Đề tài Tìm hiểu đạo đức học của Immanuen Cantơ

Tài liệu Đề tài Tìm hiểu đạo đức học của Immanuen Cantơ: MỞ ĐẦU 1 1. Lý do chọn đề tài 1 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài 2 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 3 5. Đóng góp của khóa luận 3 6. Kết cấu của khóa luận 3 Chương 1: NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA ĐẠO ĐỨC HỌC I.CANTƠ 4 1.1. Khái quát về đạo đức học I.Cantơ 4 1.2. Những chủ đề chính của đạo đức học I.Cantơ 14 1.2.1. Quan niệm của I.Cantơ về căn nguyên của đạo đức 14 1.2.2. Mệnh lệnh tuyệt đối - Quy luật của đạo đức 19 1.2.3. Tự do là phạm trù trung tâm của đạo đức học I.Cantơ 23 Chương 2: VỊ TRÍ, NHỮNG CỐNG HIẾN VÀ HẠN CHẾ CỦA ĐẠO ĐỨC HỌC I.CANTƠ 29 2.1. Vị trí của đạo đức học trong hệ thống triết học của I.Cantơ 29 2.2. Những cống hiến và hạn chế của đạo đức học I.Cantơ 42 KẾT LUẬN 56 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 59 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Triết học cổ điển Đức là giai đoạn phát triển mới về chất trong lịch sử tư tưởng Tây Âu so với thời cận đại. Nền triết học này xuất hiện vào nửa sau thế kỷ XVIII và tồn tại đến ...

doc63 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1137 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Tìm hiểu đạo đức học của Immanuen Cantơ, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU 1 1. Lý do chọn đề tài 1 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài 2 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 3 5. Đóng góp của khóa luận 3 6. Kết cấu của khóa luận 3 Chương 1: NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA ĐẠO ĐỨC HỌC I.CANTƠ 4 1.1. Khái quát về đạo đức học I.Cantơ 4 1.2. Những chủ đề chính của đạo đức học I.Cantơ 14 1.2.1. Quan niệm của I.Cantơ về căn nguyên của đạo đức 14 1.2.2. Mệnh lệnh tuyệt đối - Quy luật của đạo đức 19 1.2.3. Tự do là phạm trù trung tâm của đạo đức học I.Cantơ 23 Chương 2: VỊ TRÍ, NHỮNG CỐNG HIẾN VÀ HẠN CHẾ CỦA ĐẠO ĐỨC HỌC I.CANTƠ 29 2.1. Vị trí của đạo đức học trong hệ thống triết học của I.Cantơ 29 2.2. Những cống hiến và hạn chế của đạo đức học I.Cantơ 42 KẾT LUẬN 56 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 59 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Triết học cổ điển Đức là giai đoạn phát triển mới về chất trong lịch sử tư tưởng Tây Âu so với thời cận đại. Nền triết học này xuất hiện vào nửa sau thế kỷ XVIII và tồn tại đến giữa thế kỷ XIX, được sáng lập bởi nhà triết học vĩ đại Immanuen Cantơ. Trong hệ thống tư tưởng của I.Cantơ thì đạo đức học giữ một vị trí trung tâm và có nhiều đóng góp quan trọng cho sự phát triển của lịch sử tư tưởng triết học nhân loại. Trong lịch sử triết học, đạo đức luôn là mối quan tâm lớn và rất sớm của nhiều nhà triết học, đến I.Cantơ, đạo đức được bàn luận sâu sắc, đem lại một cái nhìn mới mẻ và khá toàn diện. Mặc dù, đạo đức học của I.Cantơ có nhiều điểm không tưởng vì tính phi lịch sử, phi giai cấp và thiếu cơ sở hiện thực, nhưng trong đó cũng chứa đựng nhiều tư tưởng nhân đạo sâu sắc. Đối lập với quan niệm ích kỷ, thực dụng một cách hẹp hòi, đạo đức học I.Cantơ là sự kết tinh nhiều giá trị đạo đức chung của nhân loại từ trước đến giờ, đồng thời thể hiện khát vọng của giai cấp tư sản ở Đức thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ XIX nhằm giải phóng con người khỏi những gông cùm hà khắc của chế độ chuyên chế phong kiến và độc tài, mơ ước xây dựng một chế độ xã hội mới đem lại tự do và hạnh phúc cho mọi người. Nghiên cứu tư tưởng của I.Cantơ nói chung và đạo đức học của ông nói riêng là công việc hết sức khó khăn, nhưng lại là thường xuyên của những người làm công tác triết học. Đối với một sinh viên ngành triết học thì đây là một đòi hỏi không chỉ giúp cho chúng ta nắm được nội dung tư tưởng mà còn giúp cho chúng ta làm sáng tỏ được những cống hiến và hạn chế của I.Cantơ trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Hơn nữa, thời đại ngày nay “đạo đức” đang được xem là một trong những vấn đề nổi lên hàng đầu trong tư tưởng của nhân loại. Do vậy, việc nghiên cứu vấn đề này trong triết học của I.Cantơ có thể góp phần làm sáng tỏ một số khía cạnh nhất định mà giới nghiên cứu hiện đang quan tâm. Xuất phát từ những lý do trên, tôi quyết định chọn vấn đề “Tìm hiểu đạo đức học của Immanuen Cantơ” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp cử nhân ngành triết học. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Hơn hai trăm năm đã trôi qua, kể từ khi nhà sáng lập ra triết học cổ điển Đức I.Cantơ qua đời, lịch sử đã có nhiều biến động, nhân loại đã nhìn nhận, đánh giá ông dưới nhiều góc độ khác nhau, với những mức độ không giống nhau. Rất nhiều công trình nghiên cứu về I.Cantơ trong đó có triết học lý luận, triết học thực tiễn và triết học thẩm mỹ của ông, khai thác chưa nhiều. Nhìn chung, tài liệu tiếng Việt có các công trình sau: - Hội thảo khoa học triết học cổ điển Đức: Nhận thức luận và đạo đức học, tham luận của các học giả nước ngoài, Hà Nội, 2003. - Hội thảo khoa học triết học cổ điển Đức: Những vấn đề nhận thức luận và đạo đức học, Hà Nội, 2004. Đây là cuốn sách gồm các bài tham luận của các nhà khoa học trong và ngoài nước tham gia Hội thảo khoa học Quốc tế về vấn đề triết học cổ điển Đức nhân kỷ niệm 200 năm ngày mất của I.Cantơ - nhà triết học vĩ đại, người sáng lập triết học cổ điển Đức. - Đặng Hữu Toàn, Tạp chí Triết học, số 5, 2004. - Vũ Thị Thu Lan, Tạp chí Triết học, số 8, 2005. - Lê Thanh Sinh, Tạp chí Triết học, số 5, 2004. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ nội dung chủ yếu, những cống hiến và hạn chế của đạo đức học I.Cantơ. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài: - Phân tích những chủ đề chính của đạo đức học I.Cantơ. - Phân tích vị trí, đánh giá những cống hiến và hạn chế của đạo đức học I.Cantơ. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận của đề tài là những nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử được áp dụng vào nghiên cứu một học thuyết triết học. Phương pháp nghiên cứu của đề tài là kết hợp các nguyên tắc nghiên cứu lịch sử triết học rút ra từ phép biện chứng duy vật với các phương pháp chung như so sánh, phân tích, tổng hợp, chú giải theo từng mục và đặc biệt là phương pháp lôgíc và lịch sử. 5. Đóng góp của khóa luận Thông qua việc nghiên cứu đạo đức học của I.Cantơ, khóa luận đã góp phần nâng cao trình độ tư duy triết học của bản thân đồng thời giúp chúng ta có được cái nhìn sâu sắc và toàn diện hơn về đạo đức. Khóa luận góp phần vào việc làm rõ một số nội dung chủ yếu, những cống hiến và hạn chế của đạo đức học I.Cantơ. 6. Kết cấu của khóa luận Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Khóa luận có 2 chương, 4 tiết. Chương 1 NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA ĐẠO ĐỨC HỌC I.CANTƠ 1.1. Khái quát về đạo đức học I.Cantơ Hai trăm năm đã trôi qua kể từ khi I.Cantơ qua đời mà hệ thống triết học đồ sộ của ông để lại chứa đựng nhiều giá trị cho nhân loại đã và đang thu hút sự chú ý từ nhiều phía. Có thể khẳng định rằng, I.Cantơ đã đi vào lịch sử tư tưởng nhân loại với tư cách là người sáng lập nền triết học cổ điển Đức và phép biện chứng tiên nghiệm. Ông thực sự là một trong số không nhiều lắm những tượng đài bất tử trong lịch sử triết học nhân loại mà hôm nay và các thế hệ mai sau sẽ mãi nhắc tới ông với lòng kính trọng và sự ngưỡng mộ. Hệ thống tư tưởng của ông không chỉ có ảnh hưởng sâu sắc đến triết học đương thời mà nó còn là những giá trị vô giá, góp phần tác động sâu sắc đến các tư tưởng triết học của thế hệ sau này. Trong hệ thống tư tưởng của mình, I.Cantơ đã bàn đến rất nhiều các vấn đề khác nhau của triết học và khoa học tự nhiên, một trong những vấn đề quan trọng trong hệ thống triết học của ông, chính là đạo đức học. Nhà triết học duy tâm chủ quan này nhìn nhận đạo đức như là những năng lực bẩm sinh của con người, nhất quán với hệ thống triết học duy tâm tiên nghiệm của mình. Theo I.Cantơ, lý tính là nguồn gốc sinh ra các nguyên lý, các chuẩn mực đạo đức. Bên cạnh đó, I.Cantơ cũng đã từng khẳng định mạnh mẽ rằng, “mục đích tối hậu của triết học là về vận mệnh con người; và triết học về vận mệnh con người chính là ĐẠO ĐỨC HỌC. Vị trí thượng đẳng của đạo đức học đứng trên mọi lãnh vực hoạt động khác của tinh thần con người chính là lý do tại sao cổ nhân bao giờ cũng hiểu triết gia đồng thời và trước hết phải là một nhà đạo đức” [4; 435]. Đến với triết học của I.Cantơ, chúng ta sẽ nhận thức rõ nhiệm vụ của triết học đó là: xác định bản chất đích thực của con người hay chính xác hơn là xác định điều kiện, năng lực tự do của con người. Qua đó, lý giải tại sao I.Cantơ lại có nhiều tác phẩm bàn về đạo đức học đến vậy. Trong bộ ba tác phẩm “phê phán” của ông thì người đời hay nhắc nhiều đến tác phẩm “phê phán lý tính thực hành” vì đây là tác phẩm chủ yếu và quan trọng nhất bàn về đạo đức của ông. Tuy nhiên, trước và sau khi tác phẩm “phê phán lý tính thực hành” ra đời thì ông còn có nhiều tác phẩm khác cũng bàn về đạo đức học như: “Đặt cơ sở cho siêu hình học về đạo đức (hay đức lý) - 1785”; “hướng tới một nền hòa bình vĩnh cữu - 1795”; “siêu hình học đạo đức - 1797”… Đạo đức học của I.Cantơ được ông xây dựng trong bối cảnh xã hội khá phức tạp, đó là sự phân chia giàu nghèo rõ rệt giữa những người giàu và người nghèo, giữa những người được hưởng đặc quyền, đặc lợi và những người không có cả những quyền thông thường nhất, giữa người có quyền lực và người không có quyền lực đã tạo nên nhận thức sai lầm về nhân phẩm và giá trị của con người. Quyền lực, vị thế xã hội, tài năng, giàu có...chính là thước đo giá trị của con người trong xã hội của I.Cantơ. Trong đó, người nghèo và những người không có những quyền tối thiểu bị chính giai cấp thống trị bóc lột và có lẽ việc đánh giá con người dựa trên những giá trị bên ngoài đã làm suy giảm phẩm giá con người - những người không tiếng nói trong xã hội. Không những thế, chính bản thân I.Cantơ cũng đã sống dưới một chế độ chuyên chế nơi mà nhân phẩm và sự tự do bị “xuống cấp”. Dường như, con người trong xã hội ấy trở thành những người nô lệ, trở thành những “công cụ biết nói”. Nhưng có một điều đáng lưu tâm là, trong khi con người sống trong xã hội này bị tước hết quyền sống, quyền tự do thì lúc đó triết học lại chưa thể hiện được vai trò tính đảng của mình là bênh vực, bảo vệ quyền lợi cho giai cấp bị trị trong xã hội. Chứng kiến sự bất công và bất bình đẳng trong xã hội, I.Cantơ đã đề xuất một triết lý đạo đức cấp tiến để chống lại sự chuyên chế và để bảo vệ nhân quyền cho những người có thân phận thấp kém, những người “thấp cổ bé họng” trong xã hội. Theo ông, sỡ dĩ các khoa học xưa nay vẫn chưa có được nền tảng phát triển vững chắc bởi vì “khoa học về con người” vẫn chưa được chú trọng và phát triển đúng mức và dường như các triết gia từ xưa đến nay đã quên mất vấn đề quan trọng nhất là con người. Vì vậy, trên tinh thần phê phán quan điểm của các nhà khoa học trước đó I.Cantơ đã đặt nhiệm vụ hàng đầu cho triết học của mình là phải xác định bản chất con người trên tinh thần nghiêm túc, đúng mức của khoa học về con người. Triết học phải vạch ra những mục đích tối cao của con người về phương diện đạo đức và có nhiệm vụ “xác định cho con người được cái điều mà ai cũng phải học để làm người”. Như vậy, nhiệm vụ của triết học là phải xác định bản chất của con người với tư cách là chủ thể có lý trí và tự do. Điều này chỉ được thực hiện khi trong bộ ba tác phẩm “phê phán” của mình, I.Cantơ đã đặt ra cho triết học phải giải đáp được các vấn đề sau: Thứ nhất, tôi (con người) có thể biết gì? Thứ hai, tôi (con người) cần phải làm gì? Thứ ba, tôi (con người) có thể hy vọng gì? Ba vấn đề trên là sự khái quát những điều mà ai cũng phải trăn trở và băn khoăn trong cuộc sống thường ngày. Đồng thời, chúng phản ánh ba khía cạnh cơ bản nhất trong mối quan hệ “con người - thế giới” đó là: nhận thức, thực tiễn và giá trị hay sinh hoạt thẩm mỹ của con người. Lời giải đáp cho cả ba vấn đề trên tựu trung lại chính là trả lời cho câu hỏi lớn và tổng quát hơn: “Con người là gì?” trong triết học của ông. Một điểm khác trong triết học I.Cantơ so với các quan niệm triết học trước kia khi nghiên cứu về con người đó là, nếu như quan niệm triết học trước kia khi luận bàn về vấn đề con người thường tách ra một khía cạnh nhất định để xem xét thì với I.Cantơ con người được đề cập đến với tư cách là chủ thể có lý trí và tự do trong hoạt động sinh hoạt của mình bao gồm cả ba mặt là nhận thức, thực tiễn và thẩm mỹ. Theo I.Cantơ, trong lĩnh vực đạo đức, con người đồng thời sống ở cả hai thế giới: Thế giới hiện tượng luận, nơi mà mọi cái đều diễn ra theo những quy luật của tự nhiên thì tự do của con người chỉ là thứ yếu, chỉ dừng lại trong khuôn khổ của giác tính. Sống ở trong thế giới hiện tượng luận cuộc sống con người không phải là tự