Tài liệu Đề tài Tìm hiểu cơ sở lý luận chung về vấn đề du lịch môi trường: LỜI MỞ ĐẦU
Du lịch ngày nay đã trở thành một ngành kinh tế phát triển nhanh và chiếm vị trí quan trọng trong cơ cấu kinh tế của nhiều quốc gia. Việt Nam là một nước được biết đến với các danh lam thắng cảnh nổi tiếng được thế giới công nhận là di sản văn hoá thế giới: Vịnh Hạ Long, Phong Nha, Kẻ Bàng, Thánh Địa Mĩ Sơn, Cố Đô Huế, Phố Cổ Hội An, Nhã Nhạc Cung Đình Huế, . . . Cùng với điều kiện tự nhiên phong phú và đa dạng. Nằm trên bán đảo Đông dương ở Đông Nam Á, về đường thuỷ Việt Nam thuận tiện về địa lý là điểm gặp giữa Thái BìnhDương và Ấn Độ Dương. Về đường bộ phía Bắc Việt Nam tiếp giáp nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa; phía tây tiếp giáp hai nước Lào và Campuchia; phía Đông và Nam tiếp giáp biển Đông và Vịnh Thái Lan. Tổng chiều dài đường biển trên đất liền của Việt Nam là trên 3. 730 km, thuận lợi cho phát triển du lịch nghỉ biển và du lịch sinh thái như :Bãi Cháy- Hạ Long, biển Thiên Cầm- Hà Tĩnh, Cửa Lò- Nghệ An, Vũng Tàu, Nha Trang- Khánh Hoà, biển Phan Thiết. . . Bên cạnh...
35 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1263 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Tìm hiểu cơ sở lý luận chung về vấn đề du lịch môi trường, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Du lịch ngày nay đã trở thành một ngành kinh tế phát triển nhanh và chiếm vị trí quan trọng trong cơ cấu kinh tế của nhiều quốc gia. Việt Nam là một nước được biết đến với các danh lam thắng cảnh nổi tiếng được thế giới công nhận là di sản văn hoá thế giới: Vịnh Hạ Long, Phong Nha, Kẻ Bàng, Thánh Địa Mĩ Sơn, Cố Đô Huế, Phố Cổ Hội An, Nhã Nhạc Cung Đình Huế, . . . Cùng với điều kiện tự nhiên phong phú và đa dạng. Nằm trên bán đảo Đông dương ở Đông Nam Á, về đường thuỷ Việt Nam thuận tiện về địa lý là điểm gặp giữa Thái BìnhDương và Ấn Độ Dương. Về đường bộ phía Bắc Việt Nam tiếp giáp nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa; phía tây tiếp giáp hai nước Lào và Campuchia; phía Đông và Nam tiếp giáp biển Đông và Vịnh Thái Lan. Tổng chiều dài đường biển trên đất liền của Việt Nam là trên 3. 730 km, thuận lợi cho phát triển du lịch nghỉ biển và du lịch sinh thái như :Bãi Cháy- Hạ Long, biển Thiên Cầm- Hà Tĩnh, Cửa Lò- Nghệ An, Vũng Tàu, Nha Trang- Khánh Hoà, biển Phan Thiết. . . Bên cạnh đó thì Việt Nam còn có một hệ Sinh thái rừng nguyên sinh còn chưa được khai thác như Cúc Phương- Ninh Bình, Pù Mát - Nghệ An, . . . Việt Nam đã và đang là điểm đến lý tưởng của bạn bè du khách quốc tế. Để làm được điều đó thì Việt Nam dần đần đẩy mạnh đầu tư và nâng cấp hạ tầng cơ sở du lịch ngày càng tốt hơn, hoàn thiện hơn. Một trong những biện pháp cơ bản để thu hút khách du lịch là tạo ra các sản phẩm dịch vụ hấp dẫn đáp ứng nhu cầu và sở thích của du khách, tuy nhiên nếu sản phẩm hấp dẫn nhưng môi trường du lịch kém thì không tạo được nền tảng vững chắc cho sự phát triển của hoạt động du lịch. Môi trường du lịch ở đây được hiểu như một khái niệm rộng gồm: môi trường tự nhiên và văn hoá du lịch. Trong những năm qua cùng với sự phát triển của ngành du lịch nước nhà, chúng ta đã làm đươc khá nhiều việc, tuy nhiên bên cạnh những mặt tích cực cũng còn tồn tại nhiều vấn đề cần phải giải quyết như nạn ô nhiễm môi trường tự nhiên tại các điểm du lịch, một số tệ nạn ăn xin, trộm cắp, đeo bám khách mua hàng.. . vẫn chưa được giải quyết triệt để. Điều này làm giảm hình ảnh của Việt Nam - một đất nước tươi đẹp và hiếu khách trong con mắt du khách quốc tế.
Chính vì mục đích muốn truyền tải một phần nào đấy về tình hình môi trường du lịch hiện nay ở Việt Nam. Đề tài xoay quanh vấn đề về bảo vệ môi trường du lịch hiện nay ở nước ta, đã làm được gì và chưa làm được gì? Từ đó đưa ra các giải pháp nhằm hạn chế phần nào những ảnh hưởng xấu đến môi trường dulịch nói riêng và môi trường kinh tế xã hội nói chung. Do hạn chế về mặt kiến thức và tài liệu có hạn cho nên đề tài chỉ phản ánh được tình hình môi trường du lịch ở Thành phố Hà Nội và một số tỉnh phía Bắc hiện nay ở Việt Nam. Thủ đô Hà Nội - thành phố vì hoà bình đã và đang trở thành điểm đến hấp dẫn, thu hút ngày càng đông du khách trong nước và quốc tế. Trong tháng 8 đầu năm 2004, Hà Nội đã đón 600. 000 khách quốc tế, tăng 32% so với cùng kỳ năm ngoái, doanh thu du lịch đạt 3200 tỷ đồng. Những kết quả đó phần nào khẳng định vai trò quan trọng của ngành Du lịch Hà Nội trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội hướng tới xây dựng Du lịch Hà Nội thành du lịch văn hoá, du lịch sạch, chủ trương của lãnh đạo ngành du lịch Hà Nội là tăng cường kiểm soát việc chấp hành các quy định của nhà nước về phòng chống tệ nạn xã hội và tăng cường bảo vệ môi trường du lịch, hướng tới phát triển bến vững.
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VẤN ĐỀ DU LỊCH MÔI TRƯỜNG
Khái niệm chung về du lịch và môi trường
Như chúng ta đã biết rằng để phát triển du lịch thì điều kiện đầu tiên không thể thiếu là tài nguyên thiên nhiên. Trong đó thì môi trường tự nhiên như môi trường nước, không khí, đất đai đồi núi là yếu tố chính nhằm đem đến sự thoả mãn cho du khách du lịch. Theo luật bảo vệ môi trường của nước ta công bố ngày10/1/1994: Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và thiên nhiên. Khi du lịch ngày càng phát triển thì đồng nghĩa với tác động không nhỏ đến môi trường tự nhiên như suy thoái đât đai, nguồn nước, cảnh quan tự nhiên sẽ bị phá vỡ, dần dần thì vẻ đẹp tự nhiên của nó sẽ không còn nữa và thay vào đó là các hệ thống xử lý rác thải mà thôi.
1. 1. 1. Du lịch sinh thái (hay con gọi là du lịch tự nhiên) đây là loại hình du lịch ngày càng được ưa chuộng và phát triển với tốc độ nhanh trên phạm vi toàn thế giới. Theo định nghĩa của Hiệp hội Du lịch sinh thái thế giới (Ecotorism society): "Du lịch sinh thái là du lịch có trách nhiệm với các khu thiên nhiên, là nơi bảo tồn môi trường và cải thiện phúc lợi cho nhân dân địa phương". Cùng với khai thác tài nguyên du lịch thì con người phải quan tâm đến sự tồn tại và phát triển cuả môi trường tự nhiên bằng các biện pháp lâu dài. Khi mà khoa học công nghệ ngày càng phát triển, sự ra đời của các loại máy móc thì mặt trái của vấn đề ô nhiễm môi trường và suy thoái hệ sinh khí quyển ngày càng cao. Làm cho tài nguyên du lịch ngày bị cạn kiệt, mất đi thẩm mĩ của nó. . . Loại hình du lịch sinh thái thực chất là loại có quy mô không lớn, nhưng có tác dụng hoà nhập với môi trường tự nhiên ở điểm du lịch, khu du lịch và nền văn hoá ở đó. Chính loại hình du lịch nay Tổ chức Du lịch thế giới đã khẳng định đối với các hoạt động du lịch nhằm đáp ứng nhu cầu hiện tại của du khách cùng người dân ổ vùng có du khách đến tham quan, nghỉ dưỡng vv. . . đồng thời chú trọng việc tôn tạo nhằm bảo tồn các nguồn tài nguyên du lịch để có điều kiện phát triển hoạt động của du lịch trong tương lai.
Loại hình du lịch sinh thái có nhiệm vụ: bảo tồn tài nguyên của môi trường tự nhiên; bảo đảm đối với du khách về các đặc điểm của môi trường tự nhiên mà họ đang chiêm ngưỡng ;thu hút tích cực sự tham gia của cộng đồng dân cư địa phương trong việc quản lý bảo vệ và phat triển du lịch đang triển khai thực hiện trong điểm du lịch, khu du lịch vv. . . Qua các yêu cầu nhiệm vụ đề ra nói lên loại hinh du lịch sinh thái vừa bảo đảm sự hài lòng đối vơí du khách ở mức độ cao để tạo lập sự hấp dẫn đối với họ, đồng thời qua du khách quảng bá uy tín của điểm du lịch, khu du lịch. Từ đó ngành du lịch có điều kiện bảo đảm và nâng cao hiệu quả của hoạt động du lich và cũng là cơ hội tăng thu nhập từ hoạt động du lịch đối với các nhóm dân cư trong cộng đồng địa phương, cũng tức là có điều kiện thuận lợi về xã hội hoá thu nhập từ du lịch. Cho đến nay vẫn chưa có sự xác định hoà hảo về loại hình du lịch sinh thái. Loại hình du lịch này quả vẫn còn mới mẻ, mặc dù những năm 1997-1998 Tổ chức Du lịch thế giới và Liên Hợp Quốc đã nêu một số quan điểm chuyển mạnh sang loại hình du lịch sinh thái phù hợp với điều kiện mới của sự phát triển du lịch. Nói chung du lịch sinh thái là loại hình du lịch dựa vào những hình thức truyền thống sẵn có, nhưng có sự hoà nhập vào môi trường tự nhiên và nền văn hoá bản địa, du khách có thêm những nhận thức về đặc điểm của môi trường tự nhiên, về nhưng nét đặc thù vốn có văn hoá cổ điển, vùng, khu du lịch và có phần trách nhiệm tự giác để không xảy ra những tổn thất, xâm hại đối với môi trường tự nhiên và nền văn hoá sở tại.
1. 1. 2. Phát triển bền vững trong du lịch.
