Đề tài Tìm giải pháp hỗ trợ xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Mỹ

Tài liệu Đề tài Tìm giải pháp hỗ trợ xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Mỹ: Lời mở đầu Quá trình hội nhập và toàn cầu hoá đang như một “guồng xoáy” cuốn các nền kinh tế của các quốc gia vào một trật tự kinh tế trong đó việc tìm ra các lợi thế và giải bài toán so sánh để xác lập vị thế trên trường quốc tế luôn là vấn đề đặt ra đối với từng quốc gia. Bắt đầu từ thời kỳ đổi mới, Việt Nam đang từng bước thực hiện quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế hướng mạnh vào xuất khẩu. Như nhiều quốc gia khác, vào những giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá, ngành dệt may Việt Nam từng bước khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Bên cạnh việc cung cấp hàng hóa đáp ứng các nhu cầu cho thị trường trong nước, ngành dệt may còn tạo điều kiện mở rộng thương mại quốc tế. Đồng thời, vừa là nguồn thu hút lao động, giải quyết công ăn việc làm, vừa tạo nguồn hàng xuất khẩu có giá trị cao, ngành dệt may sẽ là nguồn thu hút ngoại tệ góp phần tạo đà cho nền kinh tế cất cánh. Với tiềm năng của một quốc gia có lợi ...

doc96 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 969 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Tìm giải pháp hỗ trợ xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Mỹ, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Quá trình hội nhập và toàn cầu hoá đang như một “guồng xoáy” cuốn các nền kinh tế của các quốc gia vào một trật tự kinh tế trong đó việc tìm ra các lợi thế và giải bài toán so sánh để xác lập vị thế trên trường quốc tế luôn là vấn đề đặt ra đối với từng quốc gia. Bắt đầu từ thời kỳ đổi mới, Việt Nam đang từng bước thực hiện quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế hướng mạnh vào xuất khẩu. Như nhiều quốc gia khác, vào những giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá, ngành dệt may Việt Nam từng bước khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Bên cạnh việc cung cấp hàng hóa đáp ứng các nhu cầu cho thị trường trong nước, ngành dệt may còn tạo điều kiện mở rộng thương mại quốc tế. Đồng thời, vừa là nguồn thu hút lao động, giải quyết công ăn việc làm, vừa tạo nguồn hàng xuất khẩu có giá trị cao, ngành dệt may sẽ là nguồn thu hút ngoại tệ góp phần tạo đà cho nền kinh tế cất cánh. Với tiềm năng của một quốc gia có lợi thế về xuất khẩu hàng dệt may, vấn đề thâm nhập và phát triển các thị trường mới, có dung lượng tiêu thụ lớn hiện đang đặt ra cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam những khó khăn và thách thức. Điểm lại một số các thị trường lớn như Nhật Bản, EU, Đông Âu, có thể thấy hàng dệt may Việt Nam đã có mặt và đang củng cố dần từng bước vị trí của mình. Tuy nhiên, hàng dệt may Việt Nam đang gặp những khó khăn không nhỏ trong việc đẩy mạnh lượng hàng xuất khẩu và để tìm được lối ra cho bài toán thị trường tiêu thụ thì hướng cần thiết nhất là khai thác để thâm nhập các thị trường mới, trong đó Mỹ là một thị trường đầy hứa hẹn và có tiềm năng nhất. Tiềm năng hợp tác kinh tế – thương mại giữa Việt Nam và Mỹ là to lớn. Cùng với việc ký kết Hiệp định thương mại Việt – Mỹ, quan hệ thương mại giữa hai nước đã bước sang trang mới. Vì vậy, việc xem xét khả năng thâm nhập của hàng dệt may vào thị trường Mỹ – một thị trường có dung lượng tiêu thụ vào loại lớn nhất thế giới đã trở nên rất cấp bách. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi sẽ có không ít khó khăn và thách thức, đòi hỏi không chỉ sự nỗ lực của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam mà còn cần có sự hỗ trợ tích cực từ phía Nhà nước để có thể tiếp cận và đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường nhiều tiềm năng nhưng cũng lắm chông gai này. Chính vì lý do đó, em đã lựa chọn đề tài: “Giải pháp hỗ trợ xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Mỹ” làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình. Kết cấu đề tài gồm 3 chương: Chương I: Những vấn đề chung về hỗ trợ xuất khẩu Chương II: Thực trạng của các chính sách hỗ trợ xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ hiện nay Chương III: Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hỗ trợ xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ những năm tới Qua luận văn này, em xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới thầy giáo PGS.TS Nguyễn Duy Bột và Th.S Nguyễn Trọng Hà, người đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành đề tài này. Chương I Những vấn đề chung về hỗ trợ xuất khẩu 1.1-Xuất khẩu và vai trò của hỗ trợ xuất khẩu 1.1.1-Xuất khẩu và vai trò của xuất khẩu hàng hoá 1.1.1.1-Khái niệm và đặc điểm của xuất khẩu hàng hoá Trong xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới đang diễn ra mạnh mẽ như hiện nay thì hoạt động thương mại quốc tế đóng vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế của bất kỳ một quốc gia nào. Thương mại quốc tế là quá trình trao đổi hàng hoá giữa các nước thông qua buôn bán nhằm thu được lợi ích kinh tế tối đa, là lĩnh vực quan trọng nhằm tạo điều kiện cho các nước tham gia vào phân công lao động quốc tế, phát triển kinh tế và làm giàu cho đất nước. Thương mại quốc tế bao gồm hai mặt hoạt động: xuất khẩu và nhập khẩu, trong đó hoạt động xuất khẩu đóng vai trò cực kỳ quan trọng. Xuất khẩu hàng hoá là một hoạt động kinh doanh quốc tế, là việc bán hàng hoá và dịch vụ cho nước ngoài. Nếu đứng trên giác độ một doanh nghiệp thì xuất khẩu hàng hoá về bản chất chính là một hoạt động tiêu thụ của doanh nghiệp, trong đó khách hàng của doanh nghiệp có thể là một cá nhân hay một tổ chức nước ngoài hay một quốc gia khác. Xuất khẩu hàng hoá có những đặc điểm sau: Khách hàng tiêu thụ sản phẩm là ở quốc gia khác có những đặc điểm về lối sống, phong tục, tập quán, mức sống, thói quen... khác với khách hàng trong nước. Khoảng cách địa lý từ doanh nghiệp đến người tiêu thụ thường xa, do đó, trong xuất khẩu hàng hoá thường phát sinh chi phí về vận chuyển khá lớn làm giá cả sản phẩm đến được tay người tiêu dùng thường cao hơn giá cả trong nước. Khi tiến hành xuất khẩu hàng hoá, cần phải tiến hành thêm nhiều nghiệp vụ khác với tiêu thụ trong nước như làm thủ tục hải quan, kiểm hoá... Thị trường xuất khẩu thường có những đặc điểm, quy định khác với thị trường trong nước. 1.1.1.2-Vai trò của hoạt động xuất khẩu hàng hoá Lợi ích của thương mại quốc tế là rất to lớn và ngày càng có ý nghĩa quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế. Là một mặt của hoạt động thương mại quốc tế, xuất khẩu cũng thể hiện vai trò quan trọng của mình. Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu để phát triển kinh tế Bất kỳ một quốc gia nào, dù giàu hay nghèo, để phát triển kinh tế đều cần có vốn. Cùng với việc triệt để khai thác nguồn vốn từ bên ngoài phải phát huy cao độ nội lực, coi nguồn vốn có được là việc phát huy nội lực, là động lực để phát triển kinh tế. Vì vậy, nguồn vốn thu được từ hoạt động xuất khẩu là rất quan trọng. Cùng với sự phát triển kinh tế của sản xuất trong nước và sự phát triển của các quan hệ kinh tế đối ngoại, nguồn vốn thu được từ xuất khẩu cũng ngày càng tăng lên, chiếm tỉ lệ cao trong tổng nguồn vốn phát triển. Mặc dù các nguồn vốn xuất phát từ bên ngoài có xu hướng tăng song không thể dựa vào đó để phát triển kinh tế bởi lúc này hay lúc khác, bằng cách này hay cách khác, các nguồn vốn này cũng phải hoàn trả. Xuất khẩu góp phần vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển Cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới đã và đang thay đổi vô cùng mạnh mẽ. Đó là thành quả của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại. Sự chuyển dịch cơ cấu trong nền kinh tế nước ta trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá cũng đang diễn ra nhanh chóng, phù hợp với xu hướng phát triển của kinh tế thế giới. Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Một là, xuất khẩu chỉ là việc tiêu thụ những sản phẩm thừa do sản xuất vượt quá nhu cầu nội địa. Trong trường hợp nền kinh tế còn lạc hậu và chậm phát triển như nước ta, sản xuất về cơ bản chưa đủ tiêu dùng, nếu chỉ thụ động chờ đợi “thừa ra” của sản xuất thì xuất khẩu sẽ vẫn là vấn đề xa xôi, chưa hiện thực. Sản xuất và sự thay đổi cơ cấu kinh tế rất chậm chạp. Hai là, coi thị trường và đặc biệt thị trường thế giới là quan trọng để tổ chức sản xuất. Điều đó có tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế thúc đẩy sản xuất phát triển. Sự tác động sản xuất thể hiện như sau: Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành liên quan có cơ hội phát triển thuận lợi. Chẳng hạn, khi phát triển ngành dệt xuất khẩu sẽ tạo cơ hội đầy đủ cho sự phát triển ngành sản xuất nhiên liệu như bông hay thuốc nhuộm kèm theo sự phát triển của ngành công nghiệp chế tạo thiết bị phục vụ cho nó. Sự phát triển của công nghiệp chế biến thực phẩm xuất khẩu (dầu thực vật, chè...) kéo theo sự phát triển của ngành công nghiệp chế tạo thiết bị. Xuất khẩu tạo khả năng mở rộng tiêu thụ cung cấp đầu vào cho sản xuất, khai thác tối đa sản xuất trong nước góp phần cho sản xuất phát triển và ổn định. Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế – kỹ thuật nhằm cải tạo và nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Điều này có ý nghĩa là xuất khẩu là phương tiện quan trọng tạo ra vốn và kỹ thuật, công nghệ từ thế giới bên ngoài vào Việt Nam nhằm hiện đại hoá nền kinh tế của đất nước, tạo ra một năng lực sản xuất mới. Thông qua sản xuất, hàng hoá sản xuất trong nước phải tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới. Sự cạnh tranh này sẽ giúp các doanh nghiệp phải có các biện pháp mới, nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm để thích nghi với thị trường thế giới. Xuất khẩu còn đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn thiện công tác quản lý sản xuất, kinh doanh, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành. Xuất khẩu có tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống nhân dân Sản xuất hàng xuất khẩu có khả năng thu hút hàng triệu lao động vào làm việc và có thu nhập tương đối cao. Việt Nam có nguồn lao động dồi dào với gần 40 triệu người, trong đó tỷ lệ thiếu việc làm hiện nay là 30% thì ngành dệt may cũng như các ngành hàng xuất khẩu khác có vị trí rất quan trọng trong việc tạo thêm nhiều chỗ làm việc mới, tăng thêm thu nhập và ổn định đời sống cho đông đảo người lao động hiện nay. Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại Xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại có tác động qua lại phụ thuộc lẫn nhau. Xuất khẩu tạo điều kiện thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại phát triển. Chảng hạn, xuất khẩu và công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu thúc đẩy các quan hệ tín dụng, đầu tư, mở rộng vận tải quốc tế... Mặt khác, chính các quan hệ kinh tế đối ngoại này lại tạo tiền đề cho mở rộng xuất khẩu. Tóm lại, việc đẩy mạnh xuất khẩu là vấn đề có ý nghĩa chiến lược để phát triển kinh tế và hội nhập kinh tế. 1.1.2-Sự cần thiết của hỗ trợ xuất khẩu Như đã phân tích ở phần trên, do những đặc điểm của hoạt động xuất khẩu nên xuất khẩu là một lĩnh vực cực kỳ phức tạp. Nó không chỉ liên quan đến một quốc gia nào đó mà liên quan đến cả quốc gia mà nước này thiết lập mối quan hệ thương mại quốc tế với những đặc điểm về luật pháp, chính trị, kinh tế, văn hoá... khác với nước mình. Có những lĩnh vực mà không một doanh nghiệp nào tự mình có thể làm được trong hoạt động buôn bán với nước ngoài mà đòi hỏi phải có sự tham gia can thiệp của Chính phủ. Các chính sách của Chính phủ nhằm tạo ra một môi trường thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, như đã khẳng định ở trên, xuất khẩu là một lĩnh vực quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của bất kỳ một quốc gia nào, chính vì vậy, làm thế nào để đẩy mạnh xuất khẩu luôn là một vấn đề được đặt ra không chỉ cho các doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu mà còn cho cả phía Nhà nước. Để tăng cường hoạt động xuất khẩu nhằm thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế, Chính phủ nước nào cũng đưa ra những chính sách phù hợp với nước mình nhằm khuyến khích, hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp trong nước. Như vậy, có thể khẳng định rằng, các chính sách hỗ trợ xuất khẩu của Nhà nước là rất quan trọng, là yếu tố cần thiết không thể thiết được để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng hoá phát triển và tăng trưởng mạnh. Kinh nghiệm của nhiều nước thành công trong phát triển kinh tế cho thấy: muốn thực hiện được các mục tiêu chiến lược đề ra, Nhà nước phải nhất quán trong việc sử dụng các công cụ, chính sách của mình để tác động vào nền kinh tế. Vì vậy, chiến lược hướng xuất khẩu đòi hỏi sự tác động cùng chiều của mọi công cụ chính sách có lợi cho xuất khẩu. Đối với nước ta, trong giai đoạn hiện nay, tuy hoạt động xuất khẩu đã thu được nhiều kết quả khả quan, nhưng năng lực xuất khẩu, khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu nước ta chưa tốt. Chính vì vậy, để tối ưu hoá hoạt động xuất khẩu và sử dụng triệt để tiềm năng kinh tế trong nước, thương mại Việt Nam cần được tập trung, hỗ trợ, làm tốt các giai đoạn xúc tiến xuất khẩu ở cấp vĩ mô và cấp doanh nghiệp. Nhiệm vụ trước mắt cũng như lâu dài của khu vực thương mại Việt Nam là củng cố thị trường cũ, mở rộng thị trường mới và nâng cao vị thế của sản phẩm Việt Nam trên thị trường quốc tế. Để làm được điều này, bên cạnh những chính sách về xuất khẩu, Việt Nam cần có một cơ chế tài trợ xuất khẩu phù hợp với nhu cầu của các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và hội nhập dần với hệ thống thương mại toàn cầu. 1.2-Nội dung của hỗ trợ xuất khẩu 1.2.1-Thực chất của hỗ trợ xuất khẩu Xuất khẩu là một cơ sở của nhập khẩu và là hoạt động kinh doanh đem lại lợi nhuận lớn, là phương tiện thúc đẩy phát triển kinh tế. Mở rộng xuất khẩu để tăng thu ngoại tệ, tạo điều kiện cho nhập khẩu và phát triển cơ sở hạ tầng. Chính vì vai trò quan trọng như vậy nên làm thế nào để thúc đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu luôn được đặt ra đối với cả phía Nhà nước và doanh nghiệp. Để đẩy mạnh xuất khẩu đòi hỏi sự nỗ lực, phối hợp của cả hai phía: Nhà nước và doanh nghiệp. Về phía các doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu, các biện pháp họ đề ra mang tầm vi mô. Các biện pháp này là để nhằm phục vụ cho chính doanh nghiệp của họ, có thể là tập trung vào quá trình sản xuất, cũng có thể là tập trung vào hoạt động tiêu thụ sản phẩm... Nói một cách ngắn gọn, chính họ đang tự giúp họ để có thể đứng vững trên thương trường quốc tế. Còn về phía Nhà nước, các biện pháp được thực hiện là để nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong nước đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của mình, các biện pháp này gọi là các hoạt động hỗ trợ xuất khẩu. Như vậy, thực chất của hỗ trợ xuất khẩu là một hệ thống các biện pháp mà Nhà nước thực hiện nhằm tạo ra một môi trường vĩ mô thuận lợi cho các doanh nghiệp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của mình. Những biện pháp hỗ trợ xuất khẩu không chỉ liên quan tới một hay một số doanh nghiệp nhất định nào đó, mà nó liên quan tới tất cả các doanh nghiệp trong phạm vi biện pháp đó điều chỉnh. Nó giải quyết những vấn đề mà không một doanh nghiệp nào có thể tự mình giải quyết được. Nếu thiếu đi những biện pháp hỗ trợ xuất khẩu đó của Nhà nước, các doanh nghiệp sẽ gặp phải nhiều khó khăn khi tham gia hoạt động thương mại quốc tế với các nước khác. Là một trong số các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, ngành dệt may cũng rất cần được sự hỗ trợ từ phía Nhà nước trong hoạt động xuất khẩu hàng hoá ra thị trường nước ngoài. Những chính sách của Nhà nước không những chỉ giúp cho các doanh nghiệp dệt may có đủ năng lực để sản xuất ra được các lô hàng có khả năng xuất khẩu mà bên cạnh đó còn hỗ trợ trực tiếp ngay trong quá trình tiến hành xuất khẩu. Nói một cách cụ thể, hỗ trợ xuất khẩu hàng dệt may, với tư cách là một bộ phận của hỗ trợ xuất khẩu hàng hoá nói chung, là một hệ thống các biện pháp mà Nhà nước thực hiện nhằm giúp đỡ, hỗ trợ các doanh nghiệp dệt may trong hoạt động xuất khẩu của mình. Đối với những quốc gia xây dựng chiến lược hướng về xuất khẩu kết hợp với thay thế nhập khẩu như chúng ta hiện nay, những doanh nghiệp tiến hành xuất khẩu hàng hoá sẽ được tạo điều kiện phát triển bằng nhiều chính sách hỗ trợ khác nhau như: chính sách xuất khẩu, chính sách khuyến khích đầu tư, chính sách tài chính – tín dụng, chính sách thuế... Điều này sẽ tạo điều kiện giúp cho doanh nghiệp có thể tăng kim ngạch xuất khẩu. 1.2.2-Những công cụ hỗ trợ xuất khẩu 1.2.2.1-Những công cụ hỗ trợ hoạt động sản xuất a/ Chính sách đầu tư và phát triển Bất kỳ một ngành kinh tế nào, cho dù sản xuất hàng hoá để phục vụ thị trường nội địa hay để xuất khẩu thì cũng cần phải có một nguồn vốn nhất định, nghĩa là cần đến đầu tư. Có đầu tư thì có đổi mới, không đầu tư thì không bao giờ có đổi mới. Chính vì vậy, chính sách đầu tư phát triển luôn là một trong những chính sách quan trọng nhất, thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng hoá tăng trưởng mạnh mẽ, Để tạo điều kiện đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá, Chính phủ cần có các chính sách để hỗ trợ, tạo môi trường thuận lợi cho việc đầu tư vào các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu. Chính sách đầu tư tập trung hỗ trợ cho hai vấn đề chính: Thu hút vốn đầu tư: Để huy động được nguồn vốn có khả năng đáp ứng được nhu cầu của các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hoá, có 3 nguồn vốn chủ yếu sau để khai thác: Nguồn vốn trong nước: Đây là nguồn vốn rất quan trọng, giúp chúng ta luôn chủ động được các kế hoạch phát triển của mình. Đồng thời, nó làm giảm bớt sự bất ổn định và phụ thuộc vào các nguồn vốn từ các khoản đầu tư của nước ngoài. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài: Sự phát triển mạnh mẽ của các mối quan hệ kinh tế đối ngoại giữa các quốc gia trên thế giới đã tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào việc sản xuất, xuất khẩu hàng hoá trong nước. Nguồn vốn trong nước là rất quan trọng nhưng không thể đủ được đối với những chương trình phát triển lớn, do vậy, thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là một chính sách đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu. Nguồn vốn của các tổ chức phi Chính phủ, các tổ chức quốc tế: Hiện nay, nguồn vốn này không còn nhiều như trước kia nhưng nếu có các biện pháp thu hút tốt thì có thể nhận được sự giúp đỡ của các tổ chức này. Chính phủ cần phải có các chính sách để làm thế nào để có thể thu hút được các nguồn vốn này một cách tốt nhất, phục vụ cho hoạt động sản xuất hàng hoá xuất khẩu. Vấn đề phân bổ nguồn vốn đầu tư: Trong chính sách đầu tư phát triển, Chính phủ cũng cần phải đưa ra chính sách về việc phân bổ vốn đầu tư sao cho có hiệu quả nhất. Có như vậy mới tận dụng hết được năng lực hiện có của mình. b/ Chính sách nguyên vật liệu Hầu hết các ngành sản xuất ra một loại hàng hoá nào đó đều cần phải có nguyên vật liệu đầu vào. Nếu không có nguyên vật liệu thì không thể sản xuất ra hàng hoá để đem ra tiêu thụ trên thị trường được. Như vậy, nguyên vật liệu đóng vai trò quyết định trong việc có thể tạo ra được sản phẩm hay không, nếu làm tốt ngay từ khâu cung cấp nguyên vật liệu thì quá trình sản xuất sẽ có rất nhiều thuận lợi. Để hỗ trợ tốt nhất cho việc cung cấp nguyên vật liệu cho các doanh nghiệp sản xuất hàng hóa xuất khẩu, Nhà nước cần phải có chính sách nguyên vật liệu, trong đó tập trung vào hai vấn đề chính sau: Đối với những nguyên vật liệu trong nước có thể cung cấp được: Để có thể chủ động được cả về số lượng, thời gian, chất lượng cũng như về giá cả trong việc cung cấp nguyên vật liệu cho các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu thì cần phải tập trung vào việc phát triển các vùng, các doanh nghiệp có khả năng cung cấp các loại nguyên vật liệu phù hợp. Nhà nước cần phải có kế hoạch phát triển các vùng nguyên vật liệu phù hợp với đặc điểm của từng khu vực địa lý và chỉ đạo việc thực hiện các kế hoạch phát triển này. Đối với những nguyên vật liệu phải nhập khẩu: Trong chính sách hỗ trợ nguyên vật liệu, Nhà nước sẽ đưa ra những biện pháp để có thể hỗ trợ tốt nhất cho việc nhập khẩu các loại nguyên vật liệu mà trong nước không thể cung cấp được. Thường thì công cụ chủ yếu được sử dụng vẫn là công cụ thuế quan nhập khẩu. c/ Chính sách về khoa học công nghệ Khoa học công nghệ luôn đóng một vai trò rất quan trọng đối với bất kỳ ngành sản xuất hàng hoá nào. Việc đầu tư đổi mới công nghệ cũng như đổi mới trang thiết bị sẽ giúp tạo ra được các sản phẩm phù hợp với thị trường và đáp ứng được các đòi hỏi về số lượng, chất lượng, mẫu mã, thời gian giao hàng... của khách hàng. Trong giai đoạn hiện nay, khoa học công nghệ của nước ta chưa thực sự phát triển, điều này làm giảm khả năng cạnh tranh của các sản phẩm xuất khẩu của nước ta. Do vậy, trong số các biện pháp hỗ trợ của Nhà nước thì luôn phải có chính sách về công nghệ. Chính sách phát triển khoa học công nghệ chủ yếu tập trung vào những vấn đề sau: Hỗ trợ xây dựng và phát triển các Viện nghiên cứu, phòng thí nghiệm, trường đào tạo... để tìm ra những kỹ thuật, những thành tựu công nghệ mới, đưa nền khoa học công nghệ trong nước phát triển. Xây dựng các chiến lược nghiên cứu và triển khai các dự án công nghệ. Khuyến khích việc nghiên cứu và áp dụng các công nghệ mới trong việc sản xuất hàng hoá xuất khẩu. d/ Chính sách về lao động và phát triển Trong bất kỳ một hoạt động kinh tế nào cũng đều cần đến sự tham gia của con người. Việc sản xuất ra hàng hoá, cho dù có những máy móc tinh xảo và những công nghệ tiên tiến, hiện đại đến đâu thì cũng không thể nào thay thế được bàn tay và khối óc của con người. Người lao động có thành thạo, khéo léo thì mới có thể vận hành máy móc một cách hiệu quả được. Chính vì vậy, làm thế nào để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong hoạt động xuất khẩu hàng hoá luôn là vấn đề được Nhà nước đặc biệt quan tâm. Chính sách về lao động và phát triển của Nhà nước tập trung vào những vấn đề sau: Đưa ra các định hướng cho các chương trình đào tạo công nhân, kỹ sư... cho các ngành sản xuất hàng hoá xuất khẩu. Đưa ra các chính sách thu hút, khuyến khích học sinh theo học các ngành nghề có tiềm năng xuất khẩu lớn. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho các cơ sở đào tạo. Có chính sách hỗ trợ người lao động để đảm bảo cuộc sống và công việc của họ, thúc đẩy họ cống hiến cho sự phát triển của ngành. e/ Chính sách về tổ chức quản lý Bất kỳ một hoạt động kinh tế nào cũng đều cần có sự quản lý của Nhà nước, đặc biệt là hoạt động xuất nhập khẩu bởi vì xuất nhập khẩu là lĩnh vực rất phức tạp, nó không chỉ liên quan đến một nước mà liên quan đến những nước khác có quan hệ thương mại với nhau. Vì vậy, tổ chức quản lý xuất nhập khẩu rất được Nhà nước ta coi trọng. Trong chính sách về tổ chức quản lý hoạt động xuất khẩu, Nhà nước tập trung vào việc tạo ra một môi trường thuận lợi để các doanh nghiệp cũng như các nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia vào hoạt động sản xuất, kinh doanh. Đối với những hàng xuất khẩu mà phải chịu sự khống chế về hạn ngạch Nhà nước sẽ phối hợp với các Bộ ngành liên quan phân bổ hạn ngạch một cách hiệu quả và hợp lý nhất. Đồng thời, Nhà nước còn quan tâm đến việc xây dựng các chương trình, thành lập các tổ chức để có thể quản lý tốt hoạt động xuất khẩu. Bên cạnh đó là chủ trương tổ chức, sắp xếp các doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu trên cả nước theo hướng làm sao để có thể phát huy một cách tốt nhất tiềm năng của mình, thúc đẩy nền kinh tế nước nhà phát triển bền vững. 1.2.2.2-Nhóm công cụ hỗ trợ hoạt động tiêu thụ sản phẩm a/ Chính sách thuế quan Thuế quan, gồm thuế nhập khẩu và thuế xuất khẩu là một công cụ quản lý vĩ mô rất quan trọng của Nhà nước đối với hoạt động xuất nhập khẩu. Một chính sách thuế quan tốt sẽ bảo hộ được sản xuất trong nước và thúc đẩy xuất khẩu ra thị trường thế giới. Đồng thời, chính sách thuế quan được áp dụng thống nhất sẽ từng bước bảo đảm sự cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế, góp phần phục vụ có hiệu quả chủ trương giải phóng mọi tiềm năng để phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý giữa các ngành nghề, giữa các địa phương, các vùng, giữa thị trường trong và ngoài nước, từ đó thúc đẩy xuất khẩu. Chính sách thuế quan hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu tập trung vào việc miễn thuế, giảm thuế và hoàn lại thuế. Để có thể khuyến khích xuất khẩu, Nhà nước cần phải quy định thật chi tiết, dựa trên những căn cứ rõ ràng, mặt hàng nào được miễn, giảm hoặc hoàn lại thuế. Chính sách thuế quan không chỉ quy định về thuế xuất nhập khẩu đối với những mặt hàng xuất khẩu ra thị trường thế giới, mà còn đưa ra các quy định về thuế quan đối với các hàng hoá liên quan đến việc sản xuất ra loại mặt hàng xuất khẩu đó như: máy móc thiết bị, nguyên phụ liệu, hoá chất, thuốc nhuộm... b/ Chính sách thị trường Hoạt động Marketing đặc biệt quan trọng đối với các sản phẩm xuất khẩu ra thị trường thế giới do đặc điểm của hàng hoá xuất khẩu là yêu cầu cao về sự phù hợp với các tiêu chuẩn xã hội, văn hoá, xu hướng thời trang... của nước nhập khẩu. Đã có nhiều doanh nghiệp quan tâm tới vấn đề này nhưng các hoạt động tìm hiểu thị trường thường vượt quá khả năng tài chính của các doanh nghiệp. Vì vậy, chính sách thị trường của Nhà nước để cung cấp thông tin thị trường cho các doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu là hết sức cần thiết. Chính sách thị trường tập trung vào việc hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu trong cả nước tiếp cận được với thị trường thế giới, có được những thông tin về thị trường, điều kiện pháp lý, văn hoá... khi xâm nhập vào các thị trường này. Đồng thời, chính sách thị trường phải làm sao để có thể tư vấn tốt nhất cho doanh