do, do vậy không xứng đáng với địa vị của con người. Và trong thế giới “vật tự nó”, con người được hoàn toàn tự do đối với các quy luật tự nhiên, tự coi mình là mục đích của chính mình. Do vậy, trong thế giới này, cuộc sống của con người là tự do thực sự và con người xứng đáng với địa vị của mình. Theo I.Cantơ, tự do trong thế giới “vật tự nó” là tự do tuyệt đối và trong một chừng mực nhất định con người trở thành chủ thể chân - thiện - mỹ, bởi lúc này con người là một thực tại có lý tính. Trong triết học lý luận, tự do cũng là một vấn đề quan trọng, song I.Cantơ cho rằng, trong thế giới hiện tượng luận (thế giới các sự vật cảm tính) tự do của con người chỉ là tương đối chứ không phải là tự do tuyệt đối mà đó là tự do trên cơ sở nhận thức các quy luật chi phối giới tự nhiên hiện tượng luận. Triết học lý luận chỉ nêu lên được ý tưởng của con người về tự do tuyệt đối mà không xác định được tự do tuyệt đối đó. Vì vậy, để xác định và chứng minh tự do tuyệt đối của con người, theo I.Cantơ đó chính là nhiệm vụ mà triết học thực tiễn sẽ làm. Trong triết học thực tiễn I.Cantơ thấy rằng, tất thảy hoạt động của con người đều chịu sự hướng dẫn của một năng lực đó là năng lực tiên thiên hay ông gọi là lý tính thực tiễn. Lý tính thực tiễn không phải là cái gì khác mà chính là lý tính tiên thiên khi nó tham gia hướng dẫn hoạt động thực tiễn của con người, một khi hoạt động thực tiễn nhằm vào các đối tượng kinh nghiệm thì nhất định chúng sẽ bị những cảm giác chất thể (cảm giác có đối tượng) và những điều kiện thường nghiệm chi phối. Khi đó, con người không còn là một chủ thể có lý tính, điều này dẫn đến con người hành động không đúng với bản chất của mình, phi đạo đức và không có tự do. Và rằng, con người chỉ xứng đáng với địa vị, bản chất của mình và có một cuộc sống tự do tuyệt đối khi mà lý tính tiên thiên hướng đến quyết định những hoạt động thực tiễn không vì một đối tượng kinh nghiệm hay một cảm giác chất thể nào mà vì tự ý thức về bản ngã và tuân theo những mệnh lệnh tuyệt đối hình thức của lý tính. Theo I.Cantơ để có những động lực đạo đức thì cần phải thoát ly khỏi mọi cơ sở vật chất, khỏi thế giới hiện tượng luận bởi vì trong các động lực đạo đức đó, ý chí cần thiết lập cho mình một quy tắc bắt buộc trong các hành vi đạo đức. Quy luật đó gọi là “mệnh lệnh tuyệt đối”. “Mệnh lệnh tuyệt đối” là mệnh lệnh xuất phát từ tiếng gọi của lương tri con người, nó tiềm ẩn trong tâm hồn con người, nó mang tính phổ quát, tất yếu…Nói cách khác, mệnh lệnh tuyệt đối thể hiện khả năng tự chủ của con người, khả năng tự do ý chí mà không có tính vụ lợi, không có sự tính toán. I.Cantơ không những chê trách những phán đoán do cảm xúc và tình cảm mà ông còn chê trách những phán đoán pha phôi, vừa do lý trí lại vừa do tình cảm mà ông không ngần ngại gọi là những “luân thường lai”. Ông viết: “Ý thức về bổn phận, tức ý thức đạo đức, khi không bị nhiễm bởi những sở thích thường nghiệm, thì sẽ có một uy quyền vô cùng lớn lao đối với lương tâm con người khi con người biết nhìn vào lý trí: uy quyền này vô cùng lớn hơn những lý do mà người ta có thể gặp trong lãnh vực kinh nghiệm. Đã ý thức được bản chất cao quý của ý thức đạo đức như vậy, tự nhiên chúng ta sẽ kinh bỉ những lý do thường nghiệm kia. Thay vào ý thức đạo đức đó, ta thử đưa ra một học thuyết luân lý có vẻ lai, pha trộn những duyên do của tình cảm và của xu hướng với những ý tưởng của lý trí, tất lòng ta sẽ lưỡng lự giữa những lý do như thế vì lòng ta không thể quy chúng về một nguyên tắc được, rồi những lý do như thế họa may mới đưa ta tới điều thiện, còn thường là đưa tới điều ác” [7; 151-152]. Với I.Cantơ thì trong hoạt động thực tiễn con người phải là một thực thể có lý tính, hành động có ý thức về bổn phận và hành động phải chắc chắn, nghiêm túc và trong sáng. Vậy, tại sao I.Cantơ lại tỏ ra nghiêm khắc với những lý do lấy ra từ sinh hoạt thường nghiệm như thế? Thưa vì những lý do này luôn đặm mùi tự ái và tư kỷ và nó nguy hiểm đặc biệt khi người ta pha trộn những phán đoán thuần túy đạo đức của lý trí với những tình cảm của sinh hoạt thường nghiệm, bởi vì người ta sẽ dễ dàng tự lừa dối và che đậy những dự tính xấu xa dưới “cái vỏ đạo đức” Khi con người lâm vào hoàn cảnh như vậy thì hành vi đạo đức của họ không còn vô tư nữa, mà chỉ những hành động tự quyết và hoàn cảnh vô tư mới là tự do thực sự khi ấy tự do mới gồm những hành vi đạo đức. Vì vậy, I.Cantơ đã phân chia hành vi đạo đức thành hai cấp độ: Thứ nhất, những hành vi thể hiện trong đời sống hàng ngày của con người, ở đó có sự đan xen giữa tốt lành và bất hạnh, hạnh phúc và đau khổ, hành vi tốt có thể là xấu trong những trường hợp khác nhau, chúng chỉ được coi là đạo đức theo quan niệm thông thường. Nhưng với I.Cantơ thì chúng lại thuộc về sự vật hay cảm giác chất thể của chủ thể, không thể vô tư cho nên xét về hình thức là phi đạo đức, phi tự do. Thứ hai, những hành vi xuất hiện ngay trong tự ý thức về bản ngã của con người bắt nguồn từ ý niệm về toàn thể cho nên chúng mang đầy đủ phẩm chất của lương tri, hoàn toàn vô tư và thực sự là đạo đức. Với cách phân biệt như vậy, I.Cantơ cho rằng những hành vi chất thể bao giờ cũng đan xen cái tốt với cái xấu, cái bất hạnh với cái tốt lành…nhưng sự biểu hiện ở mỗi người không giống nhau, những người có hành vi tốt có thể hướng dẫn, dạy bảo cho mình và cho người khác điều tốt…Nhưng theo I.Cantơ những hành vi tốt đó không vô tư cho nên chúng không phải là đạo đức và việc dạy bảo như thế cũng không phải là dạy đạo đức. Và rằng, những hành vi đạo đức của con người chịu sự chỉ dẫn của “thiện chí” vì “thiện chí” là thước đo của đạo đức, nó có tính chất tiên thiên và tuyệt đối. Thiện chí cũng là nền tảng của ý thức đạo đức được in sẵn trong lòng người. Do vậy, “thiện chí” là khuôn thước phổ biến, vượt lên trên mọi điều kiện, được thanh lọc tất cả sự tính toán, vụ lợi và những cảm giác chất thể. Khi đó hành động của con người hoàn toàn vô tư sẽ tạo điều kiện để con người vươn tới tự do tuyệt đối. Một lần nữa I.Cantơ khẳng định ý thức đạo đức là có sẵn trong mỗi chúng ta cho nên không cần học và cũng không học được, không dạy được và cũng không cần dạy. Từ đó, chúng ta thấy lập trường đạo đức của I.Cantơ thể hiện ở chỗ: “Lý trí và chỉ mình lý trí là khả năng phán đoán đạo đức, và trong việc phán đoán này lý trí phải tuyệt đối gạt bỏ mọi nội dung tình cảm và thực nghiệm, nghĩa là không được nhìn vào các đối tượng của hành động, nhưng chỉ nhìn hình thức thuần túy của hành động thôi” [7; 148]. Như vậy con người muốn đạt được uy quyền tối cao trong hoạt động thực tiễn và hành động của họ được tự do thực sự thì lý trí cần phải thoát khỏi những tình cảm thường nghiệm. I.Cantơ đã dài lời phê phán và dày công vạch trần những cái đạo đức giả ẩn nấp sau những nguyên tắc thực hành thường nghiệm. Với I.Cantơ, tất cả những chủ trương đạo đức lấy tư lợi và hạnh phúc cá nhân làm tiêu chuẩn hành động là những điều thật xấu xa và nguy hiểm. Ông đã thẳng thắn phê phán Epiquya khi ông này lấy “hạnh phúc và khoái lạc cá nhân làm tiêu chuẩn cho mọi hoạt động”. Ông viết: tình cảm khoái lạc hay đau khổ vẫn chỉ dẫn cho mỗi người biết chọn cái hay cái tốt cho bản thân, thì có thể là một quy luật chủ quan được coi là nhất thiết, nhưng khách quan mà coi thì vẫn là bất tất. I.Cantơ còn nhấn mạnh “giả sử tất cả mọi người cùng đồng ý như nhau để lấy nguyên tắc tự ái và hạnh phúc bản thân làm quy luật thực hành, thì sự đồng tâm nhất trí này cũng chỉ có tính chất bất tất thôi: nguyên tắc quyết định như thế vẫn chỉ có giá trị chủ quan và không thể nào có tính chất nhất thiết của một quy luật” [7; 169]. Quả đúng vậy, vì chỉ dựa vào đời sống hàng ngày và những cảm giác thường nghiệm chưa bao giờ dựa vào lý trí thì nó không được coi là thực sự phổ quát và mang tính giá trị khách quan. Vậy, phải làm gì để quyết định của ta có giá trị đạo đức hay có tự do tuyệt đối?. I.Cantơ đã đưa ra tiêu chí để bảo toàn tính chất cưỡng bức tuyệt đối của những mệnh lệnh tuyệt đối (hay mệnh lệnh đạo đức), đó là không dựa vào kinh nghiệm nào hay một gương sáng nào mà chỉ dựa một cách tiên thiên vào lý tính thực tiễn. Muốn vậy, theo I.Cantơ phải tuân theo nguyên tắc cơ bản của đạo đức là “mệnh lệnh tuyệt đối”. Nội dung của mệnh lệnh tuyệt đối hay mệnh lệnh đạo đức được I.Cantơ trình bày thông qua các phạm trù: Tự do, thiện chí, nghĩa vụ đạo đức, hạnh phúc…nhưng trong đó tự do chiếm vị trí trung tâm, chính những quy tắc của “mệnh lệnh tuyệt đối” luôn mách bảo cho con người phải hành động như thế này hay như thế kia và chỉ khi những hành vi đạo đức của con người được dẫn dắt bởi lý tính thực tiễn thì giờ đây con người mới thoát khỏi những trở lực trong tâm hồn để có một cuộc sống tự do đích thực và đạt đến giá trị đạo đức. Học thuyết về “mệnh lệnh tuyệt đối” của I.Cantơ đã phản ánh nội dung cơ bản đạo đức của ông và trong đó vấn đề tự do của con người được đặt lên hàng đầu và là chủ thể đạo đức trong triết học của I.Cantơ. Từ chỗ phân tích sinh hoạt đạo đức, I.Cantơ đã giải thích vấn đề tự do của con người. Vì vậy mà trong đạo đức học của ông thì “tự do và quy luật đạo đức tuyệt đối liên hệ chặt chẽ với nhau đến nỗi không thể có cái này mà không có cái kia” [7; 170]. Tự do và quy luật đạo đức gắn bó chặt chẽ với nhau không có đạo đức thì không có tự do, cũng như thiếu tự do thì không thể có đạo đức, không thể có cái này mà không có cái kia. Về vấn đề này ông viết: chính quy luật đạo đức được đặt ra trước mắt ta và dẫn ta tới quan niệm tự do, xét như tự do được biểu tượng như một nguyên tắc quyết định cho ý chí ta, một nguyên tắc không bị chi phối bởi một điều kiện khả giác nào hết, nhưng hoàn toàn độc lập với điều kiện khả giác. Theo I.Cantơ, tất cả những nguyên tắc hành động dựa trên thực nghiệm đều không xứng đáng với bản chất cao quý của tự do và bản chất của quy luật đạo đức. Với ông, hành động theo quy luật phải dựa trên lý trí, lấy lý trí soi sáng cho hành động, còn hành động dựa trên kinh nghiệm, theo châm ngôn là hành động theo chủ quan và dễ bị thiên lệch. I.Cantơ viết: những mệnh lệnh của quy luật đạo đức có một giá trị khách quan và chúng hoàn toàn khác với những châm ngôn vì châm ngôn là nguyên tắc chủ quan. I.Cantơ giải thích rằng, trong đời sống hiện thực con người khi hành động phải chịu sự chi phối của các quy luật trong thế giới hiện tượng luận (thế giới khả giác), nhưng trước đó họ có thể quyết rằng mình có hành động hay không?. Đó là khả năng tự quyết của con người. Ở đây, con người được xem là một chủ thể có lý tính nên đã làm một khả năng của tự do. Lý tính thực tiễn với tư cách là cái quyết định hành động tự do của con người thì nó là ý chí tự do. Nhờ vậy, con người tự biết mình qua những hành vi tự quyết bên trong ý thức về bản ngã, cho nên chỉ riêng với những hành vi tự quyết định đó thì con người không chịu bất kỳ sự chi phối nào của quy luật hiện tượng luận. Và rằng, lý tính thuần túy và cũng là tự do tuyệt đối của con người không thuộc về thế giới kinh nghiệm mà thuộc về lĩnh vực siêu nghiệm. Hành vi của lý tính thuần túy là tự do và tự quyết, tự nó là nguyên nhân của nó, nghĩa là không có bất kỳ một nguyên nhân thường nghiệm nào tác động vào nó, đó mới là hành vi tự do thực sự. Tự do trong quan niệm của I.Cantơ là một trạng thái mà ở đó “con người hoàn toàn không bị lệ thuộc vào những nguyên nhân tiền định nào đó vốn có trong thế giới có thể cảm giác được” [18; 305]. Tự do là khả năng tiên nghiệm đặc biệt cho phép giác tính con người hoạt động độc lập với các quy luật tất yếu của tự nhiên trong lĩnh vực hiện tượng luận, nó tồn tại một cách tương đối trong lĩnh vực hiện tượng luận. Trong biên giới của tự do, hành động và hành vi của con người không bị chi phối bởi lý tính lý luận mà bị chi phối bởi lý tính thực tiễn và tự do mà I.Cantơ muốn tìm kiếm ở đây là tự do tuyệt đối. Quan niệm như vậy của I.Cantơ về tự do đã khẳng định một điều rằng: lý tính lý luận không đủ quyền năng để đi sâu vào lĩnh vực siêu nghiệm (lĩnh vực “vật tự nó”) mà chỉ có lý tính thực tiễn với tư cách là ý chí tự do mới có thể xâm nhập vào lĩnh vực đó. Và như vậy, đời sống con người chỉ thực sự tự do trong hoạt động thực tiễn hay lý tính thực tiễn mà thôi. Tự do của con người không thuộc về thế giới hiện tượng luận mà thuộc về thế giới “vật tự nó”; không phải là đời sống thường nghiệm mà là đời sống siêu nghiệm; không phải tự do tương đối trong lĩnh vực nhận thức các quy luật hiện tượng luận mà là tự do tuyệt đối trong lý tính thực tiễn với những hành động tự quyết. Đến đây, I.Cantơ một lần nữa khẳng định con người có hai đời sống đó là đời sống thường nghiệm và đời sống siêu nghiệm. Trong đời sống thường nghiệm thì theo I.Cantơ con người là bộ phận của thế giới sự vật nhưng trong đời sống siêu nghiệm tức những hành vi sinh hoạt tiên thiên thì con người là một thiên thần, một linh hồn bất tử. Muốn được như vậy thì những hành động đạo đức của con người phải vượt lên trên tất cả những cảm giác chất thể, không chịu sự chi phối của nó và đạt tới tự do tự quyết. Tóm lại, tự do là phạm trù trung tâm và là chủ đề xuyên suốt trong tư tưởng đạo đức của I.Cantơ đồng thời tự do cũng chính là câu trả lời cho câu hỏi “tôi cần phải làm gì?” mà trong suốt cuộc đời sáng tạo của mình, I.Cantơ luôn trăn trở, băn khoăn. Tuy nhiên, với ông tự do được bàn đến ở đây không phải là tự do thường nghiệm, tương đối mà là tự do siêu nghiệm tức tự do tuyệt đối. Và theo ông con người muốn đạt được tự do tuyệt đối thì phải tuân thủ các nguyên tắc của “mệnh lệnh tuyệt đối” hay “mệnh lệnh đạo đức”. Có thể nói rằng, tự do không chỉ là chủ đề đạo đức của I.Cantơ mà còn là một trong những nội dung quan trọng trong hệ thống triết học của ông bao gồm cả ba lĩnh vực: nhận thức, thực tiễn và sinh hoạt thẩm mỹ cho nên với tự do đích thực thì con người sẽ là chủ thể chân - thiện - mỹ. 1.2. Những chủ đề chính của đạo đức học I.Cantơ Triết gia vĩ đại người Đức - I.Cantơ đã đi vào lịch sử tư tưởng triết học nhân loại với tư cách là người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức, người tạo nên bước ngoặt “côpécních” trong lịch sử tư tưởng triết học nhân loại bằng một hệ thống tư tưởng khá độc đáo - trong đó có đạo đức học. Trước I.Cantơ đã có nhiều quan điểm và cách nhìn nhận khác nhau về đạo đức nhưng đến I.Cantơ thì đạo đức học lại được bàn với những góc độ khác nhau, dưới đây là một số vấn đề cơ bản được trình bày trong tư tưởng đạo đức của I.Cantơ. 