Đề tài Tìm hiểu chính sách kinh tế mới của Lênin và sự vận dụng nó ở Việt Nam

Tài liệu Đề tài Tìm hiểu chính sách kinh tế mới của Lênin và sự vận dụng nó ở Việt Nam: PHẦN THỨ NHẤT LỜI MỞ ĐẦU Sau 15 năm đổi mới, nhất là trong 5 năm gần đây nền kinh tế xã hội nước ta đã đạt được những bước tiến đáng kể. Năm 2020 Việt Nam sẽ là một thị trường rộng lớn có số dân khoảng 100 triệu người đứng hàng thứ hai trong số các nước có dân số lớn ở Đông Nam á, thứ 7 so với các nước Châu á Thái Bình Dương và đứng hàng thứ 10 trên thế giới. Với nhịp độ tăng trưởng kinh tế là 8,2% giai đoạn 1991-1995 và 6,9% thời kì 1996-2000, khoảng 7-8% thời kì 2000-2010 cho thấy sau một vài thập kỉ tới Việt Nam sẽ là một quốc gia có sức vươn mạnh mẽ trên con đường công nghiệp hóa hiện đại hoá. Tuy nhiên những khó khăn thách thức về kinh tế xã hội đã gây cản trở cho việc thực hiện những mục tiêu phương hướng của Đảng và chính phủ nhằm đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp hoá hiện đại hoá. Trên cơ sở thực tiễn, nước ta và thế giới trước thềm thế kỉ 21, với những thành công và thất bại, vận hội và thách thức, vấn đề là phải nhận thức lại chủ nghĩa xã hội. Mọi vấn đề cần phải ...

doc59 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1041 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Tìm hiểu chính sách kinh tế mới của Lênin và sự vận dụng nó ở Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN THỨ NHẤT LỜI MỞ ĐẦU Sau 15 năm đổi mới, nhất là trong 5 năm gần đây nền kinh tế xã hội nước ta đã đạt được những bước tiến đáng kể. Năm 2020 Việt Nam sẽ là một thị trường rộng lớn có số dân khoảng 100 triệu người đứng hàng thứ hai trong số các nước có dân số lớn ở Đông Nam á, thứ 7 so với các nước Châu á Thái Bình Dương và đứng hàng thứ 10 trên thế giới. Với nhịp độ tăng trưởng kinh tế là 8,2% giai đoạn 1991-1995 và 6,9% thời kì 1996-2000, khoảng 7-8% thời kì 2000-2010 cho thấy sau một vài thập kỉ tới Việt Nam sẽ là một quốc gia có sức vươn mạnh mẽ trên con đường công nghiệp hóa hiện đại hoá. Tuy nhiên những khó khăn thách thức về kinh tế xã hội đã gây cản trở cho việc thực hiện những mục tiêu phương hướng của Đảng và chính phủ nhằm đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp hoá hiện đại hoá. Trên cơ sở thực tiễn, nước ta và thế giới trước thềm thế kỉ 21, với những thành công và thất bại, vận hội và thách thức, vấn đề là phải nhận thức lại chủ nghĩa xã hội. Mọi vấn đề cần phải xem xét trong vận động sáng tạo phản ánh đúng bản chất cách mạng và khoa học của nó theo bản sắc Việt Nam. Do đó, không thể giải quyết những vấn đề kinh tế xã hội của đất nước bằng các chủ trương biện pháp duỵ trên tư duy cũ, mang tính chất bị động và đối phó với tình hình. Ngược lại, nó đòi hỏi phải có những chiến lược, sách lược vừa mang tính tình thế, có khả năng đáp ứng yêu cầu trước mắt vừa tạo nền móng cho sự phát triển lâu dài. Tiềm năng tư duy lý luận, chính trị và nghệ thuật lãnh đạo, tổ chức thực tiễn của Lênin trong thời kì chính sách kinh tế mới vẫn luôn luôn là cội nguồn của sự sáng tạo của những người cộng sản đang trực tiếp lãnh đạo công cuộc xây dựng xã hội mới với các giai đoạn phát triển khác nhau. Cũng như trước đây, dân tộc ta phải khai phá con đường giải phóng đất nước. Xã hội ngày nay chúng ta đang khai phá một con đường mới xuất phát từ những điều kiện kinh tế, xã hội,văn hoá, con người Việt Nam trong thời đại mới. Thành công nổi bật của cách mạng nước ta là dựa vào sức mình là chính, đồng thời coi trọng sự giúp đỡ quốc tế, tham khảo kinh nghiệm của nước ngoài là giàu thêm sự hiểu biết của ta, độc lập tự chủ, giải quyết đúng đắn vấn đề do công cuộc đổi mới ở nước ta đặt ra. Chính vì thế, việc nghiên cứu và vận dụng NEP vào nước ta trong giai đoạn hiện nay trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Với vốn hiểu biết ít ỏi, bài đề án này xin đề cập đến Chính sách kinh tế mới của Lênin và sự vận dụng nó ở Việt Nam mà chủ yếu là thông qua sự phân tích khoa học của Đảng và những đường lối chính sách đổi mới sáng tạo của Nhà nước ta. Bài viết này là sự khẳng định con đường tiến lên CNXH ở nước ta hiện nay. Trước khi vào bài viết, em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của các thầy cô giáo, đặc biệt là thầy Nguyễn Tiến Long, giảng viên môn Kinh tế chính trị - trường đại học kinh tế quốc dân đã giúp đỡ để em có thể hoàn thành bài luận văn này đúng thời hạn. PHẦN THỨ HAI CƠ SỞ CỦA ĐỀ TÀI CHƯƠNG I : CƠ SỞ LÝ LUẬN A. Hoàn cảnh ra đời của chính sách kinh tế mới của Lênin. Mùa xuân 1921 đi vào lịch sử Liên Xô và lịch sử của chủ nghĩa xã hội thế giới như một bước ngoặt: Đảng cộng sản và nhà nước Xô Viết trẻ tuổi ban hành chính sách kinh tế mới. Nep từ gọi tắt “ chính sách kinh tế mới” được Lênin dùng lần đầu tiên vào tháng 2 năm 1992, mãi mãi vang nên trong tâm trí biết bao thế hệ những người cộng sản các nước khi họ bắt tay vào giải quyết những vấn đề phức tạp của chặng đầu thời kì quá độ nên chủ nghĩa xã hội từ điểm xuất phát khác nhau hoặc khi họ gặp khó khăn, gặp sai lầm khuyết đIểm trong lãnh đạo kinh tế-xã hội. Cuối năm 1920, phần lớn đất nước Liên Xô được giải phóng khỏi bon can thiệp và bạch vệ. Tiêp đó, sự kết thúc nội chiến đã tạo ra những điều kiện cần thiết để thực hiện kế hoạch xây dựng cơ sở vật chất của nền kinh xã hội chủ nghĩa (XHCN), kế hoạch mà Lênin nêu từ mùa xuân năm 1918. Tuy nhiên tinh hình kinh tế, chính trị của đất nước vào cuối năm 1920 đầu năm 1921 đã khác nhiều so với đầu năm 1918. công lao lịch sử vĩ đại của Lênin và Đảng do người lãnh đạo là sớm nhận thấy những đặc đIểm kinh tế chính trị khác trước, đã phát hiện những mâu thuẫn và đưa ra sự phân tích khoa học về các mâu thuẫn ấy. 1.sự nỗi thời của “ chủ nghĩa cộng sản thời chiến”. * Không bao lâu sau Cách mạng tháng Mười, việc thực hiện kế hoạch xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH) của Lênin bị gián đoạn bởi cuộc nội chiến 1918-1920. Trong thời kì này Lênin đã áp dụng “chính sách công sản thời chiến “ Mục đích trước tiên của chính sách này là tập chung toàn bộ lực lượng của xã hội và của nhà nước vào việc đảm bảo chiến thắng thù trong giặc ngoài. Nhưng đồng thời chính sách này còn nhằm mục đích khác là thủ tiêu chủ nghĩa tư bản và gốc rễ của nó ở trong nước để có thể nhanh chóng “vượt qua” không chỉ là thời kì quá độ giữa CNTB và CNXH, mà nó còn vượt qua cả chính CNXH tiến thẳng lên CNCS. Nội dung của chính sách cộng sản thời chiến là: nhanh chóng thưc hiện “Quốc doanh hoá” nền kinh tế bằng cách quốc hữu hoá tất cả các xí nghiệp lớn, sau đó cả xí nghiệp vừa và nhỏ; Nhanh chóng xoá bỏ thương nghiệp tư nhân lớn và nhỏ như cấm buôn bán ở chợ trong môt số thành phố, đóng cửa các trung tâm buôn bán lớn; Nhà nước quản lý hầu hết nông sản, trưng thu và mua nông sản, chuyển mạnh sang phương thức Nhà nước quản lý trực tiếp sản xuất nông nghiệp. Phương pháp lãnh đạo cứng rắn, chủ yếu là những phương pháp chỉ huy mệnh lệnh và do hoàn cảnh chiến tranh bắt buộc đòi hỏi tác chiến nhanh và kiên quyết. Quan niệm của chính sách “Chủ nghĩa cộng sản thời chiến” về sự phát triển của cách mạng và những mục tiểu của nó: “Được cao trào nhiệt tình lôi cuốn, chúng ta, những người đã từng thức tỉnh nhiệt tình của nhân dân, trước hết về mặt chính trị rồi sau về mặt quân sự,- Lênin đã viết-chúng ta đã tính đến là có thể dựa vào nhiệt tình đó mà trực tiếp thực hiện những nhiệm vụ kinh tế cũng to tát (như những nhiệm vụ chính trị chung, như những nhiệm vụ quân sự)”, đó chính là chuyển ngay sang sản xuất và phân phối cộng sản chủ nghĩa. Để chuyển như vậy cần có phải những biện pháp sau: Tuỳ theo từng khả năng mà tập trung vào tay nhà nước mọi hình thức hoạt động kinh tế; tập trung hóa việc quản lý kinh tế và chính trị; tước đoạt giai cấp tư sản, để cả tước đoạt ở nông thôn, cưỡng bức phân bố các nguồn lao động kể cả huy động cán bộ vào các ngành then chốt(quân sự hoá lao động); lao động nghĩa vụ chung và các hình thức lao động không trả tiền khác; khuynh hướng nhà nước trưng thu của những người sản xuất toàn bộ sản phẩm thặng du, xu hướng san bằng đIều kiện vật chất và tương tự như thế, chuyển sang chế độ phân phối bằng hiện vật thông qua nhà nước theo nguyên tắc bình quân; áp dụng đến mức độ tối thiểu vai trò các kích thích bằng kinh tế. Đó chính là “mô hình kinh tế - xã hội” theo quan niệm chuyển trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội, không cần qua các giai đoạn trung gian, không cần qua hình thức quá độ. Chính sách cộng sản thời chiến đóng vai trò quan trọng trong thắng lợi của Nhà nước Xô Viết trong cuộc chiến tranh không khoan nhượng chống CNTB. Nhờ nó mà quân sự đủ sức để chiến thắng kẻ thù, bảo vệ được Nhà nước Xô Viết. Xác định tính xác thực của chính sách này bằng logic đấu tranh vì một chế độ mới, sau khi thay đổi đường lối, Lênin đã viết: “chúng ta không thể không hành động khác được. Bất cứ một hành động nào khác, về phía chúng ta đều có nghĩa là hoàn toàn đầu hàng ”. Người cũng nhấn mạnh rằng “chế độ công sản thời chiến” lại là thành tích của chúng ta. * Tuy nhiên khi hoà bình lập lại, chính sách cộng sản thời chiến không còn thích hợp, nó trở thành nhân tố kìm hãm sự phát triển sản xuất. Đặc biệt cùng với hậu quả nặng nề của 7 năm chiến tranh đế quốc và nội chiến đã làm cho tình hình kinh tế xã hội trở nên nóng bỏng: - Về công nghiệp: Ước tính 1/4 tài sản quốc gia mất đi, trong đó nền công nghiệp bị tổn thất lớn nhất. Tổng sản lượng công nghiệp năm 1920 so với năm 1917 giảm đi 4 lần, số người làm việc giảm gần 1/2. Do đó, tỷ trọng sản phẩm công nghiệp trong nền kinh tế năm 1920 là 25%. Hầu như tất cả các ngành đều sa sút. Nguyên vật liệu dự trữ đã dùng hết. So với năm 1913, sản xuất đại công nghiệp giảm xuống tới 12,8%, còn công nghiệp giảm xuống 44,1%. Do đó tương quan đã thay đổi nghiêng về tiểu công nghiệp(từ 24,2% đến 52,3%) . - Về nông nghiệp: Diện tích gieo trồng sản lượng ngũ cốc, sản lượng chăn nuôi đều giảm, bình quân ngũ cốc đầu người là 246 kg còn trước chiến tranh là 405 kg. - Về giao thông vận tải: Bị tàn phá nghiêm trọng, 61% số đầu máy và 28% số toa xe bị phá, cùng với 4000 chiến cầu và các ga xe, kho tàng. So với trước chiến tranh, khối lượng vận chuyển năm 1920 chỉ còn 20% (không tính đến khối lượng vận chuyển của quốc phòng và nhu cầu của bản thân đường xe lửa là 12%). - Về tàI chính tín dụng: Lâm vào tình trạng rối loạn. Năm 1918 bội chi ngân sách 31 tỷ rúp, năm 1921 con số bội chi nên tới 21,937 tỷ rúp. Mức dự trữ vàng của ngân hàng thế giới giảm sút nghiêm trọng. Khối lượng tiền tệ tăng nhanh trong khi khối lượng hàng hoá giảm đã đưa đến sự tăng vọt của giá cả. Mức giá trung bình toàn quốc năm 1923 tăng 21 triệu lần so với năm 1913. Đồng thời xu hướng hiện vật hoá trong nền kinh tế tăng dần nên. Do sản xuất lưu thông sa sút nên đời sống nhân dân lao động cang thêm khó khăn so với hồi chiến tranh. Tiền lương thực tế của công nhân công nghiệp trước chiến tranh là 22 tỷ rúp đã giảm xuống còn 8,3 tỷ rúp năm 1920. Do thiếu ăn thường xuyên, thiếu thuốc men chữa bệnh nên tỷ lệ công nhân mắc bệnh và tử vong tăng lên. Trong lúc đó, vì thiếu đIều kiện sản xuất nên nhiều nhà máy phải đóng cửa, số người không có việc làm tăng lên, do đó tình trạng biến chất giai cấp của giai cấp công nhân tiếp tục diễn ra. Trong thời kì nội chiến, “chính sách công sản thời chiến” gây thiệt hại cho lợi ích nông dân, tuy nhiên sự thiếu thốn, khó khăn trong đời sống của nông dân và công nhân trong thời kì ấy không gây ra sự mệt mỏi về tinh thần, vì quần chúng lao động sẵn sàng lao động quên mình để góp phần vào việc tiêu diệt bọn phản cách mạng, thiết lập và dữ vững chính quyền nhân dân. Nhưng sau chiến tranh, khi những hi vọng trông chờ vào việc cảI thiện đời sống vật chất và tinh thần không được đáp