Theo Hội đồng Thế giới về Môi trường và phát triển thì "Phát triển bền vững là sự phát triển đáp ứng nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại khả năng của các thế hệ tương lai trong đáp ứng các nhu cầu của họ". Sự phát triển của một quốc gia phải được đảm bảo một cách thống nhất và đồng thời trên 3 mặt: kinh tế, xã hội và môi trường. Bền vững về kinh tế thể hiện một cách khái quát ở sự ổn định và không ngừng gia tăng sức sản xuất của quốc gia, thông thường được hiển thị bằng chỉ tiêu tổng sản phẩm quốc gia trên đầu người (GDP/người). Bền vững ở xã hội thể hiện ở sự phân chia thu nhập và phúc lợi xã hội, thông thường đươc hiển thị bằng tính công bằng trong phân bố các tầng lớp giàu nghèo trong xã hội. Bền vững về môi trường thể hiện ổ sự sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên và điều kiện môi trường xã hội, phục vụ nhu cầu các thế hệ hiện tại mà vẫn để lại cho các thế hệ tương lai nhưng tài nguyên và điều kiên môi trường cần thiết cho sự phát triển của họ. Ngày nay song song với việc phát triển du lịch là đi đôi với việc tàn phá môi trường tự nhiên xung quanh. Những việc phá hoại môi trường này chỉ đem lại cho quốc gia và doanh nghiệp một chút ít lợi ích trước mắt, còn về lâu dài đây chính là mối nguy hại đe doạ đến sự sống còn của môi trường, từ năm 1990 ý nghĩa của việc phát triển du lịch môi trường, một xu thế phát triển lâu dài đã được biết tới. Cho nên chủ trương của Tổng cục du lịch Việt Nam hiên nay khuyến khích các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành tập trung vào phát triển du lịch bền vững hay còn gọi "du lịch sinh thái ", " du lịch xanh". Ở đây hàm hai ý nghĩa, một là khái niệm về tính" liên tục", hai là khái niệm về tính" bảo tồn ". Để làm được điều đó thì phải có chiến lược lâu dài về việc bảo vệ môi trường xã hội nói chung và môi trường du lịch nói riêng. Nhưng trên thực tế cho thấy, phát triển bền vững đòi hỏi phải bảo vệ tài nguyên thiên nhiên cho sản xuất lương thực, chất đốt trong khi vẫn mở rộng sản xuất để đáp ứng nhu cầu của số dân tăng nhanh, hay ngày càng nhiều công trình kiến trúc mọc lên ngay khu bảo tồn thiên nhiên thì thật là mâu thuẫn. Khi mà diện tích đất hoang dã, đất không thích hợp cho con người sử dụng tiếp tục tăng, thu hẹp địa bàn cư trú của các loài hoang dã. Các rừng nhiệt đới, hệ sinh thái, rạng san hô, rừng ngập mặn ven biển, các bãi biển và nhiều địa bàn cư trú duy nhất khác đang bị phá huỷ dẫn đến nguy cơ diệt chủng của một số loài.
Tóm lại, phát triển du lịch môi trường bao gồm các yếu tố như sau: khai thác và phát triển tài nguyên, bảo tồn sinh thái, khống chế sự thay đổi của môi trường sinh thái đồng thời bảo vệ duy trì cân bằng môi trường tự nhiên, đồng thời khôi phục những nguồn tài nguyên đã bị huỷ hoại. Tức khi có mục tiêu phát triển một khu du lịch nào đó, chúng ta phải xây dựng kế hoạch phát triển dựa trên những đặc trưng thế mạnh của khu vực đó, đồng thời phải có quyết định đúng đẳn trong việc có ứng dụng những yếu tố trên.
1. 2. Các tác động của hoạt động du lịch đến tài nguyên và môi trường.
Tác động của hoạt động du lịch đến môi trường sẽ có thể dẫn đến những hậu quả làm thay đổi đặc điểm sử dụng tài nguyên, hay đặc tính của môi trường. Đầu tiên là tác động đến tài nguyên thiên nhiên; phát triển du lịch và các hoạt động có liên quan góp phần làm cho các tài nguyên thiên nhiên bị xuống cấp về mặt môi trường. Đó là hậu quả của việc sử dụng đất đai, xây dựng các cơ sở dịch vụ du lịch và các hoạt động liên quan đến việc vận hành và bảo dưỡng các công trình du lịch cần thiết để duy trì các hoạt động giải trí cho du khách. Tác động về môi trưòng về hoạt động du lịch đối với tài nguyên thiên nhiên được thể hiện một cách rõ nét nhất là những bộ phân: tài nguyên nước, tài nguyên không khí, tài nguyên đất, tài nguyên sinh học. Tác động đến tài nguyên nước. Việc phát triển cơ sở vật chất du lịch chủ yếu tập trung vào xây dựng các công trình dịch vụ phục vụ nhu câù của du khách. Có thể phân loại các tác động về môi trườngcủa hoạt động này đối với tài nguyên nước ra làm: tác động trước mắt và tác động lâu dài. Tác động trước mắt được thể hiện ngay trong giai đoạn xây dựng, còn tác động lâu dài thường là do việc vận hành và bảo dưỡng các công trình du lịch. Những tác động trước mắt bao gồm: việc thải bừa bãi các vật liệu xây dựng, đất đá và các vật liệu nạo vét, đặc biệt là những nơi chặt phá rừng ngập mặn, làm cho chất lượng nước giảm đi rât nhiều. Việc giải phóng mặt bằng và san ủi đất để xây dựng các công trình và làm đường có thể sẽ gây ra xói mòn và sụt lở đất, ảnh hưởng trực tếp đến chất lượng nước mặt. Các hoạt động trong quá trình xây dựng sẽ làm ô nhiễm nguồn nớc, do việc vứt rác và đổ rác bừa bãi vào các nguồn nước, cũng như thái một lượng xăng dầu nhất định trong quá trình vận hành các thiết bị xây dựng. Một số tác động lâu dài bao gồm, đất bị sụt lở hoặc rác rưởi trôi dạt sẽ làm tăng thêm lượng bùn và các chất cặn, vì thế mà chất lượng nguồn nước kém đi. Một hậu quả đáng kể là xói mòn, nhiễm bẩn bởi nước thải, ô nhiễm nước mặt bởi rác rưởi và các thứ khác. Nước thải chưa được xử lý tốt vì không có hoặc không đủ thiết bị xử lý, hoặc thiết bị làm việc không đảm bảo chất lượng, do đó tác động lâu dài đến chất lượng nước ngầm cũng như nước mặt. Hoạt động của du khách cũng là nguyên ngân gây nên ô nhiễm nguồn nước như vứt rác bừa bãi ( khi qua phà ) đổ các chất lỏng. . .
Thứ hai là tác động đến tài nguyên không khí. Bụi và các chất gây ô nhiễm không khí xuất hiện chủ yếu là do hoạt động giao thông, do sản xuất và sử dụng năng lượng. Tăng cường sử dụng giao thông cơ giới là nguyên nhân đáng kể gây nên bụi bặm và ô nhiễm không khí. Trạng thái ồn ào phát sinh do việc tăng cường sử dụng các phương tiện ồn ào như thuyền, phà gắn máy, xe máy. . . cũng như hoạt động của du khách tại các điểm dịch vụ du lịch như ở các sàn nhảy. . . tạo nên hậu quả trước mắt và lâu dài. Tiếp theo phải kể đến đó là tác động đến tài nguyên đất, khi một số khu vực tự nhiên có giá trị như bãi tắm, cánh rừng xanh trong nhiều trường hợp bị ngăn lại không cho dân địa phương vào vì chúng trở thành tài sẳn riêng của khách sạn hoặc tư nhân kinh doanh ngành du lịch. Phát triển du lịch kéo theo việc xây dựng kết cấu hạ tầng khách sạn và các công trình dịch vụ du lịch. Điều này tất yếu dẫn đến việc xâm lấn những diện tích đất trước đây trồng trọt và chăn nuôi. Đây là bước chuyển đổi dạng sử dụng đất với hiệu quả sử dụng cao hơn, nhưng lại làm giảm đi quỹ đất nông nghiệp. Tác động đến tài nguyên sinh vật như : ô nhiễm môi trường sống, cùng với việc mất đi cảnh quan tự nhiên, những khu đất trồng trọt và chăn nuôi là nguyên nhân làm cho một số loài thực vật và động vật dần dần bị mất nơi cư trú. Một số hoạt động thái quá của du khách như chặt cây, bể cành, săn bắn chim thú tại những khu rừng tự nhiên cũng là nguyên nhân làm giảm sút cả số lượng và chất lượng sinh vật trong phạm vi khu du lịch. Trong môi trường bảo tồn dã thú, việc vứt rác bừa bãi gây tác động trực tiếp đến cuộc sống trước mắt cũng như lâu dài của các loaì động vật; nhiều khi còn ảnh hưởng đến sức khỏe của nhân viên phục vụ cũng như du khách đến khu du lịch bởi các dịch bệnh phát sinh từ các chất thải không được xử lý. Hoạt động của du khách có tác động lớn đến các hệ sinh thái. Các hoạt động du lịch dưới nước như nhặt sò. ốc, khai thác san hô làm đồ lưu niệm, đi trên bãi đá ngầm, đứng trên bãi san hô và thả neo tại những bãi san hô, nơi sinh sống của các loại sinh vật dưới nước cũng sễ bị huỷ hoại. Các khu rừng nguyên sinh đặc biệt dễ bị tổn thương khi có nhiều du khách. Những hoạt động như sự đi lại của xe, giẫm đạp lên cỏ, hái hoa quả bừa bãi, c hặt cây laeo núi ồ ạt vv. . . làm mất dần nhiều loại động thực vật. Ở các khu bảo tồn thú hoang dã, hoạt động của các đoàn xe và khách du lich cũng có ảnh hưởng xấu đến môi trường sống làm cho sự yên tĩnh bị mất đi, các sinh vật phải thay đổi tập tính, trở nên sợ sệt, thậm chí nhiều con thú bị chết vì tai nạn do con người gây ra.
Mặt khác du lịch cũng là yếu tố không nhỏ tác động đến cộng đồng dân cư sở tại. Bởi vì du lịch là tổng thể của những hiện tượng và những mối quan hệ phát sinh do sự tác động qua lại giữa khách du lịch, người kinh doanh du lịch, chính quyền sở tại và cộng đồng dân cư địa phương và thu hút kháhc du lịch. Các chủ thể này tác động qua lại lẫn nhau trong mối quan hệ với các hoạt động du lịch mà du khách là trung tâm. Đối với công đồng dân cư địa phương, du lịch là một cơ hội để tìm việc làm, tạo thu nhập; đồng thời họ cũng là những nhân tố hấp dẫn khách du lịch bởi lòng hiếu khách và phong tục tập quán, bản sắc văn hoá. Mặt khác, cộng đồng dân cư nơi khác đến du lich cũng chịu tác đông nhiều chiều của hoạt động du lịch. Cộng đồng được hiểu là một nhóm dân cư cùng sinh sống trên một lãnh thổ qua nhiều thế hệ và có những đặc điểm chung về sinh hoạt và văn hoá truyền thống, sự dụng các nguồn tài nguyên, môi trường. Cộng đồng là nền tảng của phát triển xã hội, cuôc sống của cộng đồng dựa trên viêc khai thác tài nguyên nơi mình sinh sống cùng với việc phát triển các phong tục, tập quán riêng mang dậm bản sắc của mỗi cộng đồng. Việc khai thác càng tăng trong sự phát triển chung, vì vậy tác động và ảnh hưởng của nó ở các mức độ khác nhau đên cuộc sống cộng đồng dân cư cũng ngày một gia tăng.
Tác động của du lịch lên cộng đồng có cả mặt tích cực và tiêu cực. Trong bài viết này nhấn mạnh đến tác động không thuận. Trong một số các dự án phát triển du lịch, người dân địa phương bị buôc phải rời khỏi nơi cư trú và rời bỏ các ngành nghề truyền thống gắn bó với họ qua nhiều thế hệ. Cộng đồng dân cư địa phương sẽ không được chia sẻ hoặc chia sẻ không thoả đáng lợi nhuận từ việc phát triển du lịch
Nếu như các nhà kinh doanh không tuân thủ theo nguyên tắc phát triển du lịch bền vững. Những mâu thẫn xã hội sẽ được nay sinh giữa các thành viên của cộng đồng do có sụ tranh chấp các lợi thế để có được nguồn thu tốt hơn từ du lịch. Điều này sẽ ảnh hưởng đến mối quan hệ gắn bó đặc trưng cho cuộc sống truyền thống của cộng đồng. Bên cạnh đó, các lối sống mới được khách du nhập sẽ có tác động nhiều mặt đến cộng đồng nhất là giới trẻ. Các xung đột mới có thể nảy sinh và gây ra chia rẽ cộng đồng. Truyền thống văn hoá của địa phương có thể sẽ bị thương mại hoá để đáp ứng nhu cầu của du khách. Đã có người cảnh báo những hiệu ứng như vậy và gọi là sự xâm lăng văn hoá, thông qua hoạt động du khách không được quản lý tốt. Ngoài ra, chất lượng cuộc sống cộng đồng cũng có thể bị ảnh hưởng do giá cả sinh hoạt tăng vì cầu tăng vượt khả năng cung.
