Tài liệu Đề tài Tìm hiểu các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội: Luận văn
Đề Tài:
Các biện pháp nhằm nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn lưu động
tại Công ty xuất nhập khẩu
máy Hà Nội
LỜI NÓI ĐẦU
Trong những năm qua, thực hiện đường lối phát triển kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường theo định hướng XHCN,
nền kinh tế nước ta đã có sự biến đổi sâu sắc và phát triển mạnh mẽ. Nước ta
đang bắt đầu tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá thì nhu cầu về vốn
càng trở nên cấp bách hơn. Nhưng khi đã có vốn rồi thì việc sử dụng vốn như
thế nào cho có hiệu quả cũng là vấn đề rất quan trọng. Việc sử dụng vốn tiết
kiệm và có hiệu quả được coi là điều kiện tồn tại và phát triển của doanh
nghiệp.
Ngày nay một doanh nghiệp muốn đứng vững trên thị trường đòi hỏi
doanh nghiệp đó phải biết sử dụng vốn triệt để và không ngừng nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn kinh doanh mà đặc biệt là vốn lưu động. Vốn lưu động là bộ
phận rất quan trọng trong vốn sản xuất kinh doanh và nó thường chiếm tỷ
trọng rất lớn ở những do...
51 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1090 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Tìm hiểu các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn
Đề Tài:
Các biện pháp nhằm nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn lưu động
tại Công ty xuất nhập khẩu
máy Hà Nội
LỜI NÓI ĐẦU
Trong những năm qua, thực hiện đường lối phát triển kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường theo định hướng XHCN,
nền kinh tế nước ta đã có sự biến đổi sâu sắc và phát triển mạnh mẽ. Nước ta
đang bắt đầu tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá thì nhu cầu về vốn
càng trở nên cấp bách hơn. Nhưng khi đã có vốn rồi thì việc sử dụng vốn như
thế nào cho có hiệu quả cũng là vấn đề rất quan trọng. Việc sử dụng vốn tiết
kiệm và có hiệu quả được coi là điều kiện tồn tại và phát triển của doanh
nghiệp.
Ngày nay một doanh nghiệp muốn đứng vững trên thị trường đòi hỏi
doanh nghiệp đó phải biết sử dụng vốn triệt để và không ngừng nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn kinh doanh mà đặc biệt là vốn lưu động. Vốn lưu động là bộ
phận rất quan trọng trong vốn sản xuất kinh doanh và nó thường chiếm tỷ
trọng rất lớn ở những doanh nghiệp thương mại. Có thể nói trong doanh
nghiệp thương mại vốn lưu động là bộ phận sinh lời nhiều nhất. Chỉ khi nào
doanh nghiệp hoạt động có hiệuquả thì doanh nghiệp đó mới có vốn để tái đầu
tư giản đơn và tái đầu tư mở rộng nhằm đem lại lợi nhuận ngày càng cao cho
doanh nghiệp trong hành lang pháp lý về tài chính và tín dụng mà nhà nước
đã quy định.
Việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh nói chung và
vốn lưu động nói riêng có ý nghĩa hết sức quan trọng, là sự sống còn của các
doanh nghiệp khi tìm chỗ đứng trong nền kinh tế thị trường. Do đó việc nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn đang là vấn đề bức thiết đặt ra đối với tất cả các
doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
Trong thực tế hiện nay ở Việt Nam hiệu quả sử dụng vốn là một vấn đề
đang được quan tâm. Nhìn chung hiệu quả sử dụng các nguồn tài chính của
các doanh nghiệp ở Việt Nam đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước còn
đang ở mức thấp so với các doanh nghiệp trên thế giới. Nếu chúng ta không
có giải pháp kịp thời để nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn tài chính thì các
doanh nghiệp sẽ khó đứng vững được trong môi trường cạnh tranh quốc tế và
sẽ dẫn đến nguy cơ tụt hậu.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, qua thời gian thực tập
tại Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội được sự giúp đỡ tận tình của giáo
viên hướng dẫn cùng tập thể cán bộ công nhân viên trong công ty, tôi xin mạnh
dạn đề xuất một số ý kiến thông qua đó nghiên cứu: “Các biện pháp nhằm nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội”.
Đề tài nghiên cứu gồm 3 phần:
Chương I: Cơ sở lý luận về vốn lưu động và hiệu quả sử dụng vốn lưu
động trong doanh nghiệp thương mại.
Chương II: Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Công ty xuất
nhập khẩu máy Hà Nội.
Chương III: Các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu
động tại Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội.
Chương I
Cơ sở lý luận về vốn lưu động và hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong
doanh nghiệp thương mại
I. Vốn lưu động trong doanh nghiệp thương mại
1. Khái niệm về vốn lưu động
Vốn lưu động là một bộ phận của vốn sản xuất là biểu hiện bằng tiền của
toàn bộ giá trị tài sản lưu động và vốn lưu thông để đảm bảo quá trình sản
xuất và tái sản xuất của doanh nghiệp được tiến hành bình thường.
Tài sản lưu động của doanh nghiệp là những tài sản tiền tệ hoặc có thể
chuyển thành tiền tệ trong chu kỳ kinh doanh. Nó bao gồm:
- Vốn bằng tiền, bao gồm:
+ Tiền mặt tại quỹ (gồm cả ngân phiếu)
+ Tiền gửi ngân hàng
+ Tiền đang chuyển
- Hàng tồn kho: Các loại tài sản hàng tồn kho được phân loại theo vật tư
của quy trình kinh doanh của doanh nghiệp thương mại bao gồm:
+ Hàng tồn kho
+ Hàng đang đi trên đường
+ Hàng gửi bán
Trong nền kinh tế thị trường tài sản hàng tồn kho còn bao gồm cả phần
dự phòng giảm giá hàng hoá tồn kho.
- Ứng trước và trả trước: Là những khoản ứng và thanh toán trước cho
các nhà cung ứng theo hợp đồng kinh doanh, các khoản tạm ứng khác.
- Các khoản phải thu: Bao gồm:
+ Phải thu từ khách hàng: Thanh toán với người mua, trong kinh doanh
hiện đại nợ phải thu từ khách hàng là những khoản nợ có nguồn gốc từ việc
bán hàng hoặc cung ứng dịch vụ và các khoản phải thu khác như hạ giá chiết
khấu, giảm giá các khoản phải thu.
+ Phải thu nội bộ: Các khoản tạm ứng cho các cán bộ công nhân viên
trong doanh nghiệp.
- Đầu tư tài chính ngắn hạn: Gồm các cổ phiếu, trái phiếu thương phiếu
ngắn hạn mà doanh nghiệp đã mua nhằm mục đích sinh lời từ việc thu lợi tức,
cổ tức và giá trị chứng khoán ngắn hạn. Những tài sản này cũng xem như tiền
có thể sử dụng ngay được vì qua thị trường chứng khoán cấp II ta có thể
chuyển nhượng để thu tiền và bất cứ lúc nào.
- Chi sự nghiệp: là những khoản chi một lần nhưng được phân bổ cho
nhiều thời kỳ khác nhau.
Đặc điểm nổi bật nhất của vốn lưu động là tham gia trực tiếp và hoàn
toàn không ngừng, luôn luôn thay đổi hình thái biểu hiện. Quá trình thay đổi
hình thái biểu hiện của vốn lưu động gắn liền với mua bán hàng hoá và sản
phẩm dịch vụ của doanh nghiệp và do đó tạo nên quá trình vận động của vốn
trong kinh doanh. Các doanh nghiệp thương mại hoạt động trong lĩnh vực lưu
thông hàng hoá, sự vận đọng của vốn trải qua hai giai đoạn:
+ Giai đoạn 1: Doanh nghiệp phải ứng ra một số lượng tiền nhất định để
mua vật tư hàng hoá từ nhiều nguồn khác nhau về dự trữ. VLĐ được chuyển
từ hình thái tiền tệ sang hình thái hàng hoá.
+ Giai đoạn 2: Doanh nghiệp dùng hàng hoá dự trữ bán cho khách hàng
để thu tiền về vốn từ hình thái hàng hoá được chuyển sang hình thái tiền tệ.
Trong cùng một thời điểm vốn lưu động tồn tại dưới cả hai hình thái.
Cũng do vốn lưu động luôn vận động nên kết cấu của vốn lưu động luôn biến
đổi và phản ánh sự vận động không ngừng của hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp.
2. Phân loại vốn lưu động
Để phân loại vốn lưu động ta có thể dựa vào một số chỉ tiêu sau:
a) Dựa vào sự vận động của vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh:
VLĐ được chia làm 3 phần: Vốn lưu động trong khâu dự trữ, VLĐ trong khâu
lưu thông, VLĐ trong khâu sản xuất.
- VLĐ trong khâu dự trữ: Đối với các doanh nghiệp dịch vụ VLĐ trong
khâu dự trữ bao gồm: Vốn dự trữ vật liệu, nhiên liệu, phụ tùng thay thế nhằm
đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được tiến hành
thường xuyên, liên tục.
- VLĐ trong khâu sản xuất: Trong doanh nghiệp thương mại và doanh
nghiệp dịch vụ không mang tính chất sản xuất thì không có vốn lưu động vận
động ở khâu này. Đối với các doanh nghiệp dịch vụ mang tính chất sản xuất
VLĐ này bao gồm:
+ Vốn về sản phẩm dở dang đang chế tạo: là giá trị sản phẩm dở dàng
dùng trong quá trình sản xuất, xây dựng hoặc đang nằm trên các địa điểm làm
việc đợi chế biến tiếp, chi phí trồng trọt dở dang...
+ Vốn bán thành phẩm tự chế: cũng là giá trị các sản phẩm dở dang
nhưng khác sản phẩm đang chế tạo ở chỗ đã hoàn thành giai đoạn chế biến
nhất định.
+ Vốn và phí tổn đợi phân bổ (chi phí trả trước) là những phí tổn chi ra
trong kỳ, nhưng có tác dụng cho nhiều kỳ sản xuất vì thế chưa tính hết vào giá
thành mà sẽ tính vào giá thành các kỳ sau:
- VLĐ trong khâu lưu thông bao gồm:
+ Vốn thành phẩm biểu hiện bằng tiền số sản phẩm đã nhập kho và
chuẩn bị các công tác tiêu thụ.
+ Vốn bằng tiền bao gồm tiền mặt tại quỹ, tiền đang chuyển và tiền gửi
ngân hàng.
+ Vốn thanh toán là những khoản phải thu tạm ứng phát sinh trong quá
trình mua bán vật tư hàng hoá hoặc thanh toán nội bộ. Theo cách phân loại
này có thể thấy vốn nằm trong quá trình dự trữ nguyên vật liệu và vốn nằm
trong khâu lưu thông không tham gia trực tiếp vào sản xuất. Phải chú ý tăng
khối lượng sản phẩm đang chế tạo với mức hợp lý vì số vốn này tham gia trực
tiếp vào việc tạo nên giá trị mới.
b) Phân loại theo hình thái biểu hiện: VLĐ được chia làm 2 loại
- Vật tư hàng hoá: là các khoản vốn lưu động có hình thái biểu hiện bằng
hiện vật cụ thể như nguyên nhiên liệu, sản phẩm dở dang, bán thành phẩm,
thành phẩm...
- Vốn bằng tiền.
c) Phân loại theo nguồn hình thành và quyền sở hữu:
- Vốn chủ sở hữu: gồm 3 phần:
+ Vốn đóng góp của các chủ đầu tư để mở rộng hoặc thành lập doanh
nghiệp. Chủ sở hữu doanh nghiệp có thể là nhà nước, cá nhân hoặc các tổ
chức tham gia liên doanh, các cổ đông mua hoặc nắm giữ cổ phiếu. Bất kỳ
một doanh nghiệp nào khi mới thành lập phải có đủ vốn pháp định. Trong mỗi
lĩnh vực hoạt động kinh doanh khác nhau thì VLĐ của doanh nghiệp là khác
nhau. Ngoài ra doanh nghiệp còn có số vốn điều lệ, đây là số vốn thực có của
doanh nghiệp và số vốn này phải lớn hơn hoặc bằng số vốn pháp định.
+ Vốn được bổ sung từ kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp: Sau mỗi kỳ sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp sẽ xác định được kết
quả kinh doanh của kỳ đó. Một phần lợi nhuận sau thuế được chia cho các đối
tượng liên quan. Một phần khác được bổ sung vào vốn kinh doanh mà chủ
yếu là vốn lưu động và đây là một bộ phận của vốn chủ sở hữu.
+ Các khoản chênhlệch do đánh giá lại tài sản, chênh lệch tỉ giá chưa xử
lý và các quỹ được hình thành trong hoạt động sản xuất kinh doanh như quỹ
phúc lợi quỹ đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh.
Những doanh nghiệp nhà nước vốn hoạt động là do nhà nước cấp ngay
từ khi mới thành lập trên cơ sở bảo toàn và phát triển vốn.
- Vốn vay: Với điều kiện kinh tế như hiện nay, quy mô kinh doanh ngày
nay có xu hướng mở rộng, nhu cầu sử dụng vốn ngày càng phát triển.
Do vậy nguồn vốn chủ sở hữu chỉ đáp ứng phần nào nhu cầu vốn kinh
doanh. Để có đủ vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp
phải chủ động tạo ra cho mình nguồn vốn để kinh doanh. Một biện pháp hữu
hiệu nhất là đi vay vốn. Hình thức đi vay của doanh nghiệp là: Vay ngân
hàng, vay các tổ chức kinh tế hoặc của các cá nhân hay vay của các tổ chức
tín dụng nhằm tạo ra một lượng vốn cao hơn để đáp ứng nhu cầu về vốn khi
thực hiện hợp đồng phù hợp với lợi ích kinh doanh của doanh nghiệp mà
không trái với pháp luật.
Với mỗi hình thức vay vốn lại có những điều kiện xây dựng ràng buộc
khác nhau. Nếu doanh nghiệp vay của tổ chức tín dụng ngân hàng thì điều
kiện để xét vốn vay là doanh nghiệp phải làm ăn có lãi, có tài sản thế chấp mà
số tài sản này chưa đem ra thế chấp. Sau 1 chu kỳ hoặc một khoảng thời gian
nhất định doanh nghiệp phải hoàn trả tiền vay vốn.
Ngoài việc vay vốn của tổ chức tín dụng, của ngân hàng, cá nhân qua
việc phát hành cổ phiếu, còn xuất hiện việc vay vốn lẫn nhau mà thực chất là
chiếm dụng vốn lẫn nhau. Như vậy việc vay vốn sẽ tạo điều kiện thuận lợi,
nắm bắt được cơ hội kinh doanh và phát triển lợi nhuận cho doanh nghiệp.
- Vốn liên doanh: Ngoài vốn tự có, vốn vay doanh nghiệp có thể huy
động thêm bằng hình thức góp vốn liên doanh, với hình thức nhận góp vốn
liên doanh tức là doanh nghiệp cùng hợp tác với nhau trong vấn đề kinh
doanh nhằm mục đích hai bên cùng có lợi.
- Vốn khác: Trên thực tế hoạt động kinh doanh có những khoản phải trả
phải nộp: như nợ phải trả người bán, phải trả nội bộ, thuế và các khoản nộp
ngân sách nhưng chưa đến kỳ phải trả, những khoản người mua phải trả tiền
trước, tiền lương, tiền bảo hiểm, y tế, kinh phí công đoàn...
Những khoản này được coi như là vốn tự có của doanh nghiệp mặc dù
doanh nghiệp không có quyền sở hữu, những vẫn được quyền sử dụng tạm
thời vào hoạt động kinh doanh mà không phải trả bất kỳ một khoản ký gửi
nào.