ứng thì lòng tin giảm dần và sự bất mãn bắt đầu tăng lên. Đó là đIều kiện để bon phản cách mạng lợi dụng lừa rối quần chúng tập hợp lực lượng hòng tấn công vào chính quyền Xô Viết non trẻ. * Cuộc khủng hoảng xuất hiện ngay sau khi ngừng tiếng súng. Nguy cơ đó lại tiếp tục tăng lên, đòi hỏi những người công sản phảI xem xét, nhận thức sâu sắc hơn, đầy đủ hơn về lý luận và thực tiễn thời kì quá độ từ CNTB lên CNXH. Thứ nhất, mâu thuẫn khách quan trong sự ra đời nước Nga. Khi nói về mô hình “cộng sản thời chiến”, Lênin cũng chỉ ra sự lác hậu, nghèo đói của nước Nga lúc bấy giờ và sự đổ lát đã thúc đẩy phải tìm kiếm con đường khắc phục những khó khăn vô cùng to lớn về kinh tế qua việc thực hiện lao động ngang nhau. Thêm vào đó, trong lý luận CNXH khoa học, Lênin chưa thảo ra lý luân chính trị và kinh tế - xã hội của thời kì quá độ và thời kì xây dựng CNXH. Cuối cùng, tình trạng rối loạn trong đội ngũ kẻ thù giai cấp, sự rút lui không có trật tự, dường như là sự sụp đổ hoàn toàn của chế độ tư sản khiến mọi người tin rằng việc tổ chức và phân phối phù hợp với dự kiến về CNCS của Mác và Aghen, không có kích thích kinh tế, đồng thời xoá bỏ quan hệ hàng hoá tiền tệ là hoàn toàn hiện thực. Vì vậy việc mất giá đồng tiền xay ta lúc đó, cũng như việc thay buốn bán bằng phân phối sản phẩm tập trung, trong đó có phân phối bằng tem phiếu và trưng thu lương thực, được coi là những quá trình tự nhiên, là bằng chứng về sự phát triển rất đáng mong mỏi và hơn nữa là sự phát triển nhanh chóng đi lên CNCS. Còn về mặt chính trị của mô hình “cộng sản thời chiến” thì thực chất là việc dẫn tới chỗ nhà nước hoá toàn bộ. Nhưng lại nảy sinh vấn đề kết hợp như thế nào việc đó với viến cảnh ro Mác vạch ra về sự tiêu vong của nhà nước. Để trả lời câu hỏi này, Lênin nói về tính chất rất tạm thời của nhà nước, về sự tồn tại của nhà nước cho đến khi các giai cấp mất đI, vấn đề này hầu như không còn xảy ra nữa. Chiến tranh còn đang tiếp tục, việc nhà nước hóa là tất yếu và tiết thực, cũng như sự độc quyền của nhà nước về sản xuất và phân phối kèm theo nó là những mặt tiêu cực của sự độc quyền mà Lênin đã cố gắng khắc phục sau này. 2. Sự phân tích của Lênin về những mâu thuẫn kinh tế và chính trị. Phân tích nguyên nhân của cuộc khủng khoảng năm 1921 ở nước Nga Lênin cho rằng nguyên nhân trực tiếp là do đời sống kinh tế của người lao động xấu đi, đặc biệt là họ đã phải đau đớn chấp nhận tình hình xấu đi đó sau khi họ đã dự định cải thiện tình cảnh chung ở trong nước và đã thấy được sự cải thiện đó. Viêc chỉ rõ mối quan hệ lẫn nhau: sự cải thiện gay niềm hi vọng, sự xấu đi đột ngột - sự bất mãn sâu sắc và khủng hoảng là những quan sát hết sức tinh tế của Lênin. Lênin còn nhìn thấy ở nền kinh tế cả những nguyên nhân sâu xa hơn của cuộc khủng hoảng. Đó là những biểu hiện về mặt chính trị của sự thiếu tổ chức và không phù hợp về mặt kinh tế. Thứ nhất: Mâu thuẫn khách quan trong sự ra đời của CNXH ở nước Nga. Điều kiện lịch sử cụ thể của nước Nga trong đó CNXH hiện thưc ra đời lại không như học thuyết Các Mác đã phân tích về mặt lý luận. Đặc điểm của nước Nga là sự lạc hậu tương đối về kinh tế, là sự quyện chặt giữa tư bản độc quyền hiện đại với tàn tích phong kiến. Quan hệ tiền tư bản chủ nghĩa chủ yếu tồn tại trong nông thôn(dân số nông thôn chiếm 82,4% dân số, kinh tế nông nghiệp chiếm 51,4% thu nhập quốc dân). Đặc điểm này được Lênin rất chú ý phân tích khi người vạch ra chiến lược tình thế giải quyết khủng hoảng và chiến lược lâu dài xây dựng CNXH. Đặt đúng vị trí của vấn đề nông dân và nông nghiệp trong chiến lược và sách lược của Đảng có ý nghĩa quyết định đến bảo vệ những thành quả Cách mạng và xây dựng CNXH. Trước đây, chính quyền Xô Viết đứng vững được trong nội chiến và sự can thiệp của nước ngoài là nhờ tinh thần hi sinh của nhân dân trước hết là giai cấp công nhân và giai cấp công nhâ. Nhiệt tình cách mạng là động lực duy nhất trong chiến đấu và chiến thắng. Sau chiến tranh, giai cấp công nhân vẫn là người chủ yếu nuôi sống đất nước, đời sống của họ lại đang thiếu thốn khó khăn. Nếu Đảng giữ được nhiệt tình cách mạng và lòng tin của họ thì bảo vệ được cách mạng. Ngược lại, nếu làm mất lòng tin của họ thì sự nghiệp sẽ hết sức nguy hiểm. Giữ vững lòng tin lúc này có ý nghĩa là phải tìm ra động lực của thời kì xây dựng. Xuất phát từ sự phân tích đó, Lênin đã chỉ ra rằng: phải bắt đầu từ nông dân và nông nghiệp, phải cải thiện đời sống người lao động trên cơ sở xây dựng quan hệ kinh tế bình thường giữa nông nghiệp với công nghiệp, củng cố liên minh công nông trên cơ sở kinh tế nhằm lôi cuốn những người sản xuất nhỏ vào việc xây dựng đất nước và đi lên CNXH. Chỉ có một chính sách như vậy mới tạo được tiền đề cho sự nghiệp công nghiệp hoá XHCN. Tư tưởng đó của Lênin đóng vai trò quyết định trong việc đưa ra lý luận Mac-xit về thời kì quá độ vào thực tiễn cuộc sống và làm phong phú thêm lý luận đó. Nhờ tư tưởng ấy mà Đảng đã sửa chữa được những sai lầm trong thời kì đó. Thứ hai: những sai lầm chủ quan của những người công sản cũng là một thực tế phải giải quyết đồng thời với việc giải quyết mâu thuẫn khách quan. Trong những năm tháng áp dụng “Chính sách cộng thời chiến” đã hình thành quan niệm về khả năng quá độ trực tiếp lên CNXH. Nhiều chủ trương, biện pháp quá đáng ra đời từ quan niệm này là một trong những nguyên nhân làm tăng nguy cơ khủng hoảng. Mô hình kinh tế xã hội theo quan điểm trực tiếp lên XHCN. Không qua các giai đoạn trung gian, không qua các hình thức quá độ. Mô hình đó không phải dừng lại ở quan niệm mà đã thể hiện trong thực tế sau khi chiến tranh kết thúc “một cuộc thí nghiệm không lâu lắm cho chúng ta thấy rõ rằng cách làm như vậy là sai, là trái với những điều trước kia chúng ta đã viết về bước quá độ từ CNTB lên CNXH ”. Lênin đã chỉ ra vậy. Quan niệm này không phải chỉ là sản phẩm duy ý chí của người quản lý mà trong đó còn phản ánh nguyện vọng của đông đảo quần chúng lao động muốn nhanh chóng thoát khỏi cảnh nghèo khổ hôm quan. Rõ ràng đây là quan niệm mang tính chất lãng mạn và ảo tưởng nhưng đã lặp đi lặp lại ở nhiều nước kém phát triển XHCN, hay đang ở chặng đầu thời kì quá độ lên CNXH. Vì vậy, ngay từ năm 1921 khi phân tích quan niệm sai lầm về khả năng quá độ trực tiếp lên XHCN, Lênin đã chú ý tới ý kiến của Aghen phân tích kinh nghiệm những năm 1648 và 1789 cho rằng: “hình như có một quy luật đòi hỏi cách mạng phải tiến xa hơn là nó có thể làm được”. Chính đặc điểm đó của phong trào quần chúng đòi hỏi Đảng lãng đạo có sự phân tích cụ thể trong tình hình cụ thể khi vận dụng lý luận vào thực tiễn. Điều này đã được thực tiễn chứng minh ở hai trường hợp trước và sau khi ban hành chính sách kinh tế mới. * Trong thời gian thực hiện những chủ trương biện pháp quá đáng (trước khi thực hiện), do không đếm xỉa đến đặc điểm và điều kiện lịch sử cụ thể của công cuộc xây dựng CNXH, do sự chi phối của quan niệm chuyển trực tiếp lên CNXH nên tình trạng khủng hoảng ngày càng trầm trọng: sản xuất sa sút hơn, nhất là nông nghiệp. Dân số ăn theo chế độ cung cấp của Nhà nước tăng nhanh trong khi mức lương thực cung cấp ngày càng ít thấp hơn nhiều so với mức sống cần thiết. Các chỉ tiêu thu mua trưng thu cứ tăng lên, nhưng kết quả cứ giảm xuống, nhu cầu tiền mặt càng tăng, càng phải in và phát hành thêm thì sức mua của đồng tiền càng giảm. Số lượng của giai cấp công nhân đã giảm 1/2, trong đó một bộ phận chuyển về nông thôn. Nông dân ngày càng không bằng lòng với các chính sách của Đảng. Sai lầm trong lĩnh vực hoạt động kinh tế gây ra hậu quả chính trị nặng nề: liên minh công nông đứng trước nguy cơ tan rã, chuyên chính vô sản không được củng cố, vai trò lãnh đạo của Đảng yếu đi. Tình trạng an ninh chính trị và an toàn ngày càng xấu. Ngược lai, với tình trạng trên đây, tình hình kinh tế và chính trị được cải thiện nhanh chóng sau khi ban hành NEP vào tháng 3/1921. ngay sau đó, vụ thuế lương thực đầu tiên đạt 96% (mặc dù tỉ xuất thu đã được hạ thấp và năm 1921 là năm bị hạn hán và lạn đói hoành hành mạnh nhất). Thắng lợi đầu tiên ấy chứng tỏ NEP là cong đường đi đúng đắn. Còn sau đó, giữa năm 1922 đến năm 1925, nông nghiệp phát triển mạnh, trong đó sản xuất lương thực từ 56,3 triệu tấn tăng lên 74,7 triệu tấn. Nông thôn hoạt động sôi nổi. Nông nghiệp được phục hồi và phát triển kéo theo sự khôi phục công nghiệp và thương nghiệp. Đời sống nhân dân lao động được ổn định trở lại sau một năm thi hành chính sách kinh tế mới, Lênin nói “ Nông dân lấy làm hài lòng với tình trạng của họ hiện nay. Chúng tôi có thể mạnh dạng khẳng định như thế.” Sau bốn năm rưỡi thi hành chính sách NEP, nước Nga Xô Viếtkhông chỉ khắc phục được hậu quả của chiến tranh và nạn đói mà sản xuất còn vượt mức chiến tranh. “ Từ nước Nga của chính sách kinh tế mới sẽ nảy ra nước Nga XHCN ”. Tính chất đúng đắn của NEP đã được lịch sử chứng minh. Ngày nay muốn vận dụng NEP và có kết quả cần phải đi sâu vào nội dung cơ bản của NEP. B. nội dung và các biện pháp chủ yếu của chính sách kinh tế mới (NEP). Theo quan điểm của Lênin, khủng khoảng là một quá trình tích tụ và làm gay gắt thêm những mâu thuẫn trên lĩnh vực quan trọng của đời sống xã hội. Sự phân tích sâu sắc của Lênin và chiến lược giải quyết một cách thắng lợi cuộc khủng khoảng năm 1921 chính là ở chỗ vạch ra và làm sáng tỏ mối quan hệ qua lại giữa các lĩnh vực quan trọng nhất: chính trị - xã hội - kinh tế. Vì thế, tiếp cận nội dung của NEP trước hết phải theo quan điểm hệ thống, cho phép nhìn rõ được các mối quan hệ ảnh hưởng lẫn nhau. Tách riêng từng nội dung, từng vấn đề trong hệ thống các biện pháp đó thì không nhận thức đầy đủ, thậm chí hiểu sai NEP. Trong những nhân tố thúc đẩy cuộc khủng hoảng thì nhân tố đầu tiên là các chính sách chủ trương vi phạm lợi ích kinh tế của người lao động, trước hết là nông dân, trong điều kiện họ đã mệt mỏi trong chiến tranh, bị kiệt sức vì nạn đói, thiếu công ăn việc làm và thiếu điều kiện bình thường về trật tự và an toàn xã hội (chủ yếu do nan cướp bóc). Một nhân tố quan trọng khác thúc đẩy cuộc khủng hoảng, được Lênin chỉ ra là tệ nạn quan liêu trong bộ máy nhà nước, xuất hiện sự thoái hoá; hiện tượng một bộ phận cán bộ, nhân viê, kể cả một số người lãnh đạo xa rời quần chúng, thiếu tôn trọng lợi ích quần chúng càng phát triển thì càng tăng thêm sự mất lòng tin và bất mãn trong quần chúng nhân dân. Trong điều kiện Đảng lãnh đạo chính quyền, Lênin đã gắn cuộc khủng hoảng năm 1921 với tình hình nội bộ của đảng Bôn - sê - vích và đã xem xét: ý nghĩa của cuộc khủng hoảng chính trị và cuộc khủng hoảng trong Đảng. Ngoài ra một trong những nhân tố của cuộc khủng hoảng là vai trò của bọn phản động quốc tế qua sự kiện nổi loạn ở Gôn-stát. Xem xét toàn diện các nhân tố của cuộc khủng hoảng Lênin đã chỉ ra nguyên nhân chủ yếu của cuộc khủng hoảng là nguyên nhân bên trong những sai lầm về lãnh đạo quản lý, trước hết và chủ yếu là lĩnh vực kinh tế. Vì vậy, những nội dung chủ yếu của NEP thực chất không phải là một số các biện pháp tổng thể các biện pháp, mà là một cơ chế kinh tế. Mục tiêu trước mát và cấp bách mà cơ chế trong NEP thực hiện là ổn định và cải thiện đời sống của những người lao động ( kể cả biện pháp cấp bách xuất 10 triệu rúp vàng để nhập lương thực và hàng tiêu dùng) và các biện pháp nhằm bảo vệ và củng cố chính quyền Xô Viết được coi là mục tiêu hàng đầu. Các nội dung của NEP là một hệ thống gồm nhiều mắt xích liên hoàn nhau, có mối quan hệ bên trong như một dây chuyền, không thể thiếu khâu nào. Tất cả các khâu tạo thành một cơ chế kinh tế cho phép nhà nước tháo gỡ khó khăn, điều hành sự vận động kinh tế xã hội. Sau đây là những nội dung chủ yếu của cơ chế kinh tế NEP. 1. Thuế lương thực Trong điều kiện nước Nga lúc bấy giờ, giai cấp công nhân và nông nghiệp là nguồn