Đề tài Tìm hiểu đầu tư đổi mới công nghệ ngành Dệt may Việt Nam giai đoạn 2000- 2005

Tài liệu Đề tài Tìm hiểu đầu tư đổi mới công nghệ ngành Dệt may Việt Nam giai đoạn 2000- 2005: LỜI NÓI ĐẦU Năm 2006, cùng với sự kiện Việt Nam gia nhập WTO, Đảng và nhà nước đã có những thay đổi lớn trong chính sách kinh tế xã hội. Đồng hành với những cơ hội khi tiếp cận với thị trường thế giới, Việt Nam phải đối mặt với rất nhiều thách thức. Để đáp ứng được nhu cầu đó, nước ta đã chú trọng ưu tiên một số ngành trong đó có ngành Dệt may. Vì vậy, để giữ vững vai trò là một ngành mũi nhọn trong nền kinh tế đất nước thì ngoài sự hỗ trợ của nhà nước thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô cần phải có sự thay đổi từ chính các doanh nghiệp trong ngành mà quan trọng nhất là tăng cường đầu tư cho đổi mới công nghệ. Xuất phát từ nhu cầu đó, em quyết định chọn đề tài : “Đầu tư đổi mới công nghệ ngành Dệt may Việt Nam giai đoạn 2000- 2005”. Đề tài gồm ba phần: Chương I: Cơ sở lý luận Chương II: Thực trạng đầu tư đổi mới công nghệ ngành Dệt may Việt Nam Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị Em xin chân thành cảm ơn cô giáo, Th.s Đinh Đào Ánh Thủy đã tận tình hướng dẫn em để em h...

docx46 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1041 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Tìm hiểu đầu tư đổi mới công nghệ ngành Dệt may Việt Nam giai đoạn 2000- 2005, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU Năm 2006, cùng với sự kiện Việt Nam gia nhập WTO, Đảng và nhà nước đã có những thay đổi lớn trong chính sách kinh tế xã hội. Đồng hành với những cơ hội khi tiếp cận với thị trường thế giới, Việt Nam phải đối mặt với rất nhiều thách thức. Để đáp ứng được nhu cầu đó, nước ta đã chú trọng ưu tiên một số ngành trong đó có ngành Dệt may. Vì vậy, để giữ vững vai trò là một ngành mũi nhọn trong nền kinh tế đất nước thì ngoài sự hỗ trợ của nhà nước thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô cần phải có sự thay đổi từ chính các doanh nghiệp trong ngành mà quan trọng nhất là tăng cường đầu tư cho đổi mới công nghệ. Xuất phát từ nhu cầu đó, em quyết định chọn đề tài : “Đầu tư đổi mới công nghệ ngành Dệt may Việt Nam giai đoạn 2000- 2005”. Đề tài gồm ba phần: Chương I: Cơ sở lý luận Chương II: Thực trạng đầu tư đổi mới công nghệ ngành Dệt may Việt Nam Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị Em xin chân thành cảm ơn cô giáo, Th.s Đinh Đào Ánh Thủy đã tận tình hướng dẫn em để em hoàn thành đề tài. CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN I. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ 1. Khái niệm công nghệ và đổi mới công nghệ 1.1. Khái niệm công nghệ Theo Ngân hàng Thế giới (1985): “Công nghệ là phương pháp chuyển hoá các nguồn thành sản phẩm, gồm ba yếu tố: (1) Thông tin về phương pháp; (2) Phương tiện, công cụ sử dụng phương pháp để thực hiện việc chuyển hóa; (3) Sự hiểu biết phương pháp hoạt động như thế nào và tại sao”. Theo UNIDO (Tổ chức phát triển công nghiệp Liên Hợp Quốc): “Công nghệ là việc áp dụng khoa học công nghệ vào công nghiệp, bằng cách sử dụng các kết quả nghiên cứu và xử lý nó một cách chính xác, có hệ thống và có phương pháp”. Theo Luật Khoa học công nghệ Việt Nam (2000): “Công nghệ là tập hợp các phương pháp, quy trình, kỹ năng, bí quyết, công cụ, phương tiện dùng để biến đổi các nguồn lực thành sản phẩm”. 1.2. Khái niệm Đổi mới công nghệ Đổi mới công nghệ là hoạt động nghiên cứu nhằm cải tiến, đổi mới công nghệ đã có (trong và ngoài nước), góp phần cải thiện chất lượng sản phẩm, hạ giá thành, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất kinh doanh. Đổi mới công nghệ đóng vai trò quan trọng nhất chi phối nền kinh tế, nó có tác dụng kích thích sự phát triển của sản xuất, nâng cao năng suất lao động và góp phần giải quyết các vấn đề kinh tế xã hội. Đổi mới công nghệ gồm ba giai đoạn: phát minh, đổi mới và truyền bá. Phát minh là giai đoạn đầu tiên tạo ra những tiến bộ công nghệ. Đây là quá trình tìm tòi, nghiên cứu các ý tưởng mới, biến chúng thành các giải pháp kĩ thuật công nghệ cụ thể phục vụ cho sản xuất và đời sống. Kết quả của nó là ý tưởng khoa học, những giải pháp về sản phẩm mới, phương pháp mới để thực hiện một số dịch vụ hoặc sản xuất một sản phẩm. Sau khi phát minh ra các ý tưởng, giải pháp mới đó thì việc tiếp theo là phải biến các ý tưởng đó thành ứng dụng thực tiễn. Dựa trên các ý tưởng khoa học hoặc các giải pháp kĩ thuật đã có để chế thử các mẫu đầu tiên, phát triển, sản xuất thử và thử nghiệm việc tiêu thụ sản phẩm trên thị trường. Cuối cùng là giai đoạn truyền bá sản phẩm nghĩa là phải đem sản phẩm đi các nơi khác và quảng bá để nó được ứng dụng rộng rãi phục vụ đời sống và sản xuất. Nói tóm lại, đổi mới công nghệ là những tiến bộ về công nghệ dưới dạng máy móc thiết bị hay phương pháp mới về sản xuất hay kỹ thuật, tổ chức, quản lý hay marketing mà nhờ đó việc sản xuất ra sản phẩm sẽ đạt năng suất cao hơn, chi phí thấp hơn, chất lượng cao hơn. Như vậy có thể thấy , Đổi mới công nghệ là hoạt động bao gồm đổi mới sản phẩm và đổi mới quy trình sản xuất. Đổi mới sản phẩm là việc tạo ra sản phẩm hoàn toàn mới hoặc cải tiến các sản phẩm đã có của công ty mình hoặc công ty khác. Điều này giúp công ty tiết kiệm nguyên vật liệu, tăng độ hấp dẫn của sản phẩm. Đổi mới quy trình sản xuất là việc tạo ra một quy trình sản xuất mới hoặc đạt được những tiến bộ đáng kể về mặt công nghiệp đối với quy trình sản xuất. Đổi mới quy trình sản xuất chính là đổi mới máy móc thiết bị. 2. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả đổi mới công nghệ 2.1. Chỉ tiêu định lượng 2.1.1. Tỷ trọng máy móc thiết bị được hiện đại hóa (Ihd ): Ihd = x 100% DGhd = Ghd1 - Ghd0 : mức gia tăng MMTB Ghd1: Giá trị MMTB hiện đại kỳ báo cáo Ghd0: Giá trị MMTB hiện đại kỳ nghiên cứu Chỉ tiêu này phản ánh giá trị máy móc thiết bị hiện đại gia tăng so với mỗi đồng vốn đầu tư vào đổi mới công nghệ. Chỉ tiêu này càng lớn thì hiệu quả đổi mới công nghệ càng lớn. 2.1.2. Chỉ tiêu đánh giá mức tiết kiệm nguyên vật liệu khi đổi mới công nghệ (Invl): Invl = x 100% Knvl = Gnvl: Giá trị nguyên vật liệu Gsp: Giá trị sản phẩm Thể hiện khả năng tiết kiệm nguyên vật liệu do đổi mới công nghệ và được đo bằng tỷ lệ giữa mức gia tăng hệ số chi phí cho nguyên vật liệu bình quân một sản phẩm và một đơn vị vốn đầu tư đổi mới công nghệ trong kì. 2.1.3. Chỉ tiêu gia tăng năng suất lao động (Iw): Iw = x 100% DW = W1 - W0: Mức gia tăng năng suất lao động Chỉ tiêu phản ánh mức độ tăng trưởng về năng suất lao động của doanh nghiệp nhờ đổi mới công nghệ. Nó cho biết một đồng vốn đầu tư cho đổi mới công nghệ sẽ làm tăng năng suất lao động lên bao nhiêu. Chỉ tiêu này càng lớn thì hiệu quả đổi mới công nghệ càng cao. 2.1.4. Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả đổi mới công nghệ tác động đến mức tăng lợi nhuận (Iln): Iln= x 100% DLN = LN1 - LN0 LN1: Lợi nhuận kỳ báo cáo LN0: Lợi nhuận kỳ nghiên cứu Ý nghĩa của chỉ tiêu này là mỗi đồng vốn đầu tư cho đổi mới công nghệ tạo ra bao nhiêu lợi nhuận tăng thêm. 2.2. Chỉ tiêu định tính: Chỉ tiêu này phản ánh những biến đổi quan trọng về chất đối với xã hội, doanh nghiệp, cơ cấu lao động, trình độ lao động do đổi mới công nghệ mang lại. Các chỉ tiêu thường được sử dụng là: - Tác động tới việc làm của người lao động - Tác động tới trình độ quản lý, cơ cấu sản xuất, phương pháp lao động, điều kiện lao động, kỹ thuật lao động. - Góp phần tăng thị phần do giảm giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm của đổi mới công nghệ. - Đóng góp của đổi mới công nghệ trong việc thực hiện các chiến lược kinh tế xã hội của doanh nghiệp, của ngành, đất nước. II. SỰ CẦN THIẾT PHẢI ĐẦU TƯ ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM 1. Đặc trưng công nghệ ngành Dệt may Việt Nam 1.1. Tính đồng bộ về trình độ công nghệ trong ngành Dệt may còn thấp Trong ngành Dệt may có rất nhiều công đoạn: kéo sợi, dệt, in, nhuộm, hoàn tất, may, công đoạn phụ. Các công đoạn này mang tính liên tục, sản phẩm của công đoạn trước là đầu vào của công đoạn sau. Vì thế, nếu như có một sản phẩm tồi sẽ dẫn đến sản phẩm cuối là phế phẩm. Điều này đòi hỏi công nghệ ngành Dệt may phải đồng bộ. Nhưng thực tế thì trong lĩnh vực dệt, trang thiết bị còn quá lạc hậu, mới đổi mới 