Tài liệu Đề tài Tìm các giải pháp tài chính để đẩy mạnh công tác tiêu thụ và tăng doanh thu tại công ty Phân lân nung chảy Văn Điển: LỜI MỞ ĐẦU
Tiêu thụ sản phẩm hoàn toàn không phải là vấn đề mới mẻ đối với các doanh nghiệp sản xuất trong qua trình sản xuất kinh doanh. Với vị trí là khâu cuối cùng kết thúc một chu kì sản xuất, tiêu thụ sản phẩm có vai trò hết sức quan trọng, thực hiện thu hồi vốn tiền tệ và các doanh nghiệp để chuẩn bị một chu kì sản xuất mới. Song thực tế cho thấy không phải doanh nghiệp nào cũng làm tốt công tác tiêu thụ sản phẩm. Nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, khi mà yếu tố cạnh tranh trên thị trường ngày càng trở nên quyết liệt, tiêu thụ sản phẩm ngày càng khó khăn thì việc làm tốt công tác tiêu thụ sản phẩm, đảm bảo doanh nghiệp có lãi và phát triển là một nhiệm vụ khó khăn.
Để làm tốt công tác tiêu thụ sản phẩm thì trước hết doanh nghiệp phải đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm. Nhưng làm thế nào để đây nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm? Đó là cả một quá trình tìm tòi, nghiên cứu, phân tích và đánh giá mọi mặt tình hình của doanh nghiệp như tình hình thị trường, khách hàn...
73 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1089 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Tìm các giải pháp tài chính để đẩy mạnh công tác tiêu thụ và tăng doanh thu tại công ty Phân lân nung chảy Văn Điển, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Tiêu thụ sản phẩm hoàn toàn không phải là vấn đề mới mẻ đối với các doanh nghiệp sản xuất trong qua trình sản xuất kinh doanh. Với vị trí là khâu cuối cùng kết thúc một chu kì sản xuất, tiêu thụ sản phẩm có vai trò hết sức quan trọng, thực hiện thu hồi vốn tiền tệ và các doanh nghiệp để chuẩn bị một chu kì sản xuất mới. Song thực tế cho thấy không phải doanh nghiệp nào cũng làm tốt công tác tiêu thụ sản phẩm. Nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, khi mà yếu tố cạnh tranh trên thị trường ngày càng trở nên quyết liệt, tiêu thụ sản phẩm ngày càng khó khăn thì việc làm tốt công tác tiêu thụ sản phẩm, đảm bảo doanh nghiệp có lãi và phát triển là một nhiệm vụ khó khăn.
Để làm tốt công tác tiêu thụ sản phẩm thì trước hết doanh nghiệp phải đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm. Nhưng làm thế nào để đây nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm? Đó là cả một quá trình tìm tòi, nghiên cứu, phân tích và đánh giá mọi mặt tình hình của doanh nghiệp như tình hình thị trường, khách hàng... kết hợp với năng lực, sự sáng tạo của các nhà quản lý doanh nghiệp để tìm ra hướng đi đúng đắn.
Làm tốt công tác tiêu thụ sản phẩm sẽ giúp doanh nghiệp đứng vững trong cơ chế thị trường, tự khẳng định sự tồn tại của mình để tiếp tục phát triển vươn lên. Ngược lại, công tác tiêu thụ làm không tốt có nghĩa là doanh nghiệp sẽ mất chỗ đứng trên thị trường, dần dần loại bỏ mình ra khỏi qúa trình kinh doanh. Bởi vậy, tiêu thụ sản phẩm luôn là mối quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp.
Xuất phát từ quan điểm này, trong thời gian thực tập tại công ty pha, tôi đã tiến hành tìm hiểu và nghiên cứu công tác tiêu thụ sản phẩm của công ty theo cách nhìn của một sinh viên khoa Tài chính doanh nghiệp để thực hiện đề tài: “Các giải pháp tài chính để đẩy mạnh công tác tiêu thụ và tăng doanh thu tại công ty Phân lân nung chảy Văn Điển".
Nội dung của đề tài trước hết trình bày những vấn đề lý luận chung và công tác tiêu thụ sản phẩm tại các doanh nghiệp sản xuất và thông qua phân tích đánh giá tình hình tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp để từ đó đề xuất những ý kiến góp phần đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm tại doanh nghiệp.
Phù hợp với nội dung này, kết cấu đề tài bao gồm những phần sau:
Chương 1: Những vấn đề lí luận chung về công tác tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp sản xuất trong nền kinh tế thị trường.
Chương 2: Thực trạng tiêu thụ sản phẩm của công ty Phân lân nung chảy Văn Điển
Chương 3: Một số phương hướng, biện pháp đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm ở công ty Phân lân nung chảy Văn Điển
Chương 1
LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TIÊU THỤ SẢN PHẨM CỦA DOANH NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1. Tiêu thụ sản phẩm trong nền kinh tế thị trường
1.1.1. Khái niệm tiêu thụ sản phẩm.
Đất nước ta đã và đang từng bước hội nhập với tình hình chung của nền kinh tế thế giới. Ngày nay kinh tế quốc doanh không còn là độc tôn như thời kỳ bao cấp nhưng vẫn giữ được vai trò chủ đạo bởi vì chính sự có mặt của cá khu vực kinh tế khác vừa tạo điều kiện phát huy sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế, đồng thời buộc các doanh nghiệp quốc doanh phải hoạt động có hiệu quả để luôn giữ vai trò chủ đạo của mình.
Trong nền kinh tế thị trường các đơn vị sản xuất kinh doanh ở các thành phần kinh tế cùng tồn tại, cạnh tranh với nhau và bình đẳng trước pháp luật. Các đơn vị sản xuất sản phẩm hàng hoá dịch vụ mà còn phải có nhiệm vụ tổ chức tiêu thụ sản phẩm tốt.
Tiêu thụ sản phẩm là quá trình đơn vị bán xuất giao sản phẩm cho đơn vị mua và thu được tiền về có sản phẩm đó. Thời điểm sản xuất được xác định là tiêu thụ khi người mua sản phẩm hàng hoá dịch vụ đã thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán, không phụ thuộc vào việc tiền đã thu được hay chưa.
Tiêu thụ sản phẩm là khâu cuối cùng trong quá trình sản xuất kinh doanh, là quá trình trao đổi để thực hiện giá trị sản phẩm hàng hoá dịch vụ, chuyển vốn từ hình thái hiện vật sang hình thái giá trị.
T – H
Tư liệu sản xuất
Sức lao động
.........SX...........
H’ – T’
1.1.2. Doanh thu tiêu thụ sản phẩm
Doanh thu là biểu hiện tổng giá trị của các lợi ích kinh tế mà doanh nghiệp thu được từ hoạt động kinh doanh và hoạt động khác trong một thời kì nhất định.
Doanh thu tiêu thụ sản phẩm là biểu hiện tổng giá trị các loại hàng hòa dịch vụ mà doanh nghiệp đã bán ra trong một thời kì nhất định.
Thời điểm xác định doanh thu tiêu thụ sản phẩm là thời điểm hàng hóa được chuyển giao và khách hàng chịu chấp nhận thanh toán.
Trường hợp doanh nghiệp có các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ đem làm quà tặng, quà biếu cho các đơn vị khác, hoặc để tiêu dùng nội bộ doanh nghiệp cũng phải tính toán để xác định doanh thu.
Thời điểm xác định doanh thu tiêu thụ sản phẩm là thời điểm hàng hóa đợc chuyển giao và khách hàng chịu chấp nhận thanh toán. Doanh thu tiêu thụ sản phẩm không phải luôn đồng nhất với tiền bán hàng. Tiền bán hàng thu được khi doanh nghiệp đã xuất giao sản phẩm và thu đợc tiền về, còn doanh thu được xác định ngay cả khi khách hàng chấp nhận nhưng chưa thanh toán tiền hàng. Khi có các khoản giảm doanh thu như giảm giá hàng bán, chiết khấu thơng mại, hàng bán bị trả lại thì doanh thu tiêu thụ và tiền bán hàng còn khác nhau về chất. Khi đó tiền bán hàng chỉ là một phần của doanh thu tiêu thụ, ứng với số tiền thực tế khách hàng đã thanh toán cho doanh nghiệp. Để thấy rõ sự khác nhau này ta hãy đi vào từng trờng hợp xác định doanh thu tiêu thụ sản phẩm:
Trường hợp 1: doanh nghiệp bán hàng và được khách hàng thanh toán ngay lượng hàng bán ra sẽ được xác định ngay là tiêu thụ, đồng thời doanh thu bán hàng và tiền bán hàng được xác định tại cùng một thời điểm.
Trường hợp 2: doanh nghiệp bán hàng theo hình thức trả góp, khi đó doanh thu tiêu thụ đợc xác định ngay nhn tiền bán hàng chỉ thu đợc một phần, các phần còn lại thu theo định kì.
Trường hợp 3: Doanh nghiệp sản xuất giao hàng và được khách hàng chấp nhận thanh toán nhưng chưa thanh toán ngay. Doanh thu tiêu thụ sản phẩm được xác định ngay nhưng tiền bán hàng thì chưa thu được về.
Trường hợp 4: Doanh nghiệp giao đủ hàng theo số tiền khách hàng đã ứng trước, khi đó số tiền ứng trước trở thành tiền bán hàng của doanh nghiệp. Doanh thu tiêu thụ sản phẩm cũng được xác định vào thời điểm đó.
Trường hợp 5: Doanh nghiệp thu được tiền bán hàng hoặc được chấp nhận thanh toán số hàng gửi đi bán hoặc giao cho các đại lí. Trường hợp này thường hay dẫn đến nhầm lẫn về thời điểm dẫn đến nhầm lẫn về thời điểm hạch toán doanh thu giữa các kì hạch toán, do có sự khác nhau về thời điểm giao hàng và thanh toán tiền hàng, về không gian và thời gian. Để xác định doanh thu đúng thời điểm cần nắm chắc thời điểm thanh toán hoặc thời điểm chấp nhận thanh toán của khách hàng.
Tóm lại, có 2 điều kiện để xác định doanh thu tiêu thụ sản phẩm hàng hóa:
Doanh nghiệp đã xuất giao sản phẩm cho khách hàng chưa?
Khách hàng đã thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán cho doanh nghiệp chưa?
1.1.3. Ý nghĩa của tiêu thụ sản phẩm và doanh thu tiêu thụ sản phẩm
Trong nền kinh tế thị trường, nhiệm vụ của doanh nghiệp sản xuất không chỉ có nhiệm vụ sản xuất sản phẩm mà còn phải tổ chức tiêu thụ sản phẩm đó. Trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp phải tự bảo đảm về vốn và tự chủ trong sản xuất kinh doanh. Ở điều kiện đó, việc tiêu thụ sản phẩm và doanh thu tiêu thụ sản phẩm có ý nghĩa rất quan trọng.
Đối với bản thân doanh nghiệp, vấn đề tiêu thụ sản phẩm và tiêu thụ được doanh thu có ý nghĩa kinh tế rất lớn là vấn đề quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp bởi vì:
- Tiêu thụ được sản phẩm chính tỏ sản phẩm doanh nghiệp sản xuất ra được thị trường chấp nhận và khối lượng, chủng loại quy cách mẫu mã và giá cả. Đây là cơ sở để doanh nghiệp tái sản xuất mở rộng. Nếu sản phẩm không tiêu thụ được sẽ gây nên tình trạng vốn lại ứ đọng, chi phí bảo quản lớn làm cho hiệu quả sử dụng vốn giảm tình trạng này kéo dài gây nhiều khó khăn cho hoạt động của doanh nghiệp, sản xuất bị ngừng trệ thậm trí có thể phá sản doanh nghiệp.
- Tiêu thụ sản phẩm là giai đoạn cuối cùng kết thúc một chu kỳ kinh doanh và mở ra một chu kỳ kinh doanh mới tiếp theo. Chỉ có thông qua tiêu thụ sản phẩm đồng vốn của doanh nghiệp mới trở về hình thái ban đầu của nó. Có tiêu thụ sản phẩm mới có doanh thu để bù đắp toàn bộ chi phí mà doanh nghiệp đã chi ra trong quá trình sản xuất và tiêu thụ đảm bảo cho quá trình sản xuất được liên tục.
Thông qua tiêu thụ sản phẩm, có doanh thu mới có thể thực hiện tốt nghĩa vụ đối với nhà nước như: thuế, phí và lệ phí. Đây là nguồn thu quan trọng của ngân sách nhà nước để từ đó nhà nước có thể triển khai các kế hoạch, phát triển kinh tế xã hội. Thực hiện tiêu thụ sản phẩm nhanh chóng sẽ đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn lưu động, rút ngắn chu kỳ sản xuất, tạo điều kiện cho quá trình sản xuất tiếp sau. Khi sản phẩm của doanh nghiệp không tiêu thụ được sẽ khiến doanh nghiệp không thu hồi đủ vốn, khả năng thanh toán yếu và khả năng cạnh tranh giảm.
Doanh thu tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp là bộ phận quan trọng quyết định đến sự tồn tại của doanh nghiệp. Doanh thu tiêu thụ sản phẩm phản ánh quy mô của quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp, phản ánh trình độ chỉ đạo tổ chức sản xuất kinh doanh, tổ chức công tác kế toán.
Tiêu thụ sản phẩm được thực hiện tốt sẽ làm tăng lợi nhuận, tăng khả năng đáp ứng nhu cầu vốn kinh doanh của doanh nghiệp bằng chính nguồn vốn tự có của mình, giúp cho doanh nghiệp vượt qua khó khăn gặp phải do thiếu vốn. Đồng thời doanh nghiệp có khả năng thanh toán những khoản nợ đến hạn tạo điều kiện cho tình hình tài chính của doanh nghiệp được lành mạnh.
Hơn nữa, trong điều kiện nền kinh tế mở cửa hội nhập với các nước trong khu vực và quốc tế thì đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm được coi là chiếc cầu nối quan trọng không chỉ đối với các đơn vị, các vùng kinh tế trong nước với nhau mà còn hợp tác, hội nhập với thị trường khu vực và trên thế giới, thúc đẩy giao lưu thương mại quốc tế phát triển ngày càng mạnh mẽ.
Việc tiêu thụ sản phẩm ra nước ngoài sẽ cải thiện cán cân thương mại quốc tế, đưa đất nước ra khỏi tình trạng nhập siêu thúc đẩy nền sản xuất phát triển. Đẩy mạnh tiêu thụ, tăng doanh thu là điều kiện để doanh nghiệp tiến hành trích lập các quỹ, tăng quy mô vốn chủ sở hữu, tăng cường đầu tư theo chiều sâu, mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh...
Đứng trên góc độ toàn bộ nền kinh tế, vấn đề đẩy mạnh tiêu thụ và tăng doanh thu, lợi nhuận cũng có ý nghĩa quan trọng thông qua tiêu thụ sẽ đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng xã hội, giữ vững được quan hệ cân đối cung và cầu, tiền và hàng đồng thời thông qua tiêu thụ để có thể dự đoán nhu cầu của xã hội nói chung và từng khu vực nói riêng, là điều kiện để có chính sách đảm bảo sự phát triển cân đối trong từng ngành, từng lĩnh vực, và trong toàn bộ nền kinh tế. Nếu tất cả các doanh nghiệp đều cố gắng đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm, tăng doanh thu sẽ góp phần tăng trưởng nền kinh tế.
1.1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến tiêu thụ sản phẩm và tăng doanh thu tiêu thụ sản phẩm.
1.1.4.1. Nhân tố trực tiếp
1.1.4.1.1. Khối lượng sản phẩm
Khối lượng sản phẩm sản xuất ra có ảnh hưởng trực tiếp đến khối lượng sản phẩm tiêu thụ. Khối lượng sản phẩm sản xuất ra càng nhiều thì khả năng về doanh thu sẽ càng lớn. Khối lượng sản xuất và tiêu thụ còn phụ thuộc vào quy mô của doanh nghiệp, tình hình tổ chức công tác tiêu thụ sản phẩm, việc ký kết hợp đồng tiêu thụ đối với khách hàng, việc giao hàng, vận chuyển và thanh toán tiền hàng. Tuy nhiên, để tiêu thụ được nhiều thì sản phẩm sản xuất ra phải phù hợp với nhu cầu của thị trường và được thị trường chấp nhận. Nếu doanh nghiệp sản xuất khối lượng sản phẩm quá lớn, vượt quá nhu cầu thị trường thì cung sẽ lớn hơn cầu và kết quả là sản phẩm của doanh nghiệp không thể tiêu thụ hết được. Ngược lại, nếu khối lượng sản phẩm sản xuất của doanh nghiệp không đủ để đáp ứng nhu cầu thị trường thì doanh nghiệp đã bỏ lỡ cơ hội tăng doanh thu và thu hút thêm khách hàng để mở rộng thị trường tiêu thụ. Chính vì vậy, đối với mỗi doanh nghiệp, khối lượng sản phẩm sản xuất phải được xác định trên cơ sở nghiên cứu tình hình và nhu cầu thị trường, kết hợp chặt chẽ với khả năng sản xuất của doanh nghiệp.