1.2.1. Quan niệm của I.Cantơ về căn nguyên của đạo đức I.Cantơ đã nghiên cứu và tiến hành luận giải nguồn gốc của ý thức đạo đức trên cơ sở phê phán tất cả các học thuyết đạo đức dựa trên các nguyên tắc đạo đức do kinh nghiệm thông thường mang lại. Trong triết học của I.Cantơ, nếu trong triết học lý luận, ông thừa nhận cảm giác, giác tính là nguồn gốc của nhận thức thì ở lĩnh vực đạo đức học ông hoàn toàn tách rời nó khỏi cảm giác, giác tính. I.Cantơ viết: các nguyên lý cảm tính nói chung không thích hợp để có thể từ đó người ta xây dựng nên được các quy luật đạo đức. Ông cho rằng, cơ sở duy nhất để xác lập nên các nguyên tắc đạo đức đó chính là lý tính nhưng lý tính đó phải là lý tính thực tiễn chứ không phải là lý tính lý luận. Với “những cơ sở của siêu hình học - 1785” và “phê phán lý tính thực hành - 1788”. I.Cantơ đã xác định rõ mục đích của ông là nghiên cứu lý tính với tư cách là ý chí con người có thể tự quyết một cách hoàn toàn do mọi nguyên tắc tiên nghiệm mà không cần phải dựa vào bất cứ tri thức kinh nghiệm thông thường nào hết đó là ý chí tự do, cái ý chí ấy quyết định hành vi của con người, không phụ thuộc vào đối tượng bên ngoài và những cảm giác chất thể, mà quyết định theo lòng thành hay “thiện chí” điều này lý giải vì sao ngay từ đầu tác phẩm “những cơ sở của siêu hình học” I.Cantơ đã nói về thiện chí “trong số tất cả những sự được ta quan niệm là tốt lành ở trần gian này, và nói chung ngay ở ngoài trần gian này, không một sự gì được ta coi là tốt hoàn toàn, ngoại trừ thiện chí” [7; 138]. Rằng, cái thiện ở mọi lúc, mọi nơi, bao giờ cũng tồn tại một cách tự thân. Cái thiện - đó là cái thiện tự nó, nó tồn tại ngay cả khi không có cái gì được coi là thiện. Ông viết tiếp “thiện chí … được coi là thiện vì hành động ước muốn của ta nghĩa là nó tốt tự nó: bởi thế, xét theo bản chất của nó, nó phải được coi là quý giá vô cùng hơn cả những gì ta có thể nhờ nó mà thực hiện lòng thỏa mãn một xu hướng, hoặc thỏa mãn tất cả các xu hướng đi nữa” [24; 739]. Đây được coi là một trong những công thức đặc sắc mà I.Cantơ đã sử dụng để trình bày quan niệm của ông về đạo đức. Như vậy, I.Cantơ đã coi mọi nguyên tắc đạo đức không phải là cái được rút ra từ kinh nghiệm, các nguyên tắc đạo đức đều mang tính tiên nghiệm và là cái vốn có của lý tính con người. Quan niệm này của I.Cantơ chắc chắn là xuất phát từ niềm tin tôn giáo của ông khi ông “buộc phải hạn chế tri thức để giải phóng và tạo chỗ đứng cho niềm tin”, ông xem ý thức đạo đức với tư cách là cái có sứ mệnh vinh quang là giải phóng niềm tin tôn giáo khỏi những mâu thuẫn nan giải và khỏi mọi sự bí ẩn. Như vậy, đối với I.Cantơ, tất cả những cái mà chúng ta gọi là tốt đều có thể trở thành xấu. Chẳng hạn, hiền hậu có thể trở thành hung dữ, điềm tĩnh có thể trở thành lạnh lùng, còn của cải, tiền tài có thể làm ám muội lương tâm, thay đen đổi trắng, tài năng có thể sử dụng vào những mưu đồ đen tối. Với ông, chỉ duy nhất thiện chí được coi là tốt và tốt tuyệt đối. Sỡ dĩ I.Cantơ quả quyết như vậy, bởi thiện chí tốt không phải do những đối tượng mà chúng ta hướng đến chúng khi hành động, mà là do hành vi của chúng ta được coi là tốt và hợp lý. Trong cuộc sống, con người còn hành động vì những mục tiêu kinh nghiệm thông thường, nghĩa là hành động để mưu cầu một lợi ích nào đó. Hành động đó, theo I.Cantơ, chưa chắc đã là hợp lý và cũng chưa chắc đã phải là xuất phát từ lòng thành. Chỉ khi chúng ta nhìn nhận hành vi của mình hay hành vi của người khác một cách “tỉnh táo”, xác định rõ hành vi đó là chính đáng hay không chính đáng, thì khi đó, chúng ta mới dám chắc là mình đã hành động theo lý trí. Bởi vậy, theo I.Cantơ, thiện chí không thể được coi là cái Thiện vì những gì mà nó thể hiện ra, cũng không phải vì nó giúp chúng ta dễ dàng đạt được mục đích mà chúng ta đang theo đuổi. Nó chỉ được coi là cái Thiện khi chúng ta hành động theo mong muốn của mình, nghĩa là chỉ khi nó mang tính tự quyết, tự trị. Ông viết: chỉ thiện chí tự nó mới có giá trị đạo đức tuyệt đối và mọi hành vi cũng chỉ trở thành hành vi đạo đức khi thiện chí đóng vai trò là cơ sở quyết định hành vi ấy. Tư tưởng này của I.Cantơ cho thấy rõ sự khác biệt căn bản trong quan niệm đạo đức của ông với quan niệm về đạo đức của các nhà triết học Hy Lạp cổ đại. Các nhà triết học Hy Lạp thường coi cái Thiện ngoài lý trí như một đối tượng và cho rằng chính cái Thiện đã lôi kéo tâm hồn con người và do vậy, cái Thiện là một đối tượng. Với I.Cantơ thì trái lại, ông đặt cái Thiện vào trong tâm hồn con người, vì cái Thiện, theo ông, chỉ là tên gọi khác của sự thành tâm và thiện chí. Với quan niệm này, I.Cantơ cho rằng con người chỉ được coi là có đạo đức nếu đó không phải là người hành động theo bổn phận mà là người hành động vì bổn phận. Bởi lẽ, hành động theo bổn phận là hành động theo những tôn chỉ, ý muốn mà người khác áp đặt cho ta, buộc ta phải thực hiện; còn hành động vì bổn phận là hành động vì chính ta ý thức rằng đó là việc phải làm và có làm thì lương tâm ta mới trở nên thanh thản. Theo I.Cantơ, thiện chí là thước đo hành vi đạo đức của con người. Thiện chí là thước đo giá trị không thể thay thế của hành vi đạo đức và thiện chí là cái mà bất cứ ai cũng nhận thức được một cách tiên thiên, tiên nghiệm. Khác với tri thức khoa học là cái con người phải học tập nhiều năm mới có và thường đòi hỏi ở con người những khả năng đặc biệt, “ý thức đạo đức” là cái có tính xác thực hiển nhiên, là cái vốn có trong lý tính con người. Chẳng hạn, đứng trước một việc xảy ra trong khu phố, tất cả mọi người đều đàm luận và phán xét. Trong những lời đàm và phán xét đó, ta dễ nhận thấy có những người cho rằng đương sự hành động như thế là phải hay trái. Thế nhưng, ngoài việc phán xét là phải hay trái, họ không biết rằng cái đáng lý là phải đưa ra nhận xét cần phải như thế này hoặc như thế kia. Bởi lẽ, bản chất của những phán đoán đạo đức là như thế: “Nó không liên quan đến những gì đã có sẵn, mà chỉ liên quan đến cái phải làm”. Và, I.Cantơ gọi những phán đoán đạo đức như thế là “những mệnh đề tổng hợp tiên thiên trong lĩnh vực sinh hoạt tự do”. I.Cantơ cho rằng, thiện chí là một chân lý hiển nhiên và mang tính tiên thiên, tiên nghiệm. Nó là hiển nhiên vì phán đoán về tính chất thiện, ác của hành vi đạo đức là loại phán đoán trực tiếp và rõ ràng, không cần phải chứng minh và biện luận. Và, dẫu có biện luận thì cũng chỉ là thuyết phục người khác để họ nhận ra sự thành tâm, thiện ý của ta mà thôi, còn chính ta thì không bao giờ hoài nghi. Thiện chí mang tính chất tiên thiên, tiên nghiệm vì nó không do kinh nghiệm mà có, nó là cái vốn có, cái nằm ngay trong lý tính con người, là năng lực phán đoán của con người. I.Cantơ viết: “Về những điều liên can đến hết mọi người, chúng ta không thể tố cáo tạo hóa đã phân phát các ân huệ không đồng đều: bởi đó, trong việc nhận định những cứu cánh thiết yếu của bản tính con người, những triết thuyết cao nhất cũng không dẫn ta đi xa hơn lương tri mà thiên nhiên phú bẩm cho mọi người” [24; 739]. Với phạm trù “thiện chí” I.Cantơ đã thể hiện quan điểm duy tâm trong việc luận giải bản chất của đạo đức - cái do tạo hóa sinh ra - đó là “chủ nghĩa duy tâm tiên nghiệm” như chính ông thừa nhận. Trong tác phẩm Lútvích Phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức, Ph.Ăngghen viết rằng: “Chủ nghĩa duy tâm chẳng qua chỉ là sự theo đuổi những mục đích lý tưởng. Nhưng những mục đích đó, nhiều lắm, cũng chỉ liên quan một cách tất nhiên tới chủ nghĩa duy tâm của I.Cantơ và với mệnh lệnh tuyệt đối của I.Cantơ thôi; song, ngay cả I.Cantơ cũng gọi triết học của mình là “chủ nghĩa duy tâm tiên nghiệm” và như thế quyết không phải triết học ấy cũng bàn đến cả những lý tưởng đạo đức” [12; 4]. I.Cantơ rất lấy làm hài lòng với phạm trù thiện chí, mặc dù như C.Mác và Ph.Ăngghen nói: việc thực hiện thiện ý ấy, sự hài hòa giữa thiện ý ấy với những nhu cầu dục vọng của cá nhân sang thế giới bên kia. Như vậy, có thể nói, trong quan niệm của I.Cantơ, ý thức đạo đức là cái hoàn toàn dựa trên lý tính, chứ không phải là cái dựa trên tình cảm và những toan tính dục vọng và tư lợi. Tương tự như vậy, đạo đức học chỉ có thể được xây dựng trên cơ sở của lý tính và hơn nữa, đó là lý tính thực tiễn, I.Cantơ viết: các nguyên lý cảm tính nói chung là không thích hợp để từ đó, chúng ta có thể xây dựng các quy tắc đạo đức. Rằng, con người chỉ có thể hy vọng vươn tới cái Thiện đích thực, cái Thiện tự nó khi hướng hoạt động, hành động của mình theo sự mách bảo của lý tính thực tiễn. Nhưng làm thế nào để xây dựng được các nguyên tắc đạo đức chỉ dựa trên cơ sở của lý tính ấy? Để trả lời câu hỏi này, I.Cantơ không đưa ra những luận cứ rõ ràng, mà đưa ra một sự kiện mà ông gọi là “sự kiện của lý tính”. Đó là sự kiện mà ai cũng nghiệm thấy các quy tắc đạo đức phổ quát đã in đậm trong lý tính của mình và đó là những quy tắc không cần phải dạy cho con người. Do vậy, theo I.Cantơ, nếu thử so sánh một nguyên lý khoa học với một nguyên tắc đạo đức, chúng ta đều có thể dễ dàng nhận thấy tính chất vừa hiện thực, vừa tuyệt đối của nguyên tắc đạo đức. Rằng, tính hiện thực của những nguyên tắc đạo đức luôn gắn với tính tuyệt đối, vô điều kiện và do vậy, trong mọi hoàn cảnh, nguyên tắc đạo đức luôn mách bảo con người phải hành động thế này hoặc thế kia như là “mệnh lệnh tuyệt đối” và không mang tính giả định theo kiểu: nếu anh làm thì sẽ được lợi ích này, lợi ích kia, mà mang tính tuyệt đối, nghĩa là nhất định phải làm. Về thực chất “sự kiện của lý tính” mà I.Cantơ đưa ra không ám chỉ một sự kiện kinh nghiệm thông thường nào cả, nó là sự kiện duy lý nhưng lại diễn tả sự hiện diện thực sự của của các nguyên tắc đạo đức trong con người. Trong suốt cuộc đời nghiên cứu và sáng tạo của mình I.Cantơ đã đúc kết thành câu nói nổi tiếng: “Hai điều tràn ngập trong tâm tư với sự ngưỡng mộ và kính sợ luôn luôn mới mẻ và gia tăng mỗi khi nghĩ đến, đó là: bầu trời đầy sao trên đầu tôi và quy luật luân lý ở trong tôi” [3; 278]. 