nghiệp để thâm nhập thành công thị trường nước ngoài. c/ Chính sách tỷ giá hối đoái Xuất phát từ đặc điểm của hoạt động thương mại quốc tế là đồng tiền thanh toán là ngoại tệ đối với ít nhất một trong hai bên nên bất kỳ sự thay đổi tỷ giá trao đổi ngoại tệ nào cũng làm ảnh hưởng đến hoạt động xuất nhập khẩu của mỗi quốc gia. Sự thay đổi tỷ giá hối đoái làm cho hàng hoá xuất khẩu và nhập khẩu đắt hơn hay rẻ hơn đối với nước kia làm ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của hàng hoá. Ngoài ra, với mức tỷ giá hối đoái ưu đãi còn có khả năng thu hút vốn đầu tư đổ vào trong nước. Vì vậy, một quốc gia có thể dùng chính sách tỷ giá hối đoái để quản lý hoạt động xuất nhập khẩu và thu hút vốn đầu tư. Tùy vào tình hình kinh tế của mỗi quốc gia mà các nước thực hiện các chế độ tỷ giá khác nhau để đạt được mục tiêu kinh tế, chính trị. Cụ thể có các chế độ tỷ giá sau: Tỷ giá hối đoái cố định: Là mức tỷ giá được Chính phủ thông qua Ngân hàng Trung ương đồng ý mua vào hay bán ra lượng đồng tiền nào đó theo yêu cầu của các đối tượng khác nhau để trao đổi lại một mức tỷ giá hối đoái không đổi. Tỷ giá hối đoái thả nổi: Là tỷ giá hối đoái được thả nổi tự do không có sự can thiệp nào của Chính phủ của thị trường ngoại hối. Chính phủ không tăng thêm hay giảm bớt lượng dự trữ ngoại hối. Và mối quan hệ giữa cung và cầu ngoại hối hoàn toàn quyết định mức cân bằng tỷ giá hối đoái. Chế độ đa tỷ giá: Với việc áp dụng chế độ này thì có nhiều tỷ giá hối đoái cùng được áp dụng trong nền kinh tế. Đối với một số mặt hàng thì áp dụng tỷ giá hối đoái cao và ngược lại. Chế độ này có tác dụng như một loại thuế nhập khẩu đặc biệt, làm tiền thưởng xuất khẩu, làm công cụ cho chính sách bảo hộ mậu dịch và trong trường hợp nào đó làm tăng thu nhập ngân sách Nhà nước qua thu thuế bán ngoại hối. Để hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu, Nhà nước phải nghiên cứu để xây dựng chính sách tỷ giá hối đoái phù hợp với những đặc trưng của từng ngành. Sử dụng chế độ tỷ giá hối đoái nào cho hợp lý là tuỳ thuộc vào những thời điểm nhất định. d/ Chính sách tín dụng và trợ cấp xuất khẩu Là những ưu đãi tài chính mà Nhà nước dành cho người xuất khẩu khi họ bán được hàng hoá ra thị trường nước ngoài. Mục đích của trợ cấp xuất khẩu là giúp nhà xuất khẩu tăng thu nhập, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu, do đó đẩy mạnh được xuất khẩu. Có hai loại trợ cấp xuất khẩu: gián tiếp và trực tiếp. Trợ cấp trực tiếp như: áp dụng thuế suất ưu đãi đối với hàng xuất khẩu, miễn hoặc giảm thuế đối với các nhà xuất khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu... Cho các nhà xuất khẩu được hưởng các giá ưu đãi các đầu vào sản xuất hàng xuất khẩu như điện, nước, vận tải, thông tin liên lạc, trợ giá xuất khẩu. Trợ cấp gián tiếp như: dùng ngân sách Nhà nước để giới thiệu, triển lãm, quảng cáo, tạo điều kiện thuận lợi cho các giao dịch xuất khẩu. Hoặc Nhà nước giúp đỡ kỹ thuật và đào tạo chuyên gia. Mức độ trợ cấp phụ thuộc vào: Chính sách của Nhà nước đối với từng mặt hàng Mức độ cạnh tranh trên thị trường Xu hướng chung hiện nay trợ cấp xuất khẩu vẫn còn được sử dụng rộng rãi. Trợ cấp xuất khẩu trực tiếp có xu hướng bị thu hẹp do sự đấu tranh giữa các Chính phủ có quan hệ buôn bán với nhau. Ngược lại, trợ cấp gián tiếp ngày càng tăng lên và thường được che dấu. Trong các biện pháp hỗ trợ xuất khẩu của Nhà nước, các doanh nghiệp Việt Nam coi trọng các biện pháp sau: Bảng 1: Các biện pháp hỗ trợ xuất khẩu được các doanh nghiệp Việt Nam coi trọng (Đơn vị: doanh nghiệp) 1. Cung cấp thông tin về thị trường XK và uy tín của các đối tác thương mại 384 2. Đơn giản hoá các thủ tục xuất khẩu 176 3. Cung cấp tín dụng xuất khẩu từ các tổ chức tài chính – tín dụng của Nhà nước và thành lập một hệ thống bảo hiểm thương mại 110 4. Tăng cường tính minh bạch về thuế xuất khẩu 30 5. Hoàn thiện cơ quan kiểm hoá hàng xuất khẩu 47 6. Đào tạo kiến thức về chuẩn mực quốc tế đối với công nghệ... 32 7. Cung cấp dịch vụ tư vấn về xuất khẩu 49 8. Hỗ trợ nghiên cứu và triển khai công nghệ tiên tiến để tăng cường khả năng cạnh tranh đối với xuất khẩu 100 9. Thành lập các trung tâm đầu mối để cung cấp các dịch vụ hỗ trợ XK 78 10. Các biện pháp khác 5 Tổng 1.011 (Nguồn: Tạp chí ngân hàng Số 6/2001) Số liệu bảng 1 là một thông điệp quan trọng cho những ai đảm nhiệm công tác xúc tiến xuất khẩu. Qua đó, có thể thấy rằng: Nhóm nhu cầu cung cấp thông tin về thị trường xuất khẩu và đối tác thương mại là vấn đề bức xúc đối với các doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu. Hiện tại, phần lớn các doanh nghiệp xuất khẩu nhận được thông tin về thị trường xuất khẩu thông qua tivi, báo, đài, tạp chí trong nước, những nguồn tin này không được xem là “mang tính chuyên ngành”. Đáng tiếc là các doanh nghiệp Nhà nước, các công ty tư nhân chuyên cung cấp thông tin về thị trường nước ngoài lại chỉ đóng một vai trò quá khiêm tốn. Ngoài ra, nguồn thông tin qua các hội chợ triển lãm thương mại, thông tin từ Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, các ấn phẩm chuyên môn thương mại, báo và tạp chí nước ngoài, các công ty khác cùng ngành, nhà nhập khẩu nước ngoài... còn hạn chế. Nhóm thủ tục hành chính như hạn ngạch xuất khẩu và thủ tục xuất khẩu cũng gây cản trở không ít tới hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng xuất khẩu của các doanh nghiệp. Trong các thủ tục về xuất khẩu, thủ tục hải quan được thừa nhận là yếu tố quan trọng nhất đối với môi trường xuất khẩu. Đánh giá của các doanh nghiệp về thủ tục hải quan Việt Nam liên quan đến xuất khẩu thể hiện trong bảng 1 là không hài lòng và thậm chí rất không hài lòng với các thủ tục hải quan hiện nay. Nhóm biện pháp thứ ba được các doanh nghiệp quan tâm đến là vốn tín dụng từ các tổ chức tài chính – tín dụng Nhà nước và hệ thống bảo hiểm thương mại. Điều này khẳng định vai trò quan trọng của hệ thống ngân hàng trong việc thúc đẩy, mở rộng hoạt động xuất khẩu thông qua việc đáp ứng nhu cầu tín dụng cho các doanh nghiệp, đặc biệt là tín dụng ưu đãi cho các doanh nghiệp mới thành lập và các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ để khuyến khích tham gia sản xuất, kinh doanh mặt hàng xuất khẩu. Bên cạnh đó, cần có một hệ thống bảo hiểm thương mại đủ mạnh để hạn chế những rủi ro cho các doanh nghiệp trong hoạt động xuất khẩu. 1.3-Kinh nghiệm của các nước trong hỗ trợ xuất khẩu Rất nhiều nước trên thế giới có một nền kinh tế phát triển vững mạnh là nhờ Nhà nước đã có những chính sách hỗ trợ một cách hiệu quả cho hoạt động xuất khẩu. Do có nhiều điểm tương đồng do cùng ở khu vực Châu á nên nước ta có thể học tập những kinh nghiệm trong hỗ trợ xuất khẩu của các nước có nền kinh tế, đặc biệt là lĩnh vực xuất khẩu phát triển, trong đó điển hình là Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc. 1.3.1-Kinh nghiệm của Trung Quốc Là một nước có tốc độ phát triển kinh tế rất nhanh, đặc biệt là trong lĩnh vực xuất khẩu, Trung Quốc đang tiến nhanh trên con đường trở thành một cường quốc kinh tế trên thế giới. Để làm được điều đó, Chính Phủ Trung Quốc đã có rất nhiều các chính sách để hỗ trợ hoạt động xuất khẩu hàng hoá cho các doanh nghiệp trong nước. Cụ thể: Phát huy tác dụng của đòn bẩy thuế Cải cách thuế quan Để thúc đẩy hội nhập quốc tế, Chính phủ Trung Quốc đã nhiều lần hạ mức thuế quan cho phù hợp với mức chung của các nước đang phát triển. Tính đến tháng 9/1999, Trung Quốc đã 10 lần cắt giảm thuế quan với mức tổng cắt giảm trong 7 năm đạt tới 60% từ mức trung bình 43,2% năm 1992 giảm xuống 23% năm 1996 và đến 1/10/1997 lại giảm xuống còn 17%. Tháng 1/1999, Chính phủ Trung Quốc quyết định giảm thuế 1014 hạng mục hàng hoá nhập khẩu, làm mức thuế quan trung bình tiếp tục giảm từ 17% xuống còn 16,7% năm 2000. Trung Quốc tiếp tục giảm thuế, kéo mức thuế trung bình xuống còn 15%. Việc giảm thuế của Trung Quốc sẽ giúp cho Trung Quốc có thể sử dụng nhiều hơn các nguồn lực nước ngoài và phân bổ hiệu quả hơn nguồn lực trong nước, điều chỉnh cơ cấu thuế hợp lý và thích ứng với sự phát triển của thương mại thế giới. Bên cạnh đó, giảm thuế giúp tối ưu hoá cơ cấu hàng hoá xuất nhập khẩu và nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá Trung Quốc trên thị trường thế giới. Đồng thời, nó giúp khuyến khích các doanh nghiệp trong nước thay đổi cơ chế hoạt động tăng nhịp độ đổi mới kỹ thuật và điều chỉnh cơ cấu công nghiệp, nâng cao hiệu quả và mở rộng phạm vi kinh doanh. Chính sách hoàn thuế xuất khẩu Sau cải cách thuế, các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài thành lập sau ngày 1/1/1999 có trách nhiệm giống như các xí nghiệp trong nước về thuế VAT, thuế môn bài và thuế kinh doanh. Theo các quy định về thuế VAT, các doanh nghiệp này có thể yêu cầu được hoàn lại thuế đầu vào khi các sản phẩm của họ được trực tiếp xuất khẩu. Việc hoàn thuế cho các sản phẩm xuất khẩu là một thông lệ quốc tế, mức hoàn thuế phụ thuộc vào tỷ lệ do luật thuế quy định nhưng việc hoàn thuế đúng tỷ lệ quy định làm nảy sinh vấn đề, số hoàn thuế lớn hơn số thực thu, từ đó làm ảnh hưởng đến khả năng tài chính của cơ quan thuế và ngân sách. Trong hoàn cảnh như vậy, Hội đồng Nhà nước Trung Quốc đã đưa ra quy định từ ngày 1/7/1995, mức hoàn thuế với hàng xuất khẩu phải thấp hơn so với mức phải nộp để đảm bảo trả đúng bằng số thu, mức hoàn thuế có nhiều loại khác nhau sau khi điều chỉnh còn 3 loại. 3% với hàng nông sản, than và than củi; 10% với hàng công nghiệp sản xuất từ nông nghiệp và các hàng hóa khác có mức VAT là 13%, 14% với hàng hoá có mức thuế VAT là 17%. Sau khi Hội đồng Nhà nước xem xét và sửa đổi mức hoàn thuế từ ngày 1/1/1996, các mức hoàn thuế 10%, 14% được điều chỉnh xuống còn 6% và 9% trong khi mức hoàn thuế với hàng nông sản, than và than củi vẫn không thay đổi. Hiện nay, các xí nghiệp ngoại thương phải nộp thuế VAT trước khi hoàn thuế, xí nghiệp chế tạo trực tiếp tham gia xuất khẩu hay ủy quyền xuất khẩu, Trung Quốc thực hiện biện pháp gọi là “miễn thuế cho chịu rồi hoàn thuế” với mức hoàn thuế tính theo giá FOB. Phát huy đòn bẩy tài khoản cho vay Trong nền kinh tế thị trường, điều tiết bằng đồng vốn cũng là một biện pháp kinh tế thúc đẩy sự nghiệp mậu dịch đối ngoại phát triển. ở Trung Quốc, ngân hàng xuất nhập khẩu Nhà nước được coi là một cơ quan mang tính chất chính sách chịu trách nhiệm cho vay xuất khẩu, nhập khẩu mà ngân hàng thương nghiệp không thể làm được, chủ yếu nhằm giúp đỡ cho các tài khoản đối với việc xuất khẩu đồng vốn, hàng hóa và bảo hộ rủi ro theo thông lệ quốc tế bao gồm: Chuyển tài khoản và quản lý của tổ chức tiền tệ quốc tế và tài khoản của Chính phủ các nước. Cung ứng tài khoản dài hạn, cung ứng tài khoản lãi thấp, lãi trung và dài hạn, tài khoản hỗn hợp cho xí nghiệp trong nước. Cung ứng tài khoản xuất khẩu bao gồm tài khoản mậu dịch cho xí nghiệp, tài khoản bên mua cấp cho đơn vị có hàng nhập khẩu cung ứng tài khoản nhập khẩu theo quy định để mở rộng nhập khẩu với từng nước khác nhau. Có trách nhiệm bảo đảm cho các xí nghiệp ngoại thương mà ngân hàng đã mua quyền xuất khẩu để giảm bớt rủi ro cho các xí nghiệp, thúc đẩy chuyển vốn nhanh. Bảo đảm uy tín đồng vốn và bảo đảm tín dụng rủi ro cho các xí nghiệp sản xuất, nhập khẩu trong nước và xí nghiệp hợp tác kinh doanh kinh tế đối ngoại, tạo điều kiện thuận lợi cho xí nghiệp muốn vay tiền bên ngoài dự trù vốn chính xác hoặc thu vốn về an toàn. Phát huy tác dụng đòn bẩy tỷ giá Trước đây, Trung Quốc áp dụng chính sách tỷ giá cố định và đa tỷ giá nhưng không tuân theo hoàn toàn đúng nguyên tắc của chế độ tỷ giá cố định, những tỷ giá được ấn định khác nhau tuỳ theo từng quan hệ kinh tế đối ngoại và thoả thuận trong quan hệ hai bên hay nhiều bên. Cùng với quá trình cải tổ và chuyển đổi nền kinh tế, chế độ và chính sách tỷ giá hối đoái cũng được chuyển đổi cho phù hợp với những yêu cầu của nền kinh tế phát triển dựa trên cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước định hướng XHCN. Bước đầu tiên trong quá trình chuyển đổi chế độ và chính sách tỷ giá hối đoái ở Trung Quốc là giai đoạn để cho tỷ giá ấn định trước đây được thả nổi theo sát với những diễn biến của tỷ giá trên thị trường. Đây gần như là bước tất yếu để đưa yếu tố thị trường vào cơ chế xác định tỷ giá đối với hầu hết các nước tiến hành chuyển đổi cơ chế quản lý nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường có sự điều tiết và định hướng của Nhà nước. Trung Quốc đã tiến hành điều chỉnh liên tục tỷ giá hối đoái danh nghĩa, biến động theo hướng giảm giá trị của đồng nội tệ cho phù hợp với sức mua của đồng nhân dân tệ bị đánh giá quá cao trước đây. Chính sách thời kỳ này đã giúp Trung Quốc đẩy mạnh xuất khẩu, giảm thâm hụt cán cân thương mại, cán cân thanh toán, tăng dự trữ ngoại tệ, đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng. Sau khi tỷ giá được điều chỉnh phản ánh tương đối sát với biến động của thị trường và sức mua thực tế cuả đồng nhân dân tệ. Việc duy trì ổn định theo hướng cố định tương đối tỷ giá hối đoái trong điều kiện lạm phát tiếp tục