Tài liệu Đề tài Tìm hiểu sóng điện từ và một số ứng dụng: BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA VẬT LÝ
ĐỀ TÀI:
Giáo viên hướng dẫn: Lê Văn Hoàng
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Lê Thủy An
Phùng Thu Hằng
Nguyễn Thị Trung Kiên
Lớp Lý 3A
Niên khóa: 2008 - 2009
1
MỞ ĐẦU
LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Nhóm chọn đề tài “Sóng điện từ” do các lí do chính sau:
_ Việc nghiên cứu “Sóng điện từ” giúp chúng ta hiểu rõ hơn về chiếc cầu nối
giữa “điện – từ học” và “quang học”.
_ “Sóng điện từ” là một vấn đề rất quan trọng trong Vật lý học cũng như trong
đời sống.
_ “Sóng điện từ” có nhiều ứng dụng trong khoa học kỹ thuật, thông tin liên lạc,
y học, quân sự, đời sống hàng ngày…
ĐỐI TƯƠNG NGHIÊN CỨU
Học sinh và sinh viên.
2
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................1
MỤC LỤC ..............................................................................................................2
Chương 1. LỊCH SỬ ...
58 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1365 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Tìm hiểu sóng điện từ và một số ứng dụng, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA VẬT LÝ
ĐỀ TÀI:
Giáo viên hướng dẫn: Lê Văn Hoàng
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Lê Thủy An
Phùng Thu Hằng
Nguyễn Thị Trung Kiên
Lớp Lý 3A
Niên khóa: 2008 - 2009
1
MỞ ĐẦU
LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Nhóm chọn đề tài “Sóng điện từ” do các lí do chính sau:
_ Việc nghiên cứu “Sóng điện từ” giúp chúng ta hiểu rõ hơn về chiếc cầu nối
giữa “điện – từ học” và “quang học”.
_ “Sóng điện từ” là một vấn đề rất quan trọng trong Vật lý học cũng như trong
đời sống.
_ “Sóng điện từ” có nhiều ứng dụng trong khoa học kỹ thuật, thông tin liên lạc,
y học, quân sự, đời sống hàng ngày…
ĐỐI TƯƠNG NGHIÊN CỨU
Học sinh và sinh viên.
2
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................1
MỤC LỤC ..............................................................................................................2
Chương 1. LỊCH SỬ SÓNG ĐIỆN TỪ .................................................................4
1.1 Sự tiên đoán về sóng điện từ của Maxwell năm 1864 .................................4
1.1.1 Vài nét tiêu biểu:..................................................................................4
1.1.2 Sự tiên đoán về sóng điện từ của Maxwell ..........................................5
1.2 Heinrich Hertz xác nhận ý tưởng của Maxwell ...........................................6
1.2.1 Vài nét tiêu biểu...................................................................................7
1.2.2 Thí nghiệm của Hertz về sóng điện từ..................................................8
Chương 2. PHƯƠNG TRÌNH SÓNG ĐIỆN TỪ .................................................10
2.1 Khái niệm sóng điện từ.............................................................................10
2.2 Hệ phương trình Maxwell mô tả trường điện từ tự do...............................10
2.3 Phương trình sóng điện từ ........................................................................11
Chương 3. PHÂN LOẠI SÓNG ĐIỆN TỪ..........................................................13
Chương 4. ỨNG DỤNG SÓNG ĐIỆN TỪ..........................................................15
4.1 Radio waves: ............................................................................................15
4.1.1 Định nghĩa .........................................................................................15
4.1.2 Lịch sử...............................................................................................15
4.1.3 Ứng dụng...........................................................................................16
4.2 Micro waves.............................................................................................20
4.2.1 Định nghĩa .........................................................................................20
4.2.2 Tính chất............................................................................................20
4.2.3 Ứng dụng: Lò vi ba............................................................................21
4.3 T- rays ......................................................................................................22
4.3.1 Định nghĩa .........................................................................................22
4.3.2 Lịch sử...............................................................................................22
3
4.3.3 Ứng dụng...........................................................................................23
4.4 Infrared (Tia hồng ngoại) .........................................................................27
4.4.1 Định nghĩa .........................................................................................27
4.4.2 Lịch sử...............................................................................................27
4.4.3 Tính chất............................................................................................28
4.4.4 Ứng dụng...........................................................................................29
4.5 Visible light..............................................................................................35
4.5.1 Định nghĩa .........................................................................................35
4.5.2 Ứng dụng...........................................................................................36
4.6 Ultra Violet ( Tia tử ngoại) .......................................................................40
4.6.1 Định nghĩa .........................................................................................40
4.6.2 Lịch sử...............................................................................................40
4.6.3 Tính chất............................................................................................41
4.6.4 Ứng dụng...........................................................................................41
4.6.5 Tác hại...............................................................................................43
4.7 X rays.......................................................................................................44
4.7.1 Định nghĩa .........................................................................................44
4.7.2 Tính chất...........................................................................................45
4.7.3 Ứng dụng...........................................................................................45
4.7.4 Tác hại...............................................................................................48
4.8 Gamma rays .............................................................................................50
4.8.1 Định nghĩa .........................................................................................50
4.8.2 Ứng dụng...........................................................................................51
TÀI LIỆU THAM KHẢO .....................................................................................56
4
CHƯƠNG 1. LỊCH SỬ SÓNG ĐIỆN TỪ
1.1 Sự tiên đoán về sóng điện từ của Maxwell năm 1864
Hình 1.1. James Clerk Maxwell
1.1.1 Vài nét tiêu biểu:
James Clerk Maxwell, sinh ngày 13 tháng 6 năm 1831, tại Edinburgh,
Scotland), mất ngày 5 tháng 11 năm 1879. Ông là một nhà vật lý học người
Scotland. Ông đã đưa ra hệ phương trình miêu tả những định luật cơ bản về điện
trường và từ trường được biết đến với tên gọi hệ phương trình Maxwell. Đây là hệ
phương trình chứng minh rằng điện trường và từ trường là thành phần một trường
thống nhất: điện từ trường. Ông cũng đã chứng minh rằng trường điện từ có thể
truyền đi trong không gian dưới dạng sóng với tốc độ không đổi là 300000 Km/s và
đưa ra giả thuyết ánh sáng là sóng điện từ.
Có thể nói Maxwell là nhà vật lý học thế kỷ 19 có ảnh hưởng nhất tới nền vật
lý của thế kỉ 20, người đã đóng góp vào công cuộc xây dựng mô hình toán học mới
của nền khoa học hiện đại. Vào năm 1931, nhân kỉ niệm 100 năm ngày sinh của
Maxwell, Albert Einstein đã ví công trình của Maxwell là “ sâu sắc nhất và hiệu quả
nhất mà vật lý học có được từ thời của Issac Newton”.
5
1.1.2 Sự tiên đoán về sóng điện từ của Maxwell
Hệ phương trình Maxwell bao gồm bốn phương trình, đề ra bởi James Clerk
Maxwell, dùng để mô tả trường điện từ cũng như tương tác của chúng đối với vật
chất. Bốn phương trình Maxwell mô tả lần lượt:
Điện tích tạo ra điện trường như thế nào? ( Định luật Gass)
Sự không tồn tại vật chất của từ tích.
Dòng điện tạo ra từ trường như thế nào? ( Định luật Ampere)
Từ trường tạo ra điện trường như thế nào? ( Định luật cảm ứng Faraday)
Các công thức của Maxwell vào năm 1865 bao gồm 20 phương trình với 20
ẩn số, nhiều phương trình được coi là nguồn gốc của phương trình Maxwell ngày
nay. Các phương trình của Maxwell đã tổng quát hóa các định luật thực nghiệm
được những người đi trước phát hiện ra:
Chỉnh sửa định luật Ampere: 3 phương trình cho 3 chiều (x, y, z).
Định luật Gauss cho điện tích: 1 phương trình.
Mối quan hệ giữa dòng điện tổng và dòng điện dịch: 3 phương trình cho 3
chiều (x, y, z).
Mối quan hệ giữa từ trường và thế năng vectơ: 3 phương trình cho 3 chiều (x,
y, z), chỉ ra sự không tồn tại của từ tích.
Mối quan hệ giữa điện trường và thế năng vô hướng cũng như thế năng vectơ:
3 phương trình cho 3 chiều (x, y, z), định luật Faraday.
Mối quan hệ giữa điện trường và trường dịch chuyển: 3 phương trình cho 3
chiều (x, y, z).
Định luật Ohm về mật độ dòng điện và điện trường: 3 phương trình cho 3 chiều
(x, y, z).
Phương trình cho tính liên tục: 1 phương trình.
6
Các phương trình nguyên bản của Maxwell được viết lại bởi Oliver
Heaviside và Willard Gibbs vào năm 1884 dưới dạng các phương trình vectơ. Sự
thay đổi này diễn tả được tính đối xứng của các trường trong cách biểu diễn toán
học. Những công thức có tính đối xứng này là nguồn gốc hai bước nhảy lớn trong
vật lý hiện đại đó là Thuyết tương đối hẹp và Vật lý lượng tử.
Maxwell đã mở rộng các công trình của Michael Faraday và nhận thấy rằng
chính mối liên hệ khăng khít giữa điện và từ đã làm cho loại sóng điện từ trường
nên có thể tồn tại.
Thật vậy, hệ phương trình Maxwell cho phép đoán trước được sự tồn tại của
sóng điện từ , có nghĩa là khi có sự thay đổi của một trong các yếu tố như cường độ
dòng điện, mật độ điện tích…sẽ sinh ra sóng điện từ truyền đi được trong không
gian.
1.2 Heinrich Hertz xác nhận ý tưởng của Maxwell
Năm 1888, Heinrich Hertz đã làm thí nghiệm phát sóng điện từ xác nhận ý
tưởng của Maxwell.
Hình 1.2. Heinrich Hertz
7
1.2.1 Vài nét tiêu biểu
Heinrich Rudolph Hertz, nhà vật lý học người Đức, người có công tìm ra
sóng điện từ và hiệu ứng quang điện, sinh tại Hamburg ngày 22-2-1857. Đầu tiên,
ông học tại trường Đại học Tổng hợp Berlin, là học trò xuất sắc của nhà bác học
Helmholtz. Hertz nghiên cứu về tĩnh điện học và điện từ, góp phần to lớn vào việc
chế tạo ra máy vô tuyến điện.
Năm 1887, ông công bố về những bài báo về những dao động điện rất nhanh.
Hertz chế tạo một máy phát dao động điện cao tần, gọi là "bộ rung Hertz" và một
"bộ cộng hưởng" để phát hiện những dao động điện đó. Với thiết bị như trên, ông
xác lập được quá trình cảm ứng và tương tác của các mạch điện.
Năm 1888, ông đã thu được sóng điện từ đầu tiên như thuyết Maxwell tiên
đoán và đã chứng minh rằng sóng điện từ đồng nhất với sóng ánh sáng, rằng sự di
chuyển của ánh sáng và điện cùng nhanh như nhau và các tia Cathode có thể xuyên
qua những tấm ván hay những tấm nhôm mỏng.
Năm 1889, Hertz trở thành giáo sư tại trường Đại học Bonn. Năm 1891, ông
đã tổng kết những công trình của mình, khẳng định những lý thuyết của Maxwell.
Ông cũng đã khám phá ra nhiều tính chất của ánh sáng tử ngoại, nghiên cứu điện
động lực các môi trường chuyển động, chế tạo ra các dao động tử hở. Kết quả của
các công trình nghiên cứu của Hertz đều được ghi chép và tập hợp lại trong 3 tập kỷ
yếu sau: Tạp tuyển, Nghiên cứu về sự lan truyền của các lực điện và Nguyên lý cơ
học.
Ông mất ở Bonn ngày 1-1-1894, mới có 37 tuổi. Để ghi nhớ công lao của
Hertz, người ta đã dùng tên ông để đặt cho đơn vị tần số.
8
1.2.2 Thí nghiệm của Hertz về sóng điện từ
Hình 1.3. Thí nghiệm hertz về sóng điện từ
Nối một nguồn xoay chiều cao tần vào hai đầu của hai ống dây tự cảm L và
L’, hai đầu còn lại của L và L’ nối với hai thanh kim loại có hai quả cầu kim loại
A,B khá gần nhau. Khi điều chỉnh hiệu điện thế và khoảng cách giữa A , B sao cho
có hiện tượng phóng điện giữa A, B thì tại mọi điểm trong không gian lân cận A và
B đều có một cặp vectơ cường độ điện trường và cường độ từ trường biến thiên theo
thời gian.
Sự tạo thành sóng điện từ:
Hình 1.4. Sóng điện từ tự do
Kết quả thí nghiệm của Hertz được giải thích bằng hai luận điểm của
Maxwell. Khi có sự phóng điện, điện trường giữa A và B giảm, biến đổi theo thời
gian, theo luận điểm thứ hai của Maxwell, điện trường biến đổi ở 0 sẽ sinh ra một từ
trường nghĩa là tại các điểm M, M1,M2,… xuất hiện các vectơ cường độ từ trường ,
…cũng biến đổi theo thời gian.
9
Theo luận điểm thứ nhất của Maxwell, từ trường biến đổi theo thời gian lại
sinh ra điện trường xoáy, do đó tại các điểm M, M1,M2 …lại xuất hiện các vectơ
cường độ điện trường.
Như vậy, trong quá trình phóng điện giữa A và B cặp vectơ và luôn chuyển
hoá cho nhau và được truyền đi từ điểm này tới điểm khác trong không gian, quá
trình truyền đó tạo thành sóng điện từ.
Sóng điện từ là trường điện từ biến đổi truyền đi trong không gian.