1.2.2. Mệnh lệnh tuyệt đối - quy luật của đạo đức Trong đạo đức học của mình, nhà sáng lập triết học cổ điển Đức đưa ra nguyên tắc tối cao giữ vị trí trung tâm là “mệnh lệnh tuyệt đối”, “mệnh lệnh tuyệt đối” khuyên mỗi người “hãy hành động tới mức tối đa sao cho điều đó trở thành quy luật phổ quát, nghĩa là điều đó được đưa vào cơ sở lập pháp phổ biến” [25; 403]. Đối với I.Cantơ “mệnh lệnh tuyệt đối” phải là nền tảng của học thuyết về đạo đức, là chỗ dựa để giải quyết tất cả các vấn đề của đạo đức học, là cơ sở để xác định các tiêu chuẩn đánh giá đạo đức để từ đó xác định mục tiêu của việc giáo dục đạo đức, và chỉ khi nào hành động của con người phù hợp với mệnh lệnh tuyệt đối thì mới được coi là có đạo đức. Vậy, tại sao I.Cantơ lại gọi là “mệnh lệnh tuyệt đối”, gọi là “mệnh lệnh” vì những biểu tượng ta có về quy luật cưỡng bức ý chí của ta, còn gọi là “tuyệt đối” vì những biểu tượng này thuần túy hình thức phi chất thể và nhờ vậy mà có tính phổ quát và tất yếu, không phụ thuộc vào quy luật nhân quả của thế giới hiện tượng luận. Cho nên, xét về nguồn gốc, “mệnh lệnh tuyệt đối” hay còn gọi là “mệnh lệnh đạo đức” không thuộc về lĩnh vực hiện tượng mà thuộc về lý tính tiên thiên thuần túy. I.Cantơ cho rằng, trách nhiệm buộc ý chí và hành vi của ta phải tôn trọng quy luật đạo đức bắt nguồn từ lý tính của ta thực hiện một hành vi đạo đức bởi đó là luật và sự kính trọng với quy luật này, ông viết: “Sự tôn trọng quy luật đạo đức là động lực đạo đức duy nhất và là động lực không thể chối cãi được” [5; 445]. Vì quy luật đạo đức là một yêu cầu tự thân, một mệnh lệnh tuyệt đối nên nó có thể cưỡng bức ý chí con người thực hiện hành vi đạo đức thông qua ý thức về trách nhiệm, khác với mệnh lệnh giả thuyết là những mệnh lệnh tương đối và có được nhờ vào kinh nghiệm của cuộc sống nhằm giúp con người đạt được hạnh phúc, mệnh lệnh tuyệt đối tự nó là một quy luật thực tiễn, là mệnh lệnh vô điều kiện. Vì vậy, mệnh lệnh tuyệt đối đã đưa ra ba nguyên tắc tối thượng đòi hỏi hoạt động của con người phải tuân theo, đây cũng là ba định thức tương ứng với ba khả năng vô điều kiện về phương châm đối nhân xử thế của con người. Thứ nhất, “mệnh lệnh tuyệt đối” là nguyên lý phổ quát quy định mọi hành vi của con người. Nó đòi hỏi mỗi người hãy hành động theo phương châm như thế nào để một mặt, những hành vi của mình có thể trở thành nguyên lý có tính pháp chế phổ quát; mặt khác, nhằm ngăn chặn những hành vi trái đạo lý của người khác trong chừng mực cho phép. Thứ hai, “mệnh lệnh tuyệt đối” yêu cầu “hãy hành động sao cho tính người không những nơi nhân cách của bạn mà cả trong nhân cách của bất cứ ai lúc nào cũng được bạn sử dụng như là cứu cánh chứ không bao giờ chỉ như là phương tiện” [3; 40]. Có nghĩa là mọi hành vi đạo đức của con người luôn hướng tới những giá trị tích cực nhằm làm cho đời sống con người tốt đẹp hơn, hạnh phúc hơn chứ không phải lấy tha nhân làm phương tiện để mình đạt mục đích riêng, bởi theo I.Cantơ “con người là tồn tại cao nhất trong những tồn tại hiện có”. Thứ ba, “mệnh lệnh tuyệt đối” đòi hỏi “mỗi một kẻ tồn tại có lý tính đều phải hành động như vậy, căn cứ sự chuẩn mực của anh ta dưới mọi tình huống mà xét thì anh ta thường như người làm luật trong một vương quốc có mục đích phổ biến” [15; 204]. Hay nói cách khác, hãy hành động theo ý chí tự do của mình nhưng ý chí đó không vượt ra ngoài khuôn khổ của pháp chế phổ biến. Điều này có nghĩa mỗi người khi đề cao quyền tự chủ của mình thì đồng thời phải tôn trọng quyền tự do của người khác chống lại mọi thói hư tật xấu, sự giả dối và tính ích kỷ… Như vậy, mệnh lệnh tuyệt đối đòi hỏi tính tự quyết của ý chí “sự tự trị của ý chí là nguyên tắc duy nhất của mọi quy luật luân lý và của mọi nghĩa vụ phù hợp với chúng” [3; 60]. Với I.Cantơ sự tự quyết của ý chí là nguyên tắc cao nhất của tính chất đạo đức và chính là tự do. Nó là cơ sở của phẩm giá con người, tự do là điều kiện để con người hành động có đạo đức và ngược lại nhờ hành động có đạo đức mà con người mới biết rằng mình có tự do. Vì vậy, I.Cantơ cho rằng, những hành vi đạo đức của con người cũng chính là những hành động tự do tuyệt đối của họ và đã là người thì ai cũng phải tuân theo nguyên tắc của “mệnh lệnh tuyệt đối” đó là: Mỗi người đều có quyền và cần phải hành động theo điều kiện và ý muốn sao cho ai cũng làm được như thế. Mỗi người đều có quyền và cần phải cho phép những người khác có được quyền như thế và tạo điều kiện để họ thực hiện nó. Mỗi người có quyền và phải ngăn chặn người khác hoạt động trái với mệnh lệnh tuyệt đối trong chừng mực có thể làm được. Theo I.Cantơ, “mệnh lệnh tuyệt đối” hay “mệnh lệnh đạo đức” vừa có tính chất thực hành vừa có tính chất tuyệt đối. Khác với mệnh đề khoa học - tính chất thực hành của nó chỉ là “nếu làm thì sẽ như vậy” còn mệnh đề đạo đức thì tính chất thực hành của nó là vô điều kiện, tuyệt đối. Cho nên, trong hoàn cảnh ý thức đạo đức “truyền” ta phải hành động như thế này, như thế kia và lệnh truyền này không có tính chất giả tỉ (nếu làm thì sẽ được cái này, cái kia) mà có tính chất tuyệt đối chắc chắn, nghĩa là nhất định phải làm dù phải chịu đau khổ và bị thiệt hại. I.Cantơ gọi đó là “sự kiện của lý tính” bởi vì “không thể dùng những lập luận để rút nó ra từ những dữ kiện trước kia của lý trí, thí dụ rút ra từ ý thức ta có về tự do, nhưng nó đã bắt ta công nhận nó như một mệnh đề tổng hợp tiên thiên, tức thứ mệnh lệnh không dựa trên một trực giác nào hết, dầu là trực giác thuần túy hay trực giác giác quan” [7; 143-144]. Khi nói về “sự kiện của lý tính” trong tư tưởng của I.Cantơ thì có hai điều cần phải lưu ý là: Thứ nhất, “lý trí thực hành trực tiếp ra luật cho ta nơi lãnh vực đạo đức” và “sự ra luật ở đây có tính chất một phán đoán hoàn toàn dựa trên hình thức của quy luật, chứ không dựa trên một kinh nghiệm hay một ý chí bên ngoài nào hết”. Ở đây, I.Cantơ nhấn mạnh vào tính chất duy lý của hành vi đạo đức, tri thức khoa học luôn đòi hỏi khía cạnh thực nghiệm nhưng với I.Cantơ thì tri thức khoa học luôn gắn với kinh nghiệm nên khả năng đem lại tự do và giá trị đạo đức cho con người là không nhiều. Từ đó, ông phê phán những triết thuyết đạo đức được xây dựng trên lĩnh vực thường nghiệm và chống lại sự tham gia của thường nghiệm vào sinh hoạt đạo đức. Vì ông cho rằng, nếu con người để cho cảm giác và cảm tính nhúng tay vào những quyết định của hành vi đạo đức, thì hành vi đó ngay lập tức bị lái sang những nẻo đường sai lệch do sự xui xiểm của tự ái và tư lợi. Ông nói: lý tính phải quyết định theo những hành vi của quy luật; Thứ hai, “sự kiện của lý tính” là lương tâm và tiếng của lương tâm, tức ý thức đạo đức ghi sâu trong lòng mọi người một cách tiên thiên. Tiên thiên không hoàn toàn là bẩm sinh mà có nghĩa là: đã là người thì ai cũng có khả năng nhận định về luân lý một cách đúng đắn, nếu ai phán đoán theo lý trí và không theo bất kỳ một sự xúi dục nào của tâm tình. Theo I.Cantơ, ta không thể tìm được cái gì gọi là tuyệt đối ở trần gian này, vì đây là lĩnh vực của nguyên lý nhân quả, của quy luật tất yếu, mọi việc ở trần gian đều theo những mệnh lệnh giả định. Để bảo toàn tính chất thuần túy, ngay chính, trong sáng và tính cách cưỡng bức tuyệt đối của “mệnh lệnh đạo đức” I.Canơ đã đưa ra nguyên tắc: ta không dựa vào một kinh nghiệm nào, hay một gương sáng nào mà chỉ có thể dựa một cách tiên thiên vào lý tính thực tiễn. Như vậy, chỉ khi tuân theo “mệnh lệnh tuyệt đối” của lương tri - của lý tính đạo đức hay lý tính thực tiễn, thực hiện một cách tuyệt đối nghĩa vụ đạo đức của mình không phụ thuộc vào bất cứ yếu tố bên ngoài nào, và hành động của ta phải hướng tới mục đích cao nhất là “sao cho điều ấy trở thành một quy luật phổ quát” thì đó mới là đạo đức. Như vậy, “mệnh lệnh tuyệt đối” của I.Cantơ là quy luật đạo đức cho tất cả mọi người, mọi lứa tuổi, mọi tầng lớp trong xã hội. Tất cả các công dân đều bình đẳng trước các quy luật và chuẩn mực đạo đức, vì nó trở thành quy luật đạo đức phổ biến nên mọi người nếu sống trên cõi đời này thì ai cũng đều làm được, đều thực hiện được. Cho nên, đạo đức không cần phải dạy và cũng chẳng cần phải học. Có thể khẳng định rằng, hơn hai trăm năm đã trôi qua nhưng mệnh lệnh tuyệt đối của I.Cantơ như một bức thông điệp hòa bình vẫn còn vang vọng trong tâm thức loài người, nhắn nhủ rằng loài người hãy thông cảm, hợp tác, yêu thương và đùm bọc lẫn nhau, loài người hãy bỏ qua mọi sự xung đột, mọi cuộc chiến tranh ra ngoài lề cuộc sống để chung sống với nhau trong một thế giới hòa bình, một thế giới mà ở nơi đó con người hoàn toàn được tự do và hạnh phúc. 1.2.3. Tự do là phạm trù trung tâm của đạo đức học I.Cantơ Trước I.Cantơ đã có nhiều học giả bàn về tự do, chẳng hạn Hốpbơ cho rằng tự do là cái phục tùng tất yếu, Xpinôda thì khẳng định tự do là sự nhận thức, nghĩa là chỉ có tự do tư tưởng mà không có tự do hành động, Vônphơ tiếp cận tự do từ khía cạnh đạo đức, Rútxô đi một bước xa hơn khi cho rằng tự do chính là pháp luật, mọi công dân có quyền tự do hành động trong khuôn khổ của khế ước mà mình đã tham gia ký kết. Xuất phát từ thực tiễn lịch sử, cũng như tiếp thu tinh thần của các bậc tiền bối trong quan niệm về tự do, I.Cantơ đã đặt ra cho triết học của mình nhiệm vụ xác định điều kiện, hoàn cảnh để trong đó con người có địa vị xứng đáng với bản chất đích thực của mình, đó là vươn tới cuộc sống tự do. Như vậy, tự do là phạm trù trung tâm, bao trùm nhất của triết học I.Cantơ. Ông đã bàn luận về tự do trên cả ba lĩnh vực: nhận thức, thực tiễn và giá trị hay sinh hoạt thẩm mỹ, song tập trung nhất vẫn là lĩnh vực thực tiễn đạo đức. Bởi theo ông toàn bộ triết học cần phải được hướng vào việc giải quyết những vấn đề của cuộc sống con người và hoạt động thực tiễn của con người, mà trong đó tự do là mục đích cao nhất, là lý tưởng cao đẹp mà cả nhân loại đang hướng tới. Nhà sáng lập nền triết học cổ điển Đức không chỉ nổi tiếng với tư cách là người đã tạo nên “bước ngoặt Côpécních” trong lĩnh vực nhận thức luận - đó là chìa khóa để mở cánh cửa bước vào thế giới tự do mà với lòng nhiệt thành, nỗi trăn trở và hoài bão đã đưa I.Cantơ vươn tới mục đích tối cao là: “Xác định cho con người một vị trí xứng đáng trong thế giới để từ đó, con người có thể học được cái mà mọi người đều phải học để làm người” [21; 23]. Mặc dù, triết học lý luận của I.Cantơ đã đánh dấu một cái nhìn mới mẻ về nhận thức của con người đó là: Một mặt, con người nhờ lý tính tiên thiên mà giữ địa vị chủ thể tiên nghiệm của mọi hoạt động nhận thức, và với tư cách đó nó là một thực thể tự do. Mặt khác, với tính cách một đời sống tri thức, con người chỉ lĩnh hội được thế giới hiện tượng hữu hạn, tạm thời và bất lực trước thế giới “vật tự nó”. Theo I.Cantơ, trong thế giới hiện tượng luận con nguời không có tự do tuyệt đối mà chỉ có tự do tương đối. Đây là tự do trên cơ sở nhận thức tính tất yếu, tự do đó được xác lập trong tương quan với sự vật, không chỉ thuộc về chủ thể mà còn thuộc cả vào đối tượng. Vì vậy, trong lĩnh vực nhận thức con người không có tự do hoàn toàn. Chỉ với triết học thực tiễn - triết học về hoạt động của lĩnh vực đạo đức, I.Cantơ mới đặt ra nhiệm vụ xác định điều kiện và chứng minh cho tự do tuyệt đối của con người. Vì lẽ đó, phạm trù trung tâm, cơ bản nhất của đạo đức học ở I.Cantơ là tự do - khát vọng làm chủ cái tất yếu, là lý tưởng đạo đức tuyệt đối cao đẹp mà cả nhân loại đang hướng tới. Theo I.Cantơ, con người chỉ đạt được tự do hoàn toàn, tự do tuyệt đối trong thế giới siêu nghiệm (thế giới “vật tự nó”) và I.Cantơ đã hiểu tự do theo mấy nghĩa sau: Thứ nhất, tự do là khả năng tiên nghiệm đặc biệt cho phép giác tính hoạt động độc lập với quy luật tất yếu của tự nhiên trong lĩnh vực hiện tượng luận. Thứ hai, tự do tồn tại tương đối trong lĩnh vực hiện tượng luận, nơi mà mọi cái đều diễn ra một cách tất yếu. Thứ ba, tự do là cái thuộc lĩnh vực “vật tự nó” và thế giới này là thế giới của tự do. Như vậy, con người trong quan niệm của I.Cantơ dường như sống ở hai thế giới. Trong thế giới hiện tượng luận, thế giới mọi thứ đều diễn trình trước sự tác động của các quy luật tất yếu tự nhiên, thì con người chỉ có tự do tương đối và vì thế bất kỳ lúc nào cũng không tránh khỏi bị lệ thuộc. Họ chỉ có thể hoàn toàn tự do với các quy luật “tự nhiên” trong thế giới “vật tự nó”. Con người trong thế giới “vật tự nó” được hoàn toàn tự do với các quy luật tự nhiên, tự coi mình là mục đích của chính mình. Quan niệm này của I.Cantơ, tựu trung lại vẫn phân chia tự do của con người ở hai lĩnh vực. Ở trong lĩnh vực nhận thức, con người chỉ có tự do tương đối vì ở đó nó được xác lập trong quan hệ với sự vật. Chỉ có trong lĩnh vực thực tiễn (thực tiễn theo cách hiểu của ông là hoạt động đạo đức) thì con nguời mới thực sự thấy mình tự do, tự do là giá trị cao quý nhất trên thế gian này. Không một cái gì khác “chỉ có con người và cùng với nó, mỗi người là mục đích của chính bản thân mình” [17; 271]. Ông cho rằng tự do là lý tưởng cao cả, cùng với Thượng đế và sự bất tử của linh hồn là những lý tưởng hoàn hảo tuyệt đối trên thế giới, giúp con người thực hiện các chuẩn mực đạo đức tuyệt đối mà không hề bị chi phối bởi tình cảm và các động cơ vị lợi khác. I.Cantơ viết: ý chí tự do và ý chí tuân theo các quy luật đạo đức là như nhau. Như vậy, ông đã đồng nhất ý chí tự do với các quy luật đạo đức và cho rằng khi nào ý chí tự do tuân theo các quy luật đạo đức thì con người mới hoàn toàn tự do, tự quyết trong hành vi đạo đức đối với mình. Khi đồng nhất hoạt động đạo đức với tự do của con người, I.Cantơ đặt ra nhiệm vụ của triết học thực tiễn là nghiên cứu lý tính xét như là cái có thể tự quyết một cách hoàn toàn vô tư theo tự ý thức về bản ngã và tuyệt đối về những hành động của con người dựa vào những nguyên tắc tiên thiên. Ở đây, lý tính đựơc xét với tư cách là “ý chí thuần túy” hay “ý chí đạo đức”, cái ý chí quyết định hành vi con người không phụ thuộc vào đối tượng bên ngoài và những cảm giác chất thể, mà quyết định theo lòng thành hay thiện chí được gọi là ý chí đạo đức (ý chí tự do). I.Cantơ đã nhiều lần dùng danh từ “ý chí thuần túy” hay “ý chí đạo đức” để chỉ những quyết định của ý chí ta khi những quyết định này không