40% số thiết bị, còn lại phần lớn là máy móc thiết bị thuộc những năm 60-70. Trong khi đó, lĩnh vực may đã được đổi mới 90% trang thiết bị, trình độ công nghệ thiết bị khá so với khu vực. Do vậy, khâu dệt không đáp ứng được đầu vào cho khâu may, sản xuất dệt trong nước mới đáp ứng được 70-80% nhu cầu tiêu dùng trong nước và hàng Dệt may Việt Nam chưa đủ sức cạnh tranh với sản phẩm nước ngoài. Nguyên nhân chính của tình trạng này là do sự đầu tư theo nhiều giai đoạn, theo nhiều loại công nghệ và công nghệ của nhiều nước khác nhau dẫn tới hiệu quả sản xuất toàn ngành không cao. 1.2. Trình độ công nghệ lạc hậu Ngành Dệt may là một trong những ngành công nghiệp ra đời sớm nhất nước ta và có nhu cầu về lao động rất lớn. Một kết quả thống kê cho thấy, ở miền Bắc vẫn còn nhiều cơ sở Dệt may sử dụng thiết bị từ thập kỷ 60-70 , còn ở miền Nam cũng còn nhiều nơi sử dụng máy móc của thập kỷ 70 . Thậm chí vẫn còn máy móc thiết bị được sản xuất từ những năm 30-40. Mặc dù vậy, trên thực tế có một khó khăn rất lớn là hầu hết các công ty đều có vốn nhỏ, hạn hẹp. Điều này là trở ngại lớn cho việc đầu tư thay thế máy móc thiết bị. 2. Sự cần thiết phải đầu tư đổi mới công nghệ Tổng công ty Dệt may Việt Nam nay là Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex) đặt ra mục tiêu phát triển đến năm 2010: “Hướng ra xuất khẩu nhằm tăng nguồn thu ngoại tệ, đảm bảo trả nợ và tái sản xuất mở rộng các cơ sở sản xuất của ngành, đồng thời chiếm lĩnh thị trường tiêu dùng trong nước với những sản phẩm phù hợp, góp phần tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm, thực hiện đường lối CNH-HĐH đất nước”. Để thực hiện được những mục tiêu đã đề ra, Tập đoàn Dệt may nói riêng và các doanh nghiệp Dệt may nói chung cần phải đề ra các giải pháp thích hợp để từng bước vươn lên đáp ứng yêu cầu hội nhập mà quan trọng nhất là đầu tư đổi mới công nghệ nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm hiện có và tạo ra những sản phẩm mới có tính cạnh tranh cao trên thị trường. 2.1. Đổi mới công nghệ nhằm phát huy vai trò của ngành Dệt may Việt Nam với sự phát triển kinh tế xã hội 2.1.1. Góp phần tăng tích luỹ vốn cho quá trình CNH-HĐH đất nước Trong giai đoạn hiện nay, giá trị sản xuất của ngành Dệt may chiếm 9% giá trị toàn ngành công nghiệp, kim ngạch xuất khẩu 12-15% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Dệt may là ngành có kim ngạch xuất khẩu lớn thứ hai (sau xuất khẩu dầu thô) với tổng giá trị xuất khẩu là 4,4 tỷ USD (2004); 5,2 tỷ USD (2005). Vì vậy ngành đã đóng góp một lượng ngoại tệ đáng kể cho ngân sách quốc gia. Bảng 1: Kim ngạch xuất khẩu ngành Dệt may Việt Nam qua các năm Chỉ số 2000 2001 2002 2003 2004 2005 Giá trị xuất khẩu (tỷ USD) 1,892 1,975 2,732 3,687 4,4 5,2 Tăng trưởng (%) 4 38 35 19 17,4 Nguồn: Niên giám thống kê 2005 2.1.2. Góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế Đầu tư đổi mới công nghệ ngành Dệt may sẽ làm cho ngành phát triển hơn, từ đó không những làm biến đổi cơ cấu cây trồng ở vùng trồng nguyên liệu (như cây đay, cây bông, cây dâu…) mà còn thúc đẩy ngành nông nghiệp phát triển theo hướng phá vỡ thế độc canh khi chỉ trồng cây lương thực, hoa màu sang trồng cây công nghiệp. Mặt khác, ngành Dệt may phát triển còn kéo theo sự phát triển các ngành nghề sản xuất nguyên phụ liệu cho ngành Dệt may, ngành hoá chất cung cấp thuốc nhuộm cho ngành Dệt may, ngành cơ khí cung cấp máy móc thiết bị. Ngoài ra còn tác động đến sự phát triển những ngành sử dụng sản phẩm của ngành Dệt may như: giày da, nội thất… từ đó làm tăng tỷ trọng ngành công nghiệp trong cơ cấu kinh tế. 2.1.3. Đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước Hiện nay, trên thị trường có rất nhiều mặt hàng Dệt may của nước ngoài nên sản phẩm của nước ta phải cạnh tranh gay gắt với hàng Dệt may các nước đặc biệt là Trung Quốc và Đài Loan. Sự cạnh tranh này sẽ càng khốc liệt hơn khi Việt Nam gia nhập WTO bởi sự tràn vào ồ ạt của các doanh nghiệp nước ngoài. Trước đây, vải sản xuất trong nước tiêu thụ chậm, ở thành phố lớn hàng sản xuất trong nước không được ưa chuộng, ở nông thôn tiêu thụ chậm vì chất lượng thua kém, giá cao hơn hàng Trung Quốc, mẫu mã kém phong phú hơn. Trong vài năm trở lại đây, do nắm bắt nhu cầu người tiêu dùng nên ngành Dệt may đã có nhiều đổi mới. Hàng Dệt may Việt Nam đang dần khẳng định vị trí trong lòng người tiêu dùng trong và ngoài nước. Nhiều sản phẩm của các công ty Dệt may như May 10, Việt Tiến, Nhà Bè, May Đức Giang… đang ngày càng trở nên quen thuộc với người dân và thoả mãn về số lượng cũng như chất lượng, được nhiều người ưa thích và đoạt được giải thưởng tại Hội chợ thời trang tháng 12/2005 tổ chức tại Hà Nội. 2.2. Đáp ứng nhu cầu công nghệ của ngành Với tình trạng công nghệ hiện nay thì nhu cầu công nghệ của ngành là rất lớn và rất cấp thiết. Để ngành Dệt may tiếp tục giữ vững vai trò của mình thì việc đáp ứng nhu cầu về công nghệ là hết sức cần thiết. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, các doanh nghiệp đều nhận ra tầm quan trọng của đầu tư đổi mới công nghệ để đứng vững trên thị trường. Điều này thể hiện trong điều tra của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế TW ở 65 doanh nghiệp Dệt may Việt Nam. Bảng 2: Mức độ cần thiết tiến hành đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp Dệt may Việt Nam Các hoạt động Tỷ lệ doanh nghiệp đánh giá là rất cần thiết (%) Điểm số trung bình Cải tiến các dây chuyền công nghệ hiện đại 49 2,4 Đầu tư mới DCCN, MMTB 45 2,3 Nghiên cứu thiết kế và sản xuất sản phẩm mới 55 2,5 Nâng cao nguồn nhân lực công nghệ 38 2,3 Bố trí lại tổ chức sản xuất 38 2,3 Nguồn: Báo cáo kết quả khảo sát về đầu tư đổi mới công nghệ tại các doanh nghiệp Dệt may Việt Nam. Đổi mới công nghệ là xu hướng tất yếu của ngành Dệt may Việt Nam để khẳng định chỗ đứng của mình trên thị trường trong và ngoài nước. Nhìn vào kết quả điều tra trên có thể thấy rằng các doanh nghiệp đã đánh giá cao vai trò của việc đầu tư đổi mới công nghệ. Đây là một dấu hiệu đáng mừng hứa hẹn việc đầu tư trong tương lai sẽ được các doanh nghiệp xúc tiến. Từ những lý do trên, chúng ta đã thấy được sự cần thiết của việc đầu tư đổi mới công nghệ nhưng trên thực tế thì ở nước ta, tình hình đầu tư diễn ra như thế nào? Chúng ta đi vào phân tích thực trạng của đầu tư đổi mới công nghệ. CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ I. KHỐI LƯỢNG VỐN ĐẦU TƯ VÀ NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ 1. Khối lượng vốn đầu tư Khối lượng vốn đầu tư toàn ngành trong những năm qua có xu hướng tăng và vốn đầu tư cho đổi mới công nghệ chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu vốn đầu tư, thường là 40-60%. Theo kết quả thống kê cho bảng sau: Bảng 3: Khối lượng vốn đầu tư cho đổi mới công nghệ Tổng công ty Dệt may Việt Nam giai đoạn 2000-2005 Năm Tổng mức đầu tư (tỷ đồng) Vốn đầu tư đổi mới công nghệ (tỷ đồng) Tỷ trọng (%) 2000 2.066,8 1.126,0 54,48 2001 3.157,0 1.774,0 56,19 2002 2.111,8 1.036,0 48,89 2003 1.245,3 598,0 48,02 2004 1.514,6 709,6 46,85 2005 1.863,4 808,9 43,41 Tổng 11.948,9 6.052,5 TB:50,65 Nguồn: Tổng công ty Dệt may Việt Nam (Vinatex) Tuy vốn đầu tư giai đoạn 2000-2005 có tăng so với giai đoạn trước nhưng xét về tỷ trọng vốn đầu tư dành cho đổi mới công nghệ thì có giảm. Nếu tỷ trọng vốn đầu tư cho đổi mới công nghệ giai đoạn 1996-2000 là 81,1 % thì sang đến giai đoạn này chỉ còn trên 50% trên tổng vốn đầu tư. Có sự giảm tỷ trọng như trên là do giai đoạn 1996-2000 có sự tập trung đầu tư hiện đại hóa máy móc thiết bị, nâng cao năng lực sản xuất nhằm tạo ra bước nhảy vọt trong toàn ngành. Chính vì vậy từ năm 2000 đến nay ngành không phải đầu tư nhiều cho công nghệ nữa mà chủ yếu tập trung đầu tư theo chiều rộng. Trung bình mỗi doanh nghiệp Dệt may giành 2,9% doanh thu để đầu tư để cho đổi mới công nghệ. Giai đoạn 2006-2010, Vinatex dự kiến triển khai 24 dự án đầu tư trọng điểm cho ngành với tổng vốn đầu tư khoảng 16.000 tỷ đồng. Lĩnh vực tập trung nhiều nhất là ngành dệt với mục tiêu đến năm 2010 sẽ sản xuất 302 triệu m2 vải dệt thoi và 106 triệu m2 vải dệt kim. Dự án sản xuất xơ sợi tổng hợp có công suất 140.000 tấn/năm, đầu tư 300.000 cọc sợi cao cấp tại các khu công nghiệp ở đồng bằng Bắc Bộ, miền Trung và đồng bằng sông Cửu Long. 2. Nguồn vốn đầu tư đổi mới công nghệ Nếu với các nước phát triển trên thế giới thì kênh huy động vốn hiệu quả là thị trường chứng khoán thì ở Việt Nam, do thị trường chứng khoán chưa phát triển nên chủ yếu chúng ta huy động thông qua nguồn tích lũy trong nước và vốn đầu tư nước ngoài. Vì vậy cần xem xét các kênh huy động vốn cho các doanh nghiệp Dệt may bao gồm nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài. Nguồn vốn trong nước gồm có vốn từ ngân sách nhà nước, vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước, vốn tự có và khấu hao của doanh nghiệp. Nguồn vốn nước ngoài gồm có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại. 2.1. Nguồn vốn trong nước 2.1.1. Nguồn vốn ngân sách nhà nước Nguồn vốn ngân sách nhà nước là nguồn chi của ngân sách nhà nước cho những dự án đầu tư quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội quốc gia. Trong lĩnh vực Dệt may nó bao gồm: -Vốn cấp cho doanh nghiệp nhà nước Dệt may để đầu tư chiều sâu, mở rộng các cơ sở sản xuất -Vốn nhà nước đầu tư mới các cơ sở Dệt may -Vốn nhà nước liên doanh với các doanh nghiệp nước ngoài Tuy nhiên, ở nước ta do nguồn thu cho vốn ngân sách chưa đáp ứng được các khoản chi tiêu, ngân sách thường xuyên phải đi vay nước ngoài nên đây chưa phải là nguồn chính để giúp các doanh nghiệp Dệt may đầu tư đổi mới công nghệ. Theo Bộ Công Nghiệp thì tổng nhu cầu vốn đầu tư toàn ngành đến năm 2006 cần 900 nghìn tỷ đồng nhưng huy động ngân sách chỉ chiếm 7%, còn lại phải do các doanh nghiệp tự tìm kiếm. Như vậy, mặc dù Dệt may Việt Nam nằm trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội nhưng vốn đầu tư từ ngân sách còn rất thiếu thốn. Dù đã có sự gia tăng giữa các năm nhưng xét về mặt tỷ trọng thì tỷ trọng hiện nay không vượt quá 0,6% lượng vốn đầu tư cho đổi mới công nghệ. 2.1.2. Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước Đây là hình thức cho vay vốn với lãi suất ưu đãi, được áp dụng cho các dự án trong lĩnh vực ưu tiên của kế hoạch ngân sách nhà nước. Do lãi suất vay thấp và thời gian vay dài nên nguồn vốn này ngày càng tăng và có vị trí quan trọng. Đây được xem là nguồn vốn nhiều thuận lợi cho các doanh nghiệp Dệt may đổi mới công nghệ. Thực tế cho thấy nguồn vốn này biến động mạnh và khó dự đoán. Giai đoạn 1991-1997 là 236 tỷ đồng, trung bình là 26,2 tỷ/năm. Giai đoạn 2000-2005, nguồn vốn này đạt cao nhất là vào năm 2002 là 224,0. Nhưng vào năm 2004 lại giảm đột ngột xuống còn 135,4 tỷ đồng. Có thể thấy là qua các năm, nguồn vốn tín dụng này đã tăng lên đáng kể, nếu duy trì được tốc độ như những năm 2001, 2002 thì chắc chắn sẽ đảm bảo được nhu cầu về vốn cho ngành Bảng 4: Vốn trong nước đầu tư đổi mới công nghệ của Vinatex Đơn vị: Tỷ đồng Chỉ tiêu 2000 2001 2002 2003 2004 2005 Tín dụng nhà nước 81,2 224,0 224,5 220,2 135,4 144,6 Ngân sách nhà nước 4,9 9,3 3,9 4,2 4,7 5,0 Nguồn khác 68,1 75,3 70,7 96 73,5 74,6 Nguồn: Tổng công ty Dệt may Việt Nam 2.1.3. Nguồn vốn tự có và khấu hao của doanh nghiệp Nguồn vốn tự có là nguồn do các chủ sở hữu đóng góp hoặc từ lợi nhuận chưa phân phối. Vốn khấu hao là toàn bộ số tiền trích khấu hao được tích lũy lại. Vốn khấu hao không thuộc sản xuất kinh doanh mà là nguồn vốn để tái sản xuất giản đơn tài sản cố định. Ở Việt Nam, đối với mỗi doanh nghiệp thì tỷ lệ vốn khấu hao được quy định khác nhau và luôn được đề cao nhằm phát huy đổi mới tính tự chủ của doanh nghiệp trong ngành và nâng cao hiệu quả đầu tư. Các doanh nghiệp nhà nước luôn có ưu thế hơn các doanh nghiệp tư nhân vì ngay từ đầu đã được nhà nước hỗ trợ. Để huy động vốn trong nước phục vụ cho đầu tư đổi mới công nghệ, các doanh nghiệp phải có sự lựa chọn cho riêng mình: dựa vào tiềm lực của mình là vốn tự có và khấu hao, vay tín dụng nhà nước hay ngân sách nhà nước. Đây là câu hỏi lớn mà các doanh nghiệp phải tìm ra hướng giải quyết để phù hợp với tiềm lực và tình hình của doanh nghiệp mình. Tuy nhiên, các doanh nghiệp vẫn có thể hy vọng vào nguồn khác triển vọng hơn là nguồn vốn từ nước ngoài. 2.2. Nguồn vốn nước ngoài Đây là nguồn vốn đóng vai trò hết sức quan trọng đối với các nước đang phát triển. Một mặt nó giải quyết tình trạng thiếu vốn cản trở quá trình đổi mới công nghệ, mặt khác nước nhận đầu tư sẽ thu được lợi ích từ việc chuyển giao công nghệ. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là nguồn vốn đầu tư của tư nhân nước ngoài mà chủ đầu tư trực tiếp quản lý và sử dụng vốn, đầu tư cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ nhằm mục đích lợi nhuận với ba hình thức: hợp đồng hợp tác kinh doanh, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Nếu chúng ta kêu gọi và khuyến khích đầu tư FDI đúng hướng sẽ phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội nước ta, phát huy được lợi thế so sánh của nước ta và tạo điều kiện tiếp thu những công nghệ, kỹ thuật sản xuất tiên tiến, kinh nghiệm quản lý hiện đại của thế giới. Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) là khoản viện trợ không hoàn lại hoặc các khoản vay với các điều kiện ưu đãi về lãi suất, thời hạn cho vay dài, khối lượng vay lớn của các chính phủ, tổ chức tài chính tiền tệ thế giới. Đây là hình thức đầu tư mà người bỏ vốn và người sử dụng vốn là hai chủ thể khác nhau. ODA cho ngành Dệt may thời gian qua chủ yếu là dành cho xây dựng, cải tạo cơ sở hạ tầng cho ngành và hỗ trợ công tác xuất khẩu. Nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại là nguồn vốn các doanh nghiệp vay từ các tổ chức tài chính, ngân hàng nước ngoài lãi suất cao, thời hạn trả nợ nhanh đáp ứng mục tiêu đầu tư ngắn hạn như: hỗ trợ nhập khẩu hàng hoá, nguyên liệu nước ngoài, thâm nhập thị trường, nhập khẩu máy móc thiết bị… Giai đoạn 1991-1996, đầu tư nước ngoài đạt 985,76 triệu USD; trong đó hình thức liên doanh liên kết có tổng vốn đầu tư là 126,77 triệu USD chiếm 87,14%. Đầu tư nước ngoài vào ngành Dệt may có 88 dự án với tổng vốn đầu tư là 189,46 triệu USD; hình thức liên doanh liên kết chiếm 35,13%, loại hình doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài chiếm 64,87%. Trong năm 2006 hứa hẹn sẽ có rất nhiều doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào ngành Dệt may Việt Nam. Điển hình là hội nghị tài trợ và đầu tư cho ngành Dệt may lần đầu tiên tổ chức vào 2/6/2006 tại thành phố Hồ Chí Minh với sự tham gia của 30 ngân hàng, tổ chức tín dụng trong và ngoài nước, 150 doanh nghiệp Dệt may Việt Nam và các nhà cung cấp thiết bị nước ngoài với mục đích chính là xúc tiến đầu tư vào Dệt may Việt Nam. Theo hiệp hội Dệt may Việt Nam (Vitas), Tập đoàn Pamatex Berhad (Malaixia) với vốn đầu tư hơn 100 triệu USD đã được cấp phép đầu tư vào khu kinh tế mở Chu Lai (Quảng Nam), Công ty Daewon (Hàn Quốc) quyết định đầu tư xây dựng 1 nhà máy may xuất khẩu trị giá 8 triệu USD tại khu công nghiệp Hòa Khánh (Đà Nẵng) sau khi đã đầu tư 1 nhà máy may tại khu công nghiệp Vĩnh Lộc ( thành phố Hồ Chí Minh) và một nhà máy dệt tại khu công nghiệp Nhơn Trạch I (Đồng Nai). Qua các sự kiện trên cho thấy triển vọng huy động vốn cho ngành từ đầu tư nước ngoài là rất lớn. Hiện nay, trong tất cả các nguồn vốn trong và ngoài nước thì vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước chiếm tỷ trọng cao nhất, vốn tín dụng thương mại chiếm 30%, ODA là 20%, vốn tự có và ngân sách là thấp nhất. II. PHƯƠNG THỨC ĐẦU TƯ CHO ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ Đa số các doanh nghiệp sử dụng kết hợp nhiều phương thức, rất ít doanh nghiệp chỉ sử dụng một phương thức đổi mới công nghệ. Trong đó, tự tổ chức nghiên cứu được tiến hành song song với việc mua công nghệ mới nhằm mục đích tăng hiệu quả ứng dụng và vận hành công nghệ. Bảng 5: Phương thức đầu tư đổi mới công nghệ của 64 doanh nghiệp Dệt may Việt Nam. Phương thức đầu tư Tỷ lệ (%) Tự tổ chức nghiên cứu và thiết kế trong nội bộ doanh nghiệp 32 Hợp tác với cơ quan khoa học nước ngoài 26 Hợp tác với cơ quan khoa học trong nước 5 Bắt chước thiết kế lại theo mẫu 54 Mua công nghệ từ trong nước 20 Mua công nghệ từ nước ngoài 54 Liên doanh liên kết với doanh nghiệp trong nước 20 Liên doanh liên kết với doanh nghiệp nước ngoài 23 Thuê tư vấn trong nước 18 Thuê tư vấn nước ngoài 3 Nguồn: Báo cáo kết quả khảo sát về đổi mới công nghệ tại các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam. Từ kết quả nghiên cứu trên thấy rằng đa số các doanh nghiệp