Đề tài Tìm hiểu một số giải pháp cơ bản về phát triển vùng nguyên liệu công ty cổ phần mía đường Lam Sơn

Tài liệu Đề tài Tìm hiểu một số giải pháp cơ bản về phát triển vùng nguyên liệu công ty cổ phần mía đường Lam Sơn: LỜI MỞ ĐẦU Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của bất kỳ một doanh nghiệp nào, nguyên liệu phục vụ cho quá trình sản xuất phải được ưu tiên hàng đầu. Trong công nghiệp chế biến muốn tồn tại và phát triển phải gắn với vùng nguyên liệu. Qua 14 năm thu mua và chế biến kể từ năm 1986 đến nay Công ty cổ phần mía đường Lam Sơn đã qua bao khó khăn có lúc tưởng chừng như không thể vượt qua. Tình hình thực tế Công ty đứng bên bờ vực phá sản nhưng rồi lại phát triển đi lên đem lại những thành quả tốt đẹp. Tất cả những thăng trầm ấy do nhiều nguyên nhân đem lại, xong suy cho cùng một trong số những nguyên nhân cơ bản quan trọng bậc nhất đó là vấn đề nguyên liệu cho nhà máy sản xuất. Đủ nguyên liệu nhà máy chạy hết công suất, khai thác được tiềm năng săn có của thiết bị, sản xuất kinh doanh có hiệu quả, giá thành hạ, đem lại lợi nhuận cao, nộp ngân sách Nhà nước tăng, công nhân có công ăn việc làm, đời sống ổn định và ngày càng được nâng cao, công nhân gắn bó với nhà máy. Thiếu ngu...

doc99 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1139 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Tìm hiểu một số giải pháp cơ bản về phát triển vùng nguyên liệu công ty cổ phần mía đường Lam Sơn, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của bất kỳ một doanh nghiệp nào, nguyên liệu phục vụ cho quá trình sản xuất phải được ưu tiên hàng đầu. Trong công nghiệp chế biến muốn tồn tại và phát triển phải gắn với vùng nguyên liệu. Qua 14 năm thu mua và chế biến kể từ năm 1986 đến nay Công ty cổ phần mía đường Lam Sơn đã qua bao khó khăn có lúc tưởng chừng như không thể vượt qua. Tình hình thực tế Công ty đứng bên bờ vực phá sản nhưng rồi lại phát triển đi lên đem lại những thành quả tốt đẹp. Tất cả những thăng trầm ấy do nhiều nguyên nhân đem lại, xong suy cho cùng một trong số những nguyên nhân cơ bản quan trọng bậc nhất đó là vấn đề nguyên liệu cho nhà máy sản xuất. Đủ nguyên liệu nhà máy chạy hết công suất, khai thác được tiềm năng săn có của thiết bị, sản xuất kinh doanh có hiệu quả, giá thành hạ, đem lại lợi nhuận cao, nộp ngân sách Nhà nước tăng, công nhân có công ăn việc làm, đời sống ổn định và ngày càng được nâng cao, công nhân gắn bó với nhà máy. Thiếu nguyên liệu nhà máy hoạt động kém hiệu quả, lãng phí thiết bị máy móc, khấu hao trên đầu sản phẩm tăng, sản xuất bị thua lỗ, công nhân không có công ăn việc làm, đời sống ngày càng khó khăn. Từ những vấn đề trên trong những năm gần đây, đặc biệt là từ khi có chủ trương đường lối đổi mới của Đảng và các chính sách của Nhà nước về giao quyền tự chủ cho sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp. Công ty cổ phần mía đường Lam Sơn đã chủ động đầu tư giải quyết tốt vấn đề nguyên liệu cung cấp cho nhà máy sản xuất ổn định và phát triển. Hiện nay trong xu thế phát triển mở rộng sản xuất kinh doanh, Công ty cổ phần mía đường Lam Sơn đã mở rộng nâng cao công suất nhà máy lên 6.500 tấn mía cây/ngày. Do đó việc xây dựng và phát triển vùng nguyên liệu đảm bảo đầy đủ cho nhà máy sản xuất ngày càng trở nên quan trọng và cấp bách hơn. Từ những vấn đề nêu trên, việc đặt ra những chương trình nghiên cứu về vùng nguyên liệu mía đường Lam Sơn, thực trạng vùng nguyên liệu và quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty cổ phần mía đường Lam Sơn trong những năm vừa qua và đề ra những giải pháp nhằm xây dựng, phát triển vùng nguyên liệu để cung cấp đầy đủ và ổn định cho nhà máy sản xuất là việc làm có ý nghĩa thiết thực đối với sự tồn tại và phát triển của Công ty. Xuất phát từ thực tiễn đó tôi đã chọn đề tài: "Một số giải pháp cơ bản về phát triển vùng Nguyên liệu Công ty Cổ phần mía đường Lam Sơn". Mục tiêu nghiên cứu đề tài này nhằm giải quyết một số vấn đề sau đây: - Chọn phương pháp quản lý đầu tư. - Hạ giá thành sản phẩm để tăng giá mía. - Nâng cao lợi ích cho người trồng mía. - Xây dựng mối quan hệ gắn bó giữa Công ty với người trồng mía. Đề tài này được nghiên cứu trên thực tế của vùng nguyên liệu mía đường Lam Sơn - Thanh Hoá. Đề tài này gồm 3 chương: Chương I : Cơ sở lý luận chung liên quan đến nguyên liệu Chương II : Sự hình thành và phát triển của Công ty cổ phần mía đường Lam Sơn Chương III : Một số giải pháp và ý kiến đề xuất Với thời gian thực tập tại Công ty không được nhiều lắm và khả năng hiểu biết của bản thân còn hạn chế nên trong đề tài này không tránh được những thiếu sót, em rất mong nhận được sự góp ý của thầy giáo Nguyễn Văn Duệ, các cấp lãnh đạo Công ty và các bạn giúp em hoàn thiện hơn nữa đề tài này. Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của thầy giáo Nguyễn Văn Duệ và Công ty cổ phần mía đường Lam Sơn. PHẦN I CƠ SỞ LÝ LUẬN I. TỔNG QUAN VỀ QUẢN TRỊ NGUYÊN VẬT LIỆU. 1. Khái niệm và mục tiêu của quản trị nguyên vật liệu. 1.1. Khái niệm quản trị nguyên vật liệu và mục tiêu của quản trị nguyên vật liệu. - Các thuật ngữ khác nhau như quản trị nguyên vật liệu và cung ứng được sử dụng như là mác chung cho quy mô toàn cục của tất cả các hoạt động được yêu cầu để quản lý dòng nguyên vật liệu từ các nhà cung cấp thông qua hoạt động của doanh nghiệp đến sử dụng vật liệu cuối cùng, hoặc đối với người tiêu dùng. Ta có khái niệm sau: - Quản trị nguyên vật liệu là các hoạt động liên quan tới việc quản lý dòng vật liệu vào, ra của doanh nghiệp. Đó là quá trình phân nhóm theo chức năng và quản lý theo chu kỳ hoàn thiện của dòng nguyên vật liệu, từ việc mua và kiểm soát bên trong các nguyên vật liệu sản xuất đến kế hoạch và kiểm soát công việc trong quá trình lưu chuyển của vật liệu đến công tác kho tàng vận chuyển và phân phối thành phẩm ( PGS.PTS Nguyễn Kim Truy (Chủ biên), 1999, trang 120 ). - Mục tiêu của quản trị nguyên vật liệu là: + Quản trị nguyên vật liệu nhằm đáp ứng yêu cầu về nguyên vật liệu cho sản xuất trên cơ sở có đúng chủng loại nơi nó cần và thời gian nó được yêu cầu. + Có tất cả chủng loại nguyên vật liệu khi doanh nghiệp cần tới. + Đảm bảo sự ăn khớp của dòng nguyên vật liệu để làm cho chúng có sẵn khi cần đến. + Mục tiêu chung là để có dòng nguyên vật liệu từ các nhà cung cấp đến tay người tiêu dùng mà không có sự chậm trễ hoặc chi phía không được điều chỉnh. 1.2. Nhiệm vụ của quản trị nguyên vật liệu. - Tính toán số lượng mua sắm và dự trữ tối ưu (kế hoạch cần nguyên vật liệu). - Đưa ra các phương án và quyết định phương án mua sắm cũng như kho tàng. - Đường vận chuyển và quyết định vận chuyển tối ưu. - Tổ chức công tác mua sắm bao gồm công tác từ khâu xác định bạn hàng, tổ chức nghiệp vụ đặt hàng, lựa chọn phương thức giao nhận, kiểm kê, thanh toán. - Tổ chức hoạt động vận chuyển nguyên vật liệu bao gồm từ khâu lựa chọn và quyết định phương án vận chuyển: Bạn hàng vận chuyển đến kho doanh nghiệp thuê ngoài hay tự tổ chức vận chuyển bằng phương tiện của doanh nghiệp, bố trí và tổ chức hệ thống kho tàng hợp lý (vận chuyển nội bộ). - Tổ chức cung ứng và tổ chức quản trị nguyên vật liệu và cấp phát kịp thời cho sản xuất. 2. Phân loại nguyên vật liệu. 2.1. Phân loại nguyên vật liệu. Nguyên vật liệu chính: là những thứ mà sau quá trình gia công, chế biến sẽ thành thực thể vật chất chủ yếu của sản phẩm (kể cả bán thành phẩm mua vào). Vật liệu phụ: Là những vật liệu chỉ có tác dụng phụ trợ trong sản xuất, được sử dụng kết hợp với vật liệu chính để làm thay đổi màu sắc, hình dáng, mùi vị hoặc dùng để bảo quản, phục vụ hoạt động của các tư liệu lao động hay phục vụ cho lao động của công nhân viên chức (dầu nhớt, hồ keo, thuốc nhuộm, thuốc tẩy, thuốc chống rỉ, hương liệu, xà phòng...) Nhiên liệu: Là những thứ để cung cấp nhiệt lượng trong quá trình sản xuất, kinh doanh như than, củi, xăng, hơi đốt, khí đốt... Phụ tùng thay thế: Là các chi tiết, phụ tùng để sửa chữa và thay thế cho máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải... Vật liệu và thiết bị xây dựng cơ bản: Bao gồm các vật liệu và thiết bị (cần lắp, không cần lắp, vật cấu kết, công cụ, khí cụ...) mà doanh nghiệp nhằm mục đích đầu tư xây dựng cơ bản. Phế liệu: Là các loại thu được trong quá trình sản xuất hay thanh lý tài sản, có thể sử dụng hay bán ra ngoài (phôi bào, vải vụn, gạch, sắt...). Vật liệu khác: Bao gồm các vật liệu còn lại ngoài các thứ chưa kể trên như bao bì, vật đóng gói, các loại vật tư đặc chủng ( PTS Nguyễn Văn Công (Chủ biên), 1998, trang 45,46 ). 2.2. Vai trò nguyên vật liệu. Nguyên vật liệu là một bộ phận của đối tượng lao động, là một bộ phận trọng yếu của quá trình sản xuất kinh doanh, nó chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất kinh doanh nhất định và toàn bộ nguyên vật liệu được chuyển hết vào chi phí kinh doanh. Nguyên vật liệu là một trong ba yếu tố của quá trình sản xuất (sức lao động, tư liệu lao động và đối tượng lao động) trực tiếp cấu tạo nên thực thể của sản phẩm. Trong quá trình sản xuất không thể thiếu nhân tố nguyên vật liệu vì thiếu nó quá trình sản xuất sẽ không thể thực hiện được hoặc sản xuất bị gián đoạn. Chất lượng nguyên vật liệu ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản xuất, chúng ta không thể có một sản phẩm tốt khi nguyên vật liệu làm ra sản phẩm đó lại kém chất lượng. Do vậy cần có một kế hoạch đảm bảo nguồn nguyên vật liệu cho quá trình sản xuất được diễn ra thường xuyên liên tục, cung cấp đúng, đủ số lượng, quy cách, chủng loại nguyên vật liệu... chỉ trên cơ sở đó mới nâng cao được các chỉ tiêu kinh tế, kỹ thuật, sản xuất kinh doanh mới có lãi và doanh nghiệp mới có thể tồn tại được trên thương trường. - Xét cả về thực tiễn ta thấy rằng, nguyên vật liệu là một trong ba yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất kinh doanh, nếu thiếu nguyên vật liệu hoặc sản xuất cung cấp không đầy đủ, đồng bộ theo quá trình sản xuất kinh doanh thì sẽ không có hiệu quả cao. - Xét về mặt vật chất thuần tuý thì nguyên vật liệu là yếu tố trực tiếp cấu tạo nên sản phẩm, chất lượng nguyên vật liệu ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng sản phẩm. Do đó công tác quản trị nguyên vật liệu là một biện pháp cơ bản để nâng cao chất lượng sản phẩm. 2.3. Vai trò quản trị nguyên vật liệu. - Quản trị nguyên vật liệu tốt sẽ điều kiện tiền đề cho hoạt động sản xuất có thể tiến hành và tiến hành có hiệu quả cao. - Quản trị nguyên vật liệu tốt sẽ tạo cho điều kiện cho hoạt động sản xuất diễn ra một cách liên tục, không bị gián đoạn góp phần đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng. - Là một trong những khâu rất quan trọng, không thể tách rời với các khâu khác trong quản trị doanh nghiệp. - Nó quyết định tới chất lượng của sản phẩm đáp ứng nhu cầu ngày càng khắt khe, khó tính của khách hàng. - Một vai trò rất quan trọng nữa của quản trị nguyên vật liệu đó là nó góp phần làm giảm chi phí kinh doanh, giảm giá thành sản phẩm do đó tạo điều kiện nâng sức cạnh tranh của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh. 3. Sự luân chuyển của dòng nguyên vật liệu. Nắm bắt được sự luân chuyển của dòng vật liệu sẽ giúp cho nhà quản trị nhận biết được xu hướng vận động, các giai đoạn di chuyển của dòng nguyên vật liệu để có biện pháp quản lý một cách tốt nhất. Một trong những đặc trưng nổi bật nhất của các doanh nghiệp lớn đó là sự vận động. Với một số lượng lớn nhân lực và sự phức tạp của thiết bị có thể kéo theo việc quản lý nguyên vật liệu trong doanh nghiệp. Các vật liệu dịch chuyển từ hoạt động này sang hoạt động khác khi các yếu tố đầu vào được chuyển thành các đầu ra thông qua quá trình chế biến. Ta có sơ đồ sau: Sơ đồ luân chuyển dòng vật liệu Bên bán Bên Nhận hàng Nhận hàng Vận chuyển Đầu ra Qua sơ đồ trên ta thấy, phần đầu vào của dòng vật liệu kéo theo những hoạt động như mua, kiểm soát, vận chuyển và nhận. Các hoạt động liên quan tới nguyên vật liệu và cung ứng nguyên vật liệu trong phạm vi doanh nghiệp có thể bao gồm kiểm tra quá trình sản xuất, kiểm soát tồn kho và quản lý vật liệu. Các hoạt động liên quan đến đầu ra có thể bao gồm đóng gói, vận chuyển và kho tàng. 4. Các đơn vị cung ứng và một số hoạt động liên quan tới quản trị nguyên vật liệu. Cơ cấu tổ chức của một doanh nghiệp và trách nhiệm được giao cho từng đơn vị phụ thuộc vào khả năng của người lao động và nhu cầu của doanh nghiệp khi các nhà ra quyết định của nó quan sát được điều đó. Tương ứng với mỗi cách mà doanh nghiệp được tổ chức, một số chức năng liên quan tới quản trị nguyên vật liệu có thể được thực hiện trong một số bộ phận của doanh nghiệp. Ta có một số hoạt động liên quan tới quản trị nguyên vật liệu: - Mua. - Vận chuyển nội bộ. - Kiểm soát tồn kho. - Kiểm soát sản xuất. - Tập kết tại phân xưởng. - Quản lý vật liệu. - Đóng gói và vận chuyển. - Kho tàng bên ngoài và phân phối. Những người có