Những tác động không thuận lợi nói trên sẽ là những nguyên nhân gây ra xung đột du lịch và kết quả là quá trình phát triển du lịch không bền vững và sẽ không đem lại hiệu quả kinh tế, văn hoá, xã hội và môi trường như mong muốn. Ngay cả khi không xảy ra xung đột giữa cộng đồng và phát triển du lịch nhưng nếu thiếu kiểm soát và không có sự tham gia tích cực của cộng đồng thì sự suy thoái môi trường tự nhiên và các thay đổi giá trị văn hoá sẽ làm mất dần tính hấp dẫn của các sản phẩm du lịch. Để loại trừ được những tác động ngược chiều của sự phat triển du lịch đối với cộng đồng dân cư và ngược lại, rất cần phát triển du lịch bền vững. Mục tiêu của phát triển du lịch bền vững là đem lại lợi ích cho cộng đồng và phát triển du lịch bền vững chỉ có thể thực hiện được khi có sự tham gia của cộng đồng. Để phát triển du lịch bền vững cần có kế hoạch quản lý các nguồn tài nguyên để thoả mãn các nhu cầu kinh tế, xã hội và thẩm mỹ của con người trong khi vẫn duy trì được sự phát triển lâu dài cho thế hệ mai sau.
Nhưng chung quy thi khi nói đến con người và tổng thể mối quan hệ giữa nó và con người thì chúng ta phải quan tâm đến cả hai khía cạnh, tích cực và tiêu cực mà các yếu tố đem lại. Sự sống của con người chỉ có thể duy trì khi sống trong môi trường không khí trong lành, có cây xanh và tính cộng sinh giữa các loài mà thôi. Cũng như du lịch và các yếu tố liên quan đến nó như khách du lịch, Cộng đồng dân cư, nhà cung cấp, chính quyền nhân dân sở tại. Tất cả đều nhằm mục đích phát triển ngành du lịch, ngành được mệnh danh là ngành công nghiệp không khói.
1. 3 Nhận định chung về phát triển du lịch bền vững từ góc độ môi trường.
Theo tổ chức du lich thế giới (WTO) thì : " phát triển du lịch bền vững là việc phát triển các hoạt động du lịch nhằm đáp ứng nhu cầu về hiện tại của du khách và người dân bản địa, trong khi vẫn quan tâm đến việc bảo tồn và tôn tạo các nguồn tài nguyên cho phát triển du lịch trong tương lai ". Phát triển du lịch bền vững là đáp ứng đầy đủ nhất, tiện nghi nhất các nhu cầu của khách du lịch, tạo sức hút du khách đến các vùng, điểm du lịch ngày nay đồng thời bảo vệ và nâng cao chất lượng cho tương lai.
Sự phát triển với quy mô lớn và tốc độ nhanh, mạnh của nganh Du lịch Việt Nam trong những năm gần đây (đặc biệt là cuối những năm của thế kỷ 20) đã và đang gây ra những bất cập, những hạn chế về môi trường. Theo quan điểm chung, môi trường du lịch được hiểu là các điều kiện, các điều kiện cac yếu tố tự nhiên, kinh tế xã hội va nhân văn của từng vùng lãnh thổ cụ thể, mà trong đó các hoạt động du lịch tồn tại và phát triển. Rõ ràng sự phát triển ngành Du lịch luôn có mối liên hệ mật thiết, chặt chẽ với sự phát triển kinh tế - xã hội chung của từng vùng và của cả nước, liên quan đến các công việc cụ thể, các quá trình khai thác tài nguyên môi trường. Trên thực tế ở nước ta, tại rất nhiều vùng, điểm du lịch truyền thống, nổi tiếng và có nhiều tiềm năng đã và đang phải chịu những áp lực khá lớn từ phía các khía cạnh môi trường. Đặc biệt là những khu vực đó xuất hiện ngày càng mạnh các hiện tượng, các quá trình ô nhiễm, sự xuống cấp nhanh chóng của điều kiện môi trường kinh tế, xã hội và nhân văn, sự suy giảm tới mức báo động của nhiều dạng tài nguyên, các yếu tố môi trường tự nhiên, sinh thái. . . Đứng trước một thực tế như vậy, để có thể phát triển ngành kinh tế này thì những vần đề về môi trường cũng cần phải được đạt ra và giải quyết một cách nghiêm túc, đầy đủ sao cho vừa phát triển , vừa khai thác với hiểu quả cao nhất về du lịch nhưng lại phải đảm bảo sự phát triển lâu dài .
Trên cơ sở phương pháp tiếp cận nghiên cứu tổng hợp, áp dụng các tiêu chí, các nguyên tắc và những giải pháp phát triển bền vững kinh tế xã hội chung, môi trường du lịch nói riêng. Môi trường du lịch có hâp dẫn khách du lịch hay không trước tiên phải kể đến các yếu tố tài nguyên du lịch. Khách du lịch đến mục đích của họ là tham quan, để thoả mãn" con mắt" của họ. Khi mà đời sống của con người ngày càng tăng thì nhu cầu đi du lịch của ngưòi ta càng cao. Quanh năm suốt tháng phải tiếp xúc với bụi bẩn, ồn ào của chốn đô thị, những ngày nghỉ con người ta muón thoát khỏi cuộc sống bình thường đó, và họ đi du lịch. Chỉ đến những nơi có thiên nhiên đẹp, trong lành. và yên tĩnh sẽ thoả mãn được nhu cầu của họ. Chính vì điều đó, môi trường rất quan trọng trong kinh doanh du lịch. Sự suy giảm về trữ lượng và chất lượng của các tài nguyên thiên nhiên có ý nghĩa cơ bản đối với cuộc sống của con người như: đất đai, nước, rừng, thuỷ sản, khoáng sản và các dạng tài nguyên năng lượng. Sự suy thoái này trong thập kỷ 21 có khả năng dẫn tới tình trạng thiếu thốn nghiêm trọng về lương thực, hay về các nhu câu cần thiết của con người nói chung. Ô nhiễm môi trường sống của con người với tốc độ nhanh và phạm vi lớn hơn trước. Không khí, nước, đất đai, cac đô thị, khu công nghiệp, vùng ven biển, đại dương ngày càng bị ô nhiễm, ảnh hưởng xấu đến không chỉ ngành du lịch, mà còn nguy hai hơn đó là sức khoẻ, đời sống của con người cũng như sự suy tồn và phát triển của các sinh vật khác trên trái đất. Để phần nào khắc phục được những bất cập trên thì cần đảm bảo sự cân đối hài hoà giữa phát triênr du lịch với các kế hoạch, các phương án quy hoạch phát triển các ngành kinh tế khác theo một nội dung thống nhất trong phat triển kinh tế xã hội chung của từng vùng, nghiên cứu và cho toàn lãnh thổ của đất nước. Trong nguyên tắc này cần chú ý tới việc xem xét tỷ trọng của ngành du lịch, đánh giá thực trạng cũng như dự kiến khả năng phát triển trên quan điểm kiểm soát, khống chế chung, xuất phát từ khía cạnh quản lý khai thác hợp lý nguồn tài nguyên và môi trường du lịch.
Du lịch và môi trường có mối quan hệ rất gắn bó với nhau, cũng như mối quan hệ giữa con người và môi trường. Môi trường cung cấp nơi cư trú và các điều kiện cho cuộc sống con người và muôn loài sinh vật; môi trường cũng là nơi tiếp nhận, lưu trữ và xử lý những gì mà con người và các sinh vật khác thải ra. Chừng nào còn giữ được sự cân bằng giữa các quá trình đó thì sự sống trong thiên nhiên và cuộc soóng của con người vẫn có thể tiếp tục duy trì bình thường. Nhưng nếu sự cân bằng đó bị phá vỡ mà chủ yếu do con người gây ra, thì việc duy trì sự sống và cuộc sống bị đe doạ. Hoạt động du lịch có tác động đến môi trường về nhiều mặt. Do nhu cầu phát triển du lịch, nhiều diên tích đất đai bị khai phá để xây dựng cơ sở hạ tầng, như làm đường giao thông, khách sạn, các công trình thể thao, các khu vui chơi giải trí. . . Điều đó gây phá hoại hoặc làm tổn hại tới cảnh quan thiên nhiên, các hệ sinh thái. Các sân golf có thể gây nên tình trạng suy thái đất, ô nhiễm nguồn nước, thậm chí gây nên sự cạnh tranh trong việc sử dụng nước cho sinh hoạt và sản xuất, nhất là ổ những nơi hiếm nước. Hoạt động du lịch luôn ngắn liền với việc khai thác các tiềm năng tài nguyên môi trường tự nhiên như cảnh đẹp hùng vĩ của núi sông, biển. . và các giá trị văn hoá nhân văn. Trong nhiều trường hợp, hoạt động du lịch tạo nên những môi trường nhân tạo như công viên vui chơi giải trí, nhà bảo tàng, làng văn hoá. . . trên cơ sở của một hoạc tập hợp các đạc tính của môi truờng tự nhiên như một hang động, một quả đồi, một khúc sông, một khu rừng. . . hay một đền thờ, một quần thể di tích. Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp mà sự tồn tại của nó gắn liền với môi trường, nên môi trường du lịch có tác động qua lại với tất cả các yếu tố của môi trường chung. Sự suy giảm của môi trường nói chung ở một khu vực đồng nghĩa với sự đi xuống của hoạt động du lịch cũng như chất lượng của môi trường du lịch ở khu vực đó.
Hoạt động du lịch có thể gây tác động khác tới tài nguyên nước đặc biệt là các chất thải, các chất gây ô nhiễm do các khách sạn nhà hàng, các hoạt động vận tải thuỷ và khách du lịch tạo nên. Hiện nay ở nước ta , tình trạng rác thải bừa bãi tại các địa điểm du lịch, vui chơi giải trí còn phổ biến, điều đó không những ảnh hưởng tới vệ sinh công cộng và môi trường, mà còn gây cảm giác khó chịu cho du khách. Khi hoạt động du lịch nhộn nhịp lên, thì khi đó cũng là điều đe doạ tới chất lượng không khí. Trước hết là ô nhiễm không khí do giao thông vận tải. Tổ chức du lịch thế giới đã thống kê có khoản 37%-45% du khách tới bằng đường bộ và khoảng 40%-45% du khách tới bằng máy bay. Không giống như đối với ô tô, ô nhiễm từ máy bay ( trừ tiếng ồn ) ít khi được nhân thấy trực tiếp. Thế nhưng riêng trong năm 1990, ngành hàng không đã tiêu thụ hết khoảng 176 triệu tấn xăng máy bay, từ đó thải ra 550 triệu tấn khí nhà kính CO2 và 3, 5 triệu tấn ôxy nitơ, gây mưa axit và ô nhiễm quang - hoá.