Với các phân loại vốn như trên tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý
vốn mà doanh nghiệp nắm giữ đồng thời cho thấy quy mô của từng loại vốn
để từ đó có kế hoạch khai thác một cách chủ động, tích cực góp phần nâng
cao hiệu quả sử dụng VLĐ của doanh nghiệp.
d) Kết cấu vốn lưu động
Kết cấu VLĐ thực chất là tỉ trọng từng khoản vốn trong tổng nguồn
VLĐ của doanh nghiệp. Thông qua kết cấu của VLĐ cho thấy sự phân bổ của
vốn trong từng giai đoạn luân chuyển hoặc trong từng nguồn vốn, từ đó doanh
nghiệp xác định được phương hướng và trọng điểm quản lý vốn nhằm đáp
ứng kịp thời đối với từng thời kỳ kinh doanh. Kết cấu của VLĐ chịu ảnh
hưởng của nhiều nhân tố như: đặc điểm ngành nghề kinh doanh, trình độ tổ
chức. Vì vậy trong doanh nghiệp khác nhau thì kết cấu vốn lưu động cũng
khác nhau, nó phụ thuộc vào các nhóm nhân tố sau:
- Nhóm nhân tố về mua sắm vật tư và tiêu thụ sản phẩm: Các doanh
nghiệp hàng năm phải sử dụng nhiều loại vật tư khác nhau. Nếu khoảng cách
giữa các doanh nghiệp và các đơn vị bán hàng xa hoặc gần, kỳ hạn bán hàng,
chủng loại, số lượng và giá cả phù hợp với yêu cầu thì có sự thay đổi đến tỷ
trọng VLĐ bỏ vào khâu dự trữ.
Điều kiện tiêu thụ sản phẩm cũng ảnh hưởng nhất định đến kết cấu VLĐ.
Khối lượng tiêu thụ sản phẩm mỗi lần nhiều hay ít, khoảng cách giữa các
doanh nghiệp với các đơn vị mua hàng dài hay ngắn đều trực tiếp ảnh hưởng
tới tỷ trọng thành phẩm và hàng hoá xuất ra nhờ ngân hàng thu hộ.
- Nhóm nhân tố về mặt thanh toán: Nếu sử dụng phương thức thanh toán
hợp lý, giải quyết thanh toán kịp thời thì tỉ trọng vốn trong khâu lưu thông sẽ
thay đổi. Đặc biệt trong xây lắp việc sử dụng các thể thức thanh toán khác
nhau tổ chức thủ tục thanh toán, tình hình chấp hành kỷ luật thanh toán có ảnh
hưởng nhiều đến tỷ trọng vốn bỏ vào khâu sản xuất và khâu lưu thông.
Ngoài các nhân tố nêu trên, kết cấu VLĐ còn lệ thuộc vào tính chất thời
vụ sản xuất, trình độ tổ chức và quản lý doanh nghiệp. Tìm hiểu thành phần
cũng như nghiên cứu kết cấu nội dung vốn lưu động là rất cần thiết đối với
việc sử dụng chính xác và có hiệu quả số vốn đó trong mỗi doanh nghiệp.
3. Vai trò của vốn lưu động
Vốn lưu động được coi là nguồn lực quan trọng nhất trong doanh nghiệp.
Vốn là tiền đề vật chất không thể thiếu đối với sự ra đời và phát triển của
doanh nghiệp. Trước hết vốn là điều kiện đầu tiên để doanh nghiệp thực hiện
thủ tục pháp lý thành lập. Tiếp theo khi bắt đầu sản xuất kinh doanh phải có
vốn để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và VLĐ phục vụ cho quá trình sản
xuất kinh doanh.
Với sự cạnh tranh trong nền kinh tế ngày càng khốc liệt thì vốn là yếu tố
quyết định đến sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp. Nếu thừa nhận
vốn doanh nghiệp không thể chủ động trong sản xuất kinh doanh, cũng như
không thể mở rộng quy mô và khi đó doanh nghiệp sẽ bị cạnh tranh bởi các
đối thủ khác mạnh hơn, như vậy quy mô kinh doanh sẽ bị thu hẹp thậm chí
dẫn tới phá sản.
VLĐ còn là công cụ phản ánh và đánh giá quá trình hoạt động của hàng
hoá, cũng như phản ánh và kiểm tra quá trình mua sắm, dự trữ bán hàng của
doanh nghiệp. Mặt khác vốn lưu động luân chuyển nhanh hay chậm còn phản
ánh thời gian lưu thong có hợp lý hay không. Do đó thông qua tình hình luân
chuyển VLĐ của doanh nghiệp, các nhà hàng quản doanh nghiệp có thể đánh
giá kịp thời đối với các mặt hàng mua sắm dự trữ sản xuất và tiêu thụ của
doanh nghiệp. Hiệu quả sử dụng vốn ảnh hưởng tới kết quả hoạt động sản
xuất kinh doanh trong kỳ, do vậy việc quản lý vốn có ý nghĩa quan trọng. Sử
dụng vốn hợp lý sẽ cho phép khai thác tối đa năng lực hoạt động của TSLĐ
góp phần hạ thấp chi phí kinh doanh, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Tóm lại VLĐ có vai trò rất quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp thương mại, việc tìm hiểu và nghiên cứu vấn đề sử
dụng vốn lưu động là vấn đề cần thiết nhằm đưa ra những biện pháp tối ưu
phục vụ cho chiến lược kinh doanh trong doanh nghiệp.
II. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp thương mại
1. Hiệu quả kinh doanh
Hiệu quả kinh doanh được hiểu là chỉ tiêu chất lượng phản ánh mối
tương quan so sánh giữa kết quả đạt được theo mục tiêu đã xác định với chi
phí bỏ ra để đạt được mục tiêu đó. Trong quá trình kinh doanh nếu chi phí bỏ
ra ít nhưng kết quả thu được lại cao thì có nghĩa hiệu quả kinh doanh tốt và
ngược lại.
Để hoạt động, doanh nghiệp thương mại phải có các mục tiêu hành động
của mình trong từng thời kỳ, đó có thể là các mục tiêu xã hội cũng có thể là
các mục tiêu kinh tế của chủ doanh nghiệp và doanh nghiệp luôn tìm cách để
đạt các mục tiêu đó với chi phí thấp nhất đó là hiệu quả.
Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp được thể hiện trên hai khía cạnh
sau:
Hiệu quả xã hội: Thể hiện sự đóng góp của doanh nghiệp trong việc thực
hiện những mục tiêu kinh tế xã hội như tăng cường các khoản phúc lợi tạo
công ăn việc làm cho nền kinh tế quốc dân.
Hiệu quả kinh doanh là hiệu quả chỉ xét trên phương diện kinh tế của
hoạt động kinh doanh. Nó mô tả mối tương quan giữa lợi ích kinh tế mà
doanh nghiệp đạt được với chi phí bỏ ra để đạt được lợi ích đó. Hiệu quả kinh
tế là mối quan tâm hàng đầu của doanh nghiệp và chủ doanh nghiệp.
Hiệu quả kinh tế là chỉ tiêu chất lượng quan trọng phản ánh mối quan hệ
đạt được giữa kết quả về mặt kinh tế và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó:
Hiệu quả = Error!
Kết quả của doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh thông
thường là đạt được doanh thu hoặc lợi nhuận trong kỳ. Chi phí cho hoạt động
kinh doanh là số lượng vốn đầu tư để đạt được kết quả đó.
2. Hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong doanh nghiệp thương mại
Một trong những vấn đề quan trọng để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp là phải thường xuyên nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
lưu động. Hiệu quả sử dụng vốn lưu động phản ánh tình hình sử dụng VLĐ
trong doanh nghiệp, được thể hiện bằng mối quan hệ giữa kết quả hoạt động
kinh doanh với số vốn lưu động đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh
trong kỳ.
Hiệu quả sử dụng VLĐ = Error!
Như ta đã biết VLĐ tiếp diễn không ngừng, lặp đi lặp lại có tính chất chu
kỳ gọi là chu chuyển VLĐ, thời gian của một kỳ luân chuẩn biểu thị tốc độ
chu chuẩn VLĐ hay còn gọi là hiệu suất luân chuyển VLĐ.
Hiệu suất luân chuyển VLĐ biểu hiện trình độ nghệ thuật sử dụng VLĐ
trong doanh nghiệp. Nó thường biểu thị qua 2 chỉ tiêu. Số lớn luân chuyển
VLĐ trong kỳ và số ngày để hoàn thành một lần luân chuyển còn gọi là kỳ
luân chuyển bình quân).
Sử dụng hiệu quả VLĐ mang tính cấp thiết đối với sự tồn tại và phát
triển của doanh nghiệp. VLĐ là một bộ phận quan trọng của tổng nguồn vốn,
là yếu tố không thể của quá trình sản xuất kinh doanh nhất là trong doanh
nghiệp thương mại. Việc sử dụng VLĐ không tốt có thể không thể không bảo
tồn được vốn, quy mô bị thu hẹp, ảnh hưởng tới quá trình tái sản xuất và nhu
vậy ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh. VLĐ vận động không ngừng trong
các giai đoạn cùng với hình thái biểu hiện phức tạp, điều này đòi hỏi các
doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh phải có những biện pháp quản lý và
sử dụng VLĐ thích hợp.
3. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng VLĐ
Trong nền kinh tế thị trường thì VLĐ đối với các doanh nghiệp luôn là
một vấn đề bức xúc đặt ra. Có thể coi VLĐ như là nhựa sống tuần hoàn trong
doanh nghiệp. Vì vạy doanh nghiệp muốn hoạt động và phát triển được thì
VLĐ không thể thiếu và phải liên tục tuần hoàn, liên tục lưu thông. Một
doanh nghiệp thiếu vốn thì không thể hoạt động được, nhưng nếu có vốn mà
sử dụng kém hiệu quả, để mất dần đồng vốn thì doanh nghiệp sẽ đi vào bế tắc.
Điều đó nói lên rằng VLĐ có ý kiến sống còn đối với các doanh nghiệp và nó
có vai trò tuyệt đối tới sự thành bại của doanh nghiệp.
Ngày nay các doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế thị trường thì
yêu cầu về VLĐ là lớn, như nguồn kinh tế thị trường cũng tạo ra môi trường
kinh doanh thuận lợi, giúp doanh nghiệp có thể tự chủ về tài chính có thể huy
động vốn từ nhiều nguồn khác nhau. Vì vậy mà vấn đề đặt ra là đòi hỏi đồng
vốn sử dụng vào kinh doanh phải có hiệu quả và hiệu quả tối đa. Trên góc độ
tài chính doanh nghiệp phải quan tâm đến chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn từ đó
xem xét tình hình sử dụng VLĐ của doanh nghiệp để có các biện pháp nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn. Các chỉ tiêu hiệu quả bao gồm:
3.1. Hệ số thanh toán:
Hệ số này dùng để xem xét khả năng thanh toán của doanh nghiệp đối
với khoản phải trả ngắn hạn, gồm hệ số thanh toán hiện tại và hệ số thanh
toán nhanh.
- Hệ số khả năng thanh toán hiện tại là thước đo khả năng có thể trả nợ
của doanh nghiệp, nó chỉ ra phạm vi quy mô mà các yêu sách của dư nợ được
trang trải bằng tài khoản lưu động có thể chuyển thành tiền trong kỳ phù hợp
với thời hạn nợ phải trả:
Hệ số khả năng;thanh toán hiện thời Error! Reference source not
found. = Error!
Đây là tỷ lệ giữa TSLĐ và nợ ngắn hạn. Đó là một trong những thước đo
tốt nhất được sử dụng thường xuyên trong đo lường về sức mạnh tài chính.
Hệ số đó trả lời câu hỏi: Doanh nghiệp có đủ tài sản lưu động để trả các
khoản nợ ngắn hạn không?
- Hệ số thanh toán nhanh: là thước đo khả năng trả nợ ngay, không được
dựa vào bán vật tư hay hàng hoá (kể cả sản phẩm) là một đặc trưng tài chính
quan trọng của doanh nghiệp.
Chỉ tiêu này trả lời câu hỏi: Nếu thu thập bán hàng không còn nữa thì
doanh nghiệp có thể trả được nợ ngắn hạn không? Căn cứ vào các nguồn tiền
có thể huy động nhanh và các khoản có thể dễ dàng chuyển thanh tiền bao
gồm: tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, tiền đang chuyển các khoản đầu tư chứng
khoán ngắn hạn.
3.2. Hệ số phục vụ vốn lưu động
Hệ số này cho biết với một đồng vốn lưu động bỏ ra thì thu lại cho
doanh nghiệp bao nhiêu đồng doanh thu. Biểu hiện của hệ số này là mối quan
hệ giữa doanh thu đạt được trong kỳ với VLĐ bình quân sử dụng trong kỳ:
M
HVLĐ =
_______________________
LDV
1
.... 2/322/1
n
VVVV
V nLD
Trong đó:
HVLĐ : Hệ số phục vụ vốn lưu động
M: Tổng doanh thu trong kỳ
LDV : Vốn lưu động bình quân trong kỳ
V1 ... Vn : Vốn lưu động tại các thời điểm kiểm kê
n : số thời điểm kiểm kê
Hệ số phục vụ VLĐ càng cao tức là với 1 đồng VLĐ bỏ ra có thể đem lại
nhiều đồng doanh thu. Khi đó hiệu quả sử dụng vốn lưu động được đánh giá
là tốt và ngược lại.
3.3. Tốc độ chu chuyển VLĐ
Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, sự tuần hoà của vốn diễn
ra liên tục lặp đi lặp lại mang tính chất chu kỳ gọi là chu chuyển vốn lưu
động. Tốc độ chu chuyển VLĐ phản ánh tổng quát quá trình quản lý, trình độ
chuyên môn tổ chức của cán bộ từ khâu mua đến khâu bán.
Thời gian của vòng chu chuyển VLĐ được quyết định bằng tổng số thời
gian lưu thông từ kỳ tuần hoàn này đến kỳ tuần hoàn tiếp theo. Thời gian của
vòng chu chuyển vốn càng ngắn thì tốc độ chu chuyển vốn càng nhanh và
ngược lại.
Tốc độ chu chuyển VLĐ được thể hiện thông qua 2 chỉ tiêu sau:
- Số vòng chu chuyển VLĐ
MGV
L = ________________
LDV
Trong đó: L : số vòng chu chuyển VLĐ trong kỳ
MGV : Tổng mức doanh thu trong kỳ theo giá vốn
LDV : Vốn lưu động bình quân trong kỳ.
Chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ rằng số vốn lưu động chu chuyển càng
nhanh, hoạt động kinh doanh được đánh giá là tốt.
- Số ngày chu chuyển vốn lưu động phản ánh độ dài một vòng quay của
VLĐ, chỉ tiêu này được xác định dựa vào số ngày quy ước trong kỳ và tổng
số vòng quay trong kỳ đó.
LDV
N = ______________
MGV
Trong đó: N- Số ngày chu chuyển VLĐ
LDV
MGV: doanh thu theo giá vốn bình quân 1 ngày trong kỳ.
Chỉ tiêu này càng nhỏ chứng tỏ VLĐ chu chuyển càng nhanh, tức là
hàng hoá ít bị ứ đọng, bộ phận vốn bằng tiền được quản lý chặt chẽ.
Như vậy hai chỉ tiêu số vòng và số ngày chu chuyển thực chất là giống
nhau chỉ khác nhau về cách thể hiện. Khi số vòng chu chuyển VLĐ tăng thì
số ngày chu chuyển VLĐ giảm. Nhìn chung vốn lưu động quay càng nhiều
vòng trong một chu kỳ kinh doanh thì hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng
cao.
3.4. Hệ số bảo toàn vốn lưu động
Bảo toàn vốn lưu động có nghĩa là sau một thời gian hoạt động vốn của
doanh nghiệp bảo đảm toàn vẹn không bị thâm hụt, thất thoát. Nói cách khác,
đến kỳ kiểm tra VLĐ của doanh nghiệp vẫn đảm bảo tương ứng với số tài sản
lưu động ban đầu theo thời giá hiện tại.
Bảo toàn và phát triển VLĐ là một trong những chỉ tiêu quan trọng đối
với từng doanh nghiệp, nó quyết định đến sự tồn tại và phát triển VLĐ trong
doanh nghiệp chịu tác động của nhiều nhân tố khác nhau, những nhân tố xấu
có thể làm giảm VLĐ và làm ảnh hưởng tới quy mô kinh doanh. Chính vì
điều này mà việc bảo toàn và phát triển vốn trở thành nguyên tắc bắt buộc các
doanh nghiệp phải thực hiện. Đối với doanh nghiệp nhà nước bảo toàn vốn là
yêu cầu của chế độ hạch toán và là chỉ tiêu pháp lệnh của nhà nước.