gia tăng bắt đầu có tác động xấu đến mục tiêu tăng cường mở cửa và thúc đẩy xuất khẩu của nền kinh tế do đồng nhân dân tệ có khả năng trở lại tình trạng bị đánh giá quá cao so với sức mua thực tế. Chính phủ Trung Quốc đã quyết định chuyển hướng điều chỉnh chính sách tỷ giá hối đoái. Ngày 1/1/1994, đồng nhân dân tệ bị tuyên bố phá giá mạnh từ 5,8 NDT/USD xuống còn 8,7 NDT/USD, tương ứng với tỷ lệ phá giá 50% kết hợp với tỷ lệ đồng NDT bị đánh giá thấp 0,14% thời kỳ 1990 - 1993, tỷ giá phá giá thực tế là 50,14%, có thể thấy rõ đây chính là sự kết hợp giữa việc điều chỉnh và phá giá đồng NDT trong chính sách tỷ giá của chính phủ Trung Quốc. Để giảm bớt những tác động của chính sách tỷ giá lên thị trường tiền tệ, Trung Quốc đã ban hành một loạt chính sách hỗ trợ như: Thực hiện chế độ ngân hàng kết nối, xoá bỏ sự gìm giá và tăng giá ngoại hối của các công ty; Xây dựng thị trường giao dịch tiền tệ liên ngân hàng, cải tiến cơ chế hình thành tỷ giá hối đoái; Cải thiện và hoàn thiện quản lý thu chi, kết toán ngoại hối, xoá bỏ kế hoạch mang tính mệnh lệnh đối với thu chi ngoại hối, kết hợp với việc kiểm soát chặt chẽ của ngân hàng trung ương đối với các hoạt động ngoại hối ở các ngân hàng thương mại bằng cách quy định ngân hàng nào có toàn quyền hoạt động trong thị trường ngoại hối. Các ngân hàng này có toàn quyền hoạt động trong thị trường ngoại hối. Đối với công ty nước ngoài, Trung Quốc yêu cầu phải có bảng cân đối ngoại tệ hàng năm. Đối với các doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài phải có giấy phép đổi ngoại tệ mạnh sang nhân dân tệ. Còn đối với doanh nghiệp Nhà nước, Nhà nước yêu cầu phải nộp 100% ngoại tệ thu được thay vì 50% như trước kia. Điều chỉnh và phá giá mạnh đồng nhân dân tệ thời gian này của Chính phủ Trung Quốc không chỉ thu được những lợi ích trong ngắn hạn, nhanh chóng đẩy mạnh xuất khẩu, chiếm lĩnh thị trường quan trọng trên thị trường quốc tế mà còn tạo cơ sở để Trung Quốc có thể trở lại việc duy trì chính sách tỷ giá ổn định trong một thời gian dài, giảm thiểu những rủi ro hối đoái và tạo môi trường hấp dẫn thu hút mạnh các nguồn đầu tư nước ngoài và Trung Quốc. Sau một thời gian giảm bớt sức ép điều chỉnh và phá giá đồng nhân dân tệ, Chính phủ Trung Quốc đã thực hiện một sự phối hợp khá linh hoạt và mềm dẻo giữa chính sách tỷ giá và chính sách tiền tệ, tài chính. Chế độ thưởng xuất khẩu Trung Quốc quy định cứ thu được 1 USD lãi xuất khẩu thì doanh nghiệp có hàng xuất khẩu được trích giữ lại 0,2NDT. Số tiền thưởng bằng NDT được trích theo tỷ lệ 70% dùng vào phát triển sản xuất, khai thác nghiệp vụ. Còn 30% được chi dùng cho phúc lợi và chi tiền thưởng cho công nhân viên chức. Cơ chế bảo hiểm tín dụng xuất khẩu Từ đầu những năm 90, Chính phủ Trung Quốc đã cấp phát 100 triệu NDT để hỗ trợ cho công ty bảo hiểm nhân dân nhằm mở rộng nghiệp vụ bảo hiểm tín dụng xuất khẩu trung và dài hạn. Năm 1994, ngân hàng xuất nhập khẩu được thành lập. Cuối những năm 1990, để hỗ trợ cho sự phát triển nghiệp vụ bảo hiểm tín dụng xuất khẩu, chống rủi ro, Trung Quốc đã miễn thuế doanh thu đối với phần thu nhập từ phí bảo hiểm loại này. Ngoài ra, Trung Quốc còn cho phép ngân hàng xuất nhập khẩu phát hành trái phiếu trong và ngoài nước để hỗ trợ cho hoạt động xuất nhập khẩu. Ngân hàng còn phát hành thương phiếu và tín phiếu theo tỷ giá nổi của Châu Âu để hỗ trợ các nhà xuất khẩu Trung Quốc. Lợi nhuận thu được của tín phiếu sẽ được sử dụng để hỗ trợ xuất khẩu các mặt hàng như điện tử, máy móc và sản phẩm công nghệ cao khác. 1.3.2-Kinh nghiệm của Nhật Bản Là một trong những cường quốc kinh tế, Nhật Bản luôn được thế giới nhắc đến với “sự thần kỳ” của mình. Để có được vị trí cao như ngày hôm nay, Chính phủ Nhật Bản đã có những chính sách hỗ trợ rất hiệu quả cho hoạt động xuất khẩu của nước mình. Chính sách khoa học công nghệ Với yêu cầu xây dựng Nhật Bản thành một “xã hội thông tin” trong tương lai, Chính phủ Nhật Bản đã thực hiện phát triển khoa học công nghệ một cách rất hiệu quả. Chính sách này được thực thi theo các khía cạnh sau: Hỗ trợ cho các hoạt động nghiên cứu và triển khai: Thực hiện các chính sách thuế ưu đãi. Sự ưu đãi này hướng tới hai loại hình hoạt động, đó là khuyến khích các hoạt động đầu tư cho nghiên cứu và triển khai; và khuyến khích nhập khẩu các phát minh sách chế từ nước ngoài. Đồng thời, Nhà nước còn trợ cấp trực tiếp cho các dự án, chương trình nghiên cứu. Tài trợ và khuyến khích hoạt động nghiên cứu tại các Viện nghiên cứu quốc gia và công cộng: Bên cạnh việc cấp ngân sách và tài trợ cho các dự án nghiên cứu, Chính phủ Nhật Bản còn hỗ trợ cho các cơ sở nghiên cứu khoa học cải tạo và nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị nghiên cứu phù hợp với nhu cầu nghiên cứu khoa học của các cơ sở này. Chính sách tín dụng Trong chính sách tín dụng, công cụ lãi suất được áp dụng triệt để với mục tiêu kích thích các doanh nghiệp tăng cường đầu tư, mở rộng sản xuất nhằm phục hồi mức tăng trưởng kinh tế và chống lại tình trạng lạm phát. Tháng 2/1999, ngân hàng Trung ương Nhật Bản đã thực hiện chính sách lãi suất bằng 0. Chính sách lãi suất bằng 0, ngoài mục tiêu kích thích các doanh nghiệp tăng cường đầu tư, còn nhằm giảm đi số tiền lãi cần phải trả khi nợ của Chính phủ và nợ của các công ty đã tính ra tói mức phá vỡ nền kinh tế Nhật Bản. Chính sách ngoại hối Trong quá trình cải cách hệ thống tài chính tiền tệ từ năm 1997, Nhật Bản đã sửa đổi Luật quản lý ngoại hối. Theo Luật mới, các tổ chức và cá nhân được phép sử dụng ngoại tệ một cách tự do; cho phép người Nhật tự do chuyển tiền ra nước ngoài; các nhà xuất khẩu Nhật Bản được phép quyết toán bằng ngoại tệ, tự do trao đổi ngoại tệ tại các máy đổi tiền. Bên cạnh đó, Chính phủ Nhật Bản còn có chính sách phá giá đồng Yên, mục tiêu là để đảm bảo điều kiện thuận lợi cho tăng xuất khẩu. 1.3.3-Kinh nghiệm của Hàn Quốc Bên cạnh Trung Quốc và Nhật Bản, Hàn Quốc cũng là một nước có nền kinh tế khá phát triển. Những biện pháp hỗ trợ của Chính phủ Hàn Quốc đối với hoạt động xuất khẩu của nước mình là: Chính sách ngoại hối Để đẩy mạnh xuất khẩu, Chính phủ đã tiến hành phá giá gần 100% đối với đồng nội tệ năm 1964 và bắt đầu áp dụng hệ thống tỷ giá hối đoái thả nổi. Trong giai đoạn 1976 – 1985, tỷ giá hối đoái của Hàn quốc được coi là thấp nhất trong số các nước đang phát triển, điều này góp phần đưa giá cả hàng hoá của Hàn Quốc sát với giá cả hàng hóa của thế giới, duy trì sự cạnh tranh cho hàng xuất khẩu. Chính sách trợ cấp xuất khẩu Chính phủ Hàn Quốc đã thực hiện hỗ trợ về tài chính bằng cách ưu tiên cho các công ty và xí nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu được vay vốn với lãi suất thấp và miễn hoặc giảm thuế cho các khoản thu nhập từ xuất khẩu. Thực chất đây chính là hình thức trợ cấp xuất khẩu một cách gián tiếp. Hình thức trợ cấp xuất khẩu cũng rất phong phú như việc thiết lập các tổ chức các tổ chức tài chính tín dụng cung cấp vốn cho các doanh nghiệp, miễn thuế công ty cho các doanh nghiệp trong 4 năm đầu hoạt động từ 50 – 100%, 2 năm tiếp là 20 – 30%. Các hình thức tín dụng lãi suất với lãi suất thấp cũng được áp dụng. Trong giai đoạn 1961 – 1965, trong khi lãi suất cho vay chung là 18,2%, lạm phát 8,9% thì lãi suất cho vay xuất khẩu là 9,3%. Kể từ năm 1982, trợ cấp lãi suất được xoá bỏ, tuy nhiên so với lãi suất cho vay chung, lãi suất cho vay xuất khẩu vẫn thấp hơn từ 1 – 2,5%. Chính sách thuế quan Biện pháp tài chính được sử dụng lâu dài hơn cả là chính sách giảm hoặc miễn thuế xuất khẩu. Theo biện pháp này, khi các xí nghiệp Hàn Quốc nhận được đơn đặt hàng của nước ngoài, họ sẽ được nhập khẩu nguyên liệu không bị đánh thuế nếu toàn bộ số hàng sản xuất sau đó sẽ được xuất khẩu, hơn nữa họ còn được giảm hoặc miễn các khoản thuế thu nhập từ xuất khẩu hoặc các khoản thu nhập gia tăng do xuất khẩu. Chính sách đầu tư Chính phủ Hàn Quốc đã ban hành các đạo luật cho phép có thể vay vốn nước ngoài. Luật thúc đẩy nhập khẩu vốn nước ngoài của Hàn Quốc được ban hành vào năm 1960 và sửa đổi vào các năm 1962 và 1966 với mục tiêu ưu tiên cho các xí nghiệp xuất khẩu được quyền trực tiếp vay vốn nước ngoài. Điều này tạo cho các công ty sự chủ động hơn trong việc sản xuất kinh doanh và chính vì thế hoạt động xuất khẩu của họ đã được đẩy mạnh. Chương II Thực trạng của các chính sách hỗ trợ xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ hiện nay 2.1-Sơ lược về địa điểm thực tập – Tổng công ty Dệt May Việt Nam Ngành dệt may là ngành truyền thống lâu đời ở Việt Nam, từ xa xưa, người Việt cổ đã sớm biết trồng dâu nuôi tằm và dệt lụa, nghề trồng bông dệt vải từ thế kỷ thứ IV-V đã khá phát triển. Ngành dệt may xuất khẩu của Việt Nam khá phát triển, dệt may được xếp vào nhóm các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi thì ngành dệt may Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn. Với mục đích tăng cường tích tụ, tập trung, phân công chuyên môn hóa và kinh doanh của các doanh nghiệp dệt may; đáp ứng nhu cầu của thị trường, ngày 19/4/1995, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định thành lập Tổng công ty dệt may Việt Nam (VINATEX). Việc hình thành Tổng công ty Dệt May Việt Nam được dựa trên cơ sở tổ chức và sắp xếp lại các đơn vị sản xuất, lưu thông, sự nghiệp về Dệt và May thuộc Bộ Công nghiệp nhẹ (nay là Bộ Công nghiệp) và các địa phương; đồng thời bộ máy quản lý và điều hành của Cơ quan văn phòng Tổng công ty được tổ chức sắp xếp trên cơ sở hợp nhất Tổng công ty Dệt và Liên hiệp các xí nghiệp May Việt Nam nhằm tạo sức mạnh tổng hợp, tạo được thế và lực để sản xuất và kinh doanh hàng dệt may Việt Nam. VINATEX vừa là nhà sản xuất, nhà xuất khẩu, nhập khẩu, vừa là nhà phân phối (bán buôn, bán lẻ) các sản phẩm dệt may. Tổng công ty có Hội đồng quản trị, đứng đầu là Chủ tịch Hội đồng quản trị và cơ quan điều hành đứng đầu là Tổng Giám đốc. Danh sách các đơn vị thành viên đến nay gồm: 1-Khối cơ quan văn phòng Tổng công ty: 04 Ban chức năng 06 Trung tâm làm chức năng dịch vụ, hỗ trợ kinh doanh 01 Tạp chí dệt may 2- Khối doanh nghiệp 40 doanh nghiệp thành viên hạch toán độc lập trong đó: + 21 doanh nghiệp Dệt + 12 doanh nghiệp May + 04 doanh nghiệp cơ khí dệt may + 03 doanh nghiệp khác là: Bông, tài chính... 05 doanh nghiệp thành viên hạch toán phụ thuộc 06 đơn vị sự nghiệp, y tế, giáo dục, nghiên cứu Là sự kết hợp của tất cả các hãng sản xuất dệt may do Nhà nước quản lý, Tổng công ty Dệt May Việt Nam đóng một vai trò rất quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của ngành dệt may nước ta. Tổng công ty Dệt May vừa là nhà sản xuất, vừa là nhà xuất khẩu, nhà nhập khẩu, vừa là nhà phân phối các sản phẩm dệt may. Bên cạnh đó, VINATEX – thành phần then chốt của Hiệp hội Dệt May Việt Nam – giúp Chính phủ trong việc định hướng và phát triển khu vực dệt may địa phương. Để làm được điều đó, nhiệm vụ đặt ra đối với Tổng công ty Dệt May Việt Nam là: Thực hiện nhiệm vụ kinh doanh hàng dệt và hàng may mặc theo quy hoạch và kế hoạch phát triển ngành dệt và ngành may của Nhà nước và theo yêu cầu của thị trường, bao gồm: xây dựng kế hoạch phát triển, đầu tư, tạo nguồn vốn đầu tư, sản xuất tiêu thụ sản phẩm, cung ứng nguyên vật liệu, xuất nhập khẩu phụ liệu, thiết bị phụ tùng; liên doanh liên kết với các tổ chức kinh tế trong nước và ngoài nước phù hợp với pháp luật và chính sách của Nhà nước. Nhận và sử dụng có hiệu quả, bảo toàn và phát triển vốn do Nhà nước giao, gồm cả phần vốn đầu tư vào doanh nghiệp khác, nhận và sử dụng có hiệu quả tài nguyên, đất đai và các nguồn lực khác do Nhà nước giao để thực hiện nhiệm vụ kinh doanh và những nhiệm vụ khác được giao. Tổ chức, quản lý công tác nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ và công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và công nhân trong Tổng công ty. Trong những năm vừa qua, ngành dệt may nước ta đã có những bước phát triển khá mạnh mẽ, trở thành một trong những ngành kinh tế quan trọng của nước ta trong giai đoạn hiện nay. Trong quá trình phát triển đó, Tổng công ty dệt may Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, góp phần khá quan trọng vào sự phát triển của ngành dệt may và của nền kinh tế đất nước. Từ năm 1995 đến nay, kim ngạch xuất khẩu của Tổng công ty đạt mức tăng trưởng khá cao, chiếm một tỷ trọng khá lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành, góp phần không nhỏ đưa kim ngạch xuất khẩu dệt may của nước ta lên đứng thứ hai, chỉ sau ngành dầu thô. Với vai trò quan trọng như vậy, Tổng công ty Dệt May Việt Nam có một ý nghĩa đặc biệt trong sự phát triển của ngành dệt may nước ta. 2.2-Tình hình xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ trong thời gian qua 2.2.1-Đặc điểm của thị trường Mỹ có ảnh hưởng tới xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam 2.2.1.1-Đặc điểm của thị trường hàng dệt may Mỹ a/ Đặc trưng của thị trường hàng dệt may Mỹ Khả năng sản xuất Dệt may là ngành công nghiệp đứng thứ mười trong các ngành công nghiệp tại Hoa Kỳ. Tuy nhiên, hơn hai thập kỷ qua, do những thành tựu của