nuôi sống xã hội. Sản xuất và đời sống xã hội phụ thuộc vào nông nghiệp. Khó khăn lớn nhất mà Nhà nước vấp phải là thiếu lương thực. Nạn đói 1921 càng tăng thêm khó khăn đó. Vì vậy, mục đích trực tiếp của thuế lương thực là một trong những “biện pháp cấp tốc cương quyết nhất, cấp thiết nhất để cải thiện đời sống của người nông dân và nâng cao lực lượng sản xuất của họ “(1) Thực hiện thuế lương thực, xoá bỏ chế độ trưng thu lương thực thừa có nghĩa là chuyển từ biện pháp hành chính thuần tuý sang biện phap kinh tế, thuế lương thực có vai trò của bước quá độ đó. Lúc ấy Lênin đã đặt ra câu hỏi: “Tại sao nhà nước vô sản trước hết lại cải thiện đời sống của nông dân chứ không phải là công nhân”. Và người là người trực tiếp trả lời câu hỏi đó: “vì muốn cải thiên đời sống của người công nhâ thì phải có bánh mỳ và nhiên liệu. Đứng về phương diện toàn bộ nền kinh tế quốc dân của chúng ta hiện nay, trở ngại lớn nhất là ở đó, thế mà chúng ta chỉ có thể tăng thêm sản xuất và thu hoạch lúa mỳ, tăng thêm dự trữ và vận tải nhiên liệu bằng cách cải thiện đời sống nông dân. Người nào không hiểu điều đó, người nào có ý coi việc đưa vấn đề nông dân lên hàng đầu như thế là một sự “từ bỏ ” chuyên chính vô sản hoặc tương tự như vậy thì “chẳng qua chỉ là vì người đó không chịu suy nghĩ kĩ càng vấn đề đó và bị lời nói trống rỗng chi phối ”. Người vô sản nào hoặc đại diện nào của giai cấp vô sản muốn cải thiện đời sống của giai cấp công nhân bằng con đường khác thì thực tế chỉ là những kẻ trợ lực cho bọn bạch vệ và bọ tư bản mà thôi. Vì đi theo con đường khác có nghĩa là đặt lợi ích phường hội của giai cấp công nhân lên trên lợi ích của giai cấp họ”. Nhưng mặt khác để cải thiện đời sống của nông dân thì mức thuế lương thực phải thấp, như vậy Nhà nước phải làm thế nào để có đủ số lương thực cần thiết? Tác dụng kích thích của thuế lương thực đối với nông dân sản xuất và có điều kiện cải thiện đời sống của mình là ở mức thuế thấp. Mức thuế lương thực đã được giảm xuống thấp hơn mức trưng thu gần 1/2, thủ tục thuế được đơn giản hoá. Từ tháng 5/1923 thực hiện thuế đồng nhất với hình thức hỗn hợp bằng tiền tệ hoặc hiện vật tuỳ theo sự lựa chọn của nông dân, còn từ năm 1924, hình thức tiền tệ của thuế là chủ yếu. Mức thuế có phân biệt đối với các bộ phận nông dân: đối với bần nông thì thu thuế bằng 1,2% thu nhập, trung nông thu 3,5% thu nhập còn đối với phú nông thì thu 5,6% thu nhập. Do mức thuế thấp nên năm 1921, nhà nước chỉ thu được 240 triệu pút lúa mỳ sao với 423 triệu pút trưng thu trước đây. Nhưng để bù lại, do nông dân hăng hái sản xuất, mở rộng diện tích nên tổng sản lượng lương thực của xã hội và các nông sản khác tăng lên. Nhà nước qua con đường trao đổi có được khối lượng lương thực nhiều hơn. Ngoài ra, ro mức thuế ổn định người nông dân nào cũng biết trước số thuế phải nộp và cố gắng để sản xuất vượt quá mức đó. Nhà nước càng thu thuế dễ dàng, thuận lợi. Thuế lương thực là đòn xéo mạnh mẽ để khôi phục nền nông nghiệp sau chiến tranh, biểu hiện yêu cầu của tính quy luận đầu tiên của quá trình khôi phục kinh tế, bởi vì “Thuế lương thực sẽ giúp vào việc cải thiện đời sống nông dân. Bây giờ nông dân sẽ bắt tay vào việc một cách yên tâm hăng hái hơn đó chính là điều chủ yếu ”. 2. Khôi phục và phát triển sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp thông qua trao đổi sản phẩm giữa nông nghiệp và công nghiệp. Muốn cải thiện đời sống nông dân và công nhân thì không thể dựa vào nền nông nghiệp gia trưởng mang tính chất tự cấp tự túc mà chỉ có thể dựa vào một nền nông nghiệp hàng hoá. Trong thời kì áp dụng chính sách cộng sản thời chiến, xu hướng hiện vật hoá nền nông nghiệp được duy trì và tăng lên xu hướng kinh tế hóa bị kìm hãm. ý nghĩa và tác dụng cần có của thuế lương thực không thể phát huy được trong nền nông nghiệp tự cung tự cấp, vì số nông sản tăng lên một mức độ nào đó nếu không có trao đổi thì nó mất tác dụng kích thích. Do đó, “thuế lương thực là một bước quá độ từ chế độ cộng sản thời chiến đến chế độ trao đổi xã hội chủ nghĩa bình thường về sản phẩm”. Khác với chế độ giao nộp, trưng thu dựa trên mệnh lệnh trong thời kì thực hiện “chính sách công sản thời chiến”, cơ chế kinh tế hàng hoá cho phép đạt được các mục tiêu sau: a. Đáp ứng nhu cầu tiền mặt của sản xuất và tiêu dùng của xã hội. Thông qua trao đổi hàng hoá, thúc đẩy quá trình phân công lao động trong công nghiệp, khuyến khích sản xuất nông nghiệp vừa đi vào chuyên canh vừa phát triển kinh doanh tổng hợp, nhờ đó các lực lượng sản xuất trong nông nghiệp được khôi phục và phát triển. b. Đó là con đường để nhà nước giải quyết vấn đề lương thực một cách vững chắc. Sản xuất lương thực ngày càng mang tính chất hàng hoá thì nông dân có lợi hơn và tổng số lương thực của xã hội cũng tăng lên. c. Khôi phục và phát triển kinh tế hàng hoá trong nông nghiệp là sống động lại các ngành kinh tế và toạn bộ sinh hoạt xã hội ở thành thịu và nông thôn. Như vậy chính sách thuế lương thực của Lênin còn bao hàm tư tưởng chuyển sang kinh doanh lương thực, được coi như một đòn bẩy quan trọng cho sự phát triển sản xuất lương thực và sản xuất nông nghiệp nói chung. Theo hướng đó, nhà nước đem lại sự giúp đỡ to lớn về tài chính và kĩ thuật cho nông dân. Nhờ quán triệt đầy đủ quan điểm của Lênin trong chính sách thuế lương thực nên đến năm 1925 sản xuất nông nghiệp nước Nga đã đạt mức trước chiến tranh (1913). Vấn đề đặt ra là phải giải quyết hai nội dung sau: Một là, lấy hàng công nghiệp ở đâu để trao đổi với nông dân. Hai là, khôi phục và phát triển kinh tế hàng hoá bên trong nông nghiệp mới thực hiện được NEP nhưng sẽ kéo theo sự khôi phục và kính trích xu hướng tư bản chủ nghĩa. Mâu thuẫn đó phải giải quyết như thế nào? Trước hết, Lênin khẳng định: Sự phát triển của trao đổi tư nhân, của chủ nghĩa tư bản là một sự phát triển không thể tránh được. Việc ngăn cấm, chặn đứng sự phát triển ấy là có hại cho cách mạng. Nhưng không được coi nhẹ buông lỏng sự kiểm tra, kiểm soát sự phát triển ấy của xu hướng tư bản chủ nghĩa, nhất là đấu tranh chống nạn đầu cơ, muốn vậy phải sử dụng hình thức kinh tế “CNTB nhà nước”, Lênin nói: “CNTB nhà nước không đáng sợ, mà đáng mong đợi. Học tập CNTB nhà nước”(1). Và vì lợi ích của xã hội phải phát triển chủ nghĩa tư bản nhà nước và tự do buôn bán để phát triển lực lượng sản xuất nông nghiệp, công nghiệp và để chống tệ quan liêu với điều kiện là hiệu lực quản lý của bộ máy nhà nước, là sự củng cố khu vực kinh tế nhà nước có hiệu quả. 3. Khôi phục và tổ chức lại nền sản xuất công nghiệp phù hợp với yêu cầu của nông nghiệp Khôi phục sản xuất nông nghiệp có hai yêu cầu quan trọng: Một là, có đủ hàng hoá trao đổi với nông dân để kích thích nông nghiệp. Hai là, tập hợp lại giai cấp công nhân đang bị phân tán vì đói và thiếu việc làm, củng cố kĩ thuật lao động, duy trì mức năng suất lao động cần thiết, để phát huy vai trò của công nghiệp và giai cấp công nhân Để thực hiện những yêu cầu đó phải sắp xếp, lựa chọn lại những ngành công nghiệp phục vụ thiết thực cho xã hội, đặc biệt là chú ý phát triển tiểu thủ công nghiệp, là thứ công nghiệp mà ta có thể dễ dàng tìm được nguyên vật liệu để sản xuất. Nhìn một cách tổng quát, quá trình khôi phục sản xuất công nghiệp có những đặc điểm có tính quy luật: - Một là, khôi phục công nghiệp trên cơ sở kĩ thuật cũ. Trong điều kiện khó khăn bây giờ, đấy là một tất yếu về hai phương diện kinh tế và xã hội. - Hai là, phạm vi khôi phục sản xuất công nghiệp cân đối với nguồn tài chính, nguyên liệu và nhiên liệu. Nhờ thực hiện cân đối nên đã đẩy nhanh được việc khôi phục các xí nghiệp tiên tiến, nâng cao công suất sử dụng thiết bị, nâng cao năng suất lao động. Cũng do khôi phục công nghiệp dựa trên khả năng cân đối thực tế, nên nhà nước thực hiện được sự tập trung sản xuất trong công nghiệp cho phép tạo ra sản phẩm thặng dư và tạo điều kiện hoạch toán kinh tế. - Ba là, bước đi của quá trình khôi phục công nghiệp. Trước hết là khôi phục công nghiệp nhẹ và công nghiệp thực phẩm là những ngành gắn bó với nông nghiệp về nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm. Tiếp đó khôi phục công nghiệp than. Các ngành công nghiệp nặng được khôi phục chậm hơn. Do tập trung sản xuất hợp lý và cân đối nên sớm tạo nguồn tích luỹ. Nhờ những người công nhân lao động và những kết quả lớn lao sự khôi phục nông nghiệp, nên sản xuất công nghiệp đạt được nhịp độ cao chưa từng có, mức tăng sản phẩm trung bình hàng năm 41%. Đến năm 1926, công nghiệp đã vượt mức chiến tranh. - Bốn là, sử dụng cơ cấu nhiều thành phần trong khôi phục công nghiệp. Kinh tế tư nhân trong công nghiệp được phục hồi. Công nghiệp quốc doanh được phục hồi và củng cố, giữ vai trò chủ đạo trong tái sản xuất. Và năm 1923 đến 1924, tỷ trọng công nghiệp XHCN ngày càng làm cho khu vực kinh tế tư nhân phụ thuộc vào mình. Đó là cơ sở đảm bảo cho nhà nước sử dụng cơ cấu kinh tế nhiều thành phần có kết quả. - Năm là, chuyển từ cơ cấu quản lý kinh tế tập trung bằng mệnh lệnh sang cơ chế hoạch toán kinh tế nguyên tắc tập trung dân chủ. Phương pháp quản lý bằng chỉ thị trước đây được thay bằng sự kết hợp tối ưu, phương pháp hành chính với phương pháp kinh tế. Sự chuyển biến trong quản lý công nghiệp bao gồm những nội dung chủ yếu sau: + Quá độ sang hoạch toán kinh tế. Các xí nghiệp hoạch toán kinh tế được quyền tổ chức cung ứng, quyuền tiêu thụ sản phẩm của mình trên thị trường. Muốn chuyển sang hoạch toán kinh tế, không những phải đảm bảo quyền tự chủ của xí nghiệp về sản xuất mà còn thực thực hiện quyền tự chủ tài chính, nhất là phân phối lợi nhuận và tiền lương. Việc thực hiện quyền tự chủ về sản xuất tài chính phụ thuộc vào chính sách giá cả mà vấn đề then chốt là quan hệ tỷ giá hàng công nghiệp so với hàng nông sản. Chính sách điều tiết giá cả theo hai hướng: Các xí nghiệp thương nghiệp quốc doanh và hợp tác xã giảm giá hàng bán cho nông thôn đồng thời nhà nước tăng giá mua đáng kể những nông sản quan trọng nhất. Thực hiện nhiều biện pháp để giảm giá bán công nghiệp. Bằng các cuộc vận động củng cố kĩ thuật lao động, tiết kiệm nguyên liệu vật tư, chống lại cách làm ăn kinh tế đã làm tăng năng suất lao động. Kết quả là lợi nhuận của công nghiệp quốc doanh tăng lên hơn 4 lần. Nhờ chính sách giá cả tích cực, nhà nước dành được thị trường nông thôn. trong năm 1924, đã thiết lập được tương quan giá trị giữa hai ngành công nghiệp và nông nghiệp, bảo đảm cho hai ngành phát triển ổn định, với nhịp độ khá cao. + Đổi mới cơ chế quản lý vĩ mô trong công nghiệp. Khi các xí nghiệp quá độ sang hoạch toán kinh tế, sử dụng ngày càng rộng rãi quan hệ hàng hoá tiền tệ thì vấn đề đổi mới cơ chế quản lý vĩ mô đặt ra ngày càng gay gắt. trong quá trình thực hiện NEP, nhiều hình thức quản lý phong phú đã được phát hiện và vận dụng theo khuynh hướng hoàn thiện và mở rộng phạm vi áp dụng cac nguyên tắc quản lý kinh tế XHCN dựa trện quan hệ biện chứng giữa tập trung và dân chủ. Do đó, đổi mới cơ chế quản lý vĩ mô về thực chất là tăng cường công tác phối hợp giữa các ngành, các yếu tố của nền kinh tế quốc dân nhằm đạt được hiệu quả kinh tế tối ưu. + Dân chủ hoá quản lý kinh tế Lênin coi việc lôi cuốn quần chúng vào việc quản lý là một vấn đề nguyên tắc, thể hiện đòi hỏi cả về mặt dân chủ lẫn mặt tập trung. Đây là kết quả của sự thay đổi tân gốc quan niệm về những vấn đề cơ bản về phát triển xã hội và kinh tế. Trong giai đoạn thực hiện NEP, dân chủ hoá trong quản lý kinh tế được thực hiện có kết quả trên nhiều mặt khác nhau: Tổ chức hội nghị sản xuất, thực hiện chế độ phân phối theo lao động, hình thức công khai và dân chủ trong việc lựa chọn cán bộ lãnh đạo - quản lý, thực hiện nguyên tắc và kiểm soát của công nhân. 4. Tổ chức quá trình lưu thông. Lênin đã nêu những chức năng mới của Nhà nước Vô