10
CHƯƠNG 2. PHƯƠNG TRÌNH SÓNG ĐIỆN TỪ
2.1 Khái niệm sóng điện từ
Trường điện từ tồn tại khi không có điện tích được gọi là sóng điện từ.
2.2 Hệ phương trình Maxwell mô tả trường điện từ tự do
Để thấy được thực chất của trường điện từ, ta phải khảo sát đầy đủ hai tương
quan:
Từ trường biến thiên tạo ra điện trường xoáy (hiện tượng cảm ứng điện từ).
Điện trường biến thiên tạo ra từ trường xoáy (hiện tượng dòng điện dịch).
Điện trường lan truyền trong không gian theo thời gian tạo thành sóng điện từ.
Hệ phương trình Maxwell:
rot
E =-
B
t
rot
B =o
j+o
∂
E
∂t
div
E =
o
div
B =0
(2.1)
Qua hệ phương trình Maxwell, ta thấy sự có mặt của trường điện từ bao giờ
cũng phải gắn với điện tích, dòng điện. Mặt khác, qua hệ phương trình Maxwell, dù
= 0,
j = 0 thì vẫn có thể có
E≠0,
B ≠ 0. Khi đó, hệ phương trình Maxwell mô tả
điện từ ở nơi không có mặt điện tích, đó là trường điện từ tự do, tồn tại dạng sóng,
nên gọi là sóng điện tự do. Hệ phương trình Maxwell lúc đó trở thành:
11
rot
E =-
∂
B
∂t
rot
B =oo
∂
E
∂t
div
E =0
div
B =0
(2.2)
2.3 Phương trình sóng điện từ
Xem môi trường là đồng nhất, ta có:
rot
E =-
∂
B
∂t
rot rot
E = - ∂∂t rot
B
grad div
E -
E = -oo
∂
∂t
∂
E
∂t
Vì div
E = 0 nên ta lập được phương trình cho vectơ cường độ điện trường:
E - oo
∂2
E
∂t2
= 0 (2.3)
Tương tự, ta có:
12
rot
B = oo
∂
E
∂t
rot rot
B = oo
∂
∂t rot
E
grad div
B -
B = -oo
∂
∂t
∂
B
∂t
Vì div
B = 0 nên ta lập được phương trình vectơ cảm ứng từ:
B - oo
∂2
B
∂t2 = 0 (2.4)
(1) và (2) có dạng giống nhau, được gọi là phương trình sóng không có vế phải, hay
là phương trình d’Alembert. Gọi là trường vô hướng đại diện cho một trong các
thành phần của điện trường hoặc từ trường, thì thỏa phương trình sóng vô hướng:
- oo
∂2
∂t2 = 0 (2.5)
13
CHƯƠNG 3. PHÂN LOẠI SÓNG ĐIỆN TỪ
Hình 3.1. Phân loại sóng điện từ theo tần số và bước sóng
Tần số Bước sóng Ký hiệu Thông tin
0 300 000 km Hạ âm
10Hz 30 000km
30kHz 10km
V.L.F.
Âm nhạc - Âm nghe được
300 kHz 1km L.F. Siêu âm - Radio - Sóng dài
3000 kHz 100 m M.F. Radio - Sóng trung
30 MHz 10 m H.F. Radio - Sóng ngắn
300 MHz 1 m V.H.F Radio - Sóng cực ngắn - TV Radar
3000MHz 1 dm U.H.F. Lò vi ba
30 GHz 1 cm S.H.F Vô tuyến viễn thông
14
Tần số Bước sóng Ký hiệu Thông tin
300 GHz 1 mm E.H.F qua vệ tinh
3000 GHz 0,1 mm Ánh sáng Tia hồng ngoại
30 THz 0,01mm
300 THz 1µm
0,8 µm0,4 Ánh sáng thấy được
3000 THz 0,1µm
3.1016 Hz 0,01µm
3.1017 Hz 0,001µm
Mềm Tia cực tím
3.1018 Hz 1 A0 Tia X quang
3.1019 Hz 0,1 A0
3.1020 Hz 0,01 A0
3.1021 Hz 0,01 A0 Tia gamma
3.1022 Hz 10-1 A0
3.1023 Hz 10-5 A0
3.1024 Hz 10-6 A0
Tia cứng
Tia vũ trụ
Bảng 3.1. Phân loại sóng điện từ theo bước sóng và tần số.
15
CHƯƠNG 4. ỨNG DỤNG SÓNG ĐIỆN TỪ
4.1 Radio waves:
4.1.1 Định nghĩa
Sóng radio có tần số trong khoảng từ 30 KHz (dải tần LF) đến 300MHz (dải
tần VHF), bước sóng từ 1m đến 103 m. Sóng radio bao gồm: sóng dài (LF), sóng
trung (MF), sóng ngắn (HF), sóng cực ngắn (VHF).
4.1.2 Lịch sử
Năm 1878, David E. Hughes là người đầu tiên truyền và nhận sóng radio khi
ông nhận thấy cân cảm ứng tạo ra âm thanh trong đầu thu của diện thoại tự chế của
ông. Ông trình bày khám phá của mình trước Hội Khoa học Hoàng gia năm 1880
nhưng chỉ được xem là sự cảm ứng đơn thuần. Chính Heinrich Rudolf Hertz, giữa
năm 1886 và 1888, là người đưa ra thuyết Maxwell thông qua thực nghiệm, chứng
minh rằng bức xạ radio có tất cả tính chất của sóng và khám phá rằng công thức
điện từ có thể định nghĩa lại là công thức chênh lệch bán phần gọi là công thức
sóng.
William Henry Ward đưa ra bằng sáng chế Mỹ 126356 vào ngày 30 tháng 8
năm 1872. Mahlon Loomis đưa ra bằng sáng chế Mỹ 129971 vào ngày 30 tháng 7
năm 1872. Landell de Moura, một nhà truyền giáo và khoa học Brasil, tiến hành thí
nghiệm sau năm 1893 (nhưng trước 1894). Ông đã không công bố thành tựu mãi
cho đến khi 1900. Tuyên bố cho rằng Nathan Stubblefield phát minh ra radio trước
cả Tesla lẫn Marconi, nhưng các dụng cụ của ông cho thấy chỉ làm việc với sự
truyền cảm ứng hơn là truyền sóng radio.
16
4.1.3 Ứng dụng
4.1.3.1 Ứng dụng quan trọng nhất của sóng radio là dùng trong truyền thông
tin, tín hiệu
Sóng dài (30KHz-300KHz): Mặt đất và các vật cản hấp thụ mạnh sóng dài.
Sóng dài phản xạ tốt các tầng điện li, có thể phản xạ nhiều lần nên bị tầng điện li
hấp thụ mạnh nên công suất truyền phải lớn. Sóng dài không bị hiện tượng fading
(gây bởi hiện tượng giao thoa), điều kiện truyền ổn định nên thường được dùng liên
lạc trong các thành phố.
Sóng trung (300KHz-3000KHz): Sóng trung bị hiện tượng fading mạnh,
thường dùng liên lạc trong thành phố lớn.
Sóng ngắn (3000KHz-30MHz): bị mặt đất và các vật cản hấp thụ mạnh do có
tần số cao. Ưu điểm của sóng ngắn là có thể liên lạc đi rất xa.
Sóng cực ngắn: Các sóng này không bị phản xạ ở tầng điện li mà đi xuyên qua
nó để vào không gian vũ trụ Thường dùng trong phát truyền hình và phát thanh FM,
liên lạc ra vũ trụ.
4.1.3.2 Wifi
Sóng Wi-Fi là sóng radio cường độ thấp có bước sóng tương tự như bước
sóng radio sử dụng trong các lò vi sóng. Nhưng cường độ sóng Wi-Fi thấp hơn
100.000 so với cường độ sóng trong lò vi sóng.
Sóng radio sản sinh ra từ các thiết bị phát sóng Wi-Fi, ánh sáng trắng, lò vi
sóng hoặc điện thoại di động có thể khiến nhiệt độ bề mặt của vật thể tăng lên
nhưng chúng không thể gây ra bất kỳ tác động xấu nào.
4.1.3.3 Sử dụng sóng radio để tiêu diệt sâu bọ trong hạt sấy khô
Một nhóm nhà khoa học Mỹ đã thử nghiệm cho sóng radio làm cho các phân
tử rung và nóng lên để diệt mối mọt và sâu bọ trong hoa quả và hạt sấy khô. Nhóm
nghiên cứu đã ngâm một số mẻ quả óc chó, hồ trăn và những hạt khác vào một dung
dịch hơi mặn. Sau đó đưa chúng vào chiếc máy sử dụng tần số radio. Thiết bị sẽ tiêu
diệt sâu bọ mà không làm hạt bị nóng quá. Các nhà khoa học hi vọng phương pháp
17
này sẽ ít gây hại hơn là phương pháp dùng các chất hóa học. Tuy nhiên phương
pháp này chi phí tốn kém hơn.
4.1.3.4 Dùng sóng radio để trị hen
Các nhà khoa học Mỹ đã chế tạo được thiết bị sử dụng sóng radio giúp bệnh
nhân bị hen dễ thở hơn. Sóng radio phát ra từ thiết bị này sẽ đi vào phổi, đốt nóng
và làm mềm các khối cơ, từ đó tạo ra các đường dẫn không khí lưu thông.
Thử nghiệm trên 112 bệnh nhân hen từ mức vừa phải tới nặng, một nửa được
điều trị bằng thiết bị này và nửa còn lại sử dụng thuốc. Sau một năm, các nhà khoa
học nhận thấy khả năng thở của bệnh nhân dùng thiết bị sóng radio tốt hơn hẳn, 39
lít khí thở/phút so với 8,5 lít khí thở/phút của các bệnh nhân dùng thuốc. Ngoài ra,
nhóm được điều trị bằng máy có 40 ngày không bị các triệu chứng hen, so với 17
ngày ở nhóm điều trị bằng thuốc. Đây là phương pháp điều trị đầu tiên không dùng
thuốc cho các bệnh nhân hen.
4.1.3.5 Điều trị amiđan bằng sóng radio
Gần đây, Bệnh viện Tai Mũi Họng Sài Gòn đã sử dụng sóng radio cao tần
điều trị cắt amiđan bằng máy Coblator. Với sóng radio cao tần và đầu dò đa chức
năng, thiết bị này giúp thực hiện nhanh thủ thuật và hạn chế tối đa thương tổn cũng
như nguy cơ biến chứng cho người bệnh. Trong thiết bị trên, đầu dò sẽ vừa giúp cắt
amiđan bằng nhiệt vừa tưới nước và hút dịch cùng với mảnh vụn, đồng thời đốt các
điểm chảy máu. Sóng radio cao tần phát ra nhiệt độ tại chỗ thấp nên không gây
bỏng cho các tổ chức xung quanh. Sóng radio cao tần giúp cầm máu trong phẫu
thuật rất tốt vì dòng điện radio cao tần làm tắc các mạch máu. Vì vậy, phương pháp
mới cũng ít gây đau và chảy máu, tránh phù nề, vết thương sau mổ amiđan lành
nhanh, bệnh nhân có thể về nhà trong ngày và sinh hoạt bình thường, có thể nói
chuyện, ăn uống được ngay.
4.1.3.6 Phá ung thư gan bằng sóng radio
Do nhiều nguyên nhân, phần lớn bệnh nhân ung thư gan không thể phẫu
thuật. Khi đó, việc dùng tần số radio tạo nhiệt để phá hủy u là cách điều trị tối ưu.
18
Phá u gan bằng sóng radio (gọi tắt là RFA) là một trong những phương pháp điều trị
ung thư gan đầy triển vọng và ngày càng được ứng dụng rộng rãi trên thế giới. Dưới
hướng dẫn của siêu âm hoặc CT-scan, MRI (chụp cộng hưởng từ), các bác sĩ đưa
một kim (đóng vai trò điện cực) vào khối u, xuyên vào u khoảng 5 mm). Dòng sóng
radio được truyền vào đầu kim và sinh nhiệt để phá hủy u. Thời gian thực hiện
khoảng 20-30 phút.
4.1.3.7 Sóng radio điều trị rối loạn nhịp tim
Phương pháp truyền dẫn sóng radio từ hệ thống máy điện sinh lý vào tận cơ
tim, không chỉ giúp điều trị rối loạn nhịp tim thành công (khoảng 98%) mà còn giúp
bệnh nhân không phải dùng thuốc, không phải lo lắng về bệnh tật…
Phương pháp này được thực hiện nhờ các thiết bị vô cùng tinh vi (hệ thống
máy chụp DSA 1 bình diện, hệ thống thiết bị điện thăm dò sinh lý tim, máy tạo
năng lượng radio, catheter (dây thông) điện cực chẩn đoán 5Fr, 6fr và catheter điện
cực Rf tip 4mm, 7Fr). Khi thực hiện, bác sĩ sẽ đưa một số điện cực qua đường mạch
máu (tĩnh mạch hoặc động mạch đùi) vào vị trí tổn thương trong buồng tim. Từ đó,
dựa trên các tín hiệu hoạt động điện thu được để lập bản đồ hoạt động điện của các
buồng tim. Sau đó, bác sĩ sẽ sử dụng một số biện pháp thăm dò đặc biệt xác định vị
trí ổ ngoại vi cũng như cơ chế gây rối loạn nhịp thất. Cuối cùng là sử dụng năng
lượng sóng radio ở nhiệt độ 65oC để triệt bỏ các ổ gây rối loạn nhịp tim và các
đường dẫn truyền bất thường trong cơ tim. Thủ thuật được đánh giá thành công khi
kiểm tra lại bằng thăm dò điện sinh lý không còn rối loạn nhịp thất.