dựa vào một sự thúc đẩy nào của những sự kiện thường nghiệm, và cũng không bị ảnh hưởng gì do những tâm tình. Chẳng hạn, ông viết: “Ngoài hình thức ban bố quy luật phổ biến ấy, nên một ý chí như thế phải được suy tưởng, như là hoàn toàn độc lập với định luật tự nhiên của những hiện tượng trong mối quan hệ hỗ tương của chúng, tức trong quy luật của tính nhân quả. Một sự độc lập như thế gọi là sự tự do theo nghĩa chặt nhất, tức, theo nghĩa siêu nghiệm. Cho nên, một ý chí - có thể có quy luật của mình không ở đâu khác hơn ngoài hình thức ban bố quy luật đơn thuần của châm ngôn - là một ý chí tự do” [3; 53]. Với quan niệm như vậy về tự do thì xét cho cùng, bản chất đích thực của con người phải là thực tại tự do, có tự do mới được gọi là đạo đức, mới xứng đáng làm người. Đối với I.Cantơ, “người” (nhân tính), “đạo đức” và “tự do” là ba thuật ngữ đồng nghĩa. Hay nói cách khác, con người chỉ có tự do khi có tư cách là một thực tại có lý tính và chịu sự dẫn dắt của lý tính tiên thiên. Với I.Cantơ, chỉ có trong thế giới “vật tự nó” thì mọi hành vi của con người mới hoàn toàn vô tư, hoàn toàn là tự ý thức về bản thân mình mà không bị lệ thuộc vào bất kỳ sự chi phối nào của hiện tượng chất thể trong thế giới thường nghiệm của tính tất yếu và quy luật nhân quả. Vì vậy, ở thế giới “vật tự nó” con người được hoàn toàn tự do, tự coi mình là mục đích của chính mình, ông gọi là thế giới “siêu nghiệm”. Trong thế giới “thường nghiệm” con người giống như vạn vật, giống với tự nhiên, còn trong thế giới “siêu nghiệm” con người như những thiên thần, ngang hàng với những thiên thần. Tuy nhiên, con người chỉ là thiên thần trong chừng mực những hành vi chỉ diễn ra trong đời sống tinh thần thuần túy làm cho con người vừa là nguyên nhân lại vừa là kết quả, vừa là động cơ và mục đích lại vừa là phương tiện. Qua phạm trù tự do, I.Cantơ đã cho chúng ta thấy rằng con người có tự do, thậm chí là tự do tuyệt đối trong lĩnh vực đạo đức khi và chỉ khi con người hành động tuân theo các quy tắc đạo đức tiên thiên, hành động theo sự mách bảo của lương tâm bên trong con người. Tuy nhiên, tự do mà I.Cantơ đề cập ở đây chỉ là tự do về mặt tinh thần bởi vì những mệnh lệnh đạo đức là do lý tính tiên thiên thuộc về thế giới siêu nghiệm chỉ đạo. Còn trong thế giới thường nghiệm con người không tài nào cảm nhận và trải nghiệm được tự do ấy. Điều này dẫn tới hệ quả là tự do trong đạo đức học hay triết học thực tiễn của I.Cantơ chỉ mới dừng lại ở sự tự do đạo đức thể hiện ở sự lựa chọn của chủ thể đối với hành vi của mình mà chưa thể vươn tới tự do trong hiện thực với những quan hệ chính trị, pháp luật, văn hóa…Vì vậy, mà giữa triết hoc lý luận và triết học thực tiễn dường như có một hố sâu ngăn cách không thể vượt qua được, đó cũng là các Antinômia (mâu thuẫn của lý tính) mà I.Cantơ đã vấp phải khi xây dựng hệ thống triết học của mình. Ý thức được mâu thuẫn đó, I.Cantơ đã xây dựng một chiếc cầu bắc qua hố sâu ngăn cách giữa triết học lý luận và triết học thực tiễn đó là triết học thẩm mỹ. Với triết học thẩm mỹ, I.Cantơ tự tin cho rằng sẽ xóa nhòa được ranh giới giữa triết học lý luận và triết học thực tiễn. Bởi lẽ, với triết học lý luận, lý tính tiên thiên đã không thể đem đến cho con người sự tự do tuyệt đối, còn với triết học thực tiễn, ông cũng hy vọng sự hoàn thiện của đạo đức sẽ đem lại cho con ngừơi cuộc sống tự do thực sự, tự do tuyệt đối, thế nhưng nó cũng chỉ là tự do trong tâm hồn con người - tự do về mặt tinh thần. I.Cantơ nhận thấy rằng chỉ trong sinh hoạt thẩm mỹ, trong thưởng ngoạn và sáng tạo cái đẹp con người mới đạt tới tự do hoàn thiện. Tự do trên cơ sở hiện thực, tự do không bị cưỡng bức mà hoàn toàn phù hợp với những chuẩn mực đạo đức vì nó được tất cả mọi người thừa nhận. Như vậy, tự do trong triết học thẩm mỹ của I.Cantơ là tự do trong đời sống thường nghiệm và tự do này ứng với đời sống của con người trong xã hội hiện thực. Mặc dù vậy, với hệ thống triết học duy tâm tiên nghiệm của mình I.Cantơ cho rằng con người chỉ hoàn toàn tự do trong đời sống siêu nghiệm (“vật tự nó”) chứ không phải trong đời sống thường nghiệm. Chương 2 VỊ TRÍ, NHỮNG CỐNG HIẾN VÀ HẠN CHẾ CỦA ĐẠO ĐỨC HỌC I.CANTƠ 2.1. Vị trí của đạo đức học trong hệ thống triết học của I.Cantơ Triết học I.Cantơ nói chung và đạo đức học của ông nói riêng là bước ngoặt rất quan trọng trong lĩnh vực tư tưởng triết học phương Tây, bởi nó đã nghiên cứu con người như một chủ thể tự quyết, chủ thể ban hành luật. Trong hệ thống triết học của I.Cantơ, triết học lý luận và triết học thực tiễn được ông xây dựng một cách hợp lý và chặt chẽ, trong đó triết học thực tiễn giữ vai trò quyết định. Và trong triết học thực tiễn, đạo đức học được I.Cantơ xác định là nền tảng và là mục đích của toàn bộ hệ thống triết học của ông. Theo ông, triết học có nhiệm vụ phải: xác định bản chất đích thực của con người và vị trí xứng đáng của con người trong thế giới. Vì lẽ đó, I.Cantơ đã xem xét con người như một chủ thể nhận thức và chủ thể hành động bao gồm cả nhận thức, thực tiễn và giá trị, hay tri thức, ý chí tự do và tình cảm thẩm mỹ. Ông nhận thấy rằng, nếu như không nghiên cứu đầy đủ cả ba lĩnh vực đó thì không thể hy vọng thực hiện việc xác định bản chất đích thực của con người. I.Cantơ khẳng định rằng: trong lĩnh vực nhận thức con người đạt tới cái “chân lý”, trong lĩnh vực hoạt động thực tiễn và đạo đức con người đạt tới cái “thiện” và trong lĩnh vực hoạt động thẩm mỹ con người đạt tới cái “đẹp”. Đây là một hệ thống toàn vẹn về các phương diện và giá trị chân - thiện - mỹ của đời sống tinh thần - thực tiễn con người. Như thế, khi đặt ra cho triết học của mình nhiệm vụ là xác định bản chất đích thực của con người, điều đó cũng có nghĩa là xem xét những điều kiện và năng lực chủ thể của đời sống con người với tư cách là thực tại có lý tính một cách tiên thiên để ở đó con người có một cuộc sống đích thực, vươn tới tự do tuyệt đối. Đây được xem là mục đích và ý đồ cao nhất của nhà triết học xứ Kenicxbéc khi ông xây dựng hệ thống triết học tiên nghiệm của mình. Tuy nhiên, với ông để đạt được tự do tuyệt đối, vượt ra khỏi mọi không gian và thời gian của thế giới “hiện tượng luận” thì đó phải là nhiệm vụ tối cao của triết học thực tiễn nói chung và đạo đức học nói riêng. Vì theo I.Cantơ triết học thực tiễn chính là toàn bộ đời sống hiện thực và thực tiễn đạo đức của con người. Thật vậy, khi nhìn nhận một cách tổng quát và hệ thống, chúng ta mới thấy được hết ý tưởng sâu xa mà nhà triết học vĩ đại I.Cantơ đã đề ra. Với bộ ba tác phẩm “phê phán” cơ bản và là cốt lõi của triết học I.Cantơ - “phê phán lý tính thuần túy”, “phê phán lý tính thực hành” và “phê phán năng lực phán đoán” - chứa đựng những nội dung đặc biệt quan trọng, chúng làm tiền đề bổ sung cho nhau, liên kết nhau tạo thành một hệ thống tư tưởng triết học độc đáo và đặc sắc, làm đảo lộn nhiều tư tưởng triết học của nhân loại, nhất là những tư tưởng triết học đã được khẳng định trong triết học phương Tây suốt từ thời Platon đến R.Đềcáctơ. Nó gợi mở tư duy triết học mới mẻ với những giá trị có tính nhân loại và tính thời đại, nó không chỉ được đánh giá như cuộc cách mạng “Côpécních” trong triết học mà quan trọng hơn là đem lại ý nghĩa to lớn cho một tư duy triết học tương lai. Hệ thống triết học đó có khát vọng trả lời ba câu hỏi lớn và cơ bản nhất đặt ra cho cả loài người trong mọi thời đại đó là: “ Tôi (con người) có thể biết được gì? Tôi cần phải làm gì? Tôi có thể hy vọng gì?” [8; 579]. Và lần lượt ông đã giải đáp từng câu hỏi một, câu hỏi thứ nhất được ông giải đáp trong tác phẩm “phê phán lý tính thuần túy”, câu hỏi thứ hai được ông giải đáp trong tác phẩm “phê phán lý tính thực hành” và câu hỏi thứ ba được ông giải đáp trong tác phẩm “phê phán năng lực phán đoán”. Qua bộ ba tác phẩm “phê phán” của I.Cantơ, chúng ta có thể hiểu được sâu sắc hơn các vấn đề thực tiễn đạo đức của con người hay chính xác hơn là thấy được vai trò và vị trí của đạo đức học trong hệ thống triết học của ông. Về thực chất, ba câu hỏi mà I.Cantơ đưa ra là sự khái quát hóa những điều mà mọi người đều phải trăn trở, suy tư trong cuộc sống thường ngày. Đó cũng chính là sự phản ánh ba phương diện cơ bản nhất trong mối quan hệ giữa con người và thế giới: nhận thức, thực tiễn và sinh hoạt thẩm mỹ. Với mục đích xây dựng nền tảng thế giới quan mới cho con người, xác định đối tượng của nhận thức con người, làm rõ năng lực nhận thức của con người và giới hạn của năng lực ấy, chỉ ra các Antinômia (mâu thuẫn của lý tính) mà lý tính con người không thể khắc phục được, nghĩa là giải đáp vấn đề “Tôi có thể biết được cái gì?”, năm 1781, I.Cantơ cho ra đời tác phẩm đầu tiên trong bộ ba tác phẩm “phê phán” của mình là “phê phán lý tính thuần túy” với tư cách là triết học lý luận. Trong tác phẩm này. Một mặt, ông xem xét lại trên tinh thần phê phán các quan niệm siêu hình học tư biện truyền thống về những vấn đề đó. Chẳng hạn, ông phê phán quan niệm của Platon, người cho rằng con người là anh em với thần linh nên cũng có thể thấu hiểu mọi điều, khả năng nhận thức của con người là vô tận, I.Cantơ còn phê phán R.Đềcáctơ ở tư tưởng tuyệt đối hóa khả năng duy lý của con người và cho rằng bản chất của tri thức là những quan niệm thuần túy và với tư duy lý tính thuần túy thì con người có thể đi tới tận cùng của chân lý tuyệt đối. Mặt khác, ông coi “nhiệm vụ phê phán này của lý tính tư biện thuần túy” là thay đổi toàn bộ phương pháp nghiên cứu của thứ siêu hình học ấy bằng một cuộc cách mạng triệt để trong lĩnh vực lý luận nhận thức và lôgíc học. Với hệ thống triết học lý luận, I.Cantơ đã tạo nên cuộc cách mạng “Côpécních” trong lịch sử triết học đồng thời đánh dấu bước ngoặt trong lịch sử nhận thức của loài người. Không dừng lại ở đó, năm 1788, “phê phán lý tính thực hành” - tác phẩm “phê phán” thứ hai và được coi là triết học thực tiễn của I.Cantơ đã ra đời với mục đích làm rõ những nguyên lý hoạt động thực tiễn của con người trong xã hội, hay nói theo cách nói của ông, nhằm giải đáp vấn đề “Tôi cần phải làm gì?”. Ở đây, lần đầu tiên trong lịch sử triết học, hoạt động thực tiễn của con người được I.Cantơ đặt cao hơn hoạt động nhận thức và gắn cho nó vai trò quyết định trong mọi hoạt động của con người. Nhưng tiếc rằng, trong những hoạt động thực tiễn của con người, I.Cantơ lại không nói đến hoạt động sản xuất vật chất - đây là một hạn chế lớn mà ông đã mắc phải và hạn chế này chỉ thực sự được khắc phục triệt để hơn khi C.Mác và Ph.Ăngghen kế thừa và phát triển tư tưởng của I.Cantơ về đạo đức học. Với tư cách là mặt đối lập với triết học lý luận, lý tính thực tiễn mà I.Cantơ lấy làm đối tượng nghiên cứu trong “phê phán lý tính thực hành” cũng đã được ông đặt đối lập với lý tính thuần túy (tư biện), đối tượng nghiên cứu của “phê phán lý tính thuần túy”. Và, do vậy, hoạt động thực tiễn của con người đã được I.Cantơ xem xét và coi là một dạng hoạt động độc lập với hoạt động nhận thức. Đi sâu vào nghiên cứu vấn đề này, I.Cantơ đã xem xét hoạt động thực tiễn này của con người theo cả nghĩa rộng lẫn nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng, đó là toàn bộ các hoạt động chính trị, pháp quyền, văn hóa…của con người. Còn theo nghĩa hẹp, thì I.Cantơ cho rằng hoạt động thực tiễn cũng chính là hoạt động đạo đức của con người. Và rằng, con người muốn đạt được giá trị đạo đức thực sự và tự do tuyệt đối thì phải tuân thủ một cách nghiêm ngặt cái gọi là “mệnh lệnh tuyệt đối” với tư cách là nguyên tắc của mọi hành vi đạo đức. I.Cantơ mong muốn xây dựng triết học thực tiễn của mình thành “một khoa học thực sự” [25; 384]. Song, do đặt lý tính thực tiễn ở vị trí đối lập với lý tính tư biện và một cách tương ứng, thế giới “hiện tượng luận” - đối tượng nghiên cứu của triết học lý luận với thế giới “vật tự nó” - đối tượng nghiên cứu của triết học thực tiễn, nên I.Cantơ không những không thể thực hiện được mong muốn của mình mà còn làm cho mối quan hệ giữa triết học lý luận và triết học thực tiễn vốn đã phức tạp nay lại càng trở nên phức tạp hơn. Cố gắng khắc phục tình trạng này, năm 1790, I.Cantơ cho ra đời tác phẩm cuối cùng trong bộ ba tác phẩm “phê phán” của mình là “phê phán năng lực phán đoán” - với tư cách là năng lực thẩm mỹ của lý tính con người. Ở đây, I.Cantơ đã lấy hoạt động thẩm mỹ của con người (khả năng cảm thụ và đánh giá nghệ thuật) với tư cách hoạt động tự do theo quy luật của cái đẹp, với tư cách khả năng tiên nghiệm của con người, cái có khả năng gắn kết lý tính thực tiễn với lý tính tư biện, gắn kết hoạt động thực tiễn một cách tự do với hoạt động nhận thức luôn bị chế ước bởi các phạm trù, quy luật của giác tính làm đối tượng nghiên cứu. Như vậy, với triết học thẩm mỹ, I.Cantơ coi nguồn gốc của cái đẹp không thuộc về khách thể cũng không thuộc về trí năng hay lý năng, mà thuộc về năng khiếu của chủ thể thẩm mỹ. Theo ông, cái đẹp là một mô