và địa bàn mà pháp luật không cấm; khuyến khích hợp tác liên doanh với nhau và với doanh nghiệp nhà nước, chuyển thành doanh nghiệp cổ phần và bán cổ phần. Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp cho các doanh nghiệp tư nhân; tạo điều kiện thuận lợi đi đôi với tăng cường quản lý, hướng dẫn làm ăn đúng pháp luật, có lợi cho quốc kế dân sinh.
2.2.2. Nâng cao vai trò điều tiết của Nhà nước đối với phân phối
Hơn lúc nào hết, trong cơ chế thị trường, Nhà nước được xem là nhân tố hàng đầu, thông qua Đảng lãnh đạo. Nhà nước là cơ quan quản lý xã hội, hành pháp và tư pháp, có nghĩa vụ tập hợp toàn bộ nguồn lực trong và ngoài nước nhằm phát triển toàn diện kinh tế, xã hội đất nước. Và vai trò của sự quản lý của Nhà nước đối với phân phối là hết sức quan trọng: tạo ra cơ sở kinh tế - xã hội để thực hiện phân phối và mở rộng phân phối theo lao động trong xã hội, từng bước thực hiện công bằng xã hội.
Nhà nước tôn trọng nguyên tắc và cơ chế hoạt động khách quan của thị trường, tạo điều kiện phát huy mặt tích cực, đồng thời khắc phục, hạn chế những tiêu cực của thị trường. Nhà nước tập trung làm tốt chức năng hoạch định chiến lược, quy hoạch và kế hoạch định hướng phát triển, thực hiện những dự án trọng điểm bằng nguồn lực tập trung; đổi mới thể chế quản lý, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh; điều tiết thu nhập hợp lý. Xây dựng pháp luật và kiêmt tra giám sát việc thực hiện; giảm mạnh sự can thiệp trực tiếp bằng biện pháp hành chính vào hoạt động sản xuất, kinh doanh. Dơn giản hoá các thủ tục hành chính, công khai hoá và thực hiện đúng trách nhiệm và quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong quan hệ với các doanh nghiệp và nhân dân; kiên quyết xoá bỏ những quy định và thủ tục mang nặng tính hành chính, quan liêu, bao cấp, kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, gây phiền hà, sách nhiễu cho doanh nghiệp và nhân dân.
Phải đặc biệt chú ý tới vai trò cuă nhà nước, tổ chức bộ máy nhà nước và những con người được tuyển dụng đảm trách công việc Nhà nước. Cần phải đổi mới tận gốc quan niệm và phương pháp công tác cán bộ từ khâu đánh giá, tuyển chọn, sử dụng, bố trí cán bộ, nhất là cán bộ chủ chốt. Đời sống mới đòi hỏi phải tập trung trong bộ máy Nhà nước những con người có taid đức, nhìn xa thấy rộng, dám làm, dám chịu trách nhiệm; tính toán hiệu quả, giữ nghiêm kỷ cương, phép nước. Đánh giá lựa chọn cán bộ phải căn cứ vào tiêu chuẩn cơ bản. Người có bản lĩnh chính trị, kiên định với mục tiêu lý tưởng của Đảng, có phẩm chất đạo đức cách mạng trong sáng, lối sống lành mạnh, thực sự cần kiệm liêm chính trí công vô tư, gần gũi quần chúng, có năng lực và phẩm chất ngang tầm nhiệm vụ. đào tạo phải gắn với nguồn chức danh, yêu cầu sử dụng. Không đổi mới nội dung, phương pháp đào tạo theo quy trình thuận nghịch.
Nhà nước định hướng sự phát triển, trực tiếp đầu tư vào một số lĩnh vực để dẫn dắt nỗ lực phát triển theo định hướng XHCN; thiết lập khuôn khổ luật pháp, có hệ thống chính sách nhất quán để tạo môi trường ổn định và thuận lợi cho các doanh nghiệp làm ăn phát đạt. Phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân; quản lý tài sản công và kiểm kê, kiểm soát toàn bộ hoạt động kinh tế xã hội. Thực hiện đúng chức năng quản lý nhà nước về kinh tế và chức năng chủ sở hữu tài sản công của Nhà nước.