4.1.3.8 Chữa viêm gân bằng sóng radio
Việc điều trị khá đơn giản. Bệnh nhân được chụp cộng hưởng từ hoặc siêu
âm xác định vị trí tổn thương rồi gây tê tại chỗ. Bác sĩ rạch một đường khoảng 2-3
cm trên đường gân bị tổn thương rồi đưa các dụng cụ vào. Một luồng radio cao tần
sẽ cắt các sợi dính vi thể trong gân, thủ phạm gây đau và viêm gân. Sóng radio
cũng làm tăng sinh hệ thống mạch máu đến gân, giúp gân dần bình phục.
19
Ưu điểm của phương pháp này là người bệnh không bị đau, ít biến chứng, có
thể xuất viện ngay trong ngày.
4.1.3.9 Điều trị chứng viễn thị bằng sóng radio
Một kỹ thuật mới mang tên CK (conductive keratoplasty) vừa được Cơ quan
Quản lý Thuốc và Thực phẩm Mỹ chấp thuận. Trong phương pháp này, người ta sử
dụng năng lượng dạng sóng radio để làm teo một số vùng nhỏ của giác mạc. Vì
không phải rạch hoặc cắt bỏ mô, CK ít gây tổn thương hơn so với các kỹ thuật laser
hiện hành.
Theo bác sĩ Peter Hersh, chuyên gia mắt tại Đại học Hackensack University
(Mỹ), kỹ thuật CK có thể sẽ được những người có tuổi ưa chuộng vì tính thuận
tiện, đơn giản và ít gây tổn thương. Phương pháp này sẽ rất hữu ích cho những
người già không thể áp dụng LASIK, như bị chứng khô mắt hoặc có lớp biểu mô bị
kích thích. CK cũng có thể an toàn hơn với bệnh nhân bị bệnh tăng nhãn áp
(glaucoma), vì nó không đòi hỏi việc tăng tạm thời áp lực trong mắt, xuất hiện khi
thực hiện kỹ thuật LASIK.
4.1.3.10 Điều trị đau lưng bằng sóng radio
Sau khi chẩn đoán đúng vùng đĩa đệm gây đau, đầu tiên các bác sĩ sẽ dùng
kim đưa vào trong đĩa đệm. Tiếp theo, một luồng sóng radio cao tần có nhiệt độ
65oC sẽ được truyền vào đĩa đệm với mục đích hủy đầu thần kinh nhận cảm xúc,
giúp bệnh nhân không còn cảm thấy đau.
Sóng radio cao tần còn có thể khống chế tốt các bệnh lý mạn tính của vùng
thắt lưng, cổ, đau thần kinh tọa, thần kinh ngoại biên... Tuy nhiên, phương pháp
chữa này chỉ áp dụng trong những trường hợp thoát vị mới, chèn ép ít, không có các
bệnh lý cột sống kèm theo.
4.1.3.11 Radar
Radar phát hiện vật ở một khoảng cách bằng sự phản hồi các sóng radio.
Khoảng thời gian của sự phản hồi để xác định khoảng cách. Phương hướng của tia
20
xác định hướng của sự phản hồi. Sự phân cực và tần số của sóng phản hồi có thể
cho biết bề mặt của vật.
Radar định vị quét một vùng không gian rộng từ 2 đến 4 lần trong 1 phút.
Dùng sóng ngắn phản hồi từ đất hay đá. Radar sử dụng phổ biến trên tàu thương
mại hay máy bay thương mại đường dài.
Radar dùng cho mục đích thông thường dùng tần số radar định vị, nhưng
không phải các tia điều biến và phân cực để các máy thu để xác định bề mặt của vật
phản hồi. Radar thông thường tốt nhất có thể định dạng mưa trong cơn bão, cũng
như mặt đất hay các phương tiện di chuyển. Một số có thể để lên cùng dữ liệu âm
thanh và dữ liệu bản đồ từ định vị GPS.
Radar tìm kiếm quét một vùng rộng lớn với xung tia radio ngắn. Chúng thường
quét một vùng không gian từ 2 đến 4 lần 1 phút. Thỉnh thoảng radar dùng hiệu ứng
Doppler để tách phương tiện vận chuyển với môi trường.
Radar dò tìm mục tiêu sử dụng cùng nguyên lý như radar tìm kiếm nhưng quét
vùng không gian nhỏ hơn nhiều, thường là vài lần 1 giây hay hơn nữa.
Radar thời tiết tương tự radar dò tìm, nhưng sử dụng tia radio với sự phân cực
tròn và có bước sóng phản hồi từ các giọt nước. Vài radar sử dụng Doppler để đo
tốc độ gió.
4.2 Micro waves
4.2.1 Định nghĩa
Sóng viba là có tần số từ 300MHz đến 3000MHz , có bước sóng từ 10-1 m
đến 1m (UHF)
4.2.2 Tính chất
Microwaves thực chất là một dạng năng lượng điện từ. Nó giống như sóng
ánh sáng hay sóng radio và nó cũng chiếm một phần phổ điện từ. Microwaves
thường được sử dụng để tiếp âm các tín hiệu điện thoại có khoảng cách truyền xa,
các chương trình truyền hình hay các thông tin máy tính được truyền từ trái đất tới
21
một trạm vệ tinh trong vũ trụ. Ngoài ra, chúng ta cũng có thể dùng microwaves để
nhận biết được tốc độ của xe ôtô và các phương tiện giao thông. Và gần gũi hơn,
microwaves còn có thể được sử dụng như là một nguồn năng lượng trong các thiết
bị nấu ăn hàng ngày. Microwaves thực sự đã thâm nhập vào đời sống con người.
Theo nguyên lý hoạt động của sóng viba, tất cả năng lượng sóng thay đổi từ cực
dương sang cực âm trong mỗi chu kỳ sóng. Tốc độ của sự thay đổi khá lớn, hàng
triệu lần/giây. Các phân tử thức ăn, đặc biệt là các phân tử nước, có một cực dương
và một cực âm giống như một thanh nam châm có một cực bắc và một cực nam.
Khi các sóng viba bắn phá thức ăn, chúng tại ra các phân tử có cực quay cùng tần số
với tần số của sóng viba, hàng triệu lần/ giây. Chính sự rung động các phần tử này
đã tạo nên ma sát làm nóng thức ăn. Do sóng viba không tương tác với các phân tử
thuỷ tinh, nhựa hay giấy nên chỉ có thức ăn được đốt nóng.
4.2.3 Ứng dụng: Lò vi ba
Hình 4.1. Lò vi ba
Lò vi sóng thường có các bộ phận sau: Magnetron (nguồn phát sóng), mạch
điện tử điều khiển, ống dẫn sóng, ngăn nấu.
Sóng vi ba được sinh ra từ nguồn magnetron, được dẫn theo ống dẫn sóng,
vào ngăn nấu rồi phản xạ qua lại giữa các bức tường của ngăn nấu, và bị hấp thụ bởi
thức ăn. Sóng vi ba trong lò vi sóng là các dao động của trường điện từ với tần số
thường ở 2450 MHz (bước sóng cỡ 1,224 dm). Các phân tử thức ăn (nước, chất béo,
đường và các chất hữu cơ khác) thường ở dạng lưỡng cực điện Những lưỡng cực
điện này có xu hướng quay sao cho nằm song song với chiều điện trường ngoài. Khi
22
điện trường dao động, các phân tử bị quay nhanh qua lại. Dao động quay được
chuyển hóa thành chuyển động nhiệt hỗn loạn qua va chạm phân tử, làm nóng thức
ăn.
Ngăn nấu là một lồng Faraday gồm kim loại hay lưới kim loại bao quanh,
đảm bảo cho sóng không lọt ra ngoài. Lưới kim loại thường được quan sát ở cửa lò
vi sóng. Các lỗ trên lưới này có kích thước nhỏ hơn nhiều bước sóng (12 cm), nên
sóng vi ba không lọt ra, nhưng ánh sáng (ở bước sóng ngắn hơn nhiều) vẫn lọt qua
được, giúp quan sát thức ăn bên trong.
Đối với kim loại hay các chất dẫn điện, điện tử hay các hạt mang điện nằm
trong các vật này đặc biệt linh động, và dễ dàng dao động nhanh theo biến đổi điện
từ trường. Chúng có thể tạo ra ảnh điện của nguồn phát sóng, tạo nên điện trường
mạnh giữa vật dẫn điện và nguồn điện, có thể gây ra tia lửa điện phóng giữa ảnh
điện và nguồn, kèm theo nguy cơ cháy nổ.
4.3 T- rays
Tia T là một trong 10 dự báo công nghệ năm 2009 do Tạp chí Popular
Mechanics đưa ra thuộc nhiều lĩnh vực, từ picotech tới lưu trữ năng lượng khí nén.
4.3.1 Định nghĩa
Người ta nói nhiều đến tia X giúp phát hiện xương gãy, hay sóng cực ngắn
làm nóng cơ thể, mà ít biết tia T - một thành phần cũng thuộc phổ điện từ - có thể
nhìn xuyên qua quần áo, xác định thuốc nổ và ma tuý, nhận diện khối u, thậm chí là
khám phá vũ trụ. T-rays (tia T) là một loại tia bức xạ có tần số terahertz được biết
đến như là bức xạ viễn- hồng ngoại, bức xạ terahertz, sóng terahertz, ánh sáng
terahertz, T-light, T-lux và THz nằm trong vùng phạm vi điện từ 300 gigahertz
(3x10¹¹ Hz) và 3 terahertz (3x10¹² Hz), nằm trong dải sóng 1 millimeter và 100
micrometer. Bức xạ terahertz là loại bức xạ phổ biến nhất trong vũ trụ.
4.3.2 Lịch sử
Nếu bạn chưa từng nghe nói về tia T, thì đó là bởi các nhà khoa học đã gặp
khó khăn trong việc khai thác chúng và đây được nhìn nhận là một lĩnh vực khó
23
khăn của Vật Lý. Mặc dù bài báo khoa học đầu tiên về vấn đề này được ấn bản từ
năm 1890, nhưng đến tận bây giờ, người ta vẫn phải đối mặt với những thách thức
trong việc nghiên cứu và phát triển những công nghệ giúp tạo ra, phát hiện và điều
khiển tia T. Tia T được phát hiện cách đây một thế kỷ, nhưng mới được phát triển
thành một kỹ thuật có thể sử dụng được trong vài năm gần đây. Các nhà khoa học từ
Úc, Mỹ, Âu châu và Á châu đã chia sẻ những tiến bộ mới trong kỹ thuật này tại hội
nghị, được Tổ chức Kỹ thuật và Khoa học Phòng vệ (DSTO) của chính quyền Úc
tài trợ, tại Đại học Adelaide. Một trong những thuyết trình viên chính sẽ là cha đẻ
của tia T, giáo sư Xi-Cheng Zhang thuộc Viện Kỹ thuật Rensselaer ở New York,
người đã bỏ ra hơn 20 năm để phát triển tia này. Tia T ban đầu được giới nghiên
cứu thiên văn học khám phá và sử dụng để quan sát các vì sao và thiên hà và phải
đến năm 1995 thì tia T mới được tạo ra trong phòng thí nghiệm. Với nhiều nguồn và
các máy dò bức xạ terahertz hiệu quả hơn, các nhà nghiên cứu từ thập kỷ trước đã
bắt đầu phát triển những bộ lọc và các máy tạo tia để điều khiển tia T. "Ở thời điểm
này công nghệ nói trên còn rất non trẻ. Terahertz hiện mới chỉ như tia X vào năm
1905", kỹ sư điện Daniel Mittleman, từ phòng thí nghiệm tia T ở Đại học Rice nhận
xét.
4.3.3 Ứng dụng
4.3.3.1 Công nghệ nhìn xuyên vật thể
Các nhà khoa học thuộc Phòng thí nghiệm quốc gia Sandia (Mỹ) nghiên cứu
phát triển một công nghệ mới cho phép nhìn xuyên vật thể để có thể phát hiện ra các
chất nguy hiểm trong các bưu kiện hoặc được che giấu bên dưới lớp vải bọc.
Trưởng nhóm nghiên cứu M.Wanke cho biết công nghệ này có thể dùng để phát
hiện chất nổ, súng đạn hoặc là một chất độc hại nào đó bất kể là chúng được ngụy
trang như thế nào. Ngoài ra, nhiều loại vật liệu thông dụng, như quần áo, chất dẻo,
bao bì và gỗ trở nên trong suốt dưới ảnh chụp terahertz. Công nghệ này chủ yếu dựa
vào việc phân tích bức xạ terahertz. Bằng việc phân tích các tần số phát xạ của vật
thể, người ta có thể tìm ra tính chất vật lý và hóa học của đối tượng đang xem xét.
Các vật liệu sẽ hấp thụ bức xạ này ở những tần số khác nhau, tuỳ vào mỗi loại. Dựa
24
trên tần số hấp thụ - đặc điểm duy nhất giống như "dấu vân tay" - các nhà nghiên
cứu có thể xác định được những loại chất nổ và ma tuý nào đó. Chẳng hạn, một
chiếc phong bì chứa chất bột màu trắng trông bí ẩn và có vẻ nguy hiểm với mắt
thường. Nhưng với sự giúp đỡ của ảnh chụp tia T, nhân viên bưu điện có thể xác
định ngay thứ bột này có chứa aspirin hay methamphetamine (một chất gây nghiện)
hay không. Các khối thuốc nổ cũng sẽ dễ dàng được xác định dù đã giấu kỹ trong
túi xách.
Ngay đến cả các tác nhân sinh học cũng đều không thoát khỏi tầm kiểm soát
của tia T. Giáo sư Zhang và các cộng sự của Viện Rensselaer đã chứng minh được
là tia T có khả năng xác định sự có mặt của vi khuẩn gây bệnh than, một tác nhân
sinh học từng gây kinh hoàng cho nước Mỹ sau vụ khủng bố 11/9. Những ứng dụng
hết sức thực tiễn này đã khiến Cơ quan phụ trách các Chương trình nghiên cứu tiên
tiến về quốc phòng Mỹ (DARPA) quyết định tài trợ 18 triệu USD để phát triển các
ứng dụng của tia T trong lĩnh vực an ninh và chống khủng bố.