sản trong lĩnh vực kinh tế. Điều tiết việc mua bán và lưu thông tiền giấy. Tổ chức thương nghiệp nhà nước bán buôn và bán lẻ. ổn định các quan hệ hàng hoá tiền tệ giữa các cơ quan kinh tế Nhà nước. Sử dụng hợp tác xã để củng cố quan hệ thương mại giữa thành thị và nông thôn. Phát triển quan hệ tín dụng. Người vạch rõ nhiệm cụ của bộ máy quản lý kinh tế: “chúng ta phải học tập những quan hệ buôn bán trên phạm vi cả nước, đó là một nhiệm vụ khó khăn, nhưng quyết không phải là không thể làm được.” Phương hướng quản lý lưu thông là: “căn cứ vào thị trường hiện có tính toán đến các quy luật của nó, chiếm lĩnh thị trường và bằng những biện pháp kinh tế thương xuyên có cân nhắc và được xây dựng trên sự kiểm kê chính xác quá trình của thị trường mà nắm vững việc điều tiết thị trường và lưu thông tiền tệ”. Nội thương trở thành mắt xích đặt biệt cần nắm vững trong dây truyền quản lý, điều tiết hoạt động của kinh tế. Thương nghiệp trở thành mắt xích trong triển khai NEP vì: Mục đích cao nhất của NEP là thiết lập liên minh kinh tế. Vì thế thương nghiệp là mối liên hệ kinh tế duy nhất, là điều kiện tái sản xuất; hơn nữa không có hoạt động thương nghiệp thì không thể sử dụng các hình thức quá độ trong sản xuất và lưu thông. Một trong nhữn vấn đề quan trọng nhất của NEP là phải chiếm các vị chí chỉ huy trong thương nghiệp khi triển khai quá trình lưu chuyển hàng hoá, đồng thời hướng quá trình lưu thông đó đi thẳng tới nhu cầu của nông thôn và thành thị. Để nắm chắc các vị trí thương nghiệp và làm chủ thị trường, nhà nước chú ý đặc biệt đến củng cố mối liên hệ chặt chẽ giữa công nghiệp quốc doanh với thương nghiệp quốc doanh và thương nghiệp tập thể để nắm quỹ hàng hoá công nghiệp dùng làm phương tiện điều tiết thị trường. Nhà nước sử dụng nhiều hình thức thương nghiệp với một cơ cấu thương nghiệp đảm bảo vai trò của thương nghiệp Nhà nước, đấu tranh bằng cạnh tranh với tư bản thương nghiệp. Trong suốt quá trình khôi phục kinh tế, thương nghiệp XHCN ngày càng thể hiện đầy đủ vai trò của chiếc cầu nối nông nghiệp với công nghiệp. Cũng trong quá trình tổ chức lưu thông hàng hoá theo NEP, Nhà nước Xô Viết đã nắm vững tính quy luật liện kết giữa thương nghiệp với tài chính và ngân hàng như một chỉnh thể. Việc đây mạnh chu chuyển nội thương làm cho nhu cầu tiền mặt tăng lên, sự phát triển của thương nghiệp đã mọi lực lượng sản xuất phát triển, tạo nguồn thu cho ngân sách. Ngân hàng nhà nước XHCN phải gắn chặt với thương nghiệp để thúc đẩy toàn bộ lưu thông hàng hoá. Ngoài thương nghiệp ra, giao thông vận tải là khâu quan trọng. Khi nền kinh tế chuyển sang quỹ đạo NEP. Tổng sản lượng xã hội tăng nên nhanh chóng, khối lượng vận chuyển tăng lên nhiều và đa dạng, nhưng ngành lại đang gặp khó khăn. Để khắc phục khó khăn, một mặt nhà nước đầu tư khôi phục giao thông vận tải, mặt khác nhà nước chủ trương cải thiện tình hình tài chính của giao thông. 5. Ổn định tiền tệ, củng cố nền tài chính Xô Viết: * Chấn chỉnh công tác tài chính, củng cố nền tài chính Xô Viết. Ngay sau khi cách mạng thành công, Lênin đã ra nhiều biện pháp để chấn chỉnh công tác tài chính, như biện pháp kiểm kê và kiểm soát có tác dụng tính toán nhu cầu thực tế về tài chính của doanh nghiệp, kiểm soát việc chi tiêu, hạn chế các chi phí sản xuất và chi phí cho bộ máy quản lý. Nhà nước chủ trương tổ chức tài chính quốc gia, điều tiết giá cả nhằm thiếp lập quan hệ kinh tế mới giữa thành thị và nông thôn. Lênin cũng đã chỉ ra rằng trong thời đại chuyên chính vô sản và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, tài chính của nhà nước phải trực tiếp dựa trên cơ sở lưu thông của một bội phận thu nhập nhất định của các độc quyền nhà nước. Sự cân đối thu chi chỉ có thể thực hiện trên cơ sở tổ chức việc trao đổi hàng hoá đúng đắn. Những quan điểm đó hoàn toàn phù hợp với quy luật tái sản xuất và quy luật khác của kinh tế hàng hoá được thực hiện trọng điều kiện chuyên chính vô sản. Lênin cũng đã nêu ra những nguyên tắc cơ bản của tài chính XHCN như sau: - Vai trò của chính sách tài chính có ý nghĩa quyết định thắng lợi của công cuộc cải tạo và xây dựng trong thời kì quá độ. - Chính sách tài chính phải thống nhất, được quy định rõ ràng và các quy tắc phải được chấp hành từ trên xuống dưới. Quan điểm về tập trung tài chính, không mâu thuẫn với yêu cầu phát huy chủ động, linh hoạt, sáng tạo trong hoạt hoạt động thực tiễn. - Hoạch toán kinh tế và kinh doanh theo nguyên tắc xí nghiệp hoàn toàn chịu trách nhiệm về mặt tài chính đối với kết quả hoạt động kinh tế của mình. - Nguyên tắc cân đối ngân sách, công tác tài chính gắn với công tác ngân hàng và thương nghiệp. Vận dụng các quan điểm đó vào việc giải quyết những khó khăn về tài chính, cụ thể là làm thế nào để tăng thu, giảm chi bằng những biện phát cụ thể thuộc lĩnh vực tài chính trong cuộc khủng hoảng tài chính. Để giảm chi, chính quyền Xô Viết đã thực hiện mấy biện pháp chủ yếu: giảm biên chế nhà nước, thi hành những quy định về các khoản chi tiêu ở mức tối thiểu, không cấp ngân sách cho các xí nghiệp. Để tăng thu, các cơ sở kinh tế nhà nước chuyển sang hoạch toán kinh tế phải tích nộp lợi nhuận và khấu hao cho ngân sách, xây dựng lại hệ thống thuế (thuế công thương nghiệp, thuế thu nhập, thuế tài sản, thực hiện cải cách thuế đối với nông nghiệp, thi hành chế độ trả tiền đối với tất cả các loại hình dịch vụ...), phát hành công trái và tín phiếu. * ổn định tiền tệ. Trong hệ thống các biện pháp để giải quyết cuộc khủng hoảng, từ thuế lương thực đến trao đổi hàng hoá giữa nông nghiệp với công nghiệp, thì việc ổn định đồng tiền trở thành khâu cuối cùng có tác dụng quyết định củng cố có kết quả toàn bộ hệ thống, chuyển hẳn nền kinh tế quốc dân sang quỹ đạo mới và bước vào một giai đoạn phát triển ổn định vững chắc. Việc ổn định tiền tệ lúc này có ý nghĩa là phải tiến hành có kết quả cuộc chống lạm phát. Năm 1921, thời gian ổn định của đồng rúp kéo dài 3 tháng. Năm 1922, thời gian ấy kéo dài hơn, gần gấp đôi đã chứng tỏ rằng các biện pháp chống lạm phát, ổn định tiền tệ là đúng đắn. Những điều kiện để ổn định tiền tệ đó là: - Bước chuẩn bị: đây là thời gian thực hiện một số chính sách và biện pháp quan trọng như áp dụng chính sách thuế lương thực, xoá bỏ chính sách trưng thu lương thực thừa, chính sách trao đổi hàng hoá, của cố chính sách thương nghiệp. - Bược một: tiến hành thay đổi đơn vị tiền tệ Vàng vẫn là hàng hoá tiền tệ, hệ thống tiền tệ phải dựa trên cơ sở mối quan hệ giữ vàng và tiền. Hệ thống tiền tệ XHCN có khả năng tạo ra sự cân đối giữa lượng tiền phát hành với khối lượng hàng hoá mà nhà nước nắm giữ được. - Bước hai: bước quá độ của cải cách tiền tệ Chuyển sang hoạch toán kinh tế đòi hỏi có một thước đo tin cậy và ổn định, nên việc tìm tòi thước đo giá trị phải dựa trên quan điểm hoạch toán kinh tế và kinh doanh ( phát hành đồng Chec - nô - vet). Từ đó đồng tiền dùng làm thước đo phải làm công cụ tín dụng chứ không phải là dùng để bù đắp ngân sách bội chi, khối lượng tiền tệ phát hành phải phù hợp với mức tăng trưởng kinh tế được đảm bảo bằng hàng hoá và vàng. - Bước ba: hoàn thành cải cách tiền tệ Nhà nước ban hành đạo luật phát hành giấy bạc mới. Củng cố và phát triển hệ thống ngân hàng. Mở rộng hệ thống tín dụng băng cách thành lập các ngân hàng khác. Ngân hàng công thương nghiệp, ngân hàng chuyên nghiệp và năng lượng, ngân hàng trung tâm của sự nghiệp công cộng và xây dựng nhà ở. Bên cạnh hệ thống ngân hàng là một hệ thống hợp tác xã tín dụng rộng khắp ở nông thôn. Thắng lợi vững chắc của cuộc cải cách tiền tệ đã góp phần quan trọng thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội của NEP. Trong đó thắng lợi cơ bản nhất là ổn định đời sống nhân dân, củng cố liên minh công nông, điều chỉnh lại phân phối thu nhập quốc dân. Thời kì 1921 đến 1924 là sự thử thách lớn, gay go đối với chính quyền Xô Viết trẻ tuổi. Thắng lợi của NEP trong thời kì này biểu hiện khá đầy đủ sức sống của nhà nước xã hội chủ nghĩa. C. Ý nghĩa của NEP và bài học thành công Chính sách kinh tế mới NEP có ý nghĩa cực kì quan trọng. Trước hết nó khôi phục được nền kinh tế Xô Viết sau chiến tranh. Chỉ trong một thời gian ngắn đã tạo ra một bước phát triển quan trọng biết một nước Nga bị tàn phá năng lề sau chiến tranh trở thành một đất nước có nguồn lương thực dồi dào. Từ đó, nó khắc phục khủng hoảng chính trị, củng cố lòng tin của nhân dân vào sự thắng lợi tất yếu và bản chất tốt đẹp của CNXH theo nguyên lý mà Lênin đã vạch ra. Chính sách kinh tế mới của Lênin còn đánh dấu một bước phát triển mới về lý thuyết nền kinh tế nhiều thành phần, các hình thức kinh tế quá độ, việc duy trì và phát triển quan hệ hàng hoá tiền tệ, quan tâm tới lợi ích kinh tế cá nhân. Trước hết là những vấn đề có tính chất nguyên tắc trong việc xây dựng mô hình nền kinh tế XHCN. Từ đó chính sách kinh tế mới có ý nghĩa quốc tế to lớn đối với các nước phát triển theo định hướng XHCN, trong đó có nước ta. Những quan điểm kinh tế của Đảng ta nhất là từ đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V đến nay đã thể hiện sự nhận thức vận dụng quan điểm của Lênin trong chính sách kinh tế mơi. Tất nhiên, do thời gian và không gian cách xa nhau, trải qua những biến động khác nhau, nên nhận thức và vận dụng có thể có sự khác nhau về bước đi nội dung và biện pháp cụ thể trong khi tiến hành ở nước ta. Với một ý nghĩa vô cùng to lớn như vậy, cùng với những thành công rực rỡ mà nó thu được trong công cuộc cải tổ nước Nga Xô Viết đã xây dựng bài học cho tất cả các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là những nước đi lên từ điểm xuất phát thấp. Thứ nhất, là chiến lược liên minh công nông về mặt thành tích. Tính tất yếu phải lựa chọn con đường quá độ đặc biệt lên CNXH xét một cách khái quát chủ yếu là do giai cấp công nhân chưa phát triển hay phát triển chưa đầy đủ. Do đó, chưa có đủ tiền đề vè kinh tế xã hội, chưa có chỗ dựa về chính trị cho công cuộc xây dựng CNXH bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng và cho phép Nhà nước thực hiện chức năng quản lý của mình có hiệu quả. Phát huy vai trò sức mạnh của giai cấp công nhân bằng cách hình thành khối liện minh bằng hai sức mạnh: bên trong là liện minh giữa giai cấp công nhân và nông dân, bên ngoài là liên minh quốc tế XHCN. Điều này sẽ giúp củng cố nhà nước trẻ tuổi chưa có cơ sở kinh tế xã hội vững vàng. Đồng thời, xây dựng động lực cách mạng trong giai đoạn mới, biến công cuộc xây dựng CNXH thành sự nghiệp của quân chúng. Điều kiện đầu tiên để khởi động phong trào quần chúng là phải ổn định, cải thiện ít nhiều đời sống quần chúng vốn rất thấp và đã chịu thiếu thốn nhiều năm trong chiến tranh. Để liên minh công nông về mặt kinh tế đáp ứng được yêu cầu xây dựng cớ sở kinh tế bước đầu của CNXH và tạo đưọc động lực cho quá trình ấy thì phải bắt đầu từ nông nghiệp và nông thôn. Thứ hai, là con đường từ nền kinh tế nhiều thành phần đến nền kinh tế XHCN Đặc điểm kinh tế chủ yếu trong thời kì quá độ là tính chất nhiều thành phần của nền kinh tế có nghĩa là trong chế độ hiện nay có những thành phần, những bộ phận, những mảnh của CNTB lẫn vào CNXH.(1) chỉ trong một thời gian ngắn của mấy năm đầu thập kỉ 20, trong nền kinh tế Xô Viết đã diễn ra hai quá trình chuyển biến kinh tế cơ bản. Quá trình thứ nhất, chuyển thành phần kinh tế XHCN sang quỹ đạo NEP. Đây là đòi hỏi của quy luật về quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ lực lượng sản xuất. Trước hết là phải đảm bảo những cân đối nhất định về tài chính, nguyên liệu và nhiên liệu. Muốn vậy, phải kiên quyết tổ chức lại sản xuất khu vực kinh tế XHCN lựa chọn những đơn vị cần thiết nhất có đủ điều kiện sản xuất và quản lý để tập trung đầu tư, sớm phát huy vai trò của chúng trong quá trình tái sản xuất xã hội. Tiếp theo, phải chuyển các cơ sở kinh tế XHCN sang hoạch toán kinh tế, tạo điều kiện cho cúng hoạt động theo yêu cầu mới bằng cách: phát huy quyền chủ động sản xuất kinh doanh của cơ sở, đổi mới nội dung và hình thức quản lý kinh tế Nhà nước. Quá trình thứ hai, chuyển hướng quản lý điều tiết các thành phần kinh tế tư nhân và cá thể sang quỹ đạo NEP. Với một ý nghĩa lịch sử to lớn, với bài học thành công trong công cuộc xây dựng CNXH, chính sách kinh tế mới NEP của Lênin đã, đang và se được vận dụng sáng tạo trong điều kiện nước ta nhằm đưa đất nước vững bước tiến vào thế kỉ mới với một nền kinh tế giàu mạnh, chính trị ổn định, xã hội công bằng văn minh. Chương II Việt Nam hội nhâp vào nền kinh tế của thế giới. Sau khi Việt Nam hoàn toàn được giải phóng (sau 30/4/1975), nước Cộng Hoà Xã Hội CHủ Nghĩa Việt Nam non trẻ với vô vàn những khó khăn trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Tuy nhiên chúng ta có những thuận lợi cơ bản. Đặc biệt là cuộc đổi mới do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã khởi xướng và đạt được những thành tựu bước đầu quan trọng trong việc phát triển một nền kinh tế vững mạnh theo định hướng XHCN. Và qua đây đã khẳng định được con đường chúng ta đang đi là đúng đắn. Những thành tựu bước đầu chúng ta đạt được sau 10 năm thực hiện đường lối đổi mới cho phép rút ra kết luận rằng: vị trí của Việt Nam trong quan hệ chính trị – kinh tế tuỳ thuộc rất nhiều vào viêc chúng ta có những chính sách, biện pháp kịp thời và đúng đắn đến đâu, để kết hợp các nguồn lực trong nước với các nguồn lực bên ngoài phục vụ cho việc tăng trưởng, phát triển kinh tế xã hội. Để chúng ta có một chỗ đứng trong nền kinh tế thế giới. Nếu chỉ nhìn về mặt kinh tế đơn thuần, có thể nói rằng Việt Nam chưa có một vị trí đáng kể trong nền kinh tế quốc tế. Nếu nhìn trên quan điểm phát triển thì Việt Nam đã bước đầu tạo cho mình một vị trí quan trọng nhất định trong quan hệ kinh tế chính trị quốc tế. Kết quả đó không tách rời việc thực hiện đường lối đổi mới. Việt Nam đang và sẽ trở thành một đối tác mà các nước phải tính đến trong quan hệ kinh tế quốc tế. Trong phạm vi khu vực, Việt Nam có một vị trí quan trọng: Quan hệ hợp tác với Việt Nam là một bước không thể bỏ qua. Việt Nam đang thưc hiện quá trình đổi mới, đạt được tốc độ tăng trưởng cao, nhưng để đạt được một cơ sở phát triển lâu dài và bền vững còn phải giải quyết nhiều vấn đề kinh tế xã hội phức tạp. Tuy nhiên chúng ta có những nguồn lực và lợi thế trong phát triển kinh tế. Chúng ta có nguồn lao động dồi dào, nhân công rẻ, tư chất người Việt Nam rất cần cù, tiếp thu nhanh nguồn lực mới, có khả năng sử lý linh hoạt, có thể tham gia tích cực vào phân công lao động quốc tế. Dù sao sức lao động của Việt Nam vẫn còn hạn chế về thể lực, về trình độ tổ chức kĩ thuật, về khả năng hợp tác trong công việc và còn thiếu nhiều việc làm. Bù lại chúng ta nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng, vị trí địa lý thuận lợi: Việt Nam nằm trên các đường hàng không và hàng hải quốc tế quan trọng. Tạo khả năng phát triển các hoạt động trung chuyển, tái xuất khẩu và chuyển khẩu hàng hoá qua các khu vực lân cận. Qua việc phân tích trên sẽ cho chúng ta một cái nhìn toàn diện và cụ thể hơn để tiếp tuc vững bước phát triển nền kinh tế nước nhà theo định hướng XHCN. Mà cụ thể là xây dựng nền kinh tế sáng tạo tự chủ trên nền tảng chính sách kinh tế mới NEP của Lênin. Phần ba Vận dụng NEP trong điều kiện nước ta Chương I thực trạng đất nước. tình hình đất nước 5 năm qua và những thành tựu trong 15 năm đổi mới Trước đây đã có lúc đảng ta ngộ nhận mô hình CNXH ở nước ta. Cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, các thành phần kinh tế phi CNXH sớm bị xoá bỏ bằng những biện pháp cưỡng bức hành chính. Điều này dẫn đến hậu quả nền kinh tế nước ta rơi vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng. Trước tình hình ấy, Đảng ta đã có những nhận định về nền kinh tế đất nước. Từ đó đã có những quyết định chuyển nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường nhiều thành phần có sự điều tiết quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Những chính sách của đảng là một vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin đặc biệt là chính sách kinh tế mới NEP một cách đầy sáng tạo trong điều kiện đất nước. Chúng ta khuyến khích các thành phần kinh tế và các hình thức tổ chức kinh doanh phát triển, chủ động đổi mới phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế nhà nước, kinh tế hợp pháp kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế hợp tác dần dần trở thành nền tảng. Tạo điều kiện kinh tế và pháp lý thuận lợi để các nhà kinh doanh tư nhân yên tâm đầu tư làm ăn lâu dài: Mở rộng các hình thức liên doanh liên kết giữa kinh tế nhà nước với các thành phần kinh tế cả trong và ngoài nước, áp dụng phổ biến các hình thức kinh tế tư bản nhà nước. Do hàng loạt những chính sách đổi mới sáng tạo đã tạo nên sự vận động phát triển mạnh mẽ khiến nền kinh tế của chúng ta đạt tốc độ tăng trưởng khá cao. Cuối cùng là đã tạo ra được một động lực tổng hợp kết quả như sau: lạm phát giảm từ mức độ siêu lạm phát xuống một con số và tiếp tục được kiểm soát. Việt Nam đạt được mức độ tăng trưởng cao và ổn định. Năm Tăng trưởng GDP Lạm phát % 1991 6.0 67.1 1992 8.6 17.5 1993 8.1 5.2 1994 8.8 14.4 1995 9.5 12.7 1996 9.3 4.5 1997 8.2 4.5 1998 5.8 3.8 1999 5 0.1 2000 6.75 0.6 Bảng tăng trưởng và lạm phát năm 1991 - 2000. Nền tài chính tiền tệ của nước ta đã được cải thiện. Tỷ lệ thuế và phí được huy động vào ngân sách so với GDP tăng liên tục từ 62% của năm 1990 lên 79% năm 1993; 92,5%năm 1994 và 96,7% năm 1995. Nền kinh tế Việt Nam đã có nội lực, đầu tư tăng gấp 3 lần từ 11,6%của GDP năm 1989 đến 28% của GDP năm 1998, tích luỹ trong nước tăng 5 lần từ 3% lên đến 17% của GDP (nguồn: Ngân hàng thế giới). Trong 5 năm 1991-1995, nhịp độ tăng trưởng trung bình hàng năm về tổng sản phẩm trong nước - GDP - là 8,2%; sản xuất công nghiệp là 13,3%; sản xuất nông nghiệp là 4,5%; về kim ngạch xuất khẩu là 20%. Lương thực không những đủ ăn mà hàng năm còn xuất khẩu khoảng 2 triệu tấn gạo. Đại hội VIII của Đảng đề ra nhiệm vụ tư năm 1996 đến năm 2000 là: tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả cao và bền vững đi đôi với vấn đề giải quyết những vấn đề bức xúc về chính trị - xã hội. Những năm qua kinh tế nước ta tăng trưởng khá. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng bình quân hàng năm là 7%. Nông nghiệp phát triển liên tục, đặc biệt là sản xuất lương thực. Việc nuôi trồng và khai thác thuỷ sản, hải sản được mở rộng. Giá trị sản xuất công nghiệp bình quân hàng năm tăng 13,5%. Hệ thống kết cấu hạ tầng: bưu chính viễn thông, đường xa, cầu, cảng, sân bay, điện, thuỷ lợi... được tăng cường. Các ngành dịch vụ, xuất khẩu đều phát triển. Năm 2000 đã chặn được đà giảm sút mức tăng trưởng kinh tế, các chỉ tiêu chủ yếu đều đạt hoặc vượt kế hoạch đề ra. Những thành tựu 5 năm qua đã tăng cường sức mạnh tổng hợp, làm thay đổi bộ mặt của đất nước và cuộc sống của nhân dân, củng cố vững chắc độc lập dân tộc và chế độ xã hội chủ nghĩa, nâng cao vị thế và uy tín của nước ta trên trường quốc tế. Tuy nhiên việc thực hiện nghị quyết của Đại hội còn có những yếu kém, khuyết điểm sau đây: Nền kinh tế phát triển chưa vững chắc, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp. Nhịp độ tăng trưởng 5 năm qua chậm dần, năm 2000 đã tăng trở laị nhưng vẫn chưa đạt mức tăng trưởng cao như những năm giữa thập niên 90. Nhịp độ tăng trưởng GDP và GNP bình quân đầu người, nhịp độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp, dịch vụ, kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu... không đạt được chỉ tiêu Đại hội VIII đề ra. Sản phẩm chưa tốt, giá thành cao. Nhiêu sản phẩm nông nghiệp, công nghiệp, thủ công nghiệp thiếu thị trường tiêu thụ cả ở trong nước và nước ngoài. Nạn buôn lậu và, làm hàng giả, gian lận thương mại tác động xấu đến tình hình kinh tễh - xã hội. Hệ thống ngân hàng tài chính còn yếu kém và thiếu lành mạnh. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm. Cơ cấu đầu tư chưa hợp lý; đầu tư còn phân tán, lãng phí và thất thoát nhiều. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài giảm, trong khi công tác quản lý, điều hành lĩnh vực này còn nhiều khuyết điểm. Quan hệ sản xuất trên một số mặt chưa phù hợp. Kinh tế Nhà nước chưa được củng cố tương xứng với vai trò chủ đạo, chưa có chuyển biến đáng kể trong việc sắp xếp, đổi mới và phát triển doanh nghiệp Nhà nước. Kinh tế tập thể chưa mạnh. Trước ngưỡng cửa đầu thế kỉ mới, năm 2001, chúng ta không thể nào không tự hào trước những thành quả chúng ta đã đạt được sau 15 đổi mới nhất là trong 2 năm gần đây 1999-2000. Đầu năm 1999 hạn hán, cuối năm trân đại hồng thuỷ chưa tưng có từ trước tới nay đã tàn phá miền trung gây ra những thiệt hại to lớn cho 10 tỉnh và hơn 10 triệu người dân, phá huỷ nhiều cơ sở kinh tế của đất nước. Chưa hết, tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ của các nước trong khu vực đã gây nhiều ảnh hưởng bất lợi cho nước ta, nhất là trong đầu tư nước ngoài và thị trường xuất khẩu. Có thể nói răng năm 1999-2000 là hội tụ những khó khăn và thách thức lớn lao nhất trong 15 đổi mới đối với nền kinh tế nước ta. Nhưng kết thúc năm 2000 nền kinh tế nước ta vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng khoảng cao nhất so với các nước trong khu vực: 6,75%. Như vậy, đà tăng trưởng đang có xu hướng tăng dần lên và có dấu hiệu khởi sắc. Giá trị sản xuất công nghiệp so với năm 1999 tăng với tốc độ cao đạt 15,5%; trong đó tất cả các khu vực, tất cả các thành phần kinh tế đều có tốc độ cao hơn. Đáng lưu ý khu vực ngoài quốc doanh tăng khá cao nhờ thực hiện luật doanh nghiệp đã khuyến khich bỏ vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh. Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng trên 2,6%, tổng kim ngạch nhập khẩu ước tính tăng 3,2%. Mới chỉ có hơn 10 năm đổi mới vừa qua, với việc chuyển sang nền kinh tế thị trường, Việt Nam đã làm cho nhân dân thế giới ngỡ ngàng. Từ chỗ chúng ta còn xa lạ, nay đã hội nhập được với các nền kinh tế tiên tiến, hiện đại. Tất cả những gì chúng ta đạt được khi chuyển sang nền kinh tế thị trường đã nói nên công cuộc đổi mới ở nước ta là một cuộc cách mạng thực sự. Tuy vậy, bên cạnh những thành tựu đạt được và những nhân tố mới, đất nước ta vẫn còn những khó khăn thách thức lớn và vẫn còn những yếu kém khuyết điểm. Thiên tai đã gây nhiều thiệt hại về người và của, lại cộng với giá cả nông sản tụt mạnh đã gây thiệt hại cho đất nước nhiều tỷ đổng. Kim ngach xuất khẩu gao giảm 3,5%; cà phê giảm 2,6%. Nhập khẩu tăng cao hơn xuất khẩu do giá nhập khẩu tăng và lượng nhập một số loại hàng khá cao như ôtô, xe máy... Vì thế nhập siêu gia tăng, gần gấp 8 lần. Cùng với các yếu tố khác đã làm cho tiêu dùng giảm hơn 1%, đồng thời làm cho giá cả ngày một rộng ra. Tuy một số chỉ tiêu của kế hoạch 5 năm (1996-2000) chưa đạt, một số nghị quyết Đại hội VIII đề ra chưa được thực hiện tốt nhưng 10 năm thực hiện chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội (1991-2000) đã đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng. Tổng sản lượng trong nước năm 2000 tăng gần gấp đôi so với năm 1990. kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội và năng lực sản xuất tăng nhiều. Nền kinh tế từ tình trạng hàng hoá khan hiếm nghiêm trọng nay sản xuất đã đáp ứng được các nhu cầu thiết yếu của nhân dân và nền kinh tế: từ cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp đã chuyển sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; từ chỗ chủ yếu có hai thành phần là kinh tế Nhà nước và kinh tế thập thể đã chuyển sang có nhiều thành phần, trong đó nền kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Đời sống các tầng lớp nhân dân được cải thiện. Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội. Vượt qua được cơn chấn động kinh tế thị trường, cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế ở các nước châu á, phá được thế bao vây cấm vận, mở rộng được quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Tình hình chính trị – xã hội cơ bản ổn định. Sức mạnh về mọi mặt của nước ta đã lớn nhiều so với 10 năm trước. Chương II vận dụng sáng tạo NEP vào nước ta A. phân tích những tồn tại và nguyên nhân. *bên canhj những thành tựu hết sức to lớn thì những tồn taij, khó khăn là một thách thức lớn lao cho công cuộc xây dựng XHCN ở nước ta. Đảng ta đã nhận định: nước ta còn nghèo và kém phát triển, sự phát triển của nền kinh tế ong chưa vững chắc, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp, còn nhiều yếu tố chưa đảm bảo tăng trưởng cao và lâu bền. Lãng phí trong sản xuất và tiêu dùng lớn, tỷ lệ tích luỹ từ nội bộ thấp, tốc độ thhu hút đầu tư mới của nước ngoài chậm lại. Phương hướng và cơ cấu đầu tư chưa hợp lý. Đầu tư dàn trải thất, thất thoát lớn. Công nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến chưa phát triển; năng suất lao động thấp; giá thành cao; công nghệ lạc hậu; cơ cấu kinh tế chậm thanh đổi. Nhập siêu và bội chi ngân sách lớn, nợ nước ngoài cao, dự trữ quốc gia mỏng. Việc xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất theo định hướng XHCN bị buông lỏng. Phân phối trong xã hội còn nhiều bất hợp lý, đất nước nghèo nhưng còn tiêu dùng quá khả năng làm ra, chưa dồn sức cho đầu tư phát triển, chưa ngăn chặn được những thủ đoạn làm giàu bất chính. Tệ quan liêu, tham nhũng, sử dụng lãng phí ngân sách và tài sản công càng phổ biến và nghiêm trọng. Chênh lệch về trình độ phát triển giữa các vùng vàthu nhập giữa các tầng lợp dân cư có chiều hướng ngày càng mở rộng. Việc làm và nhiều vấn đề xã hội đặt ra ngày càng gay gắt. Những vấn đề đó có ảnh hưởng xấu đến môi trường kinh tế, làm giảm nhịp độ tằng trưởng đồng thời tiềm ẩn những nguy cơ mất ổn định kinh tế - xã hội . * Những hạn chế yếu kém do những nguyên nhân khách quan và chủ quan. + Về mặt khách quan, nền kinh tế vốn có những khó khăn yếu kém lại bị thiên tai và ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ trong khu vực và ở một số nước trên thế giới từ những năm 1997. + Về mặt chủ quan: Thứ nhất, việc quán triệt và tổ chức thực hiện nghịe quyết của Đảng ở nhiều cấp, nhiều ngành trên lĩnh vực còn yếu. Trong quá trình thực hiện, một số cán bộ đảng viên và cấp uỷ chưa quan tâm đầy đủ đến nghị quyết Đảng, không căn cứ vào nghị quyết của đảng để hành động và kiểm tra công việc của mình còn làm những việc không đúng với nghị quyết thậm trí trái với nghị quyết. Thứ hai, bộ máy nhà nước và nền hành chính quốc gia còn yếu kém, chậm cụ thể hoá và tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng bằng những chính sách thích hợp. Bộ máy cồng kềnh, thủ tục rườm rà, điều hành phân tán, hiệu lực thấp. Một bộ phận cán bộ kém năng lực, quan liêu, tham nhũng cửa quyền, ức hiếp quần chúng, cản trở sự phát triển kinh tế và gây bất bình trong nhân dân. Công cuộc đổi mới kinh tế và cải cách hành chính chưa theo kịp sự phát triển. Thứ ba, thiếu cơ chế phù hợp để phát huy vai trò làm chủ của nhân dân về kinh tế. Chưa thực hiện đúng phương châm “ Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Thứ tư, sự lãnh đạo của Đảng trên nhiều phương diện còn yếu, chưa làm tốt công tác sơ kết, tổng kết để kịp thời để ra những chủ trương biện pháp phù hợp với tình hình mới. Nhiều cấp uỷ Đảng buông lỏng lãnh đạo công tác cán bộ, công tác tài chính - tiền tệ, để cán bộ Đảng viên hư hỏng, tham nhũng vận dụng chính sách tuỳ tiện, gây thiệt hại lớn cho Nhà nước và xã hội. B. vận dụng NEP. Bác hồ đã từng nói: “ Ta không thể giống Liên Xô vì Liên Xô có phong tục tập quán khác, có lịch sử, địa lý khác, ta có thể đi theo con đường khác để tiến đến CNXH ”. lịch sử phát triển của chủ nghĩa xã hội ngày càng chứng minh tầm quan trọng của sự kết hợp giữa tính quy luật chung với những đặc điểm lịch sử cụ thể của mỗi nước, mỗi giai đoạn. Chính sách kinh tế mới của Lênin là kiểu mẫu hoàn thiện nhất của sự kết hợp như thế. Tư tưởng của Lênin về con đường quá độ đặc biệt lên chủ nghĩa xã hội đã trở thành cơ sở lý luận xuất phát và phương pháp luận của đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở những nước lạc hậu, trong đó có Việt Nam. Tư tưởng của Lênin đã soi sáng sự phân tích nguyên nhân của những sai lầm nôn nóng chủ quan duy ý trí và việc tìm kiếm những giải pháp khắc phục sai sót, thực hiện bước chuyển biến theo tinh thần nghị quyết đại hội Đảng VI của Đảng ta. Không thể khắc phục sai lầm chỉ bằng phê phán những tác hại do sai lầm gây ra, mà trước hết phải vận dụng đúng quan điểm duy vật lịch sử, nhìn thẳng vào sự thật của những mâu thuẫn trong việc đánh giá thực trạng kinh tế - xã hội cũng như phát hiện những khả năng đi lên, những lực lượng xây dựng xã hội mới từ trong sự vận động của các mâu thuẫn áp dụng NEP trong điều kiện nước ta cần lưu ý: Một là, đường lối kinh tế của Đảng đãn xác định vị trí hàng đầu của nông nghiệp, gắn với ba chương trình mục tiêu về lương thực thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Để đảm bạo thực hiện thắng lợi đường lối và nghị quyết đó của Đảng ta thì việc quán triệt tư tưởng chiến lược liên minh công nông về kinh tế của Lênin là quan trọng. Hai là, để phát triển kinh tế hàng hoá trong điều kiện kinh tế nhiều thành phần của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, về mặt chính sách và quản lý cần chú ý những khâu then chốt sau: - Ra sức phát triển kinh tế hàng hoá trong nông nghiệp vốn còn mang nặng tính chất tự nhiên, tự cung tự cấp. Chuyển dần sản xuất nông nghiệp độc canh sang nông nghiệp phát triển toàn diện, hướng tới thâm canh và chuyên môn hoá trình độ cao. Nên nông nghiệp hàng hoá gồm nhiều thành phân kinh tế và có tính chất đặc biệt, là cơ sở chủ yếu đảm bảo đời sống xã hội, là điều kiện đầu tiên và thường xuyên có sự hình thành phát triển công nghiệp, là cơ sở cho tích luỹ ban đầu, từ nội bộ nền kinh tế xây dựng mức thuế nông nghiệp hợp lý. - Tổ chức trao đổi hàng hoá giữa nông nghiệp với công nghiệp, giữa các thành phần kinh tế, tạo cơ sở chuyển nền kinh tế sang quỹ đạo tái sản xuất mở rộng, lưu ý đến việc tổ chức quá trình lưu thông, phát huy được tác dụng tích cực vốn có của nó đối với sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng. - Nắm chắc các khâu thương nghiệp, tạo điều kiện cho thương nghiệp phát triển: Thương nghiệp cần phải nắm được ngày càng lớn khối lượng hàng hoá mà xã hội sản xuất ra bằng cách thiết lập cho được mối quan hệ hợp đồng trực tiếp thường xuyên giữa thương nghiệp quốc doanh với thương nghiệp quốc doanh và hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp. Thương nghiệp cần có một khối lượng tiền để lưu thông hàng hoá, cụ thể là phải thiết lập mối quan hệ chặt chẽ với ngân hàng. Ngành thương nghiệp cần có tổ chức bộ máy hợp lý, vận dụng thành thạo phương pháp kinh doanh xã hộ chủ nghĩa. Trên đây là bước định hướng chung cho nền kinh tế trong nước. Tuy nhiên nước ta cũng có những đặc điểm riêng khác biệt với nước Nga thời bấy giờ. Đó là: Điểm xuất phát về kinh tế xã hội, trong khi nước Nga đã trải qua giai đoạn phát triển Tư bản chủ nghĩa có nền đại công nghiệp bên cạnh nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá thì nước ta không trải qua giai đoạn phát triển Tư bản chủ nghĩa, chưa có nền đại công nghiệp và nông nghiệp còn ở trình độ độc canh tự cấp tự túc. Đó là hoàn cảnh quốc tế lúc đó bất lợi cho nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới, nhưng chúng ta hiện nay thì những điều kiện quốc tế lại tạo ra những khả năng khách quan lớn lao. Xem xét kĩ những điều kiện phân tích những thành công bước đầu, những khó khăn tồn tại đã giúp chúng ta hình thành chiến lược NEP sáng tạo. Thứ nhất, xây dựng tư duy lý luận và quan điểm lý luận đúng về chủ nghĩa xã hội thực hiện vè cách mạng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện lịch sử cụ thể. Đảng luôn luôn xác định “ lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ lam cho hành động”.(1) Thông qua sự vận dụng của các cơ quan lãnh đạo Đảng và Nhà nước, lý luận đó sẽ đi vào thực tiễn mà quan trọng nhất là việc hình thành tư tưởng lý luận và quan điểm lý luận đúng đắn về sự ra đời của chủ nghĩa xã hội trong điều kiện cụ thể của đất nước. Thứ hai, hình thàng tư tưởng chính trị và quan điểm chính trị đúng đắn phản ánh những đòi hỏi của kinh tế xã hội. Xét một cách khái quán thì hoạt động của Đảng thực chất là hoạt động chính trị. Nhận thức được các vấn đề chính trị phải dựa trên tư duy chính trị - sản phẩm của tư duy lý luận khoa học của một giai cấp đóng vai trò lịch sử. Một mặt “chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế ”(2), mặt khác “chính trị không thể không chiếm địa vị hàng đầu so với kinh tế ”. Trong mọi giai đoạn của cách mạng xã hội chủ nghĩa nhất là trong giai đoạn còn nhiều thành phần kinh tế, nhiều giai cấp và tầng lớp xã hội, có lợi ích khác biệt, mâu thuẫn với nhau thì tư duy chính trị đúng là nhân tố quyết định đầu tiên về mọi thắng lợi về kinh tế. Tư duy chính trị Lênin trong chặng đầu thời kì quá độ biểu hiện cụ thể trên các chính sách, chủ trương quang trọng như: + Chính sách với nông nghiệp và nông thôn: xây dựng khôi liên minh công nông về kinh tế và chính trị, xây dựng chính sách thuế nông nghiệp và trao đổi hàng hoá. + Sự kết hợp yếu cầu kinh tế với yêu cầu xã hội-chính trị trong hoạt động quản lý Nhà nước với hoạt động kinh doanh. + Bảo đảm thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong lãnh đạo quản lý kinh tế xã hội cho phép khắc phục tình trạng phân tán manh mún, thói quen tự phát, tạo ra sức mạnh hợp tác với tính tổ chức. + Xây dựng chính sách kinh tế đối ngoại đúng đắn, cho phép tự giác kết hợp được sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Thứ ba, vận dụng tư duy lý luận-chính trị vào hoạt động thực tiễn. Trong thực trạng nước ta hiện nay cần chú ý một số điểm: Đánh giá tình hình thực trạng kinh tế xã hội theo phương pháp phân tích mâu thuẫn; đồng thời phải vận dụng phương pháp xem xét hệ thống, từ đó đề ra những biện pháp đồng bộ và có trọng điểm; thực hiện nguyên tắc tính thống nhất giữa tư duy và hành động, nói với làm. Đối với một tổ chức tập thể việc vận dụng tư duy mới, quan điểm mới để thể hiện trong chính sách nghị quyết, phải đi đôi với công tác tổ chức cán bộ. Thứ tư, vận dụng quan hệ hàng hoá tiền tệ vào đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta. - Sử dụng đúng đắn quan hệ háng hoá tiền tệ: Quan hệ hàng hoá tiền tệ đã được giải phóng khỏi hình thái tư nhân, từ nay sẽ gắn với hình thái xã hội chủ nghĩa. Mục đích sử dụng thay đổi (từ chỗ gắn với mục đích lợi nhuận của giai cấp tư sản chuyển sang thực hiện mục tiêu kinh tế - xã hội của nhà nước xã hội chủ nghĩa); sự thay đổi đó là tất yếu khách quan bắt nguồn từ sự tác động tổng hợp của hệ thống quy luật đặc thù của chủ nghĩa xã hội và quy luật sản xuất hàng hoá. Cơ chế tập trung dân chủ thay thế cơ chế cạnh tranh giữa các tư nhân trong mối quan hệ giữa các xí nghiệp và các ngành. - Vận dụng quan hệ hàng hoá tiền tệ trong đổi mới cơ chế quan lý kinh tế ở nước ta hiện nay: + Do điểm xuất phát rất thấp của quá trình tiến nên chủ nghĩa xã hội ở nước ta và tình trạng không bình thường về kinh tế xã hội hiện nay nên quan hệ hàng hoá và tiền tệ trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta có những đặc điểm sau: Trình độ sản xuất hàng hoá không đồng đều: sản xuất hàng hoá nhỏ đang chiếm ưu thế đòi hỏi chú ý vận dụng các hình thức quan hệ tiền-hàng đẩy sản