trách nhiệm đối với các chức năng trên báo cáo cho nhà quản lý vật liệu, nhà cung ứng hoặc nhà quản lý điều hành. Các chức năng được thực hiện và cộng tác để đảm bảo điều hành một cách có hiệu quả. Từ chỗ các doanh nghiệp tổ chức theo các cách thức rất đa dạng nó có thể đặt tên các loại phòng cụ thể và có trách nhiệm chính xác như tên của nó. Sau đây ta cần phân tích một số hoạt động trên. Bốn chức năng đầu hầu như chỉ diễn ra trong hoạt động sản xuất vật chất. Hoạt động mua bán và kiểm tra hàng hoá trong khi xảy ra trong sản xuất vật chất và phi vật chất. 4.1. Hoạt động kiểm soát sản xuất: Nó thực hiện các chức năng sau: - Xây dựng lịch điều hành sản xuất cho phù hợp với khả năng sẵn có của nguyên vật liệu thưo công việc và tiến độ tồn đọng trước đó, xác định cho nhu cầu sản phẩm và thời gian cho sản xuất. - Giải quyết nhanh gọn hoặc hướng dẫn các phân xưởng sản xuất nhằm thực hiện các tác nghiệp cần thiết để đáp ứng tiến độ sản xuất. - Xuất vật liệu cho các phân xưởng hoạt động khi chức năng này không được thực hiện bởi bộ phận kiểm tra vật liệu. - Quản lý quá trình làm việc trong các bộ phận tác nghiệp xúc tiến công việc của các bộ phận này sao cho nó có thể bám sát tiến độ và tháo gỡ những công việc của một số phòng khi tiến độ thay đổi. 4.2. Hoạt động vận chuyển. Chi phí vận tải và thời gian mà nó thực hiện để nhận được các sản phẩm đầu vào hoặc phân phối sản phẩm của doanh nghiệp là hết sức quan trọng. Việc lựa chọn địa điểm cho các phương tiện của doanh nghiệp có mối quan hệ cố hữu với chi phí và thời gian từ sản xuất đến giao nhận. Sau khi địa bàn cho các phương tiện được lựa chọn, thì chi phí và thời gian vận chuyển cho các hàng hoá bên trong và bên ngoài đều có thể được kiểm soát đối với một số khu vực thông qua bộ phận vận tải của doanh nghiệp. Bộ phận vận tải của doanh nghiệp có trách nhiệm hợp đồng với người thực hiện để vận chuyển hàng hoá (bộ phận vận chuyển có nhiệm vụ lựa chon các phương tiện và hình thức vận chuyển, kiểm soát vận đơn để xem xét hoá đơn có hợp lệ không, phối hợp sao cho chi phí là thấp nhất). 4.3. Hoạt động giao nhận. Một số bộ phận của tổ chức thông thường là bộ phận tiếp nhận phải có trách nhiệm đối với hàng hoá nhận ddưcợ của vật tư đến và sửa chữa, bảo dưỡng và cung cấp. Bộ phận này có trách nhiệm: - Chuẩn bị báo cáo tiếp nhận nguyên vật liệu. - Giải quyết nhanh gọn các nguyên vật liệu nhằm chỉ ra ở đâu chúng sẽ được kiểm tra, cất trữ hoặc sử dụng. 4.4. Hoạt động xếp dỡ. - Quản lý các phương tiện vận tải của doanh nghiệp. - Chuyển hàng lên phương tiện vận tải. II. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI QUẢN TRỊ NGUYÊN VẬT LIỆU TRONG DOANH NGHIỆP. 1. Số lượng nhà cung cấp trên thị trường. Một trong những nhân tố ảnh hưởng rất thường tới các quá trình quản trị nguyên vật liệu đó là các nhà cung cấp. Số lượng đông đảo các nhà cung cấp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau là thể hiện sự phát triển của thị trường các yếu tốt đầu vào nguyên vật liệu. Thị trường này càng phát triển bao nhiêu càng tạo ta khả năng lớn hơn cho sự lựa chọn nguồn nguyên vật liệu tối ưu bấy nhiêu. Mặt khác, sức ép của nhà cung cấp có thể tạo ra các điều kiện thuận lợi hoặc khó khăn cho quản trị nguyên vật liệu. Sức ép này gia tăng trong những trường hợp sau: - Một số công ty độc quyền cung cấp. - Không có sản phẩm thay thế. - Nguồn cung ứng trở nên khó khăn. - Các nhà cung cấp đảm bảo các nguồn nguyên vật liệu quan trọng nhất cho doanh nghiệp. 2. Giá cả của nguồn nguyên vật liệu trên thị trường. Trong cơ chế thị trường giá cả là thường xuyên thay đổi. Vì vậy việc hội nhập và thích nghi với sự biến đổi đó là rất khó khăn do việc cập nhật các thông tin là hạn chế. Do vậy nó ảnh hưởng tới việc định giá nguyên vật liệu, quản lý nguyên vật liệu trong doanh nghiệp. Việc thay đổi giá cả thường xuyên là do: - Tỷ giá hối đoái thay đổi làm cho các nguyên vật liệu nhập khẩu với giá cũng khác nhau. - Do các chính sách của chính phủ (quata, hạn ngạch...) - Do độc quyền cung cấp của một số hãng mạnh. 3. Trình độ chuyên môn của cán bộ quản lý trong doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp ở nước ta hiện nay do việc xem nhẹ các hoạt động quản lý liên quan tới nguồn đầu vào của doanh nghiệp cho nên ảnh hưởng rất lớn tới kết quả kinh doanh. Một trong những yếu tố của việc xem nhẹ này là việc đánh giá không đúng tầm quan trọng của yếu tố đầu vào (đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước) do trình độ của cán bộ quản lý còn hạn chế, số lượng đào tạo chính quy rất ít, phần lớn làm theo kinh nghiệm và thói quen. Mặt khác là do những yếu kém của cơ chế cũ để lại làm cho một số doanh nghiệp hoạt động không năng động còn trông, chờ, ỷ lại... 4. Hệ thống giao thông vận tải. Một nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới công tác quản trị nguyên vật liệu là hệ thống giao thông vận tải của một nơi, một khu vực, một quốc gia, những nhân tố này thuận lợi sẽ giúp cho quá trình giao nhận nguyên vật liệu thuận tiện, đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp, làm cho mọi hoạt động không bị ngừng trệ mà trở nên đồng đều, tạo ra mức dự trữ giảm, kết quả là ta sử dụng vốn có hiệu quả hơn. Thực tế đối với mỗi doanh nghiệp nguồn nhập nguyên vật liệu không chỉ trong nước mà còn cả các nước khác trên thế giới. Như vậy hệ thống giao thông vận tải có ảnh hưởng lớn tới công tác quản trị nguyên vật liệu của một doanh nghiệp. Nó sẽ tạo điều kiện thuận lợi hoặc kìm hãm một doanh nghiệp phát triển, đồng nghĩa với nó là việc hoạt động có hiệu quả hay không của một doanh nghiệp. II. VAI TRÒ CỦA NGUYÊN VẬT LIỆU TRONG CÁC DOANH NGHIỆP CHẾ BIẾN NÔNG-LÂM-THUỶ SẢN Nguyên liệu dùng vào sản xuất bao gồm nhiều loại nguyên liệu như: nguyên liệu chính, nguyên liệu phụ... Chúng tham gia một lần vào chu kỳ sản xuất và cấu thành thực thể sản phẩm. Nó là một trong những yếu tố chính của quá trình sản xuất. Vì vậy, nếu thiếu nguyên lỉệu không thể tiến hành được sản xuất. Đảm bảo nguyên liệu cho sản xuất thực chất là nghiên cứu một trong các yếu tố chủ yếu của sản xuất. Thông qua việc nghiên cứu này để giúp cho doanh nghiệp thấy rõ được ưu nhược điểm trong công tác cung cấp nguyên liệu đồng thời có biện pháp đảm bảo cung cấp đầy đủ, kịp thời, đúng chủng loại và quy cách phẩm chất. Không để xảy ra tình trạng cung cấp thiếu nguyên liệu ngừng sản xuất, thừa nguyên liệu gây ứ đọng vốn sản xuất. 1. Đảm bảo tình hình cung cấp về tổng khối lượng nguyên liệu. Để hoàn thành nhiệm vụ sản xuất , đi đôi với việc đảm bảo các yếu tố lao động, tư liệu lao động, phải thực hiện tốt việc cung cấp nguyên liệu cho sản xuất. Tuỳ thuộc vào đặc điểm sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp mà nguyên liệu của nó có những nét đặc trưng riêng. Đối với doanh nghiệp công nghiệp nguyên liệu gồm: nguyên liệu chính, nguyên liệu phụ, phế liệu. Đối với công ty xây lắp nguyên liệu gồm xi măng, sắt, thép, cát. Đối với doanh nghiệp nông nghiệp nguyên liệu gồm: hạt giống, phân bón, thuốc trừ sâu... Đối với sản xuất như ngành đường nguyên liệu là cây mía. Trong điều kiện kinh tế thị trường nguyên liệu nhập về doanh nghiệp từ nhiều nguồn khác nhau như: tự nhập khẩu, liên doanh liên kết, đối lưu vật tư... Mỗi nguồn nhập lại có một giá mua, bán khác nhau. Vì vậy để đánh giá tình hình cung cấp về tổng khối lượng nguyên liệu không thể dựa vào giá thực tế của chúng mà phải biểu hiện khối lượng nguyên liệu thực tế cung cấp theo giá kế hoạch. Ngoài ra cần dựa vào tỷ lệ hoàn thành kế hoạch cung cấp về tổng khối lượng nguyên liệu. 2. Đảm bảo tình hình cung cấp về các loại nguyên liệu chủ yếu. Trong thực tế sản xuất, doanh nghiệp có thể sử dụng vật liệu thay thế để sản xuất sản phẩm song điều đó không có nghĩa là đối với mọi nguyên liệu đều có thể thay thế được như: cây mía, cao su... Các loại nguyên liệu không thể thay thế được gọi là nguyên liệu chủ yếu, tham gia cấu thành thực thể sản phẩm. Để đảm bảo sản xuất không bị gián đoạn, trước hết doanh nghiệp phải đảm bảo cung cấp đầy đủ các nguyên liệu chủ yếu. Đảm bảo tình hình cung cấp về tổng khối lượng nguyên liệu mới chỉ biết được nét chung về vấn đề này. Mọi nhân tố cá biệt đã được bù trừ lẫn nhau. Ngay cả trong trường hợp doanh nghiệp hoàn thành vượt mức kế hoạch cung cấp về tổng khối lượng nguyên liệu, nhưng tình trạng ngừng sản xuất vẫn xảy ra, nếu doanh nghiệp không hoàn thành kế hoạch cung cấp về nguyên liệu chủ yếu cho quá trình sản xuất. Đảm bảo tình hình cung cấp về các loại nguyên liệu chủ yếu, nhằm mục đích thấy rõ ảnh hưởng của việc cung cấp nguyên liêụ đối với việc đảm bảo tính liên tục của chu trình sản xuất ở doanh nghiệp. Khi đảm bảo cung cấp nguyên liệu không lấy nguyên liệu cung cấp vượt kế hoạch để bù cho loại nào đó không đạt mức kế hoạch. Điều đó có nghĩa là chỉ cần một loại nguyên liệu chủ yếu, khối lượng cung cấp thực tế thấp hơn kế hoạch là đủ kết luận doanh nghiệp hoàn thành kế hoạch cung cấp về các loại vật tư chủ yếu. Khi nhịp điệu sản xuất khẩn trương, việc nắm bắt kịp thời tiến độ cung cấp các loại nguyên liệu chủ yếu là cần thiết đối với mọi doanh nghiệp sản xuất. Bởi vì nó liên tục trực tiếp đến tiến độ sản xuất. Tuỳ thuộc trọng điểm nguyên liệu cần quản lý một cách sát sao, mà xác định loại nào cần thường xuyên phân tích và ra thông báo kịp thời để chấn chỉnh tồn tại ở khâu cung cấp. Khi thường xuyên phân tích tình hình cung cấp về các loại nguyên liệu chủ yếu thường sử dụng chỉ tiêu số ngày đảm bảo sản xuất , dựa vào chỉ tiêu này có thể biết được đến một ngày nào đó, số lượng nguyên liệu hiện còn đủ sản xuất trong bao nhiêu ngày. 3. Đảm bảo tình hình khai thác các nguồn nguyên liệu Trong nền kinh tế thị trường mỗi doanh nghiệp có quyền chủ động trong việc khai thác các nguồn nguyên liệu để đảm bảo sản xuất. Bên cạnh khối lượng nguyên liệu nhập từ các đơn vị cung ứng vật tư của Nhà nước, doanh nghiệp có thể tự nhập khẩu, liên doanh liên kết và nhập từ các nguồn khác. Mở ra cơ chế mới trong việc cung cấp nguyên liệu, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thoát khỏi sự bế tắc, kéo dài trong một thời kỳ bao cấp chờ đợi Nhà nước cung ứng, trong khi bản thân Nhà nước không đáp ứng nổi. Để thấy rõ thành tích của doanh nghiệp trong việc thực hiện kế hoạch cung cấp nguyên liệu, một trong những nội dung có ý nghĩa quan trọng là phải chỉ ra cho được tình hình khai thác của nguồn khả năng về nguyên liệu để đảm bảo nhu cầu sản xuất. Khi nghiên cứu vấn đề này, có thể so sánh trị giá nguyên liệu thực tế từng nguồn cung cấp với tổng trị giá nguyên liệu kế hoạch, cũng như với tổng giá trị nguyên liệu thực tế cung cấp. Qua đó sẽ thấy được tỷ trọng của từng nguồn trong tổng giá nguyên liệu được cung cấp trong kỳ. Khối lượng nguyên liệu cung cấp trong kỳ là có liên quan mật thiết với tình hình sản xuất dự trữ và sử dụng nguyên liệu. Khi phân tích cần đặt nó trong mối quan hệ với các nhân tố trên để kết luận được đầy đủ và sâu sắc. Trên thực tế, có khi khối lượng nguyên liệu cung cấp tăng nhưng phẩm chất quy cách không đảm bảo sẽ dẫn đến tình trạng gây khó khăn cho sản xuất. Ngay cả trong trường hợp chất lượng và quy cách nguyên liệu đảm bảo, nếu khối lượng sản xuất không tăng mà tăng khối lượng nhập sẽ dẫn đến ứ đọng vốn. Vì thế, vấn đề có tính nguyên tắc đặt ra cho công tác cung cấp nguyên liệu ở mỗi doanh nghiệp cần phải quán triệt là: đảm bảo cung cấp đầy đủ, kịp thời, đúng chủng loại và quy cách phẩm chất nhằm phục vụ tốt cho quá trình sản xuất kinh doanh ở bất cứ doanh nghiệp nào. 4. Phát triển nguyên liệu trong công nghiệp chế biến nông sản Chế biến nông sản là chế biến sản phẩm của ngành trồng trọt. Muốn có nguyên liệu cho việc chế biến phải phát triển ngành trồng trọt. Ngành trồng trọt cung cấp cho xã hội nhu cầu chủ yếu về lương thực cho con người và gia súc, nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, hoa quả, rau xanh cho bữa ăn hàng ngày của con người, sản phẩm hàng hóa cho xuất khẩu và cũng chính cây trồng của ngành nông nghiệp cung cấp cây xanh tạo nên lá phổi của trái đất, góp phần cân bằng sinh thái cho quả đất chúng ta. Như vậy, sản phẩm của ngành trồng trọt rất đa dạng và phong phú. Ngành trồng trọt sản phẩm chủ yếu là sản phẩm cây trồng. Vì nó là sản phẩm của ngành trồng trọt do đó sản lượng sản phẩm trước hết tuỳ thuộc vào diện tích gieo trồng, năng suất cây trồng. Diện tích gieo trồng phụ thuộc vào thiên tai, chất đất, loại đất và thời vụ mà người ta gieo trồng, nhiều loại giống cây trồng khác nhau mỗi loại giống cây trồng có năng suất thu hoạch khác nhau do đó khi thay đổi giống cây trồng, tức là thay đổi cơ cấu diện tích gieo trồng, tuỳ năng suất từng loại cây trồng có thể thay đổi năng suất thu hoạch bình quân. Nếu chúng ta thay đổi sản lượng cây trồng cuối cùng phải tiến hành cải tạo đất, thứ hạng đất từ đó làm tăng năng suất tăng sản lượng cây trồng. Vì vậy muốn tăng sản lượng cây trồng phục vụ cho công nghiệp chế biến nông sản ta phải tăng diện tích gieo trồng, diện tích mất trắng, cơ cấu diện tích gieo trồng và năng suất từng loại cây trồng. 