Tia T còn phát hiện các loại vũ khí được che dấu tinh vi, kể cả vũ khí bằng
vật liệu phi kim loại. Hiện tại, TeraView, công ty đầu tiên khai thác thị trường thiết
bị tia T, đã chế tạo được loại máy quét xách tay kí hiệu TPI có khả năng phát hiện
tất cả các loại dụng cụ, mà từ trước đến nay không thể quan sát được bằng các loại
máy quét hiện có. Thiết bị TPI cũng phát hiện được cả những đồ vật phi kim loại
vùi dưới một lớp đất hoặc cát có độ sâu không lớn. Ứng dụng này mở ra hướng mới
trong việc chế tạo máy dò mìn đa năng, xác định được cả các loại mìn có vỏ bằng
vật liệu nhựa vốn không thể dò được bằng máy.
Mặt khác, với tính năng đâm xuyên qua cả các lớp bê tông rất dày, tia T cũng
cho phép “quay phim” thường xuyên hoạt động của các nhóm khủng bố đang cầm
giữ con tin trong các khu nhà biệt lập, điều mà chưa có một công nghệ nào từ trước
đến nay thực hiện được.
Vấn đề là cần phải có một thiết bị để “đọc” hình ảnh sau khi cho tia T xuyên
qua. “Để thu được thông tin về một loại vật liệu sau khi chiếu tia T qua, chúng tôi
sử dụng các thiết bị thu đặc biệt, có cấu tạo tương tự như thiết bị phát bức xạ”- Ông
25
Patrick Mounaix, Giám đốc phụ trách nghiên cứu tại Trung tâm Vật lý Phân tử
Quang học thuộc Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia Pháp (CNRS), giải
thích. Sau khi đối chiếu tính chất của bức xạ ban đầu với bức xạ thu được về sau,
các chuyên gia sẽ xác định được cấu tạo của vật liệu phân tích. Chẳng hạn, sau khi
quét một vật liệu bằng một chùm tia T và vật liệu này hấp thụ một bức xạ có tần số
nào đó, trên quang phổ thu được sẽ xuất hiện một “lỗ hổng”. Đối chiếu với dữ liệu
lưu trữ (gọi là dấu hiệu hoá học nhận biết), người ta sẽ suy ra bản chất của loại vật
liệu đó. Nguyên tắc này hoàn toàn khác với việc sử dụng tia X, do hình ảnh chụp
bằng X quang hiện rõ trên phim âm bản. Tuy nhiên, với thiết bị thu đặc biệt, người
ta cũng tái hiện được hình dạng của các vật thể có chứa nước, chẳng hạn như cơ thể
con người.
Tia T có khả năng trở thành một lọai vũ khí mới rất mạnh trong cuộc chiến
chống tội ác và cũng có thể chiếu xuyên qua thời tiết xấu, bụi bặm hoặc khói tốt hơn
tia hồng ngọai hoặc các hệ thống dò tìm khác.
4.3.3.2 Trong y học
Tia T có năng lượng thấp, cho nên có thể được dùng an tòan đối với người,
không giống như tia X. Các nhà khoa học tin rằng do khả năng thâm nhập nông cạn
vào cơ thể con người, tia T sẽ có thể đựơc dùng để scan lớp biểu bì hoặc, nhờ ống
thông, scan ruột và các cơ phận khác để dò tìm những dấu hiệu của ung thư. Giáo
sư Đại học Adelaide Derek Abbott nói:”Một trong những khám phá quan trọng gần
đây là tia T cũng có khả năng dò tìm ung thư. Úc đang tham gia cuộc chạy đua khoa
học to lớn trong việc nghiên cứu vấn đề này”. Vì vậy, tia T đang được sử dụng tại
một số bệnh viện như là một công cụ chẩn đoán mới nhằm tìm kiếm những khối u.
Các nhà khoa học tại Đại học Liverpool, Anh, hy vọng có thể tiêu diệt những tế bào
ung thư da bằng việc chiếu bức xạ terahertz.
Các công ty dược cũng sử dụng những giải pháp công nghệ cao, điều chỉnh
hàm lượng thuốc mà không cần đặt tay vào đó. Kỹ thuật chụp ảnh Terahertz thậm
chí còn đo được độ dày của lớp vỏ áo bọc ngoài một viên thuốc.
26
4.3.3.3 Một vài ứng dụng khác
Các hãng sản xuất thuốc lá như Phillip Morris đang tìm kiếm những cách
thức mới để sử dụng tia T trong việc kiểm soát chất lượng trong nhà máy.
Với sự giúp đỡ của một hệ thống chụp ảnh tia T, do công ty Picometrix có
trụ sở tại Michigan chế tạo, NASA có thể phát hiện ra những khiếm khuyết nhỏ của
lớp xốp cách nhiệt trên các tàu con thoi. Ngoài ra, tia T còn có nhiều ứng dụng thiên
văn quan trọng khác. Đài quan sát vũ trụ Herschel, một vệ tinh dự kiến được phóng
vào năm 2008 là phiên bản terahertz của kính thiên văn Hubble. Tại Chile, người ta
cũng đang xây dựng trung tâm ALMA, sẽ theo dõi bước sóng terahertz với hy vọng
phát hiện các vật thể trong giai đoạn nguyên thủy của vũ trụ.
Với những tính chất đặc biệt như vậy, tia T đang hấp dẫn giới nghiên cứu
trên khắp thế giới. Các kỹ sư của trường Đại học Utah đã đạt được bước tiến ban
đầu hướng tới chế tạo các máy tính siêu tốc hoạt động dựa vào ánh sáng viễn-hồng
ngoại thay cho điện. Họ đã tạo ra được thiết bị tương đương các dây dẫn để mang
và bẻ cong dạng ánh sáng này, còn được gọi là bức xạ terehertz.Cho tới nay, việc
tạo ta tia T vẫn còn khó khăn, nhưng các nhà nghiên cứu thuộc Đại học Harvard
(Mỹ) mới đây đã có một sáng chế về tạo nguồn tia T ở nhiệt độ phòng. Các nhà
khoa học ở phòng thí nghiệm quốc gia Argonne (Mỹ) đang phát triển một loại máy
phát tia T di động. Các hệ thống nhận dạng thụ động độ phân giải thấp thu nhận
được sự phát ra của tia T tự nhiên đã có trên thị trường: Cảnh sát ở Wayne County
Sheriff (Detroit, Mỹ) đang thử nghiệm một loại máy quét tia T của Công ty
ThruVision (Anh) tại các phiên toà xét xử tội phạm trong khu vực.
Hình 4.2. Ảnh tia T cho thấy vết xước trên chắn bùn của xe hơi, mà các loại ảnh thông
thường không nhìn thấy
27
Hình 4.3. Tia T được sử dụng để chụp ảnh một chiếc lá khi bị khử nước và sau khi bổ sung
nước
Hình 4.4. Công nghệ mới có thể "nhìn thấy" chất độc hại trong hành lý.
4.4 Infrared (Tia hồng ngoại)
4.4.1 Định nghĩa
Tia hồng ngoại là bức xạ điện từ có bước sóng dài hơn ánh sáng khả kiến
nhưng ngắn hơn tia bức xạ vi ba. Tên "hồng ngoại" có nghĩa là "dưới mức đỏ", màu
đỏ là màu sắc có bước sóng dài nhất trong ánh sáng thường. Tia hồng ngoại có thể
được phân chia thành ba vùng theo bước sóng, trong khoảng từ 700 nanômét tới 1
milimét: cận hồng ngoại (nằm vượt quá khu vực màu đỏ trong quang phổ nhìn thấy
được), hồng ngoại trung bình (có bước sóng từ 1,3 đến 3 micrô-mét) và nhiệt hồng
ngoại (bước sóng từ 3 đến 30 micrô-mét).
4.4.2 Lịch sử
Nhà Thiên văn học, Sir William Herschel đã khám phá ra tia hồng ngoại vào
năm 1800. Ông đã tự chế tạo cho mình các kính thiên văn với ống kính và gương.
28
Ông biết rằng ánh nắng mặt trời có thể vẽ nên rất nhiều màu sắc bằng phổ của nó và
cũng là nguồn phát nhiệt. Herschel muốn biết cụ thể màu nào phát sinh nhiệt trong
chùm ánh sáng mặt trời.
Ông ta đã làm thí nghiệm với lăng kính, bìa giấy và nhiệt kế với bóng sơn
đen để đo lường nhiệt độ từ các màu sắc khác nhau. Herschel quan sát sự gia tăng
nhiệt độ khi ông di chuyển nhiệt kế từ ánh sáng màu tím đến ánh sáng màu đỏ trong
cầu vồng tạo ra bởi ánh sáng mặt trời qua lăng kính, ông đã phát hiện ra rằng, điểm
nóng nhất thật sự nằm phía trên ánh sáng đỏ. Bức xạ phát nhiệt này không thể nhìn
thấy được, ông đặt tên cho bức xạ không nhìn thấy được này là “tia nhiệt” (calorific
ray) mà ngày nay chúng ta gọi nó là tia hồng ngoại.
Hình 4.5. Nhà Thiên văn học Sir William Herschel
4.4.3 Tính chất
Tác dụng nổi bật nhất của tia hồng ngoại là tác dụng nhiệt (tia nhiệt).
Mọi vật thể có nhiệt độ cao hơn 0 0K đều bức xạ tia hồng ngoại: cơ thể người,
bóng đèn dây tóc nóng sáng, Mặt trời, vật có nhiệt độ,…Độ dài sóng (tần số) bức xạ
phụ thuộc vào nhiệt độ của vật.
Phần lớn vật liệu ngăn cản tia sáng thường thì cũng ngăn được tia hồng ngoại:
gỗ, giấy, kim loại,…
Nhưng cũng có một số vật liệu ngăn được tia sáng thường nhưng không ngăn
được tia hồng ngoại và ngược lại như: thủy tinh, GaAs,…
29
Ánh sáng thường không thể xuyên qua các lớp sương mù, khói, mây dày đặc
nhưng tia hồng ngoại có thể.
Tia hồng ngoại đóng vai trò lớn trong hiệu ứng nhà kính.
4.4.4 Ứng dụng
4.4.4.1 Sử dụng tia hồng ngoại trong chế biến nông sản thực phẩm
Tia hồng ngoại được phát hiện năm 1800 và sau này, những năm đầu của
thập niên 1960 đã có rất nhiều nghiên cứu thành công về khả năng ứng dụng tia
hồng ngoại vào lĩnh vực chế biến nông sản, thực phẩm.
Nguồn hồng ngoại trong các thiết bị được phát ra với bước sóng 1,8–3,4
micron, và tia hồng ngoại được sử dụng trong việc chế biến nông sản, thực phẩm
được xem như một thiết bị sấy khô nông sản vì dải biến thiên nhiệt độ trong thiết bị
có thể từ 37oC – 2000oC. Nguồn năng lượng của tia hồng ngoại khi tiếp xúc với
nông sản sẽ làm cho các phần tử rung động và dẫn đến sự tăng nhiệt độ bên trong
sản phẩm một cách nhanh chóng cùng với sự gia tăng về áp suất hơi nước. Các hạt
ngũ cốc, hạt đậu khi được chiếu tia hồng ngoại chỉ trong thời gian 50 giây, nhiệt độ
bên trong hạt đã tăng lên 900oC hoặc với thời gian 90 giây, nhiệt độ đã tăng lên
1100oC.
Tác dụng của tia hồng ngọai khi chiếu vào nông sản (đặc biệt là các loại hạt)
sẽ tạo ra các sản phẩm có giá trị dinh dưỡng cao, mùi vị thơm hơn, tinh bột trong
hạt sẽ được hồ hóa triệt để hơn, không có hiện tượng lại bột, và như vậy khả năng
tiêu hóa thực phẩm sẽ tốt hơn. Ví dụ hạt lúa mì được chiếu tia hồng ngoại thì khả
năng tiêu hóa là 90%, trong khi đó sự tiêu hóa của những hạt lúa mì không chiếu tia
hồng ngoại chỉ đạt 30%.
Tia hồng ngoại khi chiếu vào nông sản còn làm tăng hàm lượng axit amin tự
do, đồng thời ức chế một số enzymer bất lợi và do đó làm tăng khả năng tiêu hóa
đậu tương lên rất nhiều. Hoặc khi chiếu tia hồng ngoại vào những hạt ngũ cốc có
chứa axit béo, sẽ làm giảm họat tính các enzym (men) oxy hóa chất béo và nó sẽ
30
hạn chế các quá trình oxy hóa chất béo khi bảo quản, hạt sẽ không bị ôi, khét và
đắng.
Mặt khác khi chế biến các sản phẩm thực phẩm ăn liền, tia hồng ngoại còn
có tác dụng diệt khuẩn rất tốt mà không làm mất giá trị dinh dưỡng của nông sản
thực phẩm.
Một số sản phẩm thức ăn gia súc được chế biến sấy chín bằng tia hồng ngoại
có tác dụng rất tốt đối với vật nuôi.
Trong thực tế sản xuất hiện nay, người ta sử dụng tia hồng ngoại trong nhiều
lĩnh vực chế biến như xử lý các loại hạt làm thức ăn gia súc, thanh trùng sữa tươi
(với thời gian rất ngắn 15 giây), gia nhiệt bề mặt các sản phẩm để tạo màu sắc đẹp
hơn (ví dụ các loại bánh nướng), sấy khô các loại dược liệu, sấy khô các loại gia vị
mà màu sắc ít biến đổi. Người ta còn dùng tia hồng ngoại để nướng bánh, sản xuất
thực phẩm ăn nhanh và ngũ cốc dinh dưỡng (cereals) dùng trong điểm tâm.