xuất hàng hoá nhỏ, phát triển và hình thành hệ thống phân công lao động và quan hệ sản xuất đối với sản xuất lơn. Lưu thông hàng hoá còn chiếm ưu thế đối với sản xuất hàng hoá đòi hỏi phải bắt đầu từ lưu thông và hướng mạnh lưu thống vào kích thích sản xuất, phát triển phân công lao động xã hội, gắn với lưu thông sản xuất thành quá trình tái sản xuất mở rộng. Xem xét thực trạng các quan hệ hàng hoá - tiền tệ còn phải phân tích tính chất các quan hệ ấy. + Vận dụng quan hệ hàng hoá - tiền tệ trong đổi mới cơ chế quản lý cơ sở. Quan điểm của Đảng ta là chuyển các đơn vị cơ sở của nền kinh tế sang sản xuất hàng hoá xã hội chủ nghĩa, thực hiện hoạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa, xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, chống kiểu kinh doanh tuỳ tiện, theo xu hướng vô chính phủ. Vận dụng quan hệ hàng hoá - tiền tệ trên những mặt chủ yếu sau: thiết lập tính kế hoạch, tính tổ chức trong hoạt động sản xuất ở cơ sở; vận dụng quy luật giá trị trong việc xác định chi phí sản xuất sản phẩm, chủ động được nguồn vật tư, nguyên liệu, năng lượng; xác định lợi nhuận của xí nghiệp là kết quả của phép trừ doanh thu với chi phí sản xuất và khoản trích nộp nhà nước; khả năng tự chủ tài chính của xi nghiệp tách rời tài chính nhà nước mà gắn bó với tín dụng ngân hàng; phát triển liên kết, liên doanh giữa các đơn vị kinh tế. + Vận dụng quan hệ hàng hoá - tiền tệ trong đổi mới cơ chế quản lý kinh tế Nhà nước. Phải giải quyết đúng mối liên hệ qua lại giữa quan hệ kế hoạch nhà nước với quan hệ thị trường, giữa quan hệ kinh tế xã hội chủ nghĩa với các thành phần tư nhân cá thể, giữa trình độ sản xuất hàng hoá khác nhau ở các vùng, giữa kinh tế đối ngoại với kinh tế trong nước. Thực hiện đổi mới trên những nội dung sau: Phân biệt dõ chức năng quản lý kinh doanh của các đơn vị kinh tế với chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế; vận dụng tính quy luật “thương nghiệp là măt xích đặc biệt” trong dây truyền quản lý (tổ chức việc trao đổi hàng hoá đúng đắn giữa nông nghiệp và công nghiệp, giữa thành thị và nông thôn); xây dựng chính sách tài chính quốc gia theo quan điểm kinh tế hàng hoá có kế hoạch (Xí nghiệp tự chủ tài chính, Nhà nước có quyền thu ngân sách; cân đối thu chi ngân sách dựa vào sự tác động tích cực lẫn nhau giữa tài chính, ngân hàng và thương nghiệp; ngân hàng kiểm tra với tài chính Xí nghiệp); phát huy vai trò của ngân hàng trên cơ sở những biện pháp ổn định đồng tiền. Trên đên là sự áp dụng NEP dựa vào những bài học kinh nghiệm mà Đảng ta đã phân tích và đúc rút qua 15 năm đổi mới. Với những thành công bước đầu rất đáng khích lệ, Đảng và nhân dân Việt Nam tự hào về những thành tích đó và càng quyết tâm xây dựng một nền kinh tế giàu mạnh hơn nữa. C. phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001 - 2005 Những thành tựu về kinh tế - chính trị đạt được trong công cuộc đổi mới nói chung và việc áp dụng sáng tạo chính sách NEP nói riêng đã và đang tạo ra thế và lực mới cho chặng đường tiếp theo, một kỉ nguyên mới của dân tộc. Với quyết tâm đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện và đồng bộ, đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá, kiên trì đường nối đối ngoại độc lập, tự chủ, mộng mở, chúng ta sẽ tạo ra những khả năng mới cho nhu cầu phát triển. I. phương hướng, nhiệm vụ 1.Định hướng phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Chuyển đổi nhanh chóng cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn; xây dựng các vùng sản xuất hàng hoá chuyên canh phù hợp với tiềm năng và lợi thế khí hậu, đất đai và lao động của từng vùng, từng địa phương. ứng dụng nhanh khoa học và công nghệ vào sản xuất, nhất là công nghệ ứng dụng sinh học; gắn nông nghiệp với công nghiệp chế biến; gắn với sản xuất thị trường tiêu thu; hình thành sự liên kết nông - công nghiệp - dịch vụ ngay trên địa bàn nông thôn. Phấn đấu đến năm 2005 thu nhập bình quân của nông dân gấp 1,7 lần so với hiện nay; không còn hộ đói, giảm đáng kể tỷ lệ hộ nghoè. Tiếp tục đẩy mạnh sản xuất lương thực theo hướng thâm canh tăng năng suất, tăng năng suất và chất lượng. Sản lượng lương có hạt thực năm 2005 dự kiến 37 triệu tấn, bảo đảm an ninh lương thực quốc gia. Tập trung phát triển các cây công nghiệp chủ lực có khả năng cạnh tranh như cao su, càphê.... Phát triển chăn nuôi, dự kiến năm 2005, sản lượng thịt hơi các loại khoảng 2,5 triệu tấn. Phấn đấu đạt sản lượng thuỷ sản năm 2005 vào khoảng 2,4 triệu tấn, giá trị xuất khẩu thuỷ sản khoảng 2,5 tỷ$. Phát triển nhanh cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn, tiếp tục đầu tư xây dựng đường giao thông đến hơn 500 xã hiện chưa có đường ôtô đến trung tâm, mở rộng mạng lưới cung cấp điện, nước sạch, vệ sinh môi trường nông thôn. Mở mang các làng nghề, phát triển các điểm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, đưa công nghiệ sơ chế và chế biến về nông thôn... Giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp tăng bình quân 4,8% năm. Đến năm 2005, ngành nông nghiệp chiếm khoảng 75-76% giá trị sản xuất toàn ngành; lâm nghiệp khoảng 5-6%; thuỷ sảng khoảng 19-20%. 2. Định hướng phát triển công nghiệp. Phát triển với nhịp độ cao, có hiệu quả, coi trọng đầu tư chiều sâu, đổi mới thiêt bị công nghệ tiên tiến và tiến tới hiện đại hoá từng phần các ngành sản xuất công nghiệp. Phát triển các ngành công nghiệp có lợi thế cạnh tranh, chú trọng công nghiệp chế biến và công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu; các ngành công nghiệp phục vụ phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Phát triển mạnh công nghiệp công nghệ cao, nhất là công nghệ thông tin, viễn thông, điện tử. Phát triển một số công nghiệp quốc phòng cần thiết. Chú trọng các doanh nghiệp vừa và nhỏ, phù hợp với định hướng chung và lợi thế của từng vùng, từng địa phương; trước hết tập trung cho công nghiệp chế biến, công nghiệp sử dụng nhiều lao động và công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, phát triển mạnh mẽ tiểu thủ công nghiệp. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân 13% năm. Định hướng phát triển một số ngành công nghiệp: + Công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản, phấn đấu đến năm 2005 đạt 8-10 lít sữa /người/năm đưa kim ngạch xuất khẩu sữa gấp 2 lần so với năm 2000, dự kiến sản phẩm đường mật các loại bình quân đầu người vào năm 2005 khoảng 14,4kg. + Ngành giấy, đầu tư mở rộng cơ sở sản xuất hiện có, nghiên cứu xây dựng thêm một số cơ sở sản xuất bột giấy và giấy để có thể tăng sản xuất thêm 20 vạn tấn. Đưa tổng năng lực sản xuất lên 60 vạn tấn và đạt sản lượng 50 vạn tấn vào năm 2005. Ngành dệt may và da giày, chú trọng tìm kiếm và mở rộng thị trường trong nứoc và nước ngoài. Tăng cường đầu tư, hiện đại hoá một số khâu sản xuất. Phấn đấu đến năm 2005, đạt sản lượng 2,5-3 vạn tấn bông xơ, 750 triệu mét vải, nâng sản lượng giày dép lên 410 triệu đôi. Ngành công nghiệp điện tử và công nghệ thông tin,thực hiện đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ, hiện đại hoá những cơ sở sản xuất hiện có, xây dựng một số cơ sở mới để đáp ứng nhu cầu trong nước, giảm nhập khẩu và tăng dần xuất khẩu. Phát triển mạnh công nghiệp phần mềm phục vụ phục vụ nhu cầu trong nước và tham gia xuất khẩu, đưa giá trị sản phẩm phẩm mềm đạt trên 500 triệu $ vào năm 2005, trong đó xuất khẩu 200 triệu $. + Ngành cơ khí, tập trung đầu tư chiều sâu đổi mới công nghệ, thiết bị, hiện đại hoá một số khâu then chổt trong chế tạo, chú trọng công nghệ đóng tàu và sửa chữa tàu, đặc biệt là các loại tàu có trọng tải lớn. Phát triển một số lĩnh vực hiện đại như cơ điện tử; từng bước đưa ngành cơ khí thành ngành công nghiệp mạnh, đáp ứng khoảng 25% nhu cầu chế tạo tiết bị cho nền kinh tế và nội hoá khoảng 70-80% các loại phụ tùng xe máy, 30% phụ tùng lắp ráp ô tô. + Ngành dầu khí, tiếp tục tìm nguồn vốn hợp tác thăm dò, tìm kiếm khai thác để tăng thêm khả năng khai thác dầu khí. Sản lượng khai thác dầu năm 2005 đạt 27-28 triệu tấn quy đổi. + Nghành điện, sản lượng điện phát ra năm 2005 khoảng 44 tỷ KWh, tăng bình quân 12%/năm, đáp ứng nhu cầu phát triển công nghiệp, nông nghiệp, phát triển các ngành dịch vụ, và phục vụ dân sinh. + Ngành than, mở rộng thị trường tiêu thụ than trong và ngoài nước để tăng nhu cầu sử dung than. Dự kiến sản lượng than năm 2005 khoảng 15-16 triệu tấn. + Ngành hoá chất phân bón, nghiên cứu các điều kiện để sớm khởi công xây dựng nhà máy sản xuất DAP công suất 33 vạn tấn diamon phốt phát; đưa tổng năng lực sản xuất phân lân các loại đến năm 2005 khoảng 2,2 triệu tấn. Dự kiến sản lượng phân ure năm 2005 vào khoảng 80-90 vạn tấn. + Ngành thép, tiếp tục phát triển đầu tư chiều sâu các cơ sở luyện và cán thép hiện có. Phấn đấu sản lượng thép cán các loại vào năm 2005 khoảng 2,7 triệu tấn. 3. Định hướng phát triển các ngành dịch vụ. Đa dạng hoá các ngành dịch vụ, mở rộng thị trường tiêu dùng các sản phẩm dịch vụ, đáp ứng tốt nhu cầu phát triển kinh tế và đời sống xã hội. Phát triển thương mại, cả nội thương và ngoại thương. Nâng cao chất lượng, quy mô và hiệu quả hoạt động du lịch. Phát triển nhanh các loại hình dịch vụ tài chính, ngân hàng, kiểm toán, tư vấn pháp luật, dịch vụ y tế, giáo dục - đào tạo... Tốc độ tăng trưởng bình quân giá trị gia tăng các ngành dịch vụ trên 7,5%/năm. 4. Định hướng phát triển kinh tế đối ngoại. + Về xuất khẩu, nhập khẩu. Tăng nhanh tổng kim ngạch xuất khẩu, bảo đảm nhập khẩu những vật tư, thiết bị chủ yếu, có tác động tích cực đến hoạt động sản xuất kinh doanh. Tạo thị trường ổn định cho một số loại mặt hàng nông sản thực phẩm và hàng công nghiệp có khả năng cạnh tranh. Đẩy mạnh xuất khẩu lao động... Tổng kim ngạch xuất khẩu 5 năm khoảng 144 tỷ USD, tăng 16%/năm. Nhóm hàng công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp chiếm 70% tổng kim ngạch xuất khẩu, tăng bình quân hàng năm là 15,9%; nhóm hàng công nghiệp tiêu dùng và tiểu thủ công nghiệp chiếm 43% kim ngạch xuất khẩu công nghiệpb, tăng bình quân hàng năm là 22%. Nhóm nông, lâm, thuỷ sản chiếm 30% tổng kim ngạch xuất khẩu, tăng bình quân hàng năm là 16,2%. + Về thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư nước ngoài (Fdi). Khuyến khích đầu tư nước ngoài vào các ngành công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, công nghiệp chế biến, các ngành công nghệ cao, vật liệu mới, phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội và các ngành Việt Nam có lợi thế, gắn với công nghiệp hiện đại và tạo việc làm. Thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức(ODA). Định hướng trong 5 năm tới dành 15% vốn ODA vào các ngành nông nghiệp, thuỷ lợi, lâm nghiệp, thuỷ sản, kết hợp mục tiêu phát triển nông nghiệp, nông thôn, xoá đói giảm nghèo. 