Đề tài Tiêu thụ sản phẩm và các phương hướng biện pháp đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm và tăng doanh thu tiêu thụ sản phẩm ở Công ty thương mại dịch vụ và xây dựng Hải Phòng

Tài liệu Đề tài Tiêu thụ sản phẩm và các phương hướng biện pháp đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm và tăng doanh thu tiêu thụ sản phẩm ở Công ty thương mại dịch vụ và xây dựng Hải Phòng: Lời nói đầu Trong công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước, cùng với sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế từ một nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước đã bước đầu đem lại cho nền kinh tế nước ta những thành tựu hết sức to lớn. Đời sống của nhân dân ta đã được đảm bảo và ngày càng nâng cao. Đó là kết quả của sự nỗ lực sáng tạo trong quản lý kinh tế của từng thành phần kinh tế, từng doanh nghiệp có sự tồn tại và phát triển chung của đất nước. Trong môi trường cạnh tranh quyết liệt của nền kinh tế thị trường hiện nay, để khẳng định được vị trí của mình, các doanh nghiệp không ngừng mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm hàng hoá nhằm góp phần nâng cao lợi nhuận. Giữa sản xuất và tiêu dùng có mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại và phụ thuộc lẫn nhau : Có sản xuất thì mới có sản phẩm để tiêu thụ và từ đó sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp mới có thể đến tay người tiêu...

doc81 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 998 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Tiêu thụ sản phẩm và các phương hướng biện pháp đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm và tăng doanh thu tiêu thụ sản phẩm ở Công ty thương mại dịch vụ và xây dựng Hải Phòng, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Trong công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước, cùng với sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế từ một nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước đã bước đầu đem lại cho nền kinh tế nước ta những thành tựu hết sức to lớn. Đời sống của nhân dân ta đã được đảm bảo và ngày càng nâng cao. Đó là kết quả của sự nỗ lực sáng tạo trong quản lý kinh tế của từng thành phần kinh tế, từng doanh nghiệp có sự tồn tại và phát triển chung của đất nước. Trong môi trường cạnh tranh quyết liệt của nền kinh tế thị trường hiện nay, để khẳng định được vị trí của mình, các doanh nghiệp không ngừng mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm hàng hoá nhằm góp phần nâng cao lợi nhuận. Giữa sản xuất và tiêu dùng có mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại và phụ thuộc lẫn nhau : Có sản xuất thì mới có sản phẩm để tiêu thụ và từ đó sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp mới có thể đến tay người tiêu dùng. Ngược lại, sản phẩm sản xuất ra mà không tiêu thụ được thì quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp không thực hiện được. Vì vậy tiêu thụ sản phẩm không những là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng mà còn có tác dụng hướng dẫn và thúc đẩy sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Qua tiêu thụ người sản xuất mới có thể nắm bắt được những thông tin cần thiết về thị trường từ đó mới có thể xác định được nên sản xuất cái gì, với số lượng bao nhiêu, và chất lượng như thế nào ? …Chính vì vậy, tiêu thụ sản phẩm hàng hoá là một vấn đề hết sức quan trọng đối với các doanh nghiệp hiện nay. Hơn nữa đây cũng là một vấn đề hết sức khó khăn phức tạp, đòi hỏi phải được nghiên cứu một cách sâu sắc và toàn diện thì mới có thể đem lại hiệu quả cao trong quá trình thực hiện. Xuất phát từ vấn đề thực tiễn của vấn đề này, trong thời gian thực tập tại Công ty thương mại dịch vụ và xây dựng Hải Phòng. Tôi đã vận dụng lý thuyết đã học để đi sâu nghiên cứu tình hình tiêu thụ hàng hoá của công ty. Được sự giúp đỡ tận tình của giáo viên hướng dẫn và các cô chú trong phòng kế toán tài vụ của Công ty, tôi đã lựa chọn và thực hiện đề tài “Tiêu thụ sản phẩm và các phương hướng biện pháp đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm và tăng doanh thu tiêu thụ sản phẩm ở Công ty thương mại dịch vụ và xây dựng Hải Phòng”. Do thời gian có hạn nên trong quá trình thực hiện đề tài này không tránh khỏi những thiếu sót, tôi rất mong được sự góp ý bổ sung của các thầy cô giáo và các cô chú trong Công ty. Ngoài lời nói đầu và kết luận, nội dung luận văn bao gồm : Chương I : Chương II Chương III : Em xin chân thành bày tỏ lòng cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo TS. Nguyễn Minh Hoàng đã giúp em hoàn thành bản luận văn này. Chương I cơ sở lý luận về vấn đề tiêu thụ và doanh thu tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp 1.1. Những vấn đề chung về tiêu thụ và doanh thu tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. 1.1.1. Doanh nghiệp và mối quan hệ giữa doanh nghiệp với thị trường. * Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện ổn định các hoạt động sản xuất kinh doanh (theo điều 3 Luật doanh nghiệp năm 1999). Như vậy trước hết doanh nghiệp là một tổ chức kinh doanh độc lập, hoạt động một cách tự chủ nhưng được đặt dưới sự quản lý chung của Nhà nước. Điều kiện để ra đời một doanh nghiệp là yếu tố quan trọng nhất, là điều kiện đầu tiên để Nhà nước cho phép thành lập một doanh nghiệp. Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp phải có một lượng tài sản nhất định, biểu hiện bằng một lượng vốn ban đầu khi thành lập và được ghi trong điều lệ hoạt động của doanh nghiệp, lượng vốn này được quy định không thấp hơn mức vốn pháp định. Tuy nhiên đối với từng doanh nghiệp, từng ngành nghề kinh doanh khi đăng ký tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh thì mức vốn pháp định được quy định là hoàn toàn khác nhau. Trong quá trình hoạt động doanh nghiệp có thể tăng số vốn này thông qua việc huy động dưới các hình thức như phát hành trái phiếu, vay vốn, nhận vốn góp liên doanh… hoặc dùng một phần lợi nhuận để lại để bổ sung nguồn vốn, mở rộng quy mô sản xuất. Trong thời kỳ bao cấp, nguồn vốn của doanh nghiệp hoàn toàn thuộc sở hữu của Nhà nước, Nhà nước cấp vốn và điều hành mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thông qua các chỉ tiêu kế hoạch do Nhà nước đặt ra. Nhưng ngày nay khi chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Các doanh nghiệp được đăng ký thành lập dưới nhiều hình thức sở hữu khác nhau với những ngành nghề kinh doanh ngày càng trở lên phong phú và đa dạng. * Mối quan hệ giữa doanh nghiệp với thị trường. Để thấy được mối quan hệ giữa doanh nghiệp với thị trường trước hết là đi vào khái niệm của thị trường. Thị trường là nơi diễn ra các hoạt động mua bán và trao đổi hàng hoá giữa con người với con người, giữa con người với chủ thể kinh tế và giữa các chủ thể kinh tế với nhau. Qua khái niệm thị trường ta thấy thị trường bao gồm toàn bộ phạm vi cả về không gian và thời gian, nơi diễn ra các hoạt động mua bán và trao đổi hàng hoá. Và ở đây giá trị và giá trị sử dụng được biểu hiện và được người tiêu dùng chấp nhận. Trong nền kinh tế bao cấp của nước ta trước đây, khái niệm thị trường hầu như không tồn tại, bởi mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đều do Nhà nước trực tiếp quản lý theo một hệ thống chỉ tiêu kế hoạch do Nhà nước đặt ra. Nhà nước bao cấp toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, từ khâu thu mua các yếu tố nguyên liệu, nguyên liệu đầu vào cho đến khâu tiêu thụ các sản phẩm đầu ra. Đối với các doanh nghiệp sản xuất và cơ cấu nhiên liệu, vật liệu cho nhau thì sản phẩm kết quả đầu ra của doanh nghiệp này là chỉ tiêu kế hoạch đói với các doanh nghiệp khác còn đối với các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm hàng tiêu dùng thì sản phẩm của họ không phải do họ tự quyết định và đưa ra tiêu thụ, mà do Nhà nước đưa ra phân phối theo chỉ tiêu kế hoạch đã được định trước điều này đã làm cho các doanh nghiệp không phát huy được khả năng của mình mà còn tạo cho doanh nghiệp tính trông chờ, ỷ lại, kém năng động. Nhưng ngày nay sau khi chuyển đổi cơ cấu kinh tế, nền kinh tế nước ta đang từng bước chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường mà bước khởi đầu của nó là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước thì thị trường bắt đầu được hình thành phát triển và ngày càng mở rộng không những thế trong phạm vi của một quốc gia mà còn mở rộng ra cả phạm vi quốc tế. Cũng từ đây mối quan hệ giữa doanh nghiệp với thị trường được hình thành và ngày càng thể hiện rõ nét hơn. Nói đến thị trường là nói đến hàng hoá và sự trao đổi hàng hoá của doanh nghiệp là người chuyển chủ yếu hàng hoá để cho thị trường có thể hoạt động một cách liên tục và ổn định phát triển. Thị trường cũng có tác động trở lại đối với doanh nghiệp. Nó quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Bởi vì thị trường không những là nơi chuyển các yếu tố đầu vào cho quá trình sản xuất hoạt động mà nó còn là nơi tiêu thụ các sản phẩm hàng hoá đầu ra của doanh nghiệp. Sự vận động của thị trường được tuân theo một hệ thống các quy luật kinh tế như quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu và quy luật lợi nhuận… Trong đó quy luật cạnh tranh là chủ yếu và quan trọng nhất. Điều này buộc các doanh nghiệp phải tuân theo và vận động một cách phù hợp với sự vận động của thị trường, khả năng tồn tại và phát triển. Sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp muốn được tiêu thụ muốn được thị trường chấp nhận, thì trước tiên là phải chiến thắng trong cạnh tranh, mà ý đồ để chiến thắng được các nhà kinh tế ngày nay quan tâm hàng đầu đó là ý đồ về giá cả và chất lượng sản phẩm hàng hoá. Điều này buộc các doanh nghiệp phải thường xuyên động não tích cực, nhạy bén, năng động nhằm nắm bắt các nhu cầu của thị trường, phải thường xuyên cải tiến kỹ thuật, công nghệ và phương pháp tổ chức quản lý…để giảm bớt những chi phí sản xuất kinh doanh, hạ giá thành sản phẩm đồng thời nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá của mình. Đồng thời thông qua thị trường các doanh nghiệp mới có thể khẳng định được vị trí của mình và đưa ra được, kế hoạch phát triển của doanh nghiệp trong tương lai. Nói tóm lại thông qua các quy luật vận động cảu thị trường nó tác động trực tiếp hay gián tiếp đến sự hoạt động của các doanh nghiệp nói chung và từ đó tác động trực tiếp hay gián tiếp đến toàn bộ nền kinh tế, thúc đẩy cho nền kinh tế nước ta ngày càng phát triển và đi vào ổn định theo xu hướng chung của nền kinh tế khu vực và thế giới. 1.1.2. Tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp Trong một nền kinh tế thị trường các mối quan hệ hàng hoá tiền tệ ngày càng được mở rộng và phát triển cùng với việc đa dạng hoá các thành phần kinh tế nền sản xuất ngày càng xuất hiện nhiều doanh nghiệp sản xuất thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệ, các thành phần kinh tế ngày càng trở nên gay gắt và khốc liệt hơn. Do vậy vấn đề tiêu thụ sản phẩm hàng hoá đang là mối quan tâm hàng đầu của mỗi doanh nghiệp, nó không những cho thấy được vị trí của doanh nghiệp trên thị trường mà còn có ý đồ quyết định đến sự thành bại của mỗi doanh nghiệp. Các doanh nghiệp sản xuất nói chung khi tiến hành sản xuất kinh doanh thông thường phải trải qua các giai đoạn thể hiện qua sơ đồ sau : TLSX (TLLĐ - ĐTLĐ) T - H SLĐ …………………sản xuất …H’ - T’ Giai đoạn 1 : Tiền - hàng : Đây là giai đoạn đầu của quá trình sản xuất, doanh nghiệp bỏ tiền ra mua tư liệu sản xuất, TLLĐ + ĐTLĐ) như vật liệu, nhiên liệu… các chi phí về nhân công và các chi phí khác để chuẩn bị cho quá trình sản xuất. - Giai đoạn 2. : Hàng - sản xuất - Hàng : ở giai đoạn này, sau khi đã chuẩn bị đầy đủ các yếu tố đầu vào doanh nghiệp bắt đầu tiến hành quá trình sản xuất và trải qua một quy trình công nghệ nhất định sẽ tạo ra sản phẩm theo yêu cầu của doanh nghiệp. - Giai đoạn 3 : Hàng - Tiền : Đây là khâu cuối cùng của chủ kinh tế sản xuất. Sau khi kết thúc giai đoạn sản xuất doanh nghiệp tiến hành việc tiêu thụ các sản phẩm và thu hồi toàn bộ số vốn bỏ ra ở các giai đoạn 1 và 2 để tiếp tục thực hiện việc tái sản xuất kinh doanh ở chu kỳ tiếp theo. Đây là toàn bộ quá trình sản xuất của các doanh nghiệp sản xuất nói chung. Tuy nhiên đối với doanh nghiệp thương mại thì chu kỳ kinh doanh của nó thường ngắn hơn thể hiện qua sơ đồ sau : T - H - T’ Giai đoạn 1 : Doanh nghiệp thương mại bỏ tiền ra để mua sản phẩm hàng hoá của những người cung cấp. Giai đoạn 2 : H -T’ đây là giai đoạn mà các doanh nghiệp tiêu thụ hàng hoá của mình và thu tiền về. Trong giai đoạn này các doanh nghiệp thường tiến hành một số công việc nhằm hoàn chỉnh nốt một số công đoạn như bảo quản, đóng gói, chế biến sau đó đưa hàng hoá ra tiêu thụ. Trong nhiều trường hợp cả 2 giai đoạn mua hàng và bán hàng ra một cách đồng thời nghĩa là doanh nghiệp có thể mua hàng hoá của các nhà cung cấp sau do giao bán trực tiếp cho người mua. Lúc này các doanh nghiệp thương mại chỉ đóng vai trò như là người môi giới hay vận chuyển thuê cho người bán và người mua. Nhưng nói tóm lại cho dù đối với doanh nghiệp sản xuất nói riêng thì tiêu thụ sản phẩm