Không chỉ có không khí mà còn nhiều vấn đề khác như ô nhiễm tiếng ồn, lượng nước thải mà sự phát triển du lịch còn tạo ra mối đe doạ tới các hệ sinh thái, như phá những khu vực rừng ngập mặn để xây dựng cơ sở hạ tầng, làm mát hoạc chia cắt nơi cư trú các loài sinh vật, khai thác bừa bãi các tài nguyên rừng, biển để sản xuất các sản phẩm phục vụ cho khách du lịch như tiêu bản các thú rừng, hoa lan rừng, tắc kè, đồi mồi, san hô. . . tại nhiều điểm du lịch của nước ta. Hàng năm tren thế giới có khoảng 200. 000 ha rừng bị cháy, trên 500 loài thực vật Địa trung hải, cùng một số động vật biển quý hiếm đang bị đe doạ tuyệt chủng. Hiện có rất nhiều chương trình, dự án của các nước và tổ chức quốc tế đangg được tiến hành để cứu sự đa dạng sinh học tại nơi đây. Tuy du lịch mang lại lợi ích kinh tế _ xã hội to lớn nhưng các tác động tiêu cực của du lịch đối với môi trường càng ngày càng trở nên rõ rệt hơn. Các quốc gia đều nhận thấy mối nguy hại này và đã ban hành nhiều văn bản pháp luật để ngăn ngừa và hạn chế tác động tiêuu cực của du lịch đối với môi trường, cả môi trường tự nhiên, nhân tạo và các đối tượng ý nghĩa về lịch sử, văn hoá, khảo cổ học. Nhà nước ta cũng đã ban hành nhiều văn bản pháp luật có liên quan đến bảo vệ môii trường, bản sắc văn hoá và thần phong mĩ tục trong hoạt động du lịch. Ngoài Luật bảo vệ môi trường, Luật bảo vệ và phat triển rừng, Luật tài nguyên nước có các quy định chung, trong chương 2 của pháp lệnh du lịch có 6 điều về bảo vệ, tồn tạo, khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên du lịch để phát triển du lịch bền vững, có quy định nghiêm cấm mọi hoạt động du lịch làm ảnh hưởng xấu tới môi trường. Ngoài ra, còn có mọt số nghị định và chỉ thị của chính phủ về việc bảo đảm trật tự trị an, vệ sinh môi trường, an toàn thực phẩm tại các cơ sở lưu trú, các địa điểm du lịch, mà còn nhằm bảo vệ môi trường trong hoạt động du lịch . Vấn đề cấp bách hiện nay là phải chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật, vì thực tế đây là một trong các khâu yếu nhất, đặc biệt thể hiện rõ tại các cơ sở và địa điểm du lịch.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH VÀ MÔI TRƯỜNG Ở HÀ NỘI
2. 1. Thực trạng phát triển du lịch tại Hà Nội hiện nay.
Hà Nội, với vai trò là Thủ đô-trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học-công nghệ và giao lưu của cả nước, thành phố hoà bình của thế giới -với tài nguyên tự nhiên và nhân văn phong phú, đa dạng, với bề dày lịch sử gần 1000 năm, đã trở thành một trong những điểm đến du lịch hấp dẫn đối với du khách trong và ngoài nước.
Hà Nội nằm ở trung tâm của đồng bằng Bắc Bộ, ở vị trí trong khoản từ 20 25' đến 21. 23' vĩ độ Bắc, 105. độ 15' đến 106 độ 03' kinh đông, tiếp giáp với các tỉnh : Thái Nguyên, Bắc Giang, Bắc Ninh và Hung Yên ở phía Đông Nam, Hà Tây và Vĩnh Phúc ở phía tây. Hà Nội có khoảng cách dài nhất từ phía Bắc xuống phía Nam là trên 50 km và chỗ rộng nhất từ tây sang đông 30 km. Điểm cao nhất là núi Chân Chim cao 462m(huyện Sóc Sơn);nơi thầp nhất thuộc phường Gia Thuỷ (quận Long Biên)12m so với mặt nước biển. Hà Nội nằm hai bên bơ sông Hồng, giữa vùng đồng bằng Băc Bộ trù phú và lâu đời, Hà Nội có vị trí và địa thế đẹp, thuận lợi là một trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá và đầu mối giao thông quan trọng của cả nước. Khí hậu Hà Nội cho kiểu khí hậu Băc Bộ với đặc điẻm là khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm, mùa hè nóng, mưa nhiều và mùa đông lanh và mưa ít. nằm trong vùng nhiẹt đói, Hà Nội tiếp nhận được lượng bức xạ mặt trơi rất dồi daò và cónhiệt độ cao, nhiệt độ không khí trung bình hàng năm là 23, 6độ c do chịu ảnh hưỏng của biển và lượng mưa khá lớn. Độ ẩm tương đối trung bình hàng năm 79%. lượng mưa trung bình hàng năm và mỗi năm có khoảng 114 ngày mưa. Đặc điểm khí hậu Hà Nội rõ nét nhất là sự thay đổi và khác biệt nóng, lạnh. Từ tháng 5 đến tháng 9 là mùa nóng và mưa còn những tháng còn lại thời tiết khô ráo. Giữa hai mùa lại có tiếp tháng 4 và tháng 10 cho nên có thể nói rằng Hà Nội có đủ 4 mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông. Bốn mùa như vậy đã làm cho khí hậu Hà nội thêm phong phú, đa dạng, mùa nào cũng đẹp, cũng hay. Mùa tham quan Hà Nội là mùa thu, rất thích hợp với du khách ở những vùng hàn đới. Hà Nội có dãy Sóc Sơn(núi Sóc)là đợt kéo dài của khối Tam Đảo, với ngọn núi cao nhất là 308m. Núi này khác nhau như Mã, núi Đền. Núi Sóc toạ lạc tại xã Phù Linh, huyện Sóc Sơn. Ngoài núi Sóc, Hà Nội còn có một đột khởi lên giữa đất bằng như núi Sái(xã Thuỷ Lâm huyện Đông Anh), núi Phục Tương ở trung tâm Hà Nội, thuộc vùng Bách Thảo có núi Nùng, còn gọi là Long Đỗ hay núi Khán, tạo nên dáng Thăng Long xưa. Về sông ngòi, Hà Nội nằm ở trung tâm của tam giác chảy sông Hồng. Sông Hồng dài 1183km từ Vân Nam xuống. Đoạn sông Hồng qua Hà Nội dài 40km từ huyện Đông Anh đến huyện Thanh Trì. Sông Đuống là sông thứ 2 của Hà Nội, tách ra khỏi sông Hồng từ ngã ba Xuân Canh( xã Xuân Canh, Đông Anh)rồi qua xã Yên Thường cắt quốc lộ 1A ở Cầu Đuống, qua đất Gia Lâm 17 km rồi sang đất Bắc Ninh. Ngoài hai con sông lớn đó, đất Hà Nội còn có nhiều dòng chảy khác, tuy nhỏ và ngắn song gắn chặt với lịch sử Hà Nội. Đó là sông Tô Lịch, gấn với sự hình thành Hà Nội từ hơn 1. 500năm trước. Dòng chảy cũ liền ở đàu phố chợ Gạo đã bị lấp từ đầu thế kỷ 20, nay chỉ con đoạn chảy giữa phố Thuỵ Khuê-Hoàng Hoa Thám chợ Bưỏi rồi chảy ngoặt về phía nam Cầu Giấy, Ngã Tư Sở xuôi về Cầu Bươu, hợp với sông Nhuệ, sông Nghĩa Trụ, sông Cheo Reo, Ngũ Huyện Giang, sông Kim Ngưu. Đầm hồ ở Hà Nội cũng nhiều, lớn như Hồ Tây, nhỏ như Hồ Hoàn Kiếm, hồ Thủ Lệ, hồ Bảy Mẫu, đầm Vân Trì. . . chính những lợi thế dư địa chí đã tạo cho Hà Nội có một khả năng giao lưu trong nước và bạn bè thế giới. Hà Nội xưa và nay xứng đáng là trung tâm của cả nước về mọi mặt. Đặc biệt là thích hợp cho phát triển ngành du lịch, Hà Nôi có trên 300 vườn hoa, công viên và thảm cỏ, hàng rào cây xanh với tượng đài, các bể phun nước làm tăng thêm vể đẹp Thủ đô. Nói đến Hà Nội không thể nói đến vẻ đẹp của những sông hồ gắn với huyền thoại thiêng liêng giữ nước của dân tộc Viêt Nam. Ngoài ra Hà Nội là tụ điểm của các trục giao thông lớn của miền Bắc và cả nước, là nơi hội tụ của 6 tuyến đường bộ, cách cảng Hải Phòng hơn 100km, cảng Cái Lân trong tương lai 180 hm, có Sân bay quốc tế và chính nhờ lợi thế của các trục giao thông lớn, mà Hà Nội vừa là thị trường nhận khách vừa là thị trường gián tiếp, thị trường gửi khách trung gian. . . Khách quốc tế có thể từ sân bay Nội Bài dừng chân ở thủ đô để thuân tiện cho các tuyến đi du lịch trong cả nước.
Hà Nội là nơi tập trung nhiều tri thức nhân tài, đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật cao hơn hẳn các địa phương khác. Có thể nói đây là một nguồn tài nguyên quý giá, một lợi thế nhất trong cả nước về nhu cầu hợp tác khoa học với các nước và các địa phương khác trong cả nước. Hàng năm Hà Nội tổ chức một số lượng lớn hội thảo, hội nghị với các tổ chức quốc tế song phương và đa phương lớn khác. Từ Hà Nội du khách có thể tham gia các tour như Hà Nôi- Hà Tây, Hà Nội -Vĩnh Phú, Hà Nội -Hải Phòng, Hà Nội -Quảng Ninh…
Có được thuận lợi như vậy, Du lịch Việt Nam nói chung và du lịch Hà Nội nói riêng đã và đang làm được gì. Nhìn lại giai đoạn trước những năm 90 của thế kỷ trước, du lịch chưa được coi trọng đúng mức, Việt Nam chưa được biết đến như một điểm đến du lịch. Khách nước ngoài đến Hà Nội chủ yếu là các chuyên gia cố vấn các nhà đầu tư, các nhà ngoại giao với tổng số khoảng 20. 000khách/năm. Cơ sở vật chất của ngành Du lịch Hà Nội còn nghèo nàn với chưa đầy 50 khách sạn, quy mô hoạt động nhỏ lẻ khoảng 10 doanh nghiệp làm lữ hành và hầu như chưa xuất hiện hoạt động lữ hành mang tính chất du lịch thật sự.
Năm 1900 được lấy là năm Du lịch Việt Namvà từ đó hoạt động kinh doanh du lịch bắt đầu mởi sắc. Lượng khách quốc tế vào Hà Nội năm 1994 đạt đến 300. 000 lượt tăng trên 5 lần so với năm 1990. Thị trường khách đã có sự tham gia của Pháp, Nhật Bản, Đoài Loan. . . Ngành Du lịch Hà Nội đã có cơ hội tạo chuyển biến mới trên đà phát triển. Một số doanh nghiệp lớn được thành lập, một số doanh nghiệp của trung ương được tập trung về Hà Nội. Trước nhu cầu thị trường về khách sạn đạt tiêu chuẩn về quốc tế tăng lên, một loạt các khách sạn liên doanh vốn nước ngoài được kí kết xây dựng. Thành uỷ, UBND Thành phố cho phép tư nhân đầu tư xây dựng một hệ thống khách sạn mini với qui mô không lơn về phòng, nhưng chất lưọng tốt, khá đầy đủ các dịch vụ phục vụ cho chiến lược mở cửa của đất nước. Đáp ứng yêu cầu của quản lý nhà nước trong lĩnh vực hoạt động du lịch trên con đường đổi mới, Sở Du lịch Hà Nội được thành lập theo Quyết định số 1216/QĐ-UB ngày 21/6/1994 của UBND TP. Hà Nội.
Giai đoạn từ năm 2000trở lại đây là thời cơ thuận lợi cho các ngành Du lịch. kinh tế khu vực được phục hồi mạnh mẽ, thị trường khách du lịch Đông Nam A, Hàn Quốc, Nhật Bản. . . đã khôi phục và phát triển nhanh. Thực hiện chủ trương của đảng và nhà nước, chính quyền và nhân dân Hà Nội đã nỗ lực xây dựng và hoàng thiện các cơ sở vật chất phục vụ phát triển Du lịch Thủ Đô. Hàng năm, Hà Nội đã đầu tư hàng trăm triệu USD để nâng cấp và hoàn thiện hệ thống thông tin liên lạc hiện đại đạt tiêu chuẩn quốc tế; hệ thống giao thông trong thành phố và kết nối tới các điểm du lịch; xây dựng và cải tạo hệ thống cấp điện, chiếu sáng; hợp tác với Nhật Bản, Phần lan, Ngân hàng thế giới (WB)xây dựng hệ thống cấp nước, hệ thống thoát nước. . . Thành phố Hà Nội thu hút được trên 400 dự án liên doanh có vốn đầu tư khá lớn, riêng vốn đầu tư cho du lịch là 10175 triệu USD. Cùng với việc phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật, hệ thống dịch vụ cũng đã được phát triển cả về số lượng và chất lượng, nhiều chương trình du lịch mới được ra đời, môi trường du lịch ngày càng được cải thiện. Đặc biệt, Hà Nội có môi trường an ninh, an toàn tốt, do vậy du khách có thẻ yên tâm tự do đi tham quan hay mua sắm hàng hoá. Hiện nay, Hà Nội có trên 500 khách sạn với 10. 000 phòng đạt tiêu chuẩn quốc tế và số lượng khách sạn 5 sao lớn nhất toàn quốc, hàng trăm hãng lữ hành, vận chuyển khách du lịch với các hướng dẫn viên hiểu biết lịch sử văn hoá, thông thạo các ngôn ngữ Anh, Pháp, Nhật Bản, Trung Quốc. . . hệ thống nhà hàng không chỉ đơn thuần phục vụ các món ăn thông thường mà còn giúp du khách được thưởng thức những nét văn hoá ẩm thực đặc sắc của người Việt Nam.