4.4.4.2 Chữa bệnh bằng tia hồng ngọai là một ứng dụng khoa học của ánh sáng
Tia sáng tập trung tại một vị trí đem lại các phản ứng vật lí như đốt, cháy,…
cụ thể như sau: ánh sáng đi vào cơ thể mang theo năng lượng nhiệt, năng lượng này
tạo ra do sự tập trung của nhiều tia sáng gọi là lượng tử. Lượng tử này phá hủy các
tế bào và các mô bị tổn thương, chính vì thế nó rút ngắn lọai bỏ mầm bệnh giúp vết
thương chóng lành. Ngoài ra, Tia hồng ngoại có thể giúp chẩn đoán bệnh nha chu:
Các nha sĩ đã sử dụng hai dạng phổ hồng ngoại khác nhau: những phổ vùng hồng
ngoại gần để đo tình trạng viêm ở những vị trí chuyên biệt trong miệng bệnh nhân,
và phổ hồng ngoại giữa để xác định tình trạng chung của nhưng dấu chỉ sinh học
khác nhau ở dịch nướu (GCF).
4.4.4.3 Phương diện thẩm mỹ
Người ta đã sử dụng ánh sáng nhìn thấy và ánh sáng hồng ngọai, tuy nhiên
điều trị bằng những ánh sáng này đã gây một ảnh hưởng mạnh mẽ trong việc điều
trị sự nhuộm màu sắc tố da, bệnh lông tóc, và nhăn da.
31
4.4.4.4 Kính nhìn đêm (Đôi mắt thứ hai)
Tập hợp, khuếch đại và chuyển đổi ánh sáng hồng ngoại thành ảnh là cơ chế
hoạt động của thiết bị nhìn đêm (kính nhìn đêm), giúp con người thấy rõ mọi vật
trong bóng tối. Để biến ánh sáng hồng ngoại (mắt thường không nhìn thấy được)
thành ảnh mà con người có thể nhìn thấy rõ, kính nhìn đêm sử dụng kỹ thuật tăng
cường ảnh (image enhancement) hoặc kỹ thuật chụp ảnh nhiệt (thermal imaging).
Hình 4.6. Kính nhìn đêm
Tăng cường ảnh: Với kỹ thuật tăng cường ảnh, kính nhìn đêm tập hợp những
lượng nhỏ ánh sáng phát ra từ môi trường, như ánh sáng cận hồng ngoại, rồi phóng
đại nó trong một quang phổ ánh sáng có thể nhìn thấy được. Ánh sáng cận hồng
ngoại phát ra từ môi trường được một ống kính tập hợp và tập trung vào ống khuếch
đại ảnh. Tiếp đó, một màn cảm quang âm cực (photocathode) cải biến ánh sáng này
thành một luồng điện tử. Khi đi qua một tấm kính ảnh (plate) có các rãnh cực nhỏ,
số lượng điện tử của luồng này sẽ được tăng lên gấp nhiều lần nhằm mục đích
khuếch đại tín hiệu. Mặt bên kia của kính có một màn hình được tráng phosphor để
tập hợp các điện tử phát ra và chuyển chúng thành ánh sáng nhìn thấy được để tạo
thành ảnh. Ảnh tạo ra luôn là đơn sắc và màu đó tùy thuộc vào loại phosphor được
dùng để tráng màn hình. Kính tăng cường ảnh loại đơn giản gồm có 1 thấu kính
thông thường, 1 ống phóng đại ảnh và 1 thấu kính mắt (ocular lens).
32
Tạo ảnh nhiệt : Phức tạp hơn loại kính phóng đại ảnh, loại kính tạo ảnh nhiệt
tập hợp và phóng đại ánh sáng hồng ngoại trong một vùng quang phổ điện từ thấp
hơn nhiều, chẳng hạn như ánh sáng nhiệt hồng ngoại phát ra từ những vật thể nóng.
Ánh sáng nhiệt hồng ngoại phát ra từ môi trường được tập hợp và tập trung vào
mạng ăng-ten định pha (phased array) qua sự hỗ trợ của một thấu kính. Mạng này sẽ
tạo ra một biểu đồ nhiệt theo mẫu của ánh sáng chiếu vào nó, rồi chuyển đổi ánh
sáng thành một chuỗi xung động điện. Chuỗi xung động này được gửi đến một bộ
phận xử lý tín hiệu có vai trò biến tín hiệu thu được thành dữ liệu ảnh để hiển thị.
Phần lớn kính nhìn đêm loại này có khả năng tạo ra ảnh có tốc độ khung hình là 30
khung/giây và có thể phát hiện nhiệt độ từ -20oC đến 2.000oC. Theo các chuyên gia,
kính nhìn đêm có phạm vi ứng dụng rất rộng, nhất là trong các lĩnh vực an ninh,
quân sự, bảo vệ pháp luật và theo dõi - giám sát.
4.4.4.5 Nguồn năng lượng tương lai từ tia hồng ngoại
Trong khi dùng các tấm biển hấp thụ ánh sáng mặt trời để chuyển chúng
thành năng lượng, các nhà nghiên cứu thuộc phòng thí nghiệm quốc gia Idaho, Mỹ
đã thí nghiệm một biện pháp thu thập mới: sử dụng tia hồng ngoại để thu được năng
lượng năng suất cao chưa từng thấy. Nhóm các nhà khoa học do Michael Naughton
(thuộc Trường Boston ở Chestnut Hill, bang Massachusetts, Mỹ) đứng đầu đã giới
thiệu công trình nghiên cứu tại hội thảo quốc tế lần thứ 2 về đổi mới năng lượng do
American Society of Mechanical Engineers tổ chức ngày 13/8 tại Jacksonville. Họ
đã lắp đặt các thiết bị cảm ứng với độ dài của sóng hồng ngoại, dài hơn độ dài của
ánh sáng nhìn bằng mắt thường (sóng này còn có thể đi xa hơn độ dài các tế bào
quang điện hiện nay).
Các nhà nghiên cứu đã sử dụng những tấm bảng dệt bằng hàng triệu ăng ten
rất nhỏ, nhạy cảm với các quang tử IR của mặt trời và các nguồn khác. Đây là bước
đầu tiên trong quá trình thu thập năng lượng với chi phí rẻ và cho sản lượng lớn.
Các ăng ten có kích thước nano có thể thu hồng ngoại trung bình, như là hồng ngoại
chiếu xuống trái đất, ngay cả lúc nửa đêm, sau khi đã hấp thụ năng lượng mặt trời
suốt cả ngày. Trong khi đó, pin mặt trời đang được sử dụng hiện nay mới chỉ thu
33
được những ánh sáng mặt trời nhìn thấy được, và mất tác dụng vào ban đêm. Hơn
nữa, sau khi được phát triển thêm, những ăng ten nano này còn có khả năng hấp thụ
sức nóng dư thừa của các đồ vật vào ban đêm, và chuyển dạng năng lượng lãng phí
này thành điện năng. Những bộ phận nhỏ này được chế dưới dạng lò so xoắn bằng
vàng, vạch trên cột trụ, dưới có poly-êtilen (một chất liệu thường được sử dụng
trong các túi nhựa dẻo). Dale Kotter, một thành viên của nhóm nghiên cứu cho biết,
trong số những loại sóng có tần số thấp của quang phổ điện từ được các nhà nghiên
cứu khác đặt nhiều hi vọng như là vi sóng, sóng hồng ngoại được quan tâm hơn cả.
Ông cũng cho biết thêm, một trong những lí do quyết định chọn tia hồng ngoại là do
tính chất vật lý của các chất liệu sẽ thay đổi khi chúng bị sóng này tác động.
Họ đã thí nghiệm phản ứng của nhiều chất liệu, trong đó có cả đồng, vàng và
măng gan, khi đặt chúng dưới tác động của tia hồng ngoại, thông qua xử lí bằng tin
học để xác định các loại có hình dạng cấu tạo và có kích thước ăng ten tốt nhất. Mô
hình hoàn hảo gồm tất cả các tham số này, sẽ cho phép thu được năng suất lên đến
92% lượng tia hồng ngoại, điều mà những thiết bị thu năng lượng mặt trời thông
thường không thể đạt tới.
Các nhà nghiên cứu đã tạo ra những nguyên mẫu đầu tiên được kiểm tra
bằng tin học. Những chiếc ăng ten nano đã được cài theo cách thông thường bằng
các đường vòng quanh vào một chiếc đĩa bằng silic, và chúng có khả năng hấp thụ
đến 80% số lượng tia hồng ngoại được chiếu lên.
Sau đó chúng được chuyển sang bước khắc lên phần cột trụ poly-êtilen tán
mỏng và đã tiến gần đến bước thực hiện hấp thụ tia hồng ngoại. Tuy lúc này ăng ten
vẫn còn trong quá trình kiểm tra, nhưng những kết quả đầu tiên cho thấy khả năng
hấp thụ tia hồng ngoại của chúng lên tới 50-60%, hoàn toàn đáp ứng được yêu cầu
đề ra.
4.4.4.6 Nỗ lực trở thành năng lượng gia dụng
Tuy nhiên những kĩ thuật này cần được hoàn thiện thêm để có thể đưa loại
năng lượng mới này vào sử dụng trong hộ gia đình. Việc chiếu các tia hồng ngoại
34
lên ăng ten nano tạo ra dòng thay thế có tần số dao động lên đến 30 terahéc, điều
này đòi hỏi phải có thiết bị nắn điện nhằm biến dòng này thành dòng liên tiếp. Tuy
vậy, hiện giờ chưa có thiết bị nắn điện nào có thể chịu được tần số này, thậm chí
cũng chưa có thiết bị phân tách nào có thể sử dụng để khai thác năng lượng này. Và
các nhà khoa học còn đang cố gắng giải quyết vấn đề này.
Nếu như vấn đề này được giải quyết, chúng ta sẽ có những thiết bị thu năng
lượng mặt trời hiệu quả hơn, có năng suất cao hơn 20% so với năng lượng ánh sáng
nhìn thấy bằng mắt thường. Các nhà khoa học đã phát triển và thực hiện lắp đặt các
thiết bị phức tạp hơn, cho năng suất nhiều hơn, nhưng hiện chi phí cho những thiết
bị này khá đắt nếu đưa vào sử dụng phổ biến.
Để sản xuất được các thiết bị tương đối đơn giản bằng biện pháp cài lên các
vật có giá rẻ, những ăng ten nano này cần phải chịu được nhiều tần số chiếu tia
hồng ngoại khác nhau tùy theo kích cỡ và cấu tạo của chúng. Chúng có thể có lớp
vỏ ngoài làm bằng các vật thông dụng khác nhau, như là máy tính xách tay hay là
điện thoại di động, nhằm cung cấp cho chúng nguồn năng lượng liên tiếp và có giá
rẻ hơn.
Hình 4.7. Những ăng ten nano bằng vàng được cài thử nghiệm vào một con rệp bằng silic
và hoạt động với tần số 30 terahezt
4.4.4.7 Chuông báo động dùng tia hồng ngoại
Chiếc chuông xinh xắn và nhỏ gọn này hoàn toàn dùng tia hồng ngoại để dễ
dàng nhận ra sự chuyển động và tiếng động bên ngoài. Có thể gắn nó lên tường nơi
cửa ra vào, hay để trên bàn làm việc. Người dùng điều chỉnh mặt nạ (ở vỏ ngoài mắt
35
thần) để lựa chọn độ rộng của góc quan sát của mắt thần trong phạm vi lên tới 60
độ.
Chuông tiêu thụ năng lượng (pin) ở mức thấp nhất, nhờ vào chức năng tự
động ngắt chuông. Chuông có 3 giai điệu chuông êm dịu và 3 lựa chọn còi báo
động. Nếu người sử dụng cài đặt chế độ chuông ở chế độ đón khách đến chơi nhà,
đến liên hệ công việc ở công sở, chuông sẽ tự động phát ra giai điệu (nhạc) báo
khách đến. Còn nếu cài đặt chuông ở chế độ báo động kẻ trộm vào nhà, chuông sẽ
tự rú còi báo động, giúp chủ nhà phát hiện ra kẻ xâm nhập.
4.4.4.8 Thiết bị nhận dạng bằng tia hồng ngoại cho điện thoại di động
Công ty điện tử Canon (Nhật Bản) đã tung ra thị trường một thiết bị có kích
thước nhỏ gọn với tên gọi "Canon Security Pendant IP-1" dùng để nhận dạng thông
tin dành cho điện thoại di động do Canon chế tạo. Sản phẩm này được thiết kế nhằm
bảo vệ thông tin trong các máy điện thoại đã được hỗ trợ công cụ nhận dạng bằng
tia hồng ngoại. Khi khởi động điện thoại, IP-1 sẽ tiến hành nhận dạng các dữ liệu về
người chủ của máy điện thoại đó nhờ vào mã tia hồng ngoại, giúp khách hàng tránh
được tình trạng rò rỉ thông tin cá nhân do bị tấn công hoặc bị mất điện thoại.
Hình 4.8. Điện thoại di động được hỗ trợ công cụ nhận dạng bằng tia hồng ngoại
4.5 Visible light
4.5.1 Định nghĩa
Ánh sáng nhìn thấy có tần số khoảng từ 300THz đến 3000THz, bước sóng
380 – 750 nanometer.