Để đánh giá mức độ bảo toàn VLĐ ta cần xác định số VLĐ hiện có và số
VLĐ phải bảo toàn đến cuối kỳ. Trong đó số VLĐ hiện có ở cuối kỳ trên sổ
sách kế toán của doanh nghiệp sau khi đã điều chỉnh chênh lệch giá của tài
sản lưu động theo thời giá. Các khoản chênh lệch giá đó được xác định trong
mọi trường hợp thay đổi giá trị vật tư hàng hoá do Nhà nước quy định hoặc
vật tư hàng hoá mua theo giá thoả thuận trên thị trường.
Vốn lưu động phải bảo toàn đến cuối kỳ được xác định như sau:
Vốn lưu động phải; bảo toàn đến cuối kỳ = Vốn lưu động;đầu kỳ x
Hệ số điều chỉnh bình quân;giá trị tài sản lưu động
Sau khi xác định được VLĐ hiện có cuối kỳ và VLĐ phải bảo toàn cuối
kỳ ta so sánh chúng với nhau:
Hệ số bảo toàn VLĐ = Error!
Nếu hệ số này > 1 thì doanh nghiệp đã bảo toàn và phát triển VLĐ.
Ngược lại nếu hệ số này < 1 doanh nghiệp không bảo toàn được VLĐ nghĩa là
sau khi loại trừ ảnh hưởng của giá VLĐ của doanh nghiệp bị thâm hụt.
Khi sử dụng hệ số bảo toàn VLĐ thì chưa thể đánh giá được mức độ hiệu
quả sử dụng VLĐ trong doanh nghiệp mà chỉ đánh giá được tổng quát về hiệu
quả sử dụng vốn lưu động.
3.5. Hệ số sinh lời của VLĐ
Hệ số doanh lợi của vốn lưu động. Đây là chỉ tiêu chất lượng rất quan
trọng, phản ánh rõ kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Chỉ tiêu
này cho biết một đồng VLĐ sử dụng trong kỳ tạo ra được bao nhiêu đồng lợi
nhuận?
Hệ số doanh lợi VLĐ = Error!
Hệ số sinh lời bao gồm các chỉ tiêu:
- Tỷ suất lợi nhuận doanh thu.
Hệ số này phản ánh mối quan hệ giữa lợi nhuận sau thuế và doanh thu
thuần trong kỳ của doanh nghiệp. Nó thể hiện, khi thực hiện một đồng doanh
thu thuần trong kỳ doanh nghiệp có thể thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận
ròng.
Tỷ suất lợi nhuận doanh thu = Error!
- Hệ số khả năng sinh lời của vốn kinh doanh không tính tới ảnh hưởng
của thuế thu nhập doanh nghiệp và nguồn gốc của vốn kinh doanh: chỉ tiêu
này cho biết số ngày cần thiết để vốn hàng hoá dự trữ quay trọn một vòng.
Chỉ tiêu vòng quay vốn hàng hoá dự trữ và số ngày chu chuyển vốn hàng hoá
dự trữ và có quan hệ tỉ lệ nghịch với nhau, vòng quay tăng thì ngày chu
chuyển giảm và ngược lại:
- Vòng quay các khoản thu: phản ánh tốc độ chuyển đổi các khoản phải
thu thành tiền mặt của doanh nghiệp:
Vòng quay các khoản phải thu được xác định như sau:
Vòng quay các khoản phải thu = Error!
Kỳ thu tiền bình quân = Error!
Nếu hệ số vòng quay các khoản phải thu cao thể hiện doanh nghiệp thu
hồi nhanh các khoản nợ. Trong khi kinh doanh doanh nghiệp nên đánh giá
nghiên cứu kỹ những khoản phải thu thông qua việc đánh giá khả năng tài
chính của khachs hàng hoặc uy tín của họ nhằm đưa ra phương thức kinh
doanh thích hợp.
- Vòng quay các khoản phải trả
Số vòng quay các khoản phải trả = Error!
Kỳ trả tiền bình quân = Error!Error! Reference source not found.
Số ngày phân tích trong kỳ thường tính bằng 1 năm bằng 360 ngày. Nếu
vòng quay các khoản phải trả thấp doanh nghiệp đã tận dụng được một số vốn
tạm thời để bổ sung cho vốn kinh doanh:
- Tỷ lệ các khoản phải thu; so với các khoản phải trả = Error! x 100
Chỉ tiêu này cho ta biết tỷ lệ càng lớn chứng tỏ doanh nghiệp chiếm
dụng vốn càng nhiều và ngược lại.
- Hệ số phục vụ vốn công cụ, dụng cụ, nguyên vật liệu: Hệ số này phản
ánh một đồng vốn công cụ, dụng cụ, nguyên vật liệu bỏ ra thì hoạt động kinh
doanh sẽ đem lại cho doanh nghiệp bao nhiêu đồng doanh thu.
Hệ số phục vụ vốn; công cụ
dụng cụ
NVL
= Error!
Hệ số khả năng sinh lời;vốn kinh doanh = Error!‘
Tỷ suất lợi nhuận ròng của vốn kinh doan. Nó phản ánh mỗi đồng vốn sử
dụng trong kỳ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Tỷ suất lợi nhuận ròng;của vốn kinh doanh = Error!
- Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu: Đây là chỉ tiêu mà các nhà đầu tư rất
quan tâm, hệ số này đo lường mức lợi nhuận thu được lên mỗi đồng vốn chủ
sở hữu trong kỳ.
Tỷ suất lợi nhuận; vốn chủ sở hữu = Error!
Ngoài bốn chỉ tiêu chung phân tích trên để thấy rõ được hiệu quả sử
dụng vốn lưu động ta xem xét các chỉ tiêu sau:
- Hệ số vòng quay vốn hàng hoá dự trữ: hàng hoá dự trữ được coi là bộ
phận chủ yếu của VLĐ trong doanh nghiệp, do vậy tốc đọ chu chuyển hàng
hoá tồn kho có ảnh hưởng đến tốc độ chu chuyển của toàn bộ VLĐ và ảnh
hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Tốc độ lưu chuyển hàng tồn kho
cho ta biết số vòng quay bình quân của hàng hoá được bán ra. Hệ số vòng
quay vốn hàng hoá dự trữ được xác định theo công thức:
Hệ số vòng quay;vốn hàng hoá dự trữ = Error!
Hệ số vòng quay vốn hàng hoá dự trứ mà cao làm cho doanh nghiệp
củng cố lòng tin vào khả năng thanh toán. Ngược lại hệ số này thấp gợi lên
tình hình doanh nghiệp bị ứ đọng vật tư hàng hoá vì không cần dùng hoặc dự
trữ quá nhiều hoặc sản phẩm bị tiêu thụ chậm vì sản xuất chưa bán sát nhu
cầu thị trường. Hệ số này phụ thuộc vào các yếu tố như phương thức bán
hàng, phương thức bảo quản, kết cấu hàng tồn kho. Như vậy từng doanh
nghiệp phải có những biện pháp quản lý hàng tồn kho phù hợp nhằm đạt được
hiệu quả kinh tế cao nhất.
Số ngày chu chuyển;vốn hàng hoá dự trữ = Error!
Lượng vốn này thường chiếm tỉ trọng nhỏ trong tổng vốn lưu động.
Nhưng đôi khi nó ảnh hưởng đến việc tiêu thụ hàng hoá tức là ảnh hưởng tới
doanh thu. Nếu hệ số phục vụ vốn công cụ, dụng cụ càng cao thì hiệu quả sử
dụng VLĐ tốt và ngược lại.
III. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng VLĐ
Việc xác định các nhân tố ảnh hưởng là cơ sở tìm ra những biện pháp cụ
thể nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng VLĐ trong doanh nghiệp. Các
yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng VLĐ rất phức tạp và đa dạng nhưng
chung quy lại người ta phân thành hai loại:
* Nhóm nhân tố có hể lượng hoá được
* Nhóm nhân tố không thể lượng hoá được
1. Nhóm nhân tố có thể lượng hoá được
- Doanh thu trong kỳ: Cùng một lượng VLĐ, nếu như doanh thu trong kỳ
càng cao thì hiệu quả sử dụng VLĐ là tốt và ngược lại. Nếu doanh thu trong
kỳ thấp thì hiệu quả sử dụng VLĐ là kém. Từ đó có thể thấy rằng việc tăng
doanh thu hay tăng mức lưu chuyển hàng hoá là mục tiêu phân đấu của mọi
doanh nghiệp trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên việc
tăng mức lưu chuyển hàng hoá có thể kéo theo chi phí kinh doanh tăng.
Nhưng nếu tốc độ tăng doanh thu lớn hơn tốc độ tăng chi phí thì vẫn đảm bảo
có lãi tức là việc sử dụng vốn lưu động có hiệu quả.
- Chi phí kinh doanh: Có thể hiểu chi phí kinh doanh là đảm bảo tốt nhất
quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, trên cơ sở sử dụng hợp lý tiết
kiệm mọi nguồn vật tư, tiền vốn, sức lao động của doanh nghiệp để đạt được
lợi nhuận tối đa trong khuôn khổ pháp luật, nâng cao năng suất lao động và
hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp.
Để quản lý tốt chi phí kinh doanh, các doanh nghiệp lập kế hoạch chi phí
sản xuất kinh doanh, lập kế hoạch tài chính là hình thức hoá tiền tệ tính toán
các chỉ tiêu về chi phí kinh doanh của doanh nghiệp, phục vụ cho sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ kế hoặch, cùng các biện pháp phấn đấu
thực hiện kế hoạch đó, kế hoạch chi phí sản xuất kinh doanh là những mục
tiêu phấn đấu của đơn vị, đồng thời cũng là căn cứ để đơn vị cải tiến công tác
quản lý kinh doanh, thực hiện chế độ tiết kiệm trong sản xuất kinh doanh, hạ
giá thành sản phẩm hàng hoá, tăng lợi nhuận, tăng hiệu quả kinh tế cho doanh
nghiệp trong kỳ.
Chi phí kinh doanh là nhân tố tương quan tỉ lệ nghịch với hiệu quả sử
dụng vốn ta nhận thấy từ chỉ tiêu:
Hệ số sinh lời;VLĐ trong kỳ = Error!
Nếu tổng số vốn lưu động sử dụng bình quân trong kỳ là một số cố định.
Khi tổng chi phí thực tế đã chi trong kỳ tăng (giảm) sẽ trực tiếp làm cho hệ só
sinh lời của VLĐ trong kỳ đó giảm (tăng) tức là hiệu quả sử dụng VLĐ giảm
(tăng).
- Lượng tiền mặt tồn quỹ trong doanh nghiệp có thể ảnh hưởng tới hoạt
động sản xuất kinh doanh, đây là bộ phận VLĐ giúp doanh nghiệp thanh toán
với khách hàng, tận dụng thời cơ trong kinh doanh, giao dịch với ngân hàng
và tổ chức tín dụng. Nếu lượng tiền này nhỏ hơn mức trung bình cần thiết thì
không đủ để doanh nghiệp chi tiêu trong những ngày không giao dịch với
ngân hàng. Còn nếu lượng tiền này lớn hơn mức trung bình cần thiết thì sẽ
gây ra thừa tiền trong quỹ, lãng phí vốn.
- Mức dự trữ hàng hoá: Để đảm bảo cho quá trình kinh doanh được liên
tục, thường xuyên, tốc độ quay vốn nhanh, đòi hỏi các doanh nghiệp phải có
mức dự trữ hàng hoá phù hợp với quy mô kinh doanh. Nếu vốn dự trữ hàng
hoá thực tế nhỏ hơn mức tối thiểu cần thiết thì doanh nghiệp sẽ thiếu hàng để
bán ra, hoạt động bán hàng bị gián đoạn, doanh thu đạt được không được tối
đa, dẫn đến hiệu quả sử dụng VLĐ không tốt. Còn nếu dự trữ hàng hoá thực
tế lớn hơn mức dự trữ cao nhất thì hàng hoá bị ứ đọng trong kho gây lãng phí
vốn mặc dù doanh thu có thể đạt được như dự tính.
- Tốc độ luân chuyển của VLĐ: Với mức lợi nhuận đạt được ở mỗi vòng
quay vốn là cố định. Tổng lợi nhuận đạt được trong kỳ sẽ phụ thuộc vào số
vòng quay vốn ở kỳ kinh doanh đó.
Như vậy tổng lợi nhuận trong mỗi kỳ kinh doanh trên một lượng VLĐ
cho biết trước có quan hệ tương quan tỷ lệ thuận với số vòng quay của VLĐ
trong kỳ đó.
2. Các nhân tố không thể lượng hoá được
Đó là những nhân tố mang tính định tính và mức độ tác động của chúng
đối với hiệu quả sử dụng VLĐ là không thể tính được. VLĐ của doanh nghiệp
trong cùng một lúc được phân bố trên khắp các giai đoạn luân chuyển và biểu
hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Trong quá trình vận dụng đó VLĐ chịu
tác động của nhiều nhân tố làm ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng VLĐ của
doanh nghiệp.
a) Xét về mặt khách quan
Hiệu quả sử dụng VLđ của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng của một số
nhân tố sau:
+ Lạm phát: Do tác động của nền kinh tế thị trường có lạm phát là cho
sức mua của đồng tiền sụt giảm hay giá cả của các loại vật tư hàng hoá tăng
lên... Vì vậy nếu doanh nghiệp không điều chỉnh kịp thời giá trị của các loại
tài sản đó thì sẽ làm cho VLĐ giảm dần theo tốc độ trượt giá của tiền tệ.
+ Rủi ro: Do rủi ro bất thường trong quá trình sản xuất kinh doanh mà
các doanh nghiệp thường gặp phải trong điều kiện nền kinh tế thị trường có sự
tham gia của nhiều thành phần kinh tế, cùng cạnh tranh... Khi kinh tế thị
trường không ổn định, sức mua có hạn thì càng làm tăng khả năng rủi ro của
doanh nghiệp. Ngoài ra doanh nghiệp còn phải gặp nhiều rủi ro do thiên tai
gây ra như: hoả hoạn, bão lụt... mà các doanh nghiệp khó có thể tránh được.
+ Yếu tố sản xuất tiêu dùng: chu kỳ, tính thời vụ của sản xuất và tiêu
dùng ảnh hưởng trực tiếp tới mức lưu chuyển hàng hoá.
Những hàng hoá có chu kỳ sản xuất dài vốn hàng hoá lớn sẽ làm cho tốc
độ chu chuyển VLĐ chậm và ngược lại bên cạnh sự phân bổ hàng hoá giữa
nơi sản xuất và tiêu dùng cũng ảnh hưởng tới tốc độ chu chuyển hàng hoá.
Nếu sự phân bố này là hợp lý sẽ tạo điều kiện rút ngắn thời gian lưu thông
hàng hoá, tăng tốc độ chu chuyển tăng hiệu quả sử dụng VLĐ.
+ Nhu cầu thị trường, giá cả hàng hoá dịch vụ. Trong thị trường cạnh
tranh hoàn hảo, nhu cầu về thị trường và giá cả hàng hoá và dịch vụ là những
biến số rất khó xác định. Sự thay đổi của cũng cũng ảnh hưởng đến hiệu quả
việc sử dụng vốn hay lợi nhuận thu được của doanh nghiệp.
Chẳng hạn, có sự biến động lớn về sức mua đối với một hàng hoá nào đó
mà doanh nghiệp đang kinh doanh. Nếu sức mua mặt hàng này giảm doanh
nghiệp sẽ đạt mức doanh thu và lợi nhuận thấp làm cho hiệu quả sử dụng
VLĐ thấp. Ngược lại doanh nghiệp sẽ đạt được mức doanh thu về lợi nhuận
cao hơn.