5. Tầm quan trọng của nguyên liệu trong công việc chế biến nông sản nói chung và với ngành đường nói riêng. Trong công nghiệp chế biến nông sản thì nguyên liệu là vấn đề hàng đầu, quyết định sự sống còn và phát triển của nhà máy. Thiếu nguyên liệu trong sản xuất, kinh doanh sẽ trì trệ, lãng phí máy móc, thiết bị, công nhân sẽ không có công ăn việc làm, đời sống khó khăn. Do đó giải quyết tốt vấn đề nguyên liệu được các nhà máy đặc biệt quan tâm chú ý, đó là một nhiệm vụ trong sản xuất kinh doanh. Đặc điểm của nguyên liệu chế biến thường là nguyên liệu tươi, cồng kềnh, khó bảo quản, không dự trữ được lâu, gieo trồng và thu hoạch mang tính thời vụ nhất định. Trong khi đó nhu cầu của doanh nghiệp chế biến đường là: sản xuất liên tục, nguyên liệu tươi, thu hoạch xong phải đưa vào chế biến ngay, nếu để lâu chất lượng sẽ giảm. Mía sau khi thu hoạch cứ một ngày để lâu lại trên bãi chất lượng mía giảm 0,03 trữ đường, nếu để quá thời hạn cho phép thì đường sẽ biến chất không ra được sản phẩm đường, mà ra một sản phẩm khác, thậm chí còn làm hỏng một lô mía khác. Mặt khác trong sản xuất nông nghiệp các loại cây trồng thường tranh chấp lẫn nhau, không ổn định. Trồng mía sau mỗi năm mới cho thu hoạch nếu không có chính sách hợp lý nông dân sẽ bỏ trồng mía mà chuyển trồng cây hoa màu khác như cây ngô, khoai, sắn, cao su.... Thực tế ở nước ta trong nhiều năm qua một số nhà máy do không giải quyết tốt vấn đề nguyên liệu nên sản xuất bị đình đốn, kém hiệu quả thậm chí còn bị đóng cửa, dỡ bỏ nhà máy đi nơi khác. Trước cách mạng tháng 8 năm 1945 thực dân Pháp đã xây dựng ở miền Đông Nam Bộ hai nhà máy đường nhưng do không giải quyết tốt vấn đề nguyên liệu hai nhà máy bị thải, bỏ. Năm 1961 Nhà nước ta đầu tư xây dựng nhà máy đường Vạn Điểm công suất 1.000 tấn mía/ngày. Qua bao nhiêu năm vẫn không đủ nguyên liệu cho nhà máy sản xuất, từ năm 1962 đến 1983 trong 21 năm chỉ thu mua được 1.312.486 tấn mía, bình quân mỗi năm chỉ thu mua và chế biến được 62.516 tấn mía. Trong khi đó yêu cầu nguyên liệu của nhà máy là 160.000 tấn/năm. Bước sang thời kỳ đổi mới xoá bỏ bao cấp, mỗi năm nhà máy chỉ thu mua được 30.000 tấn mía. Do không giải quyết được nguyên liệu từ năm 1996 đến nay nhà máy đóng cửa không sản xuất và đang có phương án dỡ bỏ đi nơi khác. Tiếp đó là nhà máy đường Sông Lam - Nghệ An cũng được xây dựng năm 1961, công suất 500 tấn mía/ngày, hàng năm yêu cầu 70.000 tấn mía nguyên liệu nhưng trong suốt 20 năm hoạt động, bình quân mỗi năm nhà máy chỉ thu mua và chế biến được 32.000 tấn, chưa đạt 50% nguyên liệu, hiệu quả sản xuất thấp. Cũng trong bối cảnh đó nhà máy đường Việt Trì - Vĩnh Phú trong nhiều năm sản xuất bị thua lỗ, nợ Nhà nước ngày một tăng, nguyên liệu vận chuyển về nhà máy 2 - 3 ngày mới đủ ép một ngày, cũng do thiếu nguyên liệu. Nhà máy đường Lam Sơn công suất 1.500 tấn mía/ngày hàng năm yêu cầu từ 225.000 đến 250.000 tấn mía để sản xuất ra 22.500 đến 25.000 tấn đường. Được Nhà nước đầu tư xây dựng từ đầu năm 1980 đến cuối năm 1986 nhà máy căn bản hoàn thành và đi vào hoạt động. Là nhà máy có quy mô hiện đại, thiết bị toàn bộ của pháp, công nghệ sản xuất tiên tiến nhưng trong giai đoạn đầu từ 1986 - 1990 khó khăn nhất là thiếu nguyên liệu, liên tục trong suốt 4 năm liền nhà máy chỉ sử dụng được 10% công suất thiết bị (vụ mía 1986 - 1987 thu mua và chế biến 9.600 tấn mía, vụ bằng 4% công suất, vụ mía 1987 - 1988 thu mua được 24.000 tấn mía, vụ mía 1988 - 1989 thu mua được 36.000 tấn mía bằng 12% công suất), nhà máy đứng trước nguy cơ phải đóng cửa, thậm chí có phương án tháo dỡ nhà máy đưa vào miền Nam. Từ những dẫn liệu trên đây chúng ta có thể khẳng định rằng xây dựng và phát triển vùng nguyên liệu là vấn đề then chốt có tính chất quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của nhà máy nhất là trong giai đoạn đến năm 2000 Nhà nước ta đang có chủ trương thực hiện chương trình mía đường trong cả nước đạt 1 triệu tấn đường và đang xúc tiến xây dựng một loạt nhà máy, do đó việc xây dựng và phát triển vùng nguyên liệu là bài học cho tất cả các nhà máy đường đã và sẽ xây dựng, việc quy hoạch xây dựng và phát triển vùng nguyên liệu vừa là bước khởi đầu, vừa là khâu quyết định đến sự tồn tại và phát triển của một nhà máy. III - VAI TRÒ CỦA NGÀNH ĐƯỜNG TRONG VIỆC CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU VÙNG TỪ NÔNG NGHIỆP SANG CÔNG NÔNG NGHIỆP NÔNGTHÔN ĐIỂN HÌNH LÀ VÙNG KINH TẾ LAM SƠN Khi phê duyệt luận chứng kinh tế kỹ thuật về mô hình hiệp hội mía đường Lam Sơn, Nhà nước coi đây là một mô hình kinh tế mới nếu thành công sẽ được nhân rộng ra toàn quốc. Thực tế mô hình này đã thành công được nhiều doanh nghiệp Nhà nước áp dụng và nhân rộng ra toàn quốc. Lúc đầu kinh tế Lam Sơn với 4 nông trường (Sông Âm, Lam Sơn, Sao Vàng, Thống Nhất) sau nhiều năm chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi đã không thay đổi được bộ mặt kinh tế vùng. Thậm chí bản thân các đơn vị này Nhà nước phải bù lỗ, đồng thời cũng không làm được vai trò chủ đạo của các doanh nghiệp Nhà nước đóng trên địa bàn lãnh thổ. Năm 1986 khi nhà máy đường Lam Sơn ra đời (nay là Công ty đường Lam Sơn). Sau những bước khó khăn ban đầu nhà máy đã tìm ra những giải pháp đúng đắn, có hiệu quả, chỉ trong vòng mấy năm từ 1990 đến nay Công ty Cổ phần mía đường Lam Sơn đã góp phần quan trọng làm thay đổi bộ mặt kinh tế xã hội của cả một vùng trung du đồi núi của tỉnh Thanh Hoá. Từ một động thái kinh tế - xã hội kém phát triển sang một giai đoạn mới - giai đoạn tạo những tiền đề ban đầu để chuyển sang kinh tế phát triển mà nội dung của nó là chuyển dịch cơ cấu kinh tế công nghiệp chế biến gắn với nông nghiệp, doanh nghiệp Nhà nước gắn với thị trường mà tài chính tín dụng là sợi dây chuyền xuyên suốt trong qúa trình đó - sự chuyển dịch này đã làm thay đổi nội dung sinh hoạt toàn vùng. Từ thực tiễn vùng Lam Sơn có thể nói rằng sự ra đời của cơ sở công nghiệp chế biến cùng những bước tìm tòi đổi mới cơ chế quản lý ở đây cũng chính là nội dung của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đối với nông thôn - nông nghiệp - nông dân theo tinh thần đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII đã đề ra. Bước đi của Lam Sơn cũng chính là bước đi thử nghiệm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong một vùng nông nghiệp lạc hậu tự cung, tự cấp, tự túc, không lệ thuộc vào thiên nhiên. Qua đánh giá khái quát trên ta có thể xét vai trò của Công ty cổ phần mía đường Lam Sơn đối với quá trình phát triển nông thôn, nông nghiệp, nông dân trong vùng như sau: 1. Giải quyết tốt mối quan hệ CN-NN-DV của vùng theo hướng Công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Cơ sở công nghiệp chế biến ra đời từ một vùng nông nghiệp để tìm ra cơ chế, hình thức kinh tế giữa công nghiệp với nông nghiệp, giữa kinh tế Nhà nước với kinh tế hộ nông dân là một khâu đột phá là cuộc cách mạng sâu sắc trong kỹ thuật sản xuất, được đặc trưng bởi công nghiệp chuyển hoá từ thủ công là phổ biến sang kỹ thuật công nghiệp trở thành một nhân tố chủ đạo chi phối quá trình sản xuất ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ sản xuất mới tác động trực tiếp đến việc nâng cao năng suất lao động, sự thay đổi kỹ thuật dẫn đến những thay đổi trong phương thức sản xuất rõ nét nhất là quan hệ giữa con người với tự nhiên không còn là quan hệ trực tiếp mà công nghiệp chế biến đã xuyên suốt mối quan hệ ấy, đưa con người lên một trình độ mới, đóng vai trò công nghiệp và kỹ thuật mới để tạo ra sản phẩm. Về phương diện quan hệ sản xuất công nghiệp chế biến bằng sự đầu tư của Nhà nước, kênh tín dụng thương mại, chuyển giao kỹ thuật đến hộ nông dân, hộ nông trường viên do các doanh nghiệp (doanh nghiệp chế biến tín dụng) đổi mới và tạo ra, đã đưa các hộ sản xuất lên trình độ mới và liên kết hợp tác lại trong nền kinh tế nhiều thành phần. Doanh nghiệp Nhà nước - hộ nông dân - tài chính tín dụng ngân hàng với công nghiệp tạo điều kiện đưa nông nghiệp lên sản xuất hàng hoá, hoạt động theo cơ chế thị trường. Về khía cạnh kinh tế - xã hội các thành phần kinh tế liên kết thành bộ máy sản xuất đó là lực lượng kinh tế xã hội kết tinh ở trình độ phát triển. Công nghiệp chế biến ra đời đã phá vỡ vòng tuần hoàn khép kín giữa con người với tự nhiên, đặt giữa chúng là công nghiệp chế biến. Tuy là bước khởi đầu, trước mắt còn nhiều vấn đề đặt ra, song với vai trò của công nghiệp trên vùng Lam Sơn, sức sản xuất của từng hộ nông dân đã được giải phóng khỏi những giới hạn của tự nhiên mà với khả năng của con người trong vòng luẩn quẩn lệ thuộc tự nhiên khó mà vượt qua được. Nều sản xuất trên toàn vùng đã hình thành những yếu tố mới. Một cơ sở kỹ thuật đã từng bước nâng cao năng suất lao động, tất cả những nhân tố mới xuất hiện trên vùng kinh tế mới Lam Kinh, từ khi có công nghiệp đường Lam Sơn dẫn đến nền móng cho việc hình thành hiệp hội mía đường Lam Sơn. "Một mô hình hợp tác mới". 2. Đa dạng hoá các hình thức sản xuất kinh doanh thu hút lực lượng lao động dư thừa vào sản xuất. Công nghiệp chế biến đường ở Lam Sơn kèm theo chế biến cồn, rượu, bánh kẹo, phân bón vi sinh từ bùn, khí CO2 bước đầu tạo ra thế phân công lao động trong nội bộ Xí nghiệp, tạo thêm đối tượng lao động, tạo thêm công ăn việc làm cho con em trồng mía trong vùng, thêm sản phẩm cho xã hội. Ý nghĩa của công nghiệp chế biến đường Lam Sơn không chỉ hạn chế trong phạm vi bao trùm là sự tác động của nó đến một vùng nông nghiệp, nông thôn đã qua nhiều thập kỷ chìm đắm trong kinh tế tự cấp, tự túc lệ thuộc vào thiên nhiên. Công nghiệp đã tìm ra phương thức kết hợp để giải phóng hoạt động kinh tế của vùng khỏi lĩnh vực nông nghiệp, thuần nông lấy đất đai làm nền tảng duy nhất của sản xuất đồng thời giải phóng sinh hoạt kinh tế khỏi phương thức sinh hoạt có tính tự nhiên. Với vai trò của công nghiệp trong sự hợp tác liên kết mới nông dân trong vùng đã coi nhà máy đường Lam Sơn là của người trồng mía, lợi ích của họ đã gắn bó với lợi ích của nhà máy và ngược lại. Công nghiệp đã giải phóng hoạt động kinh tế của con người khỏi quan hệ trực tiếp với đất đai, tạo ra không gian mới cho hoạt động kinh tế của vùng. Như vậy công nghiệp xuất hiện tạo ra thế phân công lao động mới, kèm theo sự chuyên môn hoá và hợp tác hoá đa dạng từ các khâu sản xuất, dịch vụ, chế biến, tiêu thụ. Ở đây hoạt động kinh tế chuyển hẳn trạng thái, chấm dứt tình trạng sinh tồn bằng cách mỗi người tự tạo ra mọi sản phẩm để thoả mãn nhu cầu của mình. Trạng thái kinh tế tự túc, tự cấp khép kín bị phá vỡ, biến sản phẩm mía đường thành một cơ cấu chung, một nền sản xuất mang tính xã hội và đang trong xu thế mở rộng phát triển đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao trong một vùng nông thôn rộng lớn. 3. Thay đổi tư duy kinh tế của cư dân trong vùng. Công nghiệp chế biến đường hình thành trên vùng Lam Sơn, không chỉ có ý nghĩa là phát triển công nghiệp trong vùng nông thôn, tạo ra sự khác biệt về phương thức kinh doanh mới đó là sự thay đổi từ cách tư duy tiểu nông sang tư duy kinh tế hàng hoá và thị trường đó là kiểu kinh doanh theo đuổi mục tiêu gia tăng sản phẩm xã hội, tăng thêm lợi nhuận, đồng thời cũng từng bước giúp cho con người tiếp cận dần với các quy luật của thị trường, như quy luật cạnh tranh, giá trị, lợi nhuận để trên cơ sở đó hạch toán kinh tế theo kiểu phương án tối ưu. Do đó khi công nghiệp đã gắn với nông nghiệp thành một cơ cấu thì công nghiệp hay nông nghiệp đều là lĩnh vực đầu tư để đạt mục tiêu tăng thêm của cải vật chất. Với ý nghĩa kinh doanh mía đường một lĩnh vực đầu tư nhằm tăng thêm thu nhập cho con người thì công nghiệp cũng là một kiểu công nghiệp hoá. Như vậy quan điểm của Nghị quyết TW5 khóa VII nêu lên: "Đặt sự phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá". Trong quá trình công nghiệp hoá thì kinh nghiệm của Lam Sơn là sự kiểm nghiệm của thực tế, công nghiệp ở đây là một mô hình kinh tế nói lên phương thức kinh doanh, nhằm mục đích gia tăng của cải để thoả mãn nhu cầu của con người. 