Minh chứng cho sự thành công của du lịch Hà Nội, thống kê sơ bộ về lượng khách du lịch như sau : Tổng khách du lịch năm 2000 là 2. 600. 000, năm 2001là 3. 000. 000, năm 2002 là 3. 781. 000, năm 2003 là 3. 880. 000, năm 2004 là 4. 000. 000 (lượt khách). Trong đó khách du lịch quốc tế là : năm 2000 lượng khách 500. 400, năm 2001 là 700. 000 lượt khách, năm 2002 là 931. 000 lượt khách, năm 2003 là 850. 000, năm 2004 là 930. 000 lượt khách. Với doanh thu ; năm 2001 là 1. 400 tỷ đồng, năm 2002 là 1. 650 tỷ đồng, năm 2003 là 2. 000 tỷ đồng, năm 2004 là 2. 200 tỷ đồng. Và đã nộp ngân sách năm 2001 là 230 tỷ đồng, năm 2002 là 270 tỷ đồng, năm 2003 là 275 tỷ đồng, năm 2004 là 290 tỷ đồng. Năm 2003 vừa qua Việt Nam vinh dự đã dược phục vụ tổ chức SEAGAME 22 và ASEAN paragames 2, hội nghị thượng đỉnh các thành phố châu á lân lần thứ 3 ( ANMC 21), ASEM 5 và Liên hoan du lịch Hà Nội đã thành công tốt đẹp, tạo thêm mối quan hệ với các nước bạn trên vấn đề chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội đặc biệt là quảng bá về sản phẩm du lịch Việt Nam với du khách quốc tế.
Mặt khác, được sự quan tâm của Nhà nước, Chính quyền Thành phố, thông qua các chủ trương, chính sách đã được phát huy có hiệu lực vai trò quản lý của nhà nước trong lĩnh vực du lịch, tạo tiền đề cho hoạt động du lịch ngày càng phát triển.
du lịch Hà Nội cũng tích cực thực hiện cải cách quản lý doanh nghiệp như sắp xếp đổi mới các doanh nghiệp, thay đổi, luân chuyển cán bộ tại các doanh nghiệp, cổ phần hoá doanh nghiệp, thành lập Tổng Công ty theo mô hình mới.
Với thực tế phân tích trên , chúng ta có thể đánh giá chung về những thành tựu Du lịch đạt được như sau :Du lịch phát triển theo đúng định hướng:bền vững, giữ gìn được truyền thống văn hoá lịch sử, môi trường, đảm bảo an ninh trật tự xã hội. Hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật đã được nâng cấp và hoàn thiện, chất lượng dịch vụ được cải tiến. Về kinh doanh du lịch, nộp ngân sách cho Nhà nước ngày càng cao, năm sau nhiều hơn năm trước và đều vượt chỉ tiêu kế hoạch được giao. Lượng khách đến du lịch Hà Nội ngày càng nhiều, ngày khách lưu trú cũng như ngày khách lữ hành đều tăng. Đó là kết quả của công tác đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, các sản phẩm du lịch trên địa bàn Hà Nội cùng với công tác tuyên truyền quảng bá sâu rộng của ngành Du lịch Thử đô.
Ngành Du lịch Hà Nội đã chủ động xây dựng qui hoạch, kế hoạch và phương hướng phấn đấu đến những năm 2010-2020 sẽ trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của Thủ đô.
Trải qua ba giai đoạn phát triển, có thể nói ngành Du lịch Hà Nội đã có vị thế đặc biệt quan trọng trong phạm vi quốc gia và khu vực, năng lực cạnh tranh cũng từng bước nâng lên. Các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực du lịch tăng mạnh, trong đó doanh nghiệp hoạt động theo Luật Doanh nghiệp chiếm số lượng đông đảo. Các doanh nghiệp du lịch đã phát huy tinh thần tự chủ, năng động, sáng tạo trong kinh doanh, tạo thêm việc làm cho hàng vạn lao động và tăng nguồn thu, đóng góp đáng kể cho ngân sách nhà nứơc.
Để thúc đẩy sự phát triển kinh tế Du lịch Hà Nội theo hướng CNH-HĐH trong thời gian tới, chúng ta có một số giải pháp như sau :
Tập trung đầu tư nâng cấp, cải tạo các khu chơi, giải trí, khu du lịch săn có, đẩy nhanh tiến độ xây dựng các khu mới nhằm tạo ra các sản phẩm du lịch phong phú, đa dạng để thu hút du khách đén Hà Nội nhiều hơn, lâu hơn.
Cùng với Tổng cục Du lịch, Ban Chi đạo phát triển Du lịch Hà Nội, Sở Du lịch Hà Nội phải là cơ quan chủ chốt thực hiện công tác quảng bá cho Du lịch Hà Nội, góp phần tạo lập quan hệ, khơi nguồn khách. Công tác tuyên truyền quảng bá găn liền với chương trình kỷ niện 1000 năm Thăng Long-Hà Nội và hoà nhập vứi xu hướng phát triển du lịch thế giới trong thế kỷ 21.
Con người là yếu tố quyết định đối với chất lượng dịch vụ du lịch. Do vậy, các doanh nghiệp phải thường xuyên tổ chức các đột đào tạo dài hạn, ngắn hạn nhăm cập nhật tình hình mới, càng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ thuật cho các bộ trực tiếp tham gia kinh doanh và cán bộ quản lý của ngành.
2. 2. Vai trò của môi trường trong phát triển du lịch ở Hà Nội.
Như chúng ta đã biết, tài nguyên thiên nhiên là một trong những yếu tố quan trọng nhất cấu thành nên sản phẩm du lịch . Hà Nội được mệnh danh là thành phố vị hoà bình, điểm đến của thiên niên kỷ mới , đã và đang từng bước phát triển ngành du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn đến năm 2010. Đẩy mạnh phát triển du lịch, tập trung có chọn lọc một số điểm, khu và tuyến du lịch trọng điểm, giàu bản sắc văn hoá dân tộc, có sức cạnh tranh cao ; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật theo hướng hiện đại.
Hà Nội là trung tâm du lịch lớn của Việt Nam, với tiềm năng về tự nhiên, có diện tích hơn 900 km2. Phần lớn diện tích Hà Nội và vùng phụ cận là đồng băng với độ cao trung bình 10 m. Vùng đồi núi Hà Nội có thể tổ chức nhiều loại hình du lịch như leo núi, săn bắn, du lịch mạo hiểm, nghỉ dưỡng chữa bệnh, nghỉ cuối tuần. . . và chỉ cách trung tâm thủ đô trên dưới 50km. Hà Nội có khí hậu thích hợp với hoạt động du lịch, khách du lịch châu Âu, châu Mỹ rất thích đến Hà Nội trong thời gian từ tháng 4 hàng năm. Hà Nội với đặc biệt với mùa thu vàng đã làm rung động biết bao hồn thi sĩ. Hà Nội còn được gọi là" thành phố xanh " với các hàng cây bao bọc với các loại cây như là xà cừ, bàng, phượng, hoa sữa. . . trải khắp phố phường, Hà Nội xanh bốn mùa.
Phát triển các loại hình du lich trên địa bàn Hà Nội như du lich sinh thái, du lịch thể thao. Đây cũng là thế mạnh của du lịch Hà Nội hiện nay khi mà đất đai ngày càng khan hiếm thì còn sót lại những khu dành cho du lịch sinh thái ở Hà Nội như công viên, hay vườn Bách thảo thì quả là hiếm. Nhưng ngược lại Hà Nội có nhiều con hồ đẹp được làm nơi vui chơi giải trí như hồ Tây, hồ Hoàn Kiếm, hồ Thiền Quang …Trong đó phải nói đến là hồ Tây, với công viên nước hồ Tây, điểm vui chơi giả trí lý tưởng cho khách du lịch mà đặc biệt là giới trẻ. Vị trí: Thuộc quận Tây Hồ, phía tây bắc trung tâm thành phố Hà Nội.
Ðặc điểm: Hồ Tây có diện tích rộng hơn 500ha với một bề dày lịch sử mấy nghìn năm. Đường vòng quanh hồ dài tới 17km. Ngành địa lý lịch sử đã chứng minh rằng hồ Tây là một đoạn sông Hồng cũ còn rớt lại sau khi sông đã đổi dòng. . . Có thể do sông hồ biến đổi như vậy mà đã xuất hiện nhiều truyền thuyết về hồ và tên gọi của hồ. Ví như theo truyện "Hồ Tinh" thì có tên là hồ (hoặc đầm) Xác Cáo, vì truyện kể là có một con cáo chín đuôi ẩn nấp nơi đây làm hại dân. Long Quân mới dâng nước lên phá hang cáo, hang sập thành ra hồ. Theo truyện "Khổng lồ đúc chuông" thì hồ lại có tên là Trâu Vàng. Truyện kể rằng có ông khổng lồ có tài thu hết đồng đen của phương bắc đem đúc thành chuông. Khi thỉnh chuông, tiếng vang sang bên phương bắc. Vì đồng đen là mẹ vàng nên con trâu vàng phương Bắc nghe tiếng chuông liền vùng đi tìm mẹ. Tới đây nó quần mãi đất, khiến sụt thành hồ. Theo thư tịch thì thế kỷ 11, hồ này đi vào lịch sử với tên là Dâm Đàm (Đầm mù sương), tới thế kỷ 15 thì đã gọi là Tây Hồ. Hồ còn có tên là Lãng Bạc, trùng với tên nơi diễn ra những trận đánh ác liệt giữa quân của Hai Bà Trưng và quân Hán ở vùng Tiên Sơn tỉnh Bắc Ninh.
Hồ Tây từ lâu lắm đã là thắng cảnh. Thời Lý - Trần, các vua chúa lập quanh hồ nhiều cung điện làm nơi nghỉ mát, giải trí, như cung Thúy Hoa thời Lý, điện Hàm Nguyên thời Trần nay là khu chùa Trấn Quốc, cung Từ Hoa thời Lý nay là khu chùa Kim Liên, điện Thuỵ Chương thời Lê nay là khu trường Chu Văn An. . . Những ngày sóng yên gió lặng, chơi thuyền Hồ Tây là một thú tao nhã. Nếu làm một cuộc đi dạo quanh hồ thì đồng thời cũng được thăm khá nhiều di tích và thắng cảnh. Làng Nghi Tàm, quê hương nhà thơ "Bà huyện Thanh Quan" với chùa Kim Liên có kiến trúc độc đáo; làng Nhật Tân nguồn hoa đào mỗi độ xuân về, tương truyền là nơi Lạc Thị đời Hồng Bàng sinh ra một bọc trứng nở thành bảy con rồng. Rồi làng Xuân Tảo với đền Sóc thờ Thánh Gióng, làng Trích Sài có chùa Thiên Niên thờ bà tổ nghề dệt lĩnh, sang làng Kẻ Bưởi có nghề làm giấy cổ truyền và đền Đồng Cổ nơi bách quan hội thề thời Lý, làng Thụy Khuê có chùa Bà Đanh nổi tiếng một thời. . . Và đặc sắc nhất là đền Quán Thánh. Lại còn cả một số công trình nhà ở mới xây dựng bên hồ làm quang cảnh thêm đa dạng.