36
4.5.2 Ứng dụng
Ứng dụng vô cùng quan trọng của ánh sáng nhìn thấy là giúp con người
chúng ta nhìn thấy mọi vật và mọi vật có các màu sắc, hình dạng khác nhau. Ví dụ:
Sữa bò có màu trắng: Sữa bao gồm 5% lactoza, 3,7% mỡ và 3,5% protein. Chất
cazein giàu canxi là protein phổ biến nhất và sự kết hợp của cazein với một số chất
béo tạo nên màu sắc cho món đồ uống ngon lành này.Màu trắng là màu tự nhiên của
sữa, là kết quả của các bước sóng của ánh sáng nhìn thấy được chiếu vào mắt.
Cazein và một số chất béo phản chiếu dải bước sóng rộng nên khiến sữa có màu
trắng.
Ngoài ra còn có nhiều ứng dụng khác:
4.5.2.1 Đèn LED
Điốt GaAsP với sự tái hợp trực tiếp và năng lượng lớn hơn 1,7eV cho ta ánh
sáng nhìn thấy được. Với thể tích nhỏ, công suất thấp, đèn LED sử dụng trong mọi
lĩnh vực quang báo. Tuổi thọ của LED cao hơn bóng đèn thông thường, khoảng 105
giờ (có thể sáng liên tục trong 10 năm). Trái với bóng đèn thông thường, đèn LED
không hư ngay mà sau 105 giờ, đèn LED không hư ngay mà công suất phát quang
của nó giảm đi một nửa. Ngoài công dụng chiếu sáng, đèn LED còn nhiều ứng dụng
khác:
Phương diện thẩm mỹ: Các nhà khoa học Đức đã chứng minh ánh sáng nhìn
thấy có cường độ mạnh của đèn phát sáng diode (LED) có thể ứng dụng để xóa nếp
nhăn, làm trẻ hóa khuôn mặt. Phát hiện này mở ra một hướng làm đẹp khác trong
chuyên khoa thẩm mỹ mà không cần dùng tới dao kéo hay thuốc chống nếp nhăn
Botox có nhiều tác dụng phụ. Báo cáo nghiên cứu của nhóm khoa học có đoạn viết
nếu ứng dụng liệu pháp thẩm mỹ bằng ánh sáng LED mỗi ngày trong vòng vài tuần
thì sẽ cho ra kết quả “da trẻ lại và có thời gian đàn hồi kéo dài, số lượng nếp nhăn
giảm đi, nước da trông mơn mởn hơn trước”. Ánh sáng LED làm mất đi những
phân tử nước có liên quan đến quá trình cố định protein elastin rồi từ từ khôi phục
lại chức năng đàn hồi của elastin. Nhờ vậy, nó làm giảm các nếp nhăn ở mặt.
37
LED thường được sử dụng trong các sản phẩm như điều khiển từ xa của tivi
hay đèn giao thông…
Người ta đã chỉ ra rằng ánh sáng nhìn thấy được của LED có cường độ mạnh
đã được ứng dụng trong y khoa cách đây hơn 40 năm để làm vết thương mau
lành.Bác sĩ Whelan một bác sĩ dẫn đầu về thần kinh học tại trường Đại học dược
Wisconsin, trình bày rằng: ánh sáng được phát ra từ Điốt phát sáng (LED) có thể
tăng cường sức khỏe cho các tế bào gấp 5 lần hơn các thiết bị thông thường. Trong
những năm gần đây, ánh sáng LED cũng được sử dụng để điều trị một số bệnh ung
thư não.
Các đèn LED thế hệ kế tiếp có thể thay thế mạng WiFi? Các công nghệ hội tụ
mới nhất đã vừa được các kỹ sư thuộc trường đại học Boston của Mỹ công bố. Từ
nguồn trợ cấp nghiên cứu khoa học quốc gia, các nhà nghiên cứu đã phát minh ra
mạng truyền thông dữ liệu vô tuyến hội tụ trong một bóng đèn thắp sáng bình
thường. Các kỹ sư hi vọng sẽ sử dụng các bóng đèn LED nhẹ và có công suất thấp
để thay thế mạng vô tuyến quang. Công nghệ vô tuyến hiện nay đã tạo ra một mạng
dữ liệu vô tuyến song nó lại tiêu tốn nhiều nguồn và dễ bị tổn hại trước các tấn công
từ bên ngoài. Các đèn LED mới này có thể truyền dữ liệu với thông qua các xung
tốc độ cực nhanh của ánh sáng nhìn thấy được. Băng thông ban đầu được kỳ vọng là
sẽ nằm trong dải từ 1-10Mbps. Bạn hãy tưởng tượng nếu máy tính, iPhone, TV,
radio, bộ điều nhiệt tự động của bạn có thể thông tin với bạn khi bạn đang đi bộ
trong phòng thông qua một chuyển mạch ánh sáng và không cần sử dụng bất cứ sợi
cáp nào. Dường như là hơi hoang tưởng song điều này hoàn toàn có thể thực hiện
đựoc với một mạng thông tin dựa trên đèn LED với công suất tiêu thụ thấp, độ tin
cậy cao và không gây nhiễu điện từ. Cuối cùng thì hệ thống này được kỳ vọng sẽ
được ứng dụng trong các thiết bị chiếu sáng. Mỗi bóng đèn LED có thể làm việc
giống như một điểm truy cập vô tuyến (Wireless Access Point), cung cấp băng
thông lớn hơn và giảm đáng kể tiêu thụ nguồn. Bởi vì mạng truyền thông quang dựa
trên các đèn LED sử dụng các xung của ánh sáng thấy được, nên những người ngoài
vùng phủ của mạng (bị che khuất bởi tường, sàn…) không thể truy nhập vào và do
38
đó sẽ tránh được sự tấn công của các hacker một cách rất đơn giản. Bạn có thể kết
nối tới nhà hoặc mạng vô tuyến của cơ quan chỉ với một công tắc chuyển mạch ánh
sáng. Dù mới chỉ là những kết quả nghiên cứu ban đầu song nó đã mở ra một hướng
nghiên cứu mới đầy tiềm năng cho một mạng truyền dữ liệu đơn giản mà hiệu quả.
Hình 4.9. Hình ảnh minh họa cho một mạng thông tin dữ liệu sử dụng các đèn LED thế hệ
kế tiếp
4.5.2.2 Điều trị viêm mũi dị ứng bằng ánh sáng nhìn thấy
Lâu nay, phương pháp chữa trị viêm mũi dị ứng phổ biến là dùng thuốc dưới
dạng uống hay xịt. Gần đây, một liệu pháp mới không cần dùng thuốc là sử dụng
quang học, nguyên lý này do Hãng Medisana (CHLB Đức) tìm ra. Dùng đèn diode
hai cực phát ra ánh sáng đỏ có bước sóng 660 nanometre (nm) soi hốc mũi. Ánh
sáng (nhìn thấy được bằng mắt thường) kích hoạt sự miễn dịch đã bị suy giảm ở hốc
mũi, làm tăng độ miễn dịch và giảm sự kích thích màng nhầy của mũi. Với cơ chế
tác động trên, máy Medinose-BNS do Hãng Medisana sáng chế đã được thử nghiệm
trên bệnh nhân ở nhiều độ tuổi khác nhau, ở nhiều nước và không có phản ứng phụ
kể cả với trẻ em và phụ nữ mang thai.
4.5.2.3 Cáp quang siêu nhỏ
Các nhà khoa học vừa chế tạo được một loại cáp quang siêu nhỏ - mỏng hơn
sợi tóc nhiều lần – có khả năng truyền tải ánh sáng nhìn thấy được. Phát minh này
hứa hẹn sẽ mở màn cho một loạt những đột phá trong các lĩnh vực như năng lượng
39
mặt trời, công nghệ thông tin và y học. Trong hàng thập kỷ nay, cáp đồng trục vốn
rất quen thuộc và nổi bật nhờ chất lượng truyền tải vô cùng hiệu quả. Loại cáp này
gồm một dây lõi được bao xung quanh chất cách nhiệt và ngoài cùng là lớp vỏ kim
loại. Cấu tạo đó khiến cáp có thể truyền tải các tín hiệu điện từ có bước sóng lớn
hơn chính đường kính của dây.
4.5.2.4 Cáp đồng trục
Các nhà nghiên cứu tạo ra một dây cáp đồng trục dùng để truyền tải ánh sáng
có chứa sợi lõi các-bon, bao xung quanh lõi một lớp cách nhiệt và vỏ dây nhôm bên
ngoài. Chiều rộng của dây cáp khoảng 300 nanometer, tức là nhỏ hơn vài trăm lần
so với sợi tóc của người. Sợi dây ở lõi cáp sẽ chìa ra ở một đầu làm ăng ten dò ánh
sáng. Các nhà khoa học lại buộc ánh sáng nhìn thấy phải đi qua sợi dây cáp có
đường kính nhỏ bước sóng của nó. Họ đã chiếu ánh sáng xanh và đỏ qua sợi dây
cáp, điều đó chứng tỏ nó hoàn toàn có thể truyền tải được quang phổ rộng của ánh
sáng có thể nhìn thấy. “Đó không hoàn toàn là tốc độ của ánh sáng, có thể chỉ bằng
90% tốc độ của ánh sáng. Nhưng như thế đã nhanh hơn điện hàng nghìn lần rồi”,
ông Naughton cho biết. Ông Naughton cho rằng, phát minh này hứa hẹn sẽ tạo ra
nhiều tiến bộ trong lĩnh vực công nghệ, ông khẳng định, “nó quan trọng vì nó thực
sự hữu dụng”. Cũng theo ông Naughton, loại cáp siêu nhỏ cũng có thể dùng trong
những loại pin sử dụng năng lượng mặt trời hiệu suất cao. Nó cũng rất thích hợp với
loại sơ đồ điện “mini” và các thiết bị chuyển đổi bằng ánh sáng siêu nhỏ dùng trong
lĩnh vực tin học quang (optical computing). Cáp siêu nhỏ còn mở rộng sang lĩnh
vực y học như cấy ghép võng mạc cho những người mắc chứng thoái hoá ở mắt
hoặc dò tìm các phân tử riêng lẻ là mầm bệnh trong cơ thể người.
40
Hình 4.10. Camera hồng ngoại
4.6 Ultra Violet ( Tia tử ngoại)
4.6.1 Định nghĩa
Tia tử ngoại là bức xạ có bước sóng từ 10-8m đến 10-7 m và tần số từ
3000THz đến 3.1016Hz.
4.6.2 Lịch sử
Hình 4.11. Johann Wilhelm Ritter
Năm 1801, Johann Wilhelm Ritter nhờ vào các phản ứng hóa học đã khám
phá ra một loại ánh sáng nằm ngoài vùng màu tím của quang phổ mặt trời. Ngày
nay, tia này được gọi là tia tử ngoại.
41
4.6.3 Tính chất
Tác dụng mạnh lên phim ảnh, lảm ion hóa không khí và nhiều khí khác.
Kích thích sự phát quang của nhiều chất ( như kẽm sunfua, cađimi sunfua ), có
thể gây ra một số phản ứng quang hóa và phản ứng hóa học.
Bị thủy tinh, nước,… hấp thụ rất mạnh. Tia tử ngoại có bước sóng từ 0,18 .10-6
m đến 0,4 .10-6 m truyền qua được thạch anh.
Có một số tác dụng sinh lí: hủy diệt tế bào da, làm da rám nắng, làm hại mắt,
diệt khuẩn, diệt nắm mốc…
Có thể gây ra hiện tượng quang điện.
4.6.4 Ứng dụng
4.6.4.1 Một số ứng dụng thường gặp
Tia tử ngoại dùng để khử trùng nước, thực phẩm và dụng cụ y tế, dùng chữa
bệnh ( còi xương ), để tìm vết nứt trên bề mặt kim loại…
4.6.4.2 Dùng tia tử ngoại điều trị trong ung thư
Hình 4.12. Điều trị ung thư bằng tia tử ngoại
Từ trước đến nay, các kháng thể đơn dòng (monoclonal antibodies) được
xem là vũ khí hữu hiệu để tiêu diệt ung thư, nhưng điều gây trở ngại trong điều trị là
chúng cũng có thể tấn công cả những tế bào lành mạnh.
Liệu pháp sử dụng kháng thể có sự hỗ trợ của tia cực tím được đánh giá là có
triển vọng nâng cao hiệu quả điều trị ung thư
42
Nhưng hiện nay, các nhà khoa học Anh cho biết họ đã có thể khắc phục tình
trạng này bằng cách sử dụng ánh sáng tia cực tím (ultraviolet) để kiểm soát hoạt
động của các loại thuốc có nguồn gốc từ kháng thể.
Trong kỹ thuật mới này, các chuyên gia cho biết các kháng thể sẽ được bao
bọc bằng một lớp dầu hữu cơ nhạy cảm với ánh sáng; lớp vỏ bọc này có tác dụng ức
chế hoạt động của các kháng thể cho đến khi chúng được chiếu bằng tia cực tím.
Nói cách khác, khi chiếu tia cực tím vào khối u, các kháng thể ở đó sẽ được “đánh
thức” để tấn công tế bào ung thư.
Do đó, liệu pháp này sẽ giúp tránh thương tổn cho tế bào lành, vì những
kháng thể được bao bọc này chỉ hoạt động khi được kích hoạt bằng tia cực tím.
Nhóm nghiên cứu cho rằng với liệu pháp này, bệnh nhân có thể được điều trị
ngoại trú – tức là cứ đến bệnh viện để được tiêm các kháng thể đã được xử lý, rồi
chờ không tới 1 tiếng đồng hồ để được chiếu tia cực tím trong vài phút.
Liệu pháp mới này đã nhận được sự hoan nghênh của một số nhà y học. Bà
Josephine Querido, chuyên gia thông tin khoa học của Viện Nghiên cứu Ung thư
Anh, phát biểu: “Phát triển những phương thức tấn công tế bào ung thư mà không
làm hại các mô lành là một điều tối quan trọng trong điều trị ung thư”.
