Đề tài Tiềm năng và giải pháp phát triển du lịch Hải Dương

Tài liệu Đề tài Tiềm năng và giải pháp phát triển du lịch Hải Dương: LỜI MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Cũng như nhiều ngành khoa học, kỹ thuật, nghệ thuật, sản xuất, ngành Du lịch được hình thành từ rất sớm trong bối cảnh lịch sử nhất định. Bước sang thế kỷ XXI thì Du lịch đã trở thành một thuật ngữ quen thuộc với mọi tầng lớp trên thế giới. Trải qua một quá trình phát triển lâu dài, với nhiều biến động thăng trầm phức tạp thì ngày nay hoạt động du lịch là một trong những hoạt động thường xuyên và phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế giới. Ngành Du lịch chính là một mũi nhọn để nhiều quốc gia phát triển nền kinh tế của mình. Đồng thời nó còn là chiếc cầu nối tình đoàn kết quốc tế, tình đoàn kết dân tộc, cho phép tất cả mọi người trên thế giới có điều kiện tham quan học hỏi, chiêm ngưỡng những danh lam thắng cảnh, tìm hiểu phong tục tập quán và có điều kiện nghỉ ngơi chữa trị bệnh tật. Ngay tại Việt Nam đi du lịch cũng là nhu cầu từ xa xưa và các thế hệ người Việt Nam cũng đã có những chuyến du lịch nổi danh trong lịch sử. Khách du lịch từ đất Việt ra đ...

doc92 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1175 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Tiềm năng và giải pháp phát triển du lịch Hải Dương, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Cũng như nhiều ngành khoa học, kỹ thuật, nghệ thuật, sản xuất, ngành Du lịch được hình thành từ rất sớm trong bối cảnh lịch sử nhất định. Bước sang thế kỷ XXI thì Du lịch đã trở thành một thuật ngữ quen thuộc với mọi tầng lớp trên thế giới. Trải qua một quá trình phát triển lâu dài, với nhiều biến động thăng trầm phức tạp thì ngày nay hoạt động du lịch là một trong những hoạt động thường xuyên và phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế giới. Ngành Du lịch chính là một mũi nhọn để nhiều quốc gia phát triển nền kinh tế của mình. Đồng thời nó còn là chiếc cầu nối tình đoàn kết quốc tế, tình đoàn kết dân tộc, cho phép tất cả mọi người trên thế giới có điều kiện tham quan học hỏi, chiêm ngưỡng những danh lam thắng cảnh, tìm hiểu phong tục tập quán và có điều kiện nghỉ ngơi chữa trị bệnh tật. Ngay tại Việt Nam đi du lịch cũng là nhu cầu từ xa xưa và các thế hệ người Việt Nam cũng đã có những chuyến du lịch nổi danh trong lịch sử. Khách du lịch từ đất Việt ra đi chủ yếu thuộc các tầng lớp giàu có như: vua chúa hoặc thương gia, nhà khoa học, nhà tu hành…Mặt khác đã có nhiều khách du lịch nước ngoài đến và tìm hiểu về đất nước cũng như con người Việt Nam. Cũng như nhiều quốc gia trên thế giới nền kinh tế nước ta đang phát triển ngày càng vượt bậc. Ở Việt Nam, nhờ chính sách Đổi mới của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là chính sách kinh tế, đối ngoại mà bộ mặt đất nước đã có những bước tiến nhất định. Và ngành Du lịch được coi là một trong những ngành có tầm quan trọng và có ý nghĩa to lớn trong định hướng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Việt Nam vốn giàu tài nguyên du lịch và đang từng bước khai thác, bảo vệ nguồn tài nguyên ấy. Loại hình du lịch văn hóa, du lịch môi trường sinh thái được xác định là quan trọng nhất trong việc phát triển du lịch Việt Nam, sức hấp dẫn và khả năng thực hiện các hoạt động du lịch theo định hướng ấy ngày nay đang được quan tâm. Theo dự đoán của các chuyên gia đây sẽ là ngành kinh tế mang lại nhiều lợi nhuận cho các nhà kinh doanh du lịch, mang lại thu nhập cao cho nền kinh tế quốc dân của đất nước, đồng thời đóng một vai trò rất quan trọng trong việc phát huy và giữ gìn bản sắc dân tộc, làm nổi bật nét đặc sắc của mỗi vùng, có tính liên ngành, liên vùng và xã hội hóa cao. Là một tỉnh thuộc vùng đồng bằng Bắc Bộ, Hải Dương cách thủ đô Hà Nội 57 km về phía Đông, có tuyến đường sắt Hà Nội - Hải Phòng và các tuyến quốc lộ 5, 18 chạy qua nối với trung tâm kinh tế, chính trị Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, cùng với hệ thống giao thông đường thuỷ sông Thái Bình, sông Kinh Thầy…Do đó Hải Dương có điều kiện thuận lợi giao lưu với các vùng miền trong nước và quốc tế. Thiên nhiên ưu đãi và hào phóng dành cho Hải Dương một vùng đất trù phú, cảnh quan đa dạng, có nhiều di tích lịch sử, văn hóa và danh thắng như: Chí Linh - “mảnh đất địa linh nhân kiệt” có quan hệ đến nhiều danh nhân. Côn Sơn; mảnh đất đã gắn bó phần lớn cuộc đời của Nguyễn Trãi - một danh nhân văn hóa thế giới, người anh hùng dân tộc. Kiếp Bạc; mảnh đất đã đi vào lịch sử với những chiến công oanh liệt của Trần Hưng Đạo trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông ở thế kỷ XIII…Con người Hải Dương tài hoa, thông minh, hiếu học. Với truyền thống lịch sử lâu đời từ ngàn xưa người dân xứ Đông đã tạo dựng và để lại cho thế hệ ngày nay nhiều di sản văn hóa tinh thần mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc như: văn miếu Mao Điền, Mộ Trạch - làng Tiến Sĩ. Các quần thể di tích với nét kiến trúc tinh xảo độc đáo, gắn liền với các lễ hội dân gian truyền thống đã thu hút đông đảo du khách thập phương đến với Hải Dương. Các yếu tố tự nhiên kết hợp với các di tích lịch sử văn hóa của Hải Dương là một tài nguyên vô cùng quý giá, là điều kiện thuận lợi để phát triển các loại hình du lịch sinh thái, văn hóa, thể thao, nghỉ dưỡng… Tuy nhiên, thực trạng phát triển du lịch của tỉnh Hải Dương trong những năm qua vẫn còn hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh của mình. Hoạt động du lịch chủ yếu còn dựa trên cơ sở khai thác các tài nguyên sẵn có, đầu tư cơ sở vật chất còn ở mức khiêm tốn, thiếu đồng bộ nên chưa có sản phẩm du lịch hấp dẫn du khách. Vì vậy mà việc quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Hải Dương là hết sức cần thiết và cấp bách. Là một người con sinh ra và trưởng thành trên mảnh đất Hải Dương yêu dấu, tự bản thân em hiểu rằng việc đóng góp một phần công sức nhỏ bé của mình vào công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế của quê hương không chỉ còn là nghĩa vụ mà còn là quyền và trách nhiệm của mỗi công dân. Chính vì vậy em đã chọn đề tài: “Tiềm năng và giải pháp phát triển du lịch Hải Dương” để làm khóa luận tốt nghiệp. 