+ Giá cả cũng tác động tương tự như vậy, sự thay đổi giá cả có thể cho
sự biến động đột ngột của nhu cầu hoặc số lượng cung ứng. Giá cả thay đổi sẽ
làm tăng lên hoặc giảm đi mức độ lãi mf doanh nghiệp thu được trên một đơn
vị hàng hoá tiêu thụ.
+ Các chính sách kinh tế của nhà nước: Để thưc hiện chức năng quản lý
vĩ mô nền kinh tế của nhà nước, nhà nước đưa ra chính sách kinh tế phù hợ để
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế phù hợp với từng thời kỳ, giai doạn phát triển
của nền kinh tế.
+ Các chính sách thuế, đây là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế của nhà
nước, thuế có tác động trực tiếp đến các hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp. Vì đây là khoản chi phí bắt buộc. Nếu nhà nước đóng thuế thấp đối
với ngành kinh doanh của doanh nghiệp thì lợi nhuận thu được nhiều hơn,
doanh nghiệp có xu hướng mở rộng quy mô kinh doanh. Ngược lại với mức
thuế cao, lợi nhuận giảm, doanh nghiệp không muốn mở rộng quy mô kinh
doanh mà còn thu hẹp dần quy mô hoạt động.
Bên cạnh chính sách thuế còn có các chính sách khác ảnh hưởng tới việc
kinh doanh như chính sách xuất nhập khẩu, chính sách thuộc tiêu chuẩn...
b) Xét về mặt chủ quan
Đó là những nhân tố chủ quan của chính bản thân doanh nghiệp làm ảnh
hưởng tới hiệu quả sử dụng VLĐ cũng như quá trình sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp.
Xác định nhu cầu vốn lưu động: Do xác định nhu cầu VLĐ thiếu chính
xác dẫn đến tình trạng thừa hoặc thiếu vốn trong sản xuất kinh doanh đều ảnh
hưởng không tốt đến hiệu quả sử dụng VLĐ của doanh nghiệp.
Việc lựa chọn phương án đầu tư: Là một nhân tố cơ bản ảnh hưởng rất
lớn đến hiệu quả sử dụng VLĐ của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp đầu tư
sản xuất ra những sản phẩm hàng hoá, dịch vụ chất lượng cao, mẫu mã phù
hợp với thị hiếu của ngườitiêu dùng, đồng thời có giá thành hạ thì doanh
nghiệp thực hiện được quá trình tiêu thụ nhanh, tăng vòng quay VLĐ. Ngược
lại sản phẩm hàng hoá mà doanh nghiệp làm ra có chất lượng kém, không phù
hợp với thị hiếu của khách hàng dẫn đến hàng hoá sản xuất ra không tiêu thụ
được làm cho VLĐ bị ứ đọng, hiệu quả sử dụng vốn thấp.
Trình độ tổ chức nhân sự trong doanh nghiệp. Việc tổ chức nhân sự có
ảnh hưởng trực tiếp đến điều hành mọi hoạt động trong doanh nghiệp. Nếu bố
trí đúng người đúng việc, mọi hoạt động diễn ra một cách nhịp nhàng, ăn
khớp với nhau, người quản lý không phải mất thời gian chỉnh đốn, nhắc nhở
nhân viên của mình. Nhưng nếu bố trí người không đúng vị trí thì các hoạt
động không thể diễn ra một cách bình thường được. Khi mọi hoạt động đã
nhịp nhàng thì chắc chắn mọi hiệu quả sẽ đạt được và hiệu quả sử dụng các
yếu tố dần đạt đến mức độ tối ưu v.v..
Uy tín trong kinh doanh: Trong điều kiện hiện nay sự cạnh tranh giữa
các doanh nghiệp ngày càng đòi hỏi các doanh nghiệp phải tạo dựng cho mình
chữ tín trong kinh doanh. Có như vậy doanh nghiệp mới đẩy nhanh được tiêu
thụ hàng hoá, thuận lợi trong việc tham gia các hợp đồng kinh doanh, tạo
được nhiều mối làm ăn tốt đẹp, tạo dựng được uy tín trên thị trường.
Trình độ tổ chức lưu chuyển hàng hoá: Để đưa hàng hoá đến được tay
người tiêu dùng, doanh nghiệp thương mại phải bỏ ra một lượng chi phí nào
đó và tổ chức một quy trình mua vào, dự trữ, bán ra. Muốn nâng cao hiệu quả
sử dụng vốn bằng cách giảm chi phí và nâng số vòng vốn quya thì phải tổ
chức tốt quá trình mua vào, dự trữ và bán ra. Quy trình này được quyết định
bởi trình độ tổ chức lưu chuyển hàng hoá của doanh nghiệp và khả năng cơ
giới hoá.
Trên đây là những nhân tố chủ yếu làm ảnh hưởng đến công tác tổ chức
và sử dụng VLĐ của doanh nghiệp. Ngoài ra còn có thể có các nguyên nhân
khác ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu
động của doanh nghiệp. Để hạn chế những tiêu cực ảnh hưởng không tốt tới
hiệu quả tổ chức và sử dụng vốn lưu động. Các doanh nghiệp cần nghiên cứu
xem xét một cách kỹ lưỡng sự ảnh hưởng của từng nhân tố tìm ra nguyên
nhân nhằm đưa ra những biện pháp hữu hiệu đẩy mạnh việc tổ chức và nâng
cao hiệu quả đồng vốn mang lại la cao nhất.
Chương II
THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN LƯU ĐỘNG
TẠI CÔNG TY XUẤT NHẬP KHẨU MÁY HÀ NỘI
I. TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY
1. Quá trình thành lập và phát triển
Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội là một doanh nghiệp nhà nước trực
thuộc quản lý của Tổng công ty máy và phụ tùng và Bộ Thương mại, hoạt động
chính trong lĩnh vực xuất nhập khẩu máy móc hoạt động sản xuất kinh doanh.
Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội được thành lập ngày 19/12/1997
với quyết định số 1390QĐ/TMTC của Bộ Thương mại. Trụ sở giao dịch nhà
B2 Ngọc Khánh, quận Ba Đình, Hà Nội. Tên cơ quan sáng lập là Tổng công
ty máy và phụ tùng Hà Nội.
Ngày 10/2/1998 công ty được cấp chứng nhận đăng ký kinh doanh, và
trụ sở giao dịch được chuyển về số 8 phố Tràng Thi - quận Hoàn Kiếm - Hà
Nội (theo Quyết định 1295/QĐ-BTM ngày 29/10/1998 của Bộ Thương mại).
Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội bắt đầu hoạt động kinh doanh từ
ngày 18/11/1998 với số vốn ban đầu là 3.823.000.000 đồng. Trong đó: vốn cố
định là 823.000.000đồng và vốn lưu động là 3.000.000.000đồng. Tên giao
dịch quốc tế của Công ty là Nachinoimpost Hà Nội. Kể từ ngày thành lập và
bắt đầu hoạt động công ty đã trải qua những bước thăng trầm trong kinh
doanh và dần tìm được chỗ đứng của mình trên thương trường. Trong những
ngày đầu thành lập công ty vừa kinh doanh vừa cải tạo cơ sở làm việc, vốn ít
đội ngũ cán bộ công nhân viên đông và gặp khó khăn trong việc tìm kiếm
công ăn việc làm. Song với sự nỗ lực của toàn bộ CBCNV của công ty được
sự quan tâm giúp đỡ của lãnh đạo Tổng công ty, Đảng uỷ cơ quan Bộ thương
mại, công đoàn ngành và ban chấp hành công đoàn Tổng công ty đã giúp cho
Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội có những bước trưởng thành lớn trong
suốt 4 năm kể ngày công ty thành lập. Đến nay công ty đã có số vốn là 5,6 tỷ
đồng, số nhân viên là 128 người, với số vốn bình quân trên đầu người là 40
triệu đồng/người.
2. Chức năng và nhiệm vụ của công ty
2.1. Chức năng
Chức năng của Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội
- Xuất nhập khẩu máy móc, phụ tùng, hàng nông lâm sản: cà phê, lúa
gạo, cao su...
- Tham gia sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực máy móc và dịch vụ.
- Xuất nhập khẩu uỷ thác
- Liên doanh liên kết với các đơn vị, doanh nghiệp trong và ngoài nước.
- Kinh doanh, cho thuê bất động sản, văn phòng, nhà xưởng.
2.2. Nhiệm vụ
- Nhiệm vụ chung: Kinh doanh xuất nhập khẩu, phụ tùng máy móc, tư
liệu sản xuất, vật liệu xây dựng, hàng công nghiệp tiêu dùng, các dịch vụ tư
vấn, dịch vụ thương mại, cho thuê cơ sở nhà xưởng, kho tàng bến bãi, thiết bị
xe máy, dịch vụ vận tải, sửa chữa đại tu lắp ráp ô tô, xe máy, đại lý xăng dầu.
- Nhiệm vụ cụ thể
+ Thăm dò thị trường trong cả nước, nắm bắt nhu cầu xuất nhập khẩu từ
đó ban lãnh đạo công ty sẽ đưa ra những quyết định thực hiện.
+ Tổ chức và thực hiện dịch vụ giao nhận vận tải, dịch vụ tư vấn, dịch vụ
thương mại và các dịch vụ xuất nhập khẩu uỷ thác.
3. Đặc điểm cơ cấu bộ máy tổ chức của Công ty xuất nhập khẩu máy
Hà Nội
3.1. Cơ cấu tổ chức bộ máy của công ty
Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội được tổ chức theo cơ cấu trực tuyến
chức năng dựa trên nguyên tắc thống nhất chỉ huy, cơ cấu tổ chức được mô
hình theo sơ đồ sau:
Sơ đồ cơ cấu tổ chức bộ máy của công ty
Giám đốc
P. Giám đốc 1 P. Giám đốc 2
Phòng kinh
doanh xuất nhập
ẩ
Phòng kế hoạch
thị trường
Các cửa h ng
Phòng
Kế toán t i
chính
Việc tổ chức sản xuất kinh doanh khoa học hợp lý phù hợp với công
nghệ kinh doanh ở mỗi doanh nghiệp là việc hết sức quan trọng. Gắn với mỗi
loại hình kinh doanh khác nhau, công nghệ khác nhau đòi hỏi việc tổ chức bộ
máy quản lý khác nhau, yêu cầu của bộ máy kế toán phải phù hợp với đặc điểm
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có như vậy kinh doanh mới đạt hiệu quả
cao.
Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội là một doanh nghiệp nhà nước có tư
cách pháp nhân, hạch toán độc lập, có tài khoản và con dấu bao gồm tài khoản
tiền Việt Nam và tài khoản ngoại tệ tại các ngân hàng.
Chức năng nhiệm vụ chủ yếu của từng bộ phận trong công ty
- Giám đốc công ty: Do Tổng công ty máy và phụ tùng bổ nhiệm. Giám
đốc có nhiệm vụ tổ chức điều hành mọi hoạt động của công ty đồng thời là
người đại diện quyền lợi và nghĩa vụ của công ty trước cơ quan quản lý cấp
trên và trước pháp luật.
- Giúp việc cho giám đốc là hai phó giám đốc điều hành một số lĩnh vực
của công ty theo sự phân công của giám đốc đồng thời tham mưu cho giám
đốc trong lĩnh vực xây dựng kế hoạch chiến lược sản xuất kinh doanh.
- Dưới ban điều hành của công ty có các phòng ban chức năng và các
cửa hàng trực thuộc công ty.
Các phòng ban chức năng của công ty làm công tác tham mưu, tác
nghiệp theo kế hoạch phân công của giám đốc. Đứng đầu các phòng ban chức
năng, nghiệp vụ là các trưởng phòng. Họ là những người tiếp nhận chỉ thị của
giám đốc, phân công và hướng dẫn nhân viên cấp dưới trong phòng của mình
thực hiện nhiệm vụ theo các chỉ thị được giao.
+ Phòng kinh doanh xuất nhập khẩu: Đảm đương toàn bộ công tác xuất
nhập khẩu tại công ty: Nhập nguyên vật liệu, máy móc... Có kế hoạch xuất
nhập khẩu để phòng kế toán cân đối kế hoạch thu chi ngoại tệ, xây dựng dự
thảo hợp đồng xuất nhập khẩu...
Ngoài ra còn tập trung vào dịch vụ đặc biệt theo sự chỉ đạo của công ty.
+ Phòng kế hoạch đầu tư: Phòng này có nhiệm vụ vạch ra kế hoạch hoạt
động tham mưu cho tổng giám đốc trong việc xây dựng kế hoạch của công ty.
Tìm kiếm hoạt động đầu tư quản lý kinh doanh.
+ Phòng tổ chức hành chính tham mưu cho giám đốc về công tác tổ chức
cán bộ, thực hiện sắp xếp lực lượng cán bộ, lao động, tiền lương. Quản lý lưu
trữ hồ sơ tài liệu của công ty. Tổ chức đào tạo cán bộ, tuyên truyền chỉ đạo.
+ Các cửa hàng kinh doanh: Kinh doanh các mặt hàng của công ty.
+ Phòng kế toán tài chính: Có đầy đủ chức năng nhiệm vụ theo luật và
pháp lệnh kinh tế nhà nước quy định. Ghi chép đầy đủ và phản ánh một cách
chính xác, kịp thời, liên tục về tình hình quản lý và sử dụng tài sản và nguồn
vốn của công ty. Thúc đẩy hoạt động kinh doanh của công ty thực hiện tốt chế
độ hạch toán kế toán.
+ Phòng kế hoạch thị trường: Có nhiệm vụ tiếp cận và mở rộng thị
trường cho công ty, tìm kiếm khách hàng, thúc đẩy quá trình tiêu thụ sản
phẩm của công ty.
Với cơ cấu tổ chức như trên, Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội luôn
đảm bảo sự thống nhất, nhất quán mệnh lệnh đưa xuống được rõ ràng, nhanh
chóng và không bị chồng chéo, phân tách rõ ràng trách nhiệm của từng bộ
phận. Các phòng ban chức năng đảm bảo công tác tham mưu cho hoạt động
của công ty.
3.2. Tình hình lao động
Tình hình lao động của công ty được thể hiện qua bảng 1 (từ năm 1999-
2000). Bảng 1 ngang **********************
Qua số liệu bảng 1 ta thấy:
Số lượng và kết cấu lao động của công ty trong 2 năm 1999 và 2000 là
121 người so với năm 1999 là 118 người tăng 3 người, tỷ lệ 2000 so với 1999
đạt 102,54% nguyên nhân là do công ty mới tuyển dụng thêm một số nhân
viên mới trong năm 2000. Nếu phân theo giới tính: Lao động nam năm 1999
đạt 48,3% trong khi đó lao động nữ chiếm 51,75 so với năm 2000 lao động
nam giảm 5 người tương ứng còn 91,22% so với năm 1999, chiếm tỷ trọng
42,97%. Lao động nữ trong công ty vẫn tăng 8 người với tỷ lệ tăng là 13,11%.
Lao động nữ chiếm tỷ trọng là 57,03%.
Nếu phân theo trình độ:
Năm 1999 số cán bộ trên đại học là 6 người chiếm tỉ trọng là 5,08%,
năm 2000 là 7 người chiếm tỉ lệ là 5,78% lao động của công ty. So với năm
1999 tăng 1 người với tỉ lệ tăng là 16,67%.
Số cán bộ có trình độ đại học 1999 là 18 người chiếm tỷ trọng là
15,25%. Năm 2000 là 19 người chiếm tỷ trọng là 15,7%. So với năm 1999
tăng 1 người với tỷ lệ là 5,55%. Số lao động trung cấp 15 người chiếm
12,71% và đông nhất là lao động phổ thông 79 người chiếm 66,96% năm
1999. So với năm 1999 năm 2000 thì số lao động phổ thông không có sự thay
đổi, lao động trung cấp tăng 1 người chiếm tỷ trọng 13,22%. Như vậy ta thấy
kết cấu lao động trong 2 năm 1999-2000 tạm hợp lý. Số cán bộ có trình độ
cao chiếm tỷ trọng tương đối lớn. Đây chính là thế mạnh của công ty.