Thứ hai phải kể đến là Hồ Thiền Quang, hồ nằm lọt giữa bốn phố Nguyễn Du, Trần Bình Trọng, Trần Nhân Tông và Quang Trung thuộc quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội.
Ðặc điểm: Là một trong những "lá phổi xanh" của thành phố. Trong bản đồ Hà Nội năm 1831 thì hồ có có tên là Liên Thuỷ. Thiền Quang (ánh sáng nhà Phật) chỉ là một làng nằm ở phía đông nam hồ tức nay là khu vực đầu phố Nguyễn Ðình Chiểu. Ngoài làng này ra, ở quanh hồ còn có các làng Liên Thuỷ ở phía bắc và tây, Quang Hoa ở phía tây nam và Pháp Hoa ở phía nam. Cũng theo bản đồ ấy thì hồ này khá rộng, phía tây lan tới phố Yết Kiêu, phía đông lấn sang phố Nguyễn Bỉnh Khiêm, phía bắc tới phố Trần Quốc Toản, phía nam thông sang hồ Bảy Mẫu.
Thứ hai, phải kể đến hồ Gươm hay còn gọi là hồ Hoàn Kiếm. Sự kết hợp giữa đền Ngọc Sơn và hồ Hoàn Kiếm đã tạo thành một tổng thể kiến trúc Thiên - Nhân hợp nhất, tạo vẻ đẹp cổ kính, hài hoà, đăng đối cho đền và hồ, gợi nên những cảm giác chan hoà giữa con người và thiên nhiên. Đền và hồ đã trở thành những chứng tích gợi lại những kỷ niệm xưa về lịch sử dân tộc, thức tỉnh niềm tự hào, yêu nước chính đáng, cũng như tâm linh, ý thức mỗi người Việt Nam trước sự trường tồn của dân tộc.
Đối với người Hà Nội, hồ Hoàn Kiếm không chỉ là một nơi hóng gió, một nơi dùng để chơi thuyền mà còn gắn liền với đời sống về nhiều phương diện: đêm giao thừa, người người nô nức du xuân quanh hồ. Xuân về, hồ là nơi gặp gỡ của thiện nam tín nữ đi lễ các đền chùa lân cận. Các đôi uyên ương trong ngày cưới tìm đến bên hồ Gươm chụp ảnh lưu niệm. Hè đến, những buổi chiều oi bức, hồ là địa điểm hóng mát lý tưởng. Ai đã từng một lần ngắm hồ từ trên cao vào đầu hạ sẽ không khỏi thảng thốt trước bức tranh đầy màu sắc và nên thơ của những cây bằng lăng tím rạng rỡ xen giữa những phượng cháy đỏ rực, cơm nguội chín vàng, những tàng cây ngả xuống, vòng tay ôm lấy mặt nước hồ biếc xanh màu ngọc. Mùa thu, hồ Hoàn Kiếm không những chỉ là một thắng cảnh đẹp với những rặng liễu rủ bên bờ, nắng vàng lấp lánh trên mặt nước mà còn là nơi nhân dân thủ đô lui tới để xem pháo hoa nhân những ngày hội lớn của dân tộc như 19/8 và 2/9.
2. 3 Tác động của du lịch tới môi trương trên địa bàn Hà Nội hiện nay.
Hà Nội ngày nay với khoảng hơn 2 triệu dân cư, được tập trung tù khăp mọi miền đất nước về đây làm ăn sinh sống. Cho nên Hà Nội ngày càng nhiều phương tiện giao thông, mày móc và các công trình kiến trúc mọc lên để thoả mãn nhu cầu hiện đại hoá của xã hội. Diện tích đất canh tác ngày càng bị thu hẹp, sông ngòi thì bị ô nhiễm, hàng ngày với lượng chất thải sinh hoạt thải ra, nguy cơ ô nhiễm nặng. Vấn đề nổi côm hiện nay Hà Nội đó là tình trạng ô nhiễm nguồn nước ở các sông, hồ và các mạch nước ngầm , chất thải rắn. . .
Hà Nội nằm hai bên bờ sông Hồng, với hệ thống sông ngòi như sông Kim Ngưu, sông Nhuệ, sông Nghĩa Trụ. . . và một số đầm hồ là hệ thống điều tiết sinh quyển cho cả thành phố. Vậy mà hiện nay đang phải chịu một tình trạng, dồng nước đen ngòm với bao nhiêu là rác rưởi do sinh hoạt, do chất thải từ các nhà máy, mà trong đó có cả hoạt động du lịch. Hiện nay, Hệ thống sông thoát nước gồm 4 con sông thoát nước chíng là sông Lừ, Sét, Tô Lịch và sông Kim Ngưu, với tổng chiều dài 36, 8 km, dẫn toàn bộ nước thải và nước mưa của thành phố vào sông Nhuệ qua đập Thanh Liệt với lưu lượng tiêu là 30m3/s. Nhưng các song này hiện nay cũng bị bồi lắng, thu hệp mặt cắt ở nhiều đoạn do cầu cống và xây dựng lấn chiếm. Giờ đây Hà Nội chỉ còn 20 hồ với tổng diện tích mặt nước khoảng 592 ha. Hệ thống hồ điều hoà bị giảm dần chức năng do bị bồi lắng, san lấp để xây dựng. Dung tích hữu ích của các hồ giảm xuống một cách đáng kể. Trong 4 con sông thoát nước ở Hà Nội, sông Kim Ngưu là sông chịu tải trọng chất bẩn lớn nhất và có độ nhiễm bẩn lớn nhất. Theo chiều dài sông, có 14 cửa xả nước thải vào đó với hàm lượng chất lơ lửng từ 150 -220 mg/l ; BOD từ 50-140 mg /l ; NH4+ từ 19, 6 -26mg/l.
Thuộc loại oligoxaprophit. Hồ Tây có diện Mặt khác do không có hệ thống xử lý nứoc thải, nên môi trường nước bị ô nhiễm nặng nề. Các thông số BODS ở sông, hồ, kênh mưong, lên tới 40-100 mg/l. Vượt quá tiêu chuẩn cho phép là 25 mg/l. Điều này gây ảnh hưởng xấu đến chất lượng môi trường và sức khoẻ của nhân dân. Hiện nay nước cống ngầm nhất là các kênh mương hở, bị bồi lắng nặng : tổng cộng có tới 150-160 ngàn m3 bùn cặn lắng đọng hằng năm. Về mùa khô vận tốc dòng chảy trong cống và kênh mương rất nhỏ, chỉ khoảng 0. 05 -1. 1m/s. Độ ô nhiểm ở các sông hổ trong thành phố Hà Nội được liệt kê như sau: các hồ nội thành có độ sâu trung bình 2- 3 mét, có khả năng tự làm sạch khá lớn. Tuy nhiên cá một số hồ bị ô nhiểm nặng vì phải nhận trựn tiếp nước thải vào. Cao độ đáy hồ dần dần bị nâng lên do lớp bùn bị lắng đọng bị tích luỹ dần, đạt chiều dày từ 0. 5- 1 m. Diện tích hồ bị thu hẹp dần, điển hình là các Văn Chương, Linh Quang, và hồ Giám. Thông thương các chỉ tiêu chất lượng nước ở đầu hồ( cách cửa cống thải 5- 10m) như sau: hàm lượng cặn lơ lửng( SS) : 100- 150mg/l;BOD5: 35- 65mg/l; DO:0. 5- 2mg/l. Nước ở cuối hồ có SS là 50- 80mg/l; BOD5: 15- 25mg/l.
Các hồ ở đầu hệ thống thoát nước do phải tiếp nhận trực tiếp nước thải nên bị nhiễm bẩn nặng, thường ở mức độ polyxapophit và a- mezoxaprophit, điển hình là các hồ Văn Chưong, Trúc Bạch, Ngoc Khánh, hồ Gảng Võ, Thành Công, Thanh Nhàn. Các hồ Hoàn Kiếm, Thủ Lệ, Đống Đa do lượng nước thải vào ít, dung tích hồ lại khá lớn nên mức độ ô nhiễmtích mặt nước lớn ( 446 ha) và có lượng nước thải vào không đáng kể, nên phần lớn chất lượng nước hồ ở vùng Oligoxaprophit(ở giữa hồ BOD5 từ 15- 20mg/l, DO >6mg/l). Nhưng ở vùng ven bờ, đặc biệt là khu vực gần cống xả từ hồ Trúc Bạch sang, BOD5 có thời điểm đạt tới 25-28 mg/l. Các hồ ngoại thành (hồ Yên Sở, Linh Đàm, Hạ Đình, Pháp Vân…)thưòng được sử dụng để nuôi cá. Do việc bơm nước trực tiếp từ các sông mương vào, nên vùng đầu hồ thường có BOD5 lớn ( trên 30 mg/l), hàm lượng NH4+ từ 5-15mg/l. Đầu tiên, các hồ nước cần phải cứu vì bị rác, nước thải làm ô nhiễm. Hồ Bảy Mẫu trong công viên Lê Nin đang bị ô nhiễm nghiêm trọng. Nước hồ đục đặc lại, cá chết nổi dập dềnh. Mùi ô uế làm cho ai đến với công viên Lê Nin hẳn phải thất vọng vô cùng. Các hồ khác tuy không đến nỗi như thế song lại có nỗi khổ khác. Hồ nào mà càng có nhiều hộ dân ở bên thì càng có nguy cơ bị thu hẹp đến bất ngờ. Như phù thuỷ vậy, sau một đêm nhà rộng ra vài m2 còn hồ thì bé lại. Chỉ sau một vài tháng trở lại một quán ăn ở Phủ Tây Hồ, tôi thật sự ngỡ ngàng vì sự “mở mang bờ cõi” của chủ quán này. Mặt bằng lấn được từ hồ rất rộng. Đã thế, còn cầu cọc đang hiên ngang đợi…tiếp tục lấn chiếm của chủ quán. Hồ Hào Nam cũng ở trong tình trạng này. Mấy hộ dân ở gần đó giữ không cho người khác đổ xuống dù một xô rác nhưng đến đêm thì kĩu kịt đổ đất, đổ trạc để lấn hồ. Thế là tình trạng “đất có thổ công, sông hồ có…dân cạnh đó lấn chiếm” vẫn diễn ra không gì ngăn nổi. Chính quyền phường chẳng lẽ bó tay vì dễ gì canh giữ về đêm và moi đất khỏi nước (?) Và nghiêm trọng tột cùng khi lấn chiếm, lấp hồ lại chính là cán bộ trong các cơ quan tư pháp và chính quyền sở tại.
Một phần Hồ Tây và toàn bộ hồ Trúc Bạch, hồ Thuyền Quang bị hàng quán thương mại hoá. Người ta còn coi hồ nước là nơi đổ rác và trút nước thải, là quỹ đất gia đình, là nơi bán hàng cơ động.
Tiếng kêu thầm lặng, mỏi mòn của những hồ nước tại Thủ đô không thấu đến đâu chăng mà tình tình mãi không sáng sủa hơn(!) Những cái hồ nếu may mắn được kè lại thì gặp hoạ bị chiếm bờ hồ để kinh doanh rổi xả rác và nước thải trực tiếp xuống nước làm cá chết, nước hôi tanh. Thế rồi biết đâu sẽ đến lúc người ta sẽ lại bàn về một dự án tốn kém và rất trời ơi như “thay nước Hồ Tây”. Dự án trên trời và thực tế dưới nước rất bất cập. Vậy là những cái hồ bị ốm, những cái hồ bị teo lại đến chết, những cái hồ than thở giữa lòng Thủ đô.