2. Đối tượng nghiên cứu của đề tài Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tiềm năng du lịch của tỉnh Hải Dương. Việc nghiên cứu sẽ giúp ta đánh giá được thực trạng khai thác và phát triển du lịch của tỉnh Hải Dương trong những năm qua và đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của ngành Du lịch tỉnh nhà. 3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài Đề tài tập trung nghiên cứu những tiềm năng du lịch đang được khai thác trong phạm vi của tỉnh Hải Dương. Đồng thời đánh giá, nhận xét thực trạng, tình hình kinh doanh Du lịch của tỉnh Hải Dương trong những năm qua. 4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài Phương pháp nghiên cứu của đề tài chủ yếu vẫn là những phương pháp truyền thống, đó là: - Thu thập tài liệu từ những nguồn tin cậy như: sách báo, quy hoạch tổng thể phát triển du lịch tỉnh Hải Dương, các trang Web; từ đó phân tích và đưa ra nhận xét, đánh giá, kết luận. - Phương pháp điều tra, khảo sát, quan sát thực tế trên địa bàn sẽ cho hiệu quả cao. - Phương pháp tổng hợp số liệu. 5. Bố cục của đề tài Ngoài phần mở đầu và kết luận, bố cục của đề tài gồm 3 chương như sau: Chương 1: Cơ sở lý luận về Du lịch và khái quát chung về du lịch Hải Dương Chương 2: Thực trạng khai thác và tiềm năng phát triển du lịch của Hải Dương Chương 3: Một số định hướng và những giải pháp nhằm khai thác và phát triển du lịch Hải Dương Chương 1 Cơ sở lý luận về Du lịch và khái quát chung về du lịch Hải Dương 1.1.Một số khái niệm cơ bản 1.1.1.Khái niệm về du lịch Theo Liên hiệp quốc các tổ chức lữ hành chính thức (International Union of Official Travel Oragnizatinon: IUOTO): “Du lịch được hiểu là hành động du hành đến một nơi khác với địa điểm cư trú thường xuyên của mình nhằm mục đích không phải để làm ăn, tức không phải để làm một nghề hay một việc kiếm tiền sinh sống…” Tại hội nghị LHQ về du lịch họp tại Roma (Italia) từ 21/8 đến 5/9/1963 các chuyên gia đưa ra định nghĩa về du lịch: “Du lịch là tổng hợp các mối quan hệ, hiện tượng và các hoạt động kinh tế bắt nguồn từ các cuộc hành trình và lưu trú của cá nhân hay tập thể ở bên ngoài nơi ở thường xuyên của họ hay ngoài nước họ với mục đích hòa bình. Nơi họ đến lưu trú không phải là nơi làm việc của họ”. Theo các nhà du lịch Trung Quốc thì “hoạt động du lịch là tổng hòa hàng loạt quan hệ và hiện tượng lấy sự tồn tại và phát triển kinh tế, xã hội nhất định làm cơ sở, lấy chủ thể du lịch, khách thể du lịch và trung gian du lịch làm điều kiện”. Theo I.I pirônovic, 1985 thì: “Du lịch là một dạng hoạt động của dân cư trong thời gian rỗi liên quan với sự di chuyển và lưu lại tạm thời bên ngoài nơi cư trú thường xuyên nhằm nghỉ ngơi, chữa bệnh, phát triển thể chất và tinh thần, nâng cao trình độ nhận thức văn hóa hoặc thể thao kèm theo việc tiêu thụ những giá trị về tự nhiên, kinh tế và văn hóa”. Nhìn từ góc độ thay đổi về không gian của du khách: “Du lịch là một trong những hình thức di chuyển tạm thời từ một vùng này sang một vùng khác, từ một nước này sang một nước khác mà không thay đổi nơi cư trú hay làm việc”. Nhìn từ góc độ kinh tế: “Du lịch là một ngành kinh tế, dịch vụ có nhiệm vụ phục vụ cho nhu cầu tham quan giải trí, nghỉ ngơi, có hoặc không kết hợp với các hoạt động chữa bệnh, thể thao, nghiên cứu khoa học và các nhu cầu khác”. Nhìn từ góc độ nhu cầu của du khách: “Du lịch là một sản phẩm tất yếu của sự phát triển kinh tế - xã hội của loài người đến một giai đoạn phát triển nhất định. Chỉ trong hoàn cảnh kinh tế thị trường phát triển, gia tăng thu nhập bình quân đầu người, tăng thời gian rỗi do tiến bộ của khoa học - công nghệ, phương tiện giao thông và thông tin ngày càng phát triển, làm phát sinh nhu cầu nghỉ ngơi, tham quan du lịch của con người”. 1.1.2.Thị trường du lịch Để đảm bảo cho hoạt động du lịch không bị ách tắc thì các dịch vụ được tạo ra, các hàng hóa dưới nhiều dạng phải được mua và bán và phải được tiêu dùng. Nhưng quá trình mua và bán chỉ có thể được diễn ra trên thị trường. Như vậy du lịch cũng tồn tại thị trường. Trong quá trình phát triển của du lịch, lúc đầu du khách đến vùng nào đó rất ít ảnh hưởng đến cư dân địa phương tại điểm du lịch. Việc đi lại khách tự lo, nơi lưu trú thường do những người hảo tâm hoặc bà con của họ sắp xếp và bố trí. Dần dần du lịch trở thành một hiện tượng phổ biến, từ đó cũng xuất hiện những phương tiện chuyên vận chuyển khách, cơ sở lưu trú, ăn uống…Khách du lịch chỉ cần trả tiền cho những cơ sở chăm lo cho họ việc đi lại, ăn uống, ngủ nghỉ và vui chơi giải trí…Thị trường du lịch đã hình thành như vậy trong quá trình chuyển đổi tiền - hàng giữa khách du lịch và cơ sở kinh doanh. Một mặt những dịch vụ, hàng hóa trên thị trường là do cơ sở chuyên kinh doanh về du lịch tạo ra hoặc là trung gian chuyển bán nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch một cách trực tiếp, ví dụ: các dịch vụ vận chuyển, lưu trú, các Tour du lịch, dịch vụ thông tin liên lạc…Những hàng hóa này đáp ứng nhu cầu của cả khách du lịch và những người không phải là khách du lịch và được mua bán, trao đổi trên thị trường hàng hóa chung. Vì vậy có thể nói rằng: Thị trường du lịch là một bộ phận của thị trường hàng hóa chung, chịu sự chi phối của quy luật kinh tế trong nền sản xuất hàng hóa như: quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh… Nói về thị trường du lịch cũng như các loại thị trường khác, chúng ta không thể chỉ nói đến cung hoặc cầu một cách riêng biệt mà lúc nào cũng phải tồn tại song song 2 thành phần thị trường nói trên cũng như mối quan hệ giữa chúng. Về bản chất, thị trường du lịch cũng được coi là bộ phận cấu thành tương đối đặc biệt của thị trường hàng hóa nói chung. Nó bao gồm toàn bộ các cơ cấu kinh tế liên quan đến địa điểm, thời gian, điều kiện và hành vi thực hiện các dịch vụ, hàng hóa nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội về du lịch. Các mối quan hệ và cơ chế kinh tế này được hình thành trên cơ sở của các quy luật kinh tế thuộc nền sản xuất hàng hóa và các quy luật kinh tế đặc trưng cho từng hình thái kinh tế - xã hội. Từ đó ta có thể hiểu: “Thị trường du lịch là bộ phận của thị trường chung, một phạm trù của sản xuất và lưu thông hàng hóa, dịch vụ du lịch, phản ánh toàn bộ quan hệ trao đổi giữa người mua và người bán; giữa cung, cầu và toàn bộ các mối quan hệ, thông tin kinh tế, kỹ thuật gắn với mối quan hệ đó trong lĩnh vực du lịch”. * Đặc điểm của thị trường du lịch Thị trường du lịch là một bộ phận của thị trường hàng hóa nói chung nên nó có đầy đủ đặc điểm như thị trường ở các lĩnh vực khác. Tuy nhiên do đặc thù của du lịch, thị trường du lịch có tính độc lập tương đối. Thị trường du lịch xuất hiện muộn hơn so với thị trường hàng hóa nói chung. Nó được hình thành khi du lịch trở thành hiện tượng kinh tế - xã hội phổ biến. Trong tiêu dùng du lịch không có sự di chuyển của hàng hóa vật chất và dịch vụ từ nơi sản xuất đến nơi thường trú của khách. Nói cách khác, không thể vận chuyển, hàng hóa du lịch chỉ được thực hiện khi người tiêu dùng với tư cách là khách du lịch phải vượt qua khoảng cách từ nơi ở hàng ngày đến các địa điểm du lịch để tiêu dùng sản phẩm du lịch. Cung về dịch vụ chiếm tỷ trọng chủ yếu: Hàng hóa vật chất chiếm tỷ trọng nhỏ. Dịch vụ vận chuyển, lưu trú, ăn uống, vui chơi, giải trí, môi trường hướng dẫn…là những đối tượng mua bán chủ yếu trên thị trường du lịch. Hàng lưu niệm là đối tượng đặc biệt và hầu như chỉ thực hiện trên thị trường du lịch nói chung, nhất là thị trường du lịch quốc tế. Đối tượng mua bán trên thị trường du lịch không có dạng hiện hữu trước người mua, khi mua sản phẩm khách hàng không được biết thực chất của nó. Người bán không có hàng hóa du lịch tại nơi rao bán, không có khả năng mang được hàng cần đến với khách hàng. Việc hiện hữu hóa, vật chất hóa đối với mua, bán trên thị trường du lịch chủ yếu dựa vào quảng cáo. Trên thị trường du lịch, đối tượng mua bán rất đa dạng, ngoài hàng hóa vật chất và dịch