Sang đến năm 2001 tổng số lao động tăng 128 người tăng 7 người tương
ứng với 105,78% so với năm 2000. Sở dĩ có sự thay đổi này là do tình hình
phát triển của công ty, đồng thời bù đắp cán bộ do đặc điểm tuổi đời trung
bình của cán bộ công nhân viên toàn công ty là trên 40 tuổi.
Vì vậy công tác kế toán hoá cán bộ là nhiệm vụ và mục tiêu phân đấu
của công ty, lực lượng công nhân lao động giảm 1 người nhưng vẫn chiếm tỉ
trọng là 60,94%. Số cán bộ có trình độ trên đại học tăng 4 người tương ứng
15714% so với năm 2000, chiếm tỉ trọng 8,6%.
Số cán bộ có trình độ đại học tăng 2 người tương ứng 110,52% so với
năm 2000 chiếm tỷ trọng 16,4%.
Số cán bộ có trình độ trung cấp tăng 2 người tương ứng 112,5% so với
năm 2000 chiếm tỷ trọng là 14,06%.
Đây là những con số đáng mừng cho hoạt động của công ty trong tiến
trình hội nhập thương mại quốc tế. Tuy nhiên công ty không ngừng đào tạo và
đào tạo lại cán bộ, công nhân viên để đáp ứng cho mục tiêu nhiệm vụ đề ra.
4. Phân tích kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh
4.1. Phân tích kế quả hoạt động kinh doanh theo doanh thu
Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội là một trong những doanh nghiệp
hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, các mặt hàng mà công ty kinh
doanh rất đa dạng về mặt hàng, phong phú về chủng loại. Dưới đây là một số
mặt hàng chủ lực chiếm tỉ trọng lớn và là những mặt hàng truyền thống của
công ty trong những năm qua.
Qua bảng số liệu 2 ta thấy:
Trong 2 năm 2000 và 2001 tình hình các mặt hàng bán ra của công ty
tương đối ổn định và có xu hướng tăng. Nguyên nhân là do thị trường trong
nước ổn định và mức tăng trưởng kinh tế của nước ta vẫn không có dấu hiệu
suy giảm nên nhu cầu các sản phẩm phục vụ nền kinh tế quốc dân không
ngừng tăng tạo điều kiện để công ty thực hiện mục tiêu bán ra của mình. Cụ
thể:
Bảng 2: Các mặt hàng chủ yếu bán ra của Công ty xuất nhập khẩu máy
Hà Nội
So sánh Chỉ tiêu Đơn
vị tính
Năm 2000 Năm 2001
Chênh lệch Tỉ lệ %
Ô tô các loại cái 45 48 3 6,67
Săm lốp ô tô bộ 908 974 66 7,26
Máy xây dựng cái - 12 - -
Phụ tùng các loại trđ 18.207 22.394 4.187 22,9
Cao su trđ - 3.350 - -
Nhôm, thép, kẽm trđ 4.578 5.580 1.002 21,89
Sản lượng ô tô các loại năm 2000 là 45 xe sang đến năm 2001 là 48
chiếc tăng 3 xe tương ứng với tỷ lệ là 6,67%.
Săm lốp các lại năm 2001 cũng bán ra được nhiều hơn so với năm 2000.
Mức tiêu thụ năm 2001 là 974 bộ tăng 66 bộ với tỷ lệ là 7,26% so với năm
2000, phụ tùng các loại năm 2000 bán ra được 18.027 triệu đồng nhưng đến
năm 2001 lượng bán ra tăng 22.394 triệu so với năm 2000 tăng 4.187 triệu
đồng với mức tăng là 22,5%. Nhôm, thép, kẽm trong năm 2001 cũng có mức
tăng khá cao đạt 5580 triệu đồng tăng 1002 triệu đồng với tỉ lệ tăng là 21,89%
so với năm 2000.
Ngoài ra các mặt hàng mới của công ty như máy xây dựng, cao su cũng
được công ty quan tâm, trong năm 2001 doanh thu bán các mặt hàng này có
kết quả khả quan cụ thể: máy xây dựng năm 2001 bán được 12 cái với doanh
thu là 5020 triệu đồng còn mặt hàng cao su mức bán ra đạt 3350 triệu đồng.
Đây là những dấu hiệu thuận lợi để công ty mở rộng thị trường của các mặt
hàng này.
Công ty đã có nhiều cố gắng để không ngừng nâng cao công tác bán
hàng nhằm đạt được doanh thu cao đáp ứng được chỉ tiêu mà công ty đề ra.
b) Phân tích tình hình bán hàng theo doanh thu trên từng thị trường
Bảng 3: Doanh thu bán hàng của Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội ở
các thị trường
Đơn vị: triệu đồng
2000 2001 So sánh Các chỉ tiêu
Giá trị TT (%) Giá trị TT (%) Giá trị TT (%) TT %
Tổng doanh thu 68.620 100 85.000 100 16.380 23,87 -
Trong đó:
- DT bán hàng TT nội địa 58.620 85,42 69.600 81,88 10.980 18,73 -3,54
- DT từ hoạt động XNK
(quy ra VNĐ)
6.800 9,91 12.600 14,82 5-800 85,29 +4,91
- DT từ sản xuất, dịch vụ 3.200 4,67 2.800 3,3 -400 -12,5 -1,37
Căn cứ vào bảng số liệu 3 ta có nhận xét sau:
Tổng doanh thu của công ty trong 2 năm đạt kết quả khả quan. Tổng
doanh thu năm 2001 đạt 85.000 tr.đ tăng 16.380 trđ tương ứng với tỉ lệ tăng là
23,87% so với năm 2000. Có được điều này là do công ty đã nỗ lực tìm kiếm
khách hàng cộng với tình hình thị trường trong nước ổn định và đặc biệt là
hiệp định thương mại Việt Mỹ chính thức có hiệu lực và việc Trung Quốc gia
nhập WTO đã tạo hướng đi mới cho công ty trong hoạt động xuất nhập khẩu.
Cụ thể ta thấy các nhân tố ảnh hưởng đến tổng doanh thu của công ty: Doanh
thu bán hàng trong nước năm 2001 đạt 69.600 triệu đồng chiếm tỉ trọng
81,88% trong tổng doanh thu tăng 10.980 triệu đồng tương ứng với tỉ lệ tăng
là 18,73% so với năm 2000 nhưng tỉ trọng lại giảm 3,54%.
Trong khi đó doanh thu từ hoạt động xuất nhập khẩu năm 2001 đạt
12.600 triệu đồng chiếm tỉ trọng 14,82% tổng doanh thu so với năm 2000
tăng 5800 triệu đồng với tỉ lệ tăng là 85,29% đồng thời tỉ trọng tăng 4,91%.
Điều này cho thấy công ty đang dần có thế mạnh trong hoạt động xuất nhập
khẩu. Mặt khác đó là việc công ty tham gia thị trường xuất nhập khẩu đây
chính là lĩnh vực kinh doanh chủ yếu của công ty.
Tuy nhiên doanh thu từ hoạt động cnk năm 2001 đạt 2800 triệu đồng và
chiếm tỉ trọng 3,5% trong tổng doanh thu so với năm 2000 giảm 400 triệu
đồng tương ứng với giá trị giảm là 12,5% và tỉ trọng cũng giảm 13,7% trong
tổng doanh thu. Nguyên nhân là do trong năm 2001 công ty gặp khó khăn
trong việc tham gia ký kết các hợp đồng hợp tác sản xuất, dịch vụ, bên cạnh
đó cũng có nhiều công ty khác cạnh tranh với công ty trong lĩnh vực này làm
cho khách hàng của công ty bị phân tán dần. Mặc dù vậy tổng doanh thu của
công ty năm 2001 vẫn tăng là do doanh thu từ các lĩnh vực chiếm tỉ trọng lớn
trong tồng doanh thu đều tăng. Tóm lại thông qua bảng số liệu 2 năm ta thấy
tình hình doanh thu của tổng công ty là tương đối tốt. Cơ cấu thị trường được
điều chỉnh kịp thời nắm bắt được yêu cầu của thị trường cũng như xác định
được hướng đi cho tổng công ty.
c) Phân tích doanh thu bán hàng của công ty theo loại hình kinh doanh
Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội hoạt động chính trong lĩnh vực xuất
nhập khẩu, sản xuất, mua bán đều nhằm phục vụ cho xuất nhập khẩu. Vậy ta
có thể xét tình hìh kinh doanh của công ty theo quá trình hoạt động xuất nhập
khẩu trong 2 năm vừa qua.
Bảng 4: Doanh thu bán hàng theo loại hình kinh doanh
Đơn vị: Triệu USD
So sánh
Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001
Giá trị Tỉ lệ
I. Xuất khẩu 0,670 0,996 0,326 48,65
- Xuất khẩu kinh doanh 0,545 0,766 0,221 40,55
- Xuất khẩu uỷ thác 0,125 0,230 0,105 84,00
II. Nhập khẩu 22,015 7 -15,015 -68,20
- Xuất khẩu kinh doanh 1,605 2,05 0,445 27,72
- Xuất khẩu uỷ thác 20,41 4,95 -15,46 -75,74
Tổng cộng 22,685 7,996 -14,689 64,74
Thông qua bảng số liệu trên ta có nhận xét:
Năm 2000, tổng doanh thu của công ty tính bằng ngoại tệ USD đạt
22,685 triệu USD. Trong đó tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 0,670 triệu USD.
Xuất khẩu kinh doanh chiếm tỉ trọng lớn đạt 0,545 triệu USD. Xuất khẩu uỷ
thác chỉđạt 0,125 triệu USD.
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt được 22,56 triệu USD. Tổng kim
ngạch nhập khẩu của công ty bao giờ cũng lớn hơn tổng kim ngạch xuất khẩu.
Lý do là do nghiệp vụ, mục đích của công ty. Thứ hai là do đặc điểm cơ cấu
ngành hàng. Trong đó nhập khẩu uỷ thác đạt 20,41 triệu USD, nhập khẩu kinh
doanh chỉ đạt 1,605 triệu USD.
Sang đến năm 2001 tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 0,996 triệu USD tăng
0,326 triệu USD với tỉ lệ tăng là 48,65% so với năm 2000. Trong đó xk kinh
doanh đạt 0,766 triệu USD tăng 0,221 triệu đô với tỷ lệ tăng là 40,55% và
xuất khẩu uỷ thác đạt 0,230 triệu USD tăng 0,105 triệu USD với tỉ lệ tăng là
84% so với năm 2000. Có được điều này là do công ty trong năm 2001 đã rất
chú trọng tới công tác xuất khẩu, đã nghiên cứu và giao dịch, chào bán rất
nhiều mặt hàng, kết quả đã xuất được một số mặt hàng như: đá xây dựng, hoa
quả khô. Một số hàng có giá trị như gạo, cao su, cà phê, bao PP... Công ty đã
có nguồn hàng và đối tác xuất khẩu, nhưng giá thế giới giảm nên chưa xuất
khẩu được. Năm 2002 công ty sẽ cố gắng khắc phục tình trạng này để tăng
thêm kim ngạch xuất khẩu. Tuy nhiên so với năm 2000 công tác xuất khẩu đã
có bước tiến đáng kể tạo đà cho năm 2002.
Trong năm nay tổng kim ngạch nhập khẩu của công ty chỉ đạt 7 triệu
USD giảm mạnh so với năm 2000 là 15,045 triệu USD với tỉ lệ giảm là
68,20%. Nhập khẩu uỷ thác chỉ đạt 4,95% triệu USD giảm so với năm 2000 là
15,46 triệu USD với tỉ lệ giảm là 75,74%, trong khi đó nhập khẩu kn đạt 2,05
triệu USD tăng 0,445 triệu USD tương ứng với tỉ lệ tăng là 27,72% so với
năm 2000. Nguyên nhân dẫn đến điều này là do chính sách mở rộng xuất
nhập khẩu của nhà nước (việc nhập khẩu uỷ thác giảm đi rõ rệt. Các dự án lớn
đều phải đầu tư trọn gói cả xây dựng và lắp đặt thiết bị, thiết bị lẻ các đơn vị
tự nhập khẩu không qua nhập khẩu uỷ thác.
Nhập khẩu kinh doanh cũng khó khăn do tỉ giá USD và EURO thay đổi
thất thường, các chủ hàng trong nước không có vốn thường mua chịu trả
chậm từ 1 đến 3 tháng không có bảo lãnh ngân hàng nên rủi ro rất lớn, lãi suất
thấp. Bên cạnh đó công ty còn gặp phải sự cạnh tranh của các doanh nghiệp
xuất nhập khẩu cũng như các doanh nghiệp tư nhân tham gia nhập khẩu.
Tóm lại qua số liệu 2 năm về tình hình hoạt động xuất nhập khẩu ta thấy
rằng tổng công ty đã có những nỗ lực nhằm mở rộng thị trường hoạt động sản
xuất kinh doanh.
4.2. Phân tích kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh theo lợi nhuậncủa
công ty
Bảng 5: Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh (lãi, lỗ)
Đơn vị: triệu đồng
So sánh Chỉ tiêu Thực hiện
2000
Thực hiện
2001
Giá trị Tỉ lệ
1. Tổng doanh thu thuần 68.620 85.000 16.380 23,87
2. Giá vốn hàng bán 64.965 81.093 16.128 24,82
3. Lợi nhuận gộp 3.655 3.907 252 6,89
4. Tỉ suất lợi nhuận gộp/DTT (%) 5,32 4,59 -0,73 -
5. Tổng chi phí: 3.460 3.697 237 6,84
- Chi phí bán hàng 720 850 130 18,05
- Chi phí quản lý 2.740 2.847 107 3,9
6. Lợi tức trước thuế 195 210 15 7,69
7. Thuế lợi tức phải nộp (35%) 68,25 73,5 5,25 7,69
8. Lợi tức sau thuế 126,75 136,5 9,75 7,69
9. Tỉ suất chi phí/DTT (%) 5,642 4,35 -0,692 -
10. Tỉ suất LN trước thuế/DTT (%) 0,284 0,247 -0,037 -
11. Tỉ suất LN sau thuế/DTT (%) 1,1847 0,16058 -0,02412 -
12. Lương bình quân 1người/năm 13,44 11,4 -2,04 -15,17
Căn cứ vào bảng số liệu 5 ta có nhận xét sau:
Lợi tức sau thuế từ hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty năm 2001
so với năm 2000 tăng 9,75 triệu đồng với tỉ lệ tăng là 7,69%. Nguyên nhân là
do công ty đã nỗ lực mở rộng thị trường, thay đổi cơ cấu thị trường hợp lý. Để
thấy rõ được hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty như thế nào
trong 2 năm ta dựa vào việc phân tích cụ thể những nhân tố ảnh hưởng đến lợi
nhuận, ta thấy rằng:
Tổng doanh thu thuần năm 2001 tăng 16.380 triệu đồng tương ứng tỉ lệ
tăng là 23,87%. Nguyên nhân là do trong năm 2001 ngoài việc kinh doanh các
mặt hàng truyền thống, công ty còn phát triển kinh doanh các mặt hàng khác
như: cao su, gạo, sắt thép, hàng dệt may, gốm sứ, hàng thực phẩm, hoa quả
tươi... do đó phần nào đã làm cho doanh số bán ra năm 2001 tăng.
Tương ứng như vậy giá vốn hàng bán tăng 16.128 triệu đồng tương ứng
tăng 24,82%, tỉ lệ tăng của giá vốn hàng bán tăng nhanh hơn tỉ lệ tăng của
doanh thu. Điều này làm cho lãi gộp của công ty tăng chậm, lợi nhuận gộp
năm 2001 đạt 3.907 triệu đồng tăng 252 triệu đồng tương tứng tỉ lệ tăng là
6,89% so với năm 2000. Tuy lãi gộp tăng nhưng tỉ suất lợi nhuận gộp trên
doanh thu thuần giảm so với năm 2000 là 0,73%. Tỷ suất lợi nhuận gộp giảm
kéo theo tỉ suất lợi nhuận trước thuế và sau thuế cũng giảm tương ứng là
0,037% và 0,02412%. Chỉ tiêu này phản ánh trong một thời kỳ kinh doanh
doanh nghiệp thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận trên một đồng doanh thu
thuần. Chỉ tiêu này càng cao thì hiệu quả kinh tế càng cao. Như vậy tuy lợi
nhuận năm 2001 tăng nhưng hiệu quả kinh tế lại không được tốt.