thức có trước trong năng khiếu thẩm mỹ của con người, cho nên khi đứng trước sự vật hay nghệ phẩm ta nhận là đẹp vì nó đáp ứng đúng với mô hình mà óc tưởng tượng của ta đã khắc họa và được lý tính công nhận. Vì vậy, với ông: năng khiếu thẩm mỹ của con người là do lý tính tiên thiên mang lại và nhờ vào đó mà con người mới đạt được tự do trong việc lĩnh hội cũng như cảm nhận cái đẹp trong cuộc sống. Ngoài ra, trong triết học thẩm mỹ, I.Cantơ còn nêu ra một Antinômia của cái đẹp đó là: Một mặt, cái đẹp thẩm mỹ là cái phổ biến nơi con người; nhưng mặt khác, cái đẹp thẩm mỹ thể hiện trong sự thưởng thức lại là cái đơn nhất. Nếu không thể hiện dưới hình thức cái đơn nhất thì năng khiếu thẩm mỹ chẳng thể nào mà phán đoán được về cái đẹp, nhưng cái đẹp trong phán đoán thẩm mỹ phải mang tính phổ biến bằng không sẽ chẳng bao giờ được xem là đẹp. Với Antinômia của cái đẹp này, I.Cantơ đã chứng minh được con người hoàn toàn có thể vươn tới tự do thực sự nơi cuộc sống thường nghiệm. Do vậy, ông cho rằng: lý tính tiên thiên với tính cách là năng lực người, thì không phải ở chỗ nó đem lại tri thức cũng như đem lại tự do nơi thế giới siêu nghiệm mà ở chỗ nó là năng lực sáng tạo tự do hay đó là năng lực nghệ thuật. Thông qua sáng tạo nghệ thuật con người sẽ giải quyết các thái cực của Antinômia mà họ vấp phải. Bởi lẽ, đã là nghệ thuật thì phải xuất phát từ chất thể mà vươn lên cái không hình hài siêu nghiệm. Vì vậy, nghệ thuật vừa là phương thức sống cho con người thường nghiệm tự do lại vừa là đạo đức. Tựu trung lại, triết học thực tiễn ở I.Cantơ là chiếc cầu vững chắc nối liền thế giới “hiện tượng luận”- thường nghiệm và thế giới “vật tự nó” - siêu nghiệm. “Phê phán” cả lý tính thuần túy (tư biện), cả lý tính thực hành lẫn năng lực phán đoán của con người với tư cách là chủ thể nhận thức, chủ thể hành động, I.Cantơ đã làm nên một cuộc cách mạng có tính chất bước ngoặt trong lịch sử triết học.Và, khi gắn kết lý tính tư biện với lý tính thực tiễn bằng năng lực phán đoán, I.Cantơ đã đem lại tính chỉnh thể cho hệ thống triết học phê phán - siêu hình học tiên nghiệm của ông. Siêu hình học tiên nghiệm của I.Cantơ là một hệ thống triết học hoàn chỉnh, một chỉnh thể khoa học triết học có tính nhất quán và xuyên suốt. Song, trong hệ thống triết học ấy, vai trò hàng đầu được ông dành cho lý tính thực tiễn. Bởi lẽ, theo ông: “Toàn bộ các vấn đề triết học cần phải được hướng vào việc giải đáp những vấn đề của cuộc sống con người và hoạt động thực tiễn của con người” [21; 24]. Rằng, một khi thiếu tri thức, con người không thể trở thành chủ thể nhận thức đích thực. Song, nếu chỉ thuần túy dựa vào tri thức do năng lực nhận thức mà có thì con người cũng không thể có được tư cách ấy. Để trở thành chủ thể nhận thức đích thực, chủ thể tự do ý chí thì bên cạnh hoạt động nhận thức, con người còn cần đến cả hoạt động thực tiễn. Chính vì vậy mà triết học theo I.Cantơ rốt cuộc phải hướng đến việc giải đáp các vấn đề hiện thực mà con người luôn trăn trở trong cuộc đời, hướng đến việc làm rõ lý tính thực tiễn hay ý chí tự do của con người. Bởi lẽ, triết học với tư cách là một khoa học luôn chứa đựng ý niệm về sự thông thái một cách hoàn hảo mà “sự thông thái nói chung chủ yếu trong hành động, hơn là tri thức” [17; 258]. Với quan niệm này, I.Cantơ cho rằng, nếu có sự tồn tại của một khoa học thực sự cần thiết cho con người thì đó chính là siêu hình học tiên nghiệm - khoa học lấy lý tính thực tiễn với tư cách là khả năng tiên nghiệm của con người làm đối tượng nghiên cứu, khoa học hướng đến việc làm rõ vai trò hàng đầu của lý tính thực tiễn, của hoạt động thực tiễn của con người. Không chỉ có vậy, khi lý giải vì sao cần phải đặt lý tính thực tiễn ở vị trí đối lập với lý tính tư biện và dành cho lý tính thực tiễn vai trò hàng đầu trong siêu hình học tiên nghiệm, I.Cantơ còn cho rằng, việc con người sử dụng lý tính về phương diện lý luận chỉ có liên quan đến những khách thể của năng lực nhận thức; nó dẫn đến sự hình thành tri thức, hình thành các phán đoán về khách thể nhận thức và đem lại cho lý tính con người khả năng lựa chọn các phương pháp để thực hiện mục đích, nhưng nó lại vĩnh viễn không thể đem lại cho con người mục đích của hành động, không thể trở thành động cơ thúc đẩy con người hành động. Còn việc con người sử dụng lý tính về phương diện thực tiễn thì lại hoàn toàn khác. Lý tính mà con người sử dụng về phương diện thực tiễn là lý tính hướng đến những cơ sở mang tính nền tảng và có ý nghĩa quyết định của ý chí với tư cách năng lực hoặc tạo ra khách thể phù hợp với biểu tượng về chúng, hoặc tự quy định mình để tạo ra những biểu tượng ấy. Và, quan trọng hơn, việc sử dụng lý tính về phương diện thực tiễn còn đem lại cho con người khả năng dựa vào đó để hình thành những động cơ hành động. Khi đó, con người thể hiện ra là chủ thể tự do - tự do hành động, tự do hoạt động thực tiễn để tác động vào thế giới các “vật tự nó” với khát vọng nhận thức được thế giới này - thế giới mà con người với lý tính tư biện không thể nhận thức được. Như vậy, I.Cantơ đã cho rằng con người không thể trở thành chủ thể đạo đức trong hoạt động nhận thức vì ở thế giới đó, con người luôn bị chi phối và lệ thuộc vào các hoạt động chất thể và thường nghiệm, còn ở thế giới “vật tự nó” thì bất khả tri. Con người chỉ thực sự trở thành một chủ thể đạo đức và cũng là một chủ thể tự do - tự do hành động ở trong hoạt động thực tiễn của mình, bởi tại đó, con người sẽ không phải chịu bất kỳ sự chi phối nào của tính tất yếu và quy luật nhân quả, mà nó vượt lên trên tất thảy vạn vật trong thế giới tự nhiên, tự thân vận động để đạt được mục đích thực sự của mình đó là tự do tuyệt đối, tự do cao nhất. Xuất phát từ quan niệm của nhà tư tưởng, nhà biện chứng lỗi lạc của triết học Khai sáng Pháp - G.Rútxô - quan niệm về tính độc lập của ý thức đạo đức so với tri thức và giáo dục, I.Cantơ cho rằng, các nguyên lý đạo đức với tư cách sản phẩm của lý tính thực tiễn, kết quả hoạt động thực tiễn của lý tính con người trong thế giới các “vật tự nó” là cái có vị trí độc lập và vai trò hàng đầu so với các phạm trù, quy luật tự nhiên - sản phẩm của lý tính tư biện, kết quả hoạt động nhận thức của lý tính con người trong thế giới hiện tượng luận. Rằng, trong hoạt động nhận thức, lý tính tư biện là nguồn gốc duy nhất của các phạm trù, quy luật trong thế giới hiện tượng luận, còn trong hoạt động thực tiễn, lý tính thực tiễn là nguồn gốc duy nhất của các nguyên lý, các chuẩn mực đạo đức trong thế giới “vật tự nó”. Và, do vậy, theo I.Cantơ “các nguyên lý cảm tính nói chung là không thích hợp để từ đó, chúng ta có thể xây dựng các quy tắc đạo đức dựa vào chúng” [21; 33]. Điều này có nghĩa, chúng ta không thể xây dựng các quy tắc đạo đức nếu chỉ dựa vào các phạm trù, các quy luật của giác tính vì theo I.Cantơ chúng là tiên nghiệm nên chưa có bất kỳ một nội dung nào cả mà để làm được điều đó thì con người phải hướng hành động, hoạt động của mình theo sự dẫn dắt của lý tính thực tiễn. Từ đó, I.Cantơ cho rằng, “ý chí phục tùng các quy tắc đạo đức” và ý chí tự do là như nhau, là “mệnh lệnh tuyệt đối”, là nguyên tắc tối cao của đạo đức. Tự do ý chí là khả năng tiên nghiệm đặc biệt, khả năng cho phép lý tính con người hoạt động một cách độc lập đối với các quy luật tất yếu của tự nhiên trong thế giới hiện tượng luận. Ý chí tự do tồn tại một cách tuyệt đối trong thế giới “vật tự nó” mà lý tính con người không thể nhận thức được. Tự do, trong thế giới hiện tượng luận, thế giới mà ở đó, mọi cái đều diễn ra một cách tất yếu, chỉ tồn tại một cách tương đối; còn tự do trong thế giới “vật tự nó”, thế giới mà ở đó, các sự vật tồn tại một cách khách quan, tồn tại ngoài lý tính con người, thì tồn tại một cách tuyệt đối, tồn tại tự nó. Tự do là lý tưởng đạo đức cao cả nhất của mỗi người, là mục đích, là lý tưởng đạo đức cao đẹp nhất mà cả nhân loại cần hướng tới. Và, do vậy, theo I.Cantơ lý tính con người cần phải hành động, hoạt động tới mức tối đa sao cho ý chí tự do trở thành “quy luật phổ quát”, thành cái có thể được đưa vào “lập pháp phổ biến”. Khi I.Cantơ coi tự do với tư cách một lĩnh vực chủ yếu thuộc về thế giới “vật tự nó” là lý tưởng hoàn hảo, tuyệt đối mà con người phải hướng tới trong đời sống hiện thực, trong hoạt động của mình, là niềm tin giúp cho con người thực hiện các quy tắc đạo đức, I.Cantơ đã dành cho lý tính thực tiễn vai trò và vị trí hàng đầu so với lý tính thuần túy trong hệ thống triết học của mình. Với ông, tri thức mà lý tính con người mang lại chỉ có giá trị khi nó giúp cho con người trở nên có tính người hơn, mang lại cho con người một cơ sở đạo đức vững chắc và giúp cho con người thực hiện được lý tưởng về cái thiện. Với ông, ngay cả niềm tin vào sự bất diệt của Thượng đế và linh hồn, đích thực chẳng qua cũng chỉ là niềm tin đạo đức, là năng lực tuân thủ bổn phận ở khắp mọi nơi và mọi lúc - năng lực do lý tính thực tiễn mang lại. Với ông, siêu hình học tiên nghiệm chỉ có ý nghĩa khi nó giúp cho con người có được niềm tin đạo đức, giáo dục cho con người biết tuân thủ theo các quy tắc đạo đức và triết học chỉ thực sự có ý nghĩa khi nó hướng mọi phương tiện giáo dục con người vào việc đạt tới cái thiện đích thực do lý tính thực tiễn mách bảo. Và, rằng các khát vọng cảm tính chỉ đưa con người tới chỗ hưởng thụ cá nhân, vị kỷ và phi đạo đức. Với những suy nghĩ như vậy và sau nhiều năm nghiền ngẫm kể từ sau khi công bố “phê phán lý tính thuần túy”, nhất là sau khi đã ý thức được một cách rõ ràng vai trò và vị trí hàng đầu của lý tính thực tiễn so với lý tính thuần túy, về “mệnh lệnh tuyệt đối”, về nguyên tắc tối cao của đạo đức. I.Cantơ mới quyết định bắt tay vào xây dựng học thuyết của ông về đạo đức và công bố nó vào năm 1788 với tên gọi “phê phán lý tính thực hành”. Trong tác phẩm “phê phán lý tính thực hành”, khi khẳng định vai trò hàng đầu của lý tính thực tiễn so với lý tính tư biện, trước hết I.Cantơ đã nói về năng lực tự trị, tính tự quyết của các nguyên tắc đạo đức. Ở đây, I.Cantơ đã lý giải rằng “sự tự trị của ý chí là nguyên tắc duy nhất của tất cả các quy luật đạo đức và của tất cả các bổn phận tương ứng với các quy luật đó” [7; 181] nên trong quan điểm của ông vấn đề tự trị là quan trọng số một của khoa đạo đức học. Nhưng tại sao I.Cantơ lại coi sự tự trị của ý chí, tức sự hoàn toàn tự chủ của con người là căn bản của mọi tư tưởng đạo đức?, bởi vì, ông coi trọng con người, con người ở đây đã được I.Cantơ đặt vào đúng vị trí của nó trong vũ trụ, và chỗ ngồi này vượt lên trên vạn vật và lên trên tất thảy những định luật thiên nhiên chi phối vạn vật. Theo ông, con người cần phải tự chủ trong các hành động của mình bởi nếu con người không “tự chủ” được bản thân mình thì con người sẽ hoàn toàn mất tự do và các hành động của họ sẽ bị chệch hướng thậm chí là dẫn đến sai lầm. Vì vậy, “tự chủ” được coi là nghĩa tích cực của tự do. Khi bàn đến sự tự trị của ý chí, I.Cantơ đi sâu vào bản chất của hành vi đạo đức là hành vi chỉ được quyết định theo hình thức của quy luật phổ quát đạo đức thôi, chứ không được ta quyết định để mưu cầu một hạnh phúc nào, hoặc vì một áp lực nào. Xuất phát từ chỗ đề cao sự tự trị và coi “sự tự trị của ý chí là nguyên tắc cao nhất của tính chất đạo đức” [7; 183]. Cho nên I.Cantơ đã phê phán tất cả những học thuyết đạo đức được xây dựng trên nguyên tắc “ngoại trị”, ông phủ nhận tất cả những nguyên tắc đạo đức được xây dựng trên cơ sở sự cưỡng ép từ bên ngoài như ý chí của Chúa, những quy định của xã hội, những đòi hỏi của ý thức bẩm sinh…Vì vậy, quan niệm của I.Cantơ về sự tự trị, tính tự quyết của các nguyên tắc đạo đức hoàn toàn khác xa so với quan niệm của những người theo chủ nghĩa duy luân lý, đồng thời quan niệm này của I.Cantơ cũng khác với quan niệm coi cái thiện và cái ác về thực chất là những cái phụ thuộc vào mục đích mà con người đặt ra, phụ thuộc vào những hệ quả nảy sinh ra từ những hành vi, từ khát vọng vươn tới hạnh phúc, mưu cầu lợi ích và thỏa mãn dục vọng của con người. Khi khẳng định tính độc lập và giá trị tự thân của những nguyên tắc đạo đức, I.Cantơ cho rằng, cái thiện bao giờ cũng là cái thiện tự nó, nó tồn tại ngay cả khi không có cái gì đáng được coi là thiện và việc con người ở một thời điểm nào đó sẽ không phân biệt được đâu là thiện, đâu là ác thì đó cũng chỉ là nhất thời, sớm hay muộn con người cũng sẽ lại thấy xuất hiện viễn cảnh đạo đức đạo đức và nhận thức được hành vi của mình. Tuy nhiên, theo I.Cantơ, chỉ có hành động và hoạt động theo lý tính thực tiễn con người mới hy vọng vươn tới cái thiện đích thực. I.Cantơ đã đưa ra những lập luận để khẳng định tính chất tiên thiên và hiển nhiên của “năng lực phán đoán” đó là: Tri thức không thể sinh ra năng lực, mà trái lại năng lực mang tính chất bẩm sinh, vốn có. Vì vậy, để nhận biết cái thiện, cái ác, con người không cần phải có học vấn uyên thâm, mà