vụ còn có cả những đối tượng mà ở các thị trường khác không được coi là hàng hóa, không có các thuộc tính của hàng hóa. Đó là những giá trị nhân văn, tài nguyên du lịch thiên nhiên. Những hàng hóa này sau khi bán rồi vẫn giữ nguyên giá trị sử dụng, có chăng chỉ hao tổn rất ít. Quan hệ thị trường giữa người mua và người bán bắt đầu từ khi khách quyết định mua hàng đến khi khách trở về nơi cư trú thường xuyên của họ. Đây là đặc thù khác hẳn so với các thị trường hàng hóa khác, quan hệ thị trường sẽ chấm dứt khi khách mua đã trả tiền, nhận hàng, có thể kéo dài thêm thời gian bảo hành. Các sản phẩm du lịch nếu không tiêu thụ, không bán được sẽ không có giá trị và không thể lưu kho. Việc mua bán, tiêu dùng du lịch được gắn với không gian và thời gian cụ thể. Việc sản xuất, lưu thông và tiêu dùng sản phẩm du lịch luôn diễn ra trong cùng một thời gian, địa điểm. Thị trường du lịch mang tính thời vụ rõ rệt, điều đó thể hiện ở chỗ cung hoặc cầu du lịch chỉ xuất hiện trong một khoảng thời gian nhất định trong năm. 1.1.3.Khái niệm khách du lịch Khách thăm viếng (visitor) là một người đi tới một nơi khác với nơi họ thường trú, với một lý do nào đó (ngoại trừ lý do đến để hành nghề và lĩnh lương từ nơi đó). Định nghĩa này có thể được áp dụng cho khách quốc tế (International Visitor) và du khách trong nước (Domestic Visitor) Khách thăm viếng được chia làm hai loại: - Khách du lịch (Tourist) là khách thăm viếng có lưu trú tại một quốc gia hoặc một vùng khác với nơi ở thường xuyên trên 24 giờ và nghỉ qua đêm tại đó với mục đích nghỉ dưỡng, tham quan, thăm viếng gia dình, tham dự hội nghị, tôn giáo thể thao. - Khách tham quan (Excursionist) còn gọi là khách thăm viếng 1 ngày (Day Visitor) là loại khách thăm viếng lưu lại ở một nơi nào đó dưới 24 giờ và không lưu trú qua đêm. 1.1.4.Tài nguyên du lịch Tài nguyên du lịch là những cái thuộc về tự nhiên hoặc do con người tạo ra, nó hấp dẫn du khách và được khai thác phục vụ cho du lịch. Như vậy tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên nhiên, di tích lịch sử, di tích Cách mạng, giá trị nhân văn, công trình lao động, những sáng tạo của con người có thể được sử dụng nhằm thỏa mãn nhu cầu du lịch (theo Pháp lệnh Du lịch (1999)). Các tài nguyên du lịch phần lớn tại các cơ sở kinh doanh du lịch, khách sạn, nhà nghỉ, các cơ sở vui chơi giải trí, các điểm tham quan. Du khách muốn thưởng thức những giá trị của tài nguyên du lịch buộc phải đến những nơi đó. 1.1.5.Sản phẩm du lịch Sản phẩm du lịch là sự kết hợp những dịch vụ và phương tiện vật chất trên cơ sở khai thác các tiềm năng du lịch nhằm cung cấp cho khách du lịch một khoảng thời gian thú vị, một kinh nghiệm du lịch trọn vẹn và hài lòng. Nhìn từ góc độ khách du lịch, sản phẩm du lịch bao gồm tất cả những gì phục vụ cho chuyến đi từ khi dời đi đến khi trở lại. Một chỗ ngồi trên máy bay, một phòng trong khách sạn mà khách sử dụng là một sản phẩm du lịch riêng lẻ. Một tuần nghỉ trên biển, một chuyến du lịch, một cuộc hội nghị là sản phẩm du lịch trọn gói tổng hợp. Sản phẩm du lịch bao gồm: tài nguyên du lịch và các dịch vụ cung cấp nhằm thỏa mãn nhu cầu của con người. 1.2.Khái quát về du lịch Hải Dương Hải Dương là tỉnh có truyền thống văn hóa lâu đời, mảnh đất in đậm dấu ấn lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, nơi sinh ra và nuôi dưỡng nhiều bậc hiền tài cho đất nước, gắn bó với tên tuổi các danh nhân nổi tiếng như: Trần Hưng Đạo, Chu Văn An, Tuệ Tĩnh (thời Trần), Nguyễn Trãi (thời Lê), với gần 500 tiến sĩ Nho học, là nơi hội tụ, lưu giữ nhiều di sản văn hóa. Hiện nay trong địa bàn tỉnh Hải Dương còn nhiều di tích lịch sử văn hóa như: đền Kiếp Bạc thờ Đức thánh Trần, chùa Côn Sơn gắn liền với cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trãi, đền Cao, văn miếu Mao Điền, di tích gốm sứ Chu Đậu - Mỹ Xá. Mỹ Xá cũng là nơi mà Việt Nam Quốc dân đảng đã họp dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Thái Học để phát động phong trào khởi nghĩa Yên Bái chống lại thực dân Pháp (2/1930). Nằm ở một vị trí tọa độ phù hợp, Hải Dương là một vùng địa lý có điều kiện tự nhiên thuận lợi, khí hậu chan hòa. Đây chính là điều kiện thuận lợi để ngành Du lịch tỉnh Hải Dương có thể đón khách du lịch đến từ khắp năm châu trên thế giới. Là một vùng đất cổ được hình thành từ xa xưa, vì vậy Hải Dương vẫn mang trong mình những nét đẹp văn hóa truyền thống được bảo lưu từ ngàn đời. Và cho đến ngày nay những nét đẹp văn hóa đó đã trở thành một phần không thể thiếu trong các chương trình du lịch của Hải Dương. Có thể nói đến thăm Hải Dương khách du lịch sẽ được thưởng ngoạn những cảnh quan kỳ vỹ, những nét văn hóa rất riêng, rất đậm đà của một Hải Dương vừa duyên dáng vừa hiện đại. 1.2.1.Cơ cấu điều hành ngành Du lịch Hải Dương Tổ chức bộ máy Sở Thương mại và Du lịch Hải Dương Sở Thương mại và Du lịch Hải Dương là cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh Hải Dương (UBND), tham mưu giúp UBND tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước về thương mại và du lịch trên các lĩnh vực: lưu thông hàng hóa trong nước, xuất khẩu, nhập khẩu, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, thương mại điện tử, quản lý thị trường, quản lý cạnh tranh, chống độc quyền, chống bán phá giá, xúc tiến thương mại và du lịch; hội nhập kinh tế quốc tế; quản lý nhà nước các dịch vụ công về thương mại và du lịch trên địa bàn tỉnh. Sở Thương mại - Du lịch chịu sự chỉ đạo, quản lý trực tiếp của UBND tỉnh, sự chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra về chuyên môn, nghiệp vụ của Bộ Thương mại và Tổng cục Du lịch - Tên đơn vị: Sở Thương mại và Du lịch Hải Dương - Tên giao dịch: Trade and Tourism Department of Hai Duong province - Ban lãnh đạo: + Giám đốc: Phạm Thế Tập + Phó giám đốc: Trương Kim Sơn, Vũ Thị Nhạt, Lê Văn Hiệu - Địa chỉ: Số 14, phố Bắc Sơn, Thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương - Điện thoại: 0320.3852602 - Fax: 0320.3853899 - Các tổ chức tham mưu thuộc Sở Thương mại và Du lịch: + Văn phòng + Thanh tra + Phòng Kế hoạch - Thị trường + Phòng Quản lý Thương mại + Phòng Kinh tế đối ngoại + Phòng Quản lý Du lịch - Các đơn vị trực thuộc: + Chi cục Quản lý Thị trường + Trung tâm Thông tin, xúc tiến Thương mại - Du lịch 1) Tổ chức bộ máy Chi cục Quản lý thị trường Chi cục Quản lý thị trường thuộc Sở Thương mại và Du lịch tỉnh Hải Dương là đơn vị thực hiện quản lý nhà nước thanh tra chuyên ngành; tổ chức thanh tra, kiểm tra, kiểm soát thị trường, đấu tranh chống các vi phạm pháp luật trong hoạt động thương mại, dịch vụ trên đại bàn tỉnh. Trụ sở: Số 14, phố Bắc Sơn, Thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương * Chi cục Quản lý thị trường thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn sau: - Xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện việc thanh tra, kiểm tra, kiểm soát; quyết định xử phạt hành chính thuộc thẩm quyền theo pháp luật và sự chỉ đạo của UBND tỉnh, Cục Quản lý thị trường TW đối với các hoạt động thương mại trên địa bàn tỉnh. - Tham gia tổ chức việc phối hợp hoạt động giữa