25% cho các ngành năng lượng và công nghiệp: khoảng 25% cho các ngành giao thông, bưu điện... Ngoài ra cần tăng cường đầu tư ra nước ngoài; phát triển các dịch vụ thu ngoại tệ và các dịch vụ khác. II. các giải pháp chủ yếu thực hiện kế hoạch 5 năm 2001-2005 1. Tiếp tục thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần theo đinh hướng xã hội chủ nghĩa, tạo mọi điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp và công dân đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Trong giai đoạn 2001-2005 tập trung sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách, pháp luật đổi mới công tác chỉ đạo thực hiện để đảm bảo các thành phần kinh tế đều được khuyến khích phát triển lâu dài, hợp tác cạnh tranh lành mạnh, thực sự là bộ phận cấu thành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hoàn thành về cơ bản việc sắp xếp tổ chức lại và đổi mới quản lý doanh nghiệp Nhà nước, nâng cao hiệu quản năng lực cạnh tranh đảm bảo vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước. Bảo đảm quyền tự chủ sản xuất kinh doanh; thực hiện việc tách quyền chủ sở hữu Nhà nước của các cơ quan Nhà nước với quyền sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, xoá bỏ chế độ cơ quan, cấp hành chính chủ quản. Hoàn thành cơ bản việc cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước mà Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn sở hữu. Ưu tiên bán cổ phần cho người lao động. Kiện toàn tổ chức, nâng cao hiệu quả các tổng công ty mẹ - công ty con, kinh doanh đa ngành tổng hợp trên cơ sở ngành chuyên môn hoá, gọi vốn thuộc nhiều thành phần kinh tế cùng tham gia kinh doanh. Nhà nước thực hiện các chính sách khuyến khích phát triển kinh tế tập thể. Hoàn thành quá trình chuyển đổi các hợp tác xã cũ, đồng thời nghiên cứu bổ xung Luật Hợp tác xã cho phù hợp với tình hình mới. Có chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho hợp tác xã. Kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư nhân được khuyến khích phát triển mạnh. Thực hiện quyền tự do kinh doanh theo pháp luật của mỗi công dân nhằm phát huy tối đa nội lực, phát triển lực lượng sản xuất. Sửa đổi, bổ sung hệ thống pháp luật nhằm bảo đảm sự bình đẳng về cơ hội cho mọi tổ chức, các nhân thuộc các thành phần kinh tế. Xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối sử. Tiếp tục phát huy những tác động tích cực của Luật Doanh Nghiệp. Hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích doanh nghiệp vừa và nhỏ, kinh tế trang trại. Kinh tế có nguồn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển và là một bộ phận của nền kinh tế Việt Nam. Khuyến khích các tổ chức, cá nhân nước ngoài và người Việt Nam ở nước ngoài đầu tư vào nước ta, nhất là sản xuất hàng xuất khẩu và sản phẩm công nghệ cao. Tạo ra khuôn khổ pháp lý nhằm khuyến khích hoạt động đầu tư ra nước ngoài để phát huy lợi thế so sách của đất nước. 2. Hình thành đồng bộ các yếu tố thị trường. Phát triển thị trường vốn và tiền tệ với các hình thức đa dạng thích hợp, bao gồm hệ thống ngân hàng, thể chế tài chính phi ngân hàng, công ty bảo hiểm, các quỹ đầu tư và bảo lãnh đầu tư... nhằm thu hút các nguồn vốn trong xã hội, mở rộng nguồn vốn dài hạn và trung hạn. giảm mạnh các hình thức bao cấp về vốn và tín dụng. Cải cách hệ thống ngân hàng thương mại, tách chức năng tín dụng, chính sách ra khỏi chức năng kinh doanh của các ngân hàng thương mại quốc doanh, đặt các ngân hàng thương mại quốc doanh hoạt động trong môi trường cạnh tranh. Tiếp tục hoàn thiện khung pháp luật và chính sách nhằm mở rộng thị trường lao động. Khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia đào tạo nghề, hoạt động dịch vụ, giới thiệu việc làm và xuất khẩu lao động. Thu hút nguồn lực để phát triển mạnh mẽ và hiện đại hoá hệ thống đào tạo nghề phù hợp với nhu cầu của thị trường và sự phát triển khoa học, công nghệ. Phát triển thị trường bất động sản, trong đó có thị trường quyền sử dụng đất; mở rộng cơ hội cho các công dân và doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế được dễ dàng có đất và sử dụng đất lâu dài cho sản xuất kinh doanh. Từng bước mở rộng thị trường bất động sản cho người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài tham gia đầu tư. Quy hoạch sử dụng đất đai, nhất là ở các đô thị, theo hướng văn minh, hiện đại, công bố công khai quy hoạch này để doanh nghiệp và người dân thực hiện. Phát triển các thị trường dịch vụ như dịch vụ khoa học công nghệ; dịch vụ tư vấn pháp luật, tư vấn quản lý, thị trường sản phẩm trí tuệ... 3. tăng cường hiệu lực của các công cụ, chính sách quản lý vĩ mô, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Đổi mới mạnh mẽ công tác kế hoạch hoá, nâng cao tính định hướng và dự báo, nâng cao chất lượng của các quy hoạch và kế hoạch. Chính sách đầu tư nhà nước được điều chỉnh theo hướng tăng đầu tư phát triển nguồn nhân lực, đầu tư kết cấu hạ tầng, tạo điều kiện thuận lợi cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xã hội, các dự án không có khả năng thu hồi vốn; hổ trợ đầu tư cho các vùng khó khăn, các chương trình mục tiêu quốc gia, các chương trình kinh tế trọng điểm của Nhà nước. Huy động các nguồn vốn trong xã hội để đầu tư vào các dự án phát triển sản xuất, kinh doanh bằng các hình thức thích hợp, Nhà nước chỉ hỗ trợ đầu tư vào một số dự án ở những ngành, lĩnh vực và những vùng ưu tiên phát triển ở từng thời kỳ. Tăng cường hiệu lực và đổi mới cơ chế quản lý ngân sách Nhà nước theo hướng triệt để tiết kiệm, nâng cao quyền hạn và trách nhiệm của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp trong việc quyết định và thực hiện ngân sách, thực hiện công khai, minh bạch trong chi tiêu ngân sách. Tiếp tục cải cách hệ thống chính sách thuế theo hướng luôi dưỡng nguồn thu, theo hướng thực hiện công khai minh bạch, giải quyết hài hoà mối quan hệ lợi ích giữa Nhà nước, doanh nghiệp và dân cư; khuyến khích phát triển sản xuất và bảo đảm công bằng xã hội. Tién hành cải cách thuế giai đoạn 3 theo hướng thu hẹp dần các mức thuế suất, giảm tỷ trọng thuế0 dán thu, áp dụng các sắc thuế mới như thuế thu nhập cá nhân, thuế bất động sản. Đổi mới và hoạn thiện chính sách và cơ cấu chi tiêu ngân sách Nhà nước theo hướng tích cực; triệt để xoá bỏ bao cấp đối với doanh nghiệp Nhà nước thông qua ngân sách Nhà nước và các công cụ chính sách khác. Tăng cường quản lý nơ, nhất là nợ nước ngoài; xử lý nợ doanh nghiệp Nhà nước. Đổi mới tổ chức và cơ chế hoạt động của các quỹ hỗ trợ sản xuất, kinh doanh của Nhà nước theo hướng chuyển từ tiền ưu đãi sang hậu đãi. Đổi mới chế độ kế toán, kiểm toán, thanh tra tài chính, chế độ báo cáo, thông tin, bảo đảm hoạt động kinh doanh phải công khai, minh bạch đối với tài chính doanh nghiêp. xây dựng luật quản lý vốn và tài sản của Nhà nước. Xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm xoát lạm phát, thúc đẩy sản xuất tiêu dùng kích thích đầu tư phát triển, bảo đảm kinh tế tăng trưởng cao và bền vững. Đổi mới chính sách tiền tệ theo hướng vận dụng các công cụ chính sách gián tiếp. Thực hiện chính sách tỷ giá, lãi suất, nghiệp vụ thị trường mở theo cung cầu trên thị trương, từng bước nâng cao khả năng chuyển đổi của đồng Việt Nam, trước hết là đối với những tài khoản vãng lai. Nâng cao vai trò của ngân sách Nhà nước trong lĩnh vực điều hành, quản lý tiền tệ, giám sát các hoạt động tín dụng; tăng cường năng lực của ngân hàng Nhà nước về tổ chức, thể chế và cán bộ. Đẩy mạnh và xây dựng và hoàn thiện khung pháp luật phù hợp vơi kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nghiên cứu sửa đổi, bổ xung pháp luật hiện hành phù hợp với yêu cầu thực hiện chiến lược kinh tế - xã hội và yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là các luật:Luật Thương Mại, Luật phá sản doanh nghiệp, Bộ luật lao động, luật các tổ chức tín dụng, luật ngân sách Nhà nước... Xây dựng một số luật mới như: Luật doanh nghiệp trên cơ sở thống nhất luật doanh nghiệp Nhà nước và luật doanh nghiệp hiện hành; luật đầu tư trên cơ sở thống nhất luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và luật khuyến khích đầu tư trong nước; luật khuyến khích cạnh tranh và kiểm soát độc quyền trong kinh doanh... Đổi mới và hoàn thiện quy trình xây dựng luật, ban hành và thực thi pháp luật, trong đó chú trọng việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật và tổ chức thi hành luật một cách nghiêm minh. 4. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả, mở rộng kinh tế đối ngoại. Tiếp tục chính sách mở cửa và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển, tích cực chuẩn bị các điều kiện về kinh tế, thể chế, cán bộ... để thực hiện thành công quá trình hội nhập trên cơ sở phát huy nội lực, bảo đảm độc lập, tự chủ, bình đẳng và cùng có lợi. Thực hiện chính sách bảo hộ có trọng điểm, có điều kiện và có thời hạn phù hợp với tiến trình hội nhập. Tích cực thực hiện các cam kết đối với các cơ chế hợp tác song phương và đa phương mà nước ta đã tham gia, đặc biệt chú trọng tới các cam kết trong khuôn khổ ASEAN (như AFTA, AICO, AIA...) APEC, ASEM. Nhà nước khuyến khích các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế hoạt động xuất nhập khẩu mà pháp luật cho phép, bao gồm cả xuất, nhập khẩu dịch vụ. Nhà nước khuyến khích xuất khẩu nhất là các mặt hàng chủ lực có lợi thế so sánh, thông qua vận hành quỹ hỗ trợ tín dụng xuất khẩu, cũng như các biện pháp bảo lãnh tín dụng xuất khẩu, các biện pháp hỗ trợ về thông tin, tìm kiếm khách hàng, tham dự triển lãm, hội trợ... Xây dựng chiến lược thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và sử dụng hiệu quả nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) phù hợp với yêu cầu phát triển đất nước. Nghiên cứu để tiến tới áp dụng một khung pháp luật thống nhất chung cho các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Khuyến khích và hỗ trợ cho các doanh nghiệp và cá nhân Việt Nam đầu tư ra nước ngoài. Tài liệu tham khảo Giáo trình kinh tế - chính trị Mác - Lênin( Nhà xuất bản giáo dục-1998 ). Kinh tế – chính trị trong thời đại chuyên chính vô sản. Giáo trình triết học Mác-Lênin. Bàn về thuế lương thực( Lênin ). Bàn về chế độ hợp tác( Lênin ). Bản thảĐi hội IX ( Nhà xuất bản chính trị quốc gia ). Báo nhân dân ngày 22,23 tháng 4 năm 2001. Tạp chí triết học 1997,1998,1999. Thời báo phát triển kinh tế 35. V.I.Lênin toàn tập 2,6,30,42 (Nhà xuất bản Tiến bộ, Maxcơva 1980). Hồ Chí Minh toàn tập (Nhà xuất bản sự thật Hà nội 1989, tập 10). Tư bản ( Mác ) quyển 1 tập 3. Bài giảng môn học Kinh tế - chính trị. Mục lục Trang Phần nhất: lời mở đầu 1 Phần hai: cơ sở của đề tài 3 Chương I Cơ sở lý luận 3 A. Hoàn cảnh ra đời của chính sách kinh tế mới 3 B. Nội dung và các biện pháp chủ yếu của chính sách kinh tế mới (NEP ). 8 C. ý nghĩa của NEP và bài học thành công 16 Chương II Việt Nam hội nhâp vào nền kinh tế của thế giới. 18 Phần ba: Vận dụng NEP trong điều kiện nước ta 20 Chương I Thực trạng đất nước. Tình hình đất nước 5 năm qua và những thành tựu trong 15 năm đổi mới 20 Chương II Vận dụng sáng tạo NEP vào nước ta 23 A. Sự phân tích những tồn tại và nguyên nhân 23 B. Sự vận dụng NEP 24 C. Phương hướng - nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001-2005 28 Tài liệu tham khảo 34 Mục lục 35 Phần bốn Kết luận Để tồn tại và phát triển trong thời đại ngày nay mỗi quốc gia đều phải lựa chọn cho mình một chính sách đúng đắn và thích hợp. NEP là kiểu mẫu hoàn thiện nhất của sự kết hợp giữa những tính quy luật chung với những đặc điểm lịc sử cụ thể của mỗi nước ở mỗi giai đoạn. Chỉ trong thời gian ngắn, Đảng cộng sản Liên Xô, với sự lãnh đạo của Lênin đã xác định được kế hoạch thực sự khoa học để xây dựng một nước XHCN đầu tiên trên thế giới và đã giải quyết thành công những vấn đề cơ bản nhất trong trong thời kì quá độ. CNXH từ lý luận đến thực tiễn là một bước ngoặt, ở đó diễn ra cuộc sát hạch đối với sự trưởng thành của giai cấp công nhân và đội tiên phong của nó. Nắm vững NEP, với tư cách là chiến lược xây dựng XHCN là bảo đảm vững chắc cho thắng lợi của giai cấp công nhân và Đảng của nó trong cuộc sát hạch ấy. Điều đó cũng có tầm quan trọng quyết định đối với những nước quá độ lê XHCN từ một nền kinh tế lạc hậu, mà không trải qua giai đoạn phát triển TBCN. Với nhận thức hết sức rõ ràng và đúng đắn về ý nghĩa quốc tế và tính thời sự của chính sách kinh tế mơí, Đảng ta đã khẳng định việc vận dụng sáng tạo tư tưởng của Lênin về chính sách kinh tế mới, nhất là quan niệm của ông về CNTB, Nhà nước có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc sáng tạo ra những hình thức quá độ, những nấc thang trung phù hợp với bối cảnh của công cuộc đổi mới nước ta hiện nay.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docChnh sch kinh t7871 m7899i c7911a Lnin v s7921 v7853n damp.doc
Tài liệu liên quan