4. Góp phần hình thành mô hình hợp tác mới trên địa bàn nông thôn nước ta. Với việc lựa chọn giải pháp đúng, tìm ra yếu tố then chốt để gắn công nghiệp chế biến với nông nghiệp, dịch vụ, kinh tế Nhà nước gắn với kinh tế hộ nông dân. Công ty Cổ phần mía đường Lam Sơn đã góp phần quan trọng tìm ra lời giải đáp cho việc hình thành mô hình hợp tác kinh tế mới. Với những tiền đề hợp tác được hình thành dựa trên những yếu tố kinh tế mới đã chứng minh rằng khi công nghiệp gắn với nông nghiệp - dịch vụ thành một cơ cấu hợp lý thì nền sản xuất xã hội của vùng vận động theo quy luật vận động không ngừng. Qua mỗi thời kỳ lại biến của cải vật chất thành một lực lượng sản xuất mới, dấu hiệu tăng đầu tư cả công nghiệp và nông nghiệp trên vùng Lam Sơn là dấu hiệu chuyển dần lên giai đoạn phát triển, nếu tiếp tục tổng kết, tìm tòi hướng đổi mới thúc đẩy tăng trưởng kinh tế theo hướng công nghiệp hoá sẽ có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của toàn bộ đời sống kinh tế - xã hội trên địa bàn một vùng. Phải chăng đây là thời cơ mới của vùng nguyên liệu mía đường Lam Sơn, phải nắm lấy và hoàn thiện nó, khẳng định nó để tiếp tục phát triển. Như vậy khi lực lượng sản xuất phát triển vận động theo xu hướng mới, công nghiệp hoá gắn liền với hợp tác hoá, chuyển sang sản xuất hàng hoá thì mô hình tổ chức hợp tác cũng chịu sự chi phối của quá trình đó. Thực tế xu thế chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng Lam Sơn được thể hiện qua bảng số liệu sau: Cơ cấu kinh tế vùng Lam Sơn so với cơ cấu kinh tế của tỉnh Thanh Hóa ĐVT: % Tỉnh Thanh Hóa Vùngmía Lam Sơn Huyện Thọ Xuân Năm 1990: 100 100 100 - Nông, Lâm, Thủy Sản 51,63 59,95 52,17 - Công nghiệp, Xây dựng 17,74 11,73 17,39 - Dịch vụ, Thương mại 30,63 28,32 30,43 Năm 1995: 100 100 100 - Nông, Lâm, Thủy Sản 45,99 54,60 43,11 - Công nghiệp, Xây dựng 20,09 14,53 24,80 - Dịch vụ, Thương mại 33,92 30,87 32,09 Với mô hình hợp tác đa thành phần, phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước chủ yếu là doanh nghiệp công nghiệp chế biến và ngân hàng đã làm thay đổi nhanh chóng cơ cấu kinh tế và tốc độ tăng GDP của vùng. Tình hình ở Lam Sơn đã chứng minh rằng nếu có cơ chế đúng phù hợp với thực tiễn thì quan điểm công nghiệp hóa nông nghiệp của Đảng sẽ được đưa vào cuộc sống. Năm 1995, giá trị tăng thêm của công nghiệp trong vùng chiếm 9,1% tăng 2,6% so với năm 1990 . Trong đó, quốc doanh chiếm 2,3% giảm 1% về tỷ lệ cơ cấu so với năm 1990. Như vậy công nghiệp quốc doanh có vai trò rất quan trọng đến sự phát triển của vùng. Sản xuất của Công ty cổ phần mía đường Lam Sơn liên tục tăng và có hiệu quả. Tính theo giá cố định năm 1989 giá trị sản lượng năm 1995 đạt 40,3 tỷ đồng chiếm 65,6% giá trị sản lượng công nghiệp quốc doanh toàn vùng và 52,5% giá trị toàn vùng kể cả quốc doanh và ngoài quốc doanh. Giá trị sản lượng công nghiệp năm 1995 tăng 7,3 lần so với năm 1990. CHƯƠNG II SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN MÍA ĐƯỜNG LAM SƠN I – SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN MÍA ĐƯỜNG LAM SƠN 1. Hoàn cảnh ra đời Công ty. Đầu năm 1980, Nhà nước đầu tư xây dựng Nhà máy đường Lam Sơn với công suất 1.500 tấn mía cây/ngày, vốn thiết bị tương đương 15 triệu USD. Năm 1986, Nhà máy đã căn bản hoàn thành việc xây dựng, bắt đầu đi vào hoạt động. Tổng kinh phi xây dựng nhà máy bàn giao vào sản xuất là 107 tỷ đồng Việt Nam (giá năm 1986). Nhà máy được xây dựng có công suất tương đối lớn, công nghệ khá tiên tiến. Cái khó của Nhà máy, một doanh nghiệp công nghiệp chế biến là nguồn nguyên liệu từ sản xuất nông nghiệp. Vào thời điểm thập kỷ 80, trong cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, tình trạng thiếu vốn đầu tư, dịch vụ để tạo vùng sản xuất nguyên liệu rất nặng nề. Mối quan hệ giữa các doanh nghiệp nhà nước với người trồng mía bị chia rời cắt khúc, quan hệ lợi ích giữa nhà máy và người trồng mía đều không được quan tâm đầy đủ và rốt cuộc là Nhà máy thiếu nguyên liệu không phát huy được công suất của một cơ sở công nghiệp chế biến vừa mới ra đời. Liên tục trong 4 vụ liền, từ năm 1986 đến năm 1990, do thiếu nguyên liệu và chất lượng nguyên liệu kém, Nhà máy mới chỉ sử dụng được xấp xỉ 10% công suất thiết kế (năm 1986 - 1987 mua 9.600 tấn mía, bằng 4% công suất thiết kế; vụ mía năm 1987 - 1988 mua được 24.000 tấn mía, vụ mía 1989 - 1990 mua được 26.000 tấn, bằng 12% công suất thiết kế. Nhà máy lúc này đã đứng trước nguy cơ đóng cửa, thậm chí có phương án tháo dỡ nhà máy đưa vào miền Nam. Tóm tắt, trước năm 1990 mặc dù với một hệ thống tổ chức sản xuất: hợp tác xã, nông trường quốc doanh, doanh nghiệp công nghiệp chế biến, được hình thành và đi vào hoạt động, nhưng cục diện kinh tế - xã hội trong vùng vẫn không thoát khỏi trạng thái kinh tế chậm phát triển, tự cung, tự cấp. - Ở khu vực kinh tế hợp tác xã, gần 100 hợp tác xã trong vùng chỉ là sự cộng hợp các yếu tố đồng chất của kinh tế hộ nông dân còn lệ thuộc vào kinh tế tự nhiên. - Ở khu vực quốc doanh nông nghiệp, 3 nông trường quốc doanh vẫn chưa tạo ra được điều kiện để phát triển sản xuất tự nuôi sống mình mà vẫn phải trông chờ vào ngân sách nhà nước, do đó không phát huy được vai trò chủ đạo đối với vùng. - Quốc doanh công nghiệp ra đời, nhưng do chưa tạo đủ điều kiện để tác động đến kinh tế hộ nông dân, lại chưa tạo ra quan hệ kinh tế gắn bó lợi ích nông dân với lợi ích nhà máy, nên đã kéo dài tình trạng thiếu nguyên liệu và đứng trước nguy cơ thua lỗ. Nhìn lại thực trạng vùng Lam Sơn trước năm 1990 có thể rút ra nhận xét sau đây: Nếu không tạo lập được hình thức tổ chức và cơ chế quản lý phù hợp thì dẫu đầu tư lớn vẫn không tạo ra được động lực làm thay đổi cục diện kinh tế - xã hội trên vùng. Từ đó có thể kết luận rằng tăng cường đầu tư phải đi liền với đổi mới mô hình tổ chức và cơ chế hoạt động các doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn, gắn kinh tế nhà nước với kinh tế hộ nông dân, tạo ra động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội vùng phát triển toàn diện. 2. Qúa trình chuyển đổi Công ty. Năm 1993 nhà nước cho phép nhà máy đường Lam Sơn chuyển đổi thành Công ty đường Lam Sơn. (Công ty đường Lam Sơn là một doanh nghiệp Nhà nước được thành lập theo thông báo số 01 TB ngày 04/01/1993 của Thủ tướng Chính phủ và quyết định số 11 NN-TCCB ngày 08/01/1994 của Bộ trưởng Bộ NN&PTNT). - Ngành nghề kinh doanh chủ yếu: + Công nghệ đường mật bánh kẹo. + Công nghệ nước uống giải khát có cồn và không có cồn. + Chế biến các sản phẩm từ đường và hoa quả. Dịch vụ sản xuất đời sống. Nhập khẩu vật tư thiết bị phụ tùng cho Ngành sản xuất mía đường. Xuất khẩu vật tư thiết bị phụ tùng cho ngành sản xuất mía đường từ năm 1998 - 1999 luôn luôn hoàn thành vượt mức kế hoạch Nhà nước, nộp ngân sách Nhà nước ngày một tăng, vốn được bảo toàn không ngừng qua các năm, đời sống CBCNV không ngừng được cải thiện và nâng cao tạo ra bước phát triển mới cả lượng và chất tự khẳng định thế đứng ổn định và vững chắc của một doanh nghiệp quốc doanh trong cơ chế thị trường đã và đang phát huy vai trò trung tâm chủ đạo và là trung tâm kinh tế văn hoá xã hội của vùng kinh tế mới Lam Sơn. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp tự cung tự cấp thành một vùng kinh tế hàng hoá lớn, từng bước nâng cao đời sống văn hoá tinh thần cho bà con trồng mía trong vùng. Bộ mặt nông thôn 96 xã của 9 huyện và 4 nông trường Quốc doanh phía Tây Nam Thanh Hoá được đổi mới. Trong những năm qua Công ty liên tục được nhà nước khen thưởng những phần thưởng cao quý của Đảng và Nhà nước. sản phẩm của Công ty đường Lam Sơn được khách hàng đánh giá cao chất lượng cũng như phương thức bán hàng và uy tín của Công ty được người tiêu dùng bầu chọn là hàng Việt Nam chất lượng cao bởi Công ty có chính sách đảm bảo chất lượng theo hệ thống tiêu chuẩn ISO 9002 mang lại niềm tin và luôn thoả mãn nhu cầu của khách hàng. Chính vì vậy sản phẩm của Công ty đã được tặng nhiều huy chương vàng qua các lần hội chợ triển lãm quốc tế hàng công nghiệp, Công ty được giải vàng chất lượng Việt Nam. Là doanh nghiệp hàng đầu ở Việt Nam về chế biến công nghiệ thực phẩm được cấp chứng chỉ hệ thống chất lượng đạt tiêu chuẩn ISO 9002. Ngày 06 tháng 12 năm 1999 Thủ tướng Chính phủ ký quyết định số 1033- QĐ/TTg về việc chuyển đổi Công ty đường Lam Sơn thành Công ty cổ phần mía đường Lam Sơn. Công ty cổ phần mía đường Lam Sơn kinh doanh các ngành nghề sau: - Công nghiệp đường, bánh kẹo, cồn, nha. - Công nghiệp nước uống có cồn và không có cồn. - Công nghiệp chế biến các sản phẩm sau đường. - Công nghiệp chế biến nông, lâm sản. - Công nghiệp chế bến thức ăn gia súc. - Các dịch vụ: Vận tải, cơ khí, cung ứng vật tư, nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm, sản xuất và cung ứng giống cây, giống con. - Các ngành nghề khác phù hợp với pháp luật quy định. 1- Vốn điều lệ: 150 tỷ đồng. Trong đó: - Tỷ lệ phần Nhà nước 46% vốn điều lệ. - Tỷ lệ phần bán cho người lao động trong doanh nghiệp 24% vố điều lệ. - Tỷ lệ phần bán cho người lao động trồng và bán mía cho doanh nghiệp là 26% vốn điều lệ. - Tỷ lệ bán cho các đối tượng ngoài doanh nghiệp 4% vốn điều lệ. 2- Giá trị thực tế của Công ty đường Lam Sơn để cổ phần hoá là 665.559.000.000 đồng (Sáu trăm sáu nhăm tỷ, năm trăm năm chín triệu đồng). 3- Ưu đãi cho người lao động: Tổng số cổ phần ưu đãi cho người lao động: 614.456 cổ phần, trong đó: - Số cổ phần ưu đãi cho người lao động trong doanh nghiệp: 214.465 cổ phần. - Số cổ phần ưu đãi cho người lao động trồng và bán mía cho doanh nghiệp: 400.000 cổ phần. - Toàn bộ giá trị được ưu đãi: 18.433.950.000 đồng. 4. Doanh nghiệp sau khi cổ phần hoá được sử dụng tiền bán cổ phần như sau: Đào tạo và đào tạo lại cho người lao động: 228.400.000 đồng. 5. Căn cứ các chế độ ưu đãi quy định tại Nghị định số 441/1998/NĐ-CP ngày 29 tháng 6 năm 1998, Nghị định số 51/99/NĐ-CP ngày 08 tháng 7 năm 1999 của Chính phủ, Công ty cổ phần mía đường Lam Sơn lựa chọn những khoản ưu đãi cao nhất của 1 trong 2 Nghị định này và đăng ký với cơ quan thuế của địa phương. Ngày 18 tháng 12 năm 1999 Công ty cổ phần mía đường Lam Sơn tổ chức đại hội cổ đông thông qua kế hoạch bầu ra Hội đồng quản trị và thông qua kế hoạch sản xuất kinh doanh năm 2000 của Công ty. II - THỰC TRẠNG CÔNG TY CỔ PHẦN MÍA ĐƯỜNG LAM SƠN 1. Thực trạng cơ cấu tổ chức, chất lượng lao động ở các đơn vị của Công ty cổ phần mía đường lam sơn hiện nay. 1.1. Sự cần thiết phải cải tiến tổ chức bộ máy và nhân sự. - Tất cả các chiến lược sản xuất kinh doanh của bất kỳ của một Công ty nào đều phải đi từ chiến lược quản lý và sử dụng nguồn nhân lực. - Việc tổ chức bộ máy điều hành nhân sự hợp lý và có hiệu quả cao là vấn đề rất quan trọng trong việc sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. - Sau nhiều năm hoạt động theo mô hình doanh nghiệp Nhà nước Công ty đường Lam Sơn nói riêng và các doanh nghiệp Nhà nước nói chung đều chịu sự tác động của nhiều yếu tố chính trị xã hội... dẫn đến việc công tác tổ chức bộ máy quản lý điều hành nhân sự chưa hợp lý. Do đó chưa khai thác hết hiệu quả nguồn nhân lực trong doanh nghiệp. 1.2. Cơ cấu lao động và bộ máy quản lý. a) Cơ cấu lao động: Tổng số CBCNV của Công ty tính đến 30/12/2000 là: 1.665 người. Trong đó: Nam : 1.083 người Nữ : 582 người Trình độ: - Trên Đại học: 7 người -Đại học: 168 người - Cao đẳng: 71 người - Trung cấp: 192 người - Thợ bậc cao: 137 người (bậc 5 trở lên) - Ngoại ngữ: 37 người - Tin học: 50 người b) Sơ đồ bộ máy Công ty cổ phần mía đường Lam Sơn (sơ đồ trang bên) ***********Sơ đồ ????????? c) Đánh giá: Như vậy ta thấy số lượng CBCNV có trình độ từ trung cấp trở lên chiếm tỷ lệ tương đối cao, nhưng đa phần đều được đào tạo trong thời kỳ kinh tế tập trung, bao cấp phần lớn trong số này đều chưa đáp ứng được các yêu cầu cho các cương vị hiện tại. Hơn nữa Công ty chưa đầu tư nhiều vào việc đào tạo nâng cao trình độ cho nhân viên nghiệp vụ (do công việc nhiều, khó bố trí được thời gian). Khi chuyển từ Công ty đường Lam Sơn thành Công ty cổ phần mía đường Lam Sơn thì các yêu cầu về trình độ chuyên môn và khả năng thích ứng đa dạng với công việc lại càng cao hơn. Lao động là CNKT chiếm hơn 50% tổng số lao động. Do Công ty đã tập trung đào tạo mới, đào tạo lại và đào tạo nâng cao trình độ cho số lao động là CNKT trong thời gian qua nên hiện nay có thể nói đội ngũ CNKT của Công ty đang từng bước được nâng cao và hoàn thiện, phần nào đáp ứng được yêu cầu. Các đơn vị trong Công ty (theo sơ đồ) hiện tại chỉ duy nhất XNBK Đình hương là hạch toán báo sổ, tương đối được chuyển quyền chủ động trong sản xuất kinh doanh. Còn các đơn vị còn lại đều chịu sự chỉ đạo trực tiếp từ Công ty. Khi Công ty đường Lam Sơn chuyển thành Công ty cổ phần mía đường Lam Sơn theo định hướng mới, cần nâng cấp một số đơn vị, nâng cao khả năng cạnh tranh cho các sản phẩm của Công ty. Cho nên mô hình tổ chức hành chính và bộ máy nhân sự cần thiết phải thay đổi lại cho phù hợp. Dùng kinh phí đào tạo lấy từ nguồn Nhà nước cho phép trích từ chi phí cổ phần hoá đào tạo tăng số lượng cao đẳng lên tương đương với trình độ đại học để giảm tỷ lệ lao động phổ thông và CNKT (số này tham gia lao động trực tiếp). Đào tạo nâng cao lao động có trình độ đại học theo hướng tinh thông chuyên môn, nhưng phải đáp ứng được nhiều công việc khác nhau. Các trường hợp không đáp ứng được yêu cầu của công việc thì chuyển nghề, cho đi đào tạo, chuyển công tác hoặc chấm dứt hợp đồng (hiện tỷ lệ đại học là cao nhưng số đáp ứng được công việc chưa nhiều). 