1.1.4.1.2. Giá bán sản phẩm
Trong trường hợp các nhân tố khác không thay đổi, thì việc thay đổi giá bán cũng có ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu tiêu thụ.
Giá cả sản phẩm tác dụng rất lớn tới quá trình tiêu thụ sản phẩm đồng thời là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu tiêu thụ sản phẩm. Về nguyên tắc, giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa và biến động xung quanh giá trị hàng hóa. Trong cơ chế thị trường, giá cả được hình thành tự phát trên thị trường theo quy luật cung cầu. Vì thế doanh nghiệp có thể sử dụng giá cả như một đòn bẩy sắc bén để đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm. Nếu doanh nghiệp đưa ra một mức giá phù hợp với chất lượng sản phẩm, phù hợp với thị trường tiêu thụ thì sẽ được đông đảo người tiêu dùng chấp nhận. Ngược lại nếu đưa ra mức giá bán không hợp lý thì doanh nghiệp sẽ không tiêu thụ được sản phẩm của mình. Mặt khác, nếu doanh nghiệp quản lý sản xuất tốt, tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm dẫn tới có thể bán hàng ra thấp hơn mặt bằng giá của các sản phẩm cùng loại trên thị trường. Điều này là một lợi thế to lớn cho doanh nghiệp trong việc cạnh tranh khách hàng trên thị trường
1.1.4.1.3. Kết cấu sản phẩm tiêu thụ.
Hiện nay để chiếm lĩnh thị trường và tạo vị thế vững chắc, các doanh nghiệp thường đưa ra tiêu thụ nhiều loại sản phẩm với công dụng và giá cả khác nhau. Kết cấu sản phẩm tiêu thụ chính là tỷ trọng theo doanh thu của từng loại sản phẩm so với tổng doanh thu tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp.
Kết cấu mặt hàng sản xuất và tiêu thụ thay đổi cũng có ảnh hưởng đến doanh thu tiêu thụ. Nếu tăng tỷ trọng bán ra những mặt hàng có giá bán cao, giảm tỷ trọng bán ra những sản phẩm có giá bán thấp thì dù giá bán cá biệt mỗi sản phẩm không thay đổi nhưng tổng doanh thu tiêu thụ sẽ tăng và ngược lại.
Kết cấu sản phẩm tiêu thụ thay đổi trước hết là do tác động của nhu cầu thị trường. Để đáp ứng với nhu cầu thường xuyên biến đổi đó, doanh nghiệp tự mình điều chỉnh hoạt động sản xuất kinh doanh, kịp thời ra quyết định mở rộng hay thu hẹp quy mô nguồn hàng doanh nghiệp đang sản xuất kinh doanh sao cho vừa đáp ứng được nhu cầu của thị trường vừa tăng lợi ích cho bản thân doanh nghiệp với những hợp đồng kinh tế đã ký kết, doanh nghiệp phải thực hiện tốt hợp đồng, không vì tăng doanh thu, chạy theo lợi nhuận mà phá vỡ kết cấu mặt hàng, ảnh hưởng đến quyền lợi của khách hàng.
1.1.4.2. Nhân tố gián tiếp
1.1.4.2.1. Chất lượng sản phẩm tiêu thụ.
Chất lượng sản phẩm hàng hóa dịch vụ có ảnh hưởng lớn tới giá cả sản phẩm và dịch vụ, do đó có ảnh hưởng trực tiếp tới doanh thu tiêu thụ.sản phẩm có chất lượng tốt sẽ tiêu thụ nhanh chóng và dễ dàng với giá bán cao vì vậy chất lượng chính là giá trị được tạo thêm. Ngược lại, những sản phẩm chất lượng kém không đúng với yêu cầu trong hợp đồng thì đơn vị mua hàng có thể từ chối thanh toán và sẽ dẫn đến sản phẩm phải bán với giá thấp, làm giảm bớt mức doanh thu.
Như vậy, trong nền kinh tế thị trường với sự cạnh tranh ngày càng quyết liệt như hiện nay thì chất lượng sản phẩm là một trong những vũ khí sắc bén và hiệu quả để đẩy mạnh tiêu thụ và tăng doanh thu. Nâng cao chất lượng sản phẩm còn tạo điều kiện tiêu thụ sản phẩm dễ dàng, nhanh chóng thu được tiền bán hàng. Chính chất lượng sản phẩm hàng hóa đã làm tăng giá trị sản phẩm và tăng uy tín cho doanh nghiệp.
1.1.4.2.2. Mẫu mã hình thức sản phẩm
Công tác thiết kế mẫu mã hình thức sản phẩm bao gồm các quyết định về nhãn hiệu và bao bì sản phẩm.
Nhãn hiệu là một tên gọi, thuật ngữ, hình ảnh mẫu vẽ hay tổng hợp tất cả cái đó được sử dụng như một biểu tượng cho sản phẩm và để nhận ra sản phẩm. Nhãn hiệu mang lại những lợi ích cho cả tạo nhãn hiệu và cả người tiêu dùng. Với người tiêu dùng, nhãn hiệu giúp họ nhận biết các sản phẩm khác nhau, giúp cho việc mua bán thuận lợi hơn. Người mua coi nhãn hiệu như một sự chỉ dẫn về chất lượng sản phẩm. Mặt khác họ có thể tránh những sản phẩm không tốt qua việc thử dùng những nhãn hiệu đó.
Bao bì là những hoạt động liên quan đến việc thiết kế kiểu và sản xuất bao bì. Bao bì có vai trò rất quan trọng. Bao bì có thể tạo ra sự khác biệt, nó làm cho sản phẩm trở nên an toàn và dễ dàng hơn trong quá trình sử dụng.
Bao bì được coi là “người bán hàng im lặng”. Nó chỉ dẫn cho người mua thấy và quyết lựa chọn những quyết định lựa chọn sản phẩm. Bao bì tốt sẽ giúp khách hàng lưu giữ hình ảnh của sản phẩm và doanh nghiệp.
Bao bì giảm chi phí phân phối và xúc tiến. Nhờ bao bì sẽ làm giảm thiệt hại trong quá trình vận chuyển, lưu kho, bán hàng, cải tiến việc trưng bày và tiết kiệm không gian.
Bao bì cũng có tác động xúc tiến trực tiếp và quảng cáo tốt hơn trong quá trình mua hàng thực tế.
1.1.4.2.3. Dịch vụ trước, trong và sau bán hàng
Công tác tổ chức bán hàng cũng là nhân tố rất quan trọng trong quá trình tiêu thụ sản phẩm. Nó giúp cho doanh nghiệp có thể đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm. Công tác tổ chức bán hàng gồm những mặt sau:
- Về hình thức bán hàng: Mỗi khách hàng có thu nhập và tâm lý tiêu dùng khác nhau, do vậy nếu doanh nghiệp áp dụng nhiều hình thức thì khách hàng sẽ có điều kiện lựa chọn cho mình một phương thức thích hợp. Điều này sẽ kích thích khách hàng tiêu dùng sản phẩm của doanh nghiệp, tạo điều kiện để doanh nghiệp mở rộng thị trường, tăng doanh thu tiêu thụ sản phẩm.
- Phương thức thanh toán tiền hàng: Phương thức thanh toán nhanh chóng tiện lợi sẽ tạo được tâm lý thoải mái cho người mua. Doanh nghiệp nếu áp dụng nhiều phương thức thanh toán sẽ giúp khách hàng tự do lựa chọn phương thức họ cảm thấy phù hợp. Phương thức thanh toán nếu được tổ chức tốt sẽ giúp cho doanh nghiệp nhanh chóng thu được tiền hàng và việc tổ chức tốt công tác thanh toán chính là đòn bẩy kích thích tiêu dùng, đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm.
- Hệ thống dịch vụ trước và sau bán hàng: Hệ thống dịch vụ nhằm mang đến sự phục vụ tốt nhất và sự thỏa mãn nhu cầu vật chất của khách hàng khi mua sản phẩm của doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp tổ chức tốt hệ thống dịch vụ kèm theo bán hàng sẽ tạo được ấn tượng tốt đối với khách hàng, gây được lòng tin cho khách hàng, từ đó nâng cao uy tín cho doanh nghiệp. Trong điều kiện xã hội ngày càng phát triển khả năng thanh toán nói chung ngày càng cao thì yếu tố dịch vụ đang tỏ rõ lợi thế: sản phẩm có chất lượng cao đi kèm với hệ thống dịch vụ hoàn hảo là sức mạnh cạnh tranh của doanh nghiệp.
1.2. Vai trò của tài chính doanh nghiệp trong việc thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm.
1.2.1. Sự cần thiết phải đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm
Chuyển sang nền kinh tế thị trường sản xuất có những bước tiến độ nhảy vọt do những thành tựu của cuộc cách mạng kỹ thuật và công nghệ mang lại, các sản phẩm phong phú về chủng loại, chất lượng ngày càng được tiêu chuẩn hoá. Tiêu thụ sản phẩm có vai trò quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp chỉ sản xuất khi đã có sự đảm bảo sản phẩm đó sẽ tiêu thụ. Do vậy, chỉ sản xuất khi đã có sự đảm bảo sản phẩm đó sẽ được tiêu thụ. Do vậy, tiêu thụ sản phẩm là điều kiện đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thông suốt, chỉ có thông qua tiêu thụ, đồng vốn mà doanh nghiệp đã bỏ ra mới trở về trạng thái ban đầu của nó, tiếp tục thực hiện vòng luân chuyển mới. Thông qua tiêu thụ, thị trường sẽ đánh giá chính xác sự phù hợp về chất lượng, kiểu dáng, khối lượng sản phẩm doanh nghiệp đã đưa ra thị trường. Từ đó doanh nghiệp có phương pháp cải tiến sản phẩm thay đổi mẫu mã phù hợp với nhu cầu tiêu dùng, xác định được thị trường chủ yếu, thị trường tiềm năng để có biện pháp đầu tư đúng hướng phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường luôn chứa đựng nguy cơ thử thách, vấn đề tiêu thụ là mối quan tâm thường trực của tất cả các doanh nghiệp. Doanh nghiệp chỉ thực sự tồn tại và phát triển mở rộng khi sản phẩm của nó tìm được chỗ đứng vững chắc và có sức sống lâu dài trên thị trường. Nói khác đi, việc đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm là hết sức cần thiết, nó quyết định sự tồn tại và tăng trưởng của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
Thời đại ngày nay là thời đại của thông tin, khoa học và công nghệ, xu thế quốc tế hóa và toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ nên vấn dề tiêu thụ không chỉ bó hẹp trong phạm vi quốc gia. Ngoài việc giữ vững và mở rộng thị trường tiêu thụ trong nước doanh nghiệp cần dũng cảm tìm kiếm giải pháp để mở rộng thị trường tiêu thụ ra phạm vi khu vực và thế giới. Nền kinh tế mở hiện nay ngày càng có nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp hợp tác đầu tư liên doanh với nước ngoài để có thể tranh thủ vốn và kỹ thuật hiện đại để sản phẩm của doanh nghiệp có tiếng nói trên thị trường quốc tế.
Thực tế cho thấy, sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam sản xuất hiện nay có chất lượng không thua kém chất lượng sản phẩm ngoại cùng loại, thế nhưng sức cạnh tranh của sản phẩm lại không cao. Chính vì vậy, để sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam tiêu thụ được trên thị trường quốc tế thì phải tăng sức cạnh tranh cho nói bằng cách đẩy mạnh việc tìm hiểu thị trường, nghiên cứu nhu cầu, thị hiếu cũng như tâm lý tiêu dùng của từng vùng, từng nước, từng khu vực…để đưa ra những sản phẩm chất lượng tốt kiểu dáng và giá cả phù hợp với tâm lý người tiêu dùng và khả năng thanh toán của từng loại thị trường, từng bước khẳng định bản sắc và nhãn hiệu hàng hóa Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Ngày nay, với vị trí đặc biệt quan trọng, tiêu thụ là cầu nối để các doanh nghiệp Việt Nam tham gia hội nhập với thị trường quốc tế, thúc đẩy giao lưu kinh tế quốc tế và thương mại hóa toàn cầu làm cho thị trường Việt Nam gắn liền và trở thành một bộ phận của thị trường thế giới, từ đó tạo điều kiện thúc đẩy nền kinh tế trong nước ngày càng phát triển.
1.2.2. Tác động của tiêu thụ sản phẩm đến tài chính doanh nghiệp.
Chúng ta đã biết, tài chính doanh nghiệp là một khâu của hệ thống tài chính trong nền kinh tế, là một phạm trù kinh tế khách quan gắn liền với sự ra đời của nền kinh tế hàng hóa tiền tệ.
Tài chính doanh nghiệp là tổng hợp các mối quan hệ kinh tế dưới hình thức giá trị gắn liền với việc sử dụng và hình thành quỹ tiền tệ nhất định nảy sinh trong quá trình phân phối, phục vụ cho mục đích nhất định.
Tiêu thụ sản phẩm có ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình tài chính của doanh nghiệp. Tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp thực hiện được nhanh chóng sẽ làm cho doanh thu tiêu thụ của doanh nghiệp tăng đồng thời tăng vòng quay của vốn, nâng cao hiệu suất sử dụng vốn.
Doanh thu tiêu thụ tăng kéo theo lợi nhuận thu được của doanh nghiệp cũng tăng. Lợi nhuận tăng lên sẽ làm tăng doanh lợi doanh thu, doanh lợi tổng vốn – tức là làm tăng khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm, tăng doanh thu và lợi nhuận dẫn đến vốn chủ sở hữu tăng, khả năng thanh toán lãi vay của doanh nghiệp được cải thiện tốt hơn, tình hình tài chính ổn định tạo điều kiện để doanh nghiệp tăng quy mô vốn sản xuất, thực hiện tái sản xuất mở rộng. Như vậy, đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm và tăng doanh thu sẽ cải thiện tình hình tài chính của doanh nghiệp ngày càng vững mạnh.
Ngược lại, nếu sản phẩm của doanh nghiệp tiêu thụ chậm chạp sẽ làm giảm doanh thu tiêu thụ sản phẩm, giảm vòng quay vốn lưu động và giảm vòng quay tổng vốn, công suất sử dụng tài sản cố định thấp. Giảm tiêu thụ sản phẩm cũng đồng nghĩa với việc giảm lợi nhuận do đó làm giảm khả năng sinh lời của doanh nghiệp, khả năng thanh toán lãi vay của doanh nghiệp cũng bị ảnh hưởng làm cho tài chính doanh nghiệp gặp khó khăn.
1.2.3. Vai trò của tài chính doanh nghiệp trong việc đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm.
Có thể khẳng định rằng trong hoạt động sản xuất kinh doanh vai trò của tài chính doanh nghiệp ngày càng cao. Đối với mọi doanh nghiệp việc tối đa hóa lợi nhuận là một trong những cái đích cần hướng tới của tài chính doanh nghiệp. Nhưng để đạt được điều này thì trước hết phải thành công trong việc thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm, trên cơ sở đó mới tạo tiền đề để tăng doanh thu, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Vai trò của tài chính doanh nghiệp được thể hiện trên các điểm sau:
- Tài chính doanh nghiệp có vai trò quan trọng trong việc tạo lập vốn, đảm bảo đầy đủ và kịp thời vốn cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đáp ứng nhu cầu tiếp cận, chiếm lĩnh và mở rộng thị trường tiêu thụ. Ngoài ra tài chính doanh nghiệp còn xác định đúng đắn các nhu cầu vốn cần thiết cho hoạt động của doanh nghiệp trong từng thời kỳ và lựa chọn các phương pháp, hình thức thích hợp, sử dụng các công cụ đòn bẩy như: lãi suất cho vay, cổ tức khi phát hành trái phiếu, khai thác và huy động vốn từ bên trong và bên ngoài, đáp ứng kịp thời các nhu cầu vốn cho hoạt động, từ đó tạo điều kiện để sản xuất sản phẩm đúng kế hoạch. Sản phẩm sản xuất ra chất lượng tốt, kiểu dáng mẫu mã phong phú, khối lượng sản phẩm phù hợp với nhu cầu thị trường, dẫn đến sản phẩm sản xuất ra tiêu thụ nhanh chóng với khối lượng lớn.