khoa học công nghệ đã góp phần giải phóng sức lao động nên số lượng lao động trong ngành này giảm nhanh chóng. Hoạt động trong ngành dệt Hoa Kỳ tiếp tục giảm trong những năm gần đây và việc giao hàng của các nhà máy dệt giảm sút liên tục bởi sự cạnh tranh ồ ạt bằng giá của hàng nhập khẩu từ Châu á. Ngành công nghiệp dệt may Hoa Kỳ không còn phát huy được lợi thế so sánh như trước kia bởi chi phí sản xuất cao, chi phí nhân công tốn kém. Do đó, năng lực sản xuất của ngành dệt may Hoa Kỳ đang thu hẹp dần trong những năm gần đây. Khả năng xuất khẩu Mặc dù luôn đứng đầu thế giới về nhập khẩu hàng dệt may nhưng Hoa Kỳ chỉ xuất khẩu hàng dệt may với số lượng khiêm tốn. Trong vòng một thập kỷ gần đây, Mỹ luôn ở trong tình trạng thâm hụt cán cân buôn bán hàng dệt may với hầu hết các bạn hàng, trừ với Nhật và Canada. Những thị trường xuất khẩu chính của Mỹ là các nước vùng Caribê, Mêhicô, Canada, Nhật Bản... 50% hàng dệt may xuất khẩu sang Canada, EU, Nhật Bản, xuất khẩu bán thành phẩm sang các nước vùng Caribê cũng tăng nhanh. Các nước này nhập khẩu bán thành phẩm, sản xuất thành phẩm và xuất khẩu trở lại Mỹ. Năng lực xuất khẩu hàng dệt may của Hoa Kỳ đang ngày càng có xu hướng suy giảm. Có thể nói, do Hoa Kỳ không còn khả năng phát huy một cách hiệu quả nhất các lợi thế của ngành dệt may nên việc chuyển hướng tập trung sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng có hàm lượng công nghệ cao như điện tử, viễn thông...sẽ là một trong những xu hướng của Hoa Kỳ trong những năm tới. Xu hướng thay đổi trong ngành dệt may Hoa Kỳ Sự thay đổi xu hướng tiêu dùng hàng may mặc cùng với sự cạnh tranh trong ngành dệt may đã làm thay đổi cấu trúc của ngành kinh doanh này. Việc tái cơ cấu ngành tập trung vào hai hướng: sáp nhập và tổ chức lại các công ty bằng cách tìm nguồn cung ứng từ nước ngoài, tập trung vào việc cải tiến thiết kế sản phẩm và hoạt động marketing. Rất nhiều các công ty sản xuất quần áo và sản phẩm dệt sợi sau khi tổ chức lại đã chuyển từ công ty sản xuất sang công ty tiếp thị tiêu dùng. Những công ty này đã chuyển một phần sản xuất của họ ra nước ngoài hoặc tìm kiếm các nhà thầu nước ngoài, đặc biệt là Mêhicô và các nước CBI (Caribbean Basin Initiative). Điều này cho phép họ có thể cung cấp sản phẩm với giá cạnh tranh và có khả năng phản ứng nhanh với những thay đổi trong nhu cầu tiêu dùng. Các công ty bán lẻ trở thành các công ty sản xuất quần áo và các công ty sản xuất quần áo trở thành các công ty bán lẻ là một xu hướng phổ biến trong những năm gần đây. Xu hướng này đã tạo điều kiện nâng cao hiệu quả sản xuất và giảm bớt trung gian. Các công ty sản xuất và công ty bán lẻ hội nhập với nhau sẽ giúp họ kiểm soát toàn bộ quá trình, bao gồm các yếu tố chất lượng, thời gian và khả năng đáp ứng nhanh chóng sự thay đổi nhu cầu. Sự quan tâm đến những loại quần áo có gắn thương hiệu của đối tượng thanh thiếu niên Mỹ là một tín hiệu tốt đối với các công ty tiếp thị thương hiệu. Ngoài các thương hiệu do các công ty sản xuất quần áo đã tạo dựng từ trước, những thương hiệu riêng của các công ty bán lẻ độc quyền đã trở nên ngày càng quen thuộc và tạo được sự tín nhiệm với khách hàng nhờ sự hỗ trợ của những hoạt động Marketing và thủ pháp định giá cạnh tranh. Người tiêu dùng ngày càng quen với các thương hiệu mang tính quốc gia với sự ổn định về chất lượng, và điều này đã tạo sự phát triển nhanh chóng của các thương hiệu riêng. Xu hướng này có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng cạnh tranh của hàng nhập khẩu, đặc biệt là hàng của các nhà cung cấp nước ngoài mới tham gia vào thị trường này. Các nhà cung cấp này muốn tiêu thụ được hàng của mình thì phải bỏ ra một chi phí rất lớn để trực tiếp hoặc thông qua các công ty tiếp thị tạo dựng một thương hiệu riêng được người tiêu dùng chấp thuận, nếu không họ phải chấp nhận để sản phẩm của mình gắn những thương hiệu đã có uy tín trên thị trường và tất nhiên nhà sản xuất cũng phải trả phí thuê thương hiệu cũng như đáp ứng một số điều kiện về chất lượng và giá của người cho thuê nhằm bảo đảm uy tín của họ. Sự thay đổi công nghệ đã giúp cho các nhà sản xuất quần áo nâng cao các chương trình phản ứng nhanh. Khả năng phản ứng nhanh là yếu tố vô cùng quan trọng để cạnh tranh trong điều kiện thị trường thay đổi nhanh chóng hiện nay. Điểm quan trọng của các chương trình này là phát triển sản phẩm kịp thời và đáp ứng nhanh nhu cầu thị trường. Chương trình này gắn chặt việc thiết kế, dự trữ, các nhà cung ứng, bộ phận cắt, may, và hệ thống phân phối với nhau để giảm thiểu sự không hiệu quả, giảm dự trữ và sự trì trệ trong quá trình phản ứng với nhu cầu thị trường. Chương trình này được bắt đầu bằng các dữ liệu bán hàng từ máy tính tiền, sau đó tự động chuyển thành những thông tin cần thiết để cung cấp hàng hoá một cách hợp lý và nhanh chóng. Tuy nhiên, sự hợp nhất các nhà bán lẻ đã ảnh hưởng lớn đến các nhà sản xuất quần áo, làm chuyển dịch vai trò khống chế ngành. Vai trò này đã chuyển từ những nhà sản xuất lớn sang các nhà bán lẻ lớn hơn và có khả năng chi phối mạnh hơn. Khoảng hai phần ba lượng hàng quần áo hiện nay được bán qua 12 tập đoàn bán lẻ chính dưới các hình thức: cửa hàng bách hoá, cửa hàng liên chuỗi, cửa hàng đặc biệt và các cửa hàng bán hạ giá. Trong khi đó, số lượng các mạng lưới bán lẻ mạnh của các nhà sản xuất và cung cấp nước ngoài còn hạn chế, vì vậy họ buộc phải chấp nhận áp lực của các tập đoàn bán lẻ trên thị trường dệt may Hoa Kỳ là phải giảm giá. Nhiều công ty bán lẻ đã giảm số lượng mặt hàng và số lượng các nhà cung cấp để giảm chi phí. Việc này dẫn đến sự cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các nhà sản xuất trong nước và các nhà cung cấp nước ngoài. Những thay đổi trong ngành sản xuất dệt may của Mỹ vừa tạo ra những thuận lợi nhưng cũng gây khó khăn cho các công ty nước ngoài muốn bán sản phẩm vào thị trường Mỹ. Những khu vực có chi phí nhân công thấp sẽ có cơ hội hợp tác với các công ty sản xuất và bán lẻ của Mỹ để gia công hoặc bán hàng. Những công ty thiết lập được quan hệ bạn hàng tốt với các công ty này của Mỹ thì sẽ có thuận lợi rất lớn do có sự hỗ trợ thông tin liên quan đến thị trường. Tuy nhiên, những công ty này sẽ phải phụ thuộc nhiều hơn vào các công ty của Mỹ trong việc phân phối sản phẩm của họ trên thị trường Mỹ. b/ Hệ thống tiêu thụ sản phẩm dệt may ở Mỹ Các công ty, cửa hàng bán lẻ là cầu nối quan trọng giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng ở Mỹ. Kỹ nghệ bán lẻ hàng may mặc và dụng cụ gia đình ở Mỹ là ngành kỹ nghệ rất mạnh về tài chính lẫn quy mô tổ chức. Một cách tổng quát có thể chia các công ty kinh doanh bán lẻ hàng may mặc Mỹ thành 7 nhóm theo thứ tự giá cả mặt hàng như sau: Công ty chuyên doanh (Speciality Store) Mô hình hoạt động của những công ty này là hệ thống các cửa hàng chuyên về một nhóm sản phẩm có chất lượng cao, nhãn hiệu nổi tiếng và giá bán rất cao. Công ty siêu thị (Department Store) Mô hình công ty này hoạt động với hệ thống bán lẻ tổng hợp hàng tiêu dùng, trong đó chủ yếu là quần áo và dụng cụ gia đình. Công ty bán lẻ quốc gia (Chain Store or National Account) Mô hình công ty này hoạt động thành các cửa hàng chuyên bán quần áo, giầy dép, đồ trang sức... được tổ chức thành mạng lưới rộng khắp trên toàn quốc. Công ty siêu thị bình dân (Discount Store) Mô hình công ty này được tổ chức tương tự công ty siêu thị nhưng quy mô rất lớn và doanh số bán hàng rất cao vì phục vụ cho mọi tầng lớp dân chúng. Công ty bán hàng giảm giá (off-price Store) Mô hình công ty này gần giống với công ty siêu thị bình dân nhưng giá cả rẻ hơn. Công ty bán hàng qua bưu điện, TV, catalog (Mail order Store) Đây là loại hình công ty chuyên tổ chức giới thiệu sản phẩm qua catalog, quảng cáo tờ rơi, TV... nhận đơn đặt hàng và giao nhận hàng hoá tận nhà qua bưu điện, điện thoại... Hệ thống hoạt động bán hàng của các công ty này có xu hướng ngày càng phát triển lớn mạnh. Cửa hàng bán lẻ (Retail Shop) Cửa hàng bán lẻ bao gồm các loại hình tổ chức khác nhau như: cửa hàng dịch vụ thể thao, thực phẩm, dược phẩm, tặng phẩm, du lịch... Một điểm đặc biệt lưu ý là hệ thống các cửa hàng và sạp bán lẻ của người Trung Quốc, ấn Độ, Mêhicô và cả người Mỹ thường bán với mức giá rất rẻ (thường chỉ bằng 15-20% so với giá cả ở các siêu thị) với các đặc điểm là hàng không có nhãn hiệu nổi tiếng và được nhập thẳng từ các nguồn giá rẻ từ các nước Châu á, Nam Mỹ ở dạng không có bao bì. Để tiếp cận được với thị trường Mỹ, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam không thể bỏ qua khâu tìm hiểu các đối tác kinh doanh Mỹ. Việc tìm hiểu các công ty siêu thị kinh doanh sản phẩm may mặc hàng đầu ở Mỹ sẽ rất hữu ích cho các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may. Có thể nói rằng, hệ thống tiêu thụ sản phẩm may mặc trên thị trường Mỹ rất đa dạng và phong phú. Hiện nay có một phương thức bán hàng mới đang chiếm ưu thế - đó là bán hàng trên Internet. Phương thức này không đòi hỏi công ty phải có cửa hàng, siêu thị mà chỉ cần có một kho chứa hàng và một Website. Khách hàng muốn mua sản phẩm, chỉ việc vào Website rồi gọi đến công ty, sẽ có nhân viên đem hàng đến giao tận nhà. Các doanh nghiệp dệt may Việt Nam phải có thời gian dài mới có thể tham gia vào cách bán hàng kiểu mới này, nhưng ngay bây giờ, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam phải nhận thức được ưu thế của phương thức kinh doanh hiện đại để chuẩn bị đầy đủ, sẵn sàng hoà nhập với cách bán hàng hiện đại này. c/ Khả năng tiêu thụ của thị trường dệt may Mỹ Dung lượng thị trường Đối với ngành dệt may, những tiêu chuẩn của một thị trường lý tưởng là dân số đông, thu nhập quốc dân cao, xu hướng thời trang phát triển mạnh. Có thể nói, thị trường Hoa Kỳ hội tụ khá đầy đủ các lợi thế này. Với dân số khoảng 279 triệu người, tỷ lệ dân sống ở thành thị cao (trên 75%), thu nhập quốc dân tính trên đầu người trên 30.000 USD/người/năm, Hoa Kỳ trở thành một trong những quốc gia nhập khẩu hàng dệt may lớn nhất thế giới. Nền kinh tế Hoa Kỳ tăng trưởng ổn định trong thập niên 90 càng làm tăng niềm tin của người tiêu dùng, đồng thời duy trì tiêu dùng ở mức độ cao. Mức tiêu thụ hàng dệt may ở Hoa Kỳ trong giai đoạn vừa qua luôn luôn tăng, năm sau luôn cao hơn năm trước từ 10 – 15%. Người Hoa Kỳ dành khá nhiều thời gian cho việc mua sắm quần áo. Trung bình 1 năm, mỗi người dân Hoa Kỳ sẽ đi mua quần áo khoảng 22 lần. So sánh với Đông Âu – 14 lần, Châu á - 13 lần, Mêhicô - 10 lần và Châu Mỹ la tinh – 8 lần mới thấy hết nhu cầu về may mặc ở Hoa Kỳ đang dẫn đầu thế giới. Tổng chi phí dành cho việc mua sắm quần áo của người Hoa Kỳ trong một năm khoảng 1,044 tỷ USD, đứng thứ tư trên thế giới, sau Đức, Hồng Kông, Anh. Đây được coi là tín hiệu tốt đối với các nước xuất khẩu hàng dệt may vào Mỹ. Hơn nữa, Hoa Kỳ còn là một quốc gia đa chủng tộc với nhiều màu da khác nhau, nhiều phong tục và lối sống đa dạng. Điều này càng khiến thị trường Hoa Kỳ trở thành một trung tâm tiêu thụ lớn nhất trên thế giới. Đặc điểm tiêu dùng hàng dệt may trên thị trường Mỹ Mức chi tiêu, đặc điểm nhân khẩu học, sự thay đổi thói quen làm việc, gia tăng nhập khẩu là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến xu hướng tiêu dùng hàng may mặc trên thị trường Mỹ. Mức chi tiêu: Nền kinh tế Mỹ tăng trưởng ổn định trong thập kỷ 90 đã duy trì tiêu dùng ở mức cao. Tuy trong thời gian gần đây, nền kinh tế Mỹ có những dấu hiệu suy giảm, nhưng mức chi tiêu nói chung và mức chi tiêu cho hàng may mặc nói riêng của người dân Mỹ vẫn ở mức cao. Đây chính là tín hiệu tốt đối với các nước xuất khẩu hàng dệt may. Đặc điểm nhân khẩu học: Thanh thiếu niên Mỹ ngày nay – thế hệ con cái của những người sinh ra trong thời kỳ bùng nổ dân số 1946 – 1964 đang nhanh chóng trở thành những người tiêu dùng. Trong 10 năm tới, dự đoán số lượng thanh thiếu niên sẽ tăng nhanh hơn tốc độ tăng dân số. Lứa tuổi thanh thiếu niên ngày nay có thu nhập cao hơn và chi tiêu nhiều hơn trước đây, tỷ lệ dành cho mua sắm quần áo cũng rất lớn. Lứa tuổi này rất chú trọng đến những loại quần áo hợp thời trang và “đồ hiệu”. Đồng thời, họ cũng nhanh chóng thích ứng với hoạt động xúc tiến thương mại trên Internet, tạo ra những cơ hội cho các công ty bán hàng qua Internet. Lứa tuổi từ 45 trở lên chiếm 34% tổng dân số, dự đoán sẽ tăng lên 38% vào năm 2005 và 41% vào năm 2010. Những người thuộc lứa tuổi này có xu hướng dành tỷ lệ chi tiêu lớn hơn cho mua nhà, chi phí học đại học của con cái và các khoản tiết kiệm. Sự cắt giảm chi tiêu cho quần áo buộc họ phải tìm kiếm những sản phẩm vừa đáp ứng được những giá trị mà họ mong muốn vừa phù hợp với khoản tiền dự định chi tiêu. Mặc dù vậy, họ vẫn là nhóm người chiếm một tỷ lệ rất lớn trong tổng mức tiêu thụ quần áo. Sự gia tăng số lượng người ở lứa tuổi 65 trở lên cũng là một dấu hiệu tốt cho nhà sản xuất hàng may mặc. Nhóm người này ít quan tâm đến thời trang và chú ý nhiều hơn đến sự thoải mái và tiện dụng, phù hợp với lối sống và hoạt động của họ. Thay đổi thói quen làm việc: Một xu hướng đang làm thay đổi nhu