Tốc độ phát triển dân số đô thị hoá nhanh khiến tình trạng lấn chiếm lòng sông, hồ làm nhà ở ngày một nhiều. Vô hình chung người dân đã tự huỷ hoại môi trường sống của chính mình. Bên cạnh đó, do nhận một lượng nước thải lớn đến 480. 000 m3/ngày từ các vùng dân cư đông ở Hà Nội mà các sông hồ ở Hà Nội ngày càng ô nhiễm. Các hồ lớn ở Hà Nội tham gia điều hoà lượng nước thải, nước mưa như hồ: Hoàn Kiếm, Bảy Mẫu, Ngọc Khánh, Hồ Tây, Đống Đa… đều bị ô nhiễm nặng. Đặc biệt vào mùa khô, lượng vi sinh kỵ khí, nấm sợi, vi khuẩn cao gấp tới 1. 000 lần so với mùa mưa.
Hiện tại, thay vì chỉ chờ trông vào các dự án chưa bắt đầu thì chúng ta phải bắt đầu ngay (dù quá muộn) để bảo vệ các hồ nước. Cần phải có những hình phạt và chế tài thích đáng để hạn chế việc giết chết vẻ đẹp, sự trong lành đáng quý của các hồ ở Hà Nội. Với các trường hợp lấp trộm ao hồ để lấn đất cần có những biện pháp kiên quyết như xây dựng bổ sung các điều luật xử phạt hành chính thậm chí phạt tù với những ai cố tình vi phạm.
2. 4 Tình hình xử lý rác thải và ô nhiễm nguồn nước ở Hà Nội hiện nay.
Đứng trước tình hình đó các cơ quan quản lý phối hợp với Công ty Môi trường đô thị đã huy động thêm trên 7. 600 công lao động tham gia tổng vệ sinh cùng nhân dân, thu dọn hết rác tồn đọng trong các khu tập thể, ngõ xóm, cụm dân cư. Bình quân mỗi ngày, Công ty thu gom, vận chuyển, xử lý 1. 500-1. 600 tấn rác thải; duy trì vệ sinh đạt 64, 1% kế hoạch; thu 6. 930 triệu đồng phí vệ sinh, đạt 51, 9% kế hoạch; lắp đặt thêm 200 thùng rác vụn trên nhiều tuyến đường, tạo điều kiện để người dân và khách du lịch bỏ rác đúng nơi quy định. Cũng trong 6 tháng đầu năm, Công ty đã khánh thành lò đốt chất thải công nghiệp, đầu tư mua 10 xe quét hút. . . , duy trì công tác thu gom, xử lý chất thải y tế; chú trọng phòng - chống lụt bão tại các bãi phế thải. Ngoài ra, Công ty Phòng - chống lụt bão tại các bãi phế thải. Ngoài ra, Công ty còn chăm lo các mặt đời sống của CBCNV, trang bị đầy đủ các thiết bị phòng hộ lao động, bồi dưỡng làm thêm ca, thêm giờ cho công nhân trong các ngày lễ, tết, bảo đảm đời sống ổn định cho người lao động.
Hiện nay nhiều phương pháp và công nghệ xử lý rác hiện đại đã được nghiên cứu và ứng dụng trên thế giới, cho phép tái sinh một lượng đáng kể chất thải rắn, đồng thời làm giảm thể tích rác xuống còn rất thấp. Tuy nhiên sau các quá trình xử lý vẫn còn một lượng rác không thể xử lý hoặc tái sinh và cần được đổ bỏ, quản lý. Công ty Môi trường Đô thị (URENCO) trực thuộc Sở Giao thông Công chính Hà Nội là cơ quan chịu trách nhiệm quản lý toàn bộ chất thải rắn của thành phố với các chức năng và nhiệm vụ sau :
* Tổ chức thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải* Thực hiện các dịch vụ vệ sinh môi trường khác* Chế tạo, sửa chữa các thiết bị chuyên ngànhURENCO thu gom được khoảng 75% tổng chất thải sinh hoạt hàng ngày (từ nhà dân, các cơ quan, trường học, các khu du lịch, chợ, đường phố và công viên v. v. ) - khoảng 1. 100 - 1. 200 T/ngày. Phần còn lại được thu gom bởi những người thu đồng nát nhằm tái chế, nhân dân tự đổ ra hồ, ao, bờ sông, ven đê và được thu gom qua các thời kỳ tổng vệ sinh. Toàn bộ lượng chất thải sinh hoạt này được chở lên bãi chôn lấp Nam Sơn, S óc Sơn.
Khu liên hợp Xử lý Chất thải Nam Sơn, Sóc Sơn, Hà Nội được xây dựng trên khu vực xã Nam Sơn, huyện Sóc Sơn, cách trung tâm Hà Nội 45 km về phía Bắc, cách sân bay Nội Bài 15km về phía Đông Bắc. Diện tích quy hoạch cho Khu liên hợp là khoảng 100ha trong đó 60 ha dành cho khu chôn lấp rác thải (giai đoạn I là 13, 5ha), 6 ha cho trạm xử lý đốt rác thải với công suất dự kiến 200. 000 tấn/năm, 7, 5 ha dành cho nhà máy chế biến phân vi sinh (compost) với công suất dự kiến đạt 250. 000 tấn/năm và các công trình phụ trợ khác như trạm xử lý nước rác, trạm bơm, cấp nước. . . Thành phố Hà Nội là một trong những thành phố đầu tiên ở Việt Nam quan tâm đến bảo vệ môi trường ở các khu chôn lấp rác. Xây dựng Khu liên hợp xử lý chất thải tại Nam Sơn, Sóc Sơn, Hà Nội trong đó sẽ có Bãi chôn lấp hợp vệ sinh là một giải pháp kỹ thuật lớn trong việc giải quyết chất thải đô thị. Công tác thiết kế hợp lý và đúng kỹ thuật bãi chôn lấp, việc xây dựng trạm xử lý nước rác sẽ làm giảm tới mức tối thiểu mức độ gây ô nhiễm, phục vụ cho hoạt động ổn định của bãi chôn lấp. . Được biết, trong thời gian tới Hà Nội sẽ triển khai kế hoạch xây dựng 7 vùng nước xử lý nước thải ở Hồ Tây, Đống Đa, Thanh Trì… với kinh phí khoảng 200 triệu USD.
Rác thải là một trong những vấn đề quan trọng hàng đầu được các nhà quản lý quan tâm đến, vì nó là nguồn gốc gây nguy hại cho sức khoẻ cộng đồng, làm xấu môi trường cảnh quan và sinh thái đô thị. Thủ đô Hà Nội có diện tích 927, 5km2, gồm 7 quận nội thành và 5 huyện ngoại thành, dân số toàn thành phố khoảng 2, 6 triệu người trong đó dân số nội thành khoảng 1, 5 triệu. Từ tình hình cấp bách về quản lý chất thải rắn, Hà Nội đã có định hướng chiến lược về quản lý chất thải rắn bằng các biện pháp kỹ thuật như thu gom, vận chuyển, sản xuất phân vi sinh, thiêu rác v. v.
CHƯƠNG 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG DU LỊCH
3. 1 Đẩy mạnh tuyên truyền giáo dục cộng đồng tham gia bảo vệ môi trường.
Dưới đây xin nêu ra một số giải pháp nhằm góp phần bảo vệ môi trường trong phát triển du lịch ở các vườn quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên Việt Nam. Sau đó xây dựng các dự án khả thi và tiến hành đánh giá tác động môi trường trước khi triển khai thực hiện các dự án phát triển du lịch. Cần phải có sự tham gia thực sự của các bên liên quan và cộng đồng địa phương trong suốt quá trình quy hoạch và thực hiện dự án. Xây dựng chương trình giáo dục môi trường cho các đối tượng (khách du lịch, học sinh sinh viên, người dân địa phương). Nội dung GDMT phải phù hợp với các đối tượng và dựa trên các vấn đề môi trường, nguồn lực, phong tục tập quán, lối sống, văn hóavà tình hình cụ thể của từng địa bàn. Các nội dung chủ yếu có thể là: Nâng cao nhận thức của các đối tượng về giá trị của t ài nguy ên du lịch - đó là nơi bảo tồn các hệ sinh thái tự nhiên, những kho dự trữ thiên nhiên quý giá, bảo tồn những cảnh quan độc đáo, các loài động, thực vật đặc hữu và quý hiếm của Việt Nam, nơi nghiên cứu khoa học và thăm quan du lịch, điều hoà dòng chảy, hạn chế lũ lụt. . . ; Giáo dục về một số kỹ năng bảo vệ môi trường như phòng chống cháy rừng, bảo vệ các loài thú quý hiếm. . . ; Giáo dục về đạo đức môi trường và cách ứng xử thân thiện với môi trường.
Việc lựa chọn phương pháp, phương tiện đối với mỗi đối tượng phải rất linh hoạt và đa dạng: đối với đối tượng là người dân địa phương: Phải chọn các phương pháp giáo dục, truyền thông hướng tới cộng đồng, bao gồm: Phương tiện thông tin đại chúng ( đài phát thanh, truyền thanh, báo tường, bảng tin nơi công cộng, thi viết, thơ, nghệ thuật về một số vấn đề môi trường. . . ); thuyết trình có thiết bị nghe nhìn ( đèn chiếu, phim và video); giao tiếp giữa mọi người, thảo luận tổ dân phố, biểu diễn ca nhạc, múa rối, kịch, kể chuyện. . . ;sinh hoạt câu lạc bộ với các tên hấp dẫn ( Câu lạc bộ Bảo tồn, Sao la, Hổ. . . ); tổ chức tuyên truyền giáo dục môi trường nhân dịp các sự kiện đặc biệt như: lễ hội, phong trào thể thao, Ngày Môi trường thế giới, Ngày Đa dạng sinh học. . . ; và các phương tiện hướng tới cộng đồng khác như áp phích, áo phông, dây đeo chìa khoá, lịch, tem thư. . .
Đối với học sinh, sinh viên: Tuỳ theo đối tượng mà có thể chọn và áp dụng các hình thức: Lồng ghép chương trình GDMT vào các môn học, đưa vào chương trình giáo dục chính khóamôn Đạo đức môi trường; biên soạn giáo trình GDMT và tài liệu tham khảo cho giáo viên các cấp, tổ chức đi thăm quan thực tế ở các khu du lịch thi ên nhiên ; tổ chức các Câu lạc bộ xanh, câu lạc bộ bảo tồn. . . ); tổ chức các cuộc thi sáng tác văn, thơ, kịch, vẽ. . . về môi trường; tổ chức biểu diễn văn nghệ, ca nhạc. . . mang nhiều nội dung bảo vệ môi trường. Đối với khách du lịch: Phương thức phổ biến hiện nay là diễn giải môi trường - đó là quá trình chuyển từ một ngôn ngữ chuyên ngành khoa học tự nhiên hoặc một lĩnh vực liên quan sang dạng ngôn ngữ và ý tưởng mà những người bình thường, không làm công tác khoa học cũng có thể hiểu được.
Cần phải qui hoạch phát triển du lịch sinh thái, xây dựng trung tâm diễn giải môi trường, xây dựng chương trình diễn giải môi trường, đào tạo cán bộ diễn giải môi trường, xây dựng đường mòn thiên nhiên, làm bảng chỉ dẫn các tuyến thăm quan, tờ rơi, tờ gấp và các sách hướng dẫn du lịch.
Việc sử dụng các nguồn năng lượng mới như gió, ánh sáng mặt trời, khí sinh học sẽ không những giảm chi phí cho các khu du lịch mà còn làm giảm lượng tiêu thụ gỗ củi và giảm lượng phát thải khí nhà kính. Điều này còn có ý nghĩa bảo vệ các cánh rừng khỏi bị chặt hạ. Kỹ thuật làm phân compost có thể biến rác thải hữu cơ thành phân bón cho cây rừng. Việc xây dựng các nhà vệ sinh khô sử dụng các vi sinh sẽ làm giảm lượng tiêu thụ nước và làm mất mùi khó chịu ở các khu vệ sinh công cộng.