- Tài chính doanh nghiệp giữ vai trò quan trọng trong việc tổ chức sử dụng vốn tiết kiệm và hiệu quả. Thông qua việc nghiên cứu đánh giá mọi mặt thị trường, tài chính doanh nghiệp lập các kế hoạch như kế hoạch sản xuất kinh doanh, kế hoạch vật tư tiền vốn, kế hoạch xây dựng cơ bản, kế hoạch tiêu thụ sản phẩm cũng như lập các dự toán chi phí sản xuất kinh doanh và kế hoạch giá thành sản phẩm. Nhờ có các kế hoạch này mà sản xuất của doanh nghiệp luôn gắn liền với thị trường, với nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Trên cơ sở dự toán chi phí, kế hoạch giá thành và các kế hoạch khác, tài chính doanh nghiệp thực hiện kiểm tra giám sát việc sử dụng vốn, đảm bảo sử dụng có hiệu quả vật tư tiền vốn, tiết kiệm chi phí, đảm bảo sự chỉ đạo đồng bộ, ăn khớp trong quá trình sản xuất kinh doanh. Nhờ vậy sản phẩm sản xuất ra có giá thành hạ, đảm bảo chất lượng, kiểu dáng mẫu mã theo đúng thiết kế phù hợp với nhu cầu chung nên dễ dàng thu hút được khách hàng và việc tiêu thụ được nhanh chóng. Tài chính doanh nghiệp thông qua việc sử dụng vốn tiết kiệm và có hiệu quả bằng cách xác định trọng điểm quản lý và sử dụng vốn đúng đắn, phân phối vốn hợp lý để đáp ứng đầy đủ, kịp thời nhu cầu vốn cụ thể của từng khâu, từng bộ phận trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, đảm bảo cho doanh nghiệp luôn chủ động về vốn, đồng vốn được sử dụng đúng mục đích. Trên cơ sở đó, doanh nghiệp có điều kiện nắm bắt thời cơ và tăng khả năng cạnh tranh của mình trên thị trường. Cùng với việc nâng cao chất lượng sản phẩm, giá bán sản phẩm hạ trên cơ sở hạ giá thành thì việc củng cố và nâng cao uy tín của doanh nghiệp sẽ tạo điều kiện thuận lợi để sản phẩm của doanh nghiệp được tiêu thụ dễ dàng hơn, tăng doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp. Bên cạnh đó tài chính doanh nghiệp còn sử dụng công cụ giá bán, chiết khấu, quà tặng, bảo hành, vận chuyển lắp đặt sản phẩm để thu hút khách hàng. Đây là một trong những biện pháp hữu hiệu nhằm đẩy mạnh khối lượng tiêu thụ, tăng doanh thu của doanh nghiệp.
Tóm lại, tiêu thụ sản phẩm và đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm là vấn đề quan trọng hàng đầu đối với doanh nghiệp bởi nó ảnh hưởng trực tiếp đến toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh và tình hình tài chính của doanh nghiệp. Song bên cạnh đó, tài chính doanh nghiệp cũng có ý nghĩa và giữ vai trò to lớn đối với công tác tiêu thụ sản phẩm.
1.3. Các biện pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm, tăng doanh thu tiêu thụ.
Lợi nhuận là mục tiêu cuối cùng của các nhà quản lý doanh nghiệp, vì vậy muốn tối đa hóa lợi nhuận thì việc đầu tiên là phải làm sao để đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm và tăng quy mô doanh thu là câu hỏi mà bất kỳ doanh nghiệp nào cũng quan tâm. Mỗi doanh nghiệp với điều kiện cụ thể khác nhau sẽ có biện pháp cụ thể khác nhau nhưng trên góc độ tài chính doanh nghiệp, để đẩy mạnh tiêu thụ và tăng doanh thu tiêu thụ có một số biện pháp chủ yếu sau:
1.3.1. Tăng số lượng sản phẩm tiêu thụ, nâng cao chất lượng sản phẩm đưa ra tiêu thụ.
Chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, các doanh nghiệp phải tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Bởi vậy doanh nghiệp phải luôn luôn gắn với thị trường, chủ động đối phó với những biến động của nhu cầu thị trường để kịp thời điều chỉnh và tổ chức sản xuất, đáp ứng những đòi hỏi của thị trường.
Khối lượng sản phẩm đưa ra tiêu thụ phải dựa trên kết quả công tác nghiên cứu thị trường, bám sát nhu cầu thị trường. Việc điều tra nghiên cứu thị trường một cách thường xuyên và nghiêm túc là điều kiện để doanh nghiệp có chính sách sản phẩm đúng đắn, thay đổi cải tiến sản phẩm phù hợp với những yêu cầu của thị trường, tăng khối lượng sản phẩm tiêu thụ. Để tăng khối lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ thì trước hết trong sản xuất doanh nghiệp phải tăng khối lượng sản phẩm bằng cách nâng cao năng suất lao động. Muốn vậy thì doanh nghiệp phải:
Thường xuyên đầu tư mua sắm, đổi mới máy móc thiết bị và cần phải có kế hoạch chủ động đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ công nhân, cán bộ quản lý.
Sử dụng các biện pháp kinh tế nhằm khuyến khích tinh thần hăng hái lao động sản xuất của công nhân.
Ngày nay, khả năng thanh toán của người dân đã tăng lên, những tiến bộ kỹ thuật công nghệ được áp dụng vào sản xuất ngày càng nhiều đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng cao hơn, hình thức đẹp hơn và tiện dụng hơn. Nâng cao chất lượng sản phẩm tiêu thụ là biện pháp có tính chất chiến lược bởi qua đó uy tín của doanh nghiệp được nâng lên tạo điều kiện tiêu thụ được nhiều sản phẩm. Để nâng cao chất lượng sản phẩm đòi hỏi doanh nghiệp phải chú trọng đổi mới máy móc thiết bị, đổi mới dây chuyền sản xuất, ứng dụng kỹ thuật công nghệ mới vào sản xuất để không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, sản phẩm ngày càng đa dạng về chủng loại, phong phú về kiểu dáng và ngày càng tiện dụng để sản phẩm doanh nghiệp bán nhanh nhất với số lượng nhiều nhất.
1.3.2. Xây dựng chính sách giá linh hoạt, hợp lý.
Giá cả là nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu tiêu thụ sản phẩm, đồng thời giá cả cũng là công cụ hiệu quả kích thích tiêu thụ sản phẩm. Nhà kinh doanh phải coi giá cả như một công cụ để tác động vào nhu cầu, kích thích khách hàng nhằm tăng cầu dẫn đến tăng doanh thu.
Chính vì vậy, giá bán sản phẩm của doanh nghiệp phải được xây dựng và áp dụng linh hoạt cho từng thời kỳ, từng điều kiện cụ thể để vừa đảm bảo tăng doanh thu tiêu thụ vừa khuyến khích khách hàng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Cùng một loại sản phẩm nhưng bán ở những thị trường khác nhau thì giá bán không nhất thiết phải như nhau thông qua xây dựng chính sách giá cả linh hoạt để kích thích khách hàng mua sản phẩm hàng hóa của doanh nghiệp.
Tiêu thụ sản phẩm phụ thuộc không ít vào quá trình sản xuất nên khi xây dựng giá bán cũng như việc xác định thời điểm chuyển đổi giá bán sản phẩm, ngoài việc căn cứ vào mặt bằng giá cả thị trường, mức giá mong muốn của khách hàng… thì doanh nghiệp cũng cần căn cứ vào phương hướng sản xuất của doanh nghiệp. Đối với những sản phẩm tồn đọng, lạc mốt thì doanh nghiệp có thể giảm giá bán, bán hòa vốn thậm chí lỗ để nhanh chóng thu hồi vốn, tập trung vốn cho kế hoạch sản xuất sản phẩm mới. Đối với sản phẩm doanh nghiệp mới đưa ra chào hàng có thể bán với giá thấp, giảm giá trong thời gian đầu để thu hút khách hàng biết và làm quan với sản phẩm.
Như vậy giá cả là một công cụ sắc bén trong kinh doanh, nhất là trong công tác tiêu thụ sản phẩm. Để đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ, tăng quy mô doanh thu thì việc xây dựng một chính sách giá linh hoạt, mềm dẻo phù hợp với từng điều kiện cụ thể là một trong những biện pháp hữu hiệu doanh nghiệp cần áp dụng. Doanh nghiệp cần có chính sách giá cả hợp lý cho từng thời kỳ và từng loại thị trường, quyết định về giá cả của doanh nghiệp phải đảm bảo bù đắp chi phí và có lãi nhưng đồng thời phải kích thích được sản phẩm tiêu thụ.
1.3.3. Xây dựng và lựa chọn kết cấu sản phẩm hợp lý
Doanh nghiệp để tồn tại và phát triển được phải biết thích nghi và hòa nhập với môi trường hoạt động của mình. Do đó doanh nghiệp phải xây dựng và lựa chọn kết cấu mặt hàng hợp lý trên cơ sở nắm vững nhu cầu thị trường, xem thị hiếu tiêu dùng tập trung vào những mặt hàng nào là chủ yếu từ đó nâng cao tỷ trọng những mặt hàng nào đó trong kết cấu sản phẩm của doanh nghiệp có khả năng bán với giá cao dẫn đến tăng doanh thu cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp nên hạn chế hoặc ngừng sản xuất những mặt hàng không phù hợp với thị trường, thường xuyên nghiên cứu cải tiến sản phẩm, chế tạo sản phẩm mới để tìm ra kết cấu sản phẩm tiêu thụ tối ưu. Đối với những hợp đồng tiêu thụ đã ký kết, doanh nghiệp phải thực hiện đúng kế hoạch mặt hàng, tránh vì chạy theo lợi nhuận mà phá vỡ kết cấu mặt hàng tiêu thụ, gây thiệt hại cho khách hàng và làm giảm uy tín của doanh nghiệp.
Hiện nay những đòi hỏi của khách hàng về mẫu mã, chất lượng sản phẩm ngày càng cao vì vậy doanh nghiệp phải nắm bắt được điều này để từ đó xây dựng được kết cấu mặt hàng tiêu thụ hợp lý, gắn với thị trường và nâng cao hiệu quả kinh tế cho doanh nghiệp, có quyết định thu hẹp hay mở rộng quy mô sản xuất từng loại sản phẩm một cách chính xác, kịp thời.
1.3. 4. Lựa chọn hình thức quảng cáo hợp lý
Thông qua quảng cáo mà người tiêu dùng biết được thông tin về sản phẩm. Do vậy, quảng cáo cần độc đáo, gây ấn tượng nhưng phải đảm bảo cung cấp đầy đủ các thông tin cần thiết về chất lượng, công dụng và giá cả của sản phẩm cho người tiêu dùng, giúp họ biết và hiểu sản phẩm của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp khi tiến hành quảng cáo cần sử dụng nhiều hình thức khác nhau, quảng cáo trên nhiều phương tiện khác nhau để đa dạng hóa hình thức quảng cáo, thu hút rộng rãi sự chú ý của người tiêu dùng. Đối với những sản phẩm mới tung ra thị trường thì quảng cáo là hình thức nhanh nhất giúp người tiêu dùng biết đến sản phẩm với đầy đủ tính năng của nó để từ đó có sự lựa chọn và quyết định sử dụng sản phẩm. Tuy nhiên, việc quảng cáo cũng cần phản ánh đúng sự thật về chất lượng, công dụng… của sản phẩm thì mới đảm bảo chữ tín cho doanh nghiệp và gây được lòng tin với khách hàng từ đó sản phẩm sẽ được tiêu thụ nhanh chóng hơn. Ngược lại nếu quảng cáo không đúng với thực chất sản phẩm của doanh nghiệp thì doanh nghiệp sẽ nhanh chóng bị tẩy chay ra khỏi thị trường.
Để đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm, tăng doanh thu tiêu thụ, doanh nghiệp cần phải áp dụng một số biện pháp tài chính khác như chiết khấu hàng bán, giảm giá hàng bán, quà tặng khuyến mại, cước phí vận chuyển, dịch vụ sửa chữa, bảo hành sản phẩm, hoa hồng cho đại lý... Đây là các biện pháp có tính chất đòn bẩy trong công tác tiêu thu. Việc áp dụng các biện pháp này cần được căn cứ vào tình hình cụ thể của từng doanh nghiệp sao cho hiệu quả thu được là cao nhất với chi phí hợp lý nhất.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC TIÊU THỤ SẢN PHẨM Ở CÔNG TY PHÂN LÂN NUNG CHẢY VĂN ĐIỂN
2.1. Khái quát tình hình sản xuất kinh doanh của công ty Phân lân nung chảy Văn Điển
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của công ty
Tên giao dịch: Van Dien fused magnesium phosphate Company
Đơn vị quản lí: Trọng tài kinh tế TP Hà Nội
Giám đốc công ty: ông Bùi Quang Lanh
Trụ sở: Thị trấn Văn Điển- Huyện Thanh Trì- TP Hà Nội
Lĩch vực kinh doanh chủ yếu sản xuất: sản xuất và kinh doanh phân bón
Vốn điều lệ: 18.000.000.000đ
Mã số thuế: 0100103143
Tel: (04)68844689. Fax:(04)6884277
Email: VAFCO@vnn.vn
Website : www.vinachem.com.vn
Công ty Phân lân nung chảy Văn Điển ( trước đây là nhà máy phân lân Văn Điển) là doanh nghiệp vừa và nhỏ được thành lập từ năm 1960 và đi vào sản xuất từ năm 1963. Sản phẩm của công ty bây giờ đã có mặt khắp cả nước, phục vụ phát triển cây trồng bền vững, cho những mùa bội thu. Phân lân nung chảy Văn Điển có chất lượng tốt, chủng loại phong phú, sử dụng tốt cho hầu hết các loại cây trồng từ lúa, ngô, khoai, sắn, rau đậu….đến các loại cây công ngiệp như cao su, bông, lúa, chè…và các loại cây ăn quả, cây rừng. Phân lân Văn Điển có đặc điểm nổi bật là thích hợp với nhiều vùng đất, từ đất chua phèn , lầy thụt đến đất đồi trọc… Sử dụng phân lân nung chảy Văn Điển còn có tác dụng cải tạo đất. Với các đặc tính nổi trội mà các loại phân lân khác khó có thể bì kịp, phân lân nung chảy Văn Điển đã được tặng những giải thưởng xứng đáng: Bông lúa vàng Việt N am và 2 huy chương vàng hội chợ nông nghiệp quốc tế. Hơn 10 năm nay, sản phẩm của công ty đã có mặt ở thị trường nhiều nước như Nhật Bản,Australia, Malaysia… . Tập thể, cán bộ công nhân của công ty có thể tự hào và tự tin rằng bằng sức lao động sáng tạo không ngừng, họ có thể đứng vững và phát triển vững chắc, góp phần vào sự nghiệp phát triển nền sản xuất nông nghiệp của nước nhà.
2.1.2. Đặc điểm về tổ chức quản lý và tổ chức sản xuất.
2.1.2.1. Cơ cấu bộ máy quản lý kinh doanh.
Xuất phát từ đặc điểm sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, công ty phân lân tổ chức mô hình quản lí theo cơ cấu trực tuyến, đúng theo pháp luật hiện hành. Bộ máy lãnh đạo của công ty bao gồm giám đốc, phó giám đốc và kế toán trưởng.
Giám đốc là người lãnh đạo cao nhất của công ty, chịu trách nhiệm trước nhà nước, trước tập thể và trước kết quả sản xuất kinh doanh của công ty theo quy định của pháp luật, chịu trách nhiệm quản lý, sử dụng và bảo toàn vốn. Giúp việc cho giám đốc là phó giám đốc và kế toán trưởng.
Phó giám đốc giúp cho giám đốc trong lĩnh vực được giám đốc phân công là phụ trách các phòng: Phòng kế hoạch kinh doanh, Phòng tổ chức hành chính, phòng chỉ đạo, phòng tổng hợp. Khi giám đốc vắng mặt, phó giám sẽ giải quyết công việc theo sự uỷ quyền của giám đốc.
Kế toán trưởng là người trực tiếp thực hiện pháp lệnh về kế toán thống kê và điều lệ kế toán của công ty, phòng kế toán do trực tiếp giám đốc và kế toán trưởng phụ trách.