hàng hoá là khâu cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh. Để thấy rõ được vấn đề ta xem xét khái niệm về tiêu thụ. Tiêu thụ sản phẩm hàng hoá là quá trình đơn vị bán xuất giao sản phẩm hàng hoá cho đơn vị mua thanh toán tiền hàng hoặc chấp nhận thanh toán cho đơn vị bán về số sản phẩm đó theo mức giá thoả thuận. Đứng trên góc độ luân chuyển vốn thì tiêu thụ sản phẩm là quá trình chuyển hoá hình thái giá trị của vốn từ hình thức vật chất sang hình thái tiền tệ. Kết thúc một chu kỳ sản xuất, đồng vốn quay trở về hình thái ban đầu cảu nó để chuẩn bị cho chu kỳ sản xuất tiếp theo. Thời điểm tiêu thụ sản phẩm được tính từ lúc bắt đầu xuất giao sản phẩm hàng hoá cho đơn vị mua cho đến khi người mua thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán. Tuy nhiên nếu như hàng xuất đi nhưng chưa được người mua chấp nhận do nhiều nguyên nhân như hàng kém phẩm chất, mẫu mã không phù hợp không đúng yêu cầu hay hàng hoá bị thiếu hụt…thì sản phẩm hàng hoá coi như chưa được tiêu thụ. Để xác định đúng thời điểm tiêu thụ cần phải căn cứ vào hai điều kiện chủ yếu sau : Thứ nhất : doanh nghiệp cung cấp sản phẩm hàng hoá, dịch vụ cho khách hàng Thứ hai : Khách hàng thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán với doanh nghiệp theo trị giá của sản phẩm hàng hoá, dịch vụ đó với mức giá cả đã được thoả thuận trong hợp đồng. Việc xác định đúng thời điểm hoàn thành tiêu thụ có ý nghĩa rất quan trọng, nó giúp cho doanh nghiệp nhìn nhận đúng thực trạng về tình hình tiêu thụ sản phẩm hàng hoá. Từ đó giúp cho người quản lý điều chỉnh kế hoạch sản xuất và kế hoạch tiêu thụ một cách hợp lý. Mặt khác việc xác định đúng thời điểm hoàn thành tiêu thụ còn là cơ sở giúp cho doanh nghiệp có thể đánh giá được tình hình sử dụng vật tư tiền vốn trong sản xuất kinh doanh, đánh giá chính xác kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh về sản lượng tiêu thụ. Tuy nhiên do đặc điểm sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp, từng ngành có khác nhau nên việc xác định thời điểm tiêu thụ sản phẩm hàng hoá cũng có những đặc trưng riêng. Nhưng nhìn chung việc xác định thời điểm tiêu thụ được căn cứ thông qua phương thức mua bán hàng hoá giữa doanh nghiệp với khách hàng. - Đối với phương thức bán hàng giao hàng trước trả tiền sau thì sau khi doanh nghiệp giao hàng hoá cho khách hàng, số hàng hoá đó được khách hàng thanh toán ngay hoặc chấp nhận thanh toán thì hàng hoá của doanh nghiệp được xác định là đã tiêu thụ. - Đối với phương thức trả tiền trước giao hàng sau (người mua trả tiền trước) thì khi doanh nghiệp tiến hành chuyển hàng hoá đã được đặt trước cho bên mua và được bên mua chấp nhận thì hàng hoá đó được tiêu thụ. - Còn đối với phương thức gửi bán quan đại lý : thì khi doanh nghiệp thu được tiền hoặc cơ sở đại lý chấp nhận thanh toán hoặc có thông báo của bên đại lý là số hàng đã bán được thì khi đó hàng hoá được coi là đã tiêu thụ… Tóm lại tiêu thụ sản phẩm là một khâu hết sức quan trọng trong toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng như đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Bởi tiêu thụ là khâu cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh. Nó đóng vai trò thực hiện giá trị và giá trị sử dụng của sản phẩm hàng hoá mà doanh nghiệp sản xuất ra. Vai trò quan trọng hơn nữa là nó góp phần vào quá trình luân chuyển, bảo toàn và phát triển vốn kinh doanh của doanh nghiệp, giúp cho doanh nghiệp có khả năng tồn tại và phát triển trong một nền kinh tế đầy những biến động và rủi ro. 1.1.3. Doanh thu tiêu thụ sản phẩm. Khi thực hiện việc tiêu thụ sản phẩm hàng hoá và các doanh nghiệp sẽ thu được một khoản doanh thu bán hàng hay còn gọi là doanh thu tiêu thụ sản phẩm. Vậy doanh thu tiêu thụ sản phẩm là toàn bộ số tiền bán sản phẩm hàng hoá, cung ứng dịch vụ trên thị trường sau khi đã trừ đi các khoản trừ doanh thu như giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả lại, chiết khấu hàng bán… Doanh thu tiêu thụ sản phẩm được xác định như sau : Trong đó : T : Doanh thu tiêu thụ sản phẩm Sti : Số lượng sản phẩm tiêu thụ của từng loại Gi : Giá bán đơn vị của loại sản phẩm i i : Loại sản phẩm tiêu thụ. Như vậy doanh thu tiêu thụ được xác định trên cơ sở số lượng sản phẩm tiêu thụ và giá bán đơn vị của từng loại sản phẩm đó. Ngoài ra doanh thu tiêu thụ còn bao gồm giá trị các sản phẩm hàng hoá đem biếu tặng hoặc tiêu dùng trong nội bộ doanh nghiệp và được cơ sở giá thị trường ở thời điểm bán hàng. Cơ cấu dịch vụ doanh thu tiêu thụ là một chỉ tiêu tổ chức quan trọng không chỉ đối với doanh nghiệp mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Doanh thu tiêu thụ phản ánh quy mô của quá trình tái sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, phản ánh được mức độ hoàn thành việc tiêu thụ hàng hoá và thực hiện kế hoạch tiêu thụ sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp trong kỳ. Ngoài ra nó còn là chỉ tiêu quan trọng phản ánh trình độ tổ chức, chỉ đạo sản xuất kinh doanh, tổ chức công tác thanh toán của doanh nghiệp. Có được doanh thu bán hàng chứng tỏ rằng hàng hoá sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đã được người tiêu dùng chấp nhận, chứng tỏ rằng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ xét về mặt khối lượng, giá trị sử dụng, chất lượng và giá cả đã phù hợp với nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng trong xã hội và khi có doanh thu tiêu thụ doanh nghiệp sẽ có nguồn tài chính… Một điều mà chúng ta cần phải lưu ý là phải phân biệt được giữa doanh thu tiêu thụ và tiền bán hàng. Doanh thu tiêu thụ không hoàn toàn đồng nhất với tiền bán hàng. Tiền bán hàng chỉ được xác định khi doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm và đã thu được tiền về còn doanh thu tiêu thụ sản phẩm được xác định ngay cả khi khách hàng chưa trả tiền hàng nhưng đã chấp nhận thanh toán và được xác định đối với cả một số sản phẩm hàng hoá được tiêu dùng trong nội bộ. Xét về mặt quan hệ thì tiền bán hàng chỉ là một bộ phận của doanh thu tiêu thụ và được tính trên cơ sở của doanh thu tiêu thụ đối với toàn bộ giá trị hàng hoá đã được khách hàng thanh toán. Nội dung của doanh thu tiêu thụ đối với từng doanh nghiệp, từng ngành nghề kinh doanh khác nhau cũng có sự khác nhau, nhưng nhìn chung ND của doanh thu tiêu thụ bao gồm những nội dung sau : -Doanh thu bán hàng ra ngoài doanh nghiệp : Là doanh thu do doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm hàng hoá dịch vụ cho các đơn vị khác ngoài doanh nghiệp. Đây là nội dung chủ yếu và chiếm phần lớn trong tổng doanh thu tiêu thụ sản phẩm phẩm hàng hoá của các doanh nghiệp trong kỳ. Bộ phận này bao gồm. + Doanh thu sản phẩm hàng hoá thuộc hoạt động sản xuất kinh doanh chính của doanh nghiệp như thành phẩm, bán thành phẩm, doanh thu bàn giao công trình và hạng mục công trình. Xây dựng cơ bản hoàn thành , doanh thu tiêu thụ sản phẩm nông, lâm, ngư nghiệp của các nông trường, lâm trường, các tổ chức chăn nuôi đánh bắt và khai thác thuỷ hải sản Doanh thu tiêu thụ khác như doanh thu về cơ cấu lao vụ, dịch vụ, bán các bản quyền phát minh, sáng chế, bán những sản phẩm chế biến từ phế liệu phế phẩm…. Doanh thu tiêu thụ nội bộ : Là doanh thu có được do doanh nghiệp bán sản phẩm, hàng hoá và cơ cấu lao vụ dịch vụ cho các đơn vị trực thuộc hoặc các cá nhân trong doanh nghiệp. Doanh thu tiêu thụ nội bộ cũng bao gồm doanh thu tiêu thụ sản phẩm hàng hoá thuộc các hoạt động sản xuất kinh doanh chính và doanh thu tiêu thụ sản phẩm phụ… Ngoài ra doanh thu tiêu thụ còn bao gồm cá nhân trợ giá, của nhà nước khi thực hiện việc cung cấp các hàng hoá và dịch vụ theo yêu cầu của nhà nước. Việc xây dựng nội dung của doanh thu tiêu thụ sản phẩm có ý nghĩa rất quan trọng trong việc hạch toán đầy đủ chính xác mức doanh thu đạt được trong kỳ của doanh nghiệp. Nó phản ánh đúng kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy trong công tác tiêu thụ sản phẩm, các doanh nghiệp không nên xem thường vấn đề xác định nội dung doanh thu tiêu thụ sản phẩm đồng thời không còn áp dụng việc xác định nội dung doanh thu tiêu thụ theo một khuôn mẫu nhất định nào đó mà cần phải tuỳ thuộc vào tình hình sản xuất kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp để xác định doanh thu một cách chính xác và cụ thể. Ngoài ra doanh nghiệp cần phải phân chia nội dung doanh thu cho phù hợp để thuận tiện cho việc theo dõi và phản ánh doanh thu của mình. Về thời điểm xác định doanh thu thì tuỳ theo đặc điểm sản xuất kinh doanh của từng ngành từng doanh nghiệp thì việc xác định thời điểm ghi nhận doanh thu cũng khác nhau nhưng nhìn chung việc xác định và ghi nhận doanh thu được xác định đồng thời với thời điểm tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, dịch vụ…Tuy nhiên đối với doanh nghiệp thương mại cho một số đặc trưng riêng khác với các doanh nghiệp sản xuất cho nên thời điểm ghi nhận doanh thu cũng cónhững đặc điểm riêng của nó và được thể hiện ở những điểm sau : Thứ nhất : về điều kiện ghi nhận doanh thu bán hàng phải đảm bảo các điều kiện nhất định theo quy định hiện hành như : - Hàng hoá phải thông qua quá trình mua, bán và thanh toán theo một phương thức thanh toán nhất định. - Hàng hoá phải được chuyển quyền sở hữu từ doanh nghiệp thương mại (bên bán) sang bên mua và doanh nghiệp thương mại đã thu được tiền hay một loại hàng hoá khác hoặc người mua chấp nhận nợ. - Hàng hoá bán ra phải thuộc diện kinh doanh của doanh nghiệp, do doanh nghiệp mua vào hoặc gia công, chế biến hay nhận góp, nhận cấp phát, tặng thưởng. Ngoài ra trong một số trường hợp sau cũng được coi là hàng hoá đã tiêu thụ và được phép ghi nhận doanh thu. + Hàng hoá xuất dùng để đổi lấy hàng hoá khác, còn gọi là đối lưu hay hàng đổi hàng. + Hàng hoá xuất để thanh toán tiền lương, tiền thưởng cho CNV, thanh toán thu nhập cho các thành viên của doanh nghiệp. Sự cần thiết đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm và tăng doanh thu tiêu thụ. Như chúng ta biết, tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp là kết thúc khâu cuối cùng của vòng chu chuyển vốn. Khi sản phẩm làm ra được tiêu thụ thì giá trị và giá trị sử dụng của nó mới được thực hiện, lao động của người sản xuất hàng hoá nói riêng và của toàn doanh nghiệp nói chung mới được xã hội thừa nhận. Theo nghĩa cụ thể hơn, có tiêu thụ sản phẩm doanh nghiệp mới có doanh thu để bù đắp toàn bộ chi phí đã chi ra trong quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, đảm bảo quá trình tái sản xuất giản đơn (thu hồi được giá trị hao mòn tài sản cố định, có tiền mua nguyên vật liệu mới, trả lương công nhân viên để tiếp tục sản xuất…). Mặt khác, thông qua tiêu thụ sản phẩm, doanh nghiệp có thể thực hiện được giá trị lao động thặng dư, nghĩa là thu được lợi nhuận từ các hoạt động sản xuất kinh doanh. Lợi nhuận tiêu thụ là một trong những chỉ tiêu quan trọng nhất của các doanh nghiệp, nó phản ánh hiệu quả cuối cùng của các hoạt động sản xuất kinh doanh. Có thể nói, lợi nhuận là động cơ, mục tiêu của sản xuất kinh doanh đối với mọi doanh nghiệp trong cơ chế thị trường và lợi nhuận còn đồng nghĩa với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Có lợi nhuận, doanh nghiệp mới hoàn thành nghĩa vụ tham gia đóng góp vào ngân sách Nhà nước được phản ánh ở số thuế lợi tức và mới có nguồn để hình thành các quỹ như : quỹ dự phòng tài chính, quỹ phúc lợi, quỹ đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh, quỹ trợ cấp mất việc làm cho người lao động. Khi đó doanh nghiệp mới có điều kiện mở rộng quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh, đầu tư theo chiều sâu, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của người lao động. Như vậy, tiêu thụ sản phẩm góp phần thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phát triển. Tiêu thụ sản phẩm là điều kiện đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thông suốt. Chỉ có thông qua tiêu thụ, đồng vốn mà doanh nghiệp bỏ ra mới trở về trạng thái ban đầu của nó, tiếp tục thực hiện vòng luân chuyển mới. Thực hiện được doanh thu bán hàng đầy đủ kịp thời góp phần thúc đẩy tăng nhanh tốc độ chu chuyển vốn lưu động, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình sản xuất sau, tiết kiệm chi phí bán hàng, chi phí kho tàng, bảo quản… góp phần hạ giá thành tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Việc không hoàn thành được dự kiến chỉ tiêu doanh thu bán hàng hoặc thực hiện không kịp thời công tác tiêu thụ sản phẩm doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn và gây trở ngại cho quá trình sản xuất như : kéo dài chu kỳ sản xuất, đồng vốn bị ứ đọng chậm luân chuyển vì gây ra những thiệt hại không thể lường trước cho sản xuất kinh doanh. Thông qua công tác tiêu thụ sản phẩm, doanh nghiệp có thể nắm bắt được nhu cầu thị hiếu của khách hàng, tình hình cạnh tranh trên thị trường, vị trí của các đối thủ và vị trí của mình trên thường trường, cũng như nắm bắt thị trường nào là thứ yếu, thị trường nào là chủ yếu, thị trường nào có tiềm năng cần khơi dậy, từ đó mà hoạch định kế hoạch phát triển kinh doanh, đầu tư và mở rộng mặt