Trong công tác quản lý chi phí: Tổng chi phí năm 2001 tăng 237 triệu
đồng với tỉ lệ tăng là 6,84% so với năm 2000. Trong đó chi phí bán hàng tăng
130 triệu đồng tương ứng với tỉ lệ tăng là 18,05%. Chi phí quản lý cũng tăng
107 triệu đồng tương ứng tăng là 3,9%. Tuy nhiên, hiệu quả sử dụng chi phí
của công ty năm 2001 là tốt hơn năm 2000 do tỷ suất chi phí giảm 0,692. Đây
là điều kiện thuận lợi của công ty. Do vậy nguyên nhân chính làm cho hiệu
quả kinh tế năm 2001 không cao là do giá vốn hàng bán quá cao từ đó làm
giảm lợi nhuận của công ty. Công ty cần phải cố gắng nghiên cứu lựa chọn
những nguồn hàng hợp lý hơn để có được hiệu quả kinh tế cao hơn nữa trong
những năm tới.
Thông qua bảng kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty xuất
nhập khẩu máy Hà Nội ttong 2 năm 2000 và 2001 ta có thể thấy được sự tăng
trưởng công ty không đều doanh thu tăng nhưng lợi nhuận tăng không nhiều.
Nhưng cũng thấy rõ được sự nỗ lực của ban lãnh đạo, cán bộ công nhân viên
công ty trong việc quản lý, nắm bắt thị trường và sự hăng say lao động nhằm
nâng cao uy tín và vị thế của công ty trên thương trường.
II. Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn lưu động của Công ty xuất nhập
khẩu máy Hà Nội
1. Tình hình tổ chức, quản lý sử dụng vốn của Công ty
Trước đây thời bao cấp các doanh nghiệp được ngân sách nhà nước cấp
toàn bộ vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Nếu doanh nghiệp kinh
doanh lỗ thì lại được nhà nước bù lỗ. Vì vậy không chú trọng khâu quản lý
vốn sao cho tiết kiệm, hiệu quả. Chuyển sang nền kinh tế thị trường, nhà nước
chỉ giao một phần vốn còn lại doanh nghiệp tự tạo thêm nguồn vốn cho mình
và phải hoạt động sao cho để bảo toàn được vốn nhà nước đã giao. Điều này
làm cho các doanh nghiệp nhà nước nói chung và Công ty xuất nhập khẩu
máy Hà Nội gặp rất nhiều khó khăn.
Tại Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội vốn tự có ban đầu không được
nhiều nên vấn đề đặt ra là công ty cần phải tổ chức công tác huy động, quản
lý và sử dụng vốn như thế nào để đạt được hiệu quả kinh doanh. Dưới sự chỉ
đạo của giám đốc và kế toán trưởng vốn kinh doanh của công ty nói chung và
vốn lưu động nói riêng được quản lý tương đối chặt chẽ. Do vốn kinh doanh
không nhièu nên khâu tổ chức đẩy mạnh tiêu thụ hàng hoá rất được coi trọng.
Tuy nhiên nếu quá coi trọng doanh số mà lợi nhuận thu được thấp thì việc sử
dụng đồng vốn chưa tốt. Ngoài ra trực tiếp thực hiện các hoạt động xuất nhập
khẩu, thúc đẩy quá trình tiêu thụ hàng hoá, công ty còn trực tiếp tham gia vào
các hoạt động dịch vụ khác như vận tải, tư vấn...
Công ty rất coi trọng tới hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh nói chung và
vốn lưu động nói riêng.
Trong khâu quản lý vốn bằng tiền: Đầu quý kế toán trưởng lập kế hoạch
thu chi tiền tệ (đầu tuần, đầu tháng) khi thu được tiền bán hàng về thủ quỹ
nộp ngay vào tài khoản tiền ngân hàng, tiền mặt tại quỹ chỉ đủ thoả mãn nhu
cầu chi tiêu tiền mặt ở công ty. Cuối ngày kế toán thanh toán và thủ quỹ đối
chiếu sổ sách với nhau, tránh hiện tượng gian lận, mọi khoản thu chi tiền mặt,
gửi tiền và rút tiền ngân hàng đều có chứng từ xác nhận như: phiếu thu, phiếu
chi, séc, uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi... Để tăng tốc độ thu hồi tiền công ty áp
dụng các biện pháp.
+ Khuyến khích khách hàng thanh toán sớm bằng cách chia lại cho
khách hàng mối lợi như áp dụng chính sách chiết khấu với các khoản nợ được
thanh toán trước hay đúng hạn.
+ Đôn đốc thu hồi nợ: Kế toán công nợ có trách nhiệm nắm chính xác số
dư của từng khách hàng. Nếu đến hạn mà khách hàng không trả nợ tiền thì kế
toán phải gọi điện, gửi công văn đến nhắc nhở, nếu vẫn chưa trả lời thì trực
tiếp đến đòi nợ. Để giảm tốc độ chi tiêu công ty đáo hạn các khoản nộp ngân
sách nhà nước, gia hạn nợ các khoản vay ngắn hạn.
Để đi vào xem xét chi tiết và phân tích vốn lưu động của công ty, trước
hết ta phải xem xét cơ cấu và nguồn hình thành lên vốn của công ty.
Bảng 6 ngang **********
Nhìn vào bảng cơ cấu và nguồn vốn kinh doanh của Công ty xuất nhập
khẩu máy Hà Nội ta thấy tổng vốn kinh doanh bình quân năm 2001 so với
năm 2000 tăng lên 315.641.000 đồng với tỉ lệ tăng 0,0875%. Trong đó vốn cố
định bình quân có chiều hướng giảm năm 2000 số vốn cố định là 8.581.616
nghìn đôngf thì năm 2001 giảm xuống còn 6.987.386.000 đồng với tỉ lệ giảm
là 18,57% tương ứng với số tiền giảm là 1.594.230.000 đồng, có tình trạng
này là do năm 2001 công ty thanh lý một số máy móc cũ để chuẩn bị đầu tư
những trang thiết bị hiện đại hơn phục vụ quá trình sản xuất kinh doanh. Về
vốn lưu động bình quân thì năm 2001 tăng so với năm 2000 là
1.909.871.000đồng với tốc độ tăng là 6,95% đảm bảo cho quá trình lưu thông
hàng hoá phục vụ cho hoạt động kinh doanh của công ty. Có được số vốn
kinh doanh bình quân trên là do một số nguồn hình thành đó là: Số vốn chủ sở
hữu của công ty năm 2001 so với năm 2000 tăng lên 1.362.100.000 đồng với
tỉ lệ tăng là 9,56% nguồn vốn vay của năm 2001 giảm so với năm 2000 là
88.898.000 đồng với tốc độ giảm là 0,064% và các nguồn hình thành vốn
khác cũng giảm so với năm 2000 là 957.561.000 đồng với tỉ lệ giảm là 12,1%.
Nhìn chung qua phân tích ta thấy nguồn vốn kinh doanh của công ty là hợp lý
đảm bảo cho quá trình kinh doanh xuất nhập khẩu và kinh doanh dịch vụ
trong nước, đảm bảo cho việc thanh toán và tự chủ về vốn trong kinh doanh.
2. Cơ cấu vốn lưu động của công ty
Với bất kỳ một doanh nghiệp nào, nếu chỉ cần có nhiều vốn đề tồn tại và
phát triển thì chưa đủ, điều quan trọng là số vốn đó được sử dụng như thế nào
và được phân bổ vào các bộ phận có liên quan có hợp lý hay không, có đáp
ứng được nhu cầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp không. Phân tích
tình hình quản lý và sử dụng vốn lưu động tại Công ty xuất nhập khẩu máy
Hà Nội để thấy được tình hình dự trữ hàng hoá vật tư cũng như lượng tiền dự
trữ của công ty có đảm bảo cho hoạt động của công ty được bình thường và
đem lại hiệu quả hay không.
Bảng 7 ngang ***************
Qua bảng số liệu trên ta thấy vốn lưu động của công ty năm 2001 tăng
12,52% so với năm 2000 với số tiền tăng là 3.749.941 đồng. Trong đó vốn
lưu động tăng lên chủ yếu là do tăng các khoản phải thu là 13.500.000 nghìn
đồng chiếm tỉ trọng 45,07% thì sang năm 2001 các khoản phải thu là
1.554.168 nghìn đòng với tốc độ tăng là 11,22%. Một khoản tăng tương đối
mạnh đó là vốn bằng tiền nếu năm 2000 với số tiền là 7.684.381 nghìn đồng
chiếm tỉ trọng 25,65% thì sang năm 2001 đã tăng thêm 1.296.991 nghìn đồng
với tốc độ tăng là 16,37% và chiếm tỉ trọng là 26,64% trong tổng vốn lưu
động của công ty. Với một công ty thực hiện các hoạt động xuất nhập khẩu là
chủ yếu thì các khoản vốn thuộc về tài sản lưu động là rất quan trọng đối với
hoạt động của mình nên công ty phải thực hiện các chỉ tiêu đề ra để thu hồi
hoặc dự trữ các khoản này cho phù hợp. Trong năm qua lượng hàng tồn kho
của công ty tăng khá nhanh là công ty đang kinh doanh một số mặt hàng mới
nhưng do giá thế giới giảm mạnh nên công ty chưa xuất khẩu được làm cho
hàng tồn kho năm 2001 tăng 754.108 nghìn đồng với tỉ lệ tăng là 24,12% so
với năm 2000. Công ty nên chú ý hơn nữa đến lượng hàng dự trữ, không nên
dự trữ quá nhiều hàng, tránh tình trạng hàng hoá bị hao hụt, mất giá, lỗi thời.
Vì vậy việc xác định một lượng hàng phù hợp là quan trọng đối với các công
ty kinh doanh trong điều kiện kinh tế như hiện nay.
Như vậy từ bảng trên ta thấy vốn lưu động của công ty chủ yếu phân bổ
vào các khoản phải thu, khoản này chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn lưu
động và có chiều hướng tăng lên trong năm 2001. Ngoài ra nó cũng phân bổ
một phần vào vốn bằng tiền, khoản này chiếm tỉ trọng tương đối và cũng tăng
lên trong năm 2001. Trong năm vừa qua các khoản tạm ứng, ký quỹ và ký
cược ngắn hạn của công ty đã thu hồi được, do vậy khoản tài sản lưu động
khác uỷ thác tăng lên so với năm 2000. Do vậy ta có thể thấy được công ty
thực hiệnhd kinh doanh đạt mức kế hoạch đề ra. Nhưng để đánh giá chính xác
tình hình sử dụng vốn lưu động ta phải xem xét từng khoản thuộc về tài sản
lưu động. Trước hết ta xét khoản vốn bằng tiền của công ty.
2.1. Tình hình sử dụng vốn bằng tiền của Công ty xuất nhập khẩu máy
Hà Nội
Mọi doanh nghiệp đều cần một lượng tiền mặt dự trữ nhất định cho việc
kinh doanh. Việc dự trữ tiền mặt luôn chứa đựng hai vấn đề tính lợi ích và
tính rủi ro.
Bởi nếu chấp nhận tính lợi ích cao lượng tiền dự trữ ít thì rủi ro rất lớn.
Ngược lại, nếu dự trữ tiền mặt lớn thì rủi ro thấp nhưng sinh lời không cao
bởi lượng tiền nhàn rỗi không có khả năng sinh lời.
Bảng 8: Tình hìh vốn bằng tiền của Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội
Đơn vị: nghìn đồng
Năm 2000 Năm 2001 So sánh
Các chỉ tiêu
Số tiền TT
(%)
Số tiền TT
(%)
Số tiền TT
(%)
1. Tiền mặt 971.743 12,64 1.451.472 16,16 479.729 49,36
2. Tiền gửi ngân hàng 65.787.238 75,31 6.523.687 72,63 736.449 12,72
3. Tiền đang chuyển 925.400 12,05 1.006.213 11,21 80.813 8,73
Tổng cộng 7.684.381 100 8.981.372 100 1.296.991 16,87
Từ bảng số liệu trên ta thấy vốn bằng tiền của công ty tăng lên 16,87%
chủ yếu là do tiền gửi ngân hàng tăng trong năm qua khoản này đã tăng
12,72% về số tiền là 736.449 nghìn đồng, rõ ràng khoản này tăng sẽ ảnh
hưởng trực tiếp tới vốn bằng tiền của công ty vì nó chiếm tới 75,31% năm
2000 và 72,63% năm 2001. Với chức năng hoạt động xuất nhập khẩu là chủ
yếu thì tiền gửi ngân hàng bằng ngoại tệ, tiền gửi ngân hàng tăng lên làm cho
số tiền lãi gửi từ ngân hàng thường xuyên về nhập quỹ. Đồng thời tiền mặt
của công ty cũng tăng lên 479.729 nghìn đồng với tỉ lệ tăng là 49,36% làm
cho công ty tăng cường khả năng thanh toán các khoản phát sinh thường
xuyên như: chi phí về mua bán hàng hoá, chi phí vận chuyển, trả lương công
nhân viên... Đối với khoản tiền đang cũng tăng 80.813 nghìn đồng với tốc độ
tăng 8,73% góp phần làm cho khoản vốn bằng tiền tăng lên. Nhưng khoản
tiền mặt ở công ty mà tăng lên nhiều là không tốt vì nó có thể tăng một lượng
tiền nhàn rỗi không có khả năng sinh lời cao nếu công ty không sử dụng hết
số tiền mặt trong một thời gian nhất định. Nhìn chung có thể nói khoản vốn
bằng tiền của công ty tăng lên thì khả năng thanh toán tức thời cũng tăng lên.
Như đã phân tích ở khoản vốn bằng tiền của công ty chiếm tỉ trọng 26,64%
trong tổng tài sản lưu động năm 2001. Để biết được việc duy trì lượng vốn
bằng tiền như thế nào có hợp lý hay không ta xem khả năng thanh toán tức
thời của công ty thông qua chỉ tiêu hệ số thanh toán tức thời:
Hệ số thanh toán tức thời = Error!
Hệ số thanh toán tức thời năm 2000: 0,4
Hệ số thanh toán tức thời năm 2001: 0,5
Căn cứ vào hệ số thanh toán tức thời ta thấy năm 2001 công ty tự chủ
hơn trong việc thanh toán các khoản nợ ngắn hạn cũng như các khoản cần
thanh toán ngay.
Là một công ty hoạt động chủ yếu là xuất nhập khẩu nên công ty quan hệ
với rất nhiều ngân hàng Hà Nội (Ngân hàng công thương Việt Nam, Ngân
hàng ngoại thương Hà Nội...). Cũng chính vì sự đa dạng đó mà việc quản lý
tiền mặt của công ty cũng rất phức tạp, phải theo dõi từng ngày từng giờ.
Công ty không có tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn cũng như không có khoản đầu
tư vào mục chứng khoán nào bởi trên thực tế nhu cầu tiền mặt tại công ty diễn
ra thường xuyên. Do vậy, công ty hầu như không có tiền nhàn rỗi mà phải
thường xuyên vay ngắn hạn ngân hàng để thanh toán cho hàng xuất nhập
khẩu với một số ngoại tệ lớn vì hàng của công ty chủ yếu là xe ô ô các loại,
phụ tùng thiết bị, máy công cụ...