lựa chọn hình thức khép kín, ít có sự giao lưu hợp tác với nước ngoài. Phương thức được áp dụng nhiều nhất là mua công nghệ từ nước ngoài và bắt chước thiết kế lại theo mẫu đều được 54% doanh nghiệp áp dụng. Hai phương thức này có chung một ưu điểm là đều tiết kiệm được thời gian và chi phí nghiên cứu. Đặc biệt với phương thức mua công nghệ từ nước ngoài thì có thêm một số ưu điểm như: Tạo được sự tiến bộ đáng kể về thương mại và kỹ thuật thông qua việc mua công nghệ từ nước ngoài: Khi mua công nghệ thì các doanh nghiệp sẽ có cơ hội nhận được sự cung cấp tài liệu và huấn luyện đầy đủ để nâng cao kiến thức của mình trong vận hành và sử dụng công nghệ, từ đó tăng khả năng sản xuất của máy móc thiết bị và áp dụng quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm một cách thành công. Đôi khi sự giúp đỡ thêm về tài chính, tìm thị trường và tiêu thụ sản phẩm của bên cung cấp còn mở ra một khả năng thương mại cho các doanh nghiệp của chúng ta. Được tiếp xúc, trao đổi thông tin và kinh nghiệm với bên cung cấp công nghệ nhằm phục vụ cho lợi ích của mình: Ngoài khả năng có những tiến bộ trực tiếp về thương mại và công nghệ, sự hợp tác này còn đem lại cho các doanh nghiệp Dệt may sự tiếp xúc và đối thoại thường xuyên với nhà cung cấp nước ngoài. Các doanh nghiệp sẽ có địa chỉ của nhà cung cấp để giải đáp những thắc mắc của mình và có nguồn thông tin để giải quyết những vấn đề khác, được phổ biến tình hình thực tế về những cải tiến và sáng kiến, các thị trường và xu hướng phát triển. Các doanh nghiệp nên tận dụng những thông tin có giá trị đó. Ngoài ra bên nhận công nghệ còn có thể sử dụng kinh nghiệm của bên cung cấp để sử dụng công nghệ có hiệu quả. Có thể có được những điều khoản hợp đồng có lợi: Việc đàm phán hợp đồng tiếp nhận công nghệ có thể tạo ra nhiều thuận lợi cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc mua công nghệ từ nước ngoài cũng có nhiều hạn chế, có thể gây cho các doanh nghiệp Dệt may nhiều rủi ro. Thứ nhất, bên nhận công nghệ sẽ trở nên thụ động, bị lệ thuộc vào cơ quan nước ngoài đến khi nào nắm vững đầy đủ và thích ứng tới mức cần thiết công nghệ với điều kiện của mình. Mua công nghệ đồng nghĩa với việc doanh nghiệp không tự nghiên cứu trong nội bộ và như vậy thì doanh nghiệp sẽ đánh mất sự chủ động sáng tạo, công tác tổ chức nghiên cứu sẽ không thể phát triển được. Thậm chí còn xảy ra tình trạng doanh nghiệp phải thay đổi điều kiện của mình để có thể tiếp nhận công nghệ. Thứ hai, có thể có rủi ro, thất bại về kỹ thuật khi được chuyển giao: Với trường hợp mua công nghệ đã qua sử dụng thì rủi ro mua phải công nghệ đã quá lạc hậu là rất lớn. Còn đối với công nghệ mới thì mặc dù đã được xem xét cẩn thận vẫn còn có những rủi ro do những thiếu sót trong công nghệ. Các doanh nghiệp phải hết sức thận trọng khi đánh giá năng lực sở tại hiện có và khả năng của mình để tiếp nhận và làm chủ công nghệ được chuyển giao. Chỉ có sự đánh giá đầy đủ ưu, nhược điểm của công nghệ và bên cung cấp kỹ thuật mới có thể giúp đỡ để hạn chế thấp nhất rủi ro. Thứ ba là rủi ro xuất phát từ bản thân bên cung cấp công nghệ về kiến thức, kinh nghiệm Thứ tư là rủi ro do các điều khoản bất lợi trong hợp đồng: Trước khi đi đến kết luận cuối cùng, bên nhận phải nhận định xem các điều khoản đàm phán có lợi cho mình không. Việc giữ bí mật về các vấn đề đã thảo luận này thường cản trở các nhà kinh doanh nhận công nghệ tham khảo ý kiến của luật sư, cố vấn. III. NỘI DUNG ĐẦU TƯ ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ Nói đến đầu tư đổi mới công nghệ luôn bao gồm cả phần cứng và phần mềm. Phần cứng là các máy móc thiết bị ngành Dệt may còn phần mềm là nguồn nhân lực để vận hành máy móc đó. Các doanh nghiệp nên chú trọng cả hai vấn đề này thì việc đầu tư đổi mới công nghệ mới có kết quả. Trước hết chúng ta xem xét về phần cứng. Trong 5 năm 2000-2005, số lượng máy móc thiết bị của toàn ngành và Vinatex có sự thay đổi đáng kể được trình bày ở bảng sau. Danh mục Đơn vị Năm 2000 Năm 2005 Toàn ngành Vinatex Toàn ngành Vinatex Năng lực sản xuất -Bông -Sợi -Vải -Khăn -Sản phẩm may tấn tấn triệu m tấn triệu sp 8.000 85.000 304 25.000 400 6.400 75.000 139 5.200 110 16.750 260.000 800 32.000 1.200 16.000 118.700 205.000 8.500 360 Trang thiết bị -Kéo sợi nồi cọc -Kéo sợi OE -Dệt vải -Dệt kim -May cọc sợi rôto máy dệt máy dệt kim máy may 1.050.000 3.520 14.000 1.110 190.000 900.000 2.000 6.320 130 28.000 2.487.000 17.870 17.437 4.972 145.300 1.274.000 11.300 5.015 720 41.460 Bảng 6: Nội dung đầu tư đổi mới công nghệ ngành Dệt may và Vinatex Nguồn: Tổng công ty Dệt may Việt Nam 1. Thiết bị kéo sợi Thiết bị kéo sợi được đầu tư theo từng giai đoạn và mỗi giai đoạn có số vốn khác nhau. Giai đoạn 1991-1995, ngành dệt mua mới 201.906 cọc sợi. Ngoài ra còn đầu tư 39,96 triệu USD để thay mới, thay thế đồng bộ và cục bộ các máy cũ của Tây Âu và nâng cấp cải tạo các cọc sợi. Do đó sợi dệt công nghệ mới đạt chất lượng cao. Giai đoạn 1996-2004 đánh dấu một giai đoạn mà thiết bị kéo sợi được đầu tư lớn, với tổng vốn đầu tư là 1.976,5 triệu USD nhằm đáp ứng yêu cầu của ngành. Các thiết bị này có xuất xứ rất đa dạng, nhiều chủng loại: xuất xứ từ Tây Âu, Nhật Bản…20,2% thiết bị từ Italy; 19,97% từ Thụy Sỹ; 18,25% từ Trung Quốc; 16,65% từ Đức… Năm 2005, ngành dệt có 2.487.000 cọc sợi (17.870 rôto) trong đó đầu tư mới 502.000 cọc sợi, sản xuất 260.000 tấn sợi một năm. Tuy nhiên theo các chuyên gia về công nghệ, kỹ thuật nước ta thì trình độ công nghệ của tiểu ngành vẫn ở mức trung bình và lạc hậu, đòi hỏi phải đầu tư hơn nữa. 2. Thiết bị, công nghệ dệt thoi Giai đoạn 1991-1995, các thiết bị dệt thoi đã quá cũ và lạc hậu so với khu vực và thế giới được đầu tư nâng cấp và thay mới với vốn đầu tư là 14,09 triệu USD, đầu tư nâng cấp những thiết bị đã qua sử dụng nhưng năng lực thực tế vẫn chấp nhận được. Thiết bị dệt thoi mà ngành mua về chủ yếu từ Hàn Quốc, Nhật Bản…Từ năm 1996 đến nay, với lượng vốn đầu tư khoảng 78,5 triệu USD, toàn ngành có 6000 thiết bị dệt thoi mới. Hiện nay có 17.437 máy dệt với công suất là 800 triệu m vải, 32.000 tấn khăn bông nhưng chất lượng vải còn hạn chế. Vải dệt thoi xuất khẩu và cung cấp cho may xuất khẩu chỉ khoảng 13-14%. Nguyên nhân là do trình độ công nghệ ở mức trung bình không đáp ứng được yêu cầu vải xuất khẩu. Vì vậy, trong thời gian tới, ngành nên đầu tư cho thiết bị dệt thoi để đáp ứng nhu cầu về vải xuất khẩu và vải cho ngành may. 3. Thiết bị, công nghệ dệt kim Vào giai đoạn 1996-2000, cùng với đầu tư sửa chữa và nâng cấp máy móc đã qua sử dụng, các doanh nghiệp Dệt may Việt Nam đã đầu tư dây chuyền công nghệ dệt kim mới của châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc, làm tăng hiệu quả và năng lực sản xuất với 1.110 máy dệt kim, đạt hơn 70.000 tấn sản phẩm mỗi năm. Từ năm 2000 đến nay, trước đòi hỏi về chất lượng hàng hoá xuất khẩu ngày càng cao của thị trường thế giới, tiểu ngành dệt kim đã tăng tốc trong việc cải thiện trình độ công nghệ. Đến năm 2005, toàn ngành có tới 4.972 máy dệt kim và được đánh giá là trình độ công nghệ trung bình khá và đã cải thiện được rất nhiều vấn đề về công nghệ như giảm tỷ lệ tiêu hao nguyên liệu, sản xuất các loại vải mật độ cao, ổn định kích thước, ít lỗi, thay đổi mặt hàng… 4. Thiết bị, công nghệ ở khâu in nhuộm, hoàn tất Giai đoạn 2000-2004, các doanh nghiệp thành viên của VINATEX đã đầu tư khoảng 1.208,67 tỷ đồng cho việc thay mới và bổ sung, nâng cấp thiết bị công nghệ in, nhuộm, hoàn tất. Trong đó, hầu hết các thiết bị được mua từ các nước Tây Âu với tổng giá trị 321,5 tỷ đồng; tiếp đó là máy móc từ Đài Loan với tổng giá trị 102,4 tỷ đồng, chiếm 16% và Nhật Bản với tổng vốn đầu tư khoảng 68,2 tỷ đồng, chiếm 14% ... Các thiết bị công nghệ mua ở thị trường trong nước rất ít, chỉ khoảng 1,984 tỷ đồng chiếm 0,3% tổng vốn đầu tư mới. 5. Đầu tư cho thiết bị, công nghệ ngành may Nếu như ngành dệt chủ yếu sản xuất đầu vào cho ngành may thi ngành may lại là ngành trực tiếp tạo ra sản phẩm tiêu dùng và xuất khẩu. Vì vậy vấn đề nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm là hết sức cần thiết. Vào giai đoạn 1996-2005, toàn ngành đã đầu tư cho máy móc thiết bị ngành may. Trong giai đoạn này, Vinatex đã giành 28,7% tổng vốn đầu tư của mình để đầu tư cho thiết bị công nghệ ngành may, tương