2. Kế hoạch sản xuất và biện pháp thực hiện kế hoạch năm 2000. 2.1. Kế hoạch sản xuất kinh doanh năm 2000. Giá bán có thuế: Đường RE : 4.600đ/kg Đường RS : 4.200đ/kg Đường vàng : 3.800đ/kg Thị trường Chỉ tiêu ĐVT Nghị quyết ĐHCĐ KH 2000 Ghi chú 1 Giá trị sản xuất theo giá CĐ năm 1994 1000đ 637.260.800 642.320.800 2 Giá trị SL hàng hoá thực hiện 1000đ 518.002.600 539.982.511 3 SL sản phẩm sản xuất - Đường kết tinh tấn 105.000 105.000 + Đường tinh luyện tấn 35.000 35.000 + Đường kính trắng tấn 40.000 40.000 + Đường vàng tinh khiết tấn 30.000 30.000 - Cồn thực phẩm 1000l 1.800 1.800 - Kẹo các loại tấn 2.500 3.200 - Bánh các loại tấn 2.500 3.200 - Phân bón tổng hợp tấn 40.000 40.000 - Nha tấn 800 - Bia 1000l 100 4 Lợi nhuận sau thuế 1000đ 38.954.000 39.798.365 - Từ sản xuất đường 33.566.832 - Từ sản xuất Cồn-Bia-Rượu 2.103.312 - Từ sản xuất bánh kẹo 3.336.237 - Từ sản xuất phân bón 791.983 5 Tỷ lệ lợi nhuận/vốn điều lệ sau khi trích các quỹ XN 19,19 2.2. Biện pháp thực hiện kế hoạch năm 2000. a) Đầu tư mới đa dạng hoá sản phẩm hướng ra xuất khẩu. Sau khi cổ phần hoá, dự kiến mở rộng sản xuất trên cơ sở đã thăm dò thị trường và đối tác thực hiện 3 dự án có tính khả thi sau đây: Thị trường Nội dung Xí nghiệp cồn xuất khẩu XN chế biến thức ăn gia súc XN chế biến nước quả cô đặc 1 2 3 4 5 1 Công suất thiết kế 15 triệu lít năm 20.000 tấn/năm 20.000 tấn/năm 2 Vốn đầu tư 75 tỷ vay trả - Việt Nam đồng 80 tỷ đồng 70 tỷ đồng chậm tiền thiết bị - Nguồn Vốn điều lệ Vay trả chậm tiền thiết bị nước ngoài 3 Nước cung cấp thiết bị CHLB Đức australia CHLB Đức 4 Thời gian vào đầu tư 01/1999 01/2000 01/2000 5 Thời gian đưa vào hoạt động 01/2001 01/2001 01/2001 6 Thị trường tiêu thụ CHLB Đức Nhật, Hàn Quốc CHLB Đức 7 Giá bán sản phẩm - Việt Nam đồng 5.000đ/lít 1.560.000đ/tấn 10.000.000đ/tấn - Ngoại tệ 0,5USD/lít 115USD/tấn 1.050USD/tấn 8 Tiến trình thực hiện dự án Đã có biên bản ghi nhớ Đã có biên bản ghi nhớ Chưa làm việc cụ thể 9 Mục tiêu đầu tư Giải quyết sức chữ mật rĩ Giải quyết lượng ngọn dư thừa do không mở rộng vùng mía 10 Thời gian hoàn vốn đầu tư 3 năm 6 tháng 6 năm 5 năm 9 tháng Nguồn vốn: - Từ vốn điều lệ - Từ vốn vay theo dự án b) Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, thực hành tiết kiệm, chống thất thoát, tham nhũng. Mục tiêu chung: Tăng cường năng suất lao động kể cả trong nông nghiệp và công nghiệp mới, xét lại định mức kinh tế kỹ thuật, tiết kiệm tiêu hao vật chất, cắt giảm những chi phí không đúng chế độ, phấn đấu giảm giá thành, đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm ứ đọng tồn kho, nâng cao hiệu quả đồng vốn. Trước mắt: - Thực hiện sản xuất đúng thời vụ tăng khả năng thu hồi đường ở các cụm đoạn sản xuất. - Duy trì ổn định sản lượng mía 1 triệu tấn mía cây, tập trung đầu tư giống mía mới chất lượng cao đạt 10 -13 CCS có tính chống chịu, đầu tư thuỷ lợi tưới nước, tập trung thâm canh tăng năng suất giảm diện tích chuyển sang trồng dứa và cây ăn quả. - Hỗ trợ đầu tư mua phương tiện vận tải cho bà con vùng mía bảo đảm vận chuyển đủ mía cho sản xuất và thúc đẩy cơ giới hoá trong nông nghiệp và nông thôn và đa dạng hoá sản phẩm nông nghiệp. c) Khai thác và vận dụng tối đa các ưu đãi của nhà nước cho Công ty cổ phần để hạ giá thành sản phẩm. - Thuế sử dụng vốn không phải nộp. Giảm cụ thể: 92.548.150.000 đồng x 0,48% = 4.442.300.000 đồng - Kinh phí nộp cấp trên không phải nộp. Giảm được. 640.672.600.000 đồng x 0,4% = 2.562.700.000 đồng - Miễn tiền thuê đất 13 năm, mỗi năm 195 triệu đồng. - Miễn tiền thuế sử dụng đất 15 năm, mỗi năm = 150.000.000 đồng - Thuế thu nhập doanh nghiệp: áp dụng thuế suất 20% (trước đây 32%) Miễn 3 năm và giảm 50% cho 7 năm tiếp theo. Như vậy sẽ giảm: + Năm 2000: 12.280.000.000 đồng + Năm 2001: 16.897.000.000 đồng + Năm 2000: 12.280.000.000 đồng + Năm 2001: 16.897.000.000 đồng + Năm 2002: 19.151.340.000 đồng - Miễn thuế thu nhập cho cá nhân trong doanh nghiệp. - Miễn thuế nhập khẩu đối với thiết bị máy móc dự án mở rộng, đầu tư chiều sâu là miễn 3 năm và giảm 5 năm tiếp theo. Qua một số nét về tình hình cơ bản của Công ty cổ phần mía đường Lam Sơn, chúng ta có thể đánh giá rằng Công ty cổ phần mía đường Lam Sơn là một doanh nghiệp nhà nước có quy mô lớn, trong hoạt động sản xuất kinh doanh đã mang lại hiệu quả kinh tế thực sự đã và đang trở thành trung tâm chủ đạo đối với sự nghiẹp phát triển kinh tế của vùng Lam Sơn. III - VÙNG NGUYÊN LIỆU CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN MÍA ĐƯỜNG LAM SƠN. 1. Thực trạng vùng nguyên liệu của Công ty cổ phần mía đường Lam Sơn. 1.1. Vị trí địa lý: Vùng nguyên liệu mía đường Lam Sơn được quy hoạch ở 5 huyện Thọ Xuân - Ngọc Lặc - Triệu Sơn - Thường Xuân - Yên Định, gồm 50 xã và 4 nông trường quốc doanh của tỉnh Thanh Hoá, có tổng diện tích đất tự nhiên là 74.500ha, đất có khả năng trồng mía toàn vùng là 23.300ha, trong đó có 19.500ha nằm trong cự ly cách nhà máy khoảng 23km. Căn cứ vào khả năng phát triển mía tại các điểm gần nhà máy trong vùng nguyên liệu cung cấp cho nhà máy hoạt động ổn định kể cả khi nhà máy được mở rộng. Tổng diện tích đất mía thời kỳ 1996 - 2010 được quy hoạch 15.000ha, trong đó mía đứng hàng năm 11.250ha, diện tích luân canh 3.750 đảm bảo sản lượng mía 900.000 đến 1.000.000 tấn mía năm. - Khối nông trường quốc doanh có diện tích đất mía là 2.200ha, mỗi năm cung cáp cho nhà máy 160.000 tấn mía cây. - Khối tập thể và hộ gia đình diện tích đất mía là 12.800ha mỗi năm cung cấp 740.000 tấn mía. Theo quy hoạch diện tích mía trong vùng khá tập trung nằm trên lưu vực của sông Chu và sông Mã, giao thông thuận tiện cho việc vận chuyển mía về nhà máy. 1.2. Điều kiện đất đai: Là vùng trung du của tỉnh Thanh Hoá có độ dốc dưới 12o, độ dày của tầng đất từ 0,8 - 1 mét và được chia thành 5 loại đất: đất nông nghiệp, đất có khả năng nông nghiệp, đất lâm nghiệp, đất chuyên dùng, đất khác. Trong đó đất nông nghiệp chiếm tỷ lệ lớn 43,8%. Đặc điểm của vùng là khe suối, hồ đập tự nhiên nhiều, độ ẩm của đất cao, cây mía phát triển trên đất đồi vùng này rất phù hợp. Thực tế làm mía của các nông trường, các họ gia đình trong nhiều năm qua đã chứng minh điều đó, năng suất mía bình quân toàn vùng hiện nay đạt 58 tấn/ha, nhiều điển hình tiên tiến đã đạt 120 - 150 tấn/ha. 1.3. Điều kiện thời tiết khí hậu: Vùng Lam Sơn có khí hậu ôn hoà, chịu ảnh hưởng không lớn của gió Tây Nam do địa hình đồi núi xen kẽ nếu hạn chế bớt một phần của gió bão. Qua theo dõi về tình hình thời tiết, khí hậu của vùng chúng tôi có nhận xét chung là một vùng mưa thuận gió hoà thích hợp cho cây trồng sinh trưởng và phát triển đặc biệt đối với cây mía. Nhiệt độ của vùng biển động không điều hoà qua các tháng từ tháng 3 đến tháng 10 nhiệt độ trung bình cả vùng lớn hơn 20oC và giảm dần ở vụ thu hoạch mía. Nhìn chung nhiệt độ ở đây phù hợp với sinh trưởng, phát triển và tích luỹ đường của cây mía. Về lượng mưa từ tháng 5 đến tháng 9 lượng mưa lớn hơn các tháng trong năm trong đó tháng 8 là tháng có lượng mưa lớn nhất và giảm dần từ tháng 9, lượng mưa trung bình cả năm trên 1.500mm đáp ứng nhu cầu về nước cho cây mía. Ẩm độ các tháng trong năm lớn hơn 80%. Đây là ẩm độ rất phù hợp. Như vậy điều kiện thời tiết khí hậu của vùng rất phù hợp cho cây trồng phát triển đặc biệt đối với cây mía là cây tăng nhanh, sinh trưởng tốt. Biểu 1 - TÌNH HÌNH THỜI TIẾT KHÍ HẬU CỦA VÙNG QUA 3 NĂM 1.4. Tình hình kinh tế - xã hội: 1.4.1. Tình hình kinh tế: Vùng nguyên liệu mía đường Lam Sơn có cơ cấu nông, công nghiệp - dịch vụ. Sản xuất nông lâm nghiệp chiếm tỷ trọng lớn, sản xuất công nghiệp - dịch vụ - tiểu thủ công nghiệp tập trung ở các thị trấn, thị tứ. * Các ngành nghề sản xuất chính: - Sản xuất lương thực trong vùng có bước phát triển khá, tổng diện tích đất nông nghiệp có 26.091ha. Tổng sản lượng lương thực hàng năm đạt xấp xỉ 100.000 tấn lương thực quy thóc, bình quân lương thực đầu người 200kg. Các cây mẫu lương thực trồng chủ yếu trong vùng là lúa, ngô, khoai, sắn, dong giềng.v.v.... Nhìn chung năng suất thấp và diện tích không ổn định hiện đang có xu hướng thu hẹp dần để phát triển trồng mía. - Sản xuất cây công nghiệp như cao su, chè, mía, lạc.v.v... và cây ăn quả những năm gần đây diện tích ngày một tăng. Riêng đối với cây mía năm 1980 đã quy hoạch bố trí đất mía 6.500ha ứng với công suất nhà máy 1.500 tấn/ngày. Vụ mía 1996 - 1997 diện tích mía đứng 6.420ha. Sản lượng 360.000 tấn đảm bảo và vượt công suất hiện tại của nhà máy. - Sản xuất chăn nuôi phát triển toàn diện nuôi trâu, bò, lợn, dê.v.v.... Nghề rừng đây là vùng giầu tài nguyên nhưng sau nhiều năm khai thác, vốn rừng đã cạn kiệt. Hiện còn 19.020ha đất rừng, trong đó rừng tự nhiên 12.413ha, rừng trồng 6.604ha chủ yếu là bạch đàn keo lá chàm, luồng.v.v.... Nhiệm vụ chính của nghề rừng hiện nay là bảo vệ khoanh nuôi, tái sinh, trồng mới. + Sản xuất công nghiệp và dịch vụ: Hoạt động công nghiệp lớn trong vùng là Công ty cổ phần mía đường Lam Sơn công suất 2000 tấn mía/ngày. Nhà máy giấy Lam Sơn công suất 3000 tấn/năm và một số cơ sở sản xuất cót ép, mộc xẻ, gạch ngói.v.v... Công nghiệp nhỏ đang phát triển với nhiều ngành nghề khác nhau như dịch vụ cơ khí, sửa chữa, chế biến, nông sản. Các ngành dịch vụ phát triển rộng khắp với nhiều hình thức kinh doanh, từng bước đáp ứng yêu cầu sản xuất và đời sống. Đặc biệt là các hình thức tổ chức cung ứng vật tư nông nghiệp, vận chuyển mía, làm đất.v.v... đã góp phần thúc đẩy vùng nguyên liệu mía phát triển. 1.4.2. Tình hình xã hội: Tổng số dân số trong vùng 290.360 người bao gồm các dân tộc Mường - Thái - Kinh, mật độ dân số 388 người/km2 (theo số liệu 1995). Tổng nguồn lao động 162.917 người, sự phân công lao động trong vùng, ở các thị trấn thị tứ 80% lao động làm công nghiệp, thủ công nghiệp, dịch vụ, các nơi khác 90% lao động lâm nông nghiệp. Mức sống dân cư không đều, khu vực Bái Thượng, Mục Sơn khoảng 200 USD/người/năm, khu trồng mía khoảng 180USD/người/năm, các nơi khác bình quân 150USD/người/năm. Trong vùng có 2 di tích lịch sử được xếp hạng đó là khu di tích Lam Kinh, là nơi hội tụ của nghĩa quân Lam Sơn do Lê Lợi cầm đầu và đền thờ Lê Hoàn. Hiện nay đang được Nhà nước đầu tư tôn tạo tương lai nơi đây sẽ trở thành những điểm du lịch hấp dẫn, là nơi hội tụ lễ hội của đồng bào cả nước. 1.5. Tình hình giao thông thuỷ lợi: - Giao thông: Hệ thống giao thông bộ rất thuận tiện nhưng chất lượng còn thấp, trong vùng có 2 tuyến quốc lộ chạy qua dài 66,3km; quốc lộ 15A dài 51km cấp V, quốc lộ 47 dài 15,3km cấp IV. + Đường tỉnh lộ có 7 tuyến dài 66,5km (cấp IV - VI) + Đường nội bộ vùng có 22 tuyến. * Huyện Ngọc Lặc 10 tuyến dài 92km * Huyện Thọ Xuân 5 tuyến dài 54km * Huyện Thường Xuân 1 tuyến dài 8km * Huyện Triệu Sơn 3 tuyến dài 26km * Huyện Yên Định 1 tuyến dài 9km + Giao thông thuỷ: có 2 tuyến, Sông Chu 32km, sông Nông Giang 13km. - Thuỷ lợi: Trong những năm qua các công trình thuỷ lợi đã được xây dựng nhiều, toàn vùng có 25 trạm bơm điện tưới cho 2.857ha và 99 hồ đập tưới cho 2.879ha. Số diện tích được tưới đại bộ phận là đất lúa và một phần đất mía có vùng thấp, còn đại bộ phận đất mía chưa được tưới. Thực trạng của vùng nguyên liệu phản ánh đầy đủ điều kiện mở rộng vùng nguyên liệu mía đảm bảo công suất mở rộng của nhà máy từ 6.500 tấn mía ngày trở lên. 2. Quá trình phát triển vùng nguyên liệu của Công ty. 2.1. Giai đoạn 1986 - 1990 giai đoạn khó khăn, thiếu nguyên liệu, sản xuất kém hiệu quả. Vào cuối năm 1986 nhà máy xây dựng căn bản hoàn thành và đưa vào hoạt động. Nhưng gặp phải khó khăn nan giải nhất là không có đủ nguyên liệu cho nhà máy sản xuất. Trong thời gian đang xây dựng Chính phủ đã giao nhiệm vụ cho tỉnh Thanh Hoá chịu trách nhiệm chính lo xây dựng vùng nguyên liệu và ở vùng này cũng đã có sẵn nông trường Sao Vàng năm 1979 đã đạt gần 30.000 tấn mía, sản xuất được 600 tấn đường kết tinh thủ công. Từ năm 1980 Uỷ ban nhân dân tỉnh Thanh Hoá đã thành lập ban chỉ đạo vùng mía Lam Sơn do đồng chí phó Chủ tịch tỉnh làm trưởng ban và điều động một số cán bộ các ngành trong tỉnh trực tiếp chỉ đạo và đầu tư xây dựng vùng nguyên liệu. Nhưng khi nhà máy đi vào sản xuất vụ đầu tiên 1986 - 1987 chỉ thu mua được 9.636 tấn mía bằng 4,5% công suất thiết kế nhà máy. Vụ thứ hai năm 1987 - 1988 diện tích mía 1.650ha, sản lượng mía thu mua 38.000 tấn mía, nhưng đến vụ thứ ba 1988 - 1989 lại tụt xuống chỉ còn 960ha và thu mua được 24.000 tấn mía nguyên liệu đưa vào nhà máy sản xuất. Do thiếu nguyên liệu cho nhà máy hoạt động dẫn đến kinh doanh của nhà máy kém hiệu quả, không khai thác được tiềm năng sẵn có của thiết bị, công nhân không có công ăn việc là nghỉ tự túc ở địa phương, đời sống cán bộ công nhân viên và nhân dân trong vùng thấp, nợ ngân hàng tăng vọt, nhà máy đứng trước nguy cơ bị phá sản, đã nhiều lần bàn tới việc tháo dỡ nhà máy di chuyển vào miền Nam. Nguyên nhân của tình trạng trên là: -Nguyên nhân thứ nhất : Lợi ích của nông dân không được quan tâm đầy đủ, người trồng mía làm theo mệnh lệnh, kế hoạch trồng mía là do tỉnh, huyện giao cho các xã và hợp tác xã. Các xã hô hào trồng mía cung cấp cho nhà máy thông qua các hội nghị. Vật tư tiền vốn đã không đủ cho người trồng mía lại thông qua bởi nhiều khâu trung gian, bị bớt xén, phần còn lại đến người trồng mía do quản lý lỏng lẻo nên đến với cây mía chỉ một phần, còn phần lớn là sử dụng sang mục đích khác, giá cả thu mua do Nhà nước định liệu, nhà máy chỉ biết thu mua mía, lỗ lãi của người trồng mía không ai đếm xỉa tới, lợi ích kinh tế của người nông dân không gắn liền với sản phẩm họ làm ra, do đó nông dân không muốn trồng mía hoặc trồng theo nghĩa vụ kế hoạch giao, không chăm sóc thâm canh dẫn đến năng suất mía thấp, không có nguyên liệu cho nhà máy sản xuất, Nhà nước không thu hồi được vốn đầu tư. -Nguyên nhân thứ hai: Trình độ quản lý của Hợp tác xã: Từ những năm 1960 nông dân vùng Lam Sơn đã tổ chức mô hình làm ăn trong các hợp tác xã nông nghiệp. Sản xuất của các hợp tác xã chủ yếu là lương thực. Quan trọng nhất là lúa, ngô, sắn, mía lúc này được trồng rất ít, năm 1984 diện tích mía có khoảng 320ha. Trình độ của lực lượng sản xuất thấp kém, cơ sở kỹ thuật còn nghèo nàn lạc hậu, cách tổ chức sản xuất, quản lý theo kiểu áp đặt, phân phối bình quân nên sản xuất của các hợp tác xã trong vùng đạt kết quả thấp lúa đạt năng suất bình quân 3,5 - 3,9 tấn/ha/năm, mía đạt 28 - 30 tấn/ha.... Mặc dù sản xuất lương thực là chủ yếu nhưng lương thực bình quân đầu người cả vùng chỉ đạt 150 - 180 kg/người/năm. Quản lý kém dẫn đến kinh tế chậm phát triển, sản xuất đình trệ, kéo dài, tự túc, tự cấp. Hậu quả là đời sống mọi mặt của nông dân rất khó khăn, đói kém thường xuyên xảy ra, do đó họ không cần đến phát triển trồng mía. - Nguyên nhân thứ 3: Trình độ thâm canh thấp dẫn đến năng suất thấp, sản xuất bị thua lỗ. Vùng nguyên liệu mía đường Lam Sơn là vùng trung du, đồi núi, cư dân trong vùng phần lớn là đồng bào dân tộc thiểu số, trình độ canh tác thấp việc mở rộng diện tích chưa gắn liền với thâm canh, sản xuất mang tính thủ công cổ truyền, khi chuyển sang trồng mía phải đầu tư kỹ thuật, đầu tư vốn lớn nên bị thua lỗ, năng suất thấp năm 1986 - 1987 bình quân toàn vùng 24 tấn/ha, năm 1987 - 1988 đạt 25 tấn/ha dưới năng suất giới hạn, không đủ chi phí sản xuất. Theo như tính toán hiện nay thì năng suất mía đạt 35 - 40 tấn là hoà vốn, từ 40 tấn trở lên mới bắt đầu có lãi, từ lý do trên nhân dân bỏ mía trồng cây mầu khác, nhà máy không có nguyên liệu sản xuất. - Nguyên nhân thứ tư : Mối quan hệ công nông, quan hệ lợi ích của người trồng mía chưa được bảo đảm, cơ sở công nghiệp chưa làm tốt được vai trò hỗ trợ và giúp đỡ nông nghiệp phát triển, trong vùng chỉ có một cơ sở chế biến nên việc định giá thu mua mía do nhà máy định liệu đảm bảo cho nhà máy sản xuất có lãi. Người nông dân không được tham gia định giá mía và chính sách đầu tư, xảy ra bất bình đẳng trong quan hệ mua bán, nhà máy không chia xẻ rủi ro trong sản xuất, người nông dân hoàn toàn gánh chịu dẫn đến họ bỏ mía. 2.2. Giai đoạn 1991- đến nay giai đoạn đổi mới và phát triển Trước những khó khăn tưởng chừng như không thể vượt qua, nhưng nhờ có đường lối đổi mới của Đảng và những chính sách của Nhà nước cùng với sự hỗ trợ giúp đỡ của các cấp các ngành từ Trung ương đến tỉnh, huyện, xã và nhân dân trồng mía trong vùng. Công ty cổ phần mía đường Lam Sơn đã tìm ra hướng đi mới, vượt qua những khó khăn thử thách, tìm tòi sáng tạo, vận dụng chủ trương đường lối đó để đưa doanh nghiệp tiến lên. Công ty đã chủ động liên kết với người trồng mía bằng cả một hệ thống chính sách nhằm xây dựng mối quan hệ hợp tác bền vững, lâu dài trên nguyên tắc tự nguyện bình đẳng cùng có lợi, giúp đỡ nông dân vốn, kỹ thuật, xây dựng phương thức thu mua và giá cả hợp lý bảo đảm lợi ích của người trồng mía. Do đó chỉ trong một thời gian ngắn từ năm 1991 đến nay với sự phấn đấu nỗ lực của toàn thể cán bộ công nhân viên đã vượt qua thử thách ban đầu, 5 năm liền Công ty đã hoàn thành vượt mức kế hoạch Nhà nước giao, diện tích, năng suất, sản lượng mía, sản lượng đường tăng lên không ngừng (qua số liệu biểu 2). Diện tích mía năm 1992 tăng hơn năm 1991 là 800ha và năm 1993 tăng hơn năm 1991 là 1.292ha, tốc độ tăng bình quân từ 1991 đến 1996 là 2,64 lần. Diện tích mía tăng nhanh ở khu vực tập thể và hộ gia đình xã viên. Đi đôi với việc tăng diện tích thì năng suất và sản lượng mía cũng được tăng lên, năng suất năm 1993 so với năm 1991 là 12 tấn/ha. Tốc độ tăng bình quân từ năm 1991 đến 1996 là: 3,55 lần/năm; dó đó dẫn đến sản lượng mía tăng nhanh, nâng cao thu nhập cho người trồng mía. Năm 1992 sản lượng mía tăng hơn so với năm 1991 là 38.433 tấn, năm 1996 tăng hơn so với năm 1991 là 293.000 tấn; tốc độ tăng bình quân là 1,35 lần. - Sản lượng đường sản xuất năm 1991: 4.955 tấn đến năm 1996 là: 31.251 tấn. - Nộp ngân sách Nhà nước năm 1991 là 1.225 triệu đồng đến năm 1996 là 16.080 triệu đồng. - Vốn của Xí nghiệp được bảo toàn và phát triển. - Việc làm và đời sống cán bộ công nhân viên được cải thiện rõ rệt, thu nhập bình quân đầu người năm 1991: 105.000 đồng; năm 1996: 1.100.000 đồng tăng gấp 14 lần năm 1995 (biểu 3). Biểu 3 - Vùng nguyên liệu từ chỗ cung cấp thiếu nguyên liệu đến đủ và thừa nguyên liệu cho nhà máy hoạt động, nông dân trồng mía giàu lên nhanh chóng, bộ mặt nông thôn được đổi mới, đời sống kinh tế - văn hoá được nâng cao. Đến nay phần lớn các hộ trồng mía đã mua sắm được đồ dùng đắt tiền như ti vi, xe máy, các xã trồng mía đã có điện thắp sáng, trường học và hệ thống giao thông đã được làm mới. Nguyên nhân đạt được: a. Có được những kết quả trên do rất nhiều nguyên nhân mang lại. Trong đó có một nguyên nhân quan trọng nhất là sự thành công bước đầu trong việc xây dựng và phát triển vùng nguyên liệu - xây dựng được mối quan hệ hợp tác gắn bó công nghiệp với nông nghiệp, kinh tế quốc doanh với kinh tế hộ nông dân, kinh tế trung ương và kinh tế địa phương trong đó công nghiệp đóng vai trò thúc đẩy sự phát triển của một vùng rộng lớn. Trong những năm qua Công ty luôn luôn xác định coi công tác phát triển nguyên liệu là nhiệm vụ hàng đầu, là nhiệm vụ chiến lược lâu dài, nhiệm vụ sống còn của nhà máy, coi người trồng mía là người bạn đồng hành là người công nhân bên ngoài hàng rào của nhà máy. Do vậy, xây dựng mối quan hệ bình đẳng cùng có lợi, xây dựng chính sách, biện pháp cụ thể đầu tư giúp đỡ khuyến khích người trồng mía và các địa phương mở rộng diện tích thâm canh tăng năng suất là việc làm có tính quyết định. b. Từ năm 1992 đến nay bằng nguồn vốn tự có và vay của ngân hàng đã đầu tư hàng trăm tỷ đồng để mở rộng sản xuất kinh doanh, đa dạng hoá sản phẩm tăng nguồn thu. - Mở rộng công suất nhà máy từ 1.500 tấn mía/ngày lên 2.500 tấn/ngày. - Bổ sung thiết bị, cải tạo nâng cấp sản phẩm từ dây chuyền sản xuất đường đỏ thành sản phẩm đường trắng đạt huy chương vàng tại Hội chợ triển lãm hàng công nghiệp nhẹ quốc tế 1994 - 1995 (tại Giảng Võ), được thị trường cả nước chấp nhận. - Đầu tư xây dựng mới một Xí nghiệp cồn tận dụng phế thải là mật rỉ đường công suất 1,5 triệu lít/năm và 200 tấn CO2, một xưởng rượu màu 200 ngàn lít/năm. - Đầu tư xây dựng Xí nghiệp bánh kẹo với thiết bị và công nghệ tiên tiến của Đan Mạch và Đài Loan với công suất 8.000 tấn/năm giải quyết việc làm cho 200 lao động. - Đầu tư xây dựng Xí nghiệp phân vi sinh từ bùn mía công suất 15.000 - 20.000 tấn/năm đáp ứng nhu cầu về phân bón cho nông dân thâm canh và cải tạo đất. c. Cũng trong vòng 5 năm qua Công ty đã đầu tư hỗ trợ giúp đỡ nông dân khai hoang, phục hoá 3.040ha đưa vào trồng mía. Cải tạo đất và xây dựng đồng ruộng 4.750ha, cải tạo và nâng cấp 186km đường trong đó có 16km đường nhựa và 170km đường cấp bốn, 226 cầu cống lớn nhỏ trong vùng nguyên liệu phục vụ vận chuyển mía. - Xây dựng một trạm máy kéo khai hoang với 30 đầu máy kéo hạng lớn và hạng trung, làm đất hỗ trợ nông dân. - Xây dựng trung tâm nghiên cứu khảo nghiệm, bình tuyển giống mía, cung cấp giống tốt và các kiến thức kỹ thuật thâm canh mía cho nông dân. - Đến nay từ vụ mía 1995 - 1996 và 1996 - 1997 vùng nguyên liệu đã đạt trên 6.000ha, thoả mãn công suất nhà máy 2.500 tấn mía/ngày đang tiếp tục mở rộng. Từ một vùng đất đồi núi trọc hoang vu hình thành vùng mía chuyên canh năng suất cao, bình quân chung toàn vùng đạt gần 60 tấn/ha (biểu 2) nhiều hộ đạt 100 - 150 tấn/ha, tạo việc làm cho gần 15 vạn lao động trong vùng, thu nhập của hộ nông dân trồng mía tăng lên rõ rệt, theo số liệu năm 1995 cho thấy có 80% số hộ trồng mía lãi từ 7- 8 triệu đồng/ha mía, so với các cây màu khác trên đất đồi gấp 4,3 lần, trong vùng không còn hộ đói, hộ nghèo giảm dần, có trên 2.000 hộ có xe máy, 120 hộ có xe ô tô tải. Với những việc làm trên đã đưa diện tích, năng suất, sản lượng mía, sản lượng đường qua các năm tăng lên rõ rệt (biểu 2) bình quân hàng năm trong 10 năm qua từ vụ 86/87 - 95/96 so với vụ 86/87 diện tích tăng 126% sản lượng mía tăng 333%, sản lượng đường tăng 883%. Vụ ép (1995 - 1996) đã đạt 320.000 tấn mía nguyên liệu sản xuất ra được 31.600 tấn đường, vụ ép 1996 - 1997 dự kiến đạt 360.000 tấn mía và 36.000 tấn đường. d. Một nguyên nhân quan trọng nữa để tạo nền tảng cho sự phát triển trên là sự ra đời của hiệp hội mía đường Lam Sơn. Quan hệ lợi ích của người trồng mía và người chế biến là thống nhất. Từ năm 1992 trước sự đòi hỏi của cơ chế thị trường, để đáp ứng yêu cầu của sự phát triển vùng nguyên liệu ổn định và bền vững lâu dài. Công ty Cổ phần mía đường Lam Sơn đã đề xướng và đã được các nông trường quốc doanh ngân hàng nông nghiệp Việt Nam và bà con trồng mía trong vùng Lam Sơn nhất trí ủng hộ. Hiệp hội mía đường Lam Sơn đã được thành lập với các mục đích sau: 1- Hỗ trợ, thúc đẩy và nâng cao hiệu quả, lợi ích của từng thành viên (người trồng mía-người chế biến - người đầu tư vốn - người tiêu thụ sản phẩm...) 2- Bảo vệ và điều hoà lợi ích của cả cộng đồng và lợi ích của từng thành viên. 3- Cùng nhau tìm biện pháp để phòng chống và chia sẻ rủi ro (thiên tai, biến động của thị trường) bằng việc tự nguyện đóng góp để tạo lập quỹ tự bảo hiểm khi có thất thiệt do thiên tai hay biến động của thị trường thì dùng quỹ này để tự trợ giúp bảo đảm sản xuất của người trồng mía và nhà máy luôn luôn ổn định. Khi chưa có rủi ro thì dùng quỹ này để phát triển sản xuất bằng việc cho vay với lãi suất ưu đãi với những hộ trồng mía có khó khăn, nhằm vực những hộ khó khăn lên khá giả và cũng nhằm thực hiện chủ trương xoá đói giảm nghèo của Đảng và Nhà nước đã đề ra, trong tương lai nó là nguồn vốn lớn cho người trồng mía tham gia cổ phần hoá nhà máy. Hiệp hội mía đường Lam Sơn mới ra đời, tuy còn gặp rất nhiều khó khăn nhưng trong hoạt động đã đạt được nhiều kết quả đáng phấn khởi hiện nay đang là một tổ chức quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội trong vùng Lam Sơn. Đây là một hình thức hợp tác kinh tế mới theo hướng công nghiệp hoá-hiện đại hoá của tập đoàn công nông nghiệp dịch vụ Thương mại trong giai đoạn tới. Ngoài mục đích trên. Hiệp hội mía đường Lam Sơn còn là nơi hội tụ giữa nhà máy và người trồng mía cùng nhau bàn bạc chính sách giá cả hợp lý có lợi cho đôi bên và cũng là nơi để nông dân được chân tình đóng góp với nhà máy để nhà máy kịp thời giải quyết những nguyện vọng chính đáng của nông dân. 4- Đổi mới công tác tổ chức quản lý. Để thực hiện được những nhiệm vụ mới, thích ứng với cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa Công ty đã đổi mới công tác tổ chức quản lý sản xuất - kinh doanh tinh giảm bộ máy, ứng dụng tin học vào quản lý, kế toán tài chính, kế hoạch nhân sự và điều hành sản xuất, mở các văn phòng đại diện ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh... xây dựng quy chế tự quản, đề cao trách nhiệm cá nhân, gắn quyền lợi với trách nhiệm cải tiến quản lý đoàn vận tải, công nhân lái xe góp vốn và tự quản phương tiện, thực hiện khoán và trả lương theo sản phẩm, phân cấp hạch toán một số khâu cho các Xí nghiệp trực thuộc. 