Hiện nay công ty có 5 phong ban chức năng, bao gồm:
* Phòng tổ chức hành chính : gồm các bộ phận tổng hợp từ tổ chức – Lao động – Tiền lương và hành chính quản trị, phòng có nhiệm vụ bố trí sắp xếp lao động trong công ty về số lượng, trình độ tay nghề của từng phòng ban tổ chức sản xếp, phòng có nhiệm vụ tổ chức, thực thi công việc hành chính khác như tiếp khách, bố trí sắp xếp phòng làm việc cũng như trang thiết bị văn phòng khác.
* Phòng kế hoạch kinh doanh: là xương sống của công ty, có nhiệm vụ xây dựng kế hoạch kinh doanh ngắn hạn và dài hạn, tiếp thị và kinh doanh các mặt hàng phân bón và tìm tòi những mẫu hàng nước ngoài như Trung Quốc, , Hàn Quốc..., cùng với các bộ phận ngiệp vụ khai thác xây dựng các định mức về số lượng, chất lượng sản phẩm cũng như chi phí bán hàng, đồng thời còn đảm nhận cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời về cân đối vật tư hàng hoá phục vụ quá trình kinh doanh của công ty.
*Phòng kinh tế : Công ty xuất nhập khẩu trực tiếp các mặt hàng theo đơn đặt hàng nên nhiệm vụ của phòng là làm những thủ tục nhập khẩu, uỷ thác nhập khẩu như xuất khẩu khi có yêu cầu. Cung cấp các thông tin chính xác khi kí kết các hợp đồng thương mai với nước ngoài.
* Phòng tài vụ: Có nhiệm vụ tổ chức theo dõi hạch toán mọi hoạt động kinh tế tài chính diễn ra trong công theo đũng chế độ nhà nước quy định. Huy động mọi nguồn vốn và sử dụng vốn vào mục đích kinh doanh, thúc đẩy của công ty và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với nhà nước cung cấp tài chính cho các phòng ban có liên quan.
*Phòng kỹ thuật: có nhiệm vụ thu thập và tổng hợp, phân tích xử lý thông tin chính xác và có hiệu quả theo yêu cầu của Giám đốc giúp Giám đốc trong việc xây dựng đường lối chiến lược kinh doanh. Phòng có nhiệm vụ tham gia thực hiện các hợp đồng những dự án về sản xuất
2.1.2.2. Bộ máy trực tiếp sản xuất kinh doanh
Bộ máy trực tiếp sản xuất và kinh doanh của công ty gồm các tổ:
nguyên liệu: nhận nguyên vật liệu để tạo ra những mã hàng yều cầu
lò cao
xử lý khí thải
Thành phẩm
Công ty phân lân nung chảy Văn Điển là một doanh nghiệp sản xuất phân lân nung chảy phục vụ nông nghiệp. Toàn bộ thiết bị dây chuyền công nghệ là lò đứng hay còn goị là lò cao do Trung Quốc đầu tư, nguyên nhiên vật liệu là quặng Apatit Lào Cai, quặng Sà Vân Thanh Hóa cỡ hạt 25-80mm. Nhiên liệu dùng để sản xuất là than cok cục phải nhập khẩu.
Quy trình sản xuất sản phẩm của công ty là sản phẩm phức tạp kiểu liên tục, sản phẩm được trải qua nhiều giai đoạn sản xuất kế tiếp nhau.Sau khi nguyên liệu được tập kết cho phù hợp với công thức rồi được chuyển tới máy trộn thùng quay, tại đây nguyên liệu được trộn đều sau đó được chuyển sang khu vực tạo hạt, từ máy tạo hạt sẽ được chuyển sang máy sấy thùng quay, sau khi phân bón được sấy sẽ được sàn làm nguội, từ đây sản phẩm được bọc một áo đánh bóng, sau đó chuyển sang khu vực đóng bao, cân điện tử
Ta có thể thấy quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm của công ty như sau: nguyên vật liệu chính là tùy vào sản phẩm để cho lượng kali , ure dạng bột.
Sơ đồ 1: SƠ ĐỒ QUY TRÌNH SẢN XUẤT
Máy sấy
Tạo hạt
Máy trộn
Nguyên liệu
Đổ vào hỗn hợp
Làm nguội
Thành phầm
Với mô hình tổ chức sản xuất – quản lý khá phức tạp, để có thể theo dõi cập nhập thông tin kế toán đầy đủ, chính xác, kịp thời là một việc làm rất phức tạp, đòi hỏi phải có sự phân công nhiệm vụ cụ thể phối hợp giữa các phần kế toán một cách nhịp nhàng, tỉ mỉ. Chính vì vậy công tác kế toán của công ty được tổ chức theo hình thức tập chung – phân cấp cụ thể.
Tại phòng tài vụ của công ty: có nhiệm vụ thu nhập, cập nhập thông tin kế toán phát sinh hàng ngày, thông tin kinh tế được phân theo ba luồng chính. Thông tin về các khoản thanh toán, vốn bằng tiền và công nợ phát sinh bằng tiền về nhập xuất vật tư, thành phẩm cả ở công ty và các tổ, thông tin về tiêu thụ thành phẩm hàng ngày. Tuỳ theo nhiệm vụ cụ thể mà kế toán có nhiệm vụ thu nhập và xử lý thông tin theo phần việc của mình.
Các tổ chức không có kế toán viên mà chỉ có một nhân viên kinh tế, có nhiệm vụ thu nhập, phân loại và xử lý chứng từ về vật tư, lao động và tiền lương, sản phẩm hoàn thành nhập kho... Trên cơ sở chứng từ đã phân loại lập các phiếu để tính giá thành của sản phẩm và lập bảng kê kèm theo các chứng từ gốc để định kỳ gửi về phòng tài chính kế toán của công ty. Tại phòng tài vụ của công ty, nhân viên kinh tế được phân công sẽ đã thực hiện các phần hành kế toán cụ thể.
2.1.3. Tình hình tài chính của công ty Phân lân nung chảy Văn Điển trong những năm qua.
* Phân tích tình hình tài sản và nguồn vốn năm 2007(bảng 1 và bảng 2)
Bảng 2: CÁC HỆ SỐ PHẢN ÁNH KẾT CẤU NGUỒN VỐN
Chỉ tiêu
Năm 2006
Năm 2007
1. Hệ số nợ = Nợ phải trả/ tổng nguồn vốn
0,54
0,58
2. Hệ số VCSH = 1- hệ số nợ
0,46
0,42
Tình hình tài chính của công ty khá lành mạnh,mặc dù hệ số nợ lớn hơn hệ số vốn chủ sở hữu nhưng không đáng kể, năm 2006 là 0.08 còn năm 2007 là 0.14, do đó doanh nghiệp vẫn có khả năng trả những món nợ khi đến hạn. Mặt khác hệ số nợ của d VNĐ. Doanh nghiệp năm 2007 có tăng so với năm 2006, hệ số nợ tăng 42,213,784,309 với tỷ lệ 29% tăng cả về ngắn hạn và dài hạn với tỷ lệ tương đương nhau (ngắn hạn: 30%, dài hạn:28%), điều này chứng tỏ doanh nghiệp đã huy động vốn bên ngoài để mở rộng hoạt động sản xuất, nhưng điều đó cũng có nghĩa là doanh nghiệp đang bị gánh nặng tài chính khi sử dụng vốn vay bên ngoài đặc biệt là vốn ngắn hạn, doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn, rủi ro tài chính sẽ tăng lên nếu doanh nghiệp không thanh toán đúng hạn các khoản nợ đến hạn
* Phân tích kết quả kinh doanh năm 2006 và 2007 (bảng 3)
Sản phẩm tiêu thụ tăng so với năm trước, doanh thu tiêu thụ tăng từ 354,417,393,147 VNĐ lên 439,267,682,283 VNĐ , tỷ lệ tăng 19% Trong khi đó, chi phí quản lí doanh nghiệp giảm rất lớn giảm 76.19%, chi phí bán hàng giảm 3%. Đây là một ưu điểm của công ty trong việc giảm tiết kiệm được chi phí mà hiệu quả kinh tế không giảm đi như vậy doanh nghiệp đã thành công trong công tác quản lý trong quá trình bán hàng và đặc biệt là trong quá trình sản xuất, không xảy ra hiện tượng hư hỏng máy móc thiết bi, bớt xén nguyên nhiên vật liệu và lượng cán bộ quản lý phù hợp với tình hình sản xuất và kinh doanh của công ty. Lợi nhuận trước thuế tăng 43%, doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả và có lãi.
* Phân tích khả năng thanh toán năm 2007 (bảng 4)
Bảng 4: CÁC HỆ SỐ PHẢN ÁNH KHẢ NĂNG THANH TOÁN NĂM 2006
Chỉ tiêu
Đầu năm
Cuối năm
1. Hệ số khả năng thanh toán tổng quát = tổng tài sản/nợ phải trả
1,85
1,71
2. Hệ số khả năng thanh toán hiện thời = tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn/nợ ngắn hạn phải trả
1,95
1,83
3. Hệ số khả năng thanh toán nhanh = vốn bằng tiền và các khoản phải thu/nợ ngắn hạn phải trả
0,54
1,19
Hệ số khả năng thanh toán tổng quát và hệ số khả năng thanh toán hiện thời có giảm so với năm trước nhưng giảm không đáng kể, đó là do công ty đã vay vốn thêm bên ngoài, đây là một chính sách huy động vốn hợp lí do công ty vẫn kinh doanh có lãi. Các hệ số đều ở mức an toàn, hệ số khả năng thanh toán tổng quát và hệ số khả năng thanh toán hiện thời đều lớn hơn 1, điều này chứng tỏ tình hình tài chính ổn định và khá an toàn. Mặc dù hệ số thanh toán nhanh của doanh nghiệp tăng so với năm ngoái với một lượng rất lớn tăng 65% điều này chứng tỏ doanh nghiệp có khả năng trả những món nợ đến hạn, nhưng lượng tiền mặt tồn quỹ quá lớn tăng 212% so với năm trước như vậy sẽ làm cho tiền mất khả năng sinh lời. Doanh nghiệp nên chú ý điểm này.
* Phân tích khả năng sinh lời năm 2006 và năm 2007 (bảng 5)
Bảng 5: CÁC HỆ SỐ PHẢN ÁNH KHẢ NĂNG SINH LỜI NĂM 2006 VÀ 2007
Chỉ tiêu
Năm 2006
Năm 2007
1. Tỷ suất lợi nhuận doanh thu = LN trước (sau) thuế/ doanh thu thuần
0.04
0.06
2. Tỷ suất sinh lời của tài sản = lợi nhuận trước lãi vay và thuế/tổng tài sản
0.1
0.15
3. Tỷ suất lợi nhuận vốn kinh doanh = LN trước(sau) thuế/vốn sản xuất kinh doanh bình quân
0.09
0.13
4. Tỷ suất LN vốn chủ sở hữu = LN sau thuế/VCSH bình quân
0.21
0.29
Tỷ suất lợi nhuận doanh thu năm 2007 tăng so với năm 2006, diều này là do trong năm 2007 có nhiều khoản chi phí giảm như chi phí tài chính (giảm 8%), chi phí bán hàng giảm 3% và chi phí quản lý doanh nghiệp giảm 76.19 % nhưng giá vốn hàng bán lại tăng 21% làm cho tỷ suất lợi nhuận tăng ít, nhưng tốc độ tăng của lợi nhuận tăng nhanh hơn tốc độ của doanh thu. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu tăng năm 2007 là 0.29 và năm 2006 là 0.21, tỷ suất sinh lời tăng tương đối, tăng 0.04% điều này cho thấy doanh nghiệp đã sử dụng vốn vay rất hiệu quả, kinh doanh có lãi đảm bảo khả năng thanh toán và nếu có tốc độ tăng trưởng như hiện nay công ty sẽ tăng trưởng và phát triển nhanh chóng trong tương lai.
* Phân tích hiệu quả sử dụng vốn và tài sản (bảng 6)
.
Bảng 6: CÁC CHỈ SỐ VỀ HOẠT ĐỘNG
Chỉ tiêu
Năm 2006
Năm 2007
Số quay vòng tồn kho = giá vốn hàng bán/hàng tồn kho bình quân
5.03
6.76
Số ngày một vòng quay hàng tồn kho = 360/số vòng quay hàng tồn kho
71.57
53.25
Vòng quay các khoản phải thu = doanh thu (thuần)/số dư bình quân các khoản phải thu
6.9
7.86
Kì thu tiền trung bình = 360/vòng quay các khoản phải thu
52.17
45.8
Vòng quay vốn lưu động = doanh thu thuần/vốn lưu động bình quân
2.26
2.22
Số ngày một vòng quay vốn lưu động = 360/ số vòng quay vốn lưu động
159.29
162.16
Các chỉ số về hoạt động nhìn chung là tương đối cao. Vòng quay hàng tồn kho tăng, điều này là do hàng tồn kho năm 2007 giảm 19% so với năm 2006, trong khi giá vốn hàng bán tăng 21%, tốc độ tăng của hàng tồn kho bình quân tăng chậm hơn so vơí giá vốn hàng bán do chi phí đầu trong năm tăng rất nhiều. Việc hàng tồn kho giảm đã cho ta thấy được năng suất sản xuất của công ty trong năm 2007 ta tăng nhiều so với năm 2006 và doanh nghiệp thực sự là nơi đáng tin cậy cho nhà nông, sản phẩm của doanh nghiệp đã đảm bảo về chất lượng và giá cả đáp ứng nhu câu sử dụng của người sư dụng. Điều này được thấy trong việc dù chi phí đầu vào tăng cao, giá vốn hàng bán cũng tăng hơn năm trước nhưng vòng quay các khoản phải thu cũng tăng. Vòng quay các khoản phải thu tăng không chỉ do doanh thu bán hàng, doanh thu tài chính tăng mà do các khoản phải thu trung bình giảm rất lớn, giảm 112% chứng tỏ trong năm doanh nghiệp đã làm rất tốt công tác tiêu thụ sản phẩm, mặc dù doanh nghiệp có chính sách trả chậm nhưng có thể không sử dụng đến, như vậy giá cả hợp lý phù hợp với sức mua của người dân, đây lại là người có khả năng chi trả thấp nhất. Dù giá cả có tăng nhưng sản phẩm vẫn được người dân lựa chọn, điều này thì chỉ có thể có được do chất lượng sản phẩm tôt, phù hợp với nhiều loại khí hậu, nhiều loại đất. Vòng quay vốn lưu động giảm 0.04% nhưng điều này do doanh nghiệp để tiền mặt vào quỹ nhiều. Mặc dù doanh thu trong năm tăng 19% nhưng nếu doanh nghiệp có biện pháp để sử dụng vốn tiền mặt tồn quỹ một cách hiệu qủa thì doanh thu năm 2007 còn tăng nhiều hơn nữa
2.2. Tình hình tiêu thụ sản phẩm của công ty phân lân nung chảy Văn Điển
2.2.1. Thuận lợi, khó khăn trong việc sản xuất kinh doanh của công ty phân lân nung chảy Văn Điển
2.2.1.1. Thuận lợi
Thứ nhất, nhu cầu tiêu thụ sản phẩm của công ty là rộng rãi. Phân bón là một thành phần không thể thiếu được trong nông nghiệp. Cây trồng muốn phát triển thì phải cung cấp chất khoáng cho nó, mà chất khoáng chứa nhiều nhất ở trong phân bón hóa hoc. Mặt khác Việt Nam được coi là nước sử dụng phân bón nhiều nhất trong số các nước Đông Nam á, sau đó đến Thái Lan, Philipin…Nhu cầu về phân bón rất lớn không chỉ trong nước mà còn ở các nước trong khu vực và trên thế giới, vì vậy mà thị trường tiêu thụ rất lớn.
Thứ hai, đội ngũ công nhân có tay nghề cao, có bề dầy kinh nghiệm nhiều năm sản xuất, có trách nhiệm và nhiệt tình trong công việc. Đặc biệt họ rất gắn bó với công ty nên tạo ra một khối đoàn kết, một bầu không khí thoải mái trong công việc, thuận lợi cho sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
Thứ ba, một yêu tố quan trọng là công ty có uy tín trong kinh doanh, sau nhiều năm hoạt động công ty thiết lập được đội ngũ các bạn hàng đáng tin cậy, gắn bó với công ty trong nhiều năm. Nhờ những cố gắng của mình nên công ty luôn được các khách hàng tín nhiệm.
2.2.1.2. Khó khăn
Thứ nhất, khó khăn trước hết là sự cạnh tranh khốc liệt của thị trường. Các đối thủ cạnh tranh của công ty là các công ty Phân đạm và hóa chất Hà Bắc. Phân lân Ninh Bình…đặc biệt là của Trung Quốc, Thái Lan….với mẫu mã đẹp, giá lại rẻ . Tuy nhiên, sản phẩm của công ty vẫn có thể đứng vững trên thị trường do chất lượng sản phẩm tốt, mẫu mã đẹp và có nhiều nét riêng biệt đặc trưng của phân lân nói riêng và Việt Nam nói chung.