Ngoài ra năm 2001 công ty còn xuất thêm một số mặt hàng: cao su, đá
xây dựng, hoa quả khô, về hàng nhập cũng sử dụng những ngoại tệ để thanh
toán. Khi xuất các mặt hàng đi ngoại tệ thu về công ty chỉ được sử dụng 50%
trong tổng ngoại tê còn laị 50% phải gửi lại ngân hàng (theo quyết định 63/CP
ngày 17/8/1999 và quyết định 173/TTg ngày 12/9/1998 về việc sử dụng ngoại
tệ) đã phần nào làm cho công ty khá bị động trong việc sủ dụng vốn. Để cho
hoạt động kinh doanh được diễn ra thường xuyên liên tục thì phỉa làm cho
vốn lưu động tăng vòng chu chuyển. Vấn đề tiền mặt rất được chú trọng vì
công ty thường xuyên xuất hiện nhu cầu ngắn hạn như tạm nhập tái xuất, nhu
cầu chi trả lương... tất cả đều cần tiền mặt. Hơn thế nữa để chủ động trong
kinh doanh và đảm bảo an toàn trong thanh toán thì việc duy trì một số dư
nhất định nào đó trên tài khoản vốn bằng tiền là hoàn toàn hợp lý. Tuy nhiên
trên thực tế tại công ty rất ít khi có tiền mặt tồn đọng trên tài khoản quá lâu vì
công ty sẽ chuyển ngay ra để trả nợ ngắn hạn khi nó vượt quá một giới hạn
nào đó so với nhu cầu dự tính trong ngắn hạn. Phải nói rằng công tác ngân
quỹ được công ty đã và đang rất coi trọng, hàng ngày công ty có kế toán
thanh toán chuyên theo dõi tình hình số dư trên tất cả các tài khoản của công
ty ở tất cả các ngân hàng và kết hợp đối chiếu với nhu cầu thu chi dự tính để
lập trừ ngân quỹ từ đó có thể đưa ra quyết định vay thêm hay trả nợ một cách
kịp thời nhất vì mục tiêu an toàn, hợp lý hiệu quả và sinh lời. Như ta đã biết tỉ
lệ sinh lời trực tiếp trên tiền mặt là rất thấp thậm chí có thể bằng không. Hơn
nữa do sức mua của đồng tiền luôn có xu hướng giảm đi do chịu ảnh hưởng
của lạm phát, do đó có thể nói tỉ lệ sinh lời thực của tiền mặt là một số âm.
Bởi vậy việc duy trì mức tiền mặt hợp lý nhằm thoả mãn các nhu cầu chi tiêu
tiền mặt của doanh nghiệp là một vấn đề rất quan trọng liên quan đến hiệu quả
kinh doanh chung của doanh nghiệp. Việc nắm giữ tiền mặt là một động cơ
phòng ngừa, tiền mặt được tồn trữ nhằm mục đích duy trì khả năng thanh toán
chung của doanh nghiệp ở mọi thời điểm.
2.2. Tình hình các khoản phải thu
Phải thu là một bộ phận chiếm tỉ trọng rất lớn trong tổng số vốn lưu động
của công ty. Hơn thế nữa nó lại liên quan trực tiếp đến chu kỳ vận động của
vốn lưu động và cũng là chu kỳ tạo ra lợi nhuận cho công ty. Do vậy, quản lý
các khoản phải thu là một vấn đề đang cần được quan tâm đặc biệt của công
ty nhất là trong điều kiện cạnh tranh như hiện nay chính ra quản lý các khoản
phải thu đang trở thành một “công cụ” để chiến đấu trong cạnh tranh của bất
kỳ một doanh nghiệp nào.
Các khoản phải thu của công ty bao gồm: Phải thu khách hàng phải thu
tạm ứng, trả trước người bán, phải thu nội bộ và các khoản phải thu khác.
Trong các khoản phải thu thì khoản phải thu của khách hàng luôn chiếm tỉ
trọng cao và là trọng taam của công tác quản lý khoản phải thu, để theo dõi
chi tiết các khoản phải thu ta có bảng phân tích:
Bảng 9: Cơ cấu các khoản phải thu của Công ty xuất nhập khẩu máy Hà
Nội
Đơn vị: 1000 đồng
Năm 2000 Năm 2001 So sánh
Các chỉ tiêu
Số tiền TT
(%)
Số tiền TT
(%)
Số tiền TT
(%)
1. Phải thu khách hàng 11.534.400 85,44 12.476.068 83,09 941.668 8,16
2. Phải trả người bán 816.750 6,05 937.138 6,24 120.388 14,73
3. Tạm ứng 853.200 6,32 805.965 5,37 -46.235 -5,42
4. Phải thu nội bộ 210.600 1,56 598.728 3,98 388.128 184,3
5. Phải thu khác 25.050 0,63 196.219 1,32 111.169 130,71
6. Tổng 13.500.000 100 15.015.108 100 1.515.108 11,22
Qua số liệu trên ta thấy tình hình các khoản phải thu năm 2001 so với
năm 2000 là 1.515.168 nghìn đồng với tỉ lệ tăng là 11,22%.
Trong đó khoản phải thu từ khách hàng tăng lên từ năm 2000 là
11.534.400 nghìn đồng chiếm tỉ trọng 85,44% đến năm 2001 là 12.476.068
nghìn đồng chiếm tỉ trọng 83,09%. Năm 2001 tăng lên so với năm 2000 là
941.668 nghìn đồng với tốc độ tăng là 8,16% đây là loại tài sản mang lại
không ít rủi ro cho công ty. Do vậy việc quản lý khoản phải thu khách hàng
hoàn toàn phụ thuộc vào chủ quan của công ty và là một vấn đề thực sự phải
quan tâm. Trên thực tế Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội khoản mục này
boa gồm 2 bộ phận là phải thu do bán hàng nhập khẩu và phải thu do xuất
khẩu. Nhưng ở đây vấn đề cần được quan tâm và cũng là rủi ro lớn nhất cho
công ty là khoản phải thu do bán hàng nhập khẩu còn đối với khoản do xuất
khẩu thường khá an toàn và thời gian thu nợ rất nhanh. Công ty thường nhận
được chấp nhận thanh toán ngay từ phía nhà nhập khẩu thông qua các chi
nhánh ngân hàng đại diện của họ tại Việt Nam ngay khi hàng hoá được chứng
nhận là đã tới bến. Vả lại với việc áp dụng rộng rãi hình thức thanh toán bằng
L/c thì độ an toàn rất cao, do vậy các khoản này công ty thường không theo
dõi trong thời gian. Vấn đề khó khăn ở đây là khoản phải thu do bán hàng
nhập khẩu, công ty nhập khẩu rất nhiều mặt hàng như: Nhôm, thép, kẽm, máy
móc thiết bị, ô tô các loại, máy công cụ, săm lốp ô tô... Do thị trường hoặc do
cơ chế thay đổi nên năm 2001 công ty đã bán được hàng nhập khẩu không
nhiều và tổng giá trị nhập khẩu thấp hơn năm 2000. Bởi vậy các mặt hàng
nhập khẩu thấp hơn năm 2000. Bởi vậy các mặt hàng nhập khẩu bán trên thị
trường nội địa có thời gian nhận nợ khá dài và hầu như ít có điều kiện đảm
bảo thanh toán, do vậy mà rủi ro vẫn ở mức cao. Để tránh được điều đó công
ty phải quản lý khoản này chặt chẽ. Khi bán hàng hoặc mua hàng có đầy đủ
các chứng từ hoá đơn cần thiết cho việc thanh toán.
Khoản trả trước người bán tăng 120.388 nghìn đồng so với năm 2000 và
tỉ lệ tăng 14,73% khoản này là do công ty ứng tiền ra trước để mua các sản
phẩm, nguyên vật liệu đầu vào.
Đối với khoản tạm ứng năm 2000 với số tiền là 853.200 nghìn đồng
chiếm tỉ trọng là 6,32% đến năm 2001 số tiền là 806.965 nghìn đồng chiếm tỉ
trọng 5,37%. Như vậy số tiền tạm ứng năm 2001 giảm so với năm 2000 là
46.235 nghìn đồng với tốc độ giảm 5,42%. Khoản này chủ yếu phát sinh là do
công nhân viên tạm ứng lương.
Năm 2001 khoản thu nội bộ tăng lên với số tiền 388.128 nghìn đồng với
tỉ lệ tăng 184,3%, khoản này tăng thêm là do tổng công ty máy và phụ tùng
cấp thêm vốn kinh doanh cho công ty và tăng một số khoản phải thu nội bộ
khác nhằm tăng quy mô hoạt động của công ty.
Các khoản phải thu khác năm 2000 là 85.050 nghìn đồng chiếm tỉ trọng
0,63% và năm 2001 là 196.219 nghìn đồng chiếm tỉ trọng 1,32%. Ta thấy
khoản phải thu khác tăng so với năm 2000 là 111.169 nghìn đồng với tốc độ
130,71%. Khoản này tăng chủ yếu là do phát sinh các khoản phải thu tiền
phạt do công nhân làm hỏng tài sản của công ty, làm hàng hoá quy cách các
khoản phải thu do chi hộ người lao động, thu do thanh lý tài sản.
Nhìn chung các khoản phải thu năm 2001 tăng lên so với năm 2000. Để
đánh giá chính xác hơn tình hình phải thu của công ty ta xem xét chỉ tiêu sau.
Bảng 10: Tình hình các khoản phải thu
Đơn vị: 1000đ
Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001
1. Doanh thu thuần (nđ) 68.520.000 85.000.000
2. Các khoản phải thu (nđ) 13.500.000 15.015.118
3. Hệ số vòng quay (vòng) 5,08 5,66
Tình hình các khoản phải thu phụ thuộc vào chính sách tín dụng của
công ty. Chính sách tín dụng có vai trò quan trọng góp phần vào sự tăng
trưởng và phát triển của công ty. Chính sách này được coi như là mục tiêu
tăng lượng hàng hoá tiêu thụ trong khuôn khổ, việc mở rộng thị trường tiêu
thụ làm tăng doanh lợi cho công ty. Để đảm bảo sự an toàn giữa rủi ro và tính
lợi ích, công ty cần nghiên cứu kỹ đối với khách hàng, kết hợp với khả năng
tài chính của công ty đã xác định một sự an toàn thích hợp. Ở đây chúng ta
chỉ xét tốc độ thu hồi công nợ của công ty, khả năng này thể hiện qua chỉ tiêu
hệ số vòng quay các khâu phải thu.
Hệ số vòng quay;khoản phải thu = Error!
Qua bảng số phân tích ta có nhận xét: Năm 2001 số vòng quay các khoản
phải tu tăng lên so với năm 2000 từ 5,08 vòng lên 5,66 vòng. Điều này chứng
tỏ năm 2001 công ty đã đẩy mạnh quá trình thu hồi các khoản công nợ phải
thu, công nợ phải trả để tránh tình trạng nợ quá hạn chưa đòi được và công nợ
dây dưa không có khả năng thanh toán. Nếu làm tốt công tác này sẽ góp phần
làm cho cho vốn lưu động hoạt động hiệu quả hơn.
2.3. Tình hình hàng tồn kho
Đối với một doanh nghiệp thương mại với chức năng lưu chuyển hàng
hoá là chủ yếu thì hàng tồn kho đóng một vai trò quan trọng trong vốn lưu
động của doanh nghiệp. Việc xác định một lượng hàng tồn kho hợp lý là vấn
đề cần thiết và luôn thường trực đối với doanh nghiệp. Chúng ta đều biết đối
với một số mặt hàng theo thời vụ, đối với những mặt hàng này để đảm bảo
nhu cầu bán doanh nghiệp cần phải có kế hoạch thu mua trong mùa và dụ trữ
đủ bán khi mặt hàng này là lớn. Nhưng đối với mặt hàng sản xuất quanh năm
thì không nhất thiết phải dự trữ nhiều để tránh những khoản phí do dự trữ
hàng hoá. Tuy nhiên nếu dự trữ quá ít thì sẽ làm cho hiệu quả kinh doanh
giảm. Do vậy việc xác định đúng đắn mức dự trữ hàng hoá là điều rất quan
trọng. Như đã phân tích ở trên trong năm qua hàng tồn kho của Công ty xuất
nhập khẩu máy Hà Nội tăng lên đó là do công ty đang kinh doanh một số mặt
hàng mới vì giá thế giới giảm nên chưa xuất khẩu được. Nhưng công ty cũng
cần xem xét lượng hàng dự trữ hàng hoá để đáp ứng tốt nhu cầu bán của
mình. Để thấy được tốc độ chu chuyển hàng tồn kho của Công ty xuất nhập
khẩu máy Hà Nội xét bảng sau.
Bảng 11: Tình hình hàng tồn kho của Công ty xuất nhập khẩu máy Hà
Nội
Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2000
1. Giá vốn hàng bán 64.965.015 81.093.17
2. Hàng tồn kho bình quân (nđ) 3.126.010 3.880.118
3. Số vòng chu chuyển (vòng) 21,95 21,90
4. Số ngày chu chuyển (ngày) 16,4 16,43
5. Doanh thu thuần 68.620.000 85.000.000
Số vòng chu chuyển hàng tồn kho = Error!
Số vòng chu chuyển hàng tồn kho = Error!
Bảng trên cho thấy số lần chu chuyển hàng tồn kho năm 2000 là 21,95
vòng sang năm 2001 là 21,90 vòng. Đây là tốc độ chu chuyển trung bình. Số
ngày chu chuyển của hai năm cùng là 16,4 ngày cho một vòng chu chuyển.
Như vậy tốc độ chu chuyển hàng tồn kho của công ty là không cao và không
có xu hướng tăng lên trong năm 2001, từ đó có thể thấy được vốn lưu động ở
bộ phận hàng tồn kho của công ty được luân chuyển không nhanh, nó sẽ ảnh
hưởng tới tốc độ chu chuyển của vốn lưu động.
3. Hiệu quả sử dụng vốn lưu động của Công ty xuất nhập khẩu máy Hà
Nội
Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại các doanh nghiệp là một vấn
đề quan trọng và được sự quan tâm rất nhiều của nhà quản lý doanh nghiệp.
Hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp chỉ có thể đạt được khi
doanh nghiệp sử dụng các yếu tố cơ bản của quá trình kinh doanh có hiệu quả.
Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động người ta dùng hệ thống chỉ tiêu
đánh giá một cách toàn diện và cụ thể. Vốn lưu động tham gia vào hoạt động
kinh doanh. Các chỉ tiêu này tính bằng con số cụ thể và chính xác, nó phản
ánh trình độ tổ chức, quản lý và sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp mà
hầu hết các chỉ tiêu này được trình bày ở chương I. Trên thực tế nếu doanh
nghiệp đánh giá đúng thực trạng sử dụng vốn lưu động thì sẽ đưa ra được các
biện pháp kịp thơì và chính xác nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu
động.
Bảng 12 ngang ************
Qua bảng số liệu trên ta có những đánh giá về hiệu quả sử dụng vốn lưu
động của công ty như sau: cứ 1 đồng vốn lưu động bỏ ra công ty thu được
2,63 đồng doanh thu năm 2000 và năm 2001 là 2,04 đồng doanh thu, như vậy
so với năm 2000 thì năm 2001 tăng lên 0,41 đồng với tốc độ tăng 15,58%.