5- Đẩy mạnh công tác đào tạo chăm lo đến con người, nâng cao kiến thức mọi mặt cho cán bộ công nhân viên. Chỉ tính từ năm 1991 đến 1995, Công ty đã giành gần 3 tỷ đồng đầu tư cho công tác đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ và công nhân đến nay đã có 130 kỹ sư và cao đẳng tăng gấp 4, 5 lần năm 1986. Từ năm 1991-1995 gửi đi đào tạo dài hạn bồi dưỡng ngắn hạn ở các trường đại học, cao đẳng 479 lượt người; bồi dưỡng nâng cao tay nghề tại doanh nghiệp cho trên 1200 lượt người về cơ điện, công nghệ đường, bánh kẹo; có chính sách khuyến khích con em làm mía giỏi được gửi đi đào tạo khoá 1992 - 1995 đã hoàn thành, 36 kỹ sư tốt nghiệp đang phục vụ tại nhà máy, hàng năm Công ty giành một khoản tiền hỗ trợ học sinh là con em người trồng mía học giỏi. IV - KẾT QUẢ KINH DOANH CÔNG TY ĐẠT ĐƯỢC 1. Kết quả hướng về khách hàng. Một trong những chiến lược kinh doanh của Công ty là chất lượng sản phẩm ổn định thoả mãn nhu cầu của khách hàng. - Mọi sản phẩm sản xuất ra đều được đăng ký chất lượng tại Chi cục ĐLCL tỉnh Thanh Hoá, coi đó là tuyên ngôn cam kết với khách hàng, với người tiêu dùng và các cơ quan quản lý Nhà nước về chất lượng sản phẩm. - Mọi sản phẩm (đường tinh luyện, đường trắng, đường vàng tinh khiết, bánh kẹo, cồn thực phẩm, CO2, nha, rượu...) đều đạt chất lượng Việt Nam, chất lượng Châu Âu và đảm bảo vệ sinh thực phẩm. Để đạt mục tiêu thoả mãn khách hàng, Công ty đã thực hiện xây dựng và áp dụng hệ thống chất lượng ISO 9002, kết quả được tổ chức chứng nhận SGS Thuỵ Sỹ và QUACERT (Việt Nam) đánh giá công nhận phù hợp tiêu chuẩn ISO 9002 vào đầu năm 1999. - Sản phẩm làm ra đạt chất lượng cao, được tiêu thụ khắp các tỉnh trong cả nước, đã xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc, Lào, Liên Xô. - Sản phẩm đường đạt 4 huy chương vàng. - Sản phẩm bánh kẹo đạt 1 huy chương vàng, 1 bằng khen. - Năm 1996 Công ty được trao giải bạc giải thưởng chất lượng Việt Nam và giải bông lúa vàng Việt Nam. - Năm 1997 Công ty được trao giải vàng về giải thưởng chất lượng Việt Nam. 2. Kết qủa về thị trường và tài chính. - Từ kết quả của quá trình nghiên cứu thị trường, định hướng vào khách hàng, ổn định nâng cao chất lượng sản phẩm Công ty đã có những thành tựu về sản lượng, chất lượng nguyên liệu đứng đầu cả nước, chất lượng sản phẩm, chất lượng công việc ngày 1 nâng cao, vốn tài sản doanh nghiệp ngày càng phát triển. * Tốc độ tăng bình quân trong 14 năm qua (1986 - 2000) đạt: - Diện tích tăng 376% (vụ 1986-1987: 436ha, năm 1999-2000: 16.400ha) - Sản lượng mía tăng: 104 lần (vụ 1986 - 1987: 970 tấn; vụ 1999-2000: 1.000.000 tấn) - Sản lượng đường tăng 306 lần (vụ 1986 - 1987: 360 tấn, vụ 1999 - 2000: 110.000 tấn). 3. Kết quả tài chính. - Từ chỗ doanh nghiệp đứng trước nguy cơ phá sản trong vòng 14 năm (1986 - 2000) sản lượng đường tăng 306 lần (1986: 360 tấn; 2000: 110.000 tấn) doanh thu năm 1999 đạt 317 tỷ đồng, 2 tháng đầu năm 2000 sản lượng đường đạt 41.000 tấn, doanh thu: 60 tỷ đồng đạt 15% kế hoạch năm. - Nộp ngân sách Nhà nước 1999 đạt 25 tỷ đồng, vốn của doanh nghiệp được bảo toàn và phát triển. - Năng suất lao động với các chỉ tiêu giá trị tăng thêm/lao động bình quân và tốc độ tăng năng suất lao động năm 1993 là 123,3%, năm 1995 đạt 149,1%; năm 1996 đạt 168,4%; năm 1999 đạt 180%; năm 2000 ước đạt 190%. - Hiệu quả 1 đồng tài sản cố định, 1 đồng vốn và năng suất lao động tăng nhanh. Giá trị thặng dư Công ty đường Lam Sơn năm 1990 chiếm 38,9% giá trị tăng thêm thì năm 1999 chiếm 70,1% tạo thêm điều kiện tích tụ vốn để đầu tư phát triển, đưa vùng Lam Sơn đi lên với tốc độ mới trong những năm tiếp theo. - Vốn và tài sản cố định của Công ty đến năm 2000 gần 1.000 tỷ đồng. - Vốn lưu động của Công ty đến năm 2000 có: 158.616 tỷ đồng. Kết quả tài chính Năm Doanh thu (Tr.đ) Nộp ngân sách (Tr.đ) Lợi nhuận (Tr.đ) Tỷ lệ vốn Nhà nước (%) 1991 20.050 1.225 862 72,70 1992 25.915 4.776 1.019 61,90 1993 60.200 8.972 1.851 53,30 1994 95.302 15.447 8.572 49,90 1995 110.405 15.540 13.150 38,10 1996 216.930 19.699 14.939 28,10 1997 284.189 20.302 17.860 28,40 1998 315.104 27.435 18.103 14,00 1999 317.600 25.661 19.200 10,29 (Mặc dù sản lượng năm 1999 tăng nhiều so với năm 1998 nhưng doanh thu, lợi nhuận tăng ít là do năm 1999 là năm bắt đầu khủng hoảng của ngành đường Việt Nam, thế giới - giá đường năm 1998 Công ty bán ra trung bình: 6.000đ/kg, năm 1999: 4.000đ/kg). - Vụ ép thứ 13 (98-99) đạt 505.000 tấn mía nguyên liệu, sản xuất được 55.660 tấn đường. - Vụ ép 1999 - 2000 Công ty dự kiến đạt: 110.000 tấn đường (1.000.000 tấn mía). Đồng chí Phan Văn Khải - Nay là Thủ tướng Chính phủ lúc còn làm Phó Thủ tướng Chính phủ vào thăm và làm việc với CBCNV Công ty và bà con vùng trồng mía ngày 26/3/1993 đã nhận xét: "... Công ty đường Lam Sơn có tốc độ phát triển nhanh, Công ty gắn với các nông trường, nông dân xây dựng vùng trồng mía phát triển, Công ty rất quan tâm đến người trồng mía... đơn vị của các đồng chí đã trở thành mô hình trong đổi mới hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước..." Những kết quả hoạt động cụ thể Sản xuất công nghiệp và nông nghiệp đều phát triển với tốc độ ngày càng cao, lợi ích trên địa bàn đều tăng. Năng lực sản xuất của Công ty tăng nhanh Từ năm 1992 đến nay, Công ty đã đầu tư trên 600 tỷ đồng (30% là vốn tự có) và 70% vay ngân hàng mở rộng sản xuất kinh doanh, đa dạng hoá sản phẩm: - Năm 1991 đầu tư 2,4 tỷ đồng xây dựng dây chuyền sản xuất cồn từ phế thải mật rỉ, công suất 1,5 triệu lít năm và 200 tấn CO2. - Năm 1992 - 1995 đầu tư 70 tỷ đồng hoàn thành dự án nâng công suất ép mía từ 1.500 tấn mía/ngày lên 2.500 tấn mía/ngày và từ đường vàng tinh khiết sang đường trắng (RS). Sản phẩm đạt 5 huy chương vàng tại hội chợ hàng công nghiệp quốc tế 1994 - 1995. - Năm 1994 đầu tư 1 tỷ đồng xây dựng xưởng sản xuất phân bón mía, công suất 1.000 tấn/năm. - Năm 1994 - 1996 đầu tư 28 tỷ đồng xây dựng Xí nghiệp Bánh kẹo Đình Hương với thiết bị và công nghệ tiên tiến của Đài Loan, Đan Mạch và công suất 5.000 tấn/năm, giải quyết việc làm cho trên 200 lao động của Thành phố Thanh Hoá. Năm 1995 - 1996 đầu tư xây dựng Xí nghiệp phân vi sinh từ bùn mía công suất 20.000 tấn/năm, đáp ứng nhu cầu phân bón trong vùng. - Năm 1996 - 1998 đầu tư 9 tỷ đồng lắp 3 hệ thống khoan phân tích mầm mía cây. - Năm 1997 bắt đầu thi công phân xưởng đường 4.000 tấn mía/ngày có 50% đường luyện (RE) với vốn đầu tư 451 tỷ; ngày 27/3/1999 đưa nhà máy đi vào sản xuất ổn định đạt công suất tối đa. - Thị trường tiêu thụ sản phẩm của Công ty ngày một phát triển, từ chỗ chỉ tiêu thụ trong tỉnh, vương ra ngoài tỉnh chỉ vài đại lý nay đã có mặt ở khắp các tỉnh thành trong cả nước và đã xuất khẩu sang Lào, Cunpuphia, Liên Xô, Trung Quốc... 4. Kết quả về nguồn nhân lực. - Từ chính sách đúng đắn của Công ty về con người "Nguồn nhân lực vô tận" Công ty đã là nơi thu hút các tài năng, là nơi phát triển các tài năng, là nơi đào tạo nên lực lượng khoa học kỹ thuật, lực lượng kinh doanh vững mạnh. - Công ty luôn có môi trường làm thoả mãn mọi nhân viên, có đầy đủ điều kiện làm việc đến các trang thiết bị phục vụ... tinh thần, vật chất luôn đảm bảo thoả mãn mọi nhân viên. - Kết quả mỗi năm lực lượng lao động có trình độ kỹ thuật tăng và củng cố Chỉ tiêu Năm 1986 Năm 1990 Năm 1998 Năm 1999 Trên đại học - 1 4 6 Đại học 12 142 228 239 Trung cấp 18 60 192 192 Thợ bậc cao 2 37 135 137 Công nhân KT 82 280 907 1.057 Tổng số 565 1.020 1.500 1.665 Nguồn nhân lực của Công ty mỗi ngày một phát triển về số lượng đặc biệt là về chất lượng. Kết quả tính đến ngày 31/12/2000: + 65 sáng kiến cải tiến kỹ thuật. + 77 sáng kiến cải tiến hợp lý hoá sản xuất. ... (Xem chi tiết tiêu chí 5 phần 6.3.4) 5. Nguồn cung ứng đối tác. Chất lượng mía nguyên liệu đầu vào góp phần quyết định chất lượng và giá thành sản phẩm cũng như đảm bảo hiệu quả cho người trồng mía. Vì vậy, Công ty có nhiều giải pháp để đẩy chất lượng và năng suất mía. Công ty đã thực hiện tốt chủ trương đối với các bên cung cấp, đối tác: - Tạo bạn hàng lâu dài, bền vững. - Bình đẳng, cùng có lợi. - Tạo cơ hội cho nhau cùng tồn tại và phát triển. Như: Ngân hàng cho Công ty vay vốn để sản xuất, khi ngân hàng cần vốn tiền mặt, Công ty sẵn sàng cho vay để duy trì và phát triển hoạt động. Công ty tạo kênh dẫn vốn đầu tư từ ngân hàng đến hộ nông dân và bảo đảm bằng vốn của mình để ngân hàng yên tâm không sợ bị thất thoát vốn. Cơ cấu giống mía của Công ty đã cho hàm lượng đường bình quân cao hơn nhờ giống mới và kỹ thuật thâm canh chăm sóc. Vụ 1999 - 2000 đã có những giống mía đạt 13 - 14 CCS. Có thể nói, các biện pháp được triển khai, được thực hiện đang nâng cao năng suất lao động, đảm bảo chất lượng sản phẩm, giảm tỷ lệ thứ phẩm, giảm giá thành ở từng khâu sản xuất, hiệuquả sản xuất kinh doanh ngày càng cao và đây cũng là khâu then chốt để giá cả hàng hoá của Công ty bán ra thị trường thấp hơn giá cả hàng hoá cùng loại của đối thủ cạnh tranh. Bảng kết quả nguyên liệu TT Vụ sản xuất Diện tích Sản lượng mía (tấn) Năng suất (T/ha) Độ đường BQ (CCS) 86 - 87 436 9.703 22,25 - 87 - 88 1.260 23.325 18,5 8 88 - 89 1.520 37.971 25 8 89 - 90 960 24.463 25,5 8,5 90 - 91 1.360 50.460 37,6 8,5 91 - 92 2.560 93.671 37 9 92 - 93 3.060 133.706 44,12 9,5 93 - 94 3.118 142.356 50,1 9 94 - 95 3.600 193.947 53,6 10 95 - 96 5.600 316.800 56,6 10,5 96 - 97 6.400 336.000 51,7 11 97 - 98 7.500 454.000 56,8 11 98 - 99 9.376 505.000 54 11,5 99 - 2000 16.400 1.000.000 (ước) 61 11,5 Nâng cao lợi ích người trồng mía - Mức thu nhập (bao gồm thu từ sản xuất, tiền công, tiền lương, trừ các khoản chi không kể tiêu dùng cuối cùng) bình quân đạt 2.359.000 đồng, bình quân hộ trồng mía đạt 15 triệu đồng. Năm 1999 nhiều hộ đạt 24 - 26 triệu đồng/năm, có hộ 60 - 70 triệu đồng/năm. - Lợi nhuận từ cây mía 7,5 - 8 triệu đồng/ha/năm. Nhờ thu nhập tăng, nông dân có vốn cải tạo nhà ở, mua sắm tư liệu tiêu dùng, nâng cao mức sống và đầu tư mở rộng sản xuất. Từ năm 1993 - 2000 nông dân đã mua 118 xe vận tải để dịch vụ vận tải cho vùng mía. Quan hệ sản xuất mới - Hợp tác liên kết các thành phần kinh tế trong cơ chế thị trường, mối quan hệ liên minh công nông trí thức ngày càng được phát triển. - Nắm vững quan điểm đổi mới của Đảng, Nhà nước. Từ thực tiễn của mình, doanh nghiệp đã tự xác định: Muốn tồn tại và phát triển phải thiết lập mối liên kết kinh tế với cac doanh nghiệp trên địa bàn, phát huy sức mạnh của lực lượng cộng đồng, xây dựng mối quan hệ lợi ích kinh tế với nông dân, gắn công nghiệp với nông nghiệp trên cơ sở. - Liên kết với các doanh nghiệp trên địa bàn có quan hệ với vùng nguyên liệu, với hộ nông dân. Cùng đổi mới 3 nông trường là: Sao vàng, Lam Sơn, Sông Âm thuộc tỉnh Thanh Hoá theo tinh thần NQ10 của bộ Chính trị thực hiện giao khoán đến hộ nông trường viên. Công ty trực tiếp làm dịch vụ đầu vào và đầu ra cho người trồng mía. - Cùng với cấp uỷ các xã trong vùng đổi mới hình thức kinh tế hợp tác xã, xây dựng các trang trại nhỏ, các tổ hợp và các nhóm hộ trồng mía, ký hợp đồng trồng mía bán sản phẩm cho Công ty dựa trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi. - Công ty đã xây dựng 1 hệ thống chính sách đầu tư khuyến khích phát triển vùng nguyên liệu ổn định và bền vững, lợi ích của Công ty luôn gắn với lợi ích của người trồng mía như: Hỗ trợ vốn đầu tư khai hoang là đất, giống, phân bón, giá, lương thực, hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng, đường xá giao thông, trường học, điện và phúc lợi xã hội khác... - Liên kết với Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam tìm nguồn tín dụng thiết lập kênh chuyển tải vốn đến hộ trồng mía. Thực hiện cơ chế ứng trước (ứng vốn khai hoang làm đất, cung ứng vật tư, phân bón, lương thực...) để nông dân có đủ điều kiện phát triển vùng nguyên liệu. - Liên kết với chính quyền các xã bảo đảm việc thực hiện các hợp đồng kinh tế giữa Công ty với nông dân, tổ chức bảo vệ sản xuất các vùng nguyên liệu. - Liên kết với các Viện nghiên cứu, các chuyên gia về mía hình thành các trung tâm khảo nghiệm và nhân giống mới, các điểm trình diễn chuyển giao kỹ thuật phổ cập giống mới, huấn luyện nâng cao tay nghề trồng mía cho hộ nông dân, nhằm đạt năng suất và hiệu quả thu hồi đường cao. - Liên kết với trường đại học Bách khoa Hà Nội hoàn thiện và nâng cấp thiết bị, đổi mới công nghệ, đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ kỹ thuật và công nhân công nghệ, nâng cao tay nghề và kiến thức mới, đáp ứng yêu cầu phát triển của cơ chế thị trường. Ở đây đã hình thành trên toàn vùng một mối quan hệ hợp tác kinh tế mới đa thành phần: giữa kinh tế doanh nghiệp với kinh tế hộ nông dân, kinh tế Trung ương và kinh tế địa phương, giữa quá trình sản xuất nông nghiệp, dịch vụ tín dụng, các dịch vụ khác với công nghiệp chế biến, giữa sản xuất với cơ quan nghiên cứu khoa học. Đặc biệt Công ty cổ phần mía đường Lam Sơn ra đời là mô hình liên minh công nông mới được phát triển cán bộ công nhân viên, nông dân, ban hàng đều góp vốn. Nhờ đó doanh nghiệp đã nắm vững khâu then chốt nhất là: vốn, công nghệ mới và thị trường tiêu thụ, hỗ trợ và thúc đẩy kinh tế hộ nông dân trên địa bàn 9 huyện (Thọ Xuân, Triệu Sơn, Thường Xuân, Ngọc Lặc và Yên Định, Thường Xuân, Cẩm Thuỷ, Như Thanh, Như Xuân) chuyển nền sản xuất tự cấp, tự túc thành một vùng sản xuất hàng hoá rộng lớn, vai trò chủ đạo của doanh nghiệp ngày càng phát huy. Với quan hệ sản xuất mới, với hình thức tổ chức và cơ chế hoạt động mới, đã góp phần tạo ra động lực kinh tế - xã hội vùng Lam Sơn đạt nhiều tiến độ mới. Đáng quan tâm hơn là các nguồn lực tiềm tàng trong nông thôn được khơi dậy: - Hàng vạn lao động trong vùng có việc làm. Ngoài