2.2.3. Các giải pháp chống chủ nghĩa bình quân
Sự phân phối bình quân là không công bằng, đó là một nguyên nhân kìm hãm sự phát triển của sản xuất, vì người làm nhiều mà hưởng ít sẽ không cố gắng làm nhiều hơn, người làm ít mà hưởng nhiều sẽ dựa dẫm vào người khác và cũng không cố gắng làm nhiều hơn.
Để khắc phục tình trạng phân phối bình quân, từ khi đổi mới đến nay chúng ta chủ trương xác định sự cống hiến bàng sức lao động của mỗi người trong xã hội căn cứ vào “kết quả lao động và hiệu quả kinh tế”. Hiệu quả lao động phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, chứ không phải chỉ phụ thuộc vào các yếu tố như trình độ và khả năng của người lao động, cường độ và thời gian lao động mà nó còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố chủ quan và khách quan khác nhau trong xã hội. Việc lấy hiệu quả lao động làm căn cứ để xác định sự cống hiến bằng sức lao động của từng người sẽ giảm bớt được sai lầm chủ quan có thể có của người tính toán khi thực hiện nguyên tắc theo lao động. Muốn phân phối được thực hiện công bằng thì việc xác định hiệu quả lao động là rất quan trọng và cần thiết, chúng ta cần xác định hiệu quả lao động của mỗi lao động dựa vào sự cống hiến của họ cho công việc ấy.
Việc hoàn thiện chính sách tiền công, tiền lương cũng góp phần chống chủ nghĩa bình quân.
2.2.4. Phát triển lực lượng sản xuất, khuyến khích làm giàu
Phương thức phân phối, ngoài tính chất của chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất còn do số lượng sản phẩm có thể phân phối quyết định. Do vậy, muốn thực hiện được ngày càng đầy đủ sự công bằng xã hội trong phân phối thì cần phải sản xuất ra ngày càng nhiều sản phẩm. Thực hiện sự phân phối bình đẳng trong điều kiện của cải vật chất quá nghèo nàn chỉ là chia đều sự nghèo khổ. Để tiến lên sự bình đẳng trong phân phối, điều kiện kiên quyết đối với nước ta là phải phát huy mọi tiêmg năng vật chất và tinh thần của đáat nước. Ra sức phát triển lực lượng sản xuất, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Chúng ta cần phát triển kinh tế nhanh, có hiệu quả và bền vững, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá để góp phần thực hiện nguyên tắc phân phối vừa theo hiệu quả lao động, vừa theo vốn và tài sản để đạt mục tiêu công bằng xã hội. Mọi hoạt động kinh tế được đánh giá bằng hiệu quả tổng hợp về kinh tế, tài chính, xã hội, môi trường, quốc phòng và an ninh. Trước mắt, tập trung nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, nhất là doanh ngiệp Nhà nước, hiệu quả đầu tư, hiệu quả sử dụng vốn. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư dựa trên cơ sở phát huy các thế mạnh và các lợi thế so sánh của đất nước, tăng sức cạnh tranh, gắn với nhu cầu thị trường trong và ngoài nước, nhu cầu đời sống nhân dân và quốc phòng, an ninh. Tạo thêm sức mua của thị trường trong nước và mở rộng thị trường ngoài nước, đẩy mạnh xuất khẩu.
Mục tiêu phấn đấu của nhân dân ta là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Dân có giàu thì nước mới có thể mạnh, nứoc mạnh mới có khả năng thực hiện sự công bằng xã hội và có cuộc sống văn minh. Nhà nước không những khuyến khích mọi người làm giàu một cách hợp pháp mà còn tạo điều kiện và giúp đỡ người nghèo. Để có thu nhập, trước hết mỗi người phải được lao động, phải có việc làm. Muốn vậy, cần nâng cao trình độ văn hoá, chuyên môn kỹ thuật cho người lao động để họ có thể tiếp thu công nghệ hiện đại làm việc trong điều kiện thuân lợi để tao thêm việc làm cho người dân; bên cạch đó cần đẩy mạnh xuất khẩu lao động để tăng thêm thu nhập cho người lao động cũng như cho nền kinh tế đất nước. Mặt khác, cần thực hiện xoá đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, bảo hiểm xã hội và các hoạt động nhân đạo, từ thiện để từng bước đạt tới sự công bằng xã hội. Muốn vây, cần xây dựng và phát triển quỹ xoá đói giảm nghèo bằng nhiều nguồn vốn trong và ngoài nước, quản lý chặt chẽ việc sử dụng quỹ này đúng đối tượng và có hiệu quả; tổ chức tốt việc thi hành pháp lệnh về người có công với đất nước; thực hiện và hoàn thiện chế độ bảo hiểm xã hội, đảm bảo đời sống của những người nghỉ hưu ổn định và từng bước cải thiện; đẩy mạnh các hoạt động từ thiện.