hàng, thay đổi quy cách mẫu mã sản phẩm. Trong nền kinh tế thị trường luôn chứa đựng nguy cơ thử thách, vấn đề tiêu thụ là mối quan tâm thường trực của tất cả các doanh nghiệp. Doanh nghiệp chỉ thực sự tồn tại và phát triển mở rộng khi sản phẩm của nó tìm được chỗ đứng vững chắc và có sức sống lâu dài trên thị trường. Nói cách khác đi, việc đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm là hết sức cần thiết, nó quyết định sự tồn tại và tăng trưởng của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Thời đại ngày nay là thời đại của thông tin, khoa học và côngnghệ xu thế quốc tế và toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ nên vấn đề tiêu thụ không chỉ bó hẹp trong phạm vi quốc gia. Ngoàiviệc giữ vững và mở rộng thị trường trong nước, doanh nghiệp cần nhanh nhạy, dũng cảm tìm kiếm giải pháp để mở rộng thị trường tiêu thụ ra phạm vi khu vực và thế giới. Nền kinh tế mở hiện nay ngày càng cho các doanh nghiệp nhiều cơ hội hợp tác đầu tư liên doanh với nước ngoài để có thể tranh thủ vốn và kỹ thuật hiện đại, để sản phẩm của doanh nghiệp có tiếng nói trên thị trường quốc tế. Việc tổ chức tốt công tác tiêu thụ sản phẩm không chỉ là nhiệm vụ của mỗi doanh nghiệp cơ sở mà còn cần có sự tác động của Nhà nước trong các chính sách chế độ ban hành. Chỉ trên cơ sở nhận biết đúng đắn vấn đề tiêu thụ thì mới có thể tổ chức được công tác tiêu thụ một cách có khoa học và hiệu quả. Từ những vấn đề đã được trình bày ở trên ta thấy cần thiết phải tiến hành đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm sẽ đem lại kết quả cao cho các doanh nghiệp sản xuất. Thực tế trong nền kinh tế thị trường có sự cạnh tranh giữa nhiều thành phần kinh tế, tiêu thụ sản phẩm đang là vấn đề nóng bỏng của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Trong những năm qua, có sự vượt lên của một số doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả và cũng có tình trạng doanh nghiệp làm ăn thua lỗ đến mức phải trả giá thể. Để thấy rõ nguyên nhân nào dẫn tới tình trạng sản phẩm của doanh nghiệp không được thị trường chấp nhận, ta cần nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng tới quá trình tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. + Hàng hoá xuất làm quà biếu, tặng, phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp . + Hàng hoá xuất làm quà tặng, phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. + Hàng hoá hao hụt tổn thất trong khâu bán hàng theo hợp đồng của bên mua chịu. Thứ hai : Về thời điểm ghi nhận doanh thu được xác định là thời điểm hàng hoá được coi là tiêu thụ. Thời điểm đó được quy định như sau : - Bán buôn qua kho, bán buôn vận chuyển thông theo hình thức giao hàng trực tiếp : Thời điểm ghi nhận doanh thu là thời điểm đại diện bên mua ký nhận đủ hàng, thanh toán tiền hàng hoặc chấp nhận nợ. - Bán buôn qua kho, bán buôn vận chuyển thẳng theo hình thức chuyển hàng : thì thời điểm ghi nhận doanh thu là thời điểm thu được tiền của bên mua hoặc bên mua xác nhận đã nhận được hàng và chấp nhận thanh toán. - Bán lẻ hàng hoá : Thời điểm ghi nhận doanh thu là thời điểm cơ sở đại lý, ký gửi thanh toán tiền hàng hay chấp nhận thanh toán hoặc thông báo hàng đã bán được. Nói tóm lại việc xác định đúng thời điểm ghi nhận doanh thu của doanh nghiệp là một vấn đề hết sức quan trọng trong vấn đề quản lý doanh thu. Nó giúp cho doanh nghiệp có thể xác định chính xác và đầy đủ các doanh thu tiêu thụ trong kỳ, phản ánh tình hình thanh toán giúp cho các nhà quản lý có thể đưa ra quyết định một cách đúng đăns và đôn đốc thực hiện việc thu hồi các khoản nợ cũng như đưa ra được các ké hoạch doanh thu tiêu thụ cho kỳ sau. 1.1.4. Sự cần thiết phải đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm và tăng doanh thu tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Qua các vấn đề về tiêu thụ và doanh thu tiêu thụ đã nêu ở trên ta thấy rằng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp là khâu hết sức quan trọng đó là khâu cuối cùng của quá trình sản xuất. Khi sản phẩm làm ra được tiêu thụ …. ( 7 - 8) (HĐ) 1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến tiêu thụ sản phẩm và doanh thu tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. 1.2.1. Đặc điểm sản xuất kinh doanh của từng ngành chi phối, ảnh hưởng lớn đến tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp vì vậy trong từng ngành nghề kinh doanh khác nhu và đối với từng doanh nghiệp khác nhau thì tiêu thụ sản phẩm cũng khác nhau và có những đặc trưng riêng của nó và do đó nó ảnh hưởng tới doanh thu tiêu thụ sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp. Đối với ngành công nghiệp. Do sản phẩm sản xuất đa dạng, phong phú nhất là những sản phẩm tiêu dùng phục vụ cho xã hội. Cùng với sự tiến bộ KHKT việc sản xuất ít bị lệ thuộc vào thiên nhiên và tính chất thời vụ, sản phẩm sản xuất ra đa dạng về mẫu mã, chủng loại và chất lượng, dễ dàng được người tiêu dùng chấp nhận vì vậy sản phẩm thường tiêu thụ nhanh hơn. Tuy nhiên cũng do sự đa dạng sản phẩm của ngành công nghiệp nên trên thị trường các loại sản phẩm này có sự cạnh tranh rất lớn nhấ là trong điều kiện nền kinh tế mở cửa, đầu tư nước ngoài ồ ạt và các sản phẩm hàng hoá ở bên ngoài xâm nhập vào thị trường Việt Nam với khối lượng lớn, chất lượng sản phẩm cao nhưng giá cả lại rẻ, điều này khiến cho thị trường nội địa có nhiều xáo trộn, sản phẩm trong nước khó có thể cạnh tranh do trình độ kỹ thuật công nghiệp còn lạc hậu và trình độ tổ chức quản lý còn nhiều mặt yếu kém. Đối với doanh nghiệp : Do đặc điểm sản xuất mang tính thời vụ, sản xuất thuộc vào điều kiện tự nhiên nên tiêu thụ sản phẩm cũng mang những nét riêng biệt. Vì sản xuất mang tính thời vụ nên chu kỳ sản xuất sản phẩm dài kết quả mang lại phụ thuốc lớn vào điều kiện tự nhiên. Đây là những nhân tố khách quan mà con người ít hoặc khó có khả năng tác động vào được. Sản phẩm của ngành nông nghiệp thường rất khó bảo quản vì thế việc xác định thời điểm tiêu thụ có ý nghĩa rất lớn. Nếu sản phẩm sau khi thu hoạch không được bảo quản chế biến và tiêu thụ ngay sẽ rất dễ bị hư hỏng, kém phẩm chất do đó giá cả sản phẩm giảm hoặc không tiêu thụ được, điều này gây thiệt hại rất lớn cho người sản xuất. Chính vì đặc điểm sản xuất của ngành nông nghiệp mang tính thời vị nên doanh thu về tiêu thụ sản phẩm trong năm của doanh nghiệp tập trung chủ yếu vào thời kỳ thu hoạch sản phẩm. Trong ngành XDCB : XDCB là khâu đầu của tái sản xuất mở rộng, nó có vai trò tạo ra TSCĐ của nền kinh tế. Các doanh nghiệp xây lắp sau khi tiến hành thi công xây lắp cũng tiêu thụ sản phẩm : Tuy nhiên sản phẩm trong ngành XDCB là sản phẩm đơn chiếc và được sản xuất theo đơn đặt hàng, sản phẩm xây lắp được sản xuất ra theo những yêu cầu về giá trị sử dụng về chất lượng của người giao khoán. Do vậy việc tiêu thụ sản phẩm chịu ảnh hưởng chủ yếu và khách quan của chế độ thanh toán như hạng mục công trình và khối lượng hoàn thành theo giai đoạn quy ước, hoặc thanh toán theo đơn vị hạng mục công trình đã hoàn thành. Lúc này doanh thu tiêu thụ sẽ phụ thuộc vào thời gian và tiến độ thi công. Đối với ngành thương mại – dịch vụ : đặc điểm của nó là kinh doanh thương mại và cơ cấu các dịch vụ cho khách hàng. Vì vậy hàng hoá của các doanh nghiệp này thường đa dạng và nhiều chủng loại khác nhau. Trong ngành thương mại thì tiêu thụ hàng hoá được xem là hoạt động chủ yếu và được tiến hành song song với hoạt động mua hàng. Còn trong doanh nghiệp kinh doanh và cơ cấu dịch vụ thì tiêu thụ sản phẩm thường đi liền với sản xuất có nghĩa là thời điểm tiêu thụ sản phẩm được diễn ra đồng thời với thời điểm sản xuất và cung ứng dịch vụ. 1.2.2. Sản phẩm của doanh nghiệp Sản phẩm của doanh nghiệp ảnh hưởng rất lớn đến khả năng tiêu thụ và doanh thu tiêu thụ sản phẩm thông qua các nhân tố về khối lượng, chất lượng và kết cấu chủng loại. - Khối lượng sản phẩm đưa ra thị trường (111, 12, 13, 14, 15) HĐ 1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác tiêu thụ sản phẩm và doanh thu tiêu thụ sản phẩm. 1.3.1 Đặc điểm sản xuất kinh doanh của từng ngành, từng doanh nghiệp. Đặc điểm sản xuất kinh doanh của từng ngành chi phối, ảnh hưởng lớn đến tiêu thụ sản phẩm doanh nghiệp, nên việc tiêu thụ sản phẩm ở những ngành khác nhau cũng có những đặc trưng riêng và ảnh hưởng tới doanh thu của doanh nghiệp. Trong ngành công nghiệp, do sản phẩm sản phẩm đa dạng, phong phú nhất là những sản phẩm tiêu dùng phục vụ cho xã hội. Vì vậy có thể nói đây là lĩnh vực cạnh tranh mạnh nhất. Cùng với sự tiến bộ khoa học kỹ thuật, việc sản xuất ít bị lệ thuộc vào thiên nhiên và thời vụ, sản phẩm sản xuất ra đa dạng về mẫu mã, chủng loại, chất lượng nên được tiêu thụ nhanh đáp ứng phù hợp với người tiêu dùng. Nhất là trong điều kiện nền kinh tế mở cửa, đầu tư nước ngoài ồ ạt, lấn sâu vào thị trường Việt Nam khiến thị trường nội địa có nhiều xáo trộn, đặc biệt là hàng ngoại có chất lượng cao cạnh tranh rất quyết liệt. Do đặc điểm của ngành xây dựng cơ bản là khâu đầu của tái sản xuất mở rộng, đóng vai trò quyết định trong việc tạo ra TSCĐ của nền kinh tế. Các doanh nghiệp xây lắp khi tiến hành thi công xây lắp cũng tiêu thụ sản phẩm. Nói chung thi công xây lắp là một loại hình sản xuất công nghiệp theo đơn đặt hàng. Sản phẩm xây lắp được sản xuất ra theo những yêu cầu về giá trị sử dụng về chất lượng đã định của người giao nhận. Do đó, việc tiêu thụ sản phẩm xây lắp là bàn giao công trình đã hoàn thành cho đơn vị giao thầu và thu tiền về. Việc tiêu thụ sản phẩm chịu ảnh hưởng khách quan của chế độ thanh toán như hạng mục công trình và khối lượng hoàn thành theo giai đoạn quy ước, hoặc thanh toán theo đơn vị hạng mục công trình đã hoàn thành. Do đó, doanh thu cũng phụ thuộc vào thời gian và tiến độ công việc. Trong ngành nông nghiệp, do đặc điểm sản xuất mang tính htời vụ, sản xuất lệ thuộc vào điều kiện tự nhiên nên tiêu thụ sản phẩm cũng mang những nét riêng biệt. Vì vậy sản xuất mang tính thời vụ nên chu kỳ sản xuất dài hay ngắn phụ thuộc vào thời vụ đó. Đó là nhân tố khách quan mà con người ít tác động vào thời vụ đó. Đó là nhân tố khách quan mà con người ít tác động vào được. Đối với ngành nông nghiệp, việc xác định thời điểm tiêu thụ có ý nghĩa rất lớn. Sản phẩm sau khi thu hoạch nếu được bảo quản, chế biến tiêu thụ nhạy thì có chất lượng cao, nếu không bảo quản để lâu gây hư hỏng, kém phẩm chất, không được thị trường chấp nhận, hoặc nếu chấp nhận thì tiêu thụ cũng chậm, doanh thu giảm gây thiệt hại cho đơn vị hoặc người sản xuất. Chính vì đặc điểm sản xuất của ngành nông nghiệp mang tính chất thời vụ nên doanh thu về tiêu thụ sản phẩm trong năm của doanh nghiệp cũng thường tập trung chủ yếu vào vụ thu hoạch. 1.3.2. Sản phẩm của doanh nghiệp. Bao gồm các nhân tố về khối lượng, chất lượng, kết cấu chủng loại mặt hàng. Khối lượng sản phẩm đưa ra thị trường có ảnh hưởng lớn đến quá trình tiêu thụ sản phẩm. Trong điều kiện giá cả tiêu thụ không đổi, khối lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ càng nhiều thì doanh thu tiêu thụ sản phẩm càng lớn. Vì thế, tăng khối lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ là biện pháp đầu tiên để tăng doanh thu tiêu thụ. Tuy nhiên, doanh thu tiêu thụ sản phẩm đạt tới một mức độ nào đó lại phụ thuộc vào nhu cầu thị trường và quy mô sản xuất sản phẩm của doanh nghiệp. Để có được sản phẩm sản xuất thì trước hết doanh nghiệp phải xác định số lượng sản phẩm sẽ đưa ra thị trường tiêu thụ, nhưng vấn đề đặt ra là khối lượng sản phẩm đó phải phù hợp với nhu cầu thị trường, tức là người ta chỉ sản xuất khi đảm bảo được khả năng bán hàng. Nếu khối lượng sản phẩm quá lớn vượt quá nhu cầu thị trường thì dù sản phẩm có hấp dẫn đến mấy nhưng sức mua có hạn nên không thể tiêu thụ hết được và điều này sẽ làm tăng chi phí lưu kho, bảo quản và gây ứ đọng vốn và ngược lại thì gây ảnh hưởng đến khả năng tích luỹ của doanh nghiệp. Chất lượng sản phẩm là một trong những yếu tố quan trọng bậc nhất có tác động quyết định tới khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay thì chất lượng của sản phẩm hàng hoá là công cụ sắc bén và lợi thế trong cạnh tranh, có thể nói chất lượng sản phẩm là lòng tin của khách hàng đối với doanh nghiệp và là tuy tín của doanh nghiệp đối với khách hàng. Để thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm và mở rộng thị trường tiêu thụ thì doanh nghiệp cần quan tâm đặc biệt tới nhân tố chất lượng sản phẩm. Chất lượng sản phẩm tốt sẽ thu hút được khách hàng tạo khả năng tăng giá bán, tăng khối lượng sản phẩm tiêu thụ chiếm lĩnh và mở rộng thị trường, tăng doanh thu tiêu thụ sản phẩm. Không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm sẽ tạo điều kiện tiêu thụ sản phẩm nhanh chóng, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường, ngược lại thì sản phẩm của doanh nghiệp sẽ dần dần bị đào thải ra khỏi thị trường tiêu thụ. Như vậy chất lượng sản phẩm được nâng cao không những ảnh hưởng tới giá bán sản phẩm mà còn ảnh hưởng tới khối lượng sản phẩm tiêu thụ, do đó ảnh hưởng trực tiếp tới doanh thu. Sản phẩm sản xuất ra có thể được phân thành những loại khác nhau : loại I, loại II, loại III… và giá bán của mỗi loại cũng khác nhau. Sản phẩm có phẩm chất cao giá bán sẽ cao hơn, vì vậy chất lượng chính là giá trị được tạo thêm. Nâng cao chất lượng sản phẩm còn tạo điều kiện tiêu thụ sản phẩm dễ dàng và nhanh chóng thu được tiền hàng. Ngược lại những sản phẩm chất lượng kém, không đúng yêu cầu trong hợp đồng thì đơn vị mua hàng có thể từ chối việc chấp nhận thanh toán và dẫn đến sản phẩm phải bán với giá thấp làm giảm doanh thu, giảm lợi nhuận của doanh nghiệp. Quá trình tiêu thụ sản phẩm còn chịu ảnh hưởng rất lớn bởi yếu tố kết cấu chủng loại mặt hàng đưa ra tiêu thụ. Kết cấu sản phẩm tiêu thụ là tỷ trọng theo doanh thu của từng mặt hàng so với với tổng doanh thu tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp, vì mỗi mặt hàng có công dụng kinh tế nhất định trong việc thoả mãn một nhu cầu của người tiêu dùng. Trong nền kinh tế thị trường càng phát triển thì đời sống vật chất tinh thần ngày càng cao, nhu cầu thị hiếu của con người ngày càng phong phú và đa dạng. Trên cơ sở nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng, doanh nghiệp sẽ tung ra thị trường các sản phẩm mà thị trường cần, giảm bớt các sản phẩm không còn thích hợp. Doanh nghiệp cần thay thế loại sản phẩm hoàn thiện hơn, kiểu cách mẫu mã biến đổi phù hợp nhu cầu đa dạng cả người tiêu dùng nhờ đó đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm. Trong sản xuất, có những mặt hàng có chi phí ít nhưng giá bán lại cao, có những mặt hàng chi phí sản xuất tương đối nhiều mà giá bán lại thấp. Việc thay đổi kết cấu mặt hàng sản xuất mở rộng hay thu hẹp chủng loại sản phẩm có giá bán khác nhau cũng ảnh hưởng lớn đến quy mô tiêu thụ sản phẩm. Doanh nghiệp có thể tăng được khả năng thâm nhập vào thị trường, mở rộng tiêu thụ chủng loại sản phẩm có giá bán cao và thay đổi kết cấu mặt hàng sản xuất tiêu thụ một cách hợp lý. 1.3.3. Giá cả sản phẩm tiêu thụ. Giá cả sản phẩm tiêu thụ là một nhân tố quan trọng có ảnh hưởng tới tình hình tài chính và khả năng tiêu thụ của doanh nghiệp. Về nguyên tắc, giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá và giá cả xoay quanh giá trị. Doanh thu tiêu thụ sản phẩm phụ thuộc vào giá bán sản phẩm và có ảnh hưởng tới lợi nhuận của doanh nghiệp. Vì vậy để mở rộng khả năng tiêu thụ và doanh thu, doanh nghiệp phải có một chính sách định giá hợp lý với cơ chế thị trường. Trong cơ chế thị trường hiện nay có nhiều thành phần kinh tế cạnh tranh với nhau, để tiêu thụ tốt sản phẩm của mình thì việc sử dụng giá cả như một công cụ sắc bén là khả năng doanh nghiệp có thể thực hiện được. Nước ta hiện nay áp dụng cơ chế một giá, đó là giá thoả thuận được hình thành trên thị trường phù hợp với quan hệ cung cầu. Nhà nước chỉ can thiệp vào việc định giá sản phẩm có tính chiến lược hoặc mang tính phục vụ toàn quốc. Vì vậy doanh nghiệp phải trên cơ sở nghiên cứu quan hệ cung cầu, thị hiếu người tiêu dùng và nhu cầu có khả năng thanh toán để đưa ra một chính sách phù hợp với sự biến đổi của thị trường, phù hợp với mục tiêu kinh doanh. Từ đó có thể kích thích tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, giúp cho doanh nghiệp thành công trên thương trường. Thông thường mục đích căn bản của việc định giá là thu được càng nhiều lãi càng tốt. Tuy nhiên tuỳ theo từng điều kiện cụ thể mà doanh nghiệp có thể định ra các mức giá bán khác nhau. Có các chính sách định giá sau : - Chính sách định giá thấp hơn giá thị trường : Chính sách này áp dụng khi mà doanh nghiệp muốn đưa ra một khối lượng lớn sản phẩm nhằm nhanh chóng xâm nhập thị trường và bán ngay một khối lượng sản phẩm lớn để thu hồi số tiền như mong muốn. Đặc biệt, khi doanh nghiệp thực hiện tốt công tác quản lý kinh doanh, hạ giá thành sản phẩm để giá bán sản phẩm củ doanh nghiệp thấp hơn so với mặt bằng giá cả thị trường mà vẫn đảm bảo bù đắp chi phí và tạo ra lợi nhuận thoả đáng thì đây là lợi thế so sánh bằng giá cả của doanh nghiệp. Lợi thế này giúp doanh nghiệp thu hút khách hàng, chiến thắng trong cạnh tranh và tạo điều kiện mở rộng quy mô sản xuất, mở rộng thị trường tiêu thụ. Việc áp dụng chính sách này phải được cân nhắc kỹ lưỡng vì nó có thể gây nghi ngờ cho khách hàng về chất lượng của sản phẩm, giảm uy tín của doanh nghiệp, tạo thêm đối thủ trong cạnh tranh. - Chính sách giá theo thị trường : Để thực hiện được chính sách này doanh nghiệp phải coi tọng công tác tiếp thị kịp thời, điều chỉnh giá bán sản phẩm sao cho phù hợp với quan hệ cung cầu trên thị trường có thể cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại khác trên thị trường. - Chính sách định giá cao hơn thị trường : Được áp dụng đối với những mặt hàng mới, chất lượng cao, phù hợp với thị hiếu nhu cầu về mặt hàng đó. Sau đó có thể giảm dần để đối phó với tình hình cạnh tranh hoặc để mở rộng thị trường. - Cuối cùng khi các sản phẩm đã bị lạc hậu, nhu cầu về sản phẩm đó bị bão hoà thì doanh nghiệp phải kịp thời hạ giá bán (bán hoà vốn hoặc lỗ vốn) để đảm bảo thu hồi vốn chuyển sang kinh doanh mặt hàng khác. Tóm lại, việc định giá sản phẩm tiêu thụ cần theo phương châm thu lãi lớn trên cơ sở đạt doanh thu cao, với giá cả hợp lý mà người tiêu dùng có thể chấp nhận được. Ngoài chính sách giá cần chú ý đến các biện pháp thu hút khách hàng như kèm phiếu tặng, hạ giá theo mùa, tổ chức bảo hành sản phẩm, xác định hoa hồng tiêu thụ thoả đáng cho các đại lý bán hàng và người môi giới tiêu thụ để mở rộng thị trường. 1.3.4. Công tác tổ chức bán hàng của doanh nghiệp. Trong điều kiện hiện nay, khi cơ chế bao cấp và phân phối không còn được áp dụng, doanh nghiệp phải tự tìm kiếm thị trường tiêu thụ và người mua được đặt ở vị trí trung tâm thì việc tổ chức công tác bán hàng là một nhân tố có tác động thúc đẩy hoặc kìm hãm tốc độ tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Sự tác động này thể hiện trên một số mặt chủ yếu : - Hình thức bán hàng : Mỗi khách hàng có thu nhập và tâm lý tiêu dùng khác nhau, do vậy nếu doanh nghiệp áp dụng nhiều hình thức bán hàng thì khách hàng sẽ có điều kiện lựa chọn cho mình một phương thức thích hợp. Điều này sẽ kích thích khách hàng tiêu dùng sản phẩm của doanh nghiệp, tạo điều kiện để doanh nghiệp mở rộng thị trường, tăng doanh thu tiêu thụ sản phẩm. - Phương thức thanh toán tiền hàng : Phương thức thanh toán tiền hàng nhanh chóng, tiện lợi sẽ tạo được tâm lý thoải mái cho ngưòi mua. Nếu doanh nghiệp áp dụng nhiều phương thức thanh toán sẽ giúp khách hàng tự do lựa chọn phương thức họ cảm thấy phù hợp. Phương thức thanh toán nếu được tổ chức tốt sẽ giúp cho doanh nghiệp nhanh chóng thu được tiền hàng và việc tổ chức tốt công tác thanh toán chính là đòn bẩy kích thích tiêu dùng, đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm. - Hệ thống dịch vụ trước và sau bán hàng : Hệ thống dịch vụ nhằm mang đến sự phục vụ tốt và sự thoả mãn nhu cầu vật chất của khách hàng khi mua sản phẩm của doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp tổ chức tốt hệ thống dịch vụ kèm theo bán hàng như vận chuyển miễn phí, bảo hành sản phẩm, lắp ráp, hiệu chỉnh… sẽ tạo được ấn tượng tốt đối với khách hàng, gây được lòng tin cho khách hàng, từ đó nâng cao uy tín cho doanh nghiệp. Trong điều kiện xã hội ngày càng phát triển, khả năng thanh toán ngày càng cao thì yếu tố dịch vụ đang tỏ rõ lợi thế : sản phẩm có chất lượng cao đi kèm với hệ thống dịch vụ hoàn hảo là sức mạnh cạnh tranh của doanh nghiệp. 1.3.5. Quảng cáo giới thiệu sản phẩm. Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung thì phân phối sản phẩm do Nhà nước nắm quyền chi phối và các doanh nghiệp không cần phải quảng cáo cho sản phẩm của mình. Nhưng ngày nay, họ phải tự tìm lấy khách hàng cho mình quảng cáo sản phẩm là một hoạt động không thể thiếu được. Thông qua hoạt động quảng cáo giúp cho khách hàng có được những thông tin cô đọng, đặc trưng về sản phẩm và giúp họ quyết định sẽ lựa chọn sản phẩm nào. Đối với sản phẩm mới quảng cáo sẽ giúp cho khách hàng làm quen với sản phẩm, thấy được những ưu việt của nó từ đó khơi dậy những nhu cầu mới của khách hàng tìm đến với sản phẩm của doanh nghiệp. Cùng một mặt hàng nhưng nếu quảng cáo sẽ tăng được khối lượng sản phẩm tiêu thụ, quảng cáo là người bán hàng đắc lực giúp cho khách hàng tìm đến với doanh nghiệp, doanh nghiệp tìm đến vớ khách hàng ở những nơi mà lý do nào đó sản phẩm của doanh nghiệp chưa có mặt. Quảng cáo giúp doanh nghiệp đẩy mạnh bán hàn, sớm giải toả lượng hàng tồn đọng. Tuy nhiên quảng cáo chỉ có tác dụng tích cực đối với tiêu thụ sản phẩm khi doanh nghiệp luôn đảm bảo chữ tín của mình. 1.3.6. Trình độ quản lý và nghiên cứu thị trường. Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp phải luôn lấy khách hàng và nhu cầu của khách hàng để điều chỉnh mọi hành vi kinh doanh của mình vì mọi hoạt động sản xuất kinh doanh đều liên quan trực tiếp đến thị trường và nhu cầu thị trường. Vì vậy, việc nghiên cứu thị trường là hết sức cần thiết đối với mọi doanh nghiệp. Thông qua nghiên cứu thị trường để nắm bắt được những thông tin cần thiết về cung cầu, giá cả, hàng hoá, các hàng hoá thay thế, bổ sung, nghiên cứu các đối thủ cạnh tranh trong hiện tại cũng như trong tương lai. Nghiên cứu thị trường còn cho biết các thông tin từ phía Nhà nước, từ phái các nhà cung cấp… và như vậy doanh nghiệp có thể tìm hiểu được các quy luật vận động của thị trường từ đó có cơ sở vận dụng giải quyết nhiều vấn đề liên quan tới hoạt động kinh doanh của mình như quyết định kinh doanh mặt hàng nào có triển vọng nhất về mặt số lượng, giá cả bao nhiêu ?… để đảm bảo thúc đẩy khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Quá trình tiêu thụ sản phẩm nhanh hay chậm phụ thuộc vào khả năng phân tích, nhìn nhận vấn đề của những người quản lý và những quyết định quản lý của họ. Nếu người quản lý nắm bắt được cơ hội thì sẽ tạo điều kiện tăng nhanh doanh số bán ra vì cơ hội chỉ xảy ra trong chốc lát và ngược lại. 1.3.7. Chính sách quản lý vĩ mô của Nhà nước. Tuỳ theo điều kiện cụ thể của từng thời kỳ khác nhau mà chủ trương chính sách pháp luật của Nhà nước tác động vào mỗi thị trường khác nhau. Nếu Nhà nước quan tâm và khuyến khích sản xuất sản phẩm củ doanh nghiệp thì thông qua chính sách giá cả, thuế, chính sách xuất nhập khẩu mà tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh nói chung và trong công tác tiêu thụ sản phẩm nói riêng. 1.4. Giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh tiêu thụ và tăng doanh thu tiêu thụ sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp. Qua việc phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới công tác tiêu thụ và doanh thu tiêu thụ sản phẩm, ta có thể đưa ra một số các giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm tăng doanh thu tiêu thụ sản phẩm sau : 1.4.1. Tăng khối lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ. Khối lượng sản phẩm sản xuất càng nhiều và phù hợp với nhu cầu của thị trường thì khả năng về doanh thu tiêu thụ sản phẩm càng lớn. Đây là một giải pháp hết sức quan trọng và cơ bản, nó có tác động trực tiếp thúc đẩy khối lượng sản phẩm tiêu thụ tăng lên. Để thực hiện được điều này các doanh nghiệp cần phải đưa ra các biện pháp phù hợp nhằm nâng cao năng lực sản xuất, tăng khối lượng sản phẩm sản xuất ra trong kỳ như : + Chủ động đổi mới TSCĐ một cách kịp thời, nâng cao năng lực hoạt động của các TSCĐ hiện có, có kế hoạch đào tạo bồi dưỡng, nâng cao trình độ tay nghề của công nhân và trình độ quản lý của cán bộ. + Sử dụng các biện pháp khuyến khích vận chuỷen nhằm kích thích người lao động tăng năng suất lao động. + Huy động tới mức tối đa các tài sản vào sản xuất, khai thác một cách triệt để công suất của máy móc thiết bị đồng thời tổ chức sản xuất một cách hợp lý và khoa học. Đó mới chỉ là vấn đề tăng khối lượng sản xuất còn việc tăng khối lượng sản phẩm tiêu thụ cũng là một giải pháp không kém phần quan trọng. Khi đã tạo ra khối lượng sản phẩm nhất định trong khâu sản xuất, doanh nghiệp phải đưa các sản phẩm của mình ra tiêu thụ. Để có thể tăng khối lượng sản phẩm tiêu thụ doanh nghiệp cần phải điều tra nghiên cứu nắm vững nhu cầu thị trường, áp dụng các phương thức bán hàng và phương thức thanh toán đa dạng phù hợp, sử dụng tốt các công cụ thúc đẩy tiêu thụ như : chiết khấu bán hàng, giảm giá hàng bán, miễn giảm cước phí vận chuyển, quà tặng khi mua hàng… 1.4.2. Nâng cao chất lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ. Trong nền kinh tế thị trường chất lượng sản phẩm là một trong những yếu tố đầu tiên mà người tiêu dùng quan tâm. Để sản phẩm của doanh nghiệp có khả năng đứng vững trên thị trường và có khả năng cạnh tranh với sản phẩm của các doanh nghiệp trong và cũng như ngoài sản phẩm của nước ngoài doanh nghiệp cần phải chú trọng quan tâm tới vấn đề chất lượng sản phẩm. Ki chất lượng sản phẩm đạt được mức yêu cầu của người tiêu dùng thì sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp sẽ đạt người tiêu dùng chấp nhận và do đó việc tiêu thụ các sản phẩm cũng dễ dàng hơn, điều này tất yếu sẽ làm cho khối lượng sản phẩm tiêu thụ của doanh nghiệp tăng lên. ý thức được vấn đề này doanh