đương với 356,8 tỷ đồng ; trong đó, tổng đầu tư của các doanh nghiệp may là 260,2 tỷ đồng, chiếm 87% tổng vốn đầu tư cho thiết bị công nghệ may mặc và các doanh nghiệp dệt đầu tư cho may là 50,3 tỷ đồng, chiếm 13%. Hiện nay, việc đầu tư máy móc thiết bị ngành may dịch chuyển theo hướng chủ yếu sản xuất các sản phẩm chất lượng cao, thoả mãn nhu cầu tiêu dùng trong các thị trường tiềm năng, những doanh nghiệp đi đầu trong việc đầu tư đổi mới công nghệ phải kể đến doanh nghiệp may Việt Tiến, May 10, may Nhà Bè … Nhìn vào các con số thống kê có thể thấy rằng, các doanh nghiệp Dệt may đã tập trung một lượng vốn lớn cho đầu tư hiện đại hoá và đổi mới trang thiết bị công nghệ của ngành. Những nỗ lực đó đã mang lại nhiều kết quả khả quan như năng lực sản xuất tăng lên, công nghệ và thiết bị được hiện đại hóa, cải thiện kim ngạch xuất khẩu và tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm Dệt may trên thị trường quốc tế. Trong năm 2005, toàn ngành dệt may đã tiến hành triển khai nhiều dự án đổi mới công nghệ như: dự án mua mới và mở rộng sản xuất tại công ty Dệt Đông Á, Công ty Dệt may Hà Nội đầu tư mua mới trang thiết bị nhằm tăng năng suất lao động thêm 2.494 tấn sợi/năm; công ty May 10 đã đầu tư thêm máy móc thiết bị hiện đại để tăng năng lực thêm 200.000 bộ veston/năm, ngoài ra còn có các dự án của công ty Dệt may Hòa Thọ, đầu tư máy móc thiết bị mới tại Công ty dệt Phong Phú, dệt Thành Công, Dệt may Nha Trang… Năm 2006, Tập đoàn Dệt may Việt Nam dành 1.773 tỷ đồng cho đầu tư đổi mới công nghệ Dệt may. Trong đó, nội dung đầu tư gồm đầu tư nâng cấp và mở rộng khâu hoàn tất vải dệt thoi như nâng cấp và mở rộng các nhà máy nhuộm của Dệt Nam Định, Dệt may Thắng Lợi, Dệt Việt Thắng trên cơ sở cổ phần hóa hoặc liên doanh với các đối tác nước ngoài. Đẩy nhanh tiến độ di dời kết hợp hiện đại hóa các công ty Dệt 8/3, Dệt Nam Định, Dệt kim Đông Xuân,…Nghiên cứu sản xuất sản phẩm mới và sản phẩm dệt thoi trên cơ sở vải cotton CLC, vải spandex, vải thời trang; các sản phẩm dệt đa chức năng, kỹ thuật và nhóm sản phẩm nội thất: vải bọc, đồ dùng gia đình, xe hơi, thảm trải sàn,…Tập đoàn Dệt may Việt Nam cũng đầu tư nâng cao năng suất lao động trọng tâm vào khâu kéo sợi, dệt thoi, may mặc với chỉ tiêu tăng 20-30% so với hiện nay. Cùng với việc đầu tư vào máy móc thiết bị thì các doanh nghiệp cũng không quên đầu tư vào đội ngũ công nhân kĩ thuật là những người vận hành máy móc thiết bị đó. 6. Đầu tư nguồn nhân lực ngành Dệt may Ngành Dệt may Việt Nam hiện đang huy động và sử dụng hơn 1 triệu lao động trong các dây chuyền công nghệ (riêng ngành may là trên 900.000 người). Ngoài ra còn khoảng 1 triệu lao động đang tham gia trong các hộ gia đình và hợp tác xã. Bên cạnh lực lượng đông đảo đó còn phải kể đến số lao động trong ngành trồng bông và dâu tơ tằm. Tuy nhiên, chất lượng lao động lại đặt ra nhiều vấn đề đối với doanh nghiệp Dệt may, nguồn nhân lực hiện đại trình độ rất thấp nhưng khả năng đào tạo nguồn nhân lực cho ngành lại rất hạn chế. Do đặc trưng lao động của ngành là cần cù, khéo léo và tỉ mỉ nên lao động nữ chiếm số đông. Trong toàn ngành Dệt may, lao động nam ngành dệt chiếm 5,72%, lao động nam ngành may chiếm 17,3%; lao động nữ ngành dệt chiếm 12,28%, lao động nữ ngành may chiếm 64,7%. Tỷ lệ lao động nữ ngành dệt gấp đôi nam; ngành may thì sự chênh lệch này còn lớn hơn là gấp 3 lần. Điều này đặt ra một nhu cầu đối với các doanh nghiệp phải tổ chức làm việc hợp lý, phù hợp với sức khỏe nữ giới. Với số lượng lao động có thể nói là rất lớn như vậy nhưng trình độ của họ chủ yếu vẫn là lao động thủ công. Trong ngành dệt, lượng lao động qua đào tạo chỉ chiếm 35,1%; trình độ cao đẳng, đại học và trên đại học chỉ chiếm 7%. Trong ngành may, tỷ lệ lao động qua đào tạo còn thấp hơn, chiếm 18,24% tổng số lao động; trình độ cao đẳng, đại học và sau đại học chỉ dừng lại ở mức 4,16%. Bảng 7: Trình độ lao động trong các doanh nghiệp Dệt may Việt Nam. Trình độ lao động Tỷ lệ trong các doanh nghiệp dệt (%) Tỷ lệ trong các doanh nghiệp may (%) Lao động phổ thông 65,9 81,76 Công nhân 19,2 6,53 Kỹ thuật viên 3,3 3,92 Trung cấp 4,6 3,63 Đại học và cao đẳng 6,9 4,15 Trên đại học 0,1 0,01 Lao động quản lý trình độ thấp nhưng lao động sản xuất cũng không khá hơn là mấy. Phần lớn lao động là người ngoại tỉnh, chủ yếu là xuất thân nông dân ra thành thị kiếm việc làm nên chưa được trang bị bất cứ kỹ năng nào, khi vào doanh nghiệp trình độ là dưới cơ bản. Khi các doanh nghiệp tuyển dụng họ thì phải chấp nhận đào tạo lại trước khi đưa họ vào các dây chuyền sản xuất. Điều này làm doanh nghiệp tốn thời gian, công sức và chi phí. Ngoài ra, nó còn gây khó khăn cho doanh nghiệp về quản lý do: - Trình độ nhận thức về pháp luật, về nội qui kỉ luật, chính sách lao động và tiền lương là không có. - Trình độ văn hóa và tay nghề của cán bộ quản lý hạn chế dẫn tới việc tổ chức sản xuất kém hiệu quả, năng suất thấp, chất lượng sản phẩm kém. Điều này dẫn tới thu nhập của người lao động thấp, lại phải tăng giờ tăng ca để kịp hợp đồng. - Không có quỹ thời gian cho việc tổ chức sinh hoạt định kỳ và tuyên truyền các vấn đề xã hội cho công nhân. Sau đây là bảng một số đặc điểm lao động của ngành dệt may thành phố Hồ Chí Minh. Bảng 8: Đặc điểm lao động ngành Dệt may thành phố Hồ Chí Minh Yếu tố phân tích Tỷ lệ (%) Yếu tố phân tích Tỷ lệ (%) 1. Nguồn lao động - Lao động nhập cư - Lao động nữ 59 76 4. Chuyên môn (LĐ quản lý) -Trung cấp - Cao đẳng - Đại học - Không có bằng cấp chính quy 10,5 8,2 6,5 74,8 2. Độ tuổi - Dưới 20 tuổi - Từ 21-30 tuổi - Từ 31-40 tuổi - Trên 40 tuổi 23 47 24 6 5. Hình thức đào tạo -Chính quy trước khi nhận việc - Đào tạo tại chức - Đào tạo ngắn hạn - Chưa được đào tạo trước 12,5 12,7 14,5 60,3 3. Trình độ văn hoá - Cấp I - Cấp II - Cấp III - Tốt nghiệp cấp III 21 61 14 4 Nguồn: Tổng công ty Dệt may Việt Nam (Vinatex). Thành phố Hồ Chí Minh là một thị trường lao động lớn nhất cả nước và cũng là thị trường sôi động nhất. Lao động phổ thông thì trình độ tốt nghiệp cấp III mới chỉ có 4%, còn lại là chưa tốt nghiệp. Lao động đa số là lao động nhập cư. Đặc điểm công nhân ở đây cũng phản ánh khá rõ tình hình lao động chung của cả nước. Với đặc điểm nguồn lao động như vậy là một cản trở lớn cho quá trình đầu tư đổi mới công nghệ. Thế mạnh của lao động trong nước là lao động tuổi đời còn rất trẻ, có sức khoẻ tốt, dễ tiếp thu kiến thức mới. Theo điều tra, trong ngành may, lao động dưới 30 tuổi chiếm 64,2% còn trong ngành dệt thì số lao động này thấp hơn là 38,3%. Tuy nhiên, những lao động này lại thiếu kinh nghiệm, rất cần sự hướng dẫn của những thế hệ đi trước, đặc biệt trong tình trạng đa số các doanh nghiệp vẫn lựa chọn hình thức tự đào tạo. Trong nguồn nhân lực các doanh nghiệp Dệt may bộ phận quan trọng nhất và cần sự đầu tư nhiều nhất là nguồn nhân lực công nghệ. Họ là một trong những nhân tố quan trọng không những quyết định sự thành công trong hoạt động sản xuất kinh doanh mà còn là hạt nhân của quá trình đổi mới công nghệ của doanh nghiệp. Nhưng thực tế lại cho thấy lực lượng này còn quá ít. Đồng thời, do trình độ còn hạn chế nên chỉ có thể dừng lại ở vận hành và tiếp thu công nghệ một cách thụ động, thiếu sáng tạo. IV. HẠN CHẾ TRONG ĐỔI MỚI ĐẦU TƯ CÔNG NGHỆ 1. Hạn chế Nhờ việc đầu tư đổi mới công nghệ mà hàng Dệt may của Việt Nam đã có chỗ đứng vững chắc hơn trên thị trường. Mặc dù hàng Dệt may chưa rẻ và mẫu mã đẹp như hàng của Trung Quốc nhưng cũng đã được nhiều nước bạn hàng có nhận xét là chất lượng khá tốt. Rõ ràng việc đầu tư đổi mới công nghệ mang lại kết quả cuối cùng là sức cạnh tranh của hàng hóa tăng lên, song các doanh nghiệp còn mang rất nhiều hạn chế. 1.1. Lượng vốn đầu tư đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp còn thấp Tuy các doanh nghiệp đã có nhận thức mới về tầm quan trọng của đổi mới công nghệ nhưng theo khảo sát tại 64 doanh nghiệp Dệt may thì tỷ lệ đầu tư cho đổi mới công nghệ trung bình trong 3 năm 2001-2003 chỉ đạt khoảng 3% trong tổng doanh thu. Tính trung bình cho một doanh nghiệp có tiến hành đổi mới công nghệ, số vốn mà doanh nghiệp bỏ ra là 5 tỷ đồng một năm. Trong đó, tỷ trọng vốn đầu tư cho phần cứng cao hơn phần mềm. Theo số liệu thống kê của Tổng công ty Dệt may Việt Nam, trong năm 2005, có 29 dự án đầu tư đổi mới công nghệ chuyển tiếp, trong đó chỉ có 3 dự án trên 100 tỷ đồng, còn lại số vốn khá nhỏ. 1.2. Thiếu đồng bộ trong đầu tư đổi mới công nghệ Hiện nay, một trong những chủ trương của ngành Dệt may là đầu tư thiết bị công nghệ đồng bộ nhưng trên thực tế chúng ta chưa làm được điều này. Năm 2005, Vinatex có tất cả 29 dự án đầu tư đổi mới công nghệ nhưng trong đó chỉ có một nửa là các dự án mang tính đồng bộ và đầu tư lớn, số còn lại đều rất manh mún. Đặc biệt có 3 dự án rất nhỏ lẻ, chỉ đầu tư một dây chuyền sản xuất như dự án máy nhuộm cao áp của doanh nghiệp dệt Phong Phú (tổng số vốn 3,7 tỷ đồng), dự án máy Compact của doanh nghiệp dệt Thành Công (2,3 tỷ đồng), dự án thiết bị lẻ đánh máy ống của doanh nghiệp Nha Trang (8,45 tỷ đồng). Trong số 29 dự án đó chỉ có duy nhất một dự án đầu tư vào công nghệ phần mềm là xây dựng mạng thông tin quản lý của công ty May 10. 