các ngành, các cấp có liên quan để quản lý thị trường, chống đầu cơ buôn lậu, gian lận thương mại, kinh doanh hàng cấm, hàng giả và các hành vi kinh doanh trái phép khác. Đề xuất biện pháp, chính sách, tổ chức thị trường, đảm bảo lưu thông hàng hoá thông suốt theo pháp luật trên địa bàn tỉnh. * Tổ chức bộ máy của Chi cục Quản lý thị trường: - Lãnh đạo: 01 Chi cục trưởng và 01 Phó chi cục trưởng. - Đội Quản lý thị trường: gồm 05 Đội - Các phòng chuyên môn thuộc Chi cục Quản lý thị trường : + Phòng Tổ chức - Hành chính + Phòng Tổng hợp - Nghiệp vụ + Phòng Pháp chế - Thanh tra 2) Tổ chức bộ máy Trung tâm Thông tin, Xúc tiến Thương mại - Du lịch Trung tâm Thông tin, xúc tiến Thương mại - Du lịch (dưới đây gọi tắt là Trung tâm) là đơn vị sự nghiệp, trực thuộc Sở Thương mại và Du lịch Hải Dương; thực hiện chức năng tiếp nhận, cung cấp thông tin phục vụ cho hoạt động thương mại, du lịch và tổ chức các hoạt động xúc tiến thương mại, du lịch ở địa phương; chịu sự quản lý trực tiếp, toàn diện của Sở Thương mại và Du lịch Hải Dương. Tên giao dịch tiếng Anh: Trade - Tourism Promotion and Information Center. Tên viết tắt: TTPIC Trụ sở: 39 Đại lộ Hồ Chí Minh, Thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương. Trung tâm được thành lập nhằm mục đích trợ giúp các doanh nghiệp, các cá nhân hoạt động trong lĩnh vực Thương mại - Du lịch trên địa bàn tỉnh Hải Dương phát huy được lợi thế so sánh, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế, đẩy mạnh hoạt động Thương mại - Du lịch góp phần phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Hải Dương. * Trung tâm thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: 1. Tổ chức tiếp nhận, xử lý, tổng hợp thông tin về hoạt động thương mại, du lịch trong và ngoài nước để cung cấp cho các tổ chức và cá nhân hoạt động trong lĩnh vực thương mại, du lịch trên địa bàn tỉnh 2. Tổ chức thông tin, quảng cáo để quảng bá các doanh nghiệp và sản phẩm của tỉnh để tìm các đối tác đầu tư và kinh doanh 3. Xây dựng hệ thống thông tin về thương mại, du lịch; thực hiện việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động thương mại, du lịch 4. Tổ chức hoạt động xúc tiến thương mại như: Hội chợ, Triển lãm, Hội thảo, ... về thương mại, du lịch của tỉnh 5. Tổ chức khảo sát, nghiên cứu tìm kiếm thị trường, cung cấp thông tin về thị trường cho các hoạt động thương mại, du lịch của tỉnh 6. Tổ chức tập huấn, đào tạo ngắn hạn về công tác quản lý, nghiệp vụ cho các tổ chức và cá nhân hoạt động trong lĩnh vực thương mại, du lịch của tỉnh * Tổ chức bộ máy của Trung tâm: - Lãnh đạo: 01 Giám đốc và 02 Phó giám đốc. - Các bộ phận thuộc Trung tâm: + Bộ phận Hành chính + Bộ phận Xúc tiến thương mại + Bộ phận Xúc tiến Du lịch - Đào tạo + Bộ phận Thông tin 1.2.2.Một số chương trình du lịch tiêu biểu trên địa bàn tỉnh Hải Dương Hải Dương là một vùng đất văn hiến lâu đời, du khách đến đây có thể tìm thấy nhiều cuộc hành trình lý thú. Chương trình 01: Hải Dương - Kiếp Bạc - Côn Sơn - Thanh Mai. Từ Thủ đô Hà Nội qua thành phố Hải Dương hơn 70 km là đến Côn Sơn - Kiếp Bạc. Sáu trăm bậc đá lên bàn cờ Tiên thuộc dãy núi Kỳ Lân Côn Sơn, du khách ngắm nhìn cảnh nước biếc, non xanh gần xa ẩn hiện, vũ trụ bao la thu vào tầm mắt, từ sông Lục Đầu mênh mang đến ngàn thông cổ kính. Thăm đền Kiếp Bạc, chùa Côn Sơn, ức trai linh tự, đi tiếp về phương Bắc đến Thanh Mai vẫn cảnh núi rừng, hồ nước, đồi cây ăn quả điệp trùng. Thanh Mai - Côn Sơn đưa bạn về đất tổ của Thiền Phái Trúc Lâm. Chương trình 02: Hải Dương - Tượng đài Trần Hưng Đạo - Động Kính Chủ. Từ Hải Dương sau 01 giờ xe chạy du khách sẽ đến được tượng đài Đức Thánh Trần Hưng Đạo trên núi An Phụ sừng sững một góc trời. Cách núi An Phụ không xa là núi Kính Chủ, nơi có động Kính Chủ được mệnh danh là “Nam Thiên Đệ Lục Động”. Một ngày thăm tượng đài và hang động sẽ đem lại cho du khách những ấn tượng tuyêt vời. Chương trình 03: Về với danh nhân: Khúc Thừa Dụ - Lê Đại Hành - Nguyễn Trãi - Trần Hưng Đạo - Tuệ Tĩnh. Tour du lịch về với danh nhân sẽ đưa du khách đến với các nhân vật lịch sử mà tên tuổi họ không những đã lừng danh trong sử sách nước nhà mà còn vang xa khắp năm châu bốn biển. Từ Hải Dương đi ôtô khoảng 30 phút là đến vùng lúa Ninh Giang, nơi có đặc sản bánh gai Liên Hương nổi tiếng, du khách đến với Khúc Thừa Dụ - người anh hùng mở nền độc lập cho nước nhà từ thế kỷ thứ X. Tiếp đến là đại bản doanh vua Lê Đại Hành tại xã Đồng Lạc, huyện Chí Linh, tiếp theo xe đưa du khách đến Côn Sơn với Nguyễn Trãi tác giả “Đại cáo bình Ngô” - một trong những áng “thiên cổ hùng văn”, rồi đến Kiếp Bạc bên sông Lục Đầu với Trần Hưng Đạo để cảm nhận cảnh hùng vĩ của sông nước Lục Đầu. Cuối cùng du khách đến với Đại danh y Tuệ Tĩnh, vị thánh y chỉ bằng cây cỏ thảo dược mà chữa được “bách bệnh” cho muôn dân và cả vua chúa. Chương trình 04: Thăm lò Tiến sĩ xứ Đông - Tinh phi cổ tháp - Tiều ẩn cổ tích - Trạng nguyên Cổ đường - Văn miếu Mao Điền. Du khách sẽ có một chuyến tham quan vô cùng thú vị chỉ có ở xứ Đông: từ Hải Dương sau gần 1 giờ đi ôtô du khách sẽ thăm làng Mộ Trạch - “Lò Tiến sĩ xứ Đông” là làng quê đứng đầu cả nước có 36 vị Tiến sĩ Nho học. Tiếp đó du khách sẽ đi thăm “Tinh phi cổ Tháp”, dấu ấn xưa còn lại của vị nữ Tiến sĩ đầu tiên của nước Việt Nam và có lẽ của cả thế giới nữa, thăm “Tiều ẩn cổ tích” - nơi dạy học của nhà giáo vĩ đại Chu Văn An tại làng Trại Sen - Chí Linh, thăm “Trạng nguyên cổ đường” - nơi dạy học của vị lưỡng quốc trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi, và kết thúc tour bằng hành trình thăm Văn miếu Mao Điền - nơi tôn vinh sự hiếu học của xứ Đông. Chương trình 05: Du lịch sinh thái về với thiên nhiên: Vùng vải Sông Hương - cây vải tổ và vùng vải Thanh Thuỷ - Đảo cò Chi Lăng Nam. Từ Hải Dương về Thanh Hà thăm vùng vải thiều Thanh Hà đường đi thật tuyệt đẹp, du khách có thể đi bằng ca nô theo sông Thái Bình vào sông Hương, có thể đi bằng ôtô vào tận xã Thanh Sơn thăm cây Vải tổ đã vài trăm năm tuổi, đem lại cho đời thứ quả ngon có một không hai của vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng - vải thiều Thanh Hà. Từ Thanh Hà du khách có thể đi đến vùng Đảo Cò Chi Lăng Nam, huyện Thanh Miện. Chương trình 06: Làng cổ vùng châu thổ sông Hồng với những làng nghề truyền thống - Làng văn hoá Châu Khê với nghề Vàng Bạc, làng Đông Giao với nghề chạm khắc Gỗ, làng gốm cổ Chu Đậu lừng danh bao thế kỷ. Hành trình 01 ngày sẽ đưa du khách tham quan làng nghề nổi tiếng của Hải Dương với những sản phẩm từ nhiều thế kỷ đã trở nên gần gũi, gắn bó với cuộc sống con người: Làng Gốm Chu Đậu (xã Thái Tân, huyện Nam Sách), làng văn hoá Châu Khê - Bình Giang với nghề Chạm khắc, chế tác vàng bạc thủ công và làng Đông Giao với nghề chạm khắc gỗ nổi tiếng. Chương 2 Thực trạng khai thác và tiềm năng phát triển du lịch của Hải Dương Lịch sử hình thành Hải Dương Dựa vào những kết quả nghiên cứu khảo cổ học cho thấy: Hải Dương là vùng đất đã có từ lâu đời, trải qua những biến động của lịch sử về hành chính, Hải Dương có những thay đổi về tên gọi, về địa giới. Đời Hùng Vương xưa, Hải