nghiệp cần phải áp dụng các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm sản xuất như lựa chọn các nguyên liệu đầu vào phù hợp và có chất lượng đảm bảo, thường xuyên đổi mới công nghệ sản xuất, có chế độ thưởng phạt đúng đắn và kịp thời nhằm khuyến khích đối với doanh nghiệp có những sáng kiến phát minh trong sản xuất sản phẩm, có kế hoạch đào tạo và bồi dưỡng nhằm nâng cao tay nghề của công nhân và thường xuyên kiểm tra chất lượng sản phẩm ở các khâu, các công đoạn sản xuất nhằm giảm tới mức tối thiểu những sản phẩm hỏng, sản phẩm kém chất lượng… 1.4.3. Đưa ra các chính sách giá cả tiêu thụ hợp lý và linh hoạt. Giá cả là phạm trù trung tâm của nền kinh tế hàng hoá. Nó là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá còn giá trị hàng hoá được xác định bằng chi phí lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra sản phẩm đó. Giá bán là nhân tố quan trọng để tăng quá trình tiêu thụ sản phẩm nhưng vấn đề là doanh nghiệp cần phải định giá như thế nào để vừa đảm bảo được doanh thu vừa kích thích tiêu thụ sản phẩm. Đối với mỗi doanh nghiệp phải tuỳ theo đặc điểm điều kiện sản xuất và vị trí của mình trên thị trường để định giá bán một cách hợp lý. Giá cả không chỉ là nhân tố quan trọng để hỗ trợ tiêu thụ hàng hoá mà nó còn là nhân tố giúp cho sản phẩm của doanh nghiệp có thể chiến thắng trong cạnh tranh. Bởi vì đối với những sản phẩm cùng loại hay có công dụng như nhau ở các doanh nghiệp sản xuất khác nhau thì giá cả cũng khác nhau và sản phẩm hàng hoá nào có giá cả thấp sẽ được người tiêu dùng mua nhiều hơn. Tuy nhiên, việc định giá bán sản phẩm phải đảm bảo bù đắp được chứ sản xuất và tiêu thụ sản phẩm đồng thời phải có lãi. Trong quá trình trao đổi hàng hoá thì giá cả là do người mua và người bán thoả thuận với nhau hình thành nên giá cả thị trường. Vì vậy mà việc định giá bán sản phẩm cần phải có sự linh hoạt, mềm dẻo tuỳ theo từng bước đặc điểm và tuỳ từng loại thị trường. Khi doanh nghiệp sản xuất ở thế độc quyền, tức là doanh nghiệp có những mặt hàng mới, chất lượng cao, phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng và hầu như chưa có đối thủ cạnh tranh thì doanh nghiệp có thể định giá bán cao hơn mức bình thường một chút. Nhưng khi sản phẩm của doanh nghiệp mất thế độc quyền, trên thị trường xuất hiện các sản phẩm cùng loại thì cần phải điều chỉnh lại giá cả sản phẩm sao cho phù hợp hoặc phấn đấu giảm so với mức giá trên thị trường. Hay nói cáhc khác tuỳ theo chu kỳ sống của từng loại sản phẩm và doanh nghiệp cần phải biết rõ được sản phẩm của mình đang ở giai đoạn nào để có thể định ra mức giá cả hợp lý. Khi sản phẩm của doanh nghiệp đang ở giai đoạn tăng trưởng và phát triển thì doanh nghiệp có thể tăng giá một chút nhưng vẫn gaay ra được sự chú ý của khách hàng. Đây là thời điểm thuận lợi cho doanh nghiệp tăng doanh thu tiêu thụ nhưng nếu sản phẩm đang ở giai đoạn bão hòa thì để tiêu thụ được sản phẩm cần hạ thấp giá bán nhằm thu hồi vốn nhanh chóng và chuyển hướng kinh doanh sang mặt hàng khác. Trong nhiều trường hợp doanh nghiệp cũng có thể định mức giá thấp hơn đối với sản phẩm mới ra đời ở giai đoạn đầu nhằm thu hút sự chú ý của khách hàng và chiếm lĩnh thị trường. Khi đã đạt được mục đích thì doanh nghiệp có thể tăng giá bán nên một chút, nhưng nhìn chung tuỳ theo từng điều kiện cụ thể mà doanh nghiệp có thể định mức giá bán sao cho hợp lý và linh hoạt để sản phẩm của doanh nghiệp không những tiêu thụ nhanh, với khối lượng lớn mà doanh thu tiêu thụ đạt được phải đảm bảo bù đắp được những chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra đồng thời phải có lãi. 1.4.4. Chiết khấu hàng bán : Để khuyến khích khách hàng mua sản phẩm hoặc thanh toán nhanh, các doanh nghiệp thường áp dụng các hình thức chiết khấu bán hàng. Chiết khấu bán hàng là việc doanh nghiệp khấu trừ cho người mua do người mua hàng với khối lượng lớn hoặc thanh toán tiền mua hàng trước thời hạn ghi trên hợp đồng. Chiết khấu bán hàng được tính theo tỷ lệ của giá bán và được chia thành nhiều tỷ lệ khác nhau tuỳ theo thời hạn thanh toán dài hay ngắn so với thời hạn được chiết khấu hay khách hàng mua với khối lượng bao nhiêu thì đạt tới mức được hưởng chiết khấu với mức chiết khấu do doanh nghiệp quy định. Đây cũng là một trong những biện pháp nhằm thúc đẩy tiêu thụ và tăng doanh thu tiêu thụ sản phẩm hàng hoá mà các doanh nghiệp hiện nay thường áp dụng. 1.4.5. Xây dựng chiến lược kinh doanh, nghiên cứu và điều tra thị trường. Thị trường là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi, mua bán hàng hoá mà ở đó các chủ thể kinh tế cạnh tranh với nhau nhằm xác định giá cả của sản phẩm hàng hoá hay dịch vụ do doanh nghiệp cung cấp. Sự hình thành và phát triển của thị trường gắn liền với sự hình thành, phát triển của sản xuất, lưu thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ. Nó có vai trò to lớn trong việc thúc đẩy mở rộng sản xuất và lưu thông hàng hoá. ở đó cho biết sản phẩm của doanh nghiệp có đáp ứng nhu cầu xã hội về chất lượng, hình thức quy cách, giá cả và có phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng hay không ? Chi phí để sản xuất hàng hoá có được xã hội chấp nhận hay không ? Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp khi tiến hành sản xuất kinh doanh, muốn tiêu thụ được sản phẩm của mình cần phải điều tra nghiên cứu thị trường. Việc nghiên cứu thị trường giúp cho doanh nghiệp nắm bắt được những thông tin cần thiết bề tình hình và viễn cảnh tương lai của thị trường như : nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng, giá cả của hàng hoá, và khả năng cạnh tranh… Từ đó doanh nghiệp có thể xây dựng và đưa ra những chiến lược kinh doanh phù hợp, lựa chọn những mặt hàng sản xuất và tiêu thụ phù hợp nhằm không chỉ đáp ứng cho nhu cầu thị trường mà còn bằng doanh thu và lợi nhuận cho doanh nghiệp. Vấn đề nghiên cứu thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp không chỉ nghiên cứu thị trường đầu ra như địa điểm, khách hàng, nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng, giá cả sản phẩm và sức mua của thị trường… mà doanh nghiệp còn phải điều tra nghiên cứu thị trường đầu vào như : thiết bị, vật tư, khả năng huy động vốn, lãi suất tín dụng… nhằm giúp cho doanh nghiệp xác định định mức chi phí cho sản phẩm sản xuất ra và xây dựng kế hoạch giá thành sản phẩm làm hạ giá thành sản phẩm để sản phẩm của doanh nghiệp có đủ sức canhj tranh với những sản phẩm cùng loại trên thị trường. 1.4.6. Thực hiện các chính sách xúc tiến và hỗ trợ kinh doanh. Ngoài những biện pháp đã nêu ở trên. Để có thể đẩy mạnh khả năng tiêu thụ sản phẩm và tăng doanh thu tiêu thụ, trong quá trình tiêu thụ sản phẩm các doanh nghiệp cần phải tích cực trong việc thực hiện một số chính sách xúc tiến và hỗ trợ kinh doanh như : - Sử dụng chiết khấu thanh toán, giảm giá hàng bán nhằm động viên khuyến khích khách hàng mua hàng với khối lượng lớn và thanh toán tiền hàng trước thời hạn thanh toán ghi trong hợp đồng. Đây là một trong những biện pháp tăng tiêu thụ được áp dụng rất phổ biến và đem lại hiệu quả cao. Tuy nhiên để thực thi được chính sách này các doanh nghiệp cần phải đưa ra những thông tin về mức chiết khấu tỷ lệ giảm giá để cho khách hàng có thể biết được và nắm lấy cơ hội của mình. - Quảng cáo và gói thầu sản phẩm. Đây là những vấn đề có tính chất chiến lược nhằm đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm hàng hoá. Mục tiêu của quảng cáo là phải được thông tin đến người tiêu dùng về một mặt hàng nào đó, giải thích cho khách hàng biết về lợi ích của mặt hàng này và so sánh ưu thế của nó so với các mặt hàng tương tự. Do chi phí quảng cáo cũng là một trong những chi phí về tiêu thụ sản phẩm cho nên trong quảng cáo bán hàng cần phải coi trọng tính hiệu quả của công việc này. Quảng cáo giới thiệu sản phẩm giúp cho người tiêu dùng hiểu biết được những thông tin cần thiết về sản phẩm, đặc biệt là đối với những sản phẩm mới, quảng cáo sẽ giúp cho khách hàng làm quen với sản phẩm, biết được cách thức sử dụng, công dụng của sản phẩm và thấy được tính ưu việt của nó so với các mặt hàng cùng loại… tất cả những điều này sẽ khơi dậy những nhu cầu mới để khách hàng tìm đến với sản phẩm của doanh nghiệp. Tuy nhiên việc quảng cáo phải đi liền với chữ tín, nếu doanh nghiệp quảng cáo không đúng với thực chất của sản phẩm do đơn vị mình sản xuất thì chỉ trong một thời gian ngắn sản phẩm của doanh nghiệp sẽ bị tẩy chay khỏi thị trường, mất lòng tin đối với khách hàng. Lúc này quảng cáo sẽ có thời gian ngược trở lại và hậu quả mà doanh nghiệp phải gánh chịu sẽ không lường hết được. Doanh nghiệp áp dụng các hình thức vận chuyển miễn phí hay giảm cước phí vận chuyển cho những khách hàng mua hàng với khối lượng lớn cho khách hàng trong quá trình mua bán và vận chuyển hàng hoá. Đây cũng là một giải pháp tốt nhất khuyến khích khách hàng, tăng khối lượng tiêu thụ và góp phần làm cho doanh thu tiêu thụ sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp tăng lên. Ngoài ra doanh nghiệp cần phải áp dụng một số hình thức : khuyến mại và tặng quà cho khách hàng nhằm khuyến khích và khơi dậy nhu cầu của khách hàng tạo cho khách hàng có một tâm lý thoải mái khi mua hàng. Tuy nhiên các biện pháp này chỉ có thể thực hiện trong một khoảng thời gian nào nó như vào các dịp lễ tết… Còn nếu áp dụng liên tục trong một khoảng thời gian dài không những sẽ không đem lại hiệu quả trong tiêu thụ sản phẩm hàng hoá mà làm tăng chi phí trong khâu bán hàng. 1.4.7. Mối quan hệ giữa TCDN và tiêu thụ sản phẩm Hoạt động tài chính là bộ phận của hoạt động sản xuất kinh doanh và có mối quan hệ trực tiếp với hoạt động sản xuất kinh doanh tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh đều ảnh hưởng tới tình hình tài chính của doanh nghiệp. Ngược lại tình hình tài chính tốt hay xấu lại có tác động thúc đẩy kìm hãm đối với quá trình sản xuất kinh doanh đặc biệt là trong quá trình tiêu thụ sản phẩm. Xét về mặt tài chính thì tiêu thụ sản phẩm có ảnh hưởng rất lớn đến tình hình tài chính của mỗi doanh nghiệp. Và ngược lại tài chính doanh nghiệp cũng tác động không nhỏ đến công tác tiêu thụ sản phẩm. Giữa chúng có mối quan hệ qua lại tác động lẫn nhau hết sức chặt chẽ thường xuyên và liên tục. Tài chính doanh nghiệp là quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ phát sinh trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp nhằm góp phần đạt tới các mục tiêu của doanh nghiệp. Tình hình tài chính của doanh nghiệp được đặc trưng thông qua bốn nhóm chỉ tiêu sau : - Nhóm chỉ tiêu về khả năng thanh toán : Nhóm chỉ tiêu này đóng vai trò là thước đo khả năng thanh toán, khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Nó không những cho thấy được phạm vi và quy mô của các khoản nợ của doanh nghiệp mà còn cho thấy vì khả năng trang trải những khoản nợ trên cơ sở số tài sản mà doanh nghiệp hiện có đặc biệt là TSLĐ có thể chuyển đổi thành tiền trong thời kỳ phù hợp với thời hạn trả nợ. - Nhóm chỉ tiêu về cơ cấu tài chính cho thấy kết chuyển vốn của dn và kết chuyển tài sản của doanh nghiệp như vậy là đã hợp lý chưa, đã tối ưu chưa. - Nhóm các chỉ tiêu về về hoạt động : các chỉ tiêu này dùng để đo lường hiệu quả sử dụng vốn. Tài sản của một doanh nghiệp thông qua việc so sánh giữa doanh thu đạt được trong kỳ với việc bỏ vốn vào kinh doanh dưới các loại tài sản khác nhau. Nói cụ thể hơn là nó cho biết doanh nghiệp khai thác, sử dụng, nguồn lực hiện có với hiệu quả như thế nào, các vòng quay của vốn như vòng quay VLĐ, vòng quay hàng tồn kho, vòng quay toàn bộ vốn…mỗi năm quay được bao nhiêu vòng và từ đó so sánh với mức trung bình của ngành là cao hay thấp. - Nhóm chỉ tiêu về khách hàng sinh lời : Để nhóm chỉ tiêu này là cơ sở quan trọng để đánh giá kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh trong một kỳ nhất định. Nó là đáp số cuối cùng của hiệu quả kinh doanh và cho thấy được kết quả đó là cao hay thấp so với mức trung bình của toàn ngành. Từ đó giúp cho các nhà hoạch định đưa ra các quyết định tài chính trong tương lai. Trong mối quan hệ giữa tài chính dịch vụ với tiêu thụ sản phẩm, sự tác động của tiêu thụ sản phẩm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp có thể thấy rõ trên các chi tiêu đặc trưng của nó. Tiêu thụ sản phẩm mạnh mẽ làm tăng doanh thu tiêu thụ sản phẩm dẫn tới tăng vòng quay của VLĐ, rút ngắn kỳ thu tiền trung bình, tăng hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Từ đó làm tăng lợi nhuận, tăng doanh lợi vốn nghĩa là tưng khả năng sinh lời của doanh nghiệp…Điều này góp phần làm cho tình hình tài chính của doanh nghiệp thay đổi theo hướng an toàn và có lợi. Đồng thời với việc đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm sẽ tác động rất lớn đến khả năng thanh toán của doanh nghiệp từ dó mà tình hình tài chính của doanh nghiệp ngày càng ổn định và vững mạnh. Ngược lại tiêu thụ sản phẩm chậm hoặc không tiêu thụ sản phẩm sẽ làm giảm vòng quay của vốn vận tải hàng hoá, vốn lưu động, giảm hiệu suất sử dụng của tài sản, hơn nữa tiêu thụ sản phẩm chậm sẽ dẫn đến lợi nhuận giảm, doanh lợi vốn giảm….Tiêu thụ sản phẩm chậm sẽ làm cho một khối lượng lớn vốn kinh doanh của doanh nghiệp bị ứ đọng dẫn đến thiếu vốn cho sản xuất kinh doanh buộc các doanh nghiệp phải đi vay để đáp ứng nhu cầu vốn. Điều này sẽ làm tăng tỷ trọng vốn vay. Kết chuyển tài chính của doanh nghiệp thay đổi theo hướng bất lợi. Nếu tình trạng này diễn ra trong một thời gian dài sẽ đưa doanh nghiệp đến tình trạng mất khả năng thanh toán và dẫn đến phá sản. Trên đây là sự tác đọng của tiêu thụ sản phẩm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp. Ngược lại, tài chính doanh nghiệp cũng có tác động trở lại đến công tác tiêu thụ và doanh thu tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Thông qua vai trò của mình, tài chính doanh nghiệp tổ chức việc huy động vốn và phân phối nguồn vốn đảm bảo đáp ứng nhu cầu về vốn cho sản xuất kinh doanh để có thể sản xuất ra một khối lượng lớn sản phẩm với quy cách, mẫu mã, chất lượng phù hợp với nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng, góp phần nâng cao khả năng tiêu thụ sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp. Mặt khác tài chính doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng giúp các doanh nghiệp trong việc lựa chọn các phương án sản xuất với chi phí sản xuất hợp lý và đảm bảo sản xuất ra các sản phẩm có chất lượng tốt với mức giá thành thấp nhất. Từ đó các doanh nghiệp. Có thể định ra giá bán thấp hơn mặt bằng giá cả của các sản phẩm cùng loại trên thị trường, tạo ra thế mạnh trong cạnh tranh, công tác tiêu thụ sản phẩm sẽ thuận lợi và nhanh chóng. Hơn nữa thông qua các chỉ tiêu tài chính giúp cho các nhà quản lý nắm rõ về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và tình hình tiêu thụ sản phẩm và thực hiện kế hoạch tiêu thụ sản phẩm trong kỳ. Cũng từ những chỉ tiêu đó các nhà hoạch định mới có thể xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh và kế hoạch tiêu thụ sản phẩm chất lượng lại một cách khoa học hợp lý và sát với thực tế hơn. Ngoài ra tài chính doanh nghiệp còn sử dụng các công cụ sắc bén của mình như tiền lương, tiền thưởng….để kích thích sản xuất, tăng khối lượng sản phẩm sản xuất cho nhu cầu thị trường, khuyến khích nhân viên bán hàng phát huy khả năng của mình trong công tác tiêu thụ sản phẩm. Tài chính doanh nghiệp còn sử dụng các công cụ như giá bán, chiết khấu…để kích thích tiêu dùng, đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm và tăng doanh thu tiêu thụ sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp. Như vậy, khi có sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế từ nền kinh tế tập trung, bao cáp sang cơ chế kinh tế thị trường không những đã làm cho mối quan hệ giữa tài chính doanh nghiệp các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ngày càng chặt chẽ và thể hiện một cách rõ nét hơn, mà nó còn khẳng định vị trí và vai trò to lớn của tài chính doanh nghiệp đôi với hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và với công tác tiêu thụ sản phẩm nói riêng. Nhận thức được vấn đề này các doanh nghiệp cần phải nâng cao hơn nữa hiệu quả của tài chính doanh nghiệp, đưa tài chính doanh nghiệp về vị trí xứng đáng của nó đặc biệt là trong công tác tiêu thụ sản phẩm. Có như vậy doanh nghiệp mới có thể tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường. Chương II Thực trạng công tác tiêu thụ và doanh thu tiêu thụ sản phẩm của công ty thương mại dịch vụ và xây dựng Hải Phòng 2.1. Khai quát chung về tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty Thương mại dịch vụ và xây dựng Hải Phòng 2.1.1. Vài nét về quá trình hình thành và phát triển của Công ty Tên công ty : Công ty Thương mại dịch vụ và xây dựng Hải Phòng Tên giao dịch quốc tế : HATRASECO Trụ sở chính : Số 90 Lương Khánh Thiện – Quận Ngô Quyền – Thành Phố Hải Phòng. Công ty thương mại dịch vụ và xây dựng Hải Phòng là doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc sở thương mại Hải Phòng.Với các ngành nghề đăng ký kinh doanh là : Kinh doanh thương mại, dịch vụ và xây dựng. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty như sau : Với chủ trương xây dựng huyện, quận thành pháo đài kinh tế những năm 1980 đến năm 1986 thực hiện công cuộc đổi mới, các doanh nghiệp cấp huyện liên tục phải giải thể hoặc phá sản hoặc sát nhập lại. Công ty thương mại dịch vụ và xây dựng Hải Phòng được hình thành trên cơ sở sát nhập nhiều doanh nghiệp thuộc quận huyện của thành phố Hải Phòng. Ngày 19/11/1991 cửa hàng dịch vụ ăn uống Lạch Tray sát nhập với công ty vật tư thủ công nghiệp hình thành công ty dịch vụ và chế biến hàng xuất khẩu Ngô Quyền. Tháng 7/1992 sát nhập thêm công ty vật tư và dịch vụ công nghiệp Ngô Quyền. Đến tháng 01/1993 thành lập doanh nghiệp nhà nước theo nghị định 388/NĐ -CP của Chính phủ : Công ty dịch vụ và chế biến hàng xuấu khẩu Hải Phòng (theo 388/NĐ - CP) của Chính phủ : công ty dịch vụ và chế biến hàng xuất khẩu Hải Phòng ( theo quyết định số 105/QĐ -TCCQ ngày 19/1/1993 của UBND thành phố Hải Phòng). Ngày 02 tháng 12 năm 1995 tiếp tục sát nhập thêm công ty thương nghiệp tổng hợp Đồ Sơn theo quyết định số 1962/QĐ - UB của UBND thành phố Hải Phòng. Tháng 3/2000 được đổi tên thành Công ty thương mại dịch vụ và xây dựng Hải Phòng theo quyết định số 439/QĐ - UB ngày 15/3/2000 của UBND thành phố Hải Phòng. Công ty thương mại dịch vụ và xây dựng Hải Phòng là doanh nghiệp thuộc sở thương mại Hải Phòng có trụ sở chính tại : Số 90 Lương Khánh Thiện – Quận Ngô Quyền – Thành phố Hải Phòng. 2.1.2. Chức năng và nhiệm vụ chính của Công ty Kinh doanh vật tư, nguyên, nhiên, vật liệu, máy móc, thiết bị, phụ tùng phục vụ cho công nghiệp, nông, lâm, ngư nghiệp, xây dựng giao thông và vận tải. Kinh doanh hàng công nghiệp thực phẩm, hàng nông sản, hàng tiêu dùng, khoáng sản, than mỏ, gỗ trụ nhỏ, lâm sản. Xây dựng dân dụng, công nghiệp, thuỷ lợi, cơ sở hạ tầng. Môi giới thương mại. Công ty thương mại dịch vụ và xây dựng Hải Phòng trụ sở chính tại 90 Lương Khánh Thiện là nơi điều hành các hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty như : điều hành lập, xét duyệt các phương án sản xuất kinh doanh, phương án tài chính, phương án tổ chức lao động, lập xét duyệt các dự an đầu tư, cải tạo cơ sở vật chất kỹ thuật, phương án liên doanh liên kết… Hình thức hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty : Trong những năm đầu quy mô của Công ty còn hạn hẹp trong phạm vi của thành phố, mặt hàng kinh doanh ít, đơn giản như : đại lý tiêu thụ cho các nhà máy sản xuất lớn trong nước, bán buôn bán lẻ vật liệu xây dựng, nguyên liệu cho một số đơn vị sản xuất. Do sự phát triển của nền kinh tế thị trường cùng sự lớn mạnh về tiền năng kinh tế của Công ty, quy mô phát triển sản xuất kinh doanh của Công ty do vậy ngành hàng sản xuất kinh doanh của Công ty phát triển đa dạng, phong phú, phạm vi kinh doanh được mở rộng. Ngoài việc kinh doanh thương mại, làm các dịch vụ thương mại, doanh nghiệp còn tổ chức sản xuất, xây dựng các công trình, phạm vi hoạt động không chỉ tổ chức kinh doanh trong nước mà còn kinh doanh với các nước SNG, các nước trong khu vực ASEAN và các nước láng giềng. Qua tình hình trên ta thấy công ty đã có những phương hướng, kế hoạch kinh doanh đúng đắn với những bước đi phù hợp với điều kiện phát triển của nền kinh tế và phù hợp với sự đòi hỏi của thị trường, của tự bản thân doanh nghiệp. 2.1.3. Tổ chức bộ máy quản lý của Công ty - Tên gọi đầy đủ : Công ty thương mại dịch vụ và xây dựng Hải Phòng - Tên giao dịch Quốc tế : HATRASECO - Trụ sở chính : Số 90 Lương Khánh Thiện – Quận Ngô Quyền – Thành Phố Hải Phòng. - Văn phòng Công ty : 1 phòng giám đốc và 2 phòng chức năng * Phòng tổng hợp - Nhiệm vụ chung : Phòng có trách nhiệm tham mưu cho giám đốc Công ty về công tác tổ chức mạng lưới, công tác cán bộ, nghiệp vụ kế hoạch sản xuất kinh doanh và quản lý thủ tục giấy tờ hành chính. Thường xuyên quan hệ vơi các phòng và đơn vị cơ sở để giải quyết những công việc có liên quan. - Nhiệm vụ cụ thể : + Công tác tổ chức hành chính : Tham mưu cho giám đốc về công tác tổ chức mạng lưới, công tác cán bộ, khen thưởng, kỷ luật, nâng bậc lương, giải quyết chế độ chính sách cho người lao động, quản lý con dấu, cấp phát các thủ tục hành chính, tiếp khách…và một số công việc khá do giám đốc phân công. + Công tác kế hoạch và nghiệp vụ kinh doanh : Lập kế hoạch sản xuất kinh doanh hàng năm, quý trong toàn doanh nghiệp, lập các hợp đồng kinh tế, theo dõi tổng hợp các hợp đồng đã ký kết. Hướng dẫn các đơn vị cơ sở về công tác nghiệp vụ kinh doanh. * Phòng kế toán tài vụ : Ngoài chức năng kiểm soát viên của Nhà nước còn có chức năng tham mưu cho giám đốc quản lý công tác kế toán tài vụ theo đúng pháp lệnh kế toán thống kê hiện hành của nhà nước thông qua công tác kế hoạch tài vụ, giúp giám đốc công tác quản lý vốn và sử dụng vốn phát triển vốn có hiệu quả. + Các đơn vị trực thuộc Công ty : - Phòng kinh doanh xuất nhập khẩu - Phòng kinh doanh I - Trạm kinh doanh thuốc lá - Cửa hàng kinh doanh Đồ Sơn - Trạm kinh doanh bia và các loại đồ uống - Xí nghiệp đầu tư xây dựng - Xí nghiệp xây dựng và dịch vụ - Chi nhánh công ty tại thành phố Hồ Chí Minh - Bộ phận dịch vụ Tổng số CBCNV khi mới thành lập là 110 người và đến 31/12/2000 là 126 người + Tổ chức Đảng : Đảng bộ trực thuộc Đảng bộ khối thương mại Hải Phòng. + Tổ chức công đoàn : Công đoàn cơ sở thuộc công đoàn ngành thương mại Hải Phòng. + Tổ chức chi đoàn thanh niên : Chi đoàn trực thuộc đoàn khối thương mại. Sơ đồ tổ chức bộ máy hoạt động trong doanh nghiệp  Giám đốc Phó Giám đốc Kinh doanh XNK Phó giám đốc Nội chính kinh doanh nội địa Phòng tổng hợp Phòng kế toán Bộ phận KD XNK CN KD phòng XNK TPHCM Bộ phận KD xuất nhập khẩu Trạm trạm CH tổ DV KD KD KD tổng Thuốc lá bia và Đồ sơn hợp Nước giải khát Bộ phận KD xuất nhập khẩu XN XN đầu tư Xây dựng xây dựng dịch vụ Ghi chú : Ký hiệu - Chỉ đạo trực tiếp - Chỉ đạo gián tiếp - Mối quan hệ * Về cơ cấu trình độ Cơ cấu trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý chính là điều kiện tiền đề phản ánh khả năng công tác của đôị ngũ cán bộ của xí nghiệp, cơ cấu trình độ bao gồm nhiều yếu tố, nhiều mặt kiến thức được đào tạo trang bị cho chủ thể quản lý. Đây là một trong những tiêu chí khá quan trọng và là điều kiện “cần” kết hợp với điều kiện “đủ ” khác để tạo thành một chủ thể hoàn chỉnh với yêu cầu của từng chức danh lãnh đạo quản lý. Số liệu ở Công ty thương mại dịch vụ và xây dựng Hải Phòng cho thấy : Tổng số cán bộ chủ chốt trong doanh nghiệp (tính đến 31/12/2001) có 23 người. Trong đó : Nữ 6 người - Về chuyên môn nghiệp vụ Đại học : 14 người Trung học : 9 người - Lý luận chính trị : Cử nhân : 1 người Trung cấp : 9 người - Độ tuổi bình quân : 44,5 tuổi (người cao nhất 56 tuổi, người thấp nhất 25 tuổi) 2.1.4. Tổ chức công tác kế toán của Công ty a) Tổ chức bộ máy kế toán Công ty thương mại dịch vụ và xây dựng Hải Phòng là đơn vị kinh tế hoạch toán độc lập có tư cách pháp nhân, có tài khoản tại Ngân hàng công thương, có con dấu riêng, hàng năm được thành phố xét duyệt quyết toán và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước. Công ty áp dụng mô hình bộ máy kế toán vừa tập trung vừa phân tán, theo hình thức này công ty tổ chức một phòng kế toán ở văn phòng công ty và các đơn vị trực thuộc đều có các tổ kế toán riêng. - Phòng kế toán của công ty thực hiện mọi công tác kế toán phát sinh từ việc thu nhận, xử lý chứng từ, luân chuyển ghi sổ, tổng hợp, tổng hợp các báo cáo kế toán của kế toán các đơn vị cơ sở gửi lên công ty, phân tích kinh tế chung toàn công ty hướng dẫn và kiểm tra công tác hạch toán kế toán các cơ sở theo đúng chế độ kế toán thống kê cần thiết cho các đơn vị phụ thuộc. - Kế toán các đơn vị phụ thuộc : thu nhận và xử lý các chứng từ ban đầu, thực hiện mọi công tác kế toán tương đối hoàn chỉnh theo sự phân cấp hạch toán của phòng kế toán công ty như : chi phí sản xuất, tính giá thành….