Thứ hai, về nhân lực: Công ty còn thiếu những cán bộ có trình độ và nghiệp vụ chuyên nghiệp. Kinh nghiệm cạnh tranh trên thị trường chưa nhiều.
Thứ ba, những biến động của giá cả thị trường nguyên vật liệu đầu vào như giá than, chí vận chuyển tăng cao gây khó khăn cho công ty trong việc định giá bán sao cho phù hợp với thu nhập của người tiêu dùng, đảm bảo khả năng cạnh trạnh với các doanh nghiệp khác trong ngành và kinh doanh có lãi.
Thư tư, trong kỹ thuật sản xuất còn nhiều vấn đề phải giải quyết để nâng cao hơn nữa năng suất lao động, hạ giá thành.
2.2.2. Đặc điểm tiêu thụ sản phẩm của công ty phân lân nung chảy Văn Điển
Là một doanh nghiệp chuyên sản xuất và bán các sản phẩm phân bón phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, việc tiêu thụ sản phẩm có nhiều nét đặc trưng.
Về thị trường tiêu thụ: thị trường lớn nhất của công ty Phân lân nung chảy Văn Điển là thị trường trong nước, sản phẩm của công ty có mặt hầu hết các tỉnh miền Bắc,Trung, Tây Nguyên và Nam Bộ. Ngoài thị trường trong nước là thị trường chính, công ty còn xuất khẩu sang thị trường ÚC, Nhật Bản, Malaixia, Đài Loan..
- Về số lượng sản xuất: số lượng nhiều hay ít tùy thuộc vào thời vụ nông nghiệp , đồng thời cũng căn cứ vào nhu cầu thị trường trong từng thời kì.
- Về chất lượng: sản phẩm của công ty phần lớn là tiêu thụ trong nước và xuất khẩu ra nước ngoài nên chất lượng phải đảm bảo tiêu chuẩn ISO 9001:2000. Vì vậy việc sản xuất được tiến hành trên dây chuyền hiện đại, yêu cầu về chất lượng sản phẩm và độ an toàn cao nên việc kiểm tra chất lượng sản phẩm được công ty thực hiện rất chặt chẽ.
Để thực hiện việc nhập kho thì khi các sản phẩm đi qua các công đoạn sản xuất đều được kiểm tra kĩ lưỡng. Đối với các bán thành phẩm khi chuyển từ khâu nọ sang khâu kia đều được kiểm tra 100% và bộ phận KCS phân xưởng cứ cách 3 giờ lại kiểm tra các chỉ số kĩ thuật trên dây chuyền để thông báo cho khâu sản xuất kịp điều chỉnh. Khi thành thành phẩm rồi thì các phân xưởng tiến hành kiểm tra một lần nữa. Sau 2 ngày nung, sấy, đóng gói, đóng bao bì, phòng KCS thực hiện kiểm tra theo các tiêu chuẩn đã định sẵn, từ đó tiến hành nhập kho.
Việc tiêu thụ sản phẩm của công ty Phân lân nung chảy Văn điển có tính ổn định giữa các quý, nhưng vẫn có tính chất mùa vụ.
2.2.3. Công tác lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm
Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh thì hàng năm các doanh nghiệp phải lập nhiều kế hoạch như: kế hoạch sản lượng, kế hoạch xây dựng cơ bản, kế hoạch vốn, kế hoạch tiền lương, kế hoạch tiêu thụ sản phẩm... Tất cả các kế hoạch này tập hợp thành kế hoạch sản xuất – kế hoạch kĩ thuật – kế hoạch tài chính của doanh nghiệp. Kế hoạch tiêu thụ sản phẩm nằm trong mảng kế hoạch tài chính của doanh nghiệp và có ý nghĩa hết sức quan trọng.
Kế hoạch tiêu thụ sản phẩm thực chất là việc dự đoán trước số lượng sản phẩm sẽ được sản xuất và tiêu thụ trong kì, đơn giá bán sản phẩm trong kì kế hoạch và doanh thu tiêu thụ sản phẩm sẽ đạt trong kì kế hoạch để doanh nghiệp chủ động trong việc tổ chức sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
Căn cứ lập kế hoạch: để đảm bảo cho kế hoạch được chính xác và có khả năng thực hiện được thì việc lập kế hoạch của công ty căn cứ vào các đơn đặt hàng, các hợp đồng đã kí kết trước thời điểm lập kế hoạch và nhu cầu thị trường. Kế hoạch tiêu thụ từng quý được lập căn cứ và kế hoạch tiêu thụ năm và được điều chỉnh cho phù hợp tình hình phát sinh trong từng quý.
Đơn giá kế hoạch được xây dựng trên dơn giá tiêu thụ sản phẩm của sản phẩm năm trước, có điều chỉnh theo tình hình thị trường sản xuất của năm kế hoạch.
Thời điểm lập kế hoạch: công ty tiến hành lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm cả năm là vào tháng 11 năm báo cáo.
Trong năm 2007 công ty sản xuất nhiều sản phẩm khác nhau và sản phẩm được chia thành 2 loại chính: các loại phân lân đơn (Phân lân nung chảy Văn Điển và Phân lân Supe-Tecmo) và 8 loại chính phân tổng hợp đa yếu tố
. Kế hoạch tiêu thụ sản phẩm và doanh thu bán hàng của công ty được lập như sau (bảng 7). Trong phạm vi bài chuyên đề này em chỉ xin đề cập đến kế hoạch tiêu thụ của những sản phẩm chính, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng doanh thu tiêu thụ của công ty.
Sản phẩm chính: Phân lân, phân supetecmô, phân đa yếu tố
Cột số lượng tiêu thụ năm 2007 là số lượng tiêu thụ năm 2007 được tập hợp từ “sổ chi tiết tiêu thụ” năm 2006 của công ty.
Cột số lượng tiêu thụ trong kì được lập căn cứ vào các hợp đồng kinh tế đã kí kết và căn cứ vào nhu cầu thị trường năm kế hoạch.
Cột số lượng sản xuất ra trong kì được lập dựa trên kế hoạch tiêu thụ trong năm, dựa vào số dự toán về dư đầu kì và nhu cầu đột xuất của khách hàng.
Cột số lượng tồn cuối kì đư bằng cách lấy cột tồn đầu kì cộng cột số lượng sản xuất trong kì trừ đi tiếp cột tiêu thụ trong kì.
Cột đơn giá kế hoạch là do công ty dự kiến căn cứ vào đơn giá săn phẩm cuối năm 2006 và tình hình biến động giá trên thị trường.
Cột doanh thu dự kiến được tính bằng cách nhân số sản phẩm ở cột tiêu thụ trong kì với số liệu tương ứng ở cột đơn giá k hoạch.
Trong kế hoạch tiêu thụ sản phẩm năm 2007 thể hiện qua (bảng 7) như sau:
Về sản lượng:
Phân lân dự kiến tiêu thụ được 186,345 tấn, doanh thu 193,193,551,440 VND. Nhưng thực tế doanh nghiệp tiêu thụ tăng 13.95% so với kế hoạch. Điều này không những làm cho doanh nghệp hoàn thành nhiều kế hoạch đề ra mà làm cho doanh thu của doanh nghiệp tăng lên. Bên cạnh đó là sản phẩm chủ đạo trong công ty với một thị trường rộng lớn không những ở trong nước mà còn xuất khẩu ra nước ngoài thì với tỷ lệ tăng này hơi ít so với tiềm lực mà công ty có được.Theo em thì số lượng tiêu thụ phải tăng với tỷ lệ trên 50% so với kế hoạch
Phân supetecmô công ty dự kiến sẽ tiêu thụ được 695 tấn, doanh thu 697,381,765 VND. Nhưng trên thực tế doanh nghiệp tiêu thụ tất 25%. Có thể nói rằng mặc dù sản xuất không nhiều nhưng lượng phân supetecmô vẫn tiêu thụ với một lượng lớn hơn dự kiến của công ty. Chứng tỏ sản phẩm này đã đáp ứng cho các loại cây trồng vì loại phân này không phải loại cây nào cũng thích hợp. Công ty cần tăng cường hơn nữa việc sản xuất loại phân này và có thể là sản phẩm có thể xuất khẩu hoặc có thể sự dụng cho nhiều loại cây trồng.
Phân đa yếu tố là phân có số lượng lớn với nhiều chủng loại, mỗi loại thích hợp cho từng loại cây nên rất dễ dàng cho nhà nông chọn lựa phù hợp với nhu cầu của mình. Vì vậy mà việc lưọng tiêu thụ của năm 2007 tăng lên 42% so với kế hoạch là điều dễ thấy. Không những thế nó có thể tăng lên trên 50% nếu công ty mở rộng hơn nữa việc tiêu thụ ở các tỉnh miền Nam.
Về giá bán:
Giá bán của tất cả các sản phẩm đều tăng. Kế hoạch về giá bán này là hợp lí do xu hướng giá nguyên liệu đầu vào đều tăng, những thay đổi về giá cả tăng như giá đôla tăng, giá vàng tăng cũng làm cho giá vốn, giá bán của các sản phẩm đều tăng. Mặc dù vậy, doanh nghiệp vẫn phải coi trọng công tác tiết kiệm chi phí để hạ giá bán cạnh tranh với các doanh nhiệp cùng ngành.
Về kết cấu sản phẩm:
Nói chung, kết cấu sản phẩm tiêu thụ kế hoạch năm 2007 của công ty không có nhiều thay đổi so với năm 2006. Về sản lượng tiêu thụ phân lân tỉ lệ cao nhất trong tổng doanh thu tiêu thụ là 67.9%, tăng so với năm 2006 là 3,36% ( năm 2006 là 64,54%). Trong khi đó, năm 2006 sản lượng tiêu thụ của phân đa yếu tố là 29,47 còn năm 2007 là 31,82 . Sản phẩm phân supetecmo hầu như không thay đổi. Như vậy kết cấu sản phẩm tiêu thụ năm 2007 không thay đổi. Đó cũng là điều dễ hiểu vì đây không phải là sản phẩm theo từng sở thích mà nó phụ thuộc vào từng loại cây trồng và từng loại đất. Điều này thì ít có sự thay đổi
* Nhận xét công tác lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm của công ty
Công tác lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm của công ty phù hợp với đặc điểm sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của công ty. Kế hoạch tiêu thụ sản phẩm khá chi tiết theo năm và theo tháng, cũng cho từng ngành hàng và mặt hàng.
Tuy vậy, việc lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm của công ty còn một số tồn tại như sau: khi lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm của công ty chưa xác định cụ thể số lượng sản phẩm tồn kho cuối kì của từng loại sản phẩm là bao nhiêu mà chỉ quy định mức tồn kho cuối kì không quá 10% tổng số sản phẩm tiêu thụ trong kì. Do đó, việc dự kiến số sản phẩm tiêu thụ trong kì thiếu chặt chẽ và khoa học.
Việc lập kế hoạch của công ty nhìn chung là thích hợp với đặc điểm tiêu thụ sản phẩm của công ty. Trong năm 2007 sản lượng sản phẩm chủ yếu dự kiến tiêu thụ của công ty đã tăng lên hẳn so với số lượng đã tiêu thụ được năm 2006, đơn giá kế hoạch dự kiến thì tương đối sát với năm báo cáo. Chính vì vậy mà doanh thu kế hoạch tăng so với doanh thu thực hiện năm 2006.
Trong kế hoạch của công ty do dự tính sản phẩm sẽ tiêu thụ được nhiều trong năm 2007công ty đã đặt ra kế hoạch tiêu thụ sản phẩm khá sát so với thực tế, mặc dù tình hình tiêu thụ có nhiều hơn so với kế hoạch đặt ra nhưng công ty vẫn có đủ năng lực để sản xuất và đảm bảo chất lượng sản phẩm và giao hàng đúng thời hạn của hợp đồng. Công ty đã động viên và có chính sách đãi ngộ hợp lí với những công nhân làm thêm giờ để đảm bảo sản xuất, bán hàng đúng thời hạn đã kí kết với khách hàng. Doanh thu tiêu thụ các sản phẩm chính năm 2007 tăng là do số lượng các sản phẩm tăng, giá bán tăng và kết cấu mặt hàng tiêu thụ không thay đổi. Để thấy được công tác lập kế hoạch của công ty có hợp lí và sát với thực tế hay không, ta so sánh tình tình tiêu thụ sản phẩm giữa thực tế và kế hoạch tiêu thụ năm 2007.(bảng 8)
Qua bảng so sánh giữa thực tế và kế hoạch ta thấy: Tổng doanh thu tiêu thụ thực tế các sản phẩm chủ yếu năm 2007 là 437,507,869,497 VNĐ, tăng so với kế hoạch 340,580,483,135 VNĐ tương ứng với 28.46% Nhìn chung, doanh thu tiêu thụ của tất cả các sản phẩm chủ yếu đều vượt mức kế hoạch do các nguyên nhân cụ thể như sau:
* Về sản lượng:
Sản lượng tiêu thụ thực tế của các sản phẩm đều tăng với lượng lớn . Sản lượng tiêu thụ thực tế của phân lân tăng 13.95%, phân supetecmo tăng 25.04 %, phân đa yêú tố tăng 42.86%
Sản lượng tiêu thụ hầu hết các sản phẩm đều tăng là do công ty đã thêm nhiều hợp đồng và nhận thêm được nhiều đơn đặt hàng. Tất cả các sản phẩm đều tiêu thụ mạnh ở thị trường trong nước và thị trường nước ngoài, sản lượng đều tăng lên gấp 2 gấp 3 lần so với năm trước
* Về giá bán:
Mặc dù sản lượng tiêu thụ các mặt hàng đều tăng nhưng giá bán các sản phẩm tăng giảm không đều nhau:
Phân lân tăng : 1.98%
Phân supetecmô tăng : 0.98
Phân đa yêú tố tăng : 1.22%
Dự tính nguyên liệu đầu vào tăng nhiều trong năm 2007 như than (chiếm tới gần 50% giá vốn của sản phẩm), điện, phí vận chuỳển.. nên công ty đã đặt kế hoạch về giá bán khá cao so với năm 2006. Nhưng thực tế do công ty có những biện pháp tiết kiệm chi phí hợp lí như tiết kiệm nguyên vật liệu đầu vào, máy móc thiết bị được bảo dưỡng thường xuyên, tay nghề của công nhân thường xuyên được đào tạo nâng cao nên năng suất lao động đã tăng nhiều so với năm 2006.
Giá bán một số sản phẩm tăng so với kế hoạch nhưng doanh thu tiêu thụ thực tế có nhiều nét đáng mừng, vượt mức kế hoạch đặt ra. Cụ thể:
- Phân lân đạt mức doanh thu cao nhất là 224 tỷ đồng, vượt mức kế hoạch là 31 tỷ đồng tương ứng với 16.21%
Doanh thu tiêu thụ của phân supetecmo là 880 triệu đồng vượt mức kế hoạch 183 triệu đồng tương ứng với 26.27%
Phân đa yếu tố đạt doanh thu là 212 tỷ đồng vượt mức 65 tỷ đồng tương ứng là 44.6%
Qua so sánh thực tế và kế hoạch về tiêu thụ sản phẩm chủ yếu của công ty năm 2007 cho thấy việc lập kế hoạch gần sát thực thực tế, phần lớn các sản phẩm tiêu thụ luôn vượt mức kế hoạch, đó là một thành công trong công tác bán hàng của công ty, chứng tỏ sản phẩm đã có chỗ đứng trên thị trường và liên tục nhận được nhiều đơn đặt hàng từ khách hàng. Việc giá bán của hầu hết sản phẩm tăng so với kế hoạch nhưng không đáng dù tất cả các yếu tố đâù vào đều tăng mà tăng rất lớn là do trong quá trình sản xuất công ty đã tiết kiệm được nhiều chi phí nên giá vốn hàng bán giảm, chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp đêù giảm, đây cũng là một chính sách giá bán hợp lí khi sản phẩm của công ty luôn phải cạnh tranh với rất nhiều sản phẩm của các công ty khác trên thị trường với giá bán tăng nhưng không lớn so với giá của thị trường để thu hút sức mua của khách hàng.. Mặc dù vậy, để có thể nhận xét chính xác chính sách giá bán của công ty có hợp lí hay không thì còn phải quan tâm đến giá bán bình quân của các đối thủ cạnh tranh trong cùng ngành với các sản phẩm tương tự như thế nào, sản lượng tiêu thụ ra là bao nhiêu. (bảng 9)
BẢNG 9: GIÁ BÁN BÌNH QUÂN MỘT SỐ SẢN PHẨM CỦA CÁC CÔNG TY SẢN XUẤT PHÂN BÓN TRÊN THỊ TRƯỜNG
Đơn vị: VNĐ
Sản phẩm
Công ty phân bón miền nam
Công ty phân bón Bình Điền
Công ty phân bón Việt Nhật
Công ty phân bón Cần Thơ
Công ty phân đạm Phú Mỹ
Phân bón Trung Quốc
Phân lân
1046524
1096753
1120673
1065437
1055438
987653
Phân supetecmô
1021542
1023476
1076542
1004056
1012213
9745632
Phân đa yếu tố
2200567
2201786
2167854
2009865
2198563
1987452
So với giá bán sản phẩm của công ty phân lân nung chảy Văn Điển với sản phẩm cùng loại của các công ty khác trên thị trường thì giá bán của công ty ở mức trung bình, khả năng cạnh tranh khá cao. So với sản phẩm phân bón Trung Quốc khó có thể cạnh tranh về giá, nhưng so với giá của các công ty phân bón ở công ty phân bón Miền Nam, phân bón Bình Điển, phân bón Cần Thơ thì giá không chênh lệch nhiều, có một số sản phẩm giá còn thấp hơn, chứng tỏ chính sách giá của công ty là hợp lí. Nếu công ty đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm thì chắc chắn sản phẩm của công ty cạnh tranh được với phân bón của Trung Quốc vì phân bón Trung Quốc có đặc điểm là sản xuất một lượng lớn, giá rẻ nhưng chất lượng không tốt, không được thị trường đánh giá cao mặc dù mẫu mã sản phẩm có thể đa dạng. Theo em, sản lượng tiêu thụ các năm sau sẽ cao hơn nhiều so với năm 2007 nếu công ty nâng cao chất lượng sản phẩm và có những chính sách bán hàng hợp lí.