1.3. Hiệu quả của vốn đầu tư đổi mới công nghệ còn thấp Xét về hiệu quả vốn đầu tư thì ngành may đạt hiệu quả cao hơn ngành dệt. Với mỗi đồng vốn đầu tư cho ngành dệt thì thu về 2,53 đồng doanh thu thì ở ngành may sẽ thu về 4,14 đồng doanh thu (2005). Nguyên nhân là do công nghệ của ngành dệt rất phức tạp nên đầu tư phải với lượng vốn lớn, mà sản phẩm dệt hiện nay chất lượng còn thấp, chưa cạnh tranh được với các nước khu vực đặc biệt là Trung Quốc. Trên đây là những hạn chế còn tồn tại trong ngành Dệt may mà nếu không được giải quyết nhanh chóng sẽ trở thành thách thức đối với sự phát triển của ngành. Muốn tìm được giải pháp phù hợp và hiệu quả thì ngành phải tìm ra nguyên nhân của những hạn chế đó. 2. Nguyên nhân 2.1. Các doanh nghiệp còn thiếu rất nhiều vốn đầu tư Hầu như đối với tất cả các doanh nghiệp ở Việt Nam, khi bước vào tiến hành sản xuất kinh doanh thì vấn đề lớn nhất mà họ gặp phải là vấn đề về vốn. Để tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới thì các doanh nghiệp phải đầu tư khá nhiều vốn cho sản xuất kinh doanh nhưng thực tế việc huy động vốn không đáp ứng được nhu cầu này. Vốn tự có của mỗi doanh nghiệp để phục vụ cho đầu tư đổi mới công nghệ chỉ đạt khoảng 10-15%, còn vốn do ngân sách nhà nước cấp (đối với doanh nghiệp nhà nước) đạt khoảng 20%, còn lại là do các doanh nghiệp đi vay ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác với lãi suất cao nên năng lực của ngành rất hạn chế. 2.2. Ngành dệt và ngành may chưa có sự liên kết hiệu quả Mặc dù ngành dệt và may là hai ngành cần có sự liên kết hiệu quả vì đầu ra của ngành dệt là nguyên liệu của ngành may. Để đầu tư có hiệu quả thì các doanh nghiệp không thể không chú trọng đến sự liên kết này vì như vậy thì đầu tư mới đồng bộ, mới tận dụng được hết công suất của máy móc thiết bị. Nhưng trên thực tế thì sự gắn kết giữa hai ngành này còn lỏng lẻo, sự đầu tư cho ngành may chưa hẳn là đầu tư cho đầu ra của ngành dệt và ngược lại. 2.3. Chưa có chiến lược đào tạo nguồn nhân lực công nghệ hợp lý Lợi thế của nước ta là có nguồn nhân lực dồi dào nhưng lao động chủ yếu vẫn là lao động phổ thông, chưa qua đào tạo, thiếu lao động lành nghề… Vì vậy khi muốn đầu tư mua mới dây chuyền công nghệ doanh nghiệp phải đồng thời đầu tư cho công tác đào tạo nguồn nhân lực mà khoản phí đào tạo không phải là nhỏ. Các doanh nghiệp Dệt may Việt Nam cũng gặp phải khó khăn đó và hiện nay ngành cũng chưa có chiến lược đào tạo thích hợp để đáp ứng được nhu cầu của ngành. Xét về số lượng thì số trường đào tạo kỹ sư chuyên ngành Dệt may còn thiếu, chưa đáp ứng đủ nhu cầu của ngành. Xét về chất lượng thì trình độ sinh viên ra trường còn yếu, chưa cập nhật trình độ khoa học công nghệ của sản xuất. Cơ sở vật chất của các trường đào tạo còn quá thô sơ, đội ngũ giáo viên, giảng viên còn thiếu kinh nghiệm, trình độ còn thấp, sinh viên chưa có điều kiện cập nhật các kiến thức mới về khoa học công nghệ trên thế giới. Mặt khác, các trường cũng chưa có sự liên kết với các doanh nghiệp trong và ngoài nước để học viên của mình có thể đi thực tế, thực hành ở bên ngoài. 2.4. Ngành công nghiệp phụ trợ còn yếu Ngành Dệt may muốn phát triển mạnh thì không thể phủ nhận vai trò của các ngành công nghiệp phụ trợ như ngành cơ khí, các ngành cung cấp nguyên vật liệu… Vậy mà ngành cơ khí phục vụ cho Dệt may hiện nay còn rất kém phát triển nên ngành Dệt may hiện nay vẫn phải nhập máy móc thiết bị từ nước ngoài để phục vụ sản xuất, giá cả của máy móc nhập lại không phải là rẻ so với khả năng vốn của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, việc đầu tư cho ngành nguyên phụ liệu cũng chưa được chú trọng nên các doanh nghiệp vẫn phải nhập nhiều nguyên phụ liệu. Vì vậy, trong sản xuất các doanh nghiệp rơi vào thế bị động, việc sản xuất do đó dễ bị đình trệ, không kịp tiến độ. Tuy nhiên, hiện nay, Vinatex đã và đang thành lập các trung tâm và các công ty giao dịch nguyên phụ liệu dệt may nhằm đẩy mạnh sản xuất và đáp ứng kịp thời nhu cầu của ngành. Hoạt động này nên được phát triển rộng rãi trong toàn ngành. CHƯƠNG III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ I. ĐỊNH HƯỚNG VÀ MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2010 1. Định hướng “Chiến lược tăng tốc” phát triển ngành Dệt may Việt Nam đến 2010 đã đề ra nhiệm vụ cho ngành là giải quyết việc làm, nâng cao kim ngạch xuất khẩu, tạo ra bước nhảy vọt cả về số lượng lẫn chất lượng. Vì vậy, các doanh nghiệp cần quan tâm đến việc đầu tư cho các công nghệ mới nhất, thiết bị hiện đại. Tuy nhiên, với điều kiện về vốn còn eo hẹp như hiện nay thì việc đầu tư mua mới toàn bộ là khó thực hiện. Bởi vậy, các doanh nghiệp cũng nên tận dụng các thiết bị đã qua sử dụng kết hợp nâng cấp các thiết bị đó để có thể phát huy được công suất cao nhất. Mỗi doanh nghiệp nên làm chủ một vài loại công nghệ, đầu tư theo hướng chuyên môn hóa bởi vì các doanh nghiệp không có đủ năng lực để có thể đầu tư vào nhiều loại công nghệ và như vậy mới có thể tạo ra các mặt hàng chất lượng cao là sản phẩm chủ lực của doanh nghiệp mình. Có thể lấy đơn cử một vài đơn vị có mặt hàng đặc trưng như Công ty may Việt Tiến với áo sơ mi; May Nhà Bè là veston; May Phương Đông là sản phẩm jeans và thun; Dệt Phong Phú là sản phẩm jeans và khăn cao cấp, May 10 là áo sơ mi nam… 2. Mục tiêu Mục tiêu chiến lược phát triển ngành Dệt may tới 2015 là “phát triển ngành Dệt may trở thành một trong những ngành công nghiệp trọng điểm, mũi nhọn về xuất khẩu, thỏa mãn ngày càng cao nhu cầu tiêu dùng trong nước, nâng cao khả năng cạnh tranh, hội nhập vững chắc kinh tế khu vực và thế giới”. Mục tiêu này đã được Đảng và nhà nước quán triệt. Bảng 5: Các chỉ tiêu chủ yếu ngành Dệt may Việt Nam 2005-2020 Chỉ tiêu Đơn vị Thực hiện Mục tiêu 2004 2005 2010 2015 2020 1. Doanh thu -Nội địa -Xuất khẩu triệu $ triệu $ triệu $ 5566 1180 4386 6100 1300 4800 10800 2800 8000 18500 5500 13000 31000 10000 21000 2. Sử dụng lao động 1000 người 2000 2100 2450 2850 3280 3. Sản phẩm chính -Bông xơ -Sợi tổng hợp -Sợi -Vải lụa -Sản phẩm dệt kim -Sản phẩm may 1000 tấn 1000 tấn 1000 tấn triệu m triệu sp triệu sp 10,0 - 239 518,2 142,2 926 11,0 - 260 600 150,2 1100 20,0 260,0 350 1000 230 1800 40,0 400,0 500 1500 300 2850 60,0 600 650 2000 400 4000 4. Tỷ lệ nội địa hóa % 31,8 38 45 55 65 Nguồn: Tổng công ty Dệt may Việt Nam (Vinatex) Mục tiêu đến năm 2020 là: - Dịch chuyển và tái cơ cấu lại nền kinh tế, đảm bảo sự phát triển đồng đều giữa các khu vực, hình thành khu vực kinh tế, dịch vụ, thương mại Dệt may nhằm lôi cuốn phát triển sản xuất các khu vực khác. - Đảm bảo doanh nghiệp phát triển bền vững với việc giữ gìn môi trường trong sạch. - Hướng tới sản xuất kinh doanh các sản phẩm Dệt may có giá trị cao phục vụ xuất khẩu và đáp ứng tiêu dùng trong nước. - Tăng trưởng Dệt may hàng năm 14-16% ; tăng trưởng xuất khẩu 10-12%. II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP 1. Giải pháp huy động vốn đầu tư Nhu cầu vốn đầu tư cho Dệt may là rất lớn, khoảng 3 tỷ USD giai đoạn 2005-2010, đây không phải là nguồn vốn nhỏ nên để có thể huy động được cần phải thực hiện nhiều giải pháp. Thứ nhất, nhà nước và các doanh nghiệp cần khuyến khích kêu gọi đầu tư cả trong và ngoài nước. Muốn làm được điều này đòi hỏi phải có sự kết hợp từ cả hai phía. Về phía nhà nước, cần hoàn thiện hành lang pháp lý, tạo môi trường đầu tư thuận lợi cả về hạ tầng cứng và hạ tầng mềm. Về phía các doanh nghiệp, cần phát triển