2.2.5. Hoàn thiện các chính sách tiền công, tiền lương và phân phối lại thu nhập
Đối với những người làm công ăn lương, thì tiền lương phải thực sự là nguồn thu nhập chính để nuôi sống họ, từ đó có thể họ hoàn toàn yên tâm và say mê với nghề nghiệp. Vì vậy, việc giải quyết tốt vấn đề tiền lương sẽ có tác dụng kích thích sản xuất phát triển, ổn định và cải thiện đời sống không chỉ đối với gia đình cán bộ công nhân viên, mà còn ảnh hưởng đến mức sống chung của xã hội. Trên cơ sở đó, việc giaie quyết hợp lý vấn đề lương trong khu vực nhà nước còn có tác dụng to lớn trong việc hưoứng đạo tiền công ngoài khu vực quốc doanh. Chính vì vậy, cần phải tiếp rục xây dựng và hoàn thiện các chính sách tiền lương.
Phải làm cho tiền lương thực sự trở thành giá cả của sức lao động, điều đó đòi hỏi phải tính đúng, tính đủ giá trị sức lao động để làm cơ sở cho việc xác định mức tiền lương. Muốn vậy, mức lương cho người lao động phải thể hiện trình độ học vấn, tay nghề, quá trình lao động, lao động giản đơn hay lao động phức tạp. Mức lương phải thoả mãn nhu cầu tái sản xuất mở rộng sức lao đông, đảm bảo cho người lao động sống đủ mà không cần làm thêm gì. Nếu họ muốn làm giàu thì buộc phải làm thêm nhiều việc. Chỉ trên cơ sở như vậy tiền lương mới khuyến khích mọi người lao động luôn luôn nâng cao trình ọ tay nghề, khuyến khích thế hệ trẻ ra sức học tập không ngừng để nâng cao trình độ văn hoá, khoa học kỹ thuật để thích ứng với cơ chế thị trường. Mặt khác cần xác định mức tiền lương tối thiểu: tức là mức lương đảm bảo cho một mức sống tối thiểu. Tuy nhiên, mức sống của người lao động phải phù hợp với yêu cầu và trình độ phát triển kinh tế - xã hội. Mức lươngtối thiểu đó phải đảm bảo tính toán đầy đủ các yếu tố cần thiết của quá trình tái sản xuất sức lao động và phải đảm bảo tính thống nhất tạo điều kiện để giữ vững vai trò diều tiết của Nhà nước , phát huy quyền tự chủ của các tổ chức kinh tế trong lĩnh vực lao động.
Tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý phân phối tiền lương cho người lao động đối với các lĩnh vực khác nhau thì khác nhau. Đối với lĩnh vực sản xuất kinh doanh cụ thể là cac doanh nghiệp quốc doanh, nguồn tiền chi trả không phải từ ngân sách Nhà nước mà phải từ kết quả sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp này; các doanh ngiệp này, sau khi bù đắp các shi phí, hoàn thành nghĩa vụ nộp ngân sách, tổng thu nhập còn lại của doanh nghiệp do doanh nghiệp toàn quyền sử dụng chia cho nhân viên. Trong lĩnh vực hành chính sự nghiệp, Nhà nước trên cơ sở biên chế nghiêm ngặt và tiếp tục thực hiện khoán quỹ lương theo khối lượng công việc.
Bên cạch chính sách tiền lương thì các chính sách về tiền công lao động cần được hoàn thiện chặt chẽ hơn nữa để đảm bảo công bằng cho người lao động. Cần phải đảm bảo cho người lao động nhận được tiền công đầy đủ cho những cống hiến mà họ đã bỏ ra. Điều đó không chỉ có ý nghĩa đối với người lao động mà còn có ý nghĩa với xã hội để đảm bảo mục tiêu công bằng xã hội.