ra, thời vụ thu hoạch mía còn thu hút hàng vạn lao động ở các vùng xuôi lên lao động. - Các ngành nghề mới: dịch vụ, xây dựng, vật liệu, vận tải... trong vùng được phát triển. - Cơ sở vật chất kỹ thuật tăng lên nhanh chóng. Từ năm 1990 - 1999 bằng nguồn vốn của Công ty hỗ trợ và bằng sức lao động của dân đã tu bổ nâng cấp và làm mới 288km đường (có 16km đường nhựa, 168km cấp phối đã mới làm) và 226 cống cầu lớn nhỏ trong vùng mía. - Từ 1992 - 1999 Công ty đã hỗ trợ 15 xã trong vùng mía có trường học cao tâng cho con em, 6 xã xây dựng được đường điện về cho dân (90% số xã trong vùng mía đến nay đã có điện sáng). - Nhà kiên cố, phương tiện đi lại, phương tiện nghe nhìn... tăng nhanh, số hộ giầu và khá cũng tăng nhanh, số hộ nghèo giảm... không còn hộ đói, lòng nhân ái, tình làng nghĩa xóm được phát huy. Đồng chí Nông Đức Mạnh - Uỷ viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam vào thăm và làm việc tại Công ty từ ngày 18/2/1992 kết luận: "... Ở đây lợi ích của người nông dân và Công ty đã có sự gắn bó, người trồng mía và Công ty chung niềm vui, Công ty đã thể hiện được vai trò chủ đạo và trung tâm trong vùng". Kết quả thực hiện các hợp đồng của bên cung cấp. Đa số các hợp đồng đều được thực hiện đúng theo những điều đã thoả thuận trong hợp đồng. Tuy nhiên, vì nguyên vật liệu mía quy mô lớn, số lượng nhiều, địa bàn rộng (9 huyện với 20 vạn lao động) trình độ dân trí chưa đều, nên cũng có lúc còn để mía non, chặt lẫn tạp vật hoặc chất lượng chưa bảo đảm, Công ty đã kịp thời giải quyết. Thực hiện tốt phương châm "vừa nguyên tắc nhưng cũng vừa mềm dẻo, kiên trì giải thích, động viên cho người dân hiểu" nhằm tạo lập mối quan hệ vững chắc. Cung ứng mía cây cho sản xuất đường: Hàng năm, Công ty ký hợp đồng mua mía cây, trong hợp đồng có ghi rõ số lượng, chất lượng, giá cả mía cây và thời gian thu mua. Nhưng làm thế nào để đạt được điều đó, trong điều kiện bên giao hàng là người nông dân. Vì vậy Công ty đã cử cán bộ có trình độ xuống từng xã hướng dẫn nông dân về việc lựa chọn giống mía, kỹ thuật canh tác, phân bón và thời vụ trồng, thu hoạch. Khi mua mía Công ty hỗ trợ vận chuyển, đảm bảo cân đúng, lấy mẫu khách quan, đảm bảo quá trình một cách nhanh chóng, gọn gàng. Hàng năm các hợp đồng mua vật liệu làm bánh kẹo, phẩm mầu và hương vị, bao gói cho sản xuất bánh kẹo, rượu mầu được thực hiện nghiêm túc, khi nhận hàng Công ty kiểm tra chặt chẽ về chất lượng, nên sản phẩm luôn được đảm bảo chất lượng. Công ty đã ký nhiều hợp đồng về đào tạo, bồi dưỡng CBCNV Công ty như: - Hợp đồng với Khoa học công nghệ thực phẩm, khoa tự động hoá trường đại học Bách khoa Hà Nội hàng năm để nâng cấp trình độ sản xuất đường và vận hành thiết bị hiện đại. - Hợp đồng với các trường dạy nghề, trung cấp tỉnh Thanh Hoá và của Bộ về đào tạo công nhân mới tuyển dụng, công nhân chưa có tay nghề kỹ thuật. - Hợp đồng với các trường quản lý, chính trị để nâng cao và phổ cập lý luận trung cấp cho cán bộ Đảng viên. Với hợp đồng xây lắp, đổi mới công nghệ sản xuất Công ty ký với các cơ quan: - Hợp đồng với các trường đại học Bách khoa nghiên cứu nâng cao hiệu suất và chất lượng sản xuất cồn, CO2 và bảo trì thiết bị tự động hoá. - Hợp đồng với Trung Quốc, Ấn Độ cải tạo công nghệ lò hơi và công nghệ tưới mía. - Hợp đồng với Đài Loan, Đan Mạch và Italia xây lắp dây chuyền sản xuất kẹo và bánh quy ở nhà máy bánh kẹo Đình Hương. - Các hợp đồng trong nước về chế tạo và xây lắp thiết bị làm nha, làm bia, gia công cơ khí... Vốn đầu tư đổi mới công nghệ, đổi mới thiết bị trong 5 năm gần đây gần 600 tỷ Việt Nam đồng và năm 1999 gần 500 tỷ đồng. Các hợp đồng được thực hiện nghiêm túc, nghiệm thu chặt chẽ và được triển khai vào sản xuất có hiệu quả rõ rệt. Trước khi ký hợp đồng Công ty đã cử cán bộ đi khảo sát, tìm hiểu lựa chọn công nghệ và thiết bị tiên tiến, phù hợp, lựa chọn đơn vị cung ứng có uy tín, chất lượng để đảm bảo thực thi nhanh và hiệu quả. Mô hình Lam Sơn - một mô hình phù hợp có hiệu quả, hợp lòng dân, có ý nghĩa trên nhiều mặt. Đánh giá chung của đông đảo nông dân, của các cấy uỷ Đảng, Chính quyền từ cấp xã trở lên đều thống nhất Hiệp hội mía đường Lam Sơn là nhân tố mới hình thành từ thực tiễn trải qua hoạt động đã đem lại hiệu quả cả về kinh tế lẫn xã hội, lợi ích của cộng đồng vùng, của Nhà nước, của người lao động phát triển ở cả 3 khu vực nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ đều tăng nhanh. Mô hình Lam Sơn là một hình thức tổ chức và cơ chế quản lý gắn công nghiệp chế biến vùng nguyên liệu, gắn lợi ích doanh nghiệp với lợi ích nông dân. Cơ chế quản lý đó tạo ra môi trường giải phóng tối đa nguồn lực của vùng (đất đai, lao động trí thức, con người, vốn liếng...) tạo cơ hội để mỗi người xoá đói giảm nghèo vươn lên làm giàu. Với ý nghĩa trên, mô hình Lam Sơn là một đóng góp vào việc xây dựng quan hệ sản xuất mới (quan hệ sản xuất). Ở đây quá trình hợp tác hoá gắn liền với phát triển nền nông nghiệp hàng hoá và công nghiệp hoá các vùng nông thôn, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Mô hình Lam Sơn là giải pháp tập trung nguồn lực từ ngân sách Nhà nước, ngân hàng Thương mại Nhà nước, nguồn vốn từ doanh nghiệp Nhà nước gọi chung là kinh tế Nhà nước và huy động một phần vốn từ doanh nghiệp Nhà nước và huy động một phần vốn trong nhân dân, giúp nông dân giải quyết được 3 cái thiếu, 3 cái khó mà bản thân nông dân không vượt qua được là thiếu vốn, thiếu công nghệ và kiến thức, thiếu hiểu biết về thị trường. Nếu không giải quyết cơ bản vấn đề này thì trong cơ chế thị trường và nền kinh tế nhiều thành phần, nông dân luôn luôn là người yếu thế và bị thua thiệt nhiều nhất. Thành công mà mô hình Lam Sơn làm được là khá cơ bản, thực tế cho thấy nhiều hộ nghèo đói phải đi đào vàng, phát rừng mang theo tệ nạn xã hội, sau khi tham gia tổ hợp trồng mía được cung ứng vốn, huấn luyện kỹ thuật, có thị trường tiêu thụ với giá cả hợp lý đã vươn lên thành chủ hộ giàu có. Như vậy QHSX mới phải giúp nông dân giải quyết 3 cái khó, 3 cái thiếu thì nguồn lực các vùng nông thôn sẽ được giải phóng. Mô hình Lam Sơn tạo ra môi trường để các yếu tố của thị trờng (thị trường vốn, thị trường lao động, thị trường sản phẩm) ngày càng tác động sâu vào các vùng nông thôn và được trao đổi bình đẳng thông qua quan hệ hợp đồng, quan hệ điều hoà, phối hợp của HĐQT Hiệp hội. Ở Lam Sơn giá cả các dịch vụ đầu vào cho sản xuất, đầu ra khi bán sản phẩm đều được thoả thuận và phân chia lợi ích thoả đáng giữa các công đoạn, giữa các thành viên. Với vai trò HĐQT Hiệp hội, doanh nghiệp không thể độc quyền để chèn ép vi phạm lợi ích các thành viên và nông dân. Hình thức tự nguyên góp quỹ (quy hành chính, quỹ phát triển sản xuất, quỹ phòng tránh rủi ro) của các thành viên là điều kiện cần cho sự liên kết bền chặt giữa các thành viên, tạo tiền đề hình thành nguồn tài chính của Hiệp hội, là cơ sở cho các thành viên Hiệp hội là nông dân có vốn tham gia cổ phần hoá Công ty và để trở thành người chủ đích thực quản lý Công ty. Như vậy, Hiệp hội mía đường Lam Sơn giữa các thành viên đã có sự cam kết với nhau, liên kết gắn bó với nhau: lời cùng chia, lỗ cùng chịu, cùng chia sẻ để cạnh tranh và phát triển. Điều này là rất cần thiết trong môi trường cạnh tranh của cơ chế thị trường. Trước mắt là vấn đề tự do hoá mậu dịch, chưa nói đến thị trường thế giới và khu vực ASEAN mà ngay trong nước đã có hàng loạt các nhà máy ra đời với số lượng 1 triệu tán/năm là những đối thủ cạnh tranh không thể coi thường. Mô hình Lam Sơn gợi mở giải pháp công nghiệp hoá và phát triển nông thôn cho các vùng nông nghiệp khác trong cả nước. - Trong điều kiện đặc thù như nước ta (đất chật, dân đông, thừa lao động, 80% dân số ở nông thôn thu nhập thấp, sức mua thấp...) lại ở vào thời điểm kinh tế quốc tế đầy biến động phức tạp, thì công nghiệp hoá nông nghiệp là một vấn đề gian khó. Ở các vùng trung du, miền núi, đồng bao dân tộc thì càng khó hơn. Vậy mà Lam Sơn đã tạo ra được những tiền đề rất có ý nghĩa. - Cơ cấu kinh tế đang chuyển dịch theo hướng tăng sản xuất hàng hoá, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ. Rõ nét nhất là huyện Thọ Xuân và Ngọc Lặc, Thường Xuân, Triệu Sơn, Thiệu Yên. - Lao động dư thừa được thu hút có việc làm trong cả lao động công nghiệp, dịch vụ và lao động nông nghiệp. - Các ngành nghề xây dựng, sản xuất hàng tiêu dùng, mộc, nề, may mặc, sản xuất kinh doanh vật liệu xây dựng, vận tải và dịch vụ được phát triển. - Kết cấu hạ tầng vùng đang trong xu thế phát triển, chợ nông thôn và các tụ điểm kinh tế mới đang được mở mang. Cơ cấu đầu tư với nhiều hình thức, quy mô đang được hình thành. - Đời sống vật chất, tinh thần, văn hoá - xã hội, dân trí được cải thiện rõ rệt. 6. Kết quả về hiệu quả chung của tổ chức. Trong những năm qua, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, sự hỗ trợ động vien của các cấp, các ngành từ Trung ương đến tỉnh, huyện, nhất là sự cộng tác trực tiếp của các xã và bà con trồng mía trong vùng. Với sự phấn đấu nỗ lực, Công ty đã vượt qua những khó khăn thử thách, luôn hoàn thành vượt mức kế hoạch Nhà nước, Nộp ngân sách ngày một tăng, việc làm và đời sống vật chất tinh thần của CBCNV được ổn định và cải thiện rõ rệt, vốn của Công ty hàng năm được phát triển, tạo ra sức phát triển mới ngày càng cao không chỉ về lượng mà cả về chất, đã và đang khẳng định thế đứng ổn định và vững chắc lâu dài của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường. Công ty đã và đang phát huy vai trò trung tâm chủ đạo của một cơ sở công nghiệp trong vùng kinh tế mới Lam Sơn, đã góp phần tạo việc làm cho hàng vạn lao động, bằng việc gắn kết giữa công nghiệp, nông nghiệp với hộ nông dân và các nông trường, triển khai có hiệu quả phương án sản xuất mía đường, khai thác và làm sống dậy một vùng đất trống, đồi núi trọc trung du miền núi, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, từ sản xuất tự cấp, tự túc chuyển sang sản xuất hàng hoá, góp phần xây dựng nông thôn mới, nâng cao đời sống bà con trồng mía trong vùng. Trong quá trình xây dựng và phát triển CBCNV Công ty chúng tôi đã được nhận nhiều phần thưởng cao quý của Đảng và Nhà nước. * Thời kỳ xây dựng 1981 - 1986: - 18 đồng chí đạt danh hiệu thi đua cấp cơ sở. - 21 đồng chí đạt danh hiệu thi đua cấp ngành. - 2 đồng chí Tổng Công đoàn Việt Nam cấp bằng lao động sáng tạo. * Từ năm 1986 - 1991: - Đảng bộ liên tục được tặng cờ Đảng bộ trong sạch, vững mạnh. - Năm 1991 CBCNV Công ty và đồng chí Tổng Giám đốc được Nhà nước tặng thưởng Huân chương lao động hạng 3. * Từ năm 1991 - 1999: - Công ty liên tục được tặng cờ thưởng luân lưu của Chính phủ về thành tích dẫn đầu ngành NN và CNTP. - Năm 1997 CBCNV Công ty được Nhà nước tặng Huân chương lao động hạng 3 về thành tích trong phong trào đền ơn đáp nghĩa. - Được tặng thưởng 4 cờ thi đua xuất sắc. - 12 đồng chí được tặng danh hiệu chiến sỹ thi đua. - 4 đồng chí được Tổng Công đoàn lao động Việt Nam tặng bằng lao động sáng tạo. - Công ty được UBND tỉnh Thanh Hoá tặng cờ thi đua làm giao thông nông thôn. - Năm 1999 Công ty được Nhà nước tặng danh hiệu Anh hùng lao động cho tập thể cán bộ công nhân viên Công ty. - Năm 1999 Công ty được tổ chức chứng nhận Quốc tế SGS (Thụy Sỹ) Quacert (Việt Nam) đánh giá hệ thống chất lượng của Công ty phù hợp với tiêu chuẩn Quốc tế ISO 9002. - Đoàn thanh niên được tặng 12 bằng khen, 3 cờ thi đua của Trung ương Đoàn và tỉnh đoàn. - Công đoàn Công ty được tặng khen của Tổng liên đoàn lao động Việt Nam và của Liên đoàn lao động tỉnh. - Đơn vị tự vệ đạt danh hiệu đơn vị quyết thắng. - Sản phẩm đường đạt 4 huy chương vàng tại Hội chợ quốc tế hàng công nghiệp Việt Nam. - Sản phẩm của Công ty luôn được người tiêu dùng bình chọn là hàng Việt Nam chất lượng cao. - Phong trào văn hoá văn nghệ, TDTT được tặng 4 cờ thi đua, 3 bằng khen đơn vị có phong trào mạnh. - Hội diễn hội thảo đạt 12 huy chương vàng, 2 huy chương bạc. III. CÁC NỘI DUNG CỦA QUẢN TRỊ NGUYÊN VẬT LIỆU. 1. Xác định cầu về vật tư, nguyên vật liệu. Quan trọng nhất là vấn đề về kế hoạch cầu về nguyên vật liệu. 1.1. Khái niệm về cầu nguyên vật liệu và kế hoạch cầu nguyên vật liệu. Trong các doanh nghiệp sản xuất, bản thân việc thực hiện tốt công tác mua sắm nguyên vật liệu đã chứa đựng một bộ phận tạo ra lợi nhuận trong toàn ọ lợi nhuận thu được từ hoạt động sản xuất kinh doanh, trong các doanh nghiệp thương mại hoạt động mua sắm càng có ý nghĩa lớn hơn. Để có cơ sở tiến hành mua sắm nguyên vật liệu phải xác định số lượng nguyên vật liệu cần thiết cho toàn bộ thời kỳ nào đó và cho tàng thời điểm mua sắm trong thời kỳ đó cũng như xác định chính xác giá cả nguyên vật liệu trong từng thời điểm mua sắm. Người ta gọi số lượng nguyên vật liệu cần thiết cho từng thời kỳ mua sắm (chẳng hạn 1 tháng, quý, năm) là số cầu ngu

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doctm038_6681.doc
Tài liệu liên quan