uy tín, thương hiệu, chất lượng để có thể huy động vốn từ các ngân hàng thương mại, tổ chức tài chính... Thứ hai, đẩy mạnh kênh huy động vốn là thị trường chứng khoán. Trên thực tế thì ở nước ta thị trường chứng khoán tuy đã có nhiều thay đổi nhưng nhìn chung quy mô còn nhỏ bé, hoạt động chưa sôi động và hiệu quả. Vì vậy, để phát triển kênh huy động vốn này thì cần có thời gian và thực hiện đồng thời nhiều biện pháp. Tuy nhiên trong thời gian tới đây sẽ là kênh huy động vốn có hiệu quả và là giải pháp quan trọng với tất cả các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp Dệt may nói riêng. Do đó, các doanh nghiệp cần tiến hành ngay việc nghiên cứu và áp dụng các hình thức phát hành trái phiếu, cổ phiếu để huy động vốn cho đầu tư đổi mới công nghệ. Thứ ba, tiếp tục tăng hiệu quả hoạt động của công ty tài chính Dệt may, tăng vốn pháp định để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Dệt may vay trung và dài hạn, điều chỉnh lãi suất phù hợp để huy động vốn và đa dạng hoá khách hàng Thứ tư, đẩy mạnh hoạt động thuê tài chính. Đây là giải pháp cần thiết và rất hiệu quả cho các doanh nghiệp thiếu vốn. Thuê tài chính là hình thức đầu tư tín dụng trung và dài hạn bằng hiện vật đối với các doanh nghiệp thiếu vốn trên cơ sở lựa chọn các máy móc thiết bị phù hợp với yêu cầu sử dụng của doanh nghiệp mình. Kết thúc thời gian thuê, bên thuê có thể mua lại máy móc thiết bị theo giá thoả thuận. 2. Giải pháp lựa chọn phương thức đầu tư Hiện nay, các doanh nghiệp Dệt may chủ yếu mua công nghệ từ nước ngoài, một số doanh nghiệp tuy có tự tổ chức nghiên cứu nhưng đa số vẫn là khép kín, việc liên doanh liên kết với nước ngoài và với các đơn vị chuyên môn còn rất hạn chế. Điều này tất nhiên sẽ làm cho việc nghiên cứu của các doanh nghiệp ít thành công. Mà giải pháp mua công nghệ từ nước ngoài có rất nhiều hạn chế như phần trên đã trình bày. Vì vậy, về lâu dài thì giải pháp tốt nhất mà các doanh nghiệp nên lựa chọn là tự nghiên cứu nhưng có sự hợp tác với cơ quan khoa học trong và ngoài nước, hoặc có thể thuê tư vấn về chuyên môn. Chúng ta có một đội ngũ khoa học là các sinh viên trong các trường đại học được đào tạo về chuyên ngành Dệt may nhưng họ lại không được đầu tư thích đáng để đạt được trình độ đáp ứng được nhu cầu của ngành. Một bài học lớn từ hoạt động của các doanh nghiệp nước ngoài là sự liên kết chặt chẽ của họ với các trường đại học để có thể có những dự án được các sinh viên đại học thực hiện từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường và những dự án khả thi sẽ được đưa vào thực tiễn. Ở nước ta các doanh nghiệp có thể liên kết với Trường đại học Bách Khoa Hà Nội, Trường đại học Bách khoa Thành phố Hồ Chí Minh, Viện nghiên cứu kĩ thuật Dệt may… để tiến hành các nghiên cứu về công nghệ. 3. Giải pháp đổi mới công nghệ 3.1. Về công nghệ 3.1.1. Công nghệ nhập từ nước ngoài Để có được các mặt hàng chất lượng cao, tăng kim ngạch xuất khẩu, tăng sức cạnh tranh cho sản phẩm thì khi nhập những công nghệ, trang thiết bị tiến tiến, ngành phải chú ý xem xét các vấn đề sau: - Công nghệ nhập có phù hợp với tình hình đất nước và chính sách khoa học công nghệ không. - Công nghệ nhập có lợi ích cho việc nâng cao trình độ khoa học công nghệ và trinh độ phát triển sản xuất hay không, có kết hợp được với việc nghiên cứu khoa học, sản xuất, và nâng cao khả năng tự mình khai thác phát triển ở trong nước hay không. - Về tiêu chuẩn của công nghệ nhập, có thể trực tiếp sử dụng tiêu chuẩn quốc tế, hoặc tiêu chuẩn thông dụng quốc tế hay không; có thể xây dựng, kiện toàn hoặc hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn công nghệ nhập trong nước hay không. - Về lợi ích kinh tế xã hội của công nghệ nhập, công nghệ đó phải phát huy được lợi thế tài nguyên của nước ta, là công nghệ sạch không gây ô nhiễm môi trường. Khi lựa chọn công nghệ nhập, các doanh nghiệp nên chọn những công nghệ theo đúng yêu cầu về công nghệ của mình thì mới có thể đẩy mạnh được sản xuất, đồng thời tiếp thu và làm chủ được công nghệ nhập. Từ nay đến năm 2010, ngành Dệt may nên coi trọng công nghệ nhập để tạo ra bước phát triển đột phá cho toàn ngành. Ngoài ra, cũng nên chủ động tìm kiếm thông tin về công nghệ hoặc thông qua tư vấn. Các doanh nghiệp cũng phải chuẩn bị đầy đủ các điều kiện và tiền đề để sẵn sàng đón nhận công nghệ mới và nhanh chóng đưa vào hoạt động khai thác có hiệu quả. Đồng thời cải tiến và thích ứng công nghệ với điều kiện của nước sở tại. Mỗi công nghệ sinh ra trong một môi trường và ít nhiều phụ thuộc vào môi trường đó. Vì vậy phải có những cải tiến để công nghệ đó thích nghi với điều kiện địa phương. Sự cần thiết và tính hợp lý của hoạt động này được giải quyết tốt nhất bằng cách thử nghiệm và thí nghiệm trong nước. Các doanh nghiệp cần phải thu thập thông tin, cung cấp tài liệu thích hợp và cộng tác với cơ quan nghiên cứu và triển khai của nhà cung cấp để tìm ra những giải pháp thích hợp. Một kinh nghiệm cho thấy các doanh nghiệp không nên nhập những công nghệ quá tối tân, hiện đại nhưng so với trình độ của công nhân ở doanh nghiệp mình thì lại có khoảng cách khá xa vì như thế sẽ không làm chủ được công nghệ và cản trở quá trình vận hành. Ngoài ra, cũng cần phải tổ chức tốt khâu thẩm định, kiểm tra khi nhập công nghệ, tránh tình trạng nhập công nghệ đã cũ và lạc hậu. Bên cạnh đó còn phải chú ý việc tổ chức tốt đội ngũ cán bộ, công nhân để có thể tiếp thu tốt các công nghệ nhập, đưa công nghệ vào sản xuất ổn định. Khi đã nhập công nghệ mới thì doanh nghiệp cũng nên tự sản xuất một số phụ tùng thay thế để phát huy hết công suất của thiết bị và khả năng của công nghệ, tạo sản phẩm giá trị cao. 3.1.2. Công nghệ trong nước Để phát huy tính chủ động và nâng cao khả năng sáng tạo của doanh nghiệp, đồng thời với công nghệ nhập doanh nghiệp cũng nên đẩy mạnh các hoạt động sáng kiến, sáng chế để tạo ra các giải pháp công nghệ, bí quyết sản xuất nâng cao năng suất, chất lượng, tạo mặt hàng có giá trị cạnh tranh cao. Muốn vậy, các doanh nghiệp phải: - Đẩy mạnh hoạt động khoa học của các viện nghiên cứu, trường đào tạo, phòng thí nghiệm, trung tâm thông tin, tư vấn để nâng cao hay bổ sung kiến thức, thông tin khoa học công nghệ cho cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật. - Nghiên cứu cải tiến những thiết bị, công nghệ nằm trong khả năng của Việt Nam. - Phục hồi, nâng cao các kỹ thuật, công nghệ cổ truyền, mặt hàng truyền thống để tạo ra sản phẩm đặc thù của Việt Nam. - Nâng cao trình độ, công nghệ quản lý. - Phát triển lĩnh vực thiết kế thời trang và mẫu mốt, thường xuyên tìm hiểu về mẫu mới của khu vực và thế giới. Ngoài các giải pháp trên, việc chuyển giao công nghệ không nên chỉ dừng lại ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mà nên áp dụng rộng rãi với mọi thành phần kinh tế. Đồng thời, thực hiện việc chuyển giao công nghệ từ doanh nghiệp có vốn lớn sang doanh nghiệp có vốn nhỏ để tiết kiệm chi phí, tạo thị trường chuyển giao công nghệ sôi động và liên tục trong nội bộ ngành, tận dụng được thiết bị và máy móc. 3.2. Về đào tạo nguồn nhân lực Trong bất cứ quá trình chuyển giao công nghệ nào thì việc đào tạo một đội ngũ kỹ thuật đủ sức tiếp cận công nghệ, từ công nhân lành nghề đến kỹ thuật viên, kỹ sư, kỹ sư có trình độ cao để làm chủ công nghệ mới đều không thể thiếu được bởi vì: Thứ nhất, công nghệ là do con người tạo ra nên dù công nghệ có hiện đại đến mức nào đi chăng nữa thì cũng cần phải có sự điều khiển của con người. Thứ hai, khi doanh nghiệp nhập công nghệ mới thì chắc chắn sẽ phải nhập các công nghệ tiên tiến, hiện đại hơn công nghệ vốn có của mình nên các cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp phải nâng cao trình độ để thích ứng kịp với công nghệ đó, tránh tình trạng công nghệ đã nhập về mà không thể hoạt động hoặc hoạt động không thông suốt. Thứ ba, doanh nghiệp cần có một đội ngũ chuyên gia có trình độ để thẩm tra máy móc thiết bị trước khi đi đến quyết định mua công nghệ và các kỹ sư làm chủ công nghệ trong quá trình hoạt động, giảm tối thiểu sự phụ thuộc vào bên cung cấp. Thứ tư, với sự phát triển như vũ bão của nền công nghệ thế giới, muốn nâng cao trình độ khoa học công nghệ chung của ngành cũng như của đất nước thì điều tất yếu là phải nâng cao trình độ của chính con người, nếu không chúng ta sẽ nhanh