chỉ cần có trực giác là đủ. Theo ông, để trở thành con người trung thực và hảo tâm, sáng suốt và có thiện chí, con người không cần đến bất cứ một khoa học nào, kể cả triết học. Bởi lẽ, triết học và đạo đức, theo ông là các lĩnh vực khác nhau của tồn tại người. Trong triết học, lý tính con người thường rơi vào các Antinômia (mâu thuẫn của lý tính) với chính mình và đi đến những phỏng đoán thiếu hiểu biết, thậm chí là cả sự sai lầm. I.Cantơ cho rằng, ý thức đạo đức của con người là tiên thiên, không phụ thuộc vào trình độ học vấn, vì vậy “mỗi người đều có thể phân biệt được cái gì là thiện, cái gì là ác, cái gì hợp lý và cái gì trái với trách nhiệm. Không cần dạy gì cho người bình dân mà chỉ cần theo phương pháp Xôcrát giúp họ chú ý vào nguyên tắc của chính họ. Và như vậy chúng ta sẽ nhận ra rằng họ sẽ không cần đến khoa học và triết học để biết phải làm gì để có thể trở thành người tốt, thậm chí trở thành người khôn ngoan và đức hạnh” [5; 448]. Còn trong đạo đức thì vấn đề lại khác, được giải phóng khỏi những dữ liệu cảm tính, năng lực phán đoán của con người có khả năng gạt bỏ những yếu tố ngoại lai và làm cho vấn đề trở nên đơn giản hơn. Khi đó, các hành vi đạo đức mà con người thực hiện sẽ được lựa chọn bởi lý tính thực tiễn và lý tính tiên thiên. Đó là lý do giải thích vì sao đạo đức học lại xuất hiện ở bên ngoài triết học, tại sao triết học - siêu hình học lại cần phải thoát khỏi sự “cầm tù” của những kết cấu thuần túy để đi vào lĩnh vực hoạt động thực tiễn, I.Cantơ cho rằng, đối tượng của lý tính thực tiễn là cái thiện tối cao, cái thiện đích thực, là sự phát hiện và thực hiện cái cần thiết cho sự tự do của con người. Rằng, các nguyên tắc đạo đức không phải là cái được rút ra từ kinh nghiệm, chúng mang tính tiên nghiệm và là cái vốn có, cái nằm ngay trong lý tính thực tiễn của con người. Bất cứ hành vi đạo đức nào của con người cũng mang tính “mệnh lệnh”. Thứ “mệnh lệnh” mà I.Cantơ muốn nói tới ở đây là “mệnh lệnh tuyệt đối” - nguyên tắc đạo đức phổ biến của nhân loại đòi hỏi lý tính thực tiễn của mỗi con người phải tuân theo một cách nghiêm ngặt. Đó là mệnh lệnh đòi hỏi mỗi con người phải hành động sao cho ý chí tự do trở thành quy luật phổ quát, thành nguyên tắc lập pháp phổ biến, nghĩa là phải hành động sao cho ai cũng có quyền, có bổn phận hành động theo những điều kiện và ý muốn của họ, theo quyền tự do mà họ vốn có, đồng thời phải có nghĩa vụ ngăn chặn, trong chừng mực có thể làm được, mọi hành động trái với điều này. Chỉ có hành động nào phù hợp với mệnh lệnh tuyệt đối mới được coi là hành động có đạo đức. Cơ sở vững chắc nhất, nguồn gốc duy nhất chân thực của “mệnh lệnh tuyệt đối” này là bổn phận, là nghĩa vụ. Chỉ có bổn phận, chứ không phải một động cơ nào khác, mới là cái có khả năng đem lại giá trị đạo đức cho hoạt động con người, cho những hành vi mà con người có nghĩa vụ phải thực hiện. Mọi hành vi đạo đức, mọi thiện chí được thực hiện theo “mệnh lệnh tuyệt đối” là bổn phận của mỗi chủ thể có lý tính. Và, chỉ có ý thức tỉnh táo về bổn phận mới trở thành cái có khả năng điều khiển hành vi của con người có lý tính, bởi bổn phận là cái cao cả, thiêng liêng, là cái duy nhất có khả năng thức tỉnh ý chí mà không làm cho tâm hồn bị tổn thương, là cái đem cho mỗi chủ thể hành động niềm hạnh phúc lớn lao khi đặt giá trị con người, giá trị nhân loại trên cả bản thân mình. Chủ thể hành động thực hiện bổn phận cũng có nghĩa là nó thực hiện tự ý thức của mình trong hành vi ứng xử vì bản tính con người, thực hiện sự tự do của mình. Nói cách khác, tự do là sự tuân thủ bổn phận. Và với việc coi chủ thể hành động thực hiện bổn phận theo yêu cầu của “mệnh lệnh tuyệt đối” là tự do. I.Cantơ đã đi đến quan niệm cho rằng, tự do là mục đích, là lý tưởng đạo đức cao cả nhất mà mỗi con người có lý tính và cả cộng đồng nhân nhân loại đều phải hướng tới. Tự quyết định, tự thực hiện ý thức về bổn phận đạo đức, tuân thủ bổn phận này mọi lúc, mọi nơi và tự chịu trách nhiệm về hành vi đạo đức của mình với tư cách là “mệnh lệnh tối cao” mà lý tính thực tiễn đòi hỏi mọi chủ thể hành động đều phải tuân theo một cách nghiêm ngặt và không được phép lãng quên - đó là kết luận mà I.Cantơ rút ra khi đặt lý tính thực tiễn đối lập và dành cho nó vị trí hàng đầu so với lý tính thuần túy. Trong “phê phán lý tính thực hành”, kết luận này được I.Cantơ trình bày dưới dạng những định đề rất khó hiểu, những định đề này không đem lại sự mở rộng khả năng nhận thức của con người nhưng đem lại cho lý tính con người quyền đưa ra các khái niệm mà việc luận chứng cho khả năng của chúng là không thể thực hiện được. I.Cantơ rút ra kết luận này, như C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: “Biến những quy định, có động cơ vật chất, của ý chí…thành những tự quy định thuần túy của ý chí tự do, của ý chí tự nó và vì nó, của ý chí của loài người, và do đó biến ý chí ấy thành những quy định khái niệm thuần túy về mặt tư tưởng và những định đề về đạo đức. Và, do không, và đương nhiên là không thể bởi những hạn chế do thời đại quy định, do không nhận thấy rằng lợi ích vật chất và ý chí do quan hệ sản xuất vật chất chi phối và quyết định là cơ sở của những tư tưởng lý luận, do tách rời sự diễn đạt lý luận ấy với những lợi ích được diễn đạt trong đó” [13; 269-270]. Vì vậy mà kết luận của ông đã thiếu cơ sở hiện thực, không gắn liền với các hoạt động sản xuất vật chất. Mặc dù kết luận đó được I.Cantơ rút ra từ lập trường duy lý, khi ông luận giải trên tinh thần phê phán lý tính thực tiễn của con người và những quy tắc đạo đức mà lý tính ấy đòi hỏi con người phải tuân theo, và trong kết luận đó có nhiều điểm không tưởng vì tính phi lịch sử, phi giai cấp, thiếu cơ sở hiện thực. Song, với ý đồ tạo dựng cho con người một “vương quốc tự do” hay đúng hơn là hướng con người cũng như toàn thể nhân loại vươn tới cuộc sống tự do thực sự, tự do cao nhất mà I.Cantơ đã nêu ra. Chúng ta cũng không thể nào phủ nhận những tư tưởng nhân đạo mà ông đã trình bày trong quan niệm của mình về đạo đức học vì xét về một phương diện nào đó, nó đã đem lại cho con người niềm tin vào tính vĩnh hằng, vào những nguyên tắc đạo đức phổ biến của “mệnh lệnh tuyệt đối”, tin vào một cuộc sống tự do và hạnh phúc. Qua đó lý giải vì sao I.Cantơ đã dành cho triết học thực tiễn nói chung và đạo đức học nói riêng một vai trò và vị trí xứng đáng trong toàn bộ hệ thống triết học của ông. 2.2. Những cống hiến và hạn chế của đạo đức học I.Cantơ Trong toàn bộ hệ thống triết học của I.Cantơ thì mối quan hệ giữa triết học lý luận và triết học thực tiễn luôn được ông nhấn mạnh trong đó triết học thực tiễn giữ vai trò quyết định, mặc dù hoạt động thực tiễn được I.Cantơ hiểu là hoạt động tinh thần, hoạt động đạo đức, pháp quyền, lịch sử…và trong triết học thực tiễn thì đạo đức học giữ vai trò là nền tảng và là mục đích cuối cùng bởi nó đã lý giải về bản chất con người hay nhằm giải thích câu hỏi lớn “con người là gì?” - đây là vấn đề cơ bản bao trùm toàn bộ hệ thống triết học của I.Cantơ. Cần khẳng định rằng, triết học I.Cantơ nói chung và đạo đức học của ông nói riêng có một vị trí đặc biệt trong lịch sử triết học phương Tây. Tính chặt chẽ trong hệ thống triết học của ông cùng với việc nghiên cứu con người như một chủ thể nhận thức, chủ thể hành động đã đưa nền triết học cổ điển Đức nói riêng và nền triết học phương Tây nói chung lên một tầm cao mới. Với những gì đã đóng góp cho lịch sử tư tưởng nhân loại đặc biệt là những tư tưởng về đạo đức. I.Cantơ xứng đáng được xem là một trong những tượng đài bất tử trong lịch sử tư tưởng triết học nhân loại. Đúng như Hêghen, trong tác phẩm “khoa học lô gíc” đã đánh giá, triết học I.Cantơ “là nền tảng và là điểm xuất phát của triết học Đức hiện đại; những hạn chế trong triết học của của ông không hề làm lu mờ công lao của triết học của ông” [4; 433]. Cùng với việc vạch ra những sai lầm của I.Cantơ, các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác đồng thời trong rất nhiều tác phẩm cũng đánh giá cao công lao của I.Cantơ. Ph.Ăngghen viết rằng : “Cantơ là người khởi xướng ra hai giả thuyết thiên tài, mà nếu không có hai giả thuyết này thì lý luận của khoa học tự nhiên ngày nay không thể tiến lên được, - thuyết về nguồn gốc của hệ thống mặt trời…và thuyết thủy triều làm giảm tốc độ quay của trái đất” [11; 492]. Rằng, với I.Cantơ “lần đầu tiên, cái quan niệm cho rằng giới tự nhiên không có lịch sử trong thời gian, đã bị lung lay”, “chính Cantơ là người đầu tiên đã phá vỡ cái quan niệm hoàn toàn thích hợp với phương pháp tư duy siêu hình đó và ông đã phá vỡ một cách hết sức khoa học đến mức là hiện nay phần lớn những lý lẽ của ông đã dùng để chứng minh vẫn có còn giá trị” [11; 85-86]. Tuy nhiên, việc đánh giá I.Cantơ, lĩnh hội triết học của ông một cách thực sự khách quan, chính xác và khoa học là điều hoàn toàn không dễ dàng, nếu không muốn nói là rất khó khăn. Cái khó không chỉ vì trong tư tưởng của I.Cantơ chứa đựng rất nhiều những vấn đề uyên bác, mới mẻ, phức tạp, đa dạng mà còn trong cuộc đời sáng tạo của ông đã từng có bước ngoặt lớn về mặt lập trường, quan điểm triết học. Nhưng chính điều đó đã tạo nên mảnh đất màu mỡ để các độc giả nghiên cứu về triết học của I.Cantơ cày xới tìm ra những gì là thuần túy, là chân lý nhằm góp phần làm phong phú thêm kho tàng lịch sử tư tưởng triết học nhân loại. Một trong số những người kế tục sự nghiệp của I.Cantơ là F.Schiller đã từng viết: “Đối với những người cuối cùng rồi cũng phải chết, cho tới ngày nay chưa có ai nói một câu cao thượng như Immanuel Kant và đó cũng là toàn bộ nội dung triết học của ông: “Tự tôi quy định”. Tư tưởng “Tự tôi quy định” vĩ đại đó đã chiếu rọi cho chúng ta. Nó phản ánh trong hiện tượng tự nhiên mà chúng ta gọi là đẹp” [15; 174]. Khi nghiên cứu về I.Cantơ - Roger Sullivan cũng đã thừa nhận trong phần mở đầu cuốn sách của ông “đạo đức học của I.Cantơ” rằng: “Hiểu được thuyết đạo đức của I.Cantơ có thể là một việc dễ nản lòng” [23; 613]. Các học giả và sinh viên ngành triết học đã và đang vật lộn với triết lý đạo đức của I.Cantơ, đôi khi chính họ cảm thấy lạc lối trong những lý luận của I.Cantơ. Nếu như toàn bộ triết học của I.Cantơ thấm đượm tinh thần nhân văn thì chính tính nhân văn đó biểu hiện sâu sắc nhất trong học thuyết của ông về đạo đức, bởi vì nơi ông, khát vọng đem lại cho con người cách nhìn mới mẻ hơn về thế giới và về chính bản thân con người hòa quyện với khát vọng thúc đẩy mạnh mẽ ý thức con người vươn tới đạo đức. Đối với ông, một trong những yêu cầu chủ yếu của đạo đức là phải coi con người là mục đích chứ tuyệt nhiên không được coi con người là phương tiện. Tư tưởng đó của I.Cantơ thể hiện ra như là những tư tưởng vượt thời đại nhằm hướng tới các giá trị toàn nhân loại. I.Cantơ - “một con người nhỏ” có “một tinh thần rộng lớn” với câu nói bất hủ “…bầu trời đầy sao trên đầu tôi và quy luật luân lý ở trong tôi”. Bên cạnh những đóng góp tích cực có ý nghĩa bước ngoặt của triết học I.Cantơ cho lịch sử tư tưởng triết học nói chung và đạo đức học nói riêng của cả nhân loại thì ở I.Cantơ vẫn còn có những hạn chế mang tính lịch sử nhất định. Tuy nhiên, để hiểu dễ dàng hơn và nắm vững hơn được phần nào những điều mà I.Cantơ thể hiện trong toàn bộ hệ thống triết học của ông nói chung và đạo đức học nói riêng thì việc nghiên cứu chúng trong hoàn cảnh lịch sử nhất định ở chính thời đại của ông đối với chúng ta là một việc nên làm và là cần thiết. Chúng ta đều thấy rằng, vào cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, khi mà chủ nghĩa tư bản đã được thiết lập và phát triển như vũ bảo với một trình độ tương đối cao ở hầu hết các nước Tây âu như: Anh, Pháp, Italia, Hà lan, Bồ đào nha…đem lại nền sản xuất phát triển chưa từng có trong lịch sử. Trong khi đó, nước Đức - trung tâm của Tây âu vẫn cứ duy trì chế độ phong kiến vốn đã lỗi thời và lạc hậu, chính điều đó đã làm cho tình hình nước Đức trở nên rất nghiêm trọng. Đúng như những gì mà Ph.Ăngghen đã nhận xét: “Không một ai cảm thấy dễ chịu. Thủ công nghiệp, thương nghiệp, công nghiệp và nông nghiệp đều bị giảm tới mức thấp nhất. Nông dân, người làm nghề thủ công, chủ xưởng chịu hai tầng đau khổ vì chính phủ ăn bám và vì tình hình làm ăn khó khăn. Giai cấp quý tộc và các ông hoàng thấy rằng mặc dù chúng đã bóp nặn đến cùng những thần dân của chúng, nhưng số thu của chúng cũng khó mà đuổi kịp số chi ngày càng tăng. Mọi việc đều bi đát và cả nước đều công phẫn. Không có giáo dục, không có những phương tiện tác động đến ý thức quần chúng, không có tự do báo chí, không có dư luận xã hội, không có cả đến sự buôn bán nhỏ nào với các nước khác. Không có gì cả ngoài sự đê tiện và ích kỷ. Tinh thần hám lợi, thấp hèn, hèn hạ thảm hại thấm nhuần trong toàn dân. Tất cả đều hư nát, lung lay, sắp sửa đổ và cũng không thể hy vọng được một sự thay đổi tốt, vì rằng trong dân tộc không có một lực lượng nào đủ sức để có thể dọn đi được cái tử thi đã rửa của chế độ lỗi thời ấy” [28; 6]. Chính bối cảnh xã hội phức tạp đã tác động sâu sắc đến nhà triết học vĩ đại I.Cantơ bởi ông là người đặt nền móng cho triết học cổ điển Đức, là người đầu tiên thấy được những gì tốt đẹp nhất cũng như xấu nhất trong xã hội mà ông đang sống. Trên tinh thần nhân đạo chủ nghĩa sâu sắc, nhân văn cao cả ông đã phê phán gay gắt xã hội chỉ có sự “đê tiện” và tính “ích kỷ”, ngoài ra không còn một cái gì khác. Ông nhận thấy, đây là một xã hội mà giá trị của con người được đo bằng quyền lực và địa vị xã hội. Một xã hội mà “người cai trị cần phải chuẩn bị sẵn sàng hành động phi đạo đức khi cần thiết” và “nếu thật thà giúp chúng ta đạt được cái gì đó, thì hãy làm người thật thà. Nếu cần phải lừa gạt thì hãy lừa gạt” [23; 614]. Với chế độ chuyên chế cai trị độc tài và hà khắc nên nhân phẩm, giá trị con người đã bị xuống cấp, sự tự do của con người không còn nữa, họ bị biến thành nô lệ và những “công cụ biết nói” đồng thời trở thành món hàng có thể trao đổi giữa các chủ nô với nhau trong chế độ xã hội phong kiến. Điều này, lý giải vì sao sự ra đời và phổ biến nhanh chóng của Kytô giáo vào đầu công nguyên lại được xem như sự giải thoát tinh thần và ngay từ đầu nó là thế giới của người nghèo, của giai cấp bị áp bức, là sự tuyên truyền cho lối sống bình đẳng, dân chủ, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn…chính bản thân I.Cantơ cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc của Kytô giáo. Hơn nữa, I.Cantơ sống trong thời kỳ mà triết học đã trở nên phức tạp hơn rất nhiều, một số nhà khoa học nổi tiếng Galilê, Niutơn, Đềcáctơ và cả những người khác đã phát triển một ngành khoa học mới cho rằng vũ trụ giống như một cổ máy do các quy luật tự nhiên điều khiển. Và nếu như vũ trụ là do các quy luật tự nhiên điều khiển thì nó chẳng có ý nghĩa và giá trị gì. Theo quan điểm này thì con người không hơn gì các sự vật khác là đều bị các quy luật tự nhiên quyết định và điều khiển. Điều này dẫn đến một vấn đề lớn sẽ xảy ra, đó là sẽ không bao giờ có sự tồn tại của cái gọi là trách nhiệm hay đạo đức. Sống trong một xã hội đầy rẫy sự bất công và bất bình đẳng như vậy, I.Cantơ đã chủ trương xây dựng một triết thuyết đạo đức cấp tiến để chống lại sự độc tài và hà khắc của chế độ phong kiến, nhằm bảo vệ nhân quyền và tự do cho những con người có thân phận thấp kém, những người “thấp cổ bé họng” trong xã hội. I.Cantơ cũng muốn gửi một thông điệp tới những người bị áp bức, bị bóc lột để nhắc nhở đến thân phận của họ hơn là để họ ngây thơ tin tưởng và chấp nhận một vị trí thấp hèn trong xã hội. Có thể khẳng định rằng, trong một xã hội có hoàn cảnh ngột ngạt và bức bối như nước Đức lúc bấy giờ, khi mà thực trạng xã hội dường như đối lập hoàn toàn với mong muốn và nguyện vọng của con người thì về phương diện ý thức, con người hơn bao giờ hết càng khao khát và đòi hỏi được giải phóng cả trên bình diện thể xác lẫn tinh thần, được sống sao cho đúng với bản chất chân chính của mình. Cho nên cũng dễ hiểu tại sao, cùng với mối quan hệ mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và chế độ phong kiến là hàng loạt các cuộc đấu tranh liên tiếp nổ ra trong suốt thế kỷ XVIII với mục đích hướng tới sự tự do của con người. Đó là sự tự do thoát khỏi những giới hạn và khuôn khổ do cơ cấu xã hội phong kiến đặt ra cho nó. Ở đây, I.Cantơ đã có cái nhìn giống như Rútxô “con người sinh ra tự do nhưng ở khắp mọi nơi lại bị xiềng xích” [29; 136]. Vì vậy, I.Cantơ đã kêu gọi mọi người hãy ý thức về bản ngã và sự tự do của mình thông qua các hành động tự quyết. Đây là một đóng góp rất quan trọng của ông trong đạo đức học, nhưng vấn đề này không phải đến I.Cantơ mới được xem xét và luận bàn mà ngay ở thời kỳ cổ đại cũng đã có một số nhà triết học bàn tới như Prôtago, Đêmôcrít, đặc biệt là Xôcrát với luận điểm nổi tiếng “con người hãy tự nhận thức chính mình” [17; 172]. Con người hãy tự ý thức trong các hành động của mình để đạt được mục tiêu đạo đức cao nhất - đó chính là cái thiện phổ quát. Đối với I.Cantơ cũng vậy, ông hướng con người tới tự do, sự tự trị trong các hành động của mình và con người cần phải biết tuân theo “mệnh lệnh tuyệt đối” - nguyên tắc tối cao giữ vị trí trung tâm của đạo đức học, chỉ có như vậy con người mới thực sự có tự do và sống đúng với bản chất của mình. “Mệnh lệnh tuyệt đối” là mệnh lệnh xuất phát từ tiếng gọi của lương tri con người, nó tiềm ẩn trong trái tim, khối óc, nó mang tính phổ quát, tất yếu và thường được phát biểu dưới dạng “hãy làm như…” mà không cần kèm theo bất kỳ điều kiện nào. Nói cách khác, mệnh lệnh tuyệt đối thể hiện khả năng tự chủ của con người, khả năng tự do ý chí mà không có tính vụ lợi, không có sự tính toán thiệt hơn. Đúng vậy, nếu cứ theo mệnh lệnh này thì mỗi người phải hành động thế nào để những quy tắc hành động của mình có thể trở thành nguyên lý chung cho tất cả mọi người. Với ông, ý chí tự do của con người phải trở thành quy luật phổ quát, theo ông mọi người cần phải thực hiện ý chí tự do thông qua các hành động tự quyết của mình, vì “hành vi đích thực đạo đức là hành vi mà trong đó, con người và loài người thực hiện như mục đích tuyệt đối, như giá trị tự thân” [10; 45]. Vì thế, giá trị đạo đức đích thực của con người nằm trong mục đích tự nó và ông còn nói: hãy hành động như anh cần nhân loại, trong bản thân anh cũng như trong mỗi con người, mọi lúc chỉ là mục đích chứ không bao giờ chỉ là phương tiện. Không chỉ dừng lại ở việc đề cao giá trị nhân loại trong con người và tôn trọng phẩm giá của con người nói chung mà ông còn đề cao ngay chính bản thân của từng con người, bởi con người là “mục đích của chính mình” và là “mục đích cuối cùng của mọi mục đích” [5; 451]. I.Cantơ còn chỉ ra rằng: chỉ có con người mới trở thành lý tưởng của cái đẹp, trong tất cả mọi tồn tại của thế giới chỉ có con người trong diện mạo của nó với tư cách là một tồn tại biết suy nghĩ mới trở thành lý tưởng của sự hoàn thiện; mọi hành động của loài người phải xuất phát từ mục đích của con người, mà mục đích cao nhất của con người chính là tự do, tự chủ bởi con người lệ thuộc vào người khác thì không còn là người nữa. Anh ta đã đánh mất danh hiệu của mình và trở thành nô lệ của người khác…mà nô lệ là cái ác lớn nhất trong bản thân con người. Như vậy, con người là chủ thể của nhân cách, đồng thời là chủ thể của hành động, là mục đích cao nhất của tự nhiên. Qua đó, một lần nữa ông khẳng định con người có mục đích tự thân, nghĩa là không có một ai có thể sử dụng nó như một phương tiện nếu không vì mục đích của chính con người. Khi khẳng định giá trị tuyệt đối của con người và thể hiện rõ phạm trù tự do ý chí cũng như sự tự ý thức trong các hành động của con người, đạo đức của I.Cantơ đã thể hiện được những tư tưởng nhân văn sâu sắc. Chính điều này đã có ảnh hưởng sâu sắc đến nền triết học phương Tây, nhưng đặc biệt là Hêghen. Trên tinh thần phê phán, Hêghen đã thấy được điểm tích cực cũng như hạn chế trong tư tưởng của I.Cantơ về đạo đức học. Nhất là khi kế thừa tư tưởng của I.Cantơ về giá trị và nhân phẩm con người, Hêghen đã bác bỏ quyền sở hữu đối với nô lệ, bởi ông không đồng ý khi I.Cantơ cho rằng, con người là một “chủ thể tư duy”. Tuy nhiên trên tinh thần phê phán đạo đức học của I.Cantơ, ông cũng đã cho rằng, I.Cantơ đã tách rời thế giới đạo đức với thế giới thường nghiệm, vì thế đã không làm rõ được tính thống nhất của hành động. Cái “phải làm” của I.Cantơ là trừu tượng, chủ quan, phi lịch sử và thiếu “nội dung thực chất” - đây cũng là hạn chế lớn nhất của I.Cantơ trong tư tưởng về đạo đức học, vì xuất phát từ thế giới quan duy tâm chủ quan nên đạo đức học của I.Cantơ đã tuyệt đối hóa vai trò của lý tính, ý chí thuần túy của con người là nguyên tắc của hoạt động. Và như vậy, nó đã không đề cập đến hoàn cảnh và hiệu quả của hành vi đối với bản thân chủ thể hành động và xã hội. Hiểu thực tiễn là hoạt động đạo đức, hoạt động chính trị, pháp quyền, văn hóa…chứ không phải là toàn bộ thực tiễn sản xuất của con người mang tính lịch sử - xã hội nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội, nên dẫn đến hệ quả là đạo đức của I.Cantơ đã xa rời với cuộc sống hiện thực, không triệt để và mãi mãi chỉ nằm trong ý tưởng mà thôi. “Mệnh lệnh tuyệt đối” của I.Cantơ cho rằng: con người hãy hành động đến mức tối đa sao cho ý chí hành động của mình trở thành nguyên tắc phổ biến. Đây là sự thể hiện sâu sắc lập trường nhân đạo chủ nghĩa của ông. Thế nhưng, trong một xã hội có giai cấp thì những giai cấp khác nhau cùng tồn tại sẽ có những nhận định khác nhau về một pháp chế phổ biến và đều cố gắng để đạt được mục đích khác nhau, vì thế cũng có những quan điểm khác nhau về đạo đức, cho nên mệnh lệnh tuyệt đối về sau đã bị nhiều tư tưởng của giai cấp thống trị lợi dụng và xuyên tạc. Trong số này, có cả những người theo chủ nghĩa Cantơ mới, họ đã khẳng định, những người lao động trong hoạt động của mình không được hưởng theo lợi ích và nhu cầu mà phải phục tùng những quy tắc “phổ biến” nhưng trên thực tế là phục tùng lợi ích của giai cấp thống trị. “Mệnh lệnh tuyệt đối” hay “mệnh lệnh đạo đức” của I.Cantơ yêu cầu rằng, ta phải tuân theo nghĩa vụ đạo đức không phải vì bất cứ một mục đích bên ngoài nào, mà chỉ vì chính ngay bản thân cái “nghĩa vụ” trừu tượng ấy. Tỉ dụ, nếu tôi giúp bạn tôi vì tôi yêu anh ta, hoặc tôi cứu anh ta vì thương anh ta, thì theo I.Cantơ như vậy là tôi không làm một hành vi đạo đức chân chính vì rằng quy tắc hành động của tôi có thể trở thành một nguyên lý pháp chế phổ biến. Vì vậy, I.Cantơ đã gắn quy tắc đạo đức học xây dựng một cách giả tạo của ông với một loạt định lý, với tư cách là những giả thuyết tất yếu mà lý tính thực tiễn yêu cầu. Định lý thứ nhất, là sự tự do của ý chí con người. I.Cantơ đã lập luận rằng: nếu như con người không được tự do trong việc tuân theo tiếng nói của quy tắc đạo đức, thì có nghĩa quy tắc này chẳng còn cơ sở và ý nghĩa gì cả. Nhưng ông nói tiếp rằng con người sẽ không thể hy vọng đạt được lý tưởng đạo đức và hạnh phúc thật sự trong cuộc đời của mình. Từ đó, ông đưa ra định lý thư hai, là cần thiết phải giả định có linh hồn bất tử, nghĩa là có thể có sự thưởng phạt sau khi người ta chết đi. Điều này thể hiện rõ rệt lập trường thần học và lập trường giai cấp của ông: anh hãy chịu đựng và ngoan ngoãn trong đời sống, hãy nhẫn nhục chịu đựng mọi sự bất công trong xã hội, nhưng đừng quên thực hiện “nghĩa vụ” công dân của mình. Và điều này đã được C.Mác và Ph.Ăngghen nhận xét như sau: “Ở đây I.Cantơ chỉ thỏa mãn với cái ý chí tốt thôi, dù ý chí ấy không mang lại kết quả cụ thể nào, và ông chuyển việc thực sự thực hiện ý chí tốt ấy, chuyển sự hòa hợp giữa ý chí tốt với những nhu cầu và ham muốn của các cá nhân, sang thế giới bên kia” [28; 71]. Và I.Cantơ đi đến định lý thứ ba, ông giả định có một thứ nguyên nhân tối cao của cái hạnh phúc toàn hảo là đảm bảo cho việc xử trí công bằng ở thế giới bên kia. Theo I.Cantơ, nguyên nhân tối thượng ấy chính là Thượng đế, thành ra tôn giáo không được chứng minh ở lý tính lý luận thì lại được khẳng định ở lý tính thực tiễn. Lý luận về mệnh lệnh tuyệt đối của I.Cantơ rõ ràng là đối lập với đạo đức học duy vật, vì ông đã thừa nhận rằng: “Tôi đã phải hạn chế lĩnh vực tri thức để dành chỗ cho tín ngưỡng” [28; 50]. Ông cho rằng có sự tồn tại của Thượng đế, linh hồn bất tử trong thế giới đạo đức của con người. Vì xuất phát từ lập trường nhị nguyên luận mà I.Cantơ đã thể hiện thái độ thỏa hiệp với tôn giáo. Tuy nhiên, ông cũng có đóng góp tích cực vào việc chống lại sự phân chia đẳng cấp trong xã hội phong kiến, yêu cầu giải phóng con người khỏi xiềng xích phong kiến. Khi so sánh nhận thức với đạo đức học của I.Cantơ, chúng ta sẽ thấy bộc lộ rõ ràng tính chất hai mặt và mâu thuẫn bên trong triết học của ông đó là: nếu như nhận thức của con người bị hạn chế trong khuôn khổ của thế giới hiện tượng luận và không thể xâm nhập được vào thế giới siêu nghiệm, thì trong địa hạt đạo đức con người lại buộc phải xuất phát từ chỗ thừa nhận có Thượng đế, có linh hồn bất tử và ý chí tự do (không phụ thuộc vào các động cơ). Trong nhận thức, chủ thể xuất phát từ thế giới bên này - thế giới hiện tượng luận, thường nghiệm; còn trong hoạt động thực tiễn, chủ thể lại xuất phát từ thế giới bên kia - thế giới “vật tự nó”, siêu nghiệm, sự tồn tại của thế giới siêu nghiệm nói chung là không thể chứng minh được mà chỉ có thể là “đối tượng của tín ngưỡng”. Mặc dù, chủ yếu là duy tâm có tính chất ảo tưởng khi khẳng định: đạo đức và sinh hoạt thực tiễn nói chung nếu đúng bản chất con người, thì chỉ xảy ra thuần túy bên trong ý thức tiên nghiệm, nhưng đạo đức học của I.Cantơ đã dự cảm được vai trò to lớn của thực tiễn đạo đức đối với mọi mặt của

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTrietHoc1031.doc
Tài liệu liên quan