đồng thời cuối kỳ lập báo cáo kế toán của đơn vị lên phòng kế toán Công ty. Mô hình tổ chức bộ máy kế toán của Công ty được thể hiện qua sơ đồ sau Trưởng phòng kế toán công ty Phó phòng kế toán công ty Kế toán kho hàng, quỹ Kế toán cộng nợ Kế toán ngân hàng Kế toán tổng hợp Kế toán các đơn vị trực thuộc b) Hình thức kế toán áp dụng Từ năm 1993 cho tới năm 1998 công ty hạch toán kế toán theo hình thức : sổ kế toán nhật ký chứng từ. Từ năm 1999 đến nay công ty hạch toán theo hình thức nhật ký chung - Hệ thống tài khoản áp dụng theo hệ thống tài khoản của chế độ kế toán mới do Bộ tài chính ban hành. - Hình thức nhật ký chung gồm các loại sổ sách kế toán sau : + Sổ nhật ký chung : Là sổ kế toán cơ bản dùng để ghi chép các nghiệp vụ kinh tế phát sinh theo trình tự thời gian và theo nội dung kinh tế nghiệp vụ đó làm căn cứ để ghi sổ cái. + Sổ nhật ký chuyên dùng là sổ kế toán được sử dụng trong trường hợp nghiệp vụ kinh tế phát sinh nhiều nếu ghi hết vào nhật ký chung thì sẽ gây khó khăn cho công tác kế toán do đó phải mở các sổ nhật ký chuyên dùng để ghi riêng cho một số nghiệp vụ kinh tế chủ yếu như các nghiệp vụ liên quan đến tiền mặt, mua hàng và bán hàng. + Sổ cái : Là sổ tổng hợp và hệ thống hoá các nghiệp vụ kinh tế phát sinh theo từng tài khoản. Số liệu của sổ cái cuối kỳ sẽ cơ sở lập báo cáo tài chính. Sơ đồ hạch toán theo hình thức nhật ký chung Chứng từ gốc Sổ, thẻ hạch toán chi tiết Nhật ký chuyên dùng Nhật ký chung Sổ cái Bảng cân đối tài khoản Báo cáo kế toán Bảng tổng hợp chi tiết Ghi chú : Ghi hàng ngày Ghi cuối tháng Đối chiếu kiểm tra * Trình tự ghi sổ kế toán của Công ty - Hàng ngày căn cứ vào chứng từ gốc đã được kiểm tra tính hợp lý hợp pháp, kế toán ghi vào nhật ký chung theo trình tự thời gian và nội dung các nghiệp vụ kinh tế. Đối với các nghiệp có nhật ký chuyên dùng để phản ánh thì kế toán ghi vào sổ nhật ký chuyên dùng. Hàng ngày, định kỳ căn cứ từ sổ nhật ký chung hoặc sổ nhật ký chuyên dùng để ghi vào sổ cái cho từng tài khoản. Đối với các nghiệp vụ cần phải theo dõi chi tiết kế toán ghi vào các sổ và thẻ kế toán chi tiết. Cuối kỳ trên sổ cái cộng số phát sinh và rút số dư cuối kỳ, căn cứ vào các thẻ và sổ chi tiết lập các bảng tổng hợp chi tiết. Đối chiếu số liệu trên sổ cái và bảng tổng hợp chi tiết. Sau đó căn cứ vào sổ cái và bảng tổng hợp chi tiết để lập các báo cáo kế toán. 2.2. Thực trạng về vấn đề tiêu thụ và doanh thu tiêu thụ hàng hoá của Công ty thương mại dịch vụ và xây dựng Hải Phòng 2.2.1. Đặc điểm về tiêu thụ hàng hoá của Công ty Công ty thương mại dịch vụ và xây dựng Hải Phòng là một số doanh nghiệp nhà nước, được phép đăng ký hoạt động kinh doanh trên 3 lĩnh vực là thương mại dịch vụ và xây dựng những hoạt động chủ yếu của Công ty là kinh doanh thương mại và môi giới thương mại. Các mặt hàng kinh doanh chủ yếu của Công ty bao gồm, kinh doanh vật tư, nguyên vật liệu, máy móc thiết bị phụ tùng, phục vụ cho công nghiệp, xây dựng và giao thông vận tải, kinh doanh hàng công nghiệp thực phẩm, hàng tiêu dùng. Do đó việc tiêu thụ hàng hoá của công ty cũng có nhiều nét đặc trưng. Về mặt hàng kinh doanh các hàng hoá chủ yếu của Công ty bao gồm máy móc và phương tiện vận tải phục vụ cho xây dựng và giao thông vận tải như : Xe cẩu, xe đầu kéo, xe tải, các loại…về nguyên vật liệu phục vụ cho ngành xây dựng như : thép lá mạ, kẽm, nhựa đường…về hàng công nghiệp thực phẩm và hàng tiêu dùng chủ yếu là thuốc lá, bia các loại và nước ngọt, nước giải khát các loại… Từ khi thành lập 19/11/1991 đến cuối năm 1999 cũng mới chỉ là giai đoạn hình thành của Công ty. Trong giai đoạn này theo quyết định của UBND thành phố Công ty đã phải tiếp nhận, nhiều đơn vị sản xuất kinh doanh làm ăn thua lỗ, kém hiệu quả. Do đó hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty chưa đi vào ổn định, hoạt động của Công ty chủ yếu là kinh doanh dịch vụ ăn uống, chế biến hàng xuất khẩu…về kinh doanh thương mại, mặt hàng kinh doanh chủ yếu của Công ty là kinh doanh các mặt hàng thủ công nghiệp và các loại máy móc vật tư phục vụ cho nông nghiệp và môtj số mặt hàng công nghiệp như thuốc lá, bia, nước ngọt. Trong thời gian này hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty gặp rất nhiều khó khăn, các sản phẩm sản xuất kinh doanh của Công ty không đủ sức cạnh tranh với các doanh nghiệp khác trong khu vực. Tình trạng này diễn ra trong một thời gian khá dài từ năm 1996 đến năm 1999. Nguyên nhân là do : Công ty thiếu vốn trong việc sản xuất kinh doanh, thiếu vốn cho việc đổi mới và nâng cao thiết bị công nghệ, hơn nữa do việc tiếp nhận các đơn vị làm ăn thua lỗ trong thời gian này đã làm cho Công ty đã khó khăn lại càng trở lên khó khăn hơn. Hầu hết tài sản của các đơn vị được sát nhập đều cũ kỹ lạc hậu và xuống cấp nghiêm trọng sau khi sát nhập Công ty phải bỏ ra một lượng vốn lớn để tu sứa, nâng cấp các tài sản đó. Vì vậy không đầu tư được vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh…tất cả các nguyên nhân trên đã tác động đến hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty, đặc biệt là trong công tác tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, do chất lượng sản phẩm hàng hoá thấp nhưng gia cả lại cao, không đáp ứng được yêu cầu của thị trường và nhu cầu của người tiêu dùng. Nhưng từ tháng 3 năm 2000 sau khi được chính thức đổi tên thành công ty thương mại dịch vụ và xây dựng Hải Phòng, hoạt động của Công ty dần dần đi vào ổn định Công ty đã chuyển hướng hoạt động sản xuất kinh doanh và hoạt động chủ yếu là kinh doanh trên lĩnh vực thương mại. Trong công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước nói chung và Thành phố Hải Phòng nói riêng với sự nhanh nhạy và linh hoạt trong việc nắm bắt nhu cầu của thị trường. Công ty đã lựa chọn kinh doanh trên một số mặt hàng phù hợp tạo ra sự chuyển biến mới trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Mặt hàng kinh doanh chủ yếu của công ty năm 2000 là : Xe máy, máy XD, thuốc lá, bia và nước ngọt và các loại vật tư phục vụ cho ngành xây dựng như sắt thép, nhựa đồng…Các mặt hàng này nhanh chóng tiếp cận với thị trường và được tiêu thụ với khối lượng lớn góp phần làm tăng doanh thu tiêu thụ hàng hoá của Công ty. Với tổng doanh thu tiêu thụ đạt được trong kỳ là 31.977.616.238đ. Sang năm 2001 để mặt hàng kinh doanh của doanh nghiệp phù hợp hơn nữa với nhu cầu của thị trường và loại bỏ một số mặt hàng kinh doanh kém hiệu quả, tập trung đầu tư kinh doanh một số mặt hàng để tiêu thụ và đem lại hiệu quả cao. Công ty đã thay đổi một số các mặt hàng chủ yếu như : loại bỏ việc kinh doanh mặt hàng xe máy và giảm mặt hàng thuốc lá…tập trung đầu tư vào các loại máy móc xây dựng, phương tiện vận tải và các loại vật tư phục vụ cho ngành xây dựng. Đây là các mặt hàng đang có nhu cầu rất lớn trên thị trường, hơn nữa việc tiêu thụ các mặt hàng này thường theo hợp đồng mua bán với số lượng lớn, ít bị tồn kho, giúp cho doanh nghiệp tránh được tình trạng ứ đọng vốn kinh doanh. Đồng thời góp phần làm tăng doanh thu tiêu thụ của doanh nghiệp. Để thấy rõ được điều này chúng ta xem xét bảng phân tích kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp năm 2000 –2001 như sau : Bảng 1 : Phân tích kinh doanh hoạt động kinh doanh của Công ty thương mại dịch vụ và xây dựng Hải Phòng năm 2000 và 2001 Đơn vị : VNĐ Chỉ tiêu 2000 2001 Chênh lệch Số tiền Tỷ lệ (%) - Tổng doanh thu bán hàng 38.346.664.597 35.418.023.397 + 2.71.358.818 + 5,86 - GVHB 31.864.337.471 34.023.738.316 +2.159.400.845 + 6,38 - Lợi nhuận lãi gộp 1.482.327.126 1.394.285.081 -88.042.045 -5,94 - Chi phí bán hàng 643.424.705 578.650.310 -64.774.395 - 10,07 - Chi phí quản lý DN 738.274.316 764.337.471 -23.936.845 -3,04 - Lợi nhuận thuần 50.628.105 51.297.300 + 669.195 + 1,32 Nhìn vào bảng trên ta thấy doanh thu tiêu thụ và lợi nhuận của doanh nghiệp năm 2001 so với năm 2000 tăng lên một cách rõ rệt. Chỉ tiêu doanh thu từ 35.346.664.597 đ năm 2000 đến năm 2001 tăng 37.418.023.397 đồng (gấp 586 lần). Lợi nhuận thuần đạt được trong năm 2000 là 50.628.105 và năm 2001 là 51.297.300 tăng 16.580.834 đồng (*****). Đây là một kết quả hết sức khả quan của Công ty trong những năm qua đạt được kết quả như vậy cũng là do có sự cố gắng phấn đấu của toàn thể cán bộ công nhân viên trong Công ty, trong việc tổ chức quản lý, linh hoạt trong việc nắm bắt nhu cầu thị trường để đưa ra được phương hướng kinh doanh phù hợp. - Về thị trường tiêu thụ : Là một Công ty mới được thành lập và bước đầu đi vào ổn định sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty còn gặp rất nhiều khó khăn. Trong những năm đầu khi mới thành lập thị trường tiêu thụ sản phẩm hàng hoá của Công ty mới chỉ bó hẹp trong phạm vi thành phố, nhưng từ năm 2000 để mở rộng phạm vi hoạt động kinh doanh và mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá Công ty đã ký kết hoạt động xuất khẩu lúa gạo sang các nước thuộc khối ASEAN. Tuy nhiên do nguồn vốn kinh doanh còn hạn hẹp hơn nữa sản phẩm lúa gạo của nước ta còn thấp. Do đó giá trị hàng hoá xuất khẩu chiếm tỷ trọng rất nhỏ và mỗi năm chỉ đạt tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu khoảng trên 2 tỷ đồng. Ngoài ra trong năm 2001 Công ty đã mở thêm hoạt động môi giới thương mại trên phạm vi cả nước. Nhưng nhìn chung thị trường tiêu thụ hàng hoá của Công ty chủ yếu vẫn là thị trường nội tỉnh. 2.2.2. Những thuận lợi và khó khăn trong công tác tiêu thụ sản phẩm và tăng doanh thu tiêu thụ sản phẩm của Công ty. 2.2.2.1. Thuận lợi Là một doanh nghiệp nhà nước, được nhà nước giao quyền tự chủ về tài chính, Công ty có quyền huy động vốn rộng rãi nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu về vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, nâng cao năng lực hoạt động kinh doanh và chiếm lĩnh thị trường. - Được hình thành và phát triển trong nền kinh tế thị trường với môi trường cạnh tranh tự do và lành mạnh do đó ít bị ảnh hưởng của cơ chế quản lý bao cấp trước đây. Hơn nữa làm một công ty hoạt động chủ yếu là kinh doanh thương mại do đó cơ thể chủ động dễ dàng thay đổi các mặt hàng kinh doanh để phù hợp với nhu cầu thị trường, lựa chọn những mặt hàng dễ tiêu thụ và đem lại hiệu quả cao. Đồng thời việc kinh doanh trên lĩnh vực này không những có thể chiếm dụng được một sản lượng lớn về vốn của những người cung cấp mà còn giảm bớt được những chi phí về quảng cáo và giới thiệu sản phẩm. - Địa bàn hoạt động của Công ty thành phố Hải Phòng là một thành phố lớn thứ 3 trong cả nước đời sống của ngươì dân ngày càng nâng cao do đó nhu cầu về giao thông, xây dựng và các nhu cầu tiêu dùng càng đi vào phát triển…cùng với sự lựa chọn các mặt hàng kinh doanh phù hợp, hàng hoá của Công ty dễ dàng đưa ra thị trường và ít bị ứ đọng, tránh được tình trạng ứ đọng vốn do hàng hoá tồn kho. Ngoài ra công ty còn có một đội ngũ cán bộ công nhân viên có trình độ nghiệp vụ cao, có kinh nghiệm nhiệt tình với công việc luôn cố gắng phấn đấu học tập để không ngừng nâng cao trình độ phù hợp với xu thế ngày càng phát triển của nền kinh tế… 2.2.2.2. Khó khăn Bên cạnh những thuận lợi nói trên, tình hình hoạt động kinh doanh đặc biệt là trong công tác tiêu thụ hàng hoá của Công ty cũng gặp phải không ít những khó khăn. - Vì là một doanh nghiệp mới được thành lập trên cơ sở sát nhập nhiều đơn vị sản xuất kinh doanh nhỏ mới đi vào hoạt động nên công tác tổ chức quản lý còn có nhiều mâu thuẫn và lỏng lẻo, các mặt hàng kinh doanh chưa ổn định gây khó khăn cho công tác lập kế hoạch về tiêu thụ hàng hoá. Hơn nữa, vì là một doanh nghiệp mới thành lập và mặt hàng kinh doanh chưa ổn định nên Công ty chưa tạo được mối quan hệ rộng rãi với khách hàng, uy tín của Công ty chưa được*** và thị trường tiêu thụ hàng hoá của Công ty mới chỉ bó hẹp trong phạm vi của thành phố. - Trong quá trình hình thành và phát triển việc Công ty phải tiếp nhận nhiều nhưng đơn vị sản xuất kinh doanh nhỏ làm ăn thua lỗ. TSCĐ của các đơn vị này thường cũ kỹ, lạc hậu và xuống cấp nghiêm trọng. Để có thể đưa vào hoạt động Công ty phải bỏ ra một lượng vốn lớn để tu sửa và nâng cấp các TSCĐ đó vì vậy việc đầu tư vốn vào hoạt động kinh doanh bị hạn chế gây khó khăn cho việc sản xuất kinh doanh của Công ty. 2.3. Phân tích đánh giá tình hình tiêu thụ sản phẩm và doanh thu tiêu thụ sản phẩm của Công ty năm 2000 và 2001. 2.3.1. Tình hình tiêu thụ sản phẩm và doanh thu tiêu thụ sản phẩm của Công ty năm 2000 và 2001 Với quyết định để đưa ra hướng đi phù hợp cho hoạt động sản xuất kinh doanh và lựa chọn những mặt hàng kinh doanh phù hợp với nhu cầu thị trường. Trong những năm gần đây công tác tiêu thụ sản phẩm của Công ty thương mại dịch vụ và xây dựng Hải Phòng đã đạt được những kết quả hết sức khả quan, góp phần đưa Công ty từ một đơn vị làm ăn thua lỗ trở thành một đội kinh doanh ổn định và có hiệu quả. Năm 2000 doanh thu tiêu thụ những mặt hàng chủ yếu của Công ty đạt 31.977.616.238 đồng trong đó : - Mặt hàng xe máy tiêu thụ được 417 chiếc đạt doanh thu 6.916.035.489 trong khi nhập trong kỳ là 420 chiếc và tồn cuối kỳ là 3 chiếc. Đây là mặt hàng lần đầu tiên công ty đưa vào danh mục các mặt hàng tiêu thụ chủ yếu. - Mặt hàng máy móc xây dựng : Trong năm Công ty đã tiêu thụ được 14 chiếc đạt doanh thu tiêu thụ 5.066.665.140đ khối lượng hàng hoá tiêu thụ và doanh thu tiêu thụ được thể hiện chi tiết trên bảng 2 Mặt hàng thuốc lá: Đây là mặt hàng do công ty thuốc lá Thanh Hoá cung cấp và là mặt hàng chiếm tỷ trọng lớn nhất trong toàn bộ các mặt hàng kinh doanh chủ yếu của công ty tronh năm 2000 sản lượng thuốc lá tiêu thụ là: 7300260 bao đạt doanh thu tiêu thụ là 10.921.188.960 (đồng ) Mặt hàng bia: Các loại bia chủ yếu mà công ty kinh doanh bao gồm bia lon Tiger , bia lon Heineken và bia chai Hà Nội. Trong năm 2000 công ty đã tiêu thụ được 9.817 (két). Trong đố bia Hà Nội l mặt hàng có số tiêu thụ lớn nhất . Nước ngọt và nước giải khát các loại: Mặt hàng này bao gồm Cocacola và 7up trong năm 2000 tiêu thụ được 9.648 (thùng) đạt doanh thu tiêu thụ 814.570.992 (đồng) Thép mạ kẽm số lượng tiêu thụ trong kỳ là: 668 (tấn) đạt doanh thu là: 4.422.794.600 (đồng) Nhựa đường số lượng tiêu thụ là 1.037,6 (tấn) đạt doanh thu là 4.700.328.000 (đồng) Như vậy với những cố gắng trong công tác tiêu thụ hàng hoá, năm 2000 công ty đã đạt tổng doanh thu tiêu thụ hàng hoá là: 31.977.616.238 (đồng) trong đó doanh thu