chóng bị tụt hậu. Nhưng trên thực tế, lượng các trường đào tạo công nghệ kỹ thuật đến cán bộ trung học, đại học, cao học chuyên ngành Dệt may còn thiếu cả về số lượng lẫn chất lượng, không đáp ứng được yêu cầu về nhân lực của ngành. Toàn ngành chỉ có 4 trường đại học, mỗi năm chỉ đào tạo một lượng cán bộ nhất định mà trình độ không đáp ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp, khi về doanh nghiệp phải tự đào tạo lại. Vì vậy, các doanh nghiệp chủ yếu lựa chọn phương thức tự đào tạo tại đơn vị. Việc đào tạo tại doanh nghiệp không có bài bản và không theo chuẩn của chương trình đào tạo của các Bộ. Số lượng các cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật được đào tạo đáp ứng được nhu cầu thực tiễn còn ít hơn. Bởi vậy, cần phải có sự kết hợp giữa doanh nghiệp và nhà trường để đào tạo đồng bộ nguồn nhân lực; từng bước đào tạo lại cán bộ, công nhân cho phù hợp với công nghệ mới, khuyến khích các cơ sở địa phương tự đào tạo trên cơ sở các tiêu chuẩn thống nhất. Cụ thể: -Xây dựng các cơ sở nghiên cứu, đào tạo cán bộ và công nhân kỹ thuật trên phạm vi cả nước nhằm phục vụ cho nhu cầu về nhân lực tại chỗ của các doanh nghiệp trên địa bàn hoạt động. Nhà nước cũng cần giao nhiệm vụ và chỉ tiêu cụ thể cho các cơ sở để phát huy tính chủ động sáng tạo. - Mở rộng hệ thống đào tạo chuyên ngành Dệt may: Xây dựng mới trường đào tạo cán bộ quản lý kinh tế- kỹ thuật chuyên ngành Dệt may với các nội dung tập trung cho quản lý sản xuất, quản lý chất lượng, phát triển sản phẩm, thương hiệu và kỹ năng bán hàng…Đào tạo hệ cao đẳng, đại học, trung học chuyên nghiệp và kỹ thuật viên các ngành: kỹ thuật công nghệ ngành may, kỹ thuật thiết kế thời trang, sửa chữa khai thác thiết bị cơ khí, điện công nghiệp và dân dụng, tin học ứng dụng, quản trị ngành may… Ngoài ra, phải thường xuyên mở lớp bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ, công nhân, tổ trưởng, chuyền trưởng ngành, chánh phó quản đốc của các doanh nghiệp. Thường xuyên cử giảng viên đi học tập và nghiên cứu ở nước ngoài. Xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ, có tinh thần trách nhiệm, đủ điều kiện để quản lý. Xây dựng, phát triển các trường theo hướng chuẩn hóa, đảm bảo đủ cơ sở vật chất cho công tác học tập và nghiên cứu bằng việc trang bị đủ các thiết bị tiên tiến, hiện đại; xây dựng chương trình, giáo trình dựa trên cơ sở chương trình khung của Bộ Giáo dục và đào tạo. Tích cực khai thác và học hỏi các giáo trình, chương trình mới của các viện, trường quốc tế thuộc cùng lĩnh vực để bổ sung các môn học có cùng nội dung. Cử cán bộ đi thực tế, học hỏi kinh nghiệm giảng dạy tại các viện, trường và doanh nghiệp trong và ngoài nước. - Hợp tác, liên kết đào tạo với thị trường trong và ngoài nước. Một thực tế là các học viên của tất cả các loại hình đào tạo Dệt may ở nước ta đều đang ở trong tình trạng “học chay” tức là học lý thuyết nhiều hơn thực hành. Vì thế khi ra ngoài thực tế sẽ rất khó khăn để làm quen với công nghệ, hạn chế tính sáng tạo. Do đó, các cơ sở đào tạo cần thiết lập các mối quan hệ mật thiết với thị trường để tìm kiếm sự hỗ trợ về kinh phí đào tạo và trang bị kiến thức thực tế cho sinh viên và các học viên nhiều hơn nữa. Ngoài ra, biện pháp này còn có thể đem lại cho sinh viên những cơ hội việc làm lớn khi đã tốt nghiệp. Về phía doanh nghiệp sẽ thu được rất nhiều lợi ích như tận dụng được chất xám trong nước, phát hiện và nuôi dưỡng nhân tài từ khi họ còn ở trên ghế nhà trường, tiết kiệm chi phí tuyển dụng và đào tạo, có được chương trình đào tạo phù hợp với điều kiện doanh nghiệp mình… Các doanh nghiệp và nhà trường cũng nên có những chính sách khuyến khích sinh viên theo học các ngành thuộc lĩnh vực Dệt may (công nghiệp dệt, sợi, nhuộm, hoá…) và chú trọng phát triển đội ngũ thiết kế thời trang. - Ngoài các hình thức đào tạo chính quy nên mở thêm các loại hình đào tạo khác thường xuyên để nâng cao trình độ cho cán bộ đương chức, cập nhật kiến thức, thông tin mới nhất trong và ngoài nước. Việc bổ túc theo chuyên đề nhằm bồi dưỡng cán bộ về kỹ thuật công nghệ cần thiết cho công tác hiện tại hoặc để giải quyết theo yêu cầu một vấn đề chuyên môn cần tháo gỡ. Như vậy thời gian qua, việc đầu tư đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp Dệt may đạt được nhiều thành tựu như: giá trị sản xuất Dệt may hàng năm liên tục tăng lên, cải thiện khả năng cạnh tranh của hàng Dệt may với các nước xuất khẩu Dệt may lớn. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được vẫn còn tồn tại một số hạn chế mà nguyên nhân bao gồm ngay từ ngành Dệt may đến mỗi doanh nghiệp: bản thân doanh nghiệp thì thiếu vốn đầu tư, giữa ngành dệt và may chưa có sự kết hợp chặt chẽ và hỗ trợ nhau phát triển, ngành chưa có chiến lược đào tạo nguồn nhân lực công nghệ hợp lý, ngành công nghiệp phụ trợ còn yếu. Do đó, để hoàn thiện hơn nữa hệ thống hoạt động của ngành Dệt may, em xin đề xuất một số kiến nghị mang ý kiến chủ quan. Kiến nghị Thứ nhất, về phía các doanh nghiệp: Một là, trang bị thêm hệ thống thông tin quản lý hiện đại hơn nữa để tăng hiệu quả quản lý trong doanh nghiệp mình. Hai là, chú trọng hơn nữa khâu lựa chọn công nghệ với công nghệ phải bảo đảm được các yêu cầu sau: - Công nghệ lựa chọn phải là công nghệ từ tiên tiến trở lên, nghĩa là sau khi đưa vào sản xuất 4-5 năm vẫn chưa bị lạc hậu - Công nghệ lựa chọn phải đảm bảo yêu cầu đề ra của sản xuất về chất lượng sản phẩm, năng suất, giá thành sản phẩm. - Công nghệ lựa chọn phải phù hợp với trình độ quản lý, tránh đầu tư công nghệ quá hiện đại khi doanh nghiệp chưa đủ người quản lý và điều hành. Nếu đầu tư hiện đại thì doanh nghiệp phải chuẩn bị kỹ về con người, tổ chức quản lý, điều hành - Công nghệ lựa chọn phải phù hợp với khả năng tiền vốn đầu tư. Doanh nghiệp nên chọn công nghệ mà lượng vốn tự có của doanh nghiệp có khả năng chi trả khoảng 50%. - Công nghệ lựa chọn không gây ô nhiễm môi trường, nếu có chất thải công nghiệp thì phải có hệ thống xử lý chất thải. Thứ hai, về phía nhà nước Tiếp tục thực hiện quá trình cải cách kinh tế vĩ mô, hoàn thiện môi trường pháp lý theo hướng kinh doanh bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Cần hình thành và đẩy mạnh việc hoạt động của hình thức “Bảo hiểm đầu tư” để hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tư vào công nghệ mới nhưng có rủi ro cao. Hỗ trợ kinh phí từ ngân sách cho các trường, viện, trung tâm đào tạo cán bộ, kỹ sư, công nhân kỹ thuật đáp ứng nguồn nhân lực cho nhu cầu phát triển tăng tốc của ngành Dệt may. KẾT LUẬN Trong những năm gần đây, ngành Dệt may Việt Nam đã có những bước phát triển đáng kể với tốc độ xấp xỉ 20%/năm, đóng góp quan trọng vào sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Tính đến hết năm 2005, toàn ngành có khoảng 2000 doanh nghiệp với khoảng 2 triệu lao động. Năm 2006, kim ngạch xuất khẩu ngành Dệt may ước đạt 5,8 tỷ USD, tăng khoảng 20% so với năm 2005. Có được những kết quả khả quan như trên không thể không kể đến vai trò của công tác đầu tư đổi mới công nghệ trong ngành Dệt may. Các doanh nghiệp không chỉ tập trung đầu tư máy móc thiết bị hiện đại mà còn phải quan tâm đến đào tạo nguồn nhân lực công nghệ, nhất là lao động quản lý giúp doanh nghiệp làm chủ công nghệ và tiến tới sáng tạo công nghệ mới. Với sự nỗ lực của các doanh nghiệp Dệt may và sự hỗ trợ thích đáng của Nhà nước, chúng ta hoàn toàn có thể tin tưởng rằng, trong tương lai ngành sẽ tiếp tục giữ vững vai trò nòng cốt của mình và tạo được những bước đột phá mới. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình Kinh tế đầu tư - NXB Thống kê - ĐHKTQD - 2005. 2. Giáo trình kinh tế phát triển - NXB Lao động xã hội - ĐHKTQD - 2004. 3. Tạp chí Công nghiệp Tháng 4/2006. 4. Tạp chí Công nghiệp Tháng 10/2006. 5. Tạp chí Kinh tế và dự báo Tháng 9/2006. 6. Quy hoạch tổng thể phát triển ngành Dệt may Việt Nam đến năm 2010. 7. Báo cáo kết quả khảo sát đổi mới công nghệ tại các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam 2004. 8. Báo tuổi trẻ online 11/9/2006. 9. Báo Người lao động 6/2/2006. 10. Chiến lược tăng tốc phát triển ngành Dệt may Việt Nam đến 2010. Website tham khảo www.vnexpress.com.vn www.gso.gov.vn www.nxbthongke.com.vn www.vinatex.com.vn MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxDA42.docx
Tài liệu liên quan