4.6.4.3 Tiệt trùng diệt khuẩn bằng tia tử ngoại
Nhiều bằng chứng khoa học cho thấy, các loại virus, vi khuẩn trong nguồn
nước là thủ phạm chính gây ra 85% các bênh nhi khoa và 65% bênh tật của người
lớn. Rất may là hầu hết các loại virus, vi khuẩn đều có thể dễ dàng bị tia cực tím
(UV) tiêu diệt
Quy trình: Cho nước chảy qua một ống kín trong đó có lắp đèn cực tím. Các
tia UV được phóng vào dòng nước. Cấu trúc DNA/RNA của vi sinh bị thay đổi làm
cho chúng không thể tồn tại và sinh sản.
Nguyên lý diệt khuẩn của tia cực tím:
43
Hình 4.13. Một đoạn DNA của vi khuẩn trước khi bị chiếu tia cực tím.
Hình 4.14. Đoạn gen đã bị phá hủy
Tia cực tím ở một tần số nhất định có thể diệt 99,99% vi khuẩn nhưng không
loại bỏ bất kỳ tạp chất gì có trong nước. Phương pháp này sử dụng điện và thường
được ứng dụng ở công đoạn cuối cùng của hệ thống lọc nước. Khác với đun sôi,
phương pháp này tiết kiệm điện và nhanh hơn nhiều. Đây là phưong pháp xử lý an
toàn nếu kết hợp thêm với loại lọc than hoạt tính.
4.6.5 Tác hại
4.6.5.1 Tia tử ngoại làm tăng nguy cơ mắc ung thư da
Trẻ em dưới 18 tuổi không nên tiếp xúc lâu với ánh nắng mặt trời hoặc tắm
nắng bằng các biện pháp khác nhau, bởi nó sẽ khiến cho nguy cơ mắc ung thư da
tăng cao khi bước vào tuổi trưởng thành. Theo đó, việc tiếp xúc với tia tử ngoại (tia
UV) từ ánh nắng mặt trời khi còn nhỏ là điều hoàn toàn không có lợi. Điều này còn
nguy hiểm hơn nhiều khi sử dụng phương pháp tắm nắng nhân tạo. Những tia tử
ngoại phát ra từ những thiết bị chiếu tia tử ngoại sẽ tác động vào cấu trúc DNA, gây
đột biến hoặc tổn thương cho DNA và cuối cùng, khi những tổn thương này trở nên
nghiêm trọng (quá trình này có thể diễn ra từ từ trong nhiều năm), nó sẽ khiến cho
bệnh nhân mắc phải chứng ung thư da (lúc đó bệnh nhân đã ở tuổi trưởng thành). Ở
độ tuổi trung bình khoảng 35 tuổi, nguy cơ mắc ung thư da ở những người từng tắm
nắng khi trẻ có thể cao hơn 75% so với những người bình thường.
44
4.6.5.2 Tia tử ngoại gây hại cho mắt
Tia UV gây tác hại cho mắt: Các tia chiếu vuông góc với giác mạc tất nhiên sẽ
không gây hại cho nhãn cầu. Viêm giác mạc hay viêm kết giác mạc do phơi nắng là
do mắt bị phơi nhiễm quá đáng với tia UV. Các đầu tận của thần kinh trên giác mạc
bị tổn thương trước. Sau đó là lớp nội mô có thể bị biến đổi cấu trúc kiểu dị sản và
lắng đọng các tinh thể.
Đục thể thủy tinh: Nếu do tia UV thường là dạng đục vỏ hay nhân trung tâm,
thường thấy ở nữ nhiều hơn, có thể là do thói quen thích tắm nắng của chị em.
Võng mạc có thể bị tổn hại nếu tính lọc của giác mạc và thủy tinh thể không
còn nguyên vẹn. Tỷ lệ thoái hóa hoàng điểm ở những người trên 70 tuổi ở nhóm đã
lấy thủy tinh thể cao hơn hẳn nhóm còn thủy tinh thể khiến người ta nghi ngờ rằng
tia UV có thể còn gây ra thoái hóa hoàng điểm.
4.7 X rays
Hình 4.15. Hình ảnh X quang chụp tay ngươi đeo nhẫn, chụp bởi Rontgen
4.7.1 Định nghĩa
Tia X hay quang tuyến X hay X quang là một sóng điện từ có bước sóng
trong khoảng 10 nanômét đến 100 picômét (tức là tần số từ 30 PHz đến 3EHz).
45
4.7.2 Tính chất
Tia X có khả năng đâm xuyên. Có thể đi qua giấy, vải, gỗ và kim loại nhưng bị
chì chặn lại. Tia X có bước sóng càng ngắn thì càng xuyên sâu.
Tia X có tác dụng mạnh lên phim ảnh, làm ion hóa không khí.
Tia X có tác dụng làm phát quang nhiều nhất.
Tia X có thể gây ra hiện tượng quang điện ở hầu hết kim loại.
Tia X có tác dụng sinh lí mạnh: hủy diệt tế bào, diệt vi khuẩn…
4.7.3 Ứng dụng
4.7.3.1 Một số ứng dụng thông dụng
Tia X được sử dụng nhiều nhất để chiếu điện, chụp điện ( vì nó bị xương và
các chỗ tổn thương bên trong cơ thể cản mạnh hơn da thịt ), để chẩn đoán bệnh hoặc
tìm chỗ xương gãy, mảnh kim loại trong người…, để chữa bệnh ( ung thư ). Nó còn
được dùng trong công nghiệp để kiểm tra chất lượng các vật đúc, tìm các vết nứt,
các bọt khí bên trong các vật bằng kim loại, để kiểm tra hành lí của hành khách đi
máy bay, nghiên cứu cấu trúc vật rắn…
4.7.3.2 Dùng X-quang trong chế tạo động cơ
Các kỹ sư của Ford Motor đã ứng dụng tia X năng lượng cao trong quá trình
chế tạo và nghiên cứu động cơ, giúp nâng cao độ bền, giảm trọng lượng và tiết kiệm
nhiên liệu.
Tia X năng lượng cao giúp các kỹ sư thiết kế chi tiết của Ford thực hiện công
việc nhanh chóng và hiệu quả hơn. Cùng có nguyên lý hoạt động cơ bản, nhưng tia
X trong y tế sinh ra từ điện thế 150.000 V (đủ nhìn thấy vết nứt trên xương và
xuyên qua tấm thép dày 6 mm), còn tia X mà các kỹ sư của Ford sử dụng sinh ra từ
điện thế 9 triệu V, giúp họ phân tích các chi tiết có độ dày tới 500 mm, nghĩa là gấp
80 lần so với thông thường.
46
Hình 4.16. Động cơ khi chụp bằng tia X.
Trên thực tế, điện thế 9 triệu V là kỳ công của một tổ chức cá nhân, không kể
tới các phòng thí nghiệm quân sự. Nếu như các bác sĩ chụp tia X chỉ cần dùng tấm
chì mỏng là đủ bảo vệ sức khoẻ thì các kỹ sư của Ford phải giấu mình sau bức
tường xi-măng dày tới 2,4 mét.
Tia X năng lượng cao trợ giúp các kỹ sư trong quá trình chế tạo những bộ
phận của động cơ 3,5 lít V6 mới của Ford. Ảnh X quang giúp các kỹ sư tìm ra
những điểm cục bộ có độ mềm không mong muốn trong khối máy nhôm đúc, chủ
yếu do quá trình làm lạnh có tốc độ hạ nhiệt không ổn định. Thông tin về các điểm
này sau đó được nghiên cứu và giải quyết nhằm nâng độ bền ở mức cao nhất có thể.
Hơn nữa, những vùng không cần nhiều độ cứng được "bớt" lượng hợp kim đi để
giảm trọng lượng động cơ, nâng cao hiệu suất sử dụng nhiên liệu tổng thể.
Các kỹ sư phân lớp hình ảnh tia X thành mẫu giả định không gian 3 chiều
trên máy tính và dùng phần mềm thử nhiệm độ bền, dòng lưu thể, độ ồn, độ rung,
độ ráp của bất cứ bộ phận nào. Ví như, các kỹ sư tạo nên bộ góp không gian 3 chiều
trên máy tính, sau đó kiểm tra và ghi nhận lưu lượng khí. Dựa trên các số liệu ghi
được, họ hiệu chỉnh các thông số để có tốc độ khí tối ưu nhằm nâng cao tính năng
động cơ.
47
Hình 4.17. Động cơ 3,5 lít, V6 mới của Ford.
Sau tất cả các giai đoạn định hình, kiểm tra, những thông số tối ưu nhất được
tập hợp lại và đưa sang bộ phận sản xuất. Những cải tiến công nghệ này giúp các kỹ
sư chế tạo những động cơ bền hơn, nhẹ hơn và tiết kiệm nhiên liệu hơn.
4.7.3.3 X-ray crystallography (Tinh thể học tia X)
Tinh thể học tia X (X-ray crystallography) được ứng dụng nhiều trong sinh
học để xác định cấu trúc của các đại phân tử như protein, DNA hay RNA. Và các
phân tử này phải được chuyển về dạng tinh thể. Lí do sử dụng tia X là vì ta không
thể nhìn thấy chi tiết một vật nhỏ hơn nửa bước sóng đang sử dụng. Mà kích thước
nguyên tử quá nhỏ, nên phải dùng tia X vì có bước sóng đủ ngắn để thấy được chi
tiết nguyên tử. Tuy nhiên, năng lượng sóng thì tỉ lệ nghịch với bước sóng, nghĩa là
bước sóng càng ngắn thì năng lượng càng cao, càng dễ phá hỏng mẫu phân tử sinh
học. Đó là lí do mà phải chuyển về dạng tinh thể để giảm sự phá hoại của tia X.
Tia X khi chiếu vào tinh thể sẽ tương tác với các electron hóa tri (valence
electron) của các nguyên tử thành phần được phân bố trong không gian. Các
electron này sẽ tán xạ (scatter) tia X ra các hướng, tùy vào sự sắp xếp trong không
gian của nguyên tử. [Cái này cũng giống như dùng một đèn pin lớn chiếu vào một
cây đèn chùm (chandelier) mà ta không được phép nhìn thấy. Dù không biết cây
đèn chùm hình dáng thể nào, nhưng dựa vào bóng phản chiếu (các pattern) ta cũng
có thể dự đoán sự sắp xếp của các mảnh thủy tinh trên cây đèn chùm] Một màn hình
48
sẽ ở phía sau để lưu lại ví trí tán xạ và cường độ của tia X bị tán xạ. Sau khi có các
dữ liệu này rồi, người ta sẽ dùng các công thức tính toán phức tạp để xác định vị trí
các electron bao quanh các nguyên tử và từ đó suy ra vị trí các nguyên tử.
Các mẫu nhiễu xạ thu được sẽ có mối quan hệ với vật phát tán các sóng
chiếu tới nó thông qua một phép toán biển đổi gọi là biến đổi Fourier (Fourier
transform). Nếu mật độ các electron (electron density) bao quanh mỗi nguyên tử là
một hàm toán học, thì mẫu nhiễu xạ tia X thu được tương ứng là biến đối Fourier
của hàm đó. Với tính chất có thể biến đổi ngược của phép biến đổi Fourier, ta có thể
dùng máy tính để xây dựng lại hình ảnh mật độ electron dựa vào ảnh mẫu nhiễu xạ.
PDB (Protein Data Bank) lưu trữ cấu trúc protein và các phân tử sinh học khác miễn
phí sử dụng. Để hiển thị cấu trúc 3D của chúng, ta dùng phần mềm RasMol hay
Pymol.
4.7.4 Tác hại
4.7.4.1 Tác hại của tia X liều lượng thấp
Theo các nhà khoa học Đức, liều lượng tia X thấp có thể gây tổn thương lâu
hơn liều lượng cao. Kết quả nghiên cứu của họ sẽ được các phòng thí nghiệm khác
kiểm chứng và sau đó được lặp lại ở động vật sống trước khi bác sĩ có thể đưa ra chỉ
dẫn về tác động của tia X liều thấp đối với con người.
Nhóm nghiên cứu do Giáo sư Markus Lobrich thuộc ĐH Sarrlandes đứng
đầu đã cho các tế bào nằm trong đĩa cấy của người tiếp xúc với nhiều mức tia X
khác nhau trong phòng thí nghiệm. Kết quả cho thấy tổn thương do liều bức xạ thấp
kéo dài lâu hơn từ vài ngày tới vài tuần so với tổn thương do mức bức xạ mạnh hơn
gây ra.
Bức xạ ion hoá giống như bức xạ do tia X và các sản phẩm phân rã hạt nhân
tạo ra có thể gây bệnh máu trắng và các dạng ung thư khác. Bức xạ có thể gây đứt
gãy ở ADN. Trước đây, giới khoa học cho rằng cơ thể có khả năng sửa chữa những
đứt gãy này ở cùng tốc độ.
49
Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu của Lobrich phát hiện điều đó không đúng.
Theo họ, cơ thể không nhận ra mức tổn thương thấp hơn và do đó không tiến hành
công việc sửa chữa. Khi những tế bào bị tổn thương đó phân chia và nhân lên, tổn
thương không được sửa chữa cũng nhân theo.
Họ cho biết đã phát triển một phương pháp xét nghiệm mà sẽ giúp bác sĩ tìm
kiếm tổn thương di truyền ở những người tiếp xúc với tia X ở liều lượng thấp chẳng
hạn như bệnh nhân ung thư đang được điều trị bằng xạ trị và những nhân viên y tế
vận hành thiết bị tia X.