tiêu thụ của mặt hàng thuốc lá chiến tỷ trọng lớn nhất là 32,59% trong tổng doanh thu tiêu thụ chủ yếu sau đó là đến doanh thu tiêu thụ của mặt hàng xe găns máy chiếm 21,63%, nhựa đường chiếm 14,7%, thép mạ kẽm chiếm 13,83%, máy xây dựng chiếm 9,59%, mặt hàng bia các loại chiếm 3,55 và chiếm tỷ trọng nhỏ nhất là mặt hàng nước ngọt và nước giải khát các loại chiếm 2,55% Sang tới năm 2001 tình hình tiêu thụ có nhiều thay đổi và đạt kết quả cao hơn so với năm 2000 Nhìn vào bảng 3 ta thấy tổng doanh thu tiêu thụ hàng hoá từ các mặt hàng chủ yếu của công ty đạt 32.046.044.555 (đồng). Trong năm 2001 công ty đã loại bỏ việc kinh doanh mặt hàng xe gắn máy, tập trung vốn vào kinh doanh các loại máy móc xây dựng và phương tiện vận tải. Các mặt hàng kinh doanh chủ yếu trong năm 2001 là: Máy xây dựng và phương tiện vận tải: Mặt hàng này bao gồm xe cẩu, xe đầu kéo, xe tải…Số lượng tiêu thụ trong năm 2001 là 115 (chiếc), đạt doanh thu tiêu thụ là 16.565.751.725 (đồng). Thuốc lá bao: số lượng tiêu thụ là 2.987.060 (bao), đạt doanh thu tiêu thụ là 4.432.797.040 (đồng). Bia các loại: Số lượng tiêu thụ là 8.640 (két) đạt doanh thu tiêu thụ là 995.544.000 (đồng). Nước ngọt và nước giải khát các loại: Số lượng tiêu thụ là 7.570 (thùng) đạt doanh thu tiêu thụ 683.658.190 (đồng) Thép lá mạ kẽm: Số lượng tiêu thụ đạt 638 (tấn), với doanh thu tiêu thụ đạt 4.221.773.600 (đồng). Nhựa đường: Số lượng tiêu thụ đạt 1.136 (tấn), doanh thu tiêu thụ đạt 5.191.520.000 (đồng). Như vậy ta thấy doanh thu tiêu thụ hàng hoá của năm 2001 đã tăng lên so với năm 2000 và đạt tổng giá trị doanh thu tiêu thụ là 32.046.044.555 (đồng), đây cũng là một cố gắng rất lớn của công ty. Trong đó doanh thu tiêu thụ của mặt hàng máy xây dựng và phương tiện vận tải chiếm tỷ trọng lớn nhất chiếm tới 51,69%; sau đó là đến mặt hàng nhựa đường chiếm 16,2%; mặt hàng thuốc lá bao chiếm 13,83%; thép mạ kẽm chiếm 13,17%; bia các loại chiếm 3,11% và chiếm tỷ trọng nhỏ nhất là mặt hàng nước ngọt và nước giải khát các loại chỉ chiếm khoảng 2%. Để thấy rõ hơn được điều này, ta xem xét bảng 4: Bảng so sánh tình hình tiêu thụ và doanh thu tiêu thụ hàng hoá của công ty năm 2000 và 2001. Bảng so sánh này được lập dựa trên cơ sở của bảng 2 và bảng 3. Thông qua bảng 4 ta thấy: Trong năm 2000 doanh thu tiêu thụ của nặt hàng thuốc lá chiếm tỷ trọng lớn nhất, sau đó là đến mặt hàng xe gắn máy. Nhưng sang năm 2001 kết cấu mặt hàng kinh doanh chủ yếu của công ty có nhiều thay đổi: - Về mặt hàng xe gắn máy là mặt hàng lần đầu tiên được công ty đưa vào danh mục những mặt hàng kinh doanh chủ yếu, có doanh thu tiêu thụ chiếm tỷ trọng 21,63% và đứng thứ 2 về tỷ trọng trong tổng doanh thu tiêu thụ của các mặt hàng chủ yếu. Nhưng thực chất việc kinh doanh mặt hàng này không những không đem lại hiệu quả mà thậm chí còn bị lỗ. Nguyên nhân là do trong thời gian này các loại xe gắn máy của Trung Quốc ồ ạt xâm nhập vào thị trường Việt nam đặc biệt là thị trường thành phố Hải Phòng. Các loại xe đượ công ty nhập vào rất đa fạng về mẫu mã và chủng loại. Tuy chất lượng không cao nhưng giá cả lại rất thấp vì vậy nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường. điều này đã làm cho gía cả cả hầu hết các loại xe gắn máy đều bị giảm và giảm rất nhanh. Việc kinh doanh của công ty về mặt hàng này cũng không tránh khỏi bị ảnh hưởng. Một số lượng lớn xe gắn máy của công ty được nhập trong năm phải bán với ghí bằng giá vốn thậm chí còn thấp hơn thì mới có thể tiêu thụ hết số lượng đã nhập. Tình trạng này dẫn đến việc kinh doanh của công ty bị thua lỗ, vì thế trong năm 2001 công ty đã quyết định loại bỏ việc kinh doanh loại mặt hàng này. Đối với mặt hàng máy xây dựng và phương tiện vận tải: Đây là loại mặt hàng đã được công ty đưa vào kinh doanh từ trước năm 2000. Nhưng trong năm 2000 việc kinh doanh mặt hàng này vẫn chỉ là thứ yếu, doanh thu tiêu thụ chiếm tỷ trọng 9,59% trong tổng doanh thu tiêu thụ và kinh doanh chủ yếu là xe cẩu. Hơn nữa do quan hệ làm ăn của công ty trong thời gian này cũng chưa được mở rộng nhưng số lượng tiêu thụ trong năm mới chỉ đạt 14 (chiếc). Nhưng sang năm 2001 công ty đã tập trung vốn kinh doanh cho loại mặt hàng này, ngoài xe cẩu công ty còn mở rộng việc kinh doanh một số loại phương tiện vận tải như: Xe tải , xe đầu kéo… Cùng với việc mở rộng quan hệ và tăng cường ký kết các hợp đồng mua bán với khách hàng. Công ty đã nâng số lượng tiêu thụ lên 115 chiếc, tăng 101 chiếc so với năm 2000, tương ứng với tỷ lệ tăng là 721,42% điều này đã góp phần làm cho doanh thu tiêu thụ của công ty về mặt hàng này tăng từ 3.066.665.140 (đồng) năm 2000 lên 16.565.751.725 (đồng) tăng 13.499.086.585 (đồng) tương ứng với tỷ lệ tăng 444,18%. Với kết quả trên ta thấy việc quyết định hướng kinh doanh vào loại mặt hàng này là hoàn toàn đúng đắn. Bởi Hải Phòng là một thành phố cảng, là đầu mối giao thông quan trọng của cả nước hơn nữa lại đang trong thời kỳ xây dựng và đổi mới vì thế nhu cầu về các loại máy xây dựng và phương tiện vận tải là rất lớn. Mặt hàng thuốc lá bao: Công ty chủ yếu kinh doanh các loại thuốc lá do nhà máy thuốc lá Thanh Hoá sản xuất như thuốc Bông sen, thuốc Bluebird. Bởi vì Hải Phòng là thị trường tiêu thụ rất lớn đối với các loại thuốc lá này. Cho nên từ năm 1996 công ty đã ký kết hợp đồng với nhà máy thuốc lá Thanh Hoá và bắt đầu đưa loại mặt hàng này váo danh mục các mặt hàng kinh doanh chủ yếu.Từ năm 1996 đến năm 2000 thuốc lá là mặt hàng kinh doanh chiếm tỷ trọng lớn nhất. Trong năm 2000 công ty đã tiêu thụ được về số lượng là 7.300.260 (bao) thuốc các loại đạt doanh thu tiêu thụ 10.921.188.960 (đồng) nhưng sang năm 2001 do có sự chuyển đổi các mặt hàng kinh doanh công ty đã cắt giảm vốn đầu tư cho việc kinh doanh loại mặt hàng này. Trong năm công ty đã tiêu thụ được 2.987.060 (bao) giảm 4.313.200 (bao) so với năm 2000 tương ứng với tỷ lệ giảm 59,08%. Do khối lượng tiêu thụ giảm đã làm cho doanh thu tiêu thụ giảm, năm 2001 doanh thu tiêu thụ mặt hàng này là 4.432.97.040 (đồng) giảm 6.488.391.920 (đồng) so với năm 2000 tương ứng với tỷ lệ giảm 59,41% . Đối với các mặt hàng bia các loại khối lượng tiêu thụ của các mặt hàng này qua hai năm ta thấy cũng giảm xuống một lượng đáng kể. Năm 2000 số lượng tiêu thụ là 9.817 (két). Nhưng đến năm 2001 số lượng tiêu thụ giảm xuống còn 8.640 (két), giảm 1.177 (két) so với năm 2000 tương ứng với tỷ lệ giảm khoảng 12%. Do khối lượng tiêu thụ giảm làm cho doanh thu tiêu thụ cũng giảm, năm 2000 doanh thu tiêu thụ đạt được là 1.136.033.057 (đồng) và năm 2001 doanh thu tiêu thụ đạt là 995.544.000 (đồng), giảm 140.489.057 (đồng) tương ứng với tỷ lệ giảm 12,37% . Mặt hàng nước ngọt và nước giải khát các loại cũng có xu hướng giảm. trong ăm 2000 số lượng tiêu thụ của mặt hàng này là 9.648 (thùng) đạt doanh thu tiêu thụ 814.570.992 (đồng). Nhưng sang năm 2001 số lượng tiêu thụ giảm chỉ còn 7.570 (thùng), tức là giảm 2.087 thùng so với năm 2000 tương ứng với tỷ giảm 21,54% và doanh thu tiêu thụ năm 2001 đạt 638.658.190 (đồng) giảm 175.912.802 (đồng) so với năm 2000 với tỷ lệ giảm tương ứng là 21,6%. Mặt hàng thép lá mạ kẽm năm 2001 tiêu thụ cũng giảm một lượng đáng kể so với năm 2000. Trong năm2000 số lượng tiêu thụ là 668 (Tấn). Nhưng sang tới năm2001 số lượng tiêu thụ giảm còn 638 (tấn) tức là giảm 30 (tấn) so với năm 2000 với tỷ lệ giảm là 4,5%. Doanh thu tiêu thụ năm 2000 đạt 4.422.794.600 (đồng) và năm 2001 đạt 4.221.773.600 (đồng) giảm 201.021.000 (đông) so với năm 2000, với tỷ lệ giảm 4,55%. Đối với mặt hàng nhựa đường thì số lượng tiêu thụ năm 2001 lại tăng lên so với năm 2000. Trong năm 2000 số lượng tiêu thụ là1037,6 (tấn) và năm 2001 số lượng tiêu thụ là1136 (tấn) với mức tăng về số lượng là 98,4 (tấn) tương ứng với tỷ lệ tăng là 9,485%. Doanh thu tiêu thụ tăng 491.192.000 (đồng) với tỷ lệ tăng doanh thu tiêu thụ là 10,45% . do có sự thay đổi về mặt hàng kinh doanh hơn nữa số lượng tiêu thụ của các mặt hàng trong năm 2000 và 2001 có sự tăng giảm đáng kể. Nhưng nhìn chung tổng doanh thu tiêu thụ hàng hoá đạt được trong năm 2001 đã tăng lên so với năm 2000. Cụ thể là tăng 68.428.317 (đồng), tương ứng với tỷ lệ tăng doanh thu là 0,21%. Qua bảng so sánh trên ta thấy tốc độ tăng giảm giữa số lượng tiêu thụ và doanh thu tiêu thụ là không đồng đều. Điều này cho thấy doanh thu tiêu thụ trong năm 2001 tăng so với năm 2000 không chỉ do sự tăng giảm số lượng tiêu thụ của các mặt hàng mà còn do ảnh hưởng bởi sự thay đổi của giá bán đơn vị bình quân. Để thấy sõ được điều này ta xét qua bảng 5 : Bảng so sánh giá bán đơn vị bình quân hàng hoá năm 2000 so với năm 2001. Thông qua bảng ta thấy hầu hết giá bán đơn vị bình quân của các mặt hàng đều giảm. Trong đó giá bán đơn vị bình quân của mặt hàng máy xây dựng và phương tiện vận tải là giảm mạnh nhất. So với năm 2000 thì năm 2001 giá bình quân của mặt hàng này giảm 474.997.495 (đồng), tương ứng với tỷ lệ giảm 34,24%. Nhưng sự giảm giá này không phải là do giá cả thị trường giảm xuốg hay do công ty giảm giá để tăng khối lượng tiêu thụ, mà là do kết cấu các mặt hàng kinh doanh trong loại mặt hàng này thay đổi. Nếu trong năm 2000 công ty chỉ kinh doanh một loại duy nhất là xe cẩu do đó giá bán bình quân có cao hơn. Thì sang năm 2001 công ty đã mở rộng thêm việc kinh doanh loại mặt hàng này, ngoài xe cẩu công ty còn kinh doanh thêm các loại xe tải và xe đầu kéo với số lượng và giá bán các loại khác nhau. Vì vậy mức giá bán đơn vị bình quân của mặt hàng này thấp hơn so với năm 2000. Còn đối với giá bán đơn vị bình quân của các loại mặt hàng như thuốc lá , bia các loại, nước ngọt và thép lá mạ kẽm năm 2001 cũng giảm so với năm 2000 nhưng giảm rất ít. Mặt hàng thuốc lá giảm 12 (đồng) với tỷ lệ giảm là 0,8%; bia các loại giá bán đơn vị bình quân giảm 496 (đồng) tương ứng với tỷ lệ giảm 0,43%; nước ngọt các loại giá bán đơn vị bình quân giảm 62 đồng với tỷ l;ệ giảm 0,07% , thép lá mạ kẽm giảm 3.750 (đồng) với tỷ lệ giảm 0,06%. Duy nhất chỉ có mặt hàng nhựa đường là mức giá bán bình quân trong năm 2001 tăng lên so với năm 2000 cụ thể là tăng 40.000 (đồng) tương ứng với tỷ lệ tăng là 0,9%. Mặc dù có sự tăng giảm đáng kể về số lượng và giá bán đơn vị bình quân của các mặt hàng tiêu thụ giữa năm 2000 và năm 2001. Sự tăng giảm này đã ảnh hưởng đến doanh thu tiêu thụ trong năm 2001 và góp phần làm cho doanh thu tiêu thụ của năm 2001 tăng lên. Tuy mức tăng nhưng không lớn song đây cũng là một kết quả cho thấy hướng đi của công ty là hoàn toàn đúng đắn. Tuy nhiên để nâng cao số lượng hàng hoá tiêu thụ và doanh thu tiêu thụ trong những năm tới công ty cần phải có nhiều cố gắng hơn nữa trong công tác quản lý hhoạt động kinh doanh đặc biệt là trong công tác tiêu thụ. 2.4. công tác lập kế hoạch tiêu thụ và doanh thu tiêu thụ hàng hoá của công ty Thương mại dịch vụ và xây dựng Hải Phòng năm 2001. Có được kết quả 2 năm 2000 và 2001 như trên trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, hàng năm ngoài việc lập các kế hoạch về vốn, kế hoạch KHTSCĐ kế hoạch về lao động tiền lương Công ty còn phải lập các kế hoạch mua hàng và kế hoạch về tiêu thụ hàng hoá. Việc lập kế hoạch cho hoạt động sản xuất kinh doanh là một việc làm hết sức quan trọng. Nhờ vào kế hoạch được lập mà công ty có thể tổ chức sản xuất kinh doanh theo đúng hướng đã định và tạo cho công ty có sự chủ động cao, có khả năng phân tích sâu rộng. Đặc biệt là đối với việc lập kế hoạch tiêu thụ hàng hoá đó đòi hỏi không những người lập kế hoạch phải có trình độ và khả năng phân tích tốt mà còn phải nắm bắt được tình hình thực tế, nhu cầu thị trường sau đó kết hợp với thực trạng năng lực sản xuất kinh doanh của Công ty để đưa ra đúng đắn những kế hoạch đúng đắn và sát với thực tế hơn. Kế hoạch tiêu thụ sản phẩm thực chất là việc dự đoán trước sốlượng hàng hoá sẽ được tiêu thụ trong kỳ kế hoạch. Việc lập kế hoạch đối với các doanh nghiệp là một việc làm vô cùng quan trọng, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh thương mại. Bởi vì đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp thương mại bao gồm 2 quá trình là mua hàng và tiêu thụ hàng hoá mà tiêu thụ hàng hoá là hoạt động chủ yếu có quyết định đến quá trình mua hàng. Nếu không có kế hoạch về tiêu thụ hoặc lập kế hoạch tiêu thụ hàng hoá không sát với thực tế sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến hàng loạt các kế hoạch khác như kế hoạch lao động tiền lương, kế hoạch mua hàng, kế hoạch KHTSCĐ…Điều này sẽ khiến cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mất cân đối, xa vời thực tế và gây ra những hậu quả khó có thể lường trước. Tuy nhiên việc lập kế hoạch tiêu thụ như thế nào là hợp lý và đem lại hiệu quả cao còn phải tuỳ thuộc vào tình hình cụ thể của từng doanh nghiệp. Đối với Công ty thương mại dịch vụ và XDHP, công tác lập kế hoạch tiêu thụ hàng hoá được đặc biệt chú trọng. Để bảo đảm nâng cao khả năng tiêu thụ Công ty đã tiến hành lập kế hoạch tiêu thụ cho cả năm, sau đó căn cứ trên cơ sở kế hoạch năm Công ty lập kế hoạch cho từng quý và từng tháng để tiện cho việc theo dõi, ki

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc10325.DOC