Xây dựng các mô hình quản lý với sự tham gia của các bên liên quan và cộng đồng địa phương: Theo điều 16. 4 của Quyết định 08/QĐ-TTg ngày 11/1/2001 của Thủ tướng Chính phủ thì "Việc du lịch, thăm quan trong các khu rừng đặc dụng do Ban Quản lý rừng đặc dụng tổ chức hoặc phối hợp, liên kết với ngành văn hoá, du lịch thực hiện". Vấn đề đặt ra là nên xây dựng mối quan hệ, phối hợp và liên kết ở cấp nào và quy mô ra sao để đạt được những mục tiêu bảo tồn và hiệu quả kinh doanh du lịch. Phát triển nhanh chóng, góp phần hỗ trợ công tác bảo tồn thiên nhiên và phát triển kinh tế cho cộng đồng địa phương. Cũng nhờ có cơ chế quản lý này mà nhiều nguồn vốn của trung ương và địa phương đã được huy động để phát triển cơ sở hạ tầng như phục hồi các biệt thự, làm đường mòn thiên nhiên, làm đường điện trong khu du lịch VQG Bạch Tại khu du lịch Ao Vua - VQG Ba Vì, người dân địa phương đã được huy động tham gia và hưởng lợi trong việc thu gom rác thải và bảo vệ rừng. Vì vậy vào mùa hè, mặc dù mỗi ngày có hàng vạn lượt khách đến thăm quan nhưng môi trường nơi đây vẫn được quản lý rất tốt
. Tăng cường hiệu lực của các văn bản pháp luật đã được chính phủ và các ngành liên quan ban hành. Cho đến nay hàng trăm văn bản pháp luật liên quan đến bảo vệ và quản lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường ở các n ơi. Nh ưng nhiều cửa hàng ăn với các món ăn đặc sản thú rừng vẫn ngang nhiên hoạt động. Một số công ty đã tự gán cho mình nhãn "Sinh thái" hoặc "du lịch sinh thái" để lôi kéo du khách. Vì vậy công tác giáo dục để người dân hiểu và thực hiện nghiêm chỉnh các văn bản pháp luật liên quan đến quản lý, bảo vệ và sử dụng tài nguyên có ý nghĩa lớn đối với công tác quản lý môi trường các khu du lịch cũng như đối với công tác bảo tồn thiên nhiên. Bên cạnh các phương tiện và phương pháp giáo dục đã nêu trên thì sự tham gia của đài truyền hình, phát thanh trung ương và địa phương vào công tác giáo dục, truyền thông môi trường, và phổ biến tuyên truyền các văn bản pháp luật cũng mang lại nhiều kết quả.
3. 2 Thu gom rác thải và cải tạo tình trạng ô nhiêm nước hồ.
Các cơ quan quản lý chủ động đầu tư trang thiết bị chuyên dụng để tổ chức thu gom rác thải tại những điểm du lịch. Đặt các thùng rác tại nơi hợp lý, nhất là các công viên, khu vui chơi giải trí. Đồng thời phải có biển cấm vứt rác bừa bãi, thành lập đội thu gom rác thải trên các phương tiện chuyên dụng. Tổ chức các tuần lễ du lịch xanh nhằm khuyết khích dân cư và khách du lịch cùng bảo vệ môi trường. Đưa các biện pháp xử lý rác thải sinh học như ủ phân vi sinh, sử dụng túi ủ Biogá bằng chất deo, tận dụng bã rắn làm chất đốt, làm thức ăn cho gia súc …Đồng thời phải cải thiện nguồn nước, đặc biệt là nguồn nước hồ. Cần phải thực hiện các giải pháp sau đây :
- Nạo vét định kỳ hồ. Hiện nay lượng bùn căn trong hồ quá lớn và mật độ chất lơ lửng tương đối lơn. Cho nên nạo vét hồ sẽ giải quyết được một lượng lớn bùn cắn hữu cơ, bùn, cát và các kim loại nặng tích tụ ở đáy, đồng thời tăng dung tích của hồ, bảo đảm khả năng điều hoà, nước về mùa mưa và khả năng làm sạch về mùa khô của hồ.
- Tách nước mưa đợt đầu ra khỏi hồ. cần xây dựng hệ thống cống xung quanh hồ để dẫn nước thải. Tại các cống bao cần xây dựng các giếng tách nước thải và nứoc mưa đợt đầu. Để đảm bảo đời sống của các thuỷ sinh vật, đặc biệt là các nuôi trong hồ, hàm lượng oxy hoà tan là yếu tố tiên quyết. Ngoài hai biện pháp cơ bản để cải tạo nước hồ đã nêu ở trên, cần phải thực hiện các biện pháp làm giàu oxy cho nước hồ : khuấy nước trong hồ bằng tàu thuyền, trò chơi trên mặt nước như thuyền đạp nước, hệ thống vòi phun nước …Tăng cường chế độ động trong hồ bằng cách bơm tuần hoàn nước từ cuối hồ về đầu hồ, kết hợp với hệ thống vòi phun nước xung quanh hồ. Xử lý nước thải sinh hoạt trước khi đổ ra sông, hồ …nhằm hạn chế độ ô nhiễm của lượng nước ngầm hiện nay ở các sông hồ Hà Nội nói riêng và ở Việt Nam nói chung.
3. 3 Xây dựng hành lang pháp lý và kiểm tra vử lý vi phạm.
Trách nhiệm bảo vệ môi trường của các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành: tuân thu các yêu cầu về bảo vệ môi trường khi xây dựng chương trình du lịch, không tổ chức các loại hình du lịch gây tổn hại đến môi trường. Đưa nội dung bảo vệ môi trường vào tài liệu hướng dẫn du lịch thông báo, nhắc nhở, chỉ dẫn khách du lịch tuân thủ các quy định về bảo vệ môi trường nơi đến du lịch. Trang bị kiến thức về bảo vệ môi trường, các biện pháp ứng cứu trong trường hợp xảy ra sự cố môi trưòng cho các hướng dẫn viên du lịch.
Trách nhiệm bảo vệ môi trường của các tổ chức cá nhân kinh doanh vận chuyển khách du lịch. Sử dụng phương tiện vận chuyển khách du lịch đáp ứng các yêu cầu về bảo vệ môi trường. Hướng dẫn, nhắc nhở khách du lịch không xả rác trên đuờng đi, thu gom, đổ đúng nơi quy định rác thải phát sinh trên phương tiện trong quá trình vận chuyển khách du lịch. Không xả khói, dầu, bụi, khí hoặc các chất chứa chất thải vượt quá tiêu chuẩn cho phép ra môi trương. Không vận chuyển các chất nổ, chất cháy, chất phóng xạ. Đối với các loại sản phẩm có mùi khó chụi mà được phép vận chuyển thi trước khi đưa lên phương tiện vận chuyển phải gói bọc kỹ, không để lọt mùi ra ngoài, không để vương vãi trên phương tiện vận chuyển và trên đường vận chuyển.
Trách nhiệm bảo vệ môi trường của ban quản lý, tổ chức, cá nhân, quản lý khu du lịch. Xây dựng nội quy bảo vệ môi trường phù hợp đặc thù của khu, điểm du lịch va niêm yết tại lối vào và nhữnh nơi dễ quan sát trong khu du lịch. đặt các thùng rác tại nơi thuận tiện để cho khách xả rác, thực thu gom hoặc hợp đồng với các ca nhân, tổ chức khác để thu gom rác chuyển đến nơi xử lý. Xây dựng khu vệ sinh tại vị trí phù hợp. Kiểm tra hướng dẫn yêu cầu tổ chức, cá nhân có hoạt động tại nơi, khu, điểm du lịch. Kịp thời các sự kiện suy thoái ô nhiễm tại điểm du lịch và thông báo ngay cho các cơ quan có trách nhiệm, đồng thơi thực hiện các biện pháp ngăn ngừa và khắc phục hậu quả trong phạm vi khả năng. Trách nhiệm của các cơ quan bảo vệ môi trường trong lĩch vực du lịch.
Trách nhiệm của Bộ tài nguyên và môi trường như chủ trì hoặc phối hợp với tổng cục du lịch soạn thảo và ban hành tiêu chuẩn chất lượng môi trường du lịch Việt Nam, tạo cơ sở pháp lý cho việc quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường trong lĩnh vực du lịch. Hướng dẫn các sở du lịch tài nguyên và môi trường, sở quản lý về du lịch xây dựng và trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành các quy định về bảo vệ môi trường trong lĩnh vực du lịch ở địa phương và triển khai các hoạt động bảo vệ môi trường du lịch. Hướng dẫn tổng cục du lịch, uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung Ương tiến hành đánh giá, xác định thiệt hại và khắc phục hậu quả suy thoái môi trường gây ra có ảnh đến du lịch.
Trách nhiệm của tổng cục du lịch. Đưa nội dung bảo vệ môi trường vào chiến lược, kế hoạch phát triển du lịch. Chủ trì hoặc phối hợp với bộ tài nguyên và môi trường tổ chức tuyên truyền giáo dục và hướng dẫn các tổ chức, cá nhân có liên quan thực hiện các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường trong lĩnh vực du lịch. Xây dựng, ban hành theo thẩm quyền, cơ chế khuyến khích các tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động cải thiện, tôn tạo bảo vệ môi trường.
Khen thưởng và xử lý vi phạm, tổ chức cá nhân có thành tích trong việc bảo vệ, tôn tạo môi trường du lịch được khen thưởng theo quy định của Pháp luật. Tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm các quy định về bảo vệ môi trường thì đều bị xử lý theo quy định của Pháp luật. Trường hợp các tổ chức, cá nhân gây ô nhiễm, suy thoái hoặc sự cố môi trường mà không có các biện pháp khắc phục hoặc biện pháp khắc phục không đủ khôi phục tình trạng ban đầu thì phải chụi trách nhiệm thanh toán mọi chi khắc phục theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
KẾT LUẬN
Mặc dù đề tài đưa ra chỉ là một góc cạnh nhỏ của vấn đề môi trường và du lịch. Nhưng cũng phần nào nói lên được tác động của du lịch đến môi trường tự nhiên Việt Nam nói chung và trên địa bàn Hà Nội nói riêng. Hà Nội ngàn năm văn hiến – đã và mãi mãi sè là điểm đến đầy quyến rũ đối với khách du lịch. Mục tiêu của ngành du lịch Hà Nội đến năm 2005 đón 5 triệu khách du lịch trong đó 1 triệu khách du lịch quốc tế, doanh thu du lịch đạt 645 triệu USD. Năm 2010 đón 8. 5 triệu khách du lịch, trong đó 1. 6 triệu khách quốc tế, doanhh thu du lịch đạt 1. 4 tỷ USD. Mức tăng trưởng du lịch bình quân 13. 15%/năm GDP du lịch chiếm 13-14% trong cơ cấu GDP toàn thành phố, và đưa ngành du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Để làm được điều đó thì thành phố Hà Nội cần tăng cường công tác tuyên truyền quảng bá du lịch tạo dựng các sản phẩm du lịch để thu hút khác du lịch dến Hà Nội ; cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các cấp, các ngành để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho du lịch phát triển, mà đặc biệt là phát triển khai thác các công trình bảo vệ môi trường nhằm duy trì vẻ đẹp tự nhiên của các tài nguyên du lịch Hà Nội.
Tuy đã có nhiều cố gắng và sự giúp đỡ của giáo viên hướng dẫn, song bài viết vẫn không tránh khỏi sai sót. Vì vậy, em rất mong được sự góp ý của các thầy cô giáo để nâng cao kiến thức, hy vọng bài viết tiếp theo sẽ đạt kết quả cao hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Du lịch và sinh thái - tác giả Thế Đạt - NXB Lao động
2. Tài nguyên và môi trường du lịch Việt Nam - tác giả Phạm Trung Lương (chủ biên) - NXB Giáo dục năm 2001.
3. Giáo trình Kinh tế du lịch - tác giả GS. TS Nguyễn Văn Đính và TS. Trần Thị Minh Hoà - NXB Lao động xã hội, Hà Nội năm 2004.
4. Tạp chí Du lịch Việt Nam: Số 9-2001
Số 8, 10 - 2002
Số 3, 10, 11 - 2003
Số 3, 8, 9, 10 - 2004
5. Tạp chí Bảo vệ môi trường số 3, 7, 10, 15, 17 năm 2004
6. com
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- DA127.doc