Thu nhập cá nhân được hình thành từ nhiều hình thức phân phối khác nhau, cho nên sự điều tiết đối với từng hình thức thu nhập đòi hỏi phải nắm vững tính chất và mức độ tưngf loại thu nhập để việc điều tiết thể hiện đúng với tính chất, sát với thu nhập nhằm khuyến khích mọi người làm giàu một cách chính đáng và đảm bảo tính định hương XHCN trong phân phối thu nhập. Để điều tiêt thu nhập cần thực hiện thông qua hình thức điều tiết giảm và tăng thu nhập cá nhân. Điều tiết giảm được thực hiện thông qua hình thức thuế thu nhập cá nhân và hình thức tự nguyện đóng góp của cá nhân có thu nhập cao vào quỹ phúc lợi xã hội, từ thiện... Trong đó, thuế thu nhập cá nhân là hình thức quan trọng nhất chủ yếu với mọi nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Đối với nước ta , mục đích của sự điều tiết giảm thu nhập cá nhân là để thực hiện từng bước công bằng xã hội, đồng thời không triệt tiêu động lực tăng thu nhập hơn nữa của các bộ phận dân cư có thu nhập cao. Để làm tốt việc này cần nắm đúng thu nhập cá nhân trên cơ sở phân biệt được chính xác các nguồn thu nhập cac nhân bằng các biện pháp giáo dục, hành chín, kinh tế. Điều tiết tăng thu nhập cá nhân được thưch hiện thông quan ngân sách nhà nước, ngân sách của các tổ chức chính trị – xã hội,các quỹ baoe hiểm, trợ cấp, phụ cấp các loại, qua các hoạt động từ thiện của các tổ chức và cá nhân nhằm trợ giúp thường xuyên cho những người có thu nhập thấp, những người thất nghiệp, những người tham gia bảo hiểm khi gặp rủi ro, nhưng người thuộc diện chính sách xã hội, bổ sung thu nhập mang tính chất bình quân cho các tổ chức, các doanh nghiệp vào cac dịp lễ, tết....
kết luận
Với mục đích cuối cùng của phân phối trong chế độ mới là đảm bảo cho các thành viên được làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu. Tuy nhiên trong giai đoạn đầu quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay đang còn nhiều khó khăn trước mắt bởi trong xã hội vẫn còn nhiều giai cấp tầng lớp với lợi ích còn chưa thống nhất, thêm vào đó là sự khác biệt nhau về mức sống và những mặt trái của cơ chế thị trường, cơ chế quản lý của nhà nước nên vấn đề phân phối làm sao để đạt công bằng xã hội đang gặp nhiều khó khăn. Song với vai trò quan trọng của nó trong việc ổn định, tăng trưởng và phát triển của cả quốc gia, vấn đề phân phối nhất định sẽ được giải quyết để đáp ứng với như cầu phát triển của xã hội và nhu cầu khẳng định mình của mỗi thành viên trong xã hội. Không ngừng ‘’Đổi mới chính sách tiền lương và thu nhập, khuyến khích mọi người tăng thu nhập và làm giàu dựa vào kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, bảo vệ các nguồn thu nhập hợp pháp; điều tiết hợp lý thu nhập giữa các bộ phận dân cư, các ngành và các vùng. đấu tranh ngăn chặn thu nhập phi pháp.,, (1) đã và đang là định hướng cho Đảng và nhà nước ta từng bước cải cách quan hệ phân phối cho phù hợp với điều kiện của đất nước và của quá trình công nghiệp hoá-hiện đại hoá. Từng bước khẳng định được tính ưu việt của chế đọ mới.
Tài liệu tham khảo
1. Đảng cộng sản Việt Nam:
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Nhà xuất bản sự thật, Hà Nội, 1991
2. GS.TS Ngô Đình Giao:
Chuyển dịch cơ cấu theo hướng công nghiệp hoá, hiện dại hoá ...
Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994
3. Tăng trưởng kinh tế và phân phối thu nhập
Nhà xuất bản KH-XH, Hà Nội, 1993
4. Tìm hiểu chế độ tiền lương mới
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993
5. Trung tâm kinh tế châu á Thái Bình Dương (VAPEC):
Phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường
NXB Thống Kê, Hà Nội, 1994
6. Giáo trình kinh tế chính trị
7. Và một số tài liệu tham khảo khác
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- KC082.doc