4.7.4.2 Tác hại của chụp X – quang
Tia X rất độc hại, nếu chụp X – quang không được tiến hành trong điều kiện
an toàn, phòng chụp, thiết bị chụp không đạt tiêu chuẩn an toàn do Bộ y tế và tổ
chức y tế thế giới đề ra, cùng với việc đội ngũ bác sỹ chụp X – quang không được
trang bị đầy đủ kiến thức thì quả là điều nguy hiểm đối với người bệnh. Ngoài
nguyên nhân từ phòng chụp X - quang không đạt chuẩn, bệnh nhân nhiễm xạ còn từ
sự lạm dụng của bác sĩ.
Theo một khảo sát của Cục kiểm soát và an toàn bức xạ hạt nhân, hiện nay
có đến 55% phòng chụp X - quang ở Việt Nam không bảo đảm che chắn, 70%
không đủ tiêu chuẩn kích thước, nhiều phòng chụp có mức chiếu xạ vượt 2 – 5 lần
giới hạn cho phép. Hậu quả của điều này thường rơi trực tiếp lên bệnh nhân. Thậm
chí chất bài tiết của những người vừa chụp X – quang cũng gây tác hại rất lớn đối
với những người xung quanh.
Gần đây, tại trung tâm y tế dự phòng Hà Nội, người ta đã phát hiện ra những
hiện tượng lạ xung quang khu vực chụp X – quang của bệnh viện như cây xanh
thiếu tươi tốt, động vật chết không rõ nguyên nhân…Và các cơ quan chức năng đã
khẳng định nguyên nhân của những hiện tượng trên là do phòng chụp X – quang
của trung tâm y tế không đạt tiêu chuẩn an toàn, gây tác động xấu lớn đến môi
trường xung quanh.
50
Ước tính mỗi năm cả nước có khoảng 2.500 người bị ung thư do nhiễm xạ,
thủ phạm chính không ai khác là các phòng chụp X - quang không đạt chuẩn. Theo
các chuyên gia y học, tổn thương khi bị nhiễm xạ biểu hiện ở nhiều cơ quan và đa
dạng như mô limpho và tuỷ xương (ngừng hoạt động), niêm mạc ruột (tiêu chảy, sụt
cân), máu (nhiễm độc), da (ban đỏ, viêm da, sạm da), giảm sức đề kháng cơ thể, vô
sinh, ung thư…
Đặc biệt, phụ nữ đang mang thai chụp X – quang là điều hết sức nguy hiểm
đối với thai nhi. Có một điều hầu hết các bà mẹ đều không hay biết hoặc không
được tư vấn: đó là việc siêu âm thai nhi và chụp X – quang trong quá trình mang
thai hầu hết sẽ bị ảnh hưởng bức xạ. Đây là kết luận của Viện Hàn Lâm Y học Quốc
gia Pháp và cơ quan thực phẩm và dược phẩm của Pháp (AFSSAPS).
Cơ quan này đã khuyến cáo các bà mẹ nên hết sức thận trọng đối với việc
siêu âm thai ngoài mục đích chuẩn đoán bệnh, do bức xạ phát ra từ những chiếc
máy được sử dụng có thể gây hại cho thai nhi. Việc khám thai bằng phương pháp
siêu âm có vẻ không có tác động về mặt sinh học, nhưng thực ra lại ảnh hưởng lớn
đến thai nhi, gây nguy cơ bào thai bị nứt đốt sống hay sinh ra những quái thai như
không có não, bị thoái vị não, não lòi ra ngoài sọ…
Vì vậy, trong thực tế, có nhiều bà mẹ khi mang thai do thiếu hiểu biết đã đi
chụp X – quang vì những nguyên nhân khác nhau cuối cùng đều gây tác hại nguy
hiểm đến thai nhi và dẫn đến việc phải bỏ thai vì nguy cơ đứa bé sinh ra không bình
thường rất cao.
4.8 Gamma rays
4.8.1 Định nghĩa
Tia gamma là một loại bức xạ không nhìn thấy có bước sóng vào khoảng
10-14 m đến 10-10 m. Sự khác nhau giữa bức xạ gamma và bức xạ Rơghen (tia X) là
ở nguồn gốc: bức xạ gamma phát ra từ trong hạt nhân nguyên tử, còn tia X sinh ra ở
ngoài nhân. Tốc độ lan truyền của tia gamma bằng tốc độ ánh sáng. Năng lượng của
51
nó phụ thuộc vào tần số hoặc độ dài của bước sóng. Bức xạ gamma có năng lượng
lớn nhất so với tia X, ánh sáng nhìn thấy, tia hồng ngoại …
4.8.2 Ứng dụng
4.8.2.1 Dao gamma
Là phương tiện phẫu thuật bằng bức xạ gamma tập trung, định vị ba chiều,
cho phép xác định chính xác và điều trị các khối u nằm sâu trong não hoặc các khối
dị dạng động tĩnh mạch có đường kính nhỏ hơn 5 cm chỉ bằng một lần phẫu thuật
trong điều kiện gây tê cục bộ.
Nguyên lý hoạt động của GAMMA KNIFE khá đơn giản. Sau khi xác định
được điểm cần phẫu thuật, dựa vào chụp cắt lớp mô phỏng định vị khối u, sẽ dùng
chính tia GAMMA (Nhiều tia xuất phát từ các vị trí khác nhau xung quanh hộp sọ
cùng chiếu một lúc và các tia này sẽ hội tụ vào đúng vị trí u đã được định vị). Vì
vậy điểm tập trung các tia này có cùng độ lớn sẽ phá huỷ và tiêu diệt khối u mà
vùng não xung quanh hầu như không bị tổn thương. Đó là ưu điểm nổi bật so với
mổ mở.
Gọi là phẫu thuật bằng Dao Gamma, có nghĩa là ở đây giống như phẫu thuật
cắt bỏ nhưng không phải dùng dao kéo thông thường mà dùng chùm tia Gamma rất
mảnh có năng lượng cao đưa vào để tiêu diệt khối u trong não. Dao Gamma quay
(có duy nhất ở bệnh viện Bạch Mai ở thời điểm hiện tại) có ưu điểm hơn nhiều so
với dao Gamma cổ điển Leksell khác vì các chùm tia phát ra từ nguồn xạ, sẽ thay
đổi liên tục do các nguồn và các lỗ quay. Do vậy nó đạt được hiệu quả điều trị cao
nhất với mô bệnh mà liều chiếu cho mô lành lại rất thấp.
Gamma Knife là để điều trị các u não, tổn thương dị dạng mạch máu não có
kích thước nhỏ, nằm ở vị trí sâu, khó với tới một cách an toàn bằng lưỡi dao mổ
thông thường. Khi tổn thương nằm sâu, nếu mổ hở như thông thường, phẫu thuật
viên có thể làm tổn thương vùng não lành, gây biến chứng cho bệnh nhân sau đó
như rối loạn thần kinh, tâm thần, liệt nửa người hoặc liệt các vùng thần kinh. Thậm
52
chí nếu đụng chạm đến những trung khu thần kinh quan trọng, bệnh nhân còn có thể
tử vong ngay trên bàn mổ.
Gamma Knife đặc biệt có giá trị cao đối với những trường hợp u ác tính di
căn lên não. Khi di căn đến những cơ quan trong cơ thể, u ác tính thường tạo ra
nhiều khối u khác nhau và gây chèn ép. Đối với những cơ quan thông thường, u ác
tính thường không tạo ra hậu quả tức thời, nhưng đối với não lại gây ra tăng áp lực
trong sọ, đe dọa tức khắc đến tính mạng bệnh nhân. Khi can thiệp bằng dao gamma,
hiện tượng chèn ép được giải quyết, phù não giảm nhanh chóng, kéo dài sự sống
cho bệnh nhân.
4.8.2.2 Tia gamma khử mùi khó chịu trong đậu Hà Lan
Hình 4.18. Đậu Hà Lan là món ăn bổ, nhưng hay gây ợ chua.
Người sành ăn đậu Hà Lan sắp tới sẽ không phải phàn nàn về các chứng đầy
hơi, ợ chua... do một loại axit yếu dưới lớp vỏ của loại hạt này gây ra trong ruột.
Một nhóm khoa học Ấn Độ tuyên bố mới tìm ra phương pháp dùng tia gamma để
khử axit này.
Nhóm khoa học của Jammala Machaiah và Mrinal Pednekar, tại Trung tâm
Nguyên tử Bhabha (Ấn Độ), đã dùng tia gamma yếu khử gần hết các thành tố axit
oligosacharide dưới vỏ đậu Hà Lan. Bình thường, khi tiêu hóa, các vi khuẩn trong
ruột ăn thứ axit này, gây chứng đầy hơi, ợ chua rất khó chịu.
Theo ông Machaiah, đậu Hà Lan sau khi được xử lý bằng tia gamma không
hề bị nhiễm xạ, và không gây hại gì cho sức khỏe. Tuy nhiên, một số nhà khoa học
53
châu Âu kịch liệt phản đối phương pháp này, vì họ cho rằng tia gamma có thể tạo ra
các thành tố gây ung thư trong thực vật.
4.8.2.3 .Kính viễn vọng tia gamma (GLAST)
Tại sao gọi là Glast?
Đó là tên viết tắt của Gamma-ray Large Area Space Telescope(kính viễn
vọng Không gian tia Gamma Diện tích rộng).Nhưng Nasa cũng mở cuộc thi tìm
một tên nào mới hay hơn cho phi thuyền không gian này .
Nhiệm vụ của Glast:
Glast sẽ rọi ánh sáng vào một số những hoạt động mãnh liệt nhất trong vũ
trụ, làm thoát ra năng lượng khổng lồ dưới dạng các tia Gamma.
Nó có thể quét bầu trời với những vụ nổ vũ trụ khối lượng lớn,những lỗ đen khổng
lồ quăng vật chất qua không gian,và những ngôi sao trung hòa điện tử với từ trường
cực mạnh. Thời gian hoạt động của Glast là 5 năm,nhưng cũng có thể kéo dài tới 10
năm.
Glast còn làm gì khác?
Glast cũng tìm hiều những vụ nổ vũ trụ bí mật được gọi là nổ tung tia gamma
(gamma-ray bursts-GRBs).
Những sự kiện này phóng ra năng lượng trong 1 giây bằng với một ngôi sao
như Mặt Trời phóng ra trong cuộc đời từ 5-10 tỉ năm.
Dave Thompson,nhà khoa học trong dự án trung tâm Bay Không gian
Goaddard của Nasa, nói: Chúng ta chỉ mới gãi ở bề mặt về hiện tượng của những tia
gamma. Chúng ta có nhiều điều cần biết chúng vận hành ra sao và quan trọng hơn
những vật thể và hiện tượng này đã ảnh hưởng thế nào đến vũ trụ. Đây là nơi Glast
sẽ tới.
Glast cũng có nhiệm vụ cùng tìm hiểu nền vật lí mới, nhằm rọi chiếu sáng
vào bản chất của vật thể tối chiếm khoảng 22% vũ trụ.
Nguyên tắc hoạt động của Glast?
54
Glast là một bước tiến so với những kính viễn vọng dùng tia gamma trước
đây và sẽ bao trùm một loại tia sáng không thể tin nổi với giới hạn năng lượng cao
nhờ quang phổ điện từ.
Tiến sĩ Steven Ritz, nhà khoa học cầm đầu về Glast, cho biết: nếu Glast là
một cây đàn dương cầm, nó có tới khoảng 23 bát âm. Với khả năng lớn đến vậy,
đều quan trọng nhất đối với chúng ta là kinh ngạc.
Glast sẽ hoạt động ra sao?
Dụng cụ chính trên phi thuyền không gian là Kính viễn Vọng Diện tích rộng
(Large Area Telescope-Lat). Những tia gamma mang theo nhiều năng lượng sẽ bị
bắt giữ theo các quy ước ,nên kính viễn vọng không có thấu kính hay gương phản
chiếu. Thay vào đó Glast sử dụng nhiều lớp lá kim loại để bắt giữ bức xạ năng
lượng từ ngoài không gian.
Một khi Glast lên tới quỹ đạo, phi thuyền sẽ được kiểm tra lại đến tuần lễ
thứ ba sau khi phóng đi, các dụng cụ của phi thuyền bắt đầu bắt sóng và kiểm tra
kích cỡ.
Hình 4.19. Hình ảnh của Glast
55
Hình 4.20. Hình ảnh của Glast
Hình 4.21. Hình ảnh của Glast.
56
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Hữu Chí (2003), Điện động lực học, nhà xuất bản Đại học Quốc gia
thành phố Hồ Chí Minh.
2. Phạm Văn Đổng, Hoàng Lan (2002), Giáo trình điện động lực học và thuyết
tương đối
3. Phan Thanh Vân (2007), Giáo trình vô tuyến điện tử, Đại học sư phạm thành
phố Hồ Chí Minh
4.
5.
bang-song-radio.htm
6.
radio.htm
7.
suc-khoe-nhu-the-nao.htm
8.
9.
100248.html#pid100248
10.
11.
12.
13.
14.
15.
khoe/65092740/217/
57
16.
kho/20016817/188/
17.
18.
19.
co/10934026/350/
20.
21.
=3213
22.
bang-song-radio.php
23.
24.
D=11
25.
26.
27.
50634E40334CD&idx=7&q=b%C6%B0%E1%BB%9Bc+s%C3%B3ng+s%C3%B
3ng+radio&p=1&title=C%C4%83ng+da%2C+l%C3%A0m+tan+m%E1%BB%A1
+b%E1%BA%B1ng+%3Cb%3Es%C3%B3ng%3C%2Fb%3E+t%E1%BA%A7n+s
%E1%BB%91+%3Cb%3Eradio%3C%2Fb%3E&url=http%3A%2F%2Fwww.sggp.
org.vn%2Fyhoc%2F2006%2F7%2F55394%2F
28.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhom09_2873.pdf