Trong đó mức doanh thu thuần trên một đồng vốn lưu động năm 2001 tăng
với tỉ lệ 16,06% với mức tiền tăng là 0,4 đồng doanh thu thuần. Để xét xem
việc sử dụng vốn lưu động có thực sự đạt hiệu quả không chúng ta xét hệ số
sinh lời của vốn lưu động. Nhìn vào bảng ta thấy mức lợi nhuận gộp của công
ty thu trên một đồng vốn lưu động tăng lên 0,001 đồng có tỉ lệ tăng 0,75% so
với năm 2000. Lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh thực hiện trên một
đồng vốn lưu động năm 2000 là 0,108 đồng doanh thu và năm 2001 là 0,10
đồng doanh thu tăng lên 0,001 đồng với tốc độ tăng là 0,925%. Trong năm
2000 cứ một đồng vốn lưu động bỏ ra thì thu được 0,0071 đồng tổng lợi
nhuận trước thuế và năm 2001 cũng thu được 0,071 đồng tổng lợi nhuận trước
thuế trên một đồng vốn lưu động bỏ ra. Nhìn chung hệ số phục hồi vốn lưu
động và hệ số sinh lời vốn lưu động của Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội
năm 2001 tốt hơn năm 2000. Việc tăng các hệ số này là do năm 2001 công ty
đã kinh doanh một số mặt hàng mới làm cho doanh số bán ra tăng. Tuy nhiên
mức tăng của các hệ số này chưa cao là vì hàng tồn kho và giá vốn hàng bán
năm 2001 tăng cao làm cho lợi nhuận của công ty tăng không nhiều chính vì
vậy làm cho hệ số sinh lời của vốn lưu động tăng không nhiều thậm chí hệ số
lợi nhuận trước thuế trên vốn lưu động của công ty chúng ta hãy sử dụng chỉ
tiêu tốc độ luân chuyển vốn lưu động. Chỉ tiêu này cho biết trong một chu kỳ
kinh doanh vốn lưu động quay trở về trạng thái ban đầu là bao nhiêu lần như
vậy chỉ tiêu này càng cao thì hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng cao và
ngược lại. Căn cứ vào bảng số liệu ta thấy trong năm 2000 số vòng luân
chuyển vốn lưu động là 2,498 vòng sang năm 2001 là 2,89 vòng tăng 9,392
vòng với tốc độ tăng là 15,7%, do vậy năm 2001 công ty sử dụng vốn lưu
động hiệu quả hơn năm 2000. Thông qua số ngày luân chuyển của vốn lưu
động ta biết được số ngày bình quân cần thiết để vốn lưu động thực hiện một
vòng luân chuyển. Chỉ tiêu này càng thấp thì hiệu quả sử dụng vốn lưu động
càng cao và ngược lại. Nếu năm 2000 số ngày cần thiết để vốn lưu động quay
được một vòng là 144,11 ngày thì năm 2001 giảm xuống 114,56 ngày 1 vòng
so với năm 2000 thì số ngày giảm 19,55 ngày tương đương với tỷ lệ giảm là
13,56%. Như vậy chỉ tiêu này càng cho thấy hiệu quả sử dụng vốn lưu động
của công ty trong năm qua là tốt hơn năm 2000.
Tóm lại số vòng luân chuyển vốn lưu động năm 2001 tăng lên so với
năm 2000 đó là do số vòng luân chuyển của các khoản phải thu tăng lên đã
làm cho khả năng thu hồi các khoản công nợ nhanh chóng. Mặt khác số vòng
luân chuyển hàng tồn kho giảm cũng phần nào ảnh hưởng tới tốc độ chu
chuyển vốn lưu động do vậy trong năm tới công ty phải chú ý hơn nữa về việc
quản lý hàng tồn kho sao cho có hiệu quả hơn.
Như vậy ta có thể đánh giá được năm 2001 công ty sử dụng vốn lưu
động hiệu quả hơn năm 2000 mặc dù có nguyên nhân khách quan như tình
hình không thuận lợi do tỉ giá biến động, vốn vay khó khăn nhưng công ty đã
khắc phục và hoàn thành kế hoạch đề ra.
III. Đánh giá chung hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty
1. Các kết quả đạt được
Nhìn chung qua số liệu phân tích trên ta thấy công ty sử dụng vốn có
hiệu quả hơn năm 2000. Trong nưam qua công ty vẫn sử dụng được quy mô
hoạt động nhất là kinh doanh xuất nhập khẩu, tiếp tục củng cố và phát triển
các lĩnh vực mới mở mang dần các hoạt động này đi vào nề nếp.
Trên lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu đây vẫn là hoạt động chính yếu
của công ty trong năm 2001 tuy tổng giá trị kim ngạch có giảm sút so với năm
2000 nhưng sự giảm sút này thuộc về nhập khẩu còn kim ngạch xuất khẩu
năm nay tăng 41,65% so với năm 2000. Điều đó cho ta thấy công ty sử dụng
vốn hợp lý trong các khâu kinh doanh của mình, biết vận dụng linh hoạt
nguồn vốn hiện có tạo đà cho sự phát triển của mình. Nguyên nhân của sự
tăng trưởng này là do công ty chỉ đạo sát sao các phòng nghiệp vụ vừa giữ
mối quan hệ với bạn hàng cũ, vừa tích cực tìm hiếm mở rộng thị trường tiêu
thụ mới tạo mọi điều kiện để làm các mặt hàng có giá trị xuất khẩu như gạo,
cao su, cà phê, bao PP... Trong kinh doanh đã có chuyển biến mạnh từ uỷ thác
sang tự doanh, đây là kết hợp giữa việc phát huy ưu thế của công ty với yêu
cầu khách quan của thị trường, nó cũng đòi hỏi trách nhiệm và trình độ quản
lý nghiệp vụ cao hơn. Ngoài ra công ty cũng có thêm các hình thức kinh
doanh mới là tham gia dự thầu cung cấp hàng hoá trong nước và nhập khẩu.
Hoạt động kinh doanh của công ty đã mang lại tổng lãi năm 2001 cao hơn
năm 2000. Công ty đã tiếp tục truyền thống làm ăn có lãi, lành mạnh về tài
chính, bảo toàn và phát triển vốn cho nhà nước, đóng góp nghĩa vụ đầy đủ và
kịp thời.
Trong công tác quản lý về sử dụng vốn lưu động công ty đã đạt được
một số thành công sau:
Nói chung hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty trong năm 2001
có hiệu quả hơn năm 2000 được thể hiện qua những chỉ tiêu phản ánh hiệu
quả sử dụng vốn lưu động của công ty năm 2001 thường cao hơn năm 2000
tuy rằng mức tăng là không cao nhưng có thể nói rằng đây chính là thành
công của công ty.
Trong công tác quản lý và sử dụng các khoản phải thu của công ty cũng
đạt được một số hiệu quả nhất định. Đây là khoản vốn chiếm tỉ trọng lớn nhất
trong tổng vốn lưu động của công ty vì vậy sử dụng và quản lý có hiệu quả
các khoản phải thu sẽ có tác động rất lớn tới hiệu quả sử dụng vốn lưu động
của công ty. Trong năm 2001 số vòng qua các khoản phải thu tăng lên so với
năm 2000, điều này chứng tỏ năm 2001 đã đẩy mạnh quá trình thu hồi các
khoản công nợ phải thu, công nợ phải trả để tránh tình trạng nợ quá hạn chưa
đòi được và công nợ dây dưa không có khả năng thanh toán. Đây là sự cố
gắng của công ty mặc dù hiệu quả đạt được chưa phải là cao hy vọng rằng
trong các năm tiếp theo công ty sẽ thành công hơn nữa trong khâu quản lý và
sử dụng khoản vốn này.
Cũng trong năm qua công ty đã cố gắng đáp ứng nhu cầu vốn lưu động
cho sự tăng trưởng nhanh chóng của hoạt động sản xuất kinh doanh công ty
bằng nhiều biện pháp khác nhau đã luôn đảm bảo một lượng vốn lưu động
thường xuyên do vậy mà công ty có đủ khả năng để thanh toán các khoản nợ
ngắn hạn.
Chính sự quản lý và sử dụng có hiệu quả vốn lưu động của công ty
không những giúp công ty vượt qua những khó khăn trở ngại mà còn góp
phần không nhỏ trong việc phát triển mở rộng hoạt động sản xuất của công ty.
+ Hạn chế cần khắc phục
Qua số liệu phân tích và đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh của công
ty trong 2 năm 2000 và 2001 ta thấy công ty có sự phát triển theo chiều hướng
chưa tốt sức mua tăng nhưng lợi nhuận đạt chưa cao, điều này thể hiện ở
doanh thu năm 2001 tăng rất cao nhưng lợi nhuận tăng rất chậm. Sự phát triển
này chưa đạt tới đích so với tiềm lực hiện có của công ty. Điều này có thể do
hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty chưa đạt được hiệu quả mong
muốn. Tuy rằng năm 2000 nhưng hiệu quả đạt được không cao hơn là mấy có
thể là do:
Hàng tồn kho (dự trữ) chiếm tỉ trọng cao trong tổng vốn lưu động mà
trong năm 2001 lượng hàng tồn kho tăng cao hơn năm 2000. Ngoài ra công
tác quản trị hàng tồn kho còn chịu ảnh hưởng lớn bởi nguyên nhân khách
quan là các loại hàng dự trữ kém phẩm chất, mất phẩm chất tồn tại từ năm trước
góp phần làm tăng lượng hàng hoá tồn kho mà không đem lại hiêụ quả cho công
ty.
Các chỉ tiêu mức doanh thu trên trị giá vốn hàng bán, và lợi nhuận gộp
trên trị giá vốn đều giảm điều này chứng tỏ trong năm 2001 giá vốn hàng bán
của công ty tăng nhanh hơn cả tốc độ tăng của doanh thu điều này sẽ làm cho
lợi nhuận của công ty đạt được là không cao. Do vậy trong khâu này công ty
đã không tìm được nguồn hàng rẻ hơn để nâng cao lợi nhuận trong công ty
đây chính là hạn chế của công ty.
Vốn bằng tiền của công ty cũng quá lớn nó ảnh hưởng tới hiệu quả sử
dụng vốn lưu động do không đưa lượng vốn bằng tiền này vào quá trình lưu
thông. Điều này làm cho lợi nhuận của cong ty bị giảm sút vì tiềm mặt cất
quỹ không những không sinh lợi nhuận mà còn bị mất giá do lạm phát.
Ngoài ra trong cơ chế quản lý nội bộ và điều hành sản xuất kinh doanh
công ty đã luôn thể hiện sự chắc chắn cẩn trọng và ý thức tuân thủ pháp luật
cao, trong cơ chế phân phối công ty còn duy trì tỉ lệ “bao cấp” khá cao và phổ
biến. Đây là một nét truyền thống và riêng biệt được hình thành rõ nét từ
nhiều năm hoạt động của công ty. Trước yêu cầu hiện tại của thị trường việc
tiếp tục duy trì và phát huy truyền thống này rõ ràng là cần thiết song việc
phải giảm liều lượng để có sự mềm dẻo linh hoạt hơn, thích ứng hơn với các
chuyển biến nhanh của thị trường cũng rất bức thiết. Ví dụ trong cơ chế phân
phối lương thưởng cũng cần có chính sách động viên tốt hơn đối với các cá
nhân và tập thể có đóng góp cho công ty dần dần giảm tỉ lệ “bao cấp” để khắc
phục tâm lý trong chờ ỷ lại không chịu suy nghĩ đóng góp vào cái chung của
một bộ phận CBCNV hiện nay.
- Việc áp dụng khoa học kỹ thuật, nhất là tin học trong sản xuất kinh
doanh còn dè dặt.
- Cần tiếp tục nghiên cứu tìm tòi xây dựng các chương trình, giải pháp
cụ thể, định hướng cụ thể để thích ứng với thị trường trong và ngoài nước.
3. Nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế.
- Công ty đã thực hiện công tác đổi mới quản lý doanh nghiệp: Thực
hiện Nghị quyết Hội nghị BCH Trung ương Đảng lần thứ 3, khoá IX và quyết
định 183/2001/QG-TTg ngỳ 20/11/2001 của Chính phủ trong năm qua công
ty đã có nhiều đổi mới trong công tác quản lý và điều hành: Ban lãnh đạo hoạt
động theo đúng quy chế, đã thực hiện giao ban của lãnh đạo tổng công ty với
giám đốc công ty theo quý có sơ kết và xác định trách nhiệm từng đơn vị đối
với thực hiện kế hoạch, việc kiểm tra, kiểm soát và xét duyệt thực hiện quyết
toán được tiến hành nhằm ổn định tài chính, tạo nguồn vốn và thực hiện đầy
đủ nghĩa vụ ngân sách nhà nước. Sự chỉ đạo điều hành được sâu sát, động
viên kịp thời các đơn vị vươn lên hoàn thành nhiệm vụ.
Trong quản lý đã tạo điều kiện để các đơn vị chủ động, xây dựng nâng
cấp các đơn vị cơ sở, mở rộng kinh doanh về mặt hàng và lĩnh vực kinh
doanh, ban hành quy chế thưởng xuất khẩu, hoa hồng, tiền lương các đơn vị
có thể tăng trưởng về mọi mặt từ sản xuất kinh doanh dịch vụ.
Năm 2001 tổ chức mạng lưới kinh doanh đã thực sự phát huy hiệu quả
đáp ứng được yêu cầu sản xuất kinh doanh của toàn công ty, trình tự thủ tục
thực hiện theo đúng các quy định của pháp luật của tổng công ty.
- Công ty đã tổ chức kiểm tra báo cáo quyết toán tài chính năm 2000 tình
hình quản lý và sử dụng vốn, tài sản tại công ty, tình hình thực hiện các quy
chế: Quy chế quản lý tài sản cố định và đầu tư xây dựng cơ bản, quy chế về
công tác cán bộ và công tác lao động tiền lương. Giải quyết kịp thời khách
quan các đơn thư khiếu nại, tố cáo của các cán bộ và đã báo cáo thanh tra Bộ
Thương mại.
- Phòng Tài chính kế toán của công ty đã có nhiều cố gắng trong việc mở
rộng và tạo dựng tốt mối quan hệ với các ngân hàng nên đã đáp ứng kịp thời
vốn cho kinh doanh, cho các dự án đầu tư, Tổng công ty đã giới thiệu coi
ngân hàng có chế mềm dẻo trong cho vay để Công ty xuất nhập khẩu máy Hà
Nội tiếp xúc trực tiếp ký các hạn mức tín dụng với các điều kiện ưu đãi. Tổ
chức tổng hợp xong quyết toán năm 2001. Đã tổ chức kiểm tra tình hình hoạt
động năm 2001 của toàn công ty. Qua kiểm tra đã yêu cầu công ty xử lý hàng
hoá tài sản kém mất phẩm chất, đôn đốc giải quyết công nợ, công ty đã áp
dụng nhiều biện pháp linh hoạt giải quyết bước đầu đã có kết quả.
Bên cạnh đó công ty gặp phải một số hạn chế cần khắc phục là do một số
nguyên nhân sau:
- Công tác quản trị hàng tồn kho của công ty chịu ảnh hưởng lớn bởi
nguyên nhân khách quan đó là các loại hàng hoá dự trữ kém phẩm chất tổn tại
từ các năm trước góp phần làm tăng dự trữ kém phẩm chât tồn tại từ các năm
trước góp phần làm tăng lượng hàng tồn kho mà không đem lại hiệu quả cho
công ty.
Chính vì vậy đã làm ảnh hưởng đến việc quản trị hàng tồn kho và từ đó
có những ảnh hưởng không tốt tới hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
- Các khoản phải thu của công ty luôn luôn chiếm tỉ trọng lớn nhất trong
tổng số vốn lưu động. Điều này biểu hiện việc kém hiệu quả trong công tác
quản trị các khoản phải thu.
Nguyên nhân là do chưa có chính sách tín dụng hợp lý như các biện pháp
hữu hiệu để thu hồi các khoản phải thu làm mất một lượng vốn lưu động cần
thiết cho nhu cầu tài chính.
Công tác quản lý tiền mặt của công ty cũng chưa tốt đó là nguyên nhân
dẫn đến việc làm giảm hiệu quả vốn lưu động do tiền mặt cất quỹ không
những không sinh lợi nhuận mà còn lại bị mất giá do lạm phát.
Cũng trong năm qua công ty không gặp phải khó khăn trong việc tìm
kiếm nguồn hàng, làm cho trị giá vốn hàng bán tăng rất cao. Điều này có thể
là do công tác tìm kiếm bạn hàng, những nhà cung cấp của bộ phận cán bộ
phụ trách chưa tốt hoặc cũng có thể là do những nguyên nhân khác quan như
sự không ổn định của thị trường thế giới hay là sự biến động thất thường của
tỉ giá hối đoái trên thị trường ngoại hối. Điều này đã ảnh hưởng trực tiếp tới
hiệu quả kinh doanh của công ty cũng như hiệu quả sử dụng vốn lưu động
trong khâu này. Ngoài ra cơ thể còn một số nguyên nhân khác của những
thành tựu cũng như hạnchế mà công ty đang gặp phải. Thế nhưng phải nói
rằng trong điều kiện cạnh tranh khốc liệt như hiện nay mà công ty kinh doanh
vốn có lãi đây là một thành công của Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đề tài Các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Công ty xuất nhập khẩu máy Hà Nội.pdf