2.2.4 Phân tích tình hình tiêu thụ sản phẩm của công ty năm 2007
2.2.4.1. Tình hình tiêu thụ sản phẩm thực tế năm 2007
Công ty phân lân nung chảy Văn Điển từ một công ty gặp nhiều khó khăn, sản xuất sử dụng nhiều lao động thủ công, sau hơn 40 năm hoạt động, công ty đã có các dây chuyền sản xuất hiện đại, sản phẩm đa dạng phong phú. Cho đến nay các sản phẩm của công ty đã có mặt hằu hết ở các tỉnh trong nước và thị truờng thế giới, vẫn còn có khả năng mở rộng hơn nữa Có thể nói những năm gần đây công tác tiêu thụ sản phẩm của công ty đã thu được kết quả khá khả quan. Năm 2007 công ty đã tiêu thụ được 312,740 tấn sản phẩm, đạt doanh thu 437,507,869,497 đ trong đó:
Phân lân: 212,349 tấn, doanh thu : 224,514,178,711 VNĐ
Phân supetecmo: 869 tấn, doanh thu: 880,560,177 VNĐ
Phân đa yếu tố: 99,522 tấn, doanh thu: 212,113,130,609 VNĐ
*Tình hình tiêu thụ sản phẩm chính năm 2006 như sau: (bảng 10)
Sản phẩm của công ty được nhập kho chủ yếu từ sản xuất. Việc nhập kho từ các nguồn khác chiếm tỷ trọng rất nhỏ. Sản phẩm xuất kho chủ yếu là cho tiêu thụ.
Tổng doanh thu tiêu thụ một số sản phẩm chính năm 2006 đạt 241 tỷ đồng. Trong đó:
Phân lân tiêu thụ được 120,256 tấn doanh thu đạt 114 tỷ đồng
Phân supetecmô tiêu thụ được 752 tấn doanh thu đạt 740 triệu đồng
Phân đa yếu tố tiêu thụ được 82,465 tấn doanh thu đạt 126 tỷ đồng
Như vậy, năm 2006 bằng những cố gắng rất lớn trong công tác sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, công ty đạt được doanh thu tiêu thụ là 241,105,163,880 VNĐ
Bước sang năm 2007, tuy gặp những khó khăn lớn trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm: thị trường giá nguyên vật liệu trong nước có biến động lớn, tất cả nguyên liệu đầu vào đều tăng gây khó khăn trong việc tiêu thụ sản phẩm do giá vốn, giá bán của sản phẩm đều tăng, giảm khả năng cạnh tranh của công ty với các doanh nghiệp cùng ngành. Năm 2007 được đánh giá là năm có nhiều biến động, đặc biệt là sự biến động của giá than, giá điện, giá xăng, giá vàng đã ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động kinh doanh của các công ty sản xuất phân bón nói chung và công ty phân lân nung chảy Văn Điển nói riêng. Đặc biệt, là một công ty sản xuất sử dụng nguyên liệu đầu vào nhiều nhất là than và hoạt động bán hàng chủ yếu ở các tỉnh xa nơi tiêu thụ nên hoạt động kinh doanh của công ty chịu ảnh hưởng rất lớn bởi sự thay đổi giá cả của hai mặt hàng này. Mặc dù vậy, kết quả tiêu thụ sản phẩm có nhiều nét đáng mừng so với năm 2006. Để phân tích tình hình tiêu thụ sản phẩm chính năm 2007, ta sử dụng (bảng số 11.)
Cột tồn đầu kì phản ánh số tồn kho sản phẩm cuối năm 2006 chuyển sang đầu năm 2007 của từng loại sản phẩm đến cuối năm 2007. Sản phẩm của công ty được nhập kho chủ yếu từ sản xuất. Việc nhập kho từ các nguồn khác chiếm tỷ trọng rất nhỏ.
Ta thấy năm 2007, tổng doanh thu tiêu thụ đạt được là 437 tỷ đồng, trong đó:
Phân lân tiêu thụ được 212,349 tấn sản phẩm đạt mức doanh thu là 224 tỷ đồng
Phân supetecmô tiêu thụ được 869 tấn sản phẩm, đạt mức doanh thu là 880 triệu đồng
Phân đa yếu tố tiêu thụ đựoc 99,522 tấn sản phẩm , đạt mức doanh thu là 212 tỷ đồng
Tồn cuối kì của các sản phẩm đều dưới 10%, điều này chứng tỏ công tác tiêu thụ sản phẩm của công ty năm vừa qua là khá tốt, đúng như kế hoạch đặt ra.
Như vậy, năm 2007 doanh thu các loại sản phẩm và doanh thu một số sản phẩm chính đều tăng so với năm 2006, đây là cố gắng lớn của công ty trong công tác tiêu thụ sản phẩm. Dẫn đến thành công này có nhiều nguyên nhân, ta sử dụng (bảng số 12) để so sánh các chỉ tiêu giữa 2 năm 2006 và 2007 và tìm ra các nguyên nhân này.
* Về sản lượng tiêu thụ:
(Bảng 12) cho thấy các sản phẩm tiêu thụ năm 2007 đều tăng lên so với năm 2006.
- Xét về số lượng tăng, phân lân tăng nhiều nhất 92,094 tấn sản phẩm, tỷ lệ tăng 76.58%. Công ty đã cung cấp loại phân này cho thị trường miền Nam là nhiều nhất, miền Bắc cũng chiếm một lượng lớn và đặc biệt là đây là sản phẩm dùng để xuất khẩu. Có thể nói rằng đây là sản phẩm đã chiếm được một thị trường rộng lớn không phải sản phẩm nào cũng có được. Với nhu cầu càng lớn của thị trường, nó đáp ứng tốt với mọi loại đất nên lượng tiêu thụ tăng so với năm 2006
- Sản phẩm supetecmô tăng 117 tấn với lượng tăng không lớn tỷ lệ tăng là 15.56%. Do sản phẩm này phù hợp vơi một số loại cây trồng ở rất ít tỉnh miền Bắc nên việc tăng sản phẩm này cũng là điều đáng mừng. Chứng tỏ doanh nghiệp đã đáp ứng nhu cầu của nhà nông, và họ cũng tìm thấy cho mình một loại sản phẩm có thể làm tăng năng suất cây trồng.
Sản phẩm phân đa yếu tố tăng 17,056 tấn với tỷ lệ tăng là 20.68%. Doanh nghịêp đã tiêu thụ được hầu hết các sản phẩm này ở các tỉnh miền bắc. Do phân bón Trung Quốc với chất lượng kém hơn phân bón của công ty nên người tiêu dùng trong nước rất ưa chuộng phân bón của trong nước đặc biệt là của phân lân Văn Điển vừa đảm bảo chất lượng, vừa gần nơi sản xuất có thề giảm được nhiều chi phí không cần thiết.
Việc tăng sản lượng tiêu thụ như vậy trước hết là nhờ khâu sản xuất đủ sản lượng với chất lượng, mẫu mã quy cách phù hợp với yêu cầu của người tiêu dùng. Sản lượng tiêu thụ tăng còn do công ty đã làm tốt khâu tiêu thụ, thực hiện tốt việc phân phối sản phẩm, có chính sách bán hàng phù hợp thu hút khách hàng. Ngoài ra, năm 2007 nước ta gia nhập tổ chức WTO, sự thay đổi trong các chính sách của Nhà nước ta trong quan hệ với các nước trên thế giới cũng giúp cho bạn bè các nước dễ tiếp cận với các sản phẩm của công ty và việc mua bán hàng hóa được diễn ra thuận lợi hơn. Mặt khác cũng phải kể đến những chuyển biến thuận lợi của thị trường năm 2007 so với năm 2006 như: nhu cầu tiêu dùng phân bón tăng lên, phân bón Trung Quốc nhập lậu bị kiểm soát chặt chẽ vào những tháng cuối năm 2007... đã làm cho khối lượng sản phẩm tiêu thụ trong nước của công ty tăng lên.
* Về giá bán:
Giá bán bình quân của các sản phẩm chủ yếu trong các công ty năm 2007 đã có xu hướng tăng so với năm 2006.
Sản phẩm có giá bán tăng nhiều nhất là phân đa yếu tố với tỷ lệ tăng là 39.33%, lượng tăng là 601,679 đ/tấn
Sản phẩm phân lân tăng 107,495 đ/ tấn với tỷ lệ tăng là 11.31%.
Sản phẩm phân supetecmô tăng 28,403 đ/ tấn với tỷ lệ tăng là 2.88%
Giá bán sản phẩm tăng có các nguyên nhân sau:
Thứ 1: Việc giá bán của tất cả các sản phẩm đều tăng do giá vốn tăng. Giá vốn do nhiều nguyên nhân, mà nguyên nhân chủ yếu là do chi phí nguyên vật liệu sản xuất đều tăng như than, xăng. …, lương công nhân viên cũng phải tăng lên để đáp ứng nhu cầu của cuộc sống. Mặc dù công ty đã sử dụng công nghệ mới trong sản xuất tạo điều kiện nguyên vật liệu, tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, tạo điều kiện cho công ty hạ giá bán, nhưng do giá nguyên liệu đầu vào tăng quá cao nên giá bán của các sản phẩm vẫn phải tăng để bù đắp được các chi phí và có lợi nhuận. Ta có thể xem xét( bảng 13 )so sánh giá vốn toàn bộ của các sản phẩm chính năm 2006 và năm 2007. Ta thấy giá bán sản phẩm tăng là do giá vốn sản phẩm tăng, nguyên nhân chính làm cho giá vốn tăng chủ yếu là do chi phí đầu vào tăng, trong đó nguyên vật liệu chiếm tỷ trọng lớn, đặc biệt các loại quặng và than.
Thứ 2: tỷ giá đồng đôla Mĩ tăng so với đồng Việt Nam, mà sản phẩm của công ty xuất khẩu nên thanh toán chủ yếu bằng USD nên giá bán các sản phẩm của công ty phải tăng lên để đảm bảo cho doanh thu của tiêu thụ sản phẩm không bị tác động nhiều bởi sự biến động của tỷ giá USD/VNĐ.
* Về kết cấu:
Phân lân chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng số sản lượng tiêu thụ các sản phẩm chính, sau đó đến phân đa yếu tố . Nhưng gía bán của phân đa yếu tố lại cao hơn so với phân lân. Chỉ có sự khác biệt về giá chứ kết cấu năm 2007 so với năm 2006 không có sự thay đổi nhiều. Tỷ trọng của phân lân tăng rất lớn , giá cũng tương đối cao nhất, còn phân đa yếu tố tăng thấp hơn nhưng giá cả lại tăng lên rất nhiều nên đây là một trong nguyên nhân chính dẫn đến tổng doanh thu tiêu thụ sản phẩm của công ty lại tăng cao như vậy.
Nhận xét chung:
Với tình hình thay đổi về số lượng và giá bán kết cấu sản phẩm tiêu thụ như vậy, năm 2007 tổng doanh thu các sản phẩm chủ yếu chủ yếu đạt được là 437 tỷ đồng, so với năm 2006 là 241 tỷ đồng, tăng 196 tỷ đồng, tỷ lệ tăng 81.33% .Trong đó phân lân tăng 110 tỷ với tỷ lệ tăng là 96.56%, doanh thu phân supetecmô tăng 139 triệu đồng với tỷ lệ là 18.89%, doanh thu phân đa yếu tố tăng 85 tỷ với tỷ lệ tăng là 68.15%
Thông qua công tác tiêu thụ sản phẩm như vậy, công ty phân lân nung chảy Văn Điển đã đạt được những kết quả tương đối tốt trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Các sản phẩm đều có sự tăng trưởng về cả số lượng lẫn doanh thu trên từng loại sản phẩm, tuy nhiên tốc độ tăng trưởng có khác nhau. Tăng mạnh nhất phân lân và phân đa yếu tố, do nhu cầu sản phẩm này tăng mạnh ở các tỉnh miền Bắc và miền Nam đặc biệt là các tỉnh miền Bắc chiếm tỷ lệ lớn nguồn tiêu thụ phân đa yếu tố. Sản phẩm phân supetecmô tốc độ tăng chậm hơn nhưng chất lượng tốt được khách hàng đánh giá cao.Mặc dù công ty phải cạnh tranh vơí phân bón Trung Quốc và một số doanh nghiệp ở trong nước nhưng lượng tiêu thụ của công ty vẫn tiếp tục tăng chứng tỏ trong công tác sản xuất và bán hàng đã có nhiều thành công lớn, nhận được nhiều đơn đặt hàng với số lượng lớn cả thị trường trong và ngoài nước.
Để có thể nhìn nhận tình hình cụ thể hơn ta đi xem xét việc tiêu thụ sản phẩm của công ty qua các Quý. (Ta sử dụng bảng số 14):
-Quý I, II năm 2007 sản phẩm bán ra với lượng khá lớn. Quý I là 89,108 tấn, trong đó phân lân là 54,943 tấn, phân đa yếu tố là 33,910 tấn, còn phân supetecmo là 33,910 tấn. Còn quý II là 86,160 tấn, giảm hơn Quý I một ít nhưng lượng bán ra vẫn rất lớn. Đây là thời điểm bắt đầu vào vụ nên sản phẩm được bán ra rất lớn để có thể đáp ứng được nhu cầu chăm sóc đất và cây trồng cho nhà nông.
- Bắt đầu sang Qúy III lượng sản phẩm đã bắt đầu giảm xuống.Lượng bán ra chỉ còn 65,918 tấn. Giảm đáng kể là phân đa yếu tố giảm từ 31,616 tấn Qúy II xuống còn 14,649 tấn. Tại thời điểm này tại thị trường miền Bắc đang mùa thu hoạch nên việc sử dụng phân đa yếu tố là không nhiều do vậy mà lượng phân này đã giảm đáng kể. Điều đó làm cho sản lượng tiêu thụ của Qúy III giảm đi.
- Sang Quý IV thì lượng tiêu thụ lại bắt đầu tăng lên. Sản lượng tiêu thụ ở Quý IV là 76,551 tấn. Tại thời điểm này đất trồng sau khi thu hoạch cần được nuôi dưỡng nên làm cho lượng tiêu thụ tăng lên đáng kể. Ta thấy rằng sản lượng tiêu thụ của các quý lên xuống là do phân đa yếu tố có sự thay đổi, còn phân lân thì hầu như không thay đổi nhiều là do phân lân được tiêu thụ chủ yếu tại thị trường miền Nam, khí hậu ở đây không thay đổi nhiều như Miền Bắc nên việc sản xuất và sử dụng phân bón được sủ dụng ồn định qua các Quý.
Sản phẩm của công ty có mặt ở tất cả các tỉnh thành trong nước và nơi nào cũng được tiêu thụ với một lượng lớn nên sau đây ta chỉ xem xét ( bảng số 14) về thị trường tiêu thụ ở nước ngoài một số sản phẩm chủ yếu của công ty.