cầu về hàng dệt may là người tiêu dùng ít đến cửa hàng hơn trước vì công việc bận rộn và họ thích dành thời gian nghỉ ngơi, ở nhà với gia đình hoặc bạn bè. Xu hướng này sẽ tạo cơ hội cho các nhà sản xuất mặt hàng trang trí nội thất như rèm, thảm... song đó lại là điều bất lợi cho các nhà sản xuất quần áo. Đồng thời, nó cũng khiến cho việc mua quần áo mới không còn quan trọng đối với một số người và làm tăng thị phần của các loại quần áo và hàng trang trí bán qua thư và Internet. Một yếu tố nữa phải kể đến là sự thay đổi các quy định trong công sở và thói quen làm việc. Ngày càng có nhiều công ty chấp nhận cho nhân viên mặc quần áo tự do thay vì đồng phục. Cùng với sự gia tăng số lượng người làm việc tại nhà cũng tạo ra sự thay đổi trong ngành sản xuất quần áo. Xu hướng mặc quần áo theo phong cách tự do đã làm tăng nhu cầu đối với quần áo thường, sơ mi ngắn tay mặc thường, áo thun. Xu hướng này dự báo là sẽ còn tiếp tục phát triển trong những năm tới. Gia tăng sản phẩm nhập khẩu: Giá cả và chất lượng là những yếu tố quyết định khi mua quần áo và điều này dẫn đến sức ép về giá đối với ngành dệt may của Mỹ. Giá bán buôn quần áo chỉ tăng 20% trong suốt giai đoạn 1996 – 2001, trong khi đó, giá bán lẻ hạ 3%. Đặc biệt là giá bán lẻ quần áo dành cho nữ giảm rất mạnh. Kết quả làm hàng dệt may nhập khẩu từ các nước có chi phí nhân công thấp tăng lên và làm dịch chuyển sản xuất của các công ty Mỹ ra nước ngoài. Người tiêu dùng có xu hướng mua sắm hàng dệt may nhập khẩu có giá thấp và độ tiện dụng cao. Dự báo tiêu dùng hàng dệt may trên thị trường Mỹ Thói quen tiêu dùng: Cũng như các sản phẩm khác, mặt hàng dệt may bao gồm hai thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị. Vì vậy, chất lượng và giá cả trở thành những vấn đề quan trọng đối với người tiêu dùng khi họ quyết định mua hàng. Ngày nay, trong xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế, sản phẩm chỉ có thể khẳng định vị trí và năng lực cạnh tranh của mình bằng chính chất lượng. Người tiêu dùng sẽ bị thuyết phục không chỉ bởi tên tuổi của các nhà sản xuất nổi tiếng, quan trọng hơn là giá trị và hiệu quả kinh tế do sản phẩm đem lại. Những đặc tính cơ bản ảnh hưởng đến chất lượng hàng dệt may bao gồm: sự vừa vặn về kích cỡ, độ bền, sự tiện lợi khi sử dụng, kiểu dáng và nhãn mác. Người dân Hoa Kỳ rất thực tế, họ luôn cân nhắc và tính toán sao cho công việc mình làm đem lại hiệu quả cao nhất. Nói riêng về thị trường dệt may, cho dù người tiêu dùng Hoa Kỳ coi trọng vấn đề nhãn mác, giới trẻ đặc biệt sính dùng “đồ hiệu”, song họ vẫn không đi chệch khỏi quỹ đạo điều chỉnh của hai chữ “kinh tế”. Chúng ta hiểu rằng, người tiêu dùng mong muốn được thoả mãn nhiều nhất với một khoản chi phí thấp nhất. Đó là tâm lý chung của tất cả khách hàng. Song nếu làm một phép so sánh, ta sẽ thấy mức độ coi trọng vấn đề giá cả của khách hàng Hoa Kỳ khá cao. ở Colombia - đất nước Nam Mỹ có mức sống còn thua xa Hoa Kỳ, 84% người tiêu dùng sẵn sàng trả một khoản tiền cao hơn để mua được một sản phẩm may mặc có chất lượng tuyệt hảo hơn. ở Italia, tỷ lệ này là 76%, ở Pháp và Đức cũng khoảng 75%. Trong khi đó, tại thị trường Hoa Kỳ, nơi có trình độ phát triển kinh tế và mức thu nhập bình quân đầu người cao hơn hẳn, chỉ 60% người tiêu dùng sẵn sàng làm như vậy. Song điều đó không đồng nghĩa với việc người tiêu dùng Hoa Kỳ thích dùng hàng loại hai với giá rẻ hơn một chút và xem nhẹ vấn đề chất lượng. Theo thói quen mua hàng truyền thống, người tiêu dùng thường đánh giá chất lượng sản phẩm thông qua thương hiệu, nhãn mác sản phẩm. Đây là điểm khác biệt cơ bản về thói quen tiêu dùng của các nước phát triển và các nước các nước đang phát triển. Thương hiệu nổi tiếng cũng mang ý nghĩa quan trọng để tạo nên sức hấp dẫn của sản phẩm, song ngày nay, người tiêu dùng Hoa Kỳ không quá coi trọng vấn đề này nữa. Chỉ 32% khách hàng luôn chú ý vào nhãn mác sản phẩm trước khi họ quyết định mua hàng. Trong khi đó, ở các thị trường khó tính như EU và Nhật Bản, vấn đề thương hiệu hàng hoá luôn được đặt lên hàng đầu, 69% người tiêu dùng Italia sẽ chú ý ngay tới nhãn mác, ở Nhật Bản – 67% và ở Đức – 62%. Người tiêu dùng Hoa Kỳ quan tâm tới chất lượng nhiều hơn, 60% người tiêu dùng tìm hiểu kỹ chất lượng sợi trước khi quyết định mua hàng. Chỉ 17% khách hàng thừa nhận họ tôn sùng và sử dụng những sản phẩm may mặc của một hãng sản xuất duy nhất mà họ cho là nổi tiếng thế giới, tất nhiên tỷ lệ này rơi vào các ngôi sao điện ảnh, giới người mẫu hoặc những người nổi tiếng khác. Tuy vậy, xu hướng lựa chọn này cũng khá phức tạp tuỳ theo cơ cấu tuổi và cơ cấu giới tính của khách hàng. Từ độ tuổi 15 – 24, giới trẻ sùng bái nhãn hiệu nổi tiếng hơn và họ sẽ quyết định mua sản phẩm của các hãng có tên tuổi trên thị trường. Sự coi trọng chất lượng sợi và nhãn hiệu nổi tiếng được thể hiện qua tỷ lệ phần trăm như sau: 44%/56%. Nhưng từ 25 – 34 tuổi, tỷ lệ này là 37%/63%; ở nhóm tuổi 35 – 55, tỷ lệ những người sính dùng “đồ hiệu” có xu hướng giảm, chỉ còn 22%. Và cuối cùng, theo điều tra độ tuổi 56 – 70, vấn đề chất lượng được quan tâm nhiều nhất, thị hiếu về sự nổi trội giảm đi theo tỷ lệ 19%/81%. Tính cách người dân Hoa Kỳ phóng khoáng, điều này cũng ảnh hưởng rất lớn tới sự lựa chọn sản phẩm của họ. Họ mua hàng nhiều khi theo cảm hứng, vì vậy nếu không tìm thấy loại sản phẩm mình ưa chuộng, họ có thể mua một chủng loại khác để thay thế. Tuy nhiên, khả năng thích ứng với các loại sản phẩm khác nhau cũng tuỳ thuộc vào từng lứa tuổi. Giới trẻ có khả năng thích ứng cao nhất với sự đa dạng của các loại hàng hoá khác nhau. Nếu ở lứa tuổi 15 – 19, 34% người tiêu dùng quyết định mua chủng loại sản phẩm khác khi không tìm thấy kiểu sản phẩm mình định mua ban đầu thì với độ tuổi 20 – 24, tỷ lệ này giảm xuống 26% và càng có xu hướng giảm khi tháp tuổi càng cao. Đến lứa tuổi 55 – 60, chỉ 17% khách hàng có thể chấp nhận đổi loại sản phẩm truyền thống mình vẫn dùng bằng một loại khác. Đây là một điểm cần chú ý vì trong tương lai, Hoa Kỳ sẽ trở thành nước dân số già, tỷ lệ nhóm tuổi 45 và 65 đang có xu hướng tăng lên. Việc tìm hiểu phong cách mua hàng của người tiêu dùng Hoa Kỳ có ý nghĩa rất quan trọng đối với các nhà sản xuất và xuất khẩu trong việc đưa ra thị trường loại sản phẩm thích hợp. Điểm đặc trưng trong xu hướng tiêu dùng Hoa Kỳ là sở thích mua những sản phẩm mang phong cách cổ điển hơn những sản phẩm mốt thời thượng, mặc dù tỷ lệ khách hàng thích dùng sản phẩm mốt thời thượng khá cao, chiếm 20% tổng số người tiêu dùng hàng dệt may, đứng thứ nhì trên thế giới, chỉ sau Đức (30%), hơn hẳn các trung tâm thời trang lớn như Anh và Italia (tỷ lệ này là 19%), Pháp (17%). Quần áo mang phong cách cổ điển chiếm giữ thị phần đáng kể tại thị trường Hoa Kỳ – khoảng 79%, chứng tỏ thị trường tiềm năng này có nhu cầu rất phong phú, đối tượng phục vụ khá rộng: giới sành điệu và cả những người bình dân. Hoa Kỳ quả là một thị trường vừa dễ tiếp cận nhưng cũng đầy thử thách, khó khăn. Một thói quen đáng ghi nhớ của người tiêu dùng Hoa Kỳ là họ quyết định mua hàng theo mùa vụ. Bắt đầu mỗi mùa tiêu thụ, họ sẽ đi mua hàng ngay chứ không chờ đến cuối mùa để mua được với mức giá rẻ hơn. Tỷ lệ khách hàng mua đồ vào đầu mùa tiêu thụ ở Hoa Kỳ chiếm khoảng 64%, đứng thứ ba trên thế giới sau Nhật Bản (73%) và Hồng Kông (67%). Vì vậy yếu tố giao hàng đúng thời hạn, bắt kịp thời vụ cũng rất quan trọng trong việc xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Hoa Kỳ. Sản phẩm cho tương lai: Cơ cấu nhập khẩu hàng may mặc vào thị trường Hoa Kỳ những năm gần đây cho thấy xu hướng và tập quán tiêu dùng của người Hoa Kỳ đang thay đổi từ hàng dệt thoi sang hàng dệt kim vì những ưu điểm mới của sản phẩm dệt kim – thể hiện qua mức tăng nhập khẩu quần áo dệt thoi chỉ 3,8% trong khi hàng dệt kim là 8,7%. Trước kia, người dân Hoa Kỳ thích dùng những sản phẩm may mặc được sản xuất từ sợi tổng hợp. Nhưng trong những năm gần đây, sử dụng sản phẩm 100% sợi bông đang trở thành một xu hướng. Tỷ lệ bông trong sản phẩm may mặc và đồ gia dụng sản xuất từ sợi bông ngày càng cao và có chiều hướng tăng lên. Năm 2000, tỷ lệ này đạt 59,6%, đến năm 2001 tăng lên 60,1%. Trong đó tỷ lệ bông trong sản phẩm may mặc của nam giới cao nhất, chiếm 75,8% năm 2000 và còn tăng thêm 0,2% vào năm 2001. Đặc biệt, trẻ em Hoa Kỳ đang dần trở thành đối tượng sử dụng quần áo sợi bông ngày càng nhiều với tốc độ gia tăng trung bình đạt 1,3%. Những sản phẩm được sản xuất từ sợi bông có khả năng tiêu thụ mạnh hơn những sản phẩm khác. Doanh số của các sản phẩm 100% sợi bông và sản phẩm có hàm lượng bông từ 60% đến dưới 100% liên tục tăng, trong khi đó doanh thu của các sản phẩm có tỷ lệ bông dưới 60% giảm. Những con số này càng khẳng định vai trò của sợi bông đối với thị trường dệt may Hoa Kỳ, như một kim chỉ nam giúp các doanh nghiệp dệt may xuất khẩu Việt Nam định hướng sản phẩm. Tìm hiểu cơ cấu sản phẩm tiêu thụ tại thị trường dệt may Hoa Kỳ, có thể thấy thị trường này phân đoạn khá rõ ràng, trong đó thị phần các sản phẩm may mặc dành cho phụ nữ lớn nhất –48,3%; tiếp đó là thị phần hàng may mặc dành cho nam giới –27,9%; thị phần cho trẻ em chiếm 15,7% và cuối cùng các sản phẩm gia dụng có nguồn gốc từ sợi dệt (thảm trải sàn, rèm cửa...) chiếm 8,1%. Mặc dù nữ giới là đối tượng phục vụ chính cho ngành dệt may Hoa Kỳ, nhưng tốc độ tăng trưởng doanh thu của các sản phẩm dệt may nam giới khá cao và có phần vượt trội hơn cả. Điều này chứng tỏ thị trường dệt may dành cho nam giới ở Hoa Kỳ đang nóng dần lên, một tín hiệu đáng mừng cho các nhà xuất khẩu Việt Nam vì chúng ta đã từng có kinh nghiệm trong việc thực hiện các hợp đồng gia công áo sơ mi nam cho các thị trường EU và Nhật Bản. Người tiêu dùng Hoa Kỳ thích những bộ trang phục đẹp, chất lượng tốt, nhưng đặc biệt chú ý tới tính tiện lợi. Gần đây, việc thay đổi thói quen làm việc và phong cách ăn mặc nơi công sở đã khiến xu hướng tiêu dùng cuả thị trường Hoa Kỳ có nhiều thay đổi. Tỷ lệ tiêu thụ Vest và Complet giảm mạnh, chiếm khoảng 6% thị phần, thấp hơn Pháp và Đức gần một nửa. ở Italia và Anh, thị phần áo Vest cũng cao gấp 3 lần so với Hoa Kỳ. Quần áo bảo hộ và đồng phục đi làm vẫn duy trì thị phần ở mức 20%. Nhưng chiếm ưu thế nhất phải nói đến hàng “casual” – một loại sản phẩm may mặc được dệt từ loại sợi không cần ủi – bao gồm “casual” phổ thông và “casual” công sở. Sản phẩm “casual” ở thị trường dệt may Hoa Kỳ không bị coi như một sản phẩm không mang tính lịch sự, trái lại, người ta có thể tạo ra những mẫu trang phục công sở từ chất liệu này nhưng không làm mất đi vẻ sang trọng của nó. Nếu so sánh với các nước EU – nơi sản phẩm “casual” rất ít khi được mặc đến công sở: ở Anh, tỷ lệ này thấp nhất chỉ 44%; Pháp: 60%; Italia: 67%, thì ở Hoa Kỳ 71% công chức có thể mặc đồ “casual” đến nơi làm việc ít nhất một lần trong tuần. Doanh số của hàng “casual” ngày càng tăng nhanh. d/ Xu hướng và dự báo về các phân ngành thuộc công nghiệp dệt may của Mỹ Về ngành may Sản phẩm may mặc dành cho nam giới Xu hướng mặc quần áo tự do có ảnh hưởng đáng kể đến hàng may mặc nam, thay thế cho quần áo đồng phục. Nhiều nhà sản xuất thích nghi với xu hướng này, cắt giảm các sản phẩm đồng phục và tập trung vào quần áo thường. Sản xuất các lễ phục trang trọng cũng tăng lên. Chính khuynh hướng này làm tăng nhu cầu sử dụng vải co giãn dùng để may các lễ phục kiểu rộng. Vải kaki tiếp tục mất ưu thế trong may đo quần áo thường dành cho mọi lứa tuổi, trong khi đó, một số loại vải denim mới (loại vải bông dệt chéo) đang dần được chấp nhận trên thị trường quần jean. Doanh số bán quần áo biểu tượng thể thao không còn tăng mạnh như trước, ngược lại, doanh số bán quần áo có thương hiệu sẽ tăng rất mạnh, đặc biệt là đồ dành cho thanh thiếu niên. Số lượng lao động trong khu vực sản xuất quần áo nam giảm đáng kể trong giai đoạn 1996 – 2002 và dự báo xu hướng giảm vẫn còn tiếp tục trong vài năm tới. Mức lương bình quân tính theo giờ lao động trong phân ngành này nhìn chung tăng, trong đó tăng mạnh nhất là càvạt và khăn quàng. Sản phẩm may mặc dành cho nữ và trẻ em Phân ngành sản phẩm may mặc nữ và trẻ em tăng trưởng rất chậm do hàng nhập khẩu tiếp tục ngập tràn thị trường Mỹ. Tương tự như phân ngành sản phẩm may mặc nam, đồng phục dành cho nữ cũng bị ảnh hưởng tiêu cực do xu hướng ăn mặc tự do. Doanh số bán quần áo thể thao trong phân ngành này khá cao. Đi đôi với giá trị, người tiêu dùng ngày càng coi trọng tính tiện lợi khi lựa chọn quần áo. Chính điều này dẫn đến việc sử dụng rộng rãi loại vải co giãn. Thị trường quần áo trẻ em cũng được mở rộng do số lượng trẻ em lớn tăng lên rất nhiều và có ảnh hưởng nhiều hơn đến quyết định mua sắm của cha mẹ. Nhiều nhà sản xuất quần áo người lớn đang mở rộng sang thị trường quần áo trẻ em đầy béo bở. Việc làm trong phân ngành quần áo nữ và trẻ em giảm mạnh (trừ khu vực sản xuất váy). Dự đoán trong những năm tới vẫn tiếp tục giảm, kể cả trong khu vực sản xuất váy. Sản phẩm trang trí nội thất Phân ngành sản phẩm trang trí nội thất là một trong những khu vực sáng sủa nhất của ngành công nghiệp dệt may Mỹ. Sở dĩ thị trường sản phẩm này phát triển là do xu hướng xây dựng ồ ạt trong thời gian gần đây. Doanh số các mặt hàng trang trí nội thất được đẩy mạnh nhờ lãi suất thấp và người tiêu dùng có xu hướng ở nhà nhiều hơn dẫn đến nhu cầu trang trí căn nhà của mình. Không giống như quần áo, phân ngành này chỉ do một vài công ty Mỹ (phần lớn công ty dệt) nắm giữ và thường không bị ảnh hưởng nhiều lắm bởi hàng nhập khẩu do sản xuất các sản phẩm thuộc phân ngành này sử dụng lao động ít hơn và chi phí vận chuyển tương đối cao (vì các sản phẩm trang trí nội thất nặng và cồng kềnh). Nhiều công ty dệt lớn mạnh chiếm lĩnh thị trường đang có xu hướng thu hẹp hoặc ngừng sản xuất các loại vải may quần áo, chuyển sang cung cấp sản phẩm trang trí nội thất và mở rộng các diện mặt hàng nhằm đáp ứng nhu cầu nội địa và xuất khẩu. Một điểm đáng lưu ý là sự liên kết giữa các công ty trong phân ngành thảm diễn ra rất mạnh mẽ trong thời gian gần đây, điển hình là bốn công ty: Shaw, Mohawk, Beaulieu và Interface. Các công ty lớn này có xu hướng liên kết với các nhà cung cấp xơ, nhà sản xuất sợi và những người bán lẻ để tăng thị phần thảm trong phân ngành các sản phẩm trải sàn. Phần lớn các nhà sản xuất thảm tự lo liệu phần nguyên liệu xơ cho sản phẩm của họ. Trên thực tế, khối lượng xơ ép đạt xấp xỉ 2 tỷ USD/năm, trong đó gần 1/2 được dùng để sản xuất thảm. Xơ nylon là loại xơ chiếm ưu thế nhất trong sản xuất thảm (hơn 60%), xơ polypropolene đang dần giành được thị phần vì đây là nguyên liệu tốt nhất để sản xuất thảm đúc, thảm nỉ, vải lót thùng xe hơi, đệm lót thảm sơ cấp và thứ cấp. Về ngành dệt Vải dệt khổ rộng Theo số liệu của Cục thống kê Mỹ, số lượng sản xuất vải dệt khổ rộng giảm gần 4% trong 2 năm 2001 – 2002. Đặc biệt, sản xuất vải dệt len bị giảm sút nặng nề nhất (tới 24%), một mặt là do thời tiết tương đối ẩm, nhu cầu sử dụng vải dệt len không cao, mặt khác là do vải của Châu á nhập khẩu vào Mỹ với giá thấp. Vải dệt sợi ngang, đăng ten và vải dệt kim sợi dọc Khu vực sản xuất vải dệt sợi ngang, đăng ten và vải dệt kim sợi dọc đạt mức tăng trưởng thực tế 2% trong 2 năm 2000 – 2001. Không giống với các phân ngành dệt khác, lượng nhập khẩu trong phân ngành này tương đối thấp mặc dù tốc độ nhập khẩu đang tăng. Xuất khẩu vải dệt sợi ngang, đăng ten, vải dệt kim sợi dọc tăng 4,38% trong hai năm 2000 – 2001. AMTEX – Hiệp hội ngành dệt Mỹ dự đoán rằng xuất khẩu các sản phẩm thuộc phân ngành này sẽ tăng 6,85% vào năm 2010 so với năm 2000. Hiện tại, Mỹ chủ yếu xuất sang các nước NAFTA. Xu hướng và dự báo về một số phân ngành trong ngành công nghiệp dệt may của Mỹ vừa tạo ra những thuận lợi nhưng cũng gây ra khó khăn cho các công ty nước ngoài muốn bán sản phẩm vào thị trường Mỹ. Những khu vực có chi phí nhân công thấp sẽ có cơ hội hợp tác với các công ty sản xuất và bán lẻ của Mỹ để gia công hoặc bán hàng. Những công ty thiết lập được quan hệ bạn hàng tốt với các công ty này của Mỹ sẽ có thuận lợi rất lớn do được hỗ trợ thông tin liên quan đến thị trường. e/ Tình hình xuất khẩu hàng dệt may của các nước sang thị trường Mỹ Với sức tiêu thụ ngày càng lớn, Hoa Kỳ trở thành một thị trường mở ra nhiều hứa hẹn cho các nhà sản xuất và xuất khẩu hàng hoá. Vì vậy, thâm nhập thị trường Hoa Kỳ đồng nghĩa với việc chấp nhận một cuộc cạnh tranh gay gắt, khốc liệt trên toàn diện. Riêng trong lĩnh vực hàng dệt may, một số nhà cung cấp chủ yếu hiện đang là đối thủ cạnh tranh của Việt Nam tại thị trường Hoa Kỳ phải kể đến Trung Quốc, các nước vùng vịnh Caribê và một số nước Đông á khác. Châu á là khu vực xuất khẩu hàng may mặc lớn nhất sang thị trường Mỹ, trong đó Trung Quốc, Hồng Kông và Đài Loan nằm trong nhóm 5 nước xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất vào thị trường Mỹ trong vài năm gần đây, chiếm 27% tổng giá trị nhập khẩu hàng may mặc của Mỹ. Tuy nhiên, xuất khẩu của các nước này đang mất dần thị phần ở Mỹ kể từ đầu thập niên 90. Ngược lại, các nước Bắc Mỹ và Caribê, chủ yếu là Mêhicô, nhờ những ưu đãi về hạn ngạch và thuế quan theo Hiệp ước khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA) và sáng kiến vùng Caribê (CBI), thị phần xuất khẩu đã không ngừng tăng lên. Mặc dù Trung Quốc vừa ký được hiệp định thương mại song phương với Mỹ nhưng sự kiện này không tác động nhiều đến thị phần của nước này vì họ đã được hưởng quy chế thương mại bình thường trong quan hệ buôn bán với Mỹ trước khi ký Hiệp định. Có thể nói, yếu tố quan trọng nhất giúp cho hàng dệt may của các nước đang phát triển thiết lập và củng cố vị trí vững chắc của họ trên thị trường dệt may Mỹ là nhờ lợi thế chi phí nhân công thấp. Do đặc điểm của ngành dệt may là sử dụng nhiều nhân công nên lợi thế này đã góp phần làm cho chi phí sản xuất hàng dệt may của các nước này thấp hơn tương đối so với sản phẩm sản xuất tại Mỹ. Đây chính là một yếu tố quan trọng đối với các doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may Việt Nam khi xem xét quyết định tiếp cận thị trường hấp dẫn này. 2.1.1.2-Chính sách của Mỹ đối với hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam vào Mỹ Có thể thấy chỉ sau khi lệnh cấm vận của Mỹ đối với Việt Nam được bãi bỏ thì hàng hoá xuất khẩu nói chung và hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam nói riêng mới có cơ hội và điều kiện thuận lợi hơn để thâm nhập vào thị trường Mỹ. Tuy nhiên, hàng dệt may Việt Nam phải chịu sự chi phối bởi các quy định trong chính sách thương mại của Mỹ đối với hàng dệt may nhập khẩu vào thị trường Mỹ. Theo các nhà chuyên môn, vấn đề dệt may sẽ được phía Mỹ đề cập trong khuôn khổ đàm phán song phương về việc Việt Nam gia nhập WTO như họ đã làm với Trung Quốc. Liên quan đến quá trình đàm phán này cần lưu ý hai nội dung: + Thời hạn áp dụng các biện pháp tự vệ + Các quy định về lao động Chính sách thuế quan Mỹ áp dụng thuế quan tính theo % trên cơ sở giá FOB trong khi phần lớn các nước khác tính thuế theo giá CIF. Vì giá FOB thấp hơn giá CIF nên mức độ bảo hộ bằng thuế quan của Mỹ do vậy cũng thấp hơn các nước khác. Trước đây, khó khăn lớn nhất của Việt Nam trong xuất khẩu sang thị trường Mỹ là phải chịu thuế suất cao do Việt Nam chưa được hưởng quy chế MFN và giữa hai nước chưa có Hiệp định thương mại song phương. Tuy nhiên, hiện nay hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam nói chung và hàng dệt may nói riêng đã được hưởng thuế suất MFN, tạo điều kiện thuận lợi để thâm nhập, cạnh tranh và tăng trưởng mạnh trên thị trường Mỹ. Hệ thống hạn ngạch Công cụ bảo hộ chính của ngành dệt may Mỹ là hệ thống hạn ngạch áp dụng theo Hiệp định dệt may của WTO (ATC), mặc dù các hạn chế này đang phải xoá bỏ dần. Sau một quá trình đàm phán lâu dài, Chính phủ Việt Nam và Hoa Kỳ đã ký kết Hiệp định dệt may Việt – Mỹ, trong đó quy định hàng dệt may Việt Nam khi xuất khẩu vào thị trường Mỹ sẽ phải chịu hạn ngạch. Các mặt hàng dệt may xuất khẩu sang Hoa Kỳ bị quản lý bằng hạn ngạch gồm 38 chủng loại hàng (Cat), có giá trị khoảng 1,7 tỷ USD/năm. Về nguyên tắc xuất xứ và ghi nhãn sản phẩm dệt may ở Mỹ, người ta rất quan tâm tới xuất xứ và nhãn mác của sản phẩm. Đối với tất cả các sản phẩm dệt may, khi được xuất khẩu vào Mỹ phải được ghi nhãn, nêu rõ tên nhà sản xuất và nước chế tạo, gia công sản phẩm. Từ 1/7/1996, quy định mới về xuất xứ đối với sản phẩm dệt may của Mỹ bắt đầu có hiệu lực. Đối với những sản phẩm may mặc cần gia công qua nhiều công đoạn, theo quy định cũ, thì nước xuất xứ là nơi diễn ra công đoạn cắt vải. Theo quy định mới, nước xuất xứ về cơ bản là nơi diễn ra công đoạn may. Đối với sản phẩm dệt, trước tháng 7/1996, xuất xứ được xác định chủ yếu là nơi dệt vải. Tuy nhiên, quy định mới của Mỹ xác định xuất xứ của sản phẩm dệt là nơi tiến hành in, nhuộm vải. Đối với sản phẩm len, theo luật nhãn hiệu sản phẩm len năm 1939, tất cả các sản phẩm có chứa sợi len nhập khẩu vào Mỹ phải ghi nhãn, trừ thảm, chiếu, nệm ghế. Theo Luật nhãn hiệu sản phẩm da lông thú, tất cả các sản phẩm nhập khẩu có giá thành hay giá bán từ 7 USD trở lên phải ghi nhãn và nước xuất xứ. Chế độ Visa xuất khẩu Mỹ buộc một số nước phải ký kết thoả thuận về việc áp dụng chế độ Visa xuất khẩu đối với hàng dệt may. Nước đối tác phải xác nhận (dưới dạng đóng dấu vào hóa đơn hay giấy phép) trước mỗi chuyến hàng. Biện pháp này hiện được sử dụng để quản lý hàng dệt may nhập khẩu vào Mỹ. Quy định về Visa này áp dụng cho cả sản phẩm chịu hạn ngạch và không chịu hạn ngạch mặc dù các sản phẩm chịu hạn ngạch đã phải chứng minh xuất xứ của mình khi muốn nhập khẩu vào Mỹ. Sau khi các nước ấn Độ, Pakistan và Hồng Kông kiện Mỹ tại Cơ quan quản lý hàng dệt may của WTO (TMB), đầu năm 1999, Mỹ đã phải bỏ áp dụng chế độ trên đối với các sản phẩm đã hoà nhập theo Hiệp định ATC. Tuy nhiên, đối với phần lớn các sản phẩm chưa hoà nhập theo Hiệp định và đặc biệt là đối với các nước chưa phải là thành viên của WTO, trong đó có Việt Nam, biện pháp trên vẫn mang tính bảo hộ. 2.2.2-Tình hình xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ thời gian qua Quy mô và tốc độ tăng trưởng xuất khẩu Hàng năm, Mỹ nhập khẩu khoảng 50 – 60 tỷ USD hàng dệt may. Nguồn nhập chủ yếu từ các nước Châu á (chiếm trên 50% kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ). Thị trường Mỹ được đánh giá là thị trường xuất khẩu hàng dệt may có tiềm năng của Việt Nam. Từ sau khi Mỹ dỡ bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam (3/2/1994), các doanh nghiệp Việt Nam đã bắt đầu mạnh dạn tiếp cận thị trường Mỹ. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang Mỹ tuy còn thấp nhưng tốc độ tăng trưởng qua các năm khá cao. Để có cái nhìn tổng quan về kim ngạch xuất khẩu dệt may của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ, chúng ta sẽ xem xét các biểu số liệu dưới đây: Bảng2: Xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Mỹ (Đơn vị: Triệu USD) Năm 1998 1999 2000 2001 2002 Kim ngạch xuất khẩu 26,4 37,1 60 51,6 976,3 (Nguồn: Vụ xuất nhập khẩu – Bộ Thương mại) Qua số liệu trên, ta thấy kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ từ con số 26,4 triệu USD năm 1998 đã lên tới 976,3 triệu USD năm 2002. Tốc độ tăng trưởng bình quân trong giai đoạn 1998 – 2002 đạt 114,23% (mặc dù tốc độ tăng trưởng không đều qua các năm). Nếu so với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân 35,76%/năm của toàn ngành trong cùng giai đoạn thì tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Mỹ những năm qua là con số đáng ghi nhận Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ có xu thế tăng trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may nói chung. Đặc biệt, năm 2002, sau khi Hiệp định thương mại Việt – Mỹ được ký kết, tỷ trọng xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đã tăng lên đáng kể. Thị trường Mỹ vươn lên trở thành thị trường nhập khẩu hàng dệt may lớn nhất của Việt Nam. Bảng 3: Tỷ trọng xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Mỹ trong tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành dệt may Việt Nam (Đơn vị: Triệu USD) Năm 1998 1999 2000 2001 2002 KNXK hàng dệt may sang Mỹ 26,4 37,1 60 51,6 976,3 KNXK toàn ngành dệt may 1.380 1.748 1.900 2.150 2.750 Tỷ trọng (%) 1,91 2,12 3,16 2,4 35,5 (Nguồn: Bộ Thương mại) Trong khi nhiều thị trường phi hạn ngạch về dệt may của Việt Nam giảm sút mạnh thì thị trường Mỹ khá ổn định mặc dù xuất khẩu sang thị trường này khó khăn hơn nhiều so với các thị trường truyền thống khác của chúng ta. Tuy nhiên, cũng phải nhìn nhận một thực tế rằng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường Mỹ còn quá nhỏ bé so với tổng kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ. Nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ năm 2000 là 60 tỷ USD, như vậy, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào thị trường Mỹ năm 2000 chỉ chiếm 0.1% tổng giá trị nhập khẩu hàng dệt may của thị trường này. Trong khi đó, một quốc gia Châu á khác là Trung Quốc, chỉ tính riêng 6 tháng đầu năm 2000 đã xuất khẩu mặt hàng dệt may vào Mỹ trị giá 2.640 triệu USD, chiếm 4.43% tổng giá trị nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ. Rõ ràng, quy mô xuất khẩu của chúng ta thua kém hơn họ rất nhiều. Qua đó để thấy rằng Việt Nam còn phải cố gắng rất nhiều trong quan hệ thương mại song phương cũng như cần có nỗ lực chung của toàn ngành dệt may trong thời gian tới. Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu Việt Nam chủ yếu xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ các sản phẩm may mặc và một số sản phẩm gia dụng sản xuất từ sợi dệt như ga, drap, gối, bộ trải nôi baby..., hàng dệt chỉ chiếm tỷ trọng rất nhỏ. Vì đây là thị trường mới, việc tìm hiểu thông tin cũng như thâm nhập còn gặp nhiều khó khăn nên Việt Nam trước hết thử đưa vào Hoa Kỳ các mặt hàng truyền thống của mình. Những sản phẩm này đã được đánh giá cao tại thị trường EU – một thị trường nổi tiếng với những đòi hỏi khắt khe về chất lượng cũng như mẫu mã sản phẩm. Hiện nay, Việt Nam mới chỉ tập trung vào 8 loại sản phẩm may mặc mang các Cat sau: 338 (sơ mi nam dệt kim vải bông), 340 (sơ mi nam dệt thoi vải bông), 435 (áo choàng nữ vải len), 438 (sơ mi nữ vải len), 444 (comple nữ vải len), 636 (váy nữ), 644 (comple nữ vải tổng hợp) và 331 (găng tay). Mặc dù thị trường Mỹ có nhu cầu về hàng dệt kim lớn nhưng Việt Nam chưa xuất khẩu được hàng dệt kim sang thị trường này. Trong cơ cấu hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ những năm gần đây, tỷ trọng sản phẩm dệt thoi vẫn luôn dẫn đầu. Hiện nay, người tiêu dùng Hoa Kỳ có xu hướng thích sử dụng những sản phẩm dệt thủ công mang đặc trưng dân tộc cuả các nước. Đây chính là một lợi thế của Việt Nam nhưng chúng ta còn gặp nhiều khó khăn trong xuất khẩu. Tuy nhiên, thật đáng mừng trước những tiến bộ trong ngành dệt Việt Nam, mặc dù kim ngạch xuất khẩu còn khá khiêm tốn nhưng chúng ta đã xuất khẩu được một số sản phẩm sợi dệt từ đay, cói, lau và một số loại chỉ, tơ nguyên liệu vào thị trường Hoa Kỳ. Trong tương lai, Việt Nam dự định sẽ xuất khẩu một số sản phẩm sợi thô, sợi bông và sợi dệt kim vào Hoa Kỳ để cạnh tranh cùng các đối thủ mạnh khác. Phương thức xuất khẩu Hiện nay, ngành dệt may Việt Nam tiến hành xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Mỹ thông qua 2 phương thức chủ yếu: xuất khẩu trực tiếp và xuất khẩu uỷ thác gia công. Xuất khẩu trực tiếp: Phương thức xuất khẩu trực tiếp hay “mua đứt bán đoạn” là phương thức chiến lược của ngành dệt may xuất khẩu Việt Nam trong tương lai. Từ sau khi Hiệp định thương mại Việt – Mỹ được ký kết, các doanh nghiệp Việt Nam đã đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may thông qua phương thức này. Tuy nhiên, do những khó khăn trong vấn đề cung cấp nguyên liệu nên ít doanh nghiệp có thể xuất khẩu trực tiếp. Doanh thu xuất khẩu hàng may mặc vào thị trường Hoa Kỳ theo phương thức này còn thấp, chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong tổng doanh thu xuất khẩu nói chung. Một số công ty may có uy tín và kinh nghiệm trên thị trường như: May 10, May Thăng Long, Công ty dệt Thắng Lợi... đã xuất khẩu trực tiếp sang thị trường Hoa Kỳ. Gia công xuất khẩu: Đây là phương thức xuất khẩu chủ yếu của ngành dệt may xuất khẩu Việt Nam không chỉ đối với thị trường Hoa Kỳ mà còn đối với các thị trường khác. Xuất phát từ nguồn nguyên liệu trong nước không đáp ứng được yêu cầu về chất lượng cũng như màu sắc nên các doanh nghiệp Việt Nam phải nhập khẩu nguyên liệu của Hoa Kỳ rồi gia công theo mẫu mã của họ. Những mặt hàng may mặc Việt Nam thâm nhập thị trường Hoa Kỳ trong thời gian qua phần lớn được thực hiện thông qua các công ty nước ngoài hiện đang gia công ở Việt Nam. Tuy nhiên, đấy chỉ là giải pháp tạm thời khi Hiệp định thương mại Việt – Mỹ chưa được ký kết. Hiện nay, Hiệp định này đã có hiệu lực, hàng dệt may Việt Nam đã được hưởng thuế suất ưu đãi thì xuất khẩu trực tiếp sẽ trở thành phương thức xuất khẩu chiến lược. 2.3-Những biện pháp hỗ trợ xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ mà Nhà nước đã thực hiện những năm qua Cùng với những chính sách hỗ trợ cho ngành dệt may nói chung phát triển, Nhà nước ta cũng đã có những biện pháp để hỗ trợ thúc đẩy xuất khẩu sang thị trường Mỹ. 2.3.1-Nhóm công cụ hỗ trợ sản xuất a/ Chính sách đầu tư phát triển Thị trường Mỹ là một thị trường có sức tiêu thụ sản phẩm dệt may rất lớn, do vậy cần một nguồn vốn lớn để đầu tư phát triển. Để làm được điều này, những năm qua, Nhà nước ta đã có chính sách đầu tư để phát triển ngành dệt may nói chung và để thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ nói riêng. Cụ thể: Về thu hút vốn đầu tư Tạo nguồn vốn trong nước bằng cách cổ phần hoá doanh nghiệp, trước hết ở ngành may và lựa chọn cổ phần hoá một số xí nghiệp dệt. Cổ phần hoá dựa trên nghiên cứu quy mô đầu tư thích hợp với đặc thù của từng doanh nghiệp. Cùng với thu hút vốn đầu tư trong nước, Nhà nước đã có chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài dưới mọi hình thức như các doanh nghiệp liên doanh, cổ phần hay 100% vốn nước ngoài. Đối với việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển ngành công nghiệp dệt may Việt Nam, Chính phủ Việt Nam đã ban hành chính sách “khuyến khích các công ty nước ngoài tham gia vào quá trình sản xuất hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam”. Chính sách này cụ thể như sau: Các công ty nước ngoài tham gia vào sản xuất nguyên phụ liệu phục vụ cho hàng dệt may sẽ được hưởng những ưu đãi đặc biệt về thuế với điều kiện 90% sản phẩm sản xuất ra phải được xuất khẩu hoặc làm nguyên liệu cho ngành dệt may xuất khẩu. Thuế nhập khẩu máy móc thiết bị và nguyên vật liệu cần thiết phục vụ cho quá trình sản xuất và thuế xuất khẩu thành phẩm thấp hơn 30% mức thuế suất thông thường quy định trong biểu thuế xuất nhập khẩu mới của Việt Nam được áp dụng từ 1/1/1999, còn thuế nhập khẩu các dây chuyền công nghệ tiên tiến, hiện đại từ các trung tâm công nghệ nguồn (Mỹ, Tây Âu, Nhật Bản) thì thấp hơn 50% mức thuế quy định đối với sản phẩm cùng loại trong biểu thuế. Với chính sách này, Việt Nam có thể thu hút được sự tham gia đông đảo của các nhà đầu tư nước ngoài vào quá trình sản xuất hàng dệt may tại Việt Nam. Qua đó, Việt Nam không những thu hút được lượng vốn đầu tư nước ngoài lớn, nhập khẩu công nghệ nguồn mà còn nâng cao và tiêu chuẩn hoá chất lượng, cải tiến mẫu mã hàng dệt may xuất khẩu. Chính sách này là một trong những phương pháp tối ưu để Việt Nam cải tiến sản xuất, sử dụng công nghệ của công nghiệp dệt may đạt hiệu quả cao trong điều kiện chúng ta rất thiếu vốn và kinh nghiệm còn hạn chế. Nếu đi vay tiền để nhập công nghệ, chưa chắc các kỹ sư Việt Nam đã vận hành máy móc đạt kết quả mong muốn, hơn nữa, vay tiền thì phải có nguồn để trả. Còn ở đây, vốn của phía nước ngoài đóng góp (dây chuyền công nghệ, máy móc thiết bị...) sẽ trả bằng sản phẩm thu được từ quá trình sản xuất. Việt Nam sẽ rất có lợi thông qua những dự án như thế này và chính sách trên là biện pháp tốt nhất để Việt Nam đón nhận được “làn sóng di chuyển ngành dệt may sang các nước Nam á và Đông Nam á”. Thêm vào đó, Nghị định của Chính phủ số 7/1998/NĐ-CP ngày 15/1/1998 đã xác định các dự án đầu tư sản xuất hàng dệt may cũng như sản xuất nguyên phụ liệu cho sản xuất hàng xuất khẩu thay thế hàng nhập khẩu thuộc danh mục các ngành nghề được hưởng ưu đãi đầu tư. Theo Nghị định này, các doanh nghiệp sẽ được hưởng ưu đãi về tín dụng đầu tư, được ngân hàng đầu tư và phát triển cùng các ngân hàng thương mại quốc doanh bảo lãnh hoặc cho vay tín dụng xuất khẩu và cho vay đầu tư mở rộng cơ sở sản xuất mặt hàng xuất khẩu thay thế nhập khẩu thuộc danh mục các ngành nghề được hưởng ưu đãi đầu tư, được Nhà nước xem xét trợ giúp thông qua quỹ bình ổn giá trong trường hợp giá thị trường thế giới hoặc trong nước biến động mạnh, gây thua lỗ lớn cho các doanh nghiệp. Theo Luật khuyến khích đầu tư trong nước sửa đổi, các ngành nghề sử dụng nhiều lao động trong đó có ngành dệt may cũng như các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu được hưởng các ưu đãi: Được giảm 50% tiền sử dụng đất, được miễn tiền thuế đất từ 3 – 6 năm, được hưởng thuế suất thu nhập doanh nghiệp 25% so với mức thuế chung là 32%. Doanh nghiệp dệt may sử dụng nhiều lao động được giảm 50% số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp trong hai năm tiếp theo cho phần thu nhập tăng thêm do đầu tư mới mang lại. Luật đầu tư nước ngoài cũng có nhiều thay đổi có tác dụng khuyến khích xuất khẩu và đầu tư cho ngành dệt may, đặc biệt là ngành dệt, góp phần giảm chi phí nguyên vật liệu cho ngành may xuất khẩu. Một số biện pháp khuyến khích và bảo đảm hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài gồm: Các dự án sản xuất thuốc nhuộm, hoá chất chuyên dùng, tơ sợi, các loại hàng dệt để xuất khẩu nguyên liệu cao cấp để sản xuất quần áo xuất khẩu thuộc danh mục các dự án được khuyến khích đầu tư. Các dự án xuất khẩu 100% sản phẩm thuộc danh mục được khuyến khích đầu tư. Các dự án đầu tư có tỷ lệ xuất khẩu sản phẩm từ 80% trở lên được cơ quan cấp giấy phép đầu tư quyết định cấp giấy phép đầu tư trong vòng 15 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ. Doanh nghiệp bán sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất cho các doanh nghiệp khác để trực tiếp sản xuất ra sản phẩm xuất khẩu được miễn thuế nhập khẩu đối với nguyên liệu và thuế doanh thu tương ứng đối với số sản phẩm trên, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp “xuất khẩu gián tiếp” qua các doanh nghiệp xuất khẩu khác. Mặc dù còn những điều bất cập, những đổi mới trong Luật đầu tư trong nước cũng như Luật đầu tư nước ngoài có tác dụng khuyến khích đầu tư và tháo gỡ phần nào những khó khăn về tài chính cũng như tổ chức triển khai các dự án đầu tư trong ngành dệt may. Về việc phân bổ vốn đầu tư Có sự khác nhau trong phân bổ vốn giữa các ngành và các loại hình doanh nghiệp. ở ngành dệt, các xí nghiệp thuộc quốc doanh trung ương vẫn là loại hình có vốn lớn nhất và liên tục tăng qua các năm. Nhờ có vốn lớn, các doanh nghiệp này có thể trang bị thêm cơ sở vật chất kỹ thuật, đầu tư theo chiều sâu, cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm cũng như tiếp cận trực tiếp với thị trường xuất khẩu thế giới mà không cần phải thông qua một số khâu trung gian của các thương nhân nước ngoài. Trong khi đó, các doanh nghiệp Nhà nước địa phương thì lại có xu hướng giảm sút về vốn đầu tư và quy mô nhỏ hơn. Còn các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, phần lớn có số vốn nhỏ. Với số vốn nhỏ, các doanh nghiệp này khó có thể vươn lên vì cơ sở vật chất kỹ thuật nghèo nàn, không thể áp dụng được những kỹ thuật tiên tiến hiện nay trên thế giới. Do đặc điểm của ngành may là không phải đầu tư để đổi mới công nghệ mà chỉ là trang thiết bị, nên ngành này đòi hỏi vốn ít hơn so với ngành dệt. Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay thì đầu tư vào các doanh nghiệp may vẫn còn thấp, phần lớn có số vốn dưới 5 tỷ đồng. b/ Chính sách về nguyên phụ liệu Để chủ động cung ứng được nguyên liệu chính của ngành dệt với giá cả cạnh tranh, việc đầu tư phát triển cây bông vải đã được Chính phủ rất quan tâm, hỗ trợ. Ngày 17/8/1999, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 168/1999/QĐ-CP về một số chính sách khuyến khích phát triển cây bông. Bên cạnh đó, ngày 15/6/2000, Chính phủ đã ra Nghị quyết số 09/2000/NQ-CP về một số chủ trương và chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Trong các văn bản này, Chính phủ đã khẳng định bông và dâu tằm có vị thế lâu dài trong cơ cấu nông nghiệp và định hướng phát triển bông sợi ở các vùng có điều kiện để tiến tới tự túc được một phần quan trọng nhu cầu sợi bông cho ngành dệt, hạn chế nhập khẩu. Bên cạnh đó, cần tiếp tục phát triển dâu tằm gắn với ngành ươm tơ, dệt lụa, tạo thêm công ăn việc làm và gia tăng hàng xuất khẩu. Chính phủ đã đưa ra một số chính sách khuyến khích phát triển sản xuất cây bông vải như: về đầu tư và tín dụng, về khoa học và công nghệ, về tiêu thụ, về Quỹ bảo hiểm cây bông vải. Những văn bản này đã có tác dụng rất thiết thực trong việc khuyến khích cây bông vải phát triển, cung cấp tốt nguồn nguyên liệu cho ngành may xuất khẩu của nước ta. c/ Chính sách về khoa học công nghệ Trong thời gian vừa qua, Nhà nước ta đã có nhiều biện pháp quan trọng nhằm thúc đẩy sự đổi mới khoa học công nghệ trong ngành dệt may. Trước hết là việc Nhà nước hỗ trợ kinh phí để xây dựng, nâng cấp các Viện nghiên cứu, các phòng thí nghiệm cũng như các trường đào tạo công nhân, kỹ sư dệt may. Tuy rằng chưa đạt được kết quả nhiều lắm, nhưng việc hỗ trợ phát triển công nghệ trong ngành dệt may ở nước ta đang giúp cho các dự án mới có khả năng được triển khai. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng đã đứng ra tổ chức nhiều buổi hội thảo về công nghệ mới để giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam nắm bắt được, từ đó có thể đưa ra được những chiến lược mới, phù hợp với khả năng của mình để có đủ khả năng thâm nhập thị trường Mỹ. d/ Chính sách về lao động và phát triển nguồn nhân lực Nguồn nhân lực tốt là một sự đảm bảo cho sự phát triển lâu dài và bền vững. Vì vậy, để đáp ứng nguồn lực có tay nghề cho ngành dệt may từ nay đến năm 2010 là hết sức cần thiết và cấp bách. Trong Quyết định 55/2001/QĐ-TTg của Chính phủ đã nêu ra 6 điểm để hỗ trợ ngành dệt may phát triển đến năm 2010. Trong đó, điểm 5 của Quyết định cho phép: “Dành toàn bộ nguồn thu phí hạn ngạch dệt may cho việc mở rộng thị trường xuất khẩu, trong đó có chi phí cho các hoạt động tham gia các tổ chức dệt may quốc tế, cho công tác xúc tiến thương mại và đào tạo nguồn nhân lực cho ngành dệt may”. Như vậy, trong chủ trương và trong các chính sách của mình, Nhà nước ta luôn thể hiện sự quan tâm tới việc nâng cao chất lượng của người lao động trong ngành dệt may. Quyết định này sẽ đưa ra một định hướng cho công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực ở các doanh nghiệp. Bên cạnh Quyết

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc100877.doc
Tài liệu liên quan