Dương là bộ Dương Tuyền, thời nhà Hán thuộc quận Giao Chỉ, thời nhà Đông Ngô thuộc Giao Châu, nhà Đường đặt Hải Môn trấn, lại gọi là Hồng Châu. - Nhà Đinh chia làm đạo, nhà tiền Lê và nhà Lý cũng theo như nhà Đinh. - Nhà Trần đối làm 4 lộ: Hồng Châu thượng, Hồng Châu hạ và Nam Sách thượng, Nam Sách hạ. - Năm Quang Thái thứ 10 (1397) vua Trần Thuận Tông đổi làm trấn Hải Đông. - Thời kỳ thuộc Minh (1407 - 1427), thuộc hai phủ Lạng Giang và Tân An, nhà Lê. - Năm Thuận Thiên (1428 - 1433) vua Lê Thái Tổ cho thuộc Đông Đạo. - Khoảng niên hiệu Diên Ninh (1454 - 1459) vua Lê Nhân Tông chia làm 2 lộ: Nam Sách thượng và Nam Sách hạ. - Năm Quang Thuận thứ 7 (1466) vua Lê Thánh Tông đặt thừa tuyên Nam Sách, năm 1469, đổi làm thừa tuyên Hải Dương, năm Hồng Đức thứ 21 (1479) đổi làm xứ. - Khoảng giữa năm Hồng Thuận (1510 - 1516) vua Lê Tương Dực đổi làm trấn. - Nhà Mạc lấy Nghi Dương làm Dương Kinh, trích phủ Thuận An ở Kinh Bắc và các phủ Khoái Châu, Tân Hưng, Kiến Xương, Thái Bình ở Sơn Nam cho lệ thuộc vào Dương Kinh. - Nhà Lê, khoảng niên hiệu Quang Hưng (1578 - 1599) vua Lê Thế Tông đổi làm trấn theo nguyên như cũ. - Năm Cảnh Hưng thứ 2 (1741) vua Lê Hiến Tông chia làm 4 đạo: Thượng Hồng, Hạ Hồng, Đông Triều và An Lão. - Nhà Tây Sơn đem phủ Kinh Môn đổi thuộc vào Yên Quảng. - Năm 1802, vua Gia Long đem Kinh Môn thuộc về trấn cũ và lệ thuộc vào Bắc thành. - Năm Minh Mạng thứ 3 (1822) đổi Thượng Hồng làm phủ Bình Giang, Hạ Hồng làm phủ Ninh Giang, còn hai đạo Đông Triều và An Lão thì đặt làm hai huyện. - Năm Minh Mạng thứ 12 (1831) chia thành một hạt độc lập và đổi làm tỉnh Hải Dương gồm 5 phủ và 19 huyện. - Năm 1887, thực dân Pháp tách một số huyện ven biển của Hải Dương, đặt thành tỉnh Hải Phòng, đến năm 1906, đổi thành tỉnh Kiến An. - Từ năm 1960 trở đi Hải Dương có 11 huyện và 1 thị xã. Tháng 3 năm 1968 tỉnh Hải Dương hợp nhất với tỉnh Hưng Yên thành tỉnh Hải Hưng gồm 20 huyện và 2 thị xã, thủ phủ đóng tại thị xã Hải Dương. - Tháng 1 năm 1997 tỉnh Hải Dương được tái lập. Tháng 8 năm 1997 thị xã Hải Dương được nâng cấp thành thành phố Hải Dương. Từ năm 1997 đến nay tỉnh Hải Dương có 11 huyện và 1 thành phố. 2.1. Điều kiện tự nhiên của Hải Dương 2.1.1.Vị trí địa lý Tỉnh Hải Dương thuộc vùng đồng bằng Bắc Bộ (Vĩ độ: 20043’ đến 21014’ độ vĩ bắc, Kinh độ: 106003’ đến 106038’ độ kinh đông). Thành phố Hải Dương là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật của tỉnh nằm trên trục đường quốc lộ 5, cách Hải Phòng 45 km về phía Đông, cách Hà Nội 54 km về phía Tây và cách thành phố Hạ Long 80 km. Phía Tây Bắc giáp tỉnh Bắc Ninh, phía Bắc giáp tỉnh Bắc Giang, phía Đông Bắc giáp tỉnh Quảng Ninh, phía Đông giáp thành phố Hải Phòng, phía Nam giáp tỉnh Thái Bình và phía Tây giáp tỉnh Hưng Yên. Theo quy hoạch phát triển Du lịch quốc gia năm 2007, Hải Dương nằm trong không gian trung tâm du lịch Hà Nội và phụ cận thuộc vùng du lịch Bắc Bộ, với tiềm năng du lịch nổi trội như: du lịch sinh thái, du lịch văn hóa, lễ hội, làng nghề độc đáo…Mặt khác, Hải Dương gần vị trí trung tâm du lịch biển Hải Phòng, Hạ Long, có hệ thống đường bộ và hệ thống sông ngòi thuận lợi cho giao lưu phát triển kinh tế nói chung và phát triển du lịch nói riêng. 2.1.2. Địa hình Hải Dương có diện tích tự nhiên 1.662 km2 được chia làm 2 vùng: vùng đồi núi và vùng đồng bằng. Vùng đồi núi nằm ở phía Bắc tỉnh, chiếm 11% diện tích tự nhiên gồm 13 xã thuộc huyện Chí Linh và 18 xã thuộc huyện Kinh Môn, là vùng đồi núi thấp phù hợp với việc trồng cây ăn quả, cây lấy gỗ và cây công công nghiệp ngắn ngày. Vùng đồng bằng còn lại chiếm 89%, gồm các huyện, xã còn lại, có độ cao trung bình 3 - 4 m, diện tích tự nhiên do phù sa sông Thái Bình bồi đắp, đất đai bằng phẳng, màu mỡ thích hợp với nhiều loại cây trồng, sản xuất được nhiều vụ trong năm. Địa hình nghiêng và thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam. Phía Đông của tỉnh có một số vùng trũng, thường bị ảnh hưởng úng ngập vào mùa mưa. 2.1.3.Khí hậu Cũng như các tỉnh khác thuộc vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, Hải Dương nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa: nóng ẩm, mưa nhiều; và chia làm 4 mùa rõ rệt: xuân, hạ, thu, đông. Lượng mưa trung bình hàng năm 1.300 - 1.700 mm. Nhiệt độ trung bình 23,30C; số giờ nắng trong năm 1.524 giờ, độ ẩm tương đối trung bình 85 - 87%. Nhìn chung khí hậu của Hải Dương thuận lợi cho môi trường sống của con người, sự phát triển của hệ sinh thái động, thực vật và thích hợp với các hoạt động du lịch. 2.1.4.Hệ thống sông hồ Hải Dương nằm trên vùng đất trung tâm đồng bằng Bắc Bộ, xung quanh được bao bọc bởi các con sông chính: sông Thái Bình, sông Kinh Thầy ở phía Đông; sông Lục Nam, sông Đuống ở phía Bắc; sông Hồng ở phía Tây và sông Luộc ở phía Đông. Trong địa phận của tỉnh còn có sông Rạng, sông Kinh Môn, sông Sặt, sông Hương, sông Đá Vách, sông Cẩm Giàng, sông Cửu Yên, sông Tứ Kỳ, sông Mía…chảy qua, mà sông nào cũng uốn lượn hữu tình. Toàn tỉnh có 16 tuyến sông, trong đó có 10 tuyến sông do Trung ương quản lý, dài gần 300 km; 6 tuyến sông do địa phương quản lý, dài 140 km. Dọc theo các triền sông là mạng lưới các danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử văn hóa và rất nhiều yếu tố tạo nên các sản phẩm du lịch: khai thác hệ thống du lịch đường sông nhằm phát huy mọi tiềm năng sẵn có cho xây dựng quê hương, đất nước đang là mối quan tâm của các nhà làm du lịch và của du khách. Đặc biệt bên Chí Linh với núi đồi trùng điệp, rừng cây xanh tốt, cảnh quan đẹp, có nhiều hồ nước tự nhiên, có nhiều di tích, di chỉ văn hóa như: khu danh thắng núi Phượng Hoàng Kỳ Lân, khu du lịch danh thắng Côn Sơn - Kiếp Bạc là địa danh thích hợp cho du lịch dã ngoại, vãn cảnh, leo núi…Ngoài ra trên lãnh thổ Hải Dương còn có rất nhiều ao hồ được phân bố rộng khắp trên địa bàn. 2.1.5.Rừng và hệ sinh thái Hệ sinh thái: Trong nhiều năm qua do phát triển kinh tế chưa theo quy hoạch thống nhất, việc khai thác đất, chặt phá rừng bừa bãi ở thượng nguồn có tác động xấu đến điều kiện sinh thái của Hải Dương. Ngoài ra việc sử dụng thuốc trừ sâu, phân hóa học trong quá trình canh tác không hợp lý, đồng thời mức độ phát triển công nghiệp và quá trình đô thị hóa tăng nhanh, chất thải ngày một nhiều ảnh hưởng rất lớn đến môi trường, môi sinh. Nhìn chung hệ sinh thái của tỉnh Hải Dương ngày một bị xâm phạm, tính cân bằng đang bị phá vỡ. Vì vậy, vấn đề trước mắt cần giải quyết ngay là phải có chính sách hữu hiệu bảo vệ chăm sóc diện tích rừng hiện có và nhanh chóng phủ xanh đất trống đồi núi trọc còn lại. Thực hiện tốt việc quản lý, bảo vệ môi trường để duy trì và làm giàu nguồn tài nguyên đất. 2.2.Tài nguyên du lịch của Hải Dương Tài nguyên du lịch Hải Dương khá phong phú và đa dạng, có sức thu hút lớn đối với khách trong nước và khách quốc tế. Trong đó đặc biệt là các tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn 2.2.1.Tài nguyên du lịch tự nhiên Phần lớn đất đai của Hải Dương thuộc đồng bằng Bắc Bộ, ở phía Đông Bắc có hai huyện miền núi; tuy không rộng lớn nhưng có cảnh quan đa dạng. Vùng Chí Linh núi đồi trùng điệp, cao không quá 700 m, rừng cây xanh tốt, rất thuận lợi cho việc xây dựng những công trình văn hóa. Vùng Kinh Môn có nhiều núi đá vôi với những hang động kỳ thú, nơi còn di tích của con người từ thời đại đồ đá mới. Cách đây hàng nghìn năm, dân tộc ta đã quan tâm đến hai vùng cảnh quan đặc biệt này. Côn Sơn, Thanh Mai từ thế kỷ XIV đã trở thành trung tâm của thiền phái Trúc Lâm; đến thế kỷ XV được ghi trên bản đồ như một danh lam cổ tích. Động Kính Chủ, động Tâm Long từ thời Trần được tôn tạo thành chùa; đến thế kỷ XVII, Kính Chủ trở thành động nổi tiếng của đất nước, nơi để lại bút tích của nhiều danh nhân thời đại. Hải Dương là tỉnh đồng bằng, địa hình khá bằng phẳng, cảnh quan thiên nhiên hấp dẫn với những cánh đồng lúa tốt tươi, những dòng sông lớn, môi trường tự nhiên khá trong sạch. Nhiều làng quê trù phú mang đậm nét đặc trưng của làng quê vùng đồng bằng Bắc Bộ. Du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, du khảo đồng quê, tham quan nghiên cứu khoa học. Các tài nguyên du lịch tự nhiên thường được gắn liền với các tài nguyên du lịch nhân văn. Sự phân biệt chỉ là tương đối. Sau đây là một số tài nguyên du lịch tự nhiên tiêu biểu: * Khu danh lam Phượng Hoàng - Kỳ Lân Khu danh thắng thuộc xã Văn An, huyện Chí Linh. Phượng Hoàng là khu danh thắng có rừng thông bát ngát, suối trong róc rách, núi đá lô xô, chùa tháp cổ kính. Khu danh thắng có tới 72 ngọn núi ngoạn mục, có mộ và đền thờ Chu Văn An - một người thầy tiêu biểu cho tài đức cao trọng của nền giáo dục Việt Nam, có chùa Huyền Thiên, cung Tử Cục, điện Lưu Quang, am Lệ Kỳ, Miết Trí và Giếng Soi…Khu thắng cảnh này rất thích hợp cho du lịch dã ngoại, vãn cảnh, leo núi, thăm di tích lịch sử. * Khu di tích danh thắng Côn Sơn Khu di tích ở xã Cộng Hòa, huyện Chí Linh, nằm giữa hai dãy núi Phượng Hoàng - Kỳ Lân, cách Hà Nội khoảng 70 km. Khu di tích danh thắng này gồm có núi non, chùa, tháp, rừng thông, khe suối và các di tích nổi tiếng gắn liền với cuộc đời của nhiền danh nhân trong lịch sử. Ngay từ thời Trần, chùa Côn Sơn là một trong ba trung tâm của thiền phái Trúc Lâm (Côn Sơn - Yên Tử - Quỳnh Lâm). Mảnh đất này đã gắn bó với tên tuổi và sự nghiệp của nhiều danh nhân đất Việt như: Trần Nguyên Đán, Huyền Quang và đặc biệt là anh hùng dân tộc - danh nhân văn hoá thế giới Nguyễn Trãi. Côn Sơn đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm và đọc bia về Nguyễn Trãi. Ngày nay Côn Sơn còn lưu giữ được những dấu tích văn hóa thời Trần và các giai đoạn lịch sử kế tiếp. Tiêu biểu là: - Chùa Côn Sơn Chùa có tên chữ là Tư Phúc tự, hay còn gọi là chùa Hun, tọa lạc ở ngay dưới chân núi Côn Sơn, có từ trước thời Trần. Vào đời Lê, chùa được trùng tu và mở rộng rất nguy nga đồ sộ. Trải qua biến thiên về lịch sử và thời gian, chùa Côn Sơn ngày nay chỉ còn là một ngôi chùa nhỏ ẩn mình dưới tán lá xanh của các cây cổ thụ. Chùa được kiến trúc theo kiểu chữ công (I) gồm: Tiền đường, Thiêu hương và Thượng điện. Thượng điện thờ Phật, có những tượng Phật từ thời Lê cao 3 m. Phía sau chùa là nhà Tổ, có tượng Trúc Lâm tam tổ (Trần Nhân Tông - Pháp Loa - Huyền Quang), tượng ông bà Trần Nguyên Đán, hai pho tượng Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ. Sân chùa có cây đại 600 tuổi, 4 nhà bia, đặc biệt là bia “Thanh Hư động” tạo từ thời Long Khánh (1373 - 1377) với nét chữ của vua Trần Dụê Tông và bia hình lục lăng, “Côn Sơn thiện tư bi phúc tự” đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc khi người về thăm di tích này (15/2/1965). - Giếng Ngọc Giếng nằm ở sườn núi Kỳ Lân, bên phải là lối lên Bàn Cờ Tiên, phía dưới chân Đăng Minh Bảo Tháp. Tương truyền đây là giếng nước do Thiền sư Huyền Quang được thần linh báo mộng ban cho chùa nguồn nước quý. Nước giếng trong vắt, xanh mát quanh năm, uống vào thấy khoan khoái dễ chịu. Từ đó có tên là Giếng Ngọc và nước ở giếng được các sư dùng làm nước cúng lễ của chùa. - Bàn Cờ Tiên Từ chùa Côn Sơn leo khoảng 600 bậc đá là đến đỉnh núi Côn Sơn (cao 200 m). Đỉnh Côn Sơn là một khu đất bằng phẳng, tại đây có một phiến đá khá rộng, tục gọi là Bàn Cờ Tiên. Hiện nay Bàn Cờ Tiên có dựng nhà bai theo kiểu Vọng Lâu đình, hai tầng cổ các tám mái. Đứng từ đây, du khách có thể nhìn bao quát cả một vùng rộng lớn. - Thạch Bàn Bên suối Côn Sơn có một phiến đá gọi là Thạch Bàn, nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh dừng chân nghỉ khi người tới thăm di tích này. Từ chân núi đi theo lối mòn có kê đá xuống phía chân núi có một tảng đá lớn, mặt phẳng, và nhẵn nằm kề ven suối gọi là Thạch Bàn lớn. Tương truyền khi xưa Nguyễn Trãi lấy làm “chiếu thảm” nghỉ ngơi, ngắm cảnh, làm thơ và suy tư việc nước. * Khu vực An Phụ (Kinh Môn) Một dãy núi nổi lên như một nón chóp khổng lồ xanh đậm một rừng cây, mờ ảo vài công trình kiến trúc giữa vùng đồng bằng phía Bắc Hải Dương. Núi còn nhiều những rừng cây thiên nhiên. Đỉnh núi cao 246 m. Từ đỉnh núi người ta có thể nhìn bao quát về đồng bằng của Hải Dương, nhìn thấy sông Kinh Thầy uốn khúc, thấy khu vực núi đá vôi Kinh Môn nên thơ. Trên đỉnh núi là đền thờ An Sinh Vương Trần Liễu, tục gọi là Đền Cao; còn văn bia của An Phụ Sơn Từ, với hai giếng nước mang đầy cổ tích…Mới đây Bộ văn hóa đã cho xây dựng một tượng đài Trần Hưng Đạo hoành tráng, những tấm phù điêu bằng gốm nung, bậc lên bằng đá…Việc điểm xuyết của con người đã khiến cho vực núi An Phụ có một sức hấp dẫn đặc biệt đối với du khách. * Khu hang động Kính Chủ và núi đá vôi Dương Nham (Kinh Môn) Nằm ở phía Bắc của đỉnh Yên Phụ, nằm trong dãy Dương Nham như một hòn Non Bộ khổng lồ giữa mênh mông sóng lúa của thung lũng Kinh Thầy. Phía Bắc Dương Nham dòng sông lượn sát chân núi, sơn thuỷ hữu tình. Phía Tây Nam Dương Nham là làng quê cổ kính Kính Chủ - quê hương của những người thợ đá xứ Đông. Sườn phía Nam Dương Nham có một động lớn gọi là động Kính Chủ (hay còn gọi là động Dương Nham) đã được xếp vào hàng Nam Thiên. Khu núi đá vôi Dương Nham và động Kính Chủ còn gắn liền với các trang lịch sử hào hùng chống quân Nguyên, vùng núi đá vôi Dương Nham còn gắn liền với lịch sử hình thành người Việt cổ. Cảnh đẹp tại khu vực này rất hấp dẫn đối với khách du lịch. * Khu Lục Đầu Giang - Tam Phủ Nguyệt Bàn Đây là một khu vực sông trải dài sát với các hệ thống di tích của Kinh Bắc (đã được giới thiệu khá nhiều trong bài thơ “Bên kia sông Đuống”. Trên khúc sông này có khu vực bãi bồi gắn liền với các truyền thuyết đánh quân Nguyên, nơi có hội nghị Bình Than,… * Khu miệt vườn vải thiều Thanh Hà Đây là một miệt vườn nổi tiếng với cây vải tổ. Giống vải ở đây ngon và rất có giá trị với du khách du lịch. Sản phẩm từ vải cũng được người dân chế biến một cách sinh động: rượu vải, vải khô,…làm vị thuốc. Vùng vải thiều này hiện thời được trải rất rộng bám quanh dòng sông Hương (Thanh Hà) khá thi vị. * Khu Ngũ Nhạc Linh Từ - (Lê Lợi Chí Linh) Khu vực đền Ngũ Nhạc là nơi thờ Sơn thần theo tín ngưỡng người Việt cổ. Trước đây đã từng có năm miếu nhỏ trên 5 đỉnh quả núi, được tôn tạo từ thời Nguyễn. Công trình mang tính cổ xưa. * Khu rừng Thanh Mai (Bến Tắm) Một khu vực rừng Thanh Mai gắn liền với những đền chùa, một trong những quê hương của Trúc Lâm Tam Tử. * Đảo Cò (Chi Lăng Nam) (Thanh Miện) Chi Lăng Nam là một xã của huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương. Nơi đây có cảnh quan thiên nhiên của một vùng ngập nước ven sông Hồng, đã từng là căn cứ du kích của nghĩa quân từ thời Triệu Quang Phục đến thời Tán Thuật, có đầm hồ mênh mông, đất ngập nước sình lầy với lau sậy hoang vu, với le le, mòng két, vịt trời, sâm cầm, cò, vạc… Nhiều nhất là các loài cò tập trung trên đảo cò Chi Lăng Nam nằm giữa hồ An Dương. Trong hồ còn có rất nhiều loài động vật: tôm, cá, ếch, nhái… và các loại cây thuỷ sinh khác. Đặc biệt còn có một số loài có tên trong Sách đỏ Việt Nam như: con tổ đỉa, rái cá, cá nganh, cá vền, cá măng kìm. Cá măng kìm có con nặng tới trên 30 kg…Đảo cò Chi Lăng Nam là nơi mà loài vạc và loài cò lửa làm tổ, đẻ trứng, nuôi con. Hàng năm vào tháng 9, khi gió heo may thổi về thì hàng ngàn con cò, vạc và các loài chim nước từ nhiều xứ khác dồn dập bay về sinh sống kiếm ăn, đông đúc nhộn nhịp cho đến tận tháng 4 năm sau. Sáng sớm và chiều tối là lúc chúng tạo nên một bức tranh thiên nhiên cực đẹp với hàng trăm đàn cò, đàn vạc bay đi, bay về phủ kín cả khoảng không mặt hồ, tiếng kêu inh ỏi làm huyên náo cả một vùng quê yên tĩnh. Nhờ sự quan tâm của Trung ương và của tỉnh, với sự tài trợ của Chương trình tài trợ các dự án nhỏ Quỹ môi trường toàn cầu tại Việt Nam (GEF/SGP), đảo cò Chi Lăng Nam đã được mở rộng và trồng thêm nhiều cây cối. Vì thế cò, vạc và các loài chim nước khác về ngày càng nhiều hơn, đông về số lượng cá thể, đa dạng về thành phần loài. Nếu được bảo vệ tốt Chi Lăng Nam có thể là cảnh quan nguyên sơ duy nhất còn giữ lại của vùng đất ngập nước ven sông Hồng xa xưa, trở thành điểm du lịch sinh thái đặc sắc của Hải Dương. Vừa qua, ngành du lịch Hải Dương đã đưa Tour thăm đảo cò Chi Lăng Nam thành một sản phẩm du lịch mới của tỉnh. * Thiên nhiên của nền văn hóa lúa nước Dường như mật độ các dòng sông, đình, đền, chùa bố cục dày đặc trên toàn tỉnh. Những đình, đền chùa này đều gắn liền với cây đa, bờ nước hoặc những bến sông luôn luôn tạo nên những cảnh đẹp dễ gây ấn tượng đối với du khách. Phải chăng trong mỗi người dân Việt Nam hình ảnh về cây đa, bến nước, sân đình…đã gần như trở thành một biểu tượng của văn hóa Việt. Trong phạm vi quy hoạch này chỉ nêu một cách khái quát mà không thể nêu hết trong các chi tiết được. * Mỏ nước khoáng ở Thạch Khôi Đây là một mỏ nước nóng đã từng là nguồn để tạo nên nước khoáng. Nhiệt độ nóng và đã sử dụng để chữa bệnh. Cần có nghiên cứu sâu hơn về khu vực này để khai thác vì mỏ nước khoáng này rất gần với thành phố Hải Dương. 2.2.2.Tài nguyên du lịch nhân văn Bao gồm văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể a) Tài nguyên du lịch văn hóa vật thể - Các di tích lịch sử văn hóa, cách mạng Qua nghiên cứu cho thấy các di tích lịch sử văn hóa, lễ hội truyền thống, văn hóa dân gian chính là động lực, thế mạnh của Hải Dương để phát triển du lịch. Vùng đất này đã để lại rất nhiều những dấu tích lịch sử, văn hóa từ thời dựng nước đến lịch sử cận hiện đại hết sức sống động. Hải Dương là một vùng đất sớm phát triển và giàu truyền thống lịch sử, văn hóa. Trên địa bàn tỉnh có 1.098 di tích lịch sử - văn hóa được kiểm kê đăng ký bảo vệ với 127 di tích được xếp hạng quốc gia. Các di tích này được trải rộng trên toàn tỉnh. Nhiều di tích có giá trị có thể khai thác phục vụ du lịch tiêu biểu như: quần thể di tích văn hóa lịch sử Trần Hưng Đạo và di tích Kiếp Bạc, khu di tích thắng cảnh Côn Sơn. Các di tích lịch sử văn hóa và danh thắng tiêu biểu tại Hải Dương đều có những nét kiến trúc độc đáo, có sự giao thoa của các kiến trúc cổ và hiện đại, kiến trúc phương Đông và phương Tây. Đặc biệt tại Hải Dương các di tích văn hóa lịch sử đều gắn liền với các lễ hội. Hải Dương là vùng đất trù phú, cảnh quan đa dạng, nơi có nhiều di tích lịch sử, văn hóa và danh thắng. Mặc dù Hải Dương hiện nay so với thừa tuyên Hải Dương thời Lê Sơ hay tỉnh Hải Dương khi mới thành lập, năm Minh Mạng thứ 12 (1831) diện tích chỉ còn 1.662 km2 bằng 50% diện tích cũ với 11/18 huyện ban đầu, đồng thời bị hai cuộc chiến tranh gần đây tàn phá nặng nề cùng với những biến động của thiên nhiên và xã hội, số di tích hiện còn cũng không nhỏ so với tổng số di tích của quốc gia đã được đăng ký, trong đó có những di tích được xếp hạng vào hàng đặc biệt quan trọng. Hiện nay ở Hải Dương đã có 1.098 di tích được kiểm kê, đăng ký, bảo vệ theo quy định của pháp lệnh; 127 di tích và cụm di tích được xếp hạng quốc gia, bằng 4% số di tích được xếp hạng của cả nước. Trong số những di tích đã xếp hạng có 47 đình, 28 chùa, 19 đền, 4 miếu và nghè, 1 nhà thờ họ, 1 cầu đá, 4 di tích về lịch sử cách mạng, 5 danh thắng, 7 lăng mộ, 1 văn miếu, trong đó có 2 di tích xếp vào hàng đặc biệt quan trọng là Côn Sơn - Kiếp Bạc. Cụ thể là: - Huyện Chí Linh có 8 di tích được xếp hạng quốc gia - Huyện Nam Sách có 9 di tích được xếp hạng quốc gia - Huyện Thanh Hà có 9 di tích được xếp hạng quốc gia - Huyện Kinh Môn có 11 di tích được xếp hạng quốc gia - Huyện Kim Thành có 3 di tích được xếp hạng quốc gia - Huyện Thanh Miện có 7 di tích được xếp hạng quốc gia - Thành phố Hải Dương có 6 di tích được xếp hạng quốc gia - Huyện Gia Lộc có 14 di tích được xếp hạng quốc gia - Huyện Tứ Kỳ có 4 di tích được xếp hạng quốc gia - Huyện Ninh Giang có 5 di tích được xếp hạng quốc gia - Huyện Bình Giang có 9 di tích được xếp hạng quốc gia - Huyện Cẩm Giàng có 12 di tích được xếp hạng quốc gia. Trong đó cần nhấn mạnh một số di tích quan trọng: * Trần Hưng Đạo và di tích Kiếp Bạc Kiếp Bạc từ lâu đã trở thành điển tích của lịch sử và mỗi khi nhắc đến như một tiếng chuông cảnh tỉnh làm xúc động lòng người nhớ về một thời oanh liệt, một anh hùng dân tộc, về những ngày hội truyền thống và như nhắc nhở đến nghĩa vụ của mỗi công dân đối với giang sơn đất nước. Kiếp Bạc thuộc hương Vạn Kiếp, lộ Lạng Giang thời Trần; thời Nguyễn thuộc địa phận hai xã Vạn Yên (làng Kiếp) thuộc tổng Trạm Điền và xã Dược Sơn (làng Bạc) tổng Chi Ngại, nay thuộc xã Hưng Đạo, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Kiếp Bạc có dãy núi Rồng hình tay ngai bao lấy một thung lũng trù phú và thơ mộng, bảo lưu nhiều di tích quý báu và truyền thuyết ly kỳ về Trần Hưng Đạo. Đông Nam Kiếp Bạc tiếp giáp vùng núi Phả Lại. Phượng Hoàng, Côn Sơn là những nơi có di tích lịch sử và văn hóa danh thắng nổi tiếng từ thời Lý - Trần. Nay tại Phả Lại, mọc lên nhà máy nhiệt điện khổng lồ làm cho cảnh quan thêm hoành tráng. Xa hơn một chút là đền thờ Phiêu Kỵ đại tướng quân Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư, tục gọi là đền Gốm, bên bờ vụng Trần Xá - nơi họp hội nghị vương hầu, bách quan (Hội nghị Bình Than bàn kế sách giữ nước (tháng 11 năm 1282)). Phía Tây giáp sông Thương - một nhánh của sông Lục Đầu mà thời Trần còn có tên là sông Bình Than. Giữa sông có một dải đất hẹp và dài gọi là Cồn Kiếm. Dân gian cho rằng, đó là thanh kiếm của Trần Hưng Đạo sau khi dẹp xong loạn giặc ngoại xâm để nhắc nhở đời sau luôn cảnh giác trước họa xâm lăng. Phía Bắc là thung lũng Vạn Yên rộng lớn. Giữa thung lũng có sông Vang tuy nhỏ mà sâu, tạo điều kiện cho thuyền bè vào sát chân núi Bắc Đẩu, nhánh phía Nam gọi là núi Nam Tào. Trên mỗi đỉnh núi từng có một ngôi chùa cổ kính. Rừng Kiếp Bạc xa bạt ngàn gỗ quý như: lim, sến, táu cùng thông, trúc tốt quanh năm. Sông Lục Đầu lắm tôm, nhiều cá cho người dân thả lưới quăng chài. Từ Kiếp Bạc có 6 đường sông và đường bộ, tiến lui đều thuận lợi như về Thăng Long, ra biển, lên bắc, xuống miền đồng bằng. Các thung lũng nối liền với sông Lục Đầu có thể tập kết hàng chục vạn quân thuỷ bộ, hàng nghìn thuỷ chiến. Từ đỉnh núi Nam Tào, Bắc Đẩu có thể quan sát một vùng rộng lớn, núi sông, làng mạc bao la, tàu thuyền ngược xuôi tấp nập. Vì thế Kiếp Bạc không chỉ là một cảnh quan hùng vĩ mà còn là một vị trí quân sự quan trọng, một vùng đất giàu có của đất nước. Chẳng phải ngẫu nhiên mà Trần Hưng Đạo đã lập phủ đệ và quân doanh ở đây từ sau cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ nhất. Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn (1228 - ?) sinh ra trong một gia đình quý tộc, nguyên quán ở hương Tức Mặc (Nam Định). Cha là An Sinh Vương Trần Liễu, anh ruột Trần Thái Tôn - vua đầu tiên triều Trần. Từ nhỏ ông đã được rèn luyện và giáo dục toàn diện, sớm có chí lớn và văn võ song toàn. Do có cống hiến lớn cho dân tộc, ngay lúc sinh thời ông đã được lập đền thờ, gọi là Sinh Từ. Sau khi mất ông được triều đình phong tặng: Thái sư Thượng phụ Quốc công, Nhân Võ Hưng Đạo Đại Vương. Vua Trần Thánh Tông tự soạn văn bia ca ngợi công đức của ông, dựng tại Sinh Từ. Đền thờ ông sau được tôn tạo tại một khu đất ở trung tâm thung lũng Kiếp Bạc. Trải qua các triều đại, đền vẫn tôn nghiêm. Tháng 2 năm 1427 cuộc kháng chiến chống giặc Minh xâm lược đang ở giai đoạn quyết liệt, Lê Lợi đã cho Dương Thái Nhất sửa chữa đền và cấm chặt cây ở miếu. * Nguyễn Trãi với Côn Sơn Nguyễn Trãi là một danh nhân văn hóa thế giới, một con người hết lòng vì dân vì nước sống trong sáng thường được ví như Sao Khuê. Trong con người ông thể hiện sự yêu ghét rõ ràng, suốt đời tận tâm vì non sông đất nước, nhưng lại chịu oan nghiệt vì những kẻ gian thần. Vụ nghi án Lệ Chi Viên nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam như muốn nhắc nhở cho muôn đời. Ông còn là một nhà thơ; văn thơ của ông hàm ý sâu xa, ngàn đời sau khi đọc lại vẫn còn có những điều phải bàn đến. Bộ Văn hóa mới đây đã cho xây dựng lại đền thờ Nguyễn Trãi tại Côn Sơn. Đây là một công trình văn hóa đẹp trong một thiên nhiên đẹp. Nó chứng tỏ sự trường tồn của những giá trị văn hóa trong con người Nguyễn Trãi. * Thiền phái Trúc Lâm và vùng chùa chiền tại Chí Linh Chí Linh có 3 ngôi chùa rất nổi tiếng là chùa Côn Sơn, Minh Khánh và Thanh Mai. Thiền phái Trúc Lâm là một đạo phái mang dáng dấp Việt Nam. Nó thừa kế những nét tinh hoa đạo Phật của Ấn Độ và Trung Quốc. Thiền phái Trúc Lâm cũng thể hiện một tư tưởng độc lập, nhạy bén với thời cuộc, có cách nhìn của người Việt Nam. * Những giá trị độc đáo của những đền chùa Hải Dương Ở Hải Dương có rất nhiều đền đài, đình chùa đã được kiểm kê, đánh giá (1.098 di tích). Nhưng phải kể đến những giá trị độc đáo của những di tích sau: - Chùa Đông Ngọ cổ nhất - Chùa Giám độc đáo nhất - Đình Huê Trì hoành tráng nhất - Văn miếu Mao Điền cổ kính nhất - Các làng nghề cổ truyền thống Hải Dương là một mảnh đất cổ được hình thành từ lâu đời, vì thế mà từ xa xưa đã hình thành ở đây rất nhiều làng nghề truyền thống và vẫn được lưu giữ cho đến tận ngày nay như: làng nghề vàng bạc Châu Khê, chạm khắc gỗ Đông Giao… Mỗi một làng nghề truyền thống đó đã làm nên vẻ đẹp thâm trầm mà rất sâu lắng của Hải Dương. Đây cũng là những điểm tham quan rất thu hút khách du lịch không chỉ trong nước mà cả quốc tế. Sau đây là một số làng nghề tiêu biểu đã có truyền thống từ lâu đời: * Làng nghề vàng bạc Châu Khê Làng nghề vàng bạc Châu Khê thuộc xã Thúc Kháng, huyện Cẩm Bình, tỉnh Hải Dương. Châu Khê có 78,5 ha đất, trong đó chỉ có 63 ha đất canh tác. Dân số tăng chậm, do có một số người chuyên đi làm nghề nơi khác (Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh…) Theo số liệu thống kê trong Hương ước và địa bạ, cũng như số liệu của Uỷ ban nhân dân xã, số dân của Châu Khê là 600 khẩu vào năm 1900, trên 800 khẩu với 175 hộ vào năm 1983. Như vậy bình quân đất canh tác chỉ khoảng 2 sào Bắc bộ trên một đầu người. Người Châu Khê đã sớm nhận ra ý nghĩa của “nghề phụ” ngoài nghề nông, cho nên đời sống của họ rất khá giả. Có thể khẳng định rằng, chính nghề vàng bạc đã đưa làng quê này trở nên giàu có giữa vùng châu thổ sông Hồng, nơi tưởng như trù phú, nhưng thực tế luôn bị thiên tai, bão lụt, vỡ đê, mất mùa, đói kém đe dọa người nông dân Châu Khê có nghề vàng bạc nổi tiếng, lại có nghề vàng mã cũng được bán rộng rãi ở nhiều nơi trước đây. Dần dần từ nghề đúc bạc thợ Châu Khê đã tiến tới nghề làm đồ trang sức vàng bạc (xưa gọi là kim hoàn) Đến đầu thế kỷ XIX, dưới triều Nguyễn, nghề đúc bạc nén chuyển vào kinh đô Huế (Thuận Hóa). Nhưng phần lớn thợ Châu Khê vẫn ở lại Thăng Long (Hà Nội) làm nghề kim hoàn. Họ tập trung thành phường và xây dựng nên phố Hàng Bạc. Lúc này ở phố Hàng Bạc còn có cả thợ vàng Định Công và thợ bạc Đồng Xâm (Thái Bình) tới làm nghề, nhưng đông nhất vẫn là thợ vàng bạc Châu Khê. Người ta sản xuất, buôn bán bạc, kể cả đổi bạc nén lấy bạc vụn làm nguyên liệu. Cho nên những năm đầu thế kỷ XX, phố này còn có tên tiếng Pháp: Rue des Changeus (phố đổi bạc) Ngày nay khi qua phố Hàng Bạc ở thủ đô Hà Nội bạn cần biết mấy địa điểm: số nhà 58 - xưa là Tràng Đúc bạc nén, số nhà 50 (trước là Đình Thượng) và số nhà 42 (là Đình Hạ) - xưa là Ty Quan (cơ quan đại diện của triều đình) thu nhận bạc nén thành phẩm. Người Châu Khê làm việc ở đây khá đông, tới mức đóng thuế đinh 300 suất (vào cuối thế kỷ XIX). Ngoài hai ngôi đình họ còn mua thêm đền Nội Miếu của phường thợ giầy Tam Lâm (phường Hài Tượng). Đó là những nơi hội họp và thờ Thành Hoàng của họ (gọi tên chữ là: “Châu Khê vọng sở”) * Hồng Lục - Liễu Tràng, trung tâm khắc ván in mộc bản Từ thế kỷ thứ III, dân tộc ta đã biết làm giấy từ vỏ dó và rong biển tạo điều kiện cho nghề in ra đời. Thế kỷ X, Đinh Liễn cho khắc kinh Phật lên hàng trăm cột đá, di vật được khảo cổ học phát hiện. Khắc được chữ trên đá thì việc khắc được chữ trên gỗ là việc làm đương nhiên. Phường Hồng Lục - Liễu Tràng khắc chữ Bản bộ kinh, bộ sử rành rành (Hải Dương phong vật khúc khảo thích - đầu thế kỷ XIX) Thế kỷ thứ XIV, Pháp Loa cho in hàng ngàn bộ kinh Phật, nhưng phải đến thế kỷ XV mới ra đời một làng chuyên khắc ván in cho triều đình và nhu cầu xã hội, tương tự như nhà in Quốc gia sau này. Đó là làng Hồng Lục và Liễu Tràng của huyện Gia Phúc, nay thuộc xã Tân Hưng, huyện Gia Lộc. Người có công xác lập nghề in ở đây là Thám hoa Lương Như Hộc. Ông được tôn vinh là tổ sư nghề in của làng. Đây là làng nghề khắc ván in tồn tại suốt 6 thế kỷ, làng nghề khắc ván in duy nhất của Việt Nam dưới thời phong kiến. Nghề in