Nhìn vào các vùng thị trường các sản phẩm chính của công ty phân lân nung chảy ta thấy ngoài các tỉnh trong nước, đặc biệt là các tỉnh miền Bắc, là thị trường quen thuộc của công ty trong nhiều năm vừa qua, do nhu cầu tiêu dùng và do gần nơi sản xuất nên sản lượng tiêu thụ khá mạnh, thì thị trường thế giới đang là tiềm năng đang được công ty khá quan tâm. Mặc dù chiếm một lượng nhỏ trong công tác tiêu thụ nhưng trong năm 2007 doanh nghiệp đã xuất khẩu được một lượng lớn các loại phân bón mà chủ yếu là phân lân. Doanh nghiệp đã tiêu thụ được 6,500 tấn phân lân với doanh thu là hơn 8 tỷ trong đó xuất khẩu nhiều ở Nhật Bản và Malayxia. Thị trường các nước Nhật, ÚC, Malayxia, Đài Loan sang năm 2007 do công ty có nhiều chính sách quảng cáo, giới thiệu sản phẩm tại các nước này nên sản lượng có tăng đáng kể. Về sản phẩm phân lân, sản lượng tiêu thụ tăng lên tương đối, tăng nhiều nhất là Đài Loan với lượng tăng là 729 tấn, sau đó đến Malayxia là 190 tấn nhưng lượng tiêu thụ lớn nhất vẫn là Nhật Bản với một lượng là 2,608 tấn. Về phân supetecmô thì mặc dù trong năm 2007 tất cả các sản phẩm đều giảm vì giá cả của sản phẩm này không thể cạnh tranh được giá của Trung Quốc và Thái Lan. Đây cũng là một động lực để doanh nghiệp nâng cao hơn nữa chất lượng sản phẩm và tiết kiệm để giảm chi phí nhằm giảm giá bán để có thể cạnh tranh trên thị trường nước ngoài. Còn đối với phân đa yếu tố thì mở ra một thị trường tiêu thụ tiềm năng với hầu hết các nước đều nhập khẩu với một lượng rất lớn so với năm 2006 cụ thể là Nhật tăng lên 776 tấn còn Malayxia thì tăng 483 tấn. Doanh nghiệp cần tăng cường quảng cáo, giới thiệu sản phẩm của doanh nghiệp ra thị trường nước ngoàI để không những có thể tiêu thụ được ở các nước trên mà còn mở rộng hơn nữa.
2.2.3.2. Tình hình thu tiền hàng.
Bảng 15: TÌNH HÌNH QUẢN KÍ THU HỒI TIỀN HÀNG
Chỉ tiêu
Năm 2006
Năm 2007
Chênh lệch
Số tuyệt đối
%
Tài sản lưu động bình quân (đ)
157,165,853,527
198,006,507,012
40,840,653,486
26
Nợ phải thu bình quân (đ)
51,898,234,467
45,693,026,393
-6,205,208,075
-12
Trong đó phải thu của khách hàng bình quân(đ)
56,560,900,231
45,784,547,385
-10,776,352,846
-20
Vòng quay các khoản phải thu (vòng)
6.9
7.86
0.96
10
Kì thu tiền trung bình (ngày)
52.17
45.8
-6.37
-12
Qua (bảng 15) ta có nhận xét như sau:
Trong năm 2007, để mở rộng sản quy mô kinh doanh nên vốn lưu động tăng 26% so với năm 2006. Bên cạnh đó nợ phải thu giảm 12% và nợ phải thu của khách hàng chiếm tỷ trọng lớn cũng giảm 20%. Điều này cho ta thấy công tác thanh toán cũng như kỉ luật thanh toán khá chặt chẽ, hiện tượng khách hàng nợ nần dây dưa khó đòi giảm đi rất lớn. Đây là một biểu hiện tốt không để trình trạng chiếm dụng vốn quá lớn và không bị mất vốn trong thanh toán, làm ảnh hưởng đến lợi nhuận cũng như hiệu quả sản xuất kinh doanh. Điều này cần được tiếp tục phát huy không những doanh nghiệp có đủ lượng vốn để mở rộng sản xuất mà còn tránh khỏi rủi ro về khả năng không trả nợ của khách hàng.
Kì thu tiền bình quân của công ty năm 2007 tăng so với năm 2006 . Đây là một điểm khá tốt của công ty trong công tác thanh toán tiền hàng, kì thu tiền tương đối lớn làm cho công ty không bị chiếm dụng vốn, vốn lưu động đựơc luân chuyển thường xuyên .Với đặc điểm kinh doanh của công ty là sản xuất và bán các loại phân bón cho cây trồng và vật nuôi, giá vốn tính trên một tấn sản phẩm là khá lớn, hoạt động bán hàng diến ra thuận lợi, năm sau tăng doanh số bán hàng so với năm trước và tốc độ quay vòng vốn lưu động hàng năm là 6.9 trong 2006 và 7.86 trong năm 2007 là tương đối lớn. Điều này giải thích tại sao năm 2007 tốc độ tăng doanh thu lại cao hơn năm 2006 như vậy. Theo em công ty đang làm tốt công tác quản lý các khoản phải thu khách hàng. Nhưng nếu doanh nghiệp mở rộng hơn nữa chính sách trả chậm cho khách hàng thì có thể doanh thu tiêu thụ lại lớn hơn. Điều này có thể gặp rủi ro nhưng lại có thể tăng được lượng tiêu thụ.
2.2.3.3. Tình hình quản lí chi phí bán hàng
Trong năm 2007, để có đạt được doanh thu bán hàng như vậy, công ty đã phải bỏ ra khá nhiều công sức. Doanh nghiệp đã cố gắng rất nhiều để mang lại hiệu quả kinh tế cao nhưng đồng thời cũng phải tiết kiệm các chi phí không đáng có.Trong năm 2007 lượng tiêu thụ lớn như vậy mà doanh nghiệp đã bằng sự quản lý của mình làm cho chi phí bán hàng giảm 3% so với năm 2006. Chi phí bán hàng bao gồm chi phí trả tiền lương cho nhân viên bán hàng và chi phí hỗ trợ bán hàng. Trong năm 2007, nhân viên bán hàng của công ty tăng không nhiều, tức là phần lớn việc giảm chí phí này đều đầu tư cho việc hỗ trợ bán hàng như quảng cáo, tiếp thị, chi phí vận chuyển, chi phí lưu kho lưu bãi... Điều này cho thấy trong thời gian qua công ty có quan tâm đến công tác tiêu thụ sản phẩm, mở rộng hơn hoạt động bán hàng nhưng không nhiều bằng năm 2006. Dù vậy mức tiêu thụ tăng lên rất lớn thì cũng có nghĩa là thương hiệu của doanh nghiệp đã được khẳng định, không cần quảng cáo rầm rộ nhưng nhà nông vẫn biết đến chất lượng sản phẩm của công ty mà lựa chọn cho vụ mùa của mình.
Tốc độ giảm của chi phí bán hàng thấp hơn tốc độ tăng doanh thu, có thể nhận xét việc tăng chi phí bán hàng của công ty là hợp lí. Trong những năm tiếp theo, công ty nên tiếp tục đầu tư hơn nữa vào công tác bán hàng vì đây có thể là động lực quan trọng giúp công ty tăng doanh thu tiêu thụ sản phẩm.
2.2.4. Các biện pháp kinh tế - tài chính được công ty sử dụng để đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm trong thời gian qua
2.2.4.1. Phương thức bán hàng
Để thực hiện công tác tiêu thụ, sau rất nhiều năm hoạt động với uy tín kinh doanh và chất lượng sản phẩm được đánh giá cao, công ty đã tìm được những bạn hàng tin cậy để thực hiện phân phối sản phẩm của mình. Cho đến nay, công ty chủ yếu tập trung vào các bạn hàng lớn sau:
+ Ngoài nước : Nhật Bản, ÚC, Malayxia….
+ Trong nước : Là sản phẩm dùng trong nông nghiệp nên có hầu hết các tỉnh thành trong cả nước. Sản phẩm NPK được tiêu thụ nhiều ở các địa phương phía Bắc và ngày càng tăng ở các tỉnh Phía Nam và Tây Nguyên với sản lượng tăng gấp 3
Ngoài ra công ty tổ chức mạng lưới, phương thức tiêu thụ sản phẩm phù hợp giảm mức thấp nhất phí lưu thông. Chẳng hạn tại các tỉnh thành phố phía Bắc đơn vị bán thẳng phân bón đến hợp tác xã hoặc một cơ sở đóng tại xã. hoặc tại miền Trung, miền Nam, Tây nguyên thì thuê nhiều khách sạn làm dịch vụ kho vận, đại diện để tạo cạnh tranh và chi phí hợp lý
Khách hàng có nhu cầu mua hàng thì tiến hành đặt hàng và kí hợp đồng với phòng kinh doanh của công ty. Việc vận chuyển công ty sẽ chịu trách nhiệm vận chuyển cảng xuất khẩu đối với trường hợp trực tiếp xuất khẩu. .
Về khối lượng sản phẩm, công ty sẵn sàng bán cho các khách hàng với khối lượng không hạn chế. Khách hàng muốn mua hàng phải tiến hành kí hợp đồng với công ty.
Về hình thức thanh toán sẽ được thực hiện theo hợp đồng đã thỏa thuận. Đối với các bạn hàng lớn ở trong nước về cơ bản là khi lấy hàng, công ty gần như bán chịu là chính. Bạn hàng chỉ phải thanh toán ngay 30% giá trị lô hàng, còn 70% có thể thanh toán vào thời điểm sau đó theo thỏa thuận của hợp đồng. Đối với sản phẩm xuất khẩu ra nước ngoài Công ty xuất khẩu tại cảng Hải Phòng theo giá FOB. Để thực hiện tốt việc tiêu thụ sản phẩm, công ty có phòng kinh doanh với số lượng 12 người, phụ trách các mảng chủ yếu trong việc bán hàng, đồng thời tổ chức nghiêm cứu, năm bắt nhu cầu thị trường, triển khai công tác tiêu thụ để đạt hiệu quả tối đa trong việc tiêu thị sản phẩm.
Việc theo dõi, ghi chép công tác tiêu thụ sản phẩm do phòng tài vụ đảm nhận. Từng loại sản phẩm tiêu thụ được theo dõi trên “sổ chi tiết tiêu thụ”, sổ này lập cho từng quý. Nhân viên phòng kế toán sẽ căn cứ vào hóa đơn, phiếu xuất kho phát sinh trong quý để lập sổ này.
2.2.4.2. Chiết khấu thanh toán
Đối với khách hàng trong nước và khách hàng nước ngoài không thanh toán bằng hình thức L/C, để khuyến khích khách hàng sớm thanh toán tiền hàng công ty đã thực hiện việc chiết khấu bán hàng. Trong trường hợp người mua trả tiền ngay sẽ được hưởng tỷ lệ chiết khấu là 0,5% trên số tiền thanh toán. Sau khi sản phẩm đã tiêu thụ mà không thanh toán ngay cho đến thời hạn thanh toán cuối cùng khách hàng sẽ không được hưởng chiết khấu. Trong trường hợp thanh toán sau thời gian quy định trong hợp đồng sẽ phải chịu lãi suất quá hạn của ngân hàng trên số tiền chậm trả đó.
Việc thực hiện chiết khấu bán hàng đã thúc đẩy khá nhiều việc tiêu thụ sản phẩm, nâng cao tỷ lệ doanh thu trả tiền ngay, hạ thấp tỷ lệ doanh thu trả chậm, giảm tình trạng nợ quá hạn.
2.2.4.3. Công cụ giá cả
Việc vận dụng giá cả trong công tác bán hàng của công ty phân lân Văn Điển đa dạng. Công ty thực hiện nhiều mức giá khác nhau trên từng vùng thị trường khác nhau trong từng điều kiện nhất định.
Trường hợp khách hàng ở những đất nước xa, chịu nhiều chi phí vận chuyển từ cảng xuất khẩu đến nước bạn thì công ty thực hiện một giá bán hợp lí nhằm hỗ trợ các bạn hàng. Tùy từng quan hệ giữa công ty với bạn hàng mà công ty có thể giảm bớt chi phí vận chuyển từ công ty ra cảng được tính trong giá bán. Giá bán được quy dịnh rõ trong các hợp đồng kinh tế. Đối với các bạn hàng lâu năm, gắn bó với công ty thì sẽ được hưởng mức giá khác so với những khách hàng mua lẻ.
Việc đa dạng về giá bán là một biện pháp cần thiết để phù hợp với các sức mua khác nhau trên thị trường. Nhờ vào việc phân hóa giá công ty đã thực hiện nhiều hợp đồng lớn trong năm.
2.2.4.4. Về phương thức thanh toán
Để thuận tiện cho khách hàng khi mua hàng, công ty đã vận dụng nhiều phương thức thanh toán khác nhau như thanh toán toán bằng tiền mặt, tiền chuyển khoản qua ngân hàng…
Thanh toán ngay: sau khi lập hóa đơn bán hàng, khách hàng phải thanh toán ngay bằng tiền mặt tại phòng kế toán cho thủ quỹ hoặc bằng tiền gửi qua ngân hàng.
Thanh toán trả chậm: công ty cho phép một số khách hàng thanh toán chậm trong một thời gian nhất định. Khách hàng có thể mua hàng và được phép chịu tiền hàng trong khoảng thời gian là 15-30 ngày. Khi mua hàng khách hàng phải thanh toán ngay 30% giá trị lô hàng, và tùy từng điều khoản cụ thể trong hợp đồng mà thanh toán nốt phần còn lại. Đối với khách hàng nước ngoài nếu thanh toán bằng hình thức L/C phải thanh toán tiền ngay công ty mới giao hàng, không áp dụng hình thức trả chậm.
Trong trường hợp khách hàng không thanh toán đúng hạn thì phải chịu lãi suất quá hạn của ngân hàng trên số tiền trả chậm. Khi đó công ty yêu cầu khách hàng thanh toán hết rồi mới giao hàng tiếp.
Những quy định trên vừa tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong mối quan hệ mua bán với công ty vừa đảm bảo cho tài sản tiền vốn của công ty có mức an toàn nhất định.
2.2.4.5. Về quảng cáo giới thiệu sản phẩm
Để giới thiệu sản phẩm của mình tới khách hàng, công ty thường xuyên gửi sản phẩm tham dự các hội chợ thương mại như “ Hội chợ triển lãm Giảng Võ”, các hội chợ xuân... Đây là những dịp để người tiêu dùng tiếp xúc trực tiếp với các sản phẩm của công ty, qua đó công ty nhận được các thông tin phản hồi từ khách hàng về sản phẩm của mình để có kế hoạch điều chỉnh công tác sản xuất và tiêu thụ kịp thời.
Ngoài ra công ty còn tiến hành quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng như báo chí, phát thanh (đài truyền hình Hà Nội, VTC1), trên các trang web (chủ yếu đề giới thiệu với khách hàng nước ngoài)..., việc quảng cáo thường chỉ tập trung cho những thị trường quen thuộc, có quan hệ buôn bán lâu dài chứ không quảng cáo dàn trải trên tất cả các thị trường.
*Nhận xét chung:
Bằng cách sử dụng những biện pháp kinh tế tài chính thích hợp đã hỗ trợ rất nhiều cho công ty trong việc tiêu thụ sản phẩm. Mặc dù vậy những biện pháp đó vẫn còn hạn chế:
Các biện pháp về giá cả còn sử dụng một cách dặt dè, chỉ áp dụng phần lớn đối với khách hàng quen thuộc, công ty chưa hoàn toàn chủ động điều chỉnh giá cả cho phù hợp với chiến lược kinh doanh của mình.
Công ty chưa hoạch định chiến lược quảng cáo cụ thể cho từng thời kì. Công tác quảng cáo thường diễn ra rời rạc, lẻ tẻ và chỉ tập trung vào thị trường quen thuộc, chưa có chiến lược mở rộng thị trường.
Công ty chưa thực hiện chính sách chiết khấu thương mại cho những khách hàng mua với số lượng lớn, do giá cả đã thống nhất trong hợp đồng mua bán. Đây là vấn đề cần khắc phục vì điều này sẽ không khuyến khích khách hàng mua với số lượng lớn, giảm sức cạnh tranh của công ty do trên thị trường hiện nay có rất nhiều công ty thực hiện chính sách này.
2.3. Những vấn đề cần đặt ra đối với công tác tiêu thụ sản phẩm trong thời gian tới
Từ việc phân tích thực trạng tiêu thụ sản phẩm công ty phân lân nung chảy Văn Điển trong năm 2007 cho thấy công ty đã cố nhiều cố gắng trong công tác tiêu thụ sản phẩm, thể hiện:
Số lượng sản phẩm tiêu thụ và doanh thu tiêu thụ sản phẩm đều tăng so với năm 2006 tăng 51,88% về doanh thu.
Thị trường tiêu thụ trong nước và quốc tế được củng cố và ngày càng mở rộng.
Chất lượng sản phẩm ngày càng cao so với sản phẩm cùng loại trên thị trường, tạo ra uy tín ngày càng lớn cho công ty.
Phương thức bán hàng tương đối linh hoạt, một số biện pháp kinh tế tài chính của công ty sử dụng có hiệu quả đã có tác dụng thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm...
Kế hoạch tiêu thụ phần lớn các sản phẩm khá sát với thực tế, chênh lệch về sản lượng, giá bán, doanh thu không vượt quá mức ±5%, Ngoài những kết quả đạt được, công tác tiêu thụ sản phẩm của công ty vẫn còn một số tồn tại cơ bản sau:
Giá bán sản phẩm còn cao so với các đối thủ cạnh tranh, đặc biệt còn cao hơn nhiều so với sản phẩm phân bón của Trung Quốc mẫu mã sản phẩm chưa có nhiều thay đổi so với năm 2006.
Phương thức bán hàng tuy được sử dụng phù hợp với từng loại sản phẩm, từng loại thị trường song vẫn còn chưa năng động và nhạy bén, chưa tích cực trong việc tìm kiếm những thị trường mới, phương thức bán hàng chiết khấu thương mại chưa được áp dụng.
Các biện pháp kinh tế tài chính thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm đang được công ty sử dụng còn ít và hiệu quả chưa cao. Nhiều biện pháp kinh tế tài chính hữu hiệu chưa được công ty vận dụng để đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm như công ty chưa áp dụng hình thức chiết khấu thương mại, giảm giá hàng bán...
Công tác quảng cáo, giới thiệu sản phẩm chưa được coi trọng và đầu tư thích đáng, công ty chưa có chiến lược quảng cáo phù hợp với từng thời kì, từng thị trường... Các bạn hàng ở nước ngoài chưa biết nhiều đến sản phẩm của công ty, nếu muốn đặt hàng thì phải cử người đến tìm hiểu các sản phẩm tại công ty (như các chuyến đi ra nước ngoài để tìm nhà cung cấp, di du lịch...)
Những tồn tại trên đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến hiệu quả sản xuất phù hợp với tiềm năng mà doanh nghiệp có được. Mặc dù đã đầu tư thêm nhiều máy móc thiết bị giảm một lượng rất lớn chi phí quản lý doanh nghiệp nhưng doanh thu tăng chưa tương xứng với tình hình sản xuất của công ty. Tài sản lưu động tăng 26% nhưng tập trung chủ yếu ở lượng tiền mặt tồn quỹ quá lớn. Để đạt tốc độ tăng cao hơn trong năm sau, một trong những nhiệm vụ đặt ra là công ty phải đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm, tăng doanh thu để nâng cao lợi nhuận. Muốn vậy công ty phải tìm ra những giải pháp tối ưu, bao hàm tổng hợp nhiều mặt: kinh tế – kĩ thuật – quản lí... và vận dụng chúng có hiệu quả vào công tác tiêu thụ sản phẩm.
CHƯƠNG 3
MỘT SỐ PHƯƠNG HƯỚNG, BIỆN PHÁP CHỦ YẾU ĐẨY MẠNH TIÊU THỤ SẢN PHẨM Ở CÔNG TY PLNC VĂN ĐIỂN
3.1. Phương hướng phát triển của công ty phân lân nung chảy Văn Điển
Là một doanh nghiệp được trọng tài thành phố Hà Nội cho phép thành lập năm 1963 và được Sở KH & ĐT Hà Nội cấp giấy phép kinh doanh sản xuất mặt hàng phân bón. .
Qua quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, công ty luôn năng động, đã sáng tạo được nhiều mẫu mã hàng phù hợp với thị hiếu của khách hàng, luôn đầu tư đổi mới công nghệ bằng những trang thiết bị tiên tiến của nước ngoài từ khâu chế biến nguyên liệu, tạo hình sản phẩm và qui trình nung đốt để nâng cao năng suất, chất lượng và mỹ thuật của sản phẩm đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng trong và ngoài nước. Do vậy, sản phẩm của công ty đã có uy tín với nhiều thị trường quốc tế như Nhật bản, Đài Loan, ÚC, Malayxia...
Doanh thu năm 2007 đạt hơn 439 tỷ đồng
Trong đó tiêu thụ trong nước đạt 70 %
Thu nhập bình quân của người lao động : 2triệu đ/tháng
Kế hoạch năm 2008 :
Doanh thu đạt : 500 tỷ đồng
Trong đó xuất khẩu : 35%
Thu nhập bình quân của người lao động : 3 triệu đồng /tháng
Doanh thu Quí 1/2008 đã thực hiện : 200 tỷ đồng. Trong đó xuất khẩu là 70 tỷ đồng, chiếm 30%.
Doanh thu Quí 2/2008 đạt 200 tỷ đồng. Trong đó xuất khẩu là 60 Tỷ đồng.
Quí 3/2008 sẽ đạt 100 tỷ đồng/quí. Trong đó xuất khẩu là 40 tỷ đồng, chiếm 40%
Doanh thu Quí 4/2008 sẽ đạt 150 tỷ đồng. Trong đó xuất khẩu là 50 tỷ đồng,
3.2. Một số kinh nghiệm đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp trong và ngoài nước.
Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, sản phẩm tung ra thị trường ngày càng nhiều vì vậy để chiếm được lợi thế trong cạnh tranh các doanh nghiệp phải vạch ra được mục tiêu mang tính chiến lược và hướng đi đúng.
Kinh tế là phạm trù vận động liên tục, biến đổi theo thời gian, hoạt động kinh doanh đòi hỏi phải bám sát thị trường để kịp thời nắm bắt những biến động về thị hiếu người tiêu dùng, từ đó có những điều chỉnh kết hợp.
Thực tế cho thấy, những hãng lớn trên thế giới như: Coca Cola, Microsoft, Pepsi, Sony, Ford, Nokia… Sở dĩ trường tồn theo thời gian là vì nó luôn bám sát những thay đổi của thị trường, không để tụt hậu so với các đối thủ cạnh tranh khác. Hơn nữa, các tập đoàn này luôn lấy phương châm “nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hóa và cải tiến mẫu mã” làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh.
Ở Trung Quốc, các doanh nghiệp đã lựa chọn mức giá bán sản phẩm thấp hơn các đối thủ cạnh tranh để thu hút được phần lớn người tiêu dùng trên thị trường, mặc dù các sản phẩm của Trung Quốc chất lượng chưa cao nhưng giá bán lại thấp, hình thức đẹp, mẫu mã đa dạng đã thu hút được đông đảo người dân có thu nhập thấp, thị hiếu người tiêu dùng chưa cao.
Ở Việt Nam, các doanh nghiệp thành công trong tiêu thụ sản phẩm do đã đề cao vai trò chất lượng sản phẩm, đa dạng hóa sản phẩm và cải tiến mẫu mã phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng. Một số doanh nghiệp như Công ty may 10, Công ty bánh kẹo Hải Hà, Cafe Trung Nguyên… đã và đang làm ăn có hiệu quả và liên tục tăng trưởng với tốc độ cao. Thương hiệu của sản phẩm Cafe Trung Nguyên đang chiếm ưu thế lớn nhất trên thị trường cà phê và gần như không có đối thủ cạnh tranh bởi chất lượng của nó luôn đảm bảo số 1. Sản phẩm của các doanh nghiệp trên đã được người tiêu dùng bình chọn là hàng Việt Nam chất lượng cao trong nhiều năm liền. Bên cạnh nâng cao chất lượng sản phẩm thì sản phẩm của những công ty này phong phú về chủng loại, mẫu mã, kiểu dáng, kích cỡ… đã tạo thuận lợi cho công tác tiêu thụ và tăng doanh thu bán hàng.
3.3. Biện pháp chủ yếu để đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm, tăng doanh thu ở công ty phân lân nung chảy Văn Điển
Mục đích hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty là tìm kiếm lợi nhuận và nâng cao giá trị doanh nghiệp vì vậy để có được điều đó thì tìm kiếm những giải pháp hữu ích để đẩy mạnh tiêu thụ, tăng doanh thu là vấn đề quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp.
Để có thể đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm và tăng doanh thu thì công ty cần có sự quan tâm và tác động mạnh vào các khâu của quá trình sản xuất kinh doanh cả mặt quản lý, kỹ thuật cho đến kinh tế – tài chính.
Qua thời gian thực tập tại công ty cùng với việc nghiên cứu hoạt động sản xuất kinh doanh mà đặc biệt là công tác tiêu thụ sản phẩm của công ty, em xin mạnh dạn đề xuất một số biện pháp chủ yếu để giải quyết những vướng mắc, tồn tại và đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm của công ty.
3.3.1. Tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm để hạ giá bán
Khó khăn lớn nhất của công ty hiện nay trong công việc tiêu thụ sản phẩm là giá bán còn cao so với giá bán của các sản phẩm phân bón khác. Trong điều kiện thu nhập của nông dân Việt Nam còn thấp như hiện nay, điều họ quan tâm nhất trước tiên khi mua hàng là giá bán sản phẩm. Người tiêu dùng có thể chấp nhận một sản phẩm chất lượng khá tốt nhưng giá bán phải phù hợp với túi tiền của họ. Chính vì vậy mà thị trường tiêu thụ chính của công ty là thị trường trong nước. Đáp ứng tốt nhu cầu trong nước là nhiệm vụ quan trọng cuả công ty, nhưng việc mở rộng ra thị trường nước ngoài trước mắt là thị trường các nước trong khu vực, vừa là thị trường trong khu vực vừa là thị trường có đất đai, cây trồng phù hợp với việc sử dụng phân lân nung chảy cũng phải được đặt lên hàng đầu. Phân bón nói chung và phân bón của phân lân nung chảyVăn Điển nói riêng tuy chất lượng cao hơn hẳn các sản phẩm phân bón Trung Quốc song giá bán cũng cao hơn nên rõ ràng trong điều kiện hiện nay là chưa phù hợp với nhu cầu có khả năng thanh toán của thị trường. Cho nên hạ giá mà vẫn duy trì được chất lượng sản phẩm là một biện pháp hữu hiệu để thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm. Để hạ giá bán sản phẩm, giải pháp tích cực là tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm. Muốn tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm công ty có thể sử dụng một số biện pháp sau:
* Tiết kiệm chi phí nguyên vật liệu, nhiên liệu
Để sản xuất hoàn chỉnh các sản phẩm phân, công ty phải nhập vật liệu từ nhiều nguồn khác nhau, chất lượng và giá cả nguyên liệu của từng nguồn cũng khác nhau. Các nguyên liệu thường dùng để sản xuất phân là: quặng Apatit, than antraxit, serpentin... Nhằm tiết kiệm chi phí vật tư, công ty cần làm tốt những việc sau:
Tiết kiệm vật tư, tận dụng các phế liệu để sử dụng lại là biện pháp sẽ giúp công ty giảm định mức tiêu hao vật tư và do đó giữ giá phân bón ổn định trong tình hình apatit, than và điện là những nguồn nguyên liệu và năng lượng quan trọng nhất trong sản xuất phân lân tăng giá rất nhanh.
Đảm bảo việc cung ứng vật liệu đầy đủ, kịp thời. Công ty cần xây dựng tốt kế hoạch vật liệu của năm, của tháng, thông báo kịp thời cho bộ phận cung ứng để nhập vật liệu đầy đủ, kịp thời, có chế độ thưởng phạt thích đáng đối với nhân viên tiếp liệu theo chất lượng công việc của họ: thưởng 3% giá trị nguyên vật liệu nếu cung ứng kịp thời, phạt 5% giá trị nguyên vật liệu nếu cụng ứng không đúng thời hạn, hoặc làm hỏng nguyên vật liệu trong quá trình vận chuyển.
Thường xuyên kiểm tra, giám định việc sử dụng định mức tiêu hao vật liệu trng quá trình sản xuất. Cần phát huy vai trò của tài chính doanh nghiệp trong việc sử dụng vật tư qua các chế độ thưởng, phạt do sử dụng tiết kiệm, lãng phí vật liệu, tránh sử dụng vật liệu sai quy cách để hao hụt, lãng phí vật liệu.
* Khoán quỹ lương, sử dụng có hiệu quả chi phí tiền lương, tiền thưởng trong sản xuất
Dựa trên việc phân công lao động hợp lí, đúng năng lực, tay nghề, công ty tiến hành trả lương theo chất lượng công việc, tiến tới khoán quỹ lương cho người lao động.
Tiền lương cần được tính toán, chi trả với mức độ hợp lí bảo đảm quyền lợi cho người lao động. Tránh trả lương thiếu căn cứ, vừa gây lãng phí tiền vốn, vừa khích lệ người lao động. Tăng lương cho người lao động và phải đảm bảo tốc độ tăng tiền lương phải nhỏ hơn tốc độ tăng năng suất lao động.
Sử dụng hình thức tiền thưởng phải phát huy được tác dụng của nó là khuyến khích, động viên người lao động hăng say làm việc, không ngừng nâng cao năng suất lao động. Tránh thưởng tràn lan, thưởng mang tính chất bình quân. Trước mắt, công ty có thể áp dụng hình thức thưởng như: thưởng do tiết kiệm vật tư, thưởng sáng kiến, thưởng tăng năng suất… cũng như phải quy trách nhiệm rõ ràng, xử phạt nghiêm minh những hành vi gây lãng phí vật tư, thất thoát tiền vốn, gây hư hỏng tài sản. Công ty nên có những hình thức chăm lo đến đời sống tinh thần của công nhân như hàng năm tổ chức đi thăm quan, nghỉ mát, ngày Tết, ngày lễ có quà và có tiền thưởng cho công nhân, ăn trưa được miễn phí 50%, bảo hộ lao động được trang bị đầy đủ.
* Quản lí, bảo dưỡng tốt máy móc, thiết bị kết hợp với đầu tư mua sắm mới, thay thế những máy móc thiết bị đã cũ nát
Để duy trì và phát huy năng lực làm việc của máy móc thiết bị, trước hết công ty phải đảm bảo các điều kiện kĩ thuật cho máy móc thiết bị như: nhiệt độ, độ ẩm, áp suất, điện áp... Máy móc thiết bị phải được vận hành đúng quy trình kĩ thuật, phát huy tối đa công suất thiết kế để giảm khấu hao trên mỗi đơn vị sản phẩm. Công tác bảo dưỡng, tu sửa phải được tiến hành thường xuyên theo định kì, phù hợp với tình trạng kĩ thuật của máy móc, thiết bị.
Việc sửa chữa nhỏ, sửa chữa thường xuyên, sửa chữa lớn máy móc thiết bị toàn công ty thuộc trách nhiệm của xí nghiệp cơ điện. Công ty nên tận dụng thời gian nghỉ ngoài giờ sản xuất để tiến hành sửa chữa, đảm bảo nhanh chóng đưa máy móc thiết bị vào sản xuất. Cần phát huy tối đa năng lực sửa chữa của bản thân công ty, tránh phải thuê ngoài để tiết kiệm chi phí sửa chữa.
Phát huy sáng kiến và cải tiến trong đó có cải tiến kỹ thuật được Đảng ủy và lãnh đạo của công ty rất coi trọng đã trở thành một nếp làm việc, một phong trào trong cán bộ công nhân viên. Các sáng kiến, cải tiến luôn được phát huy ở mọi lúc mọi nơi. Cụ thể như sau:
+ Hệ thống các máy nghiền phân bón đã được cải tiến đưa năng suất tăng tới gần 48% so với ban đầu
+Đồng bộ hóa và nghiên cứu tốc độ hệ thống băng tảI trong công ty vừa thuận tiện cho sửa chữa thay thế vừa kéo dài được tuổi thọ của thiết bị an toàn cho con người giảm bay bụi giảm ô nhiễm môI trường
+ Máy nghiền xi măng đã được tải tạo thành hệ thống nghiền liên hoàn chuyển từ hệ thống nghiền hai lần thành nghiền một lần với năng suất thấp hơn nhưng giảm đáng kể lượng bụi phát sinh.
3.3.2. Chú trọng và làm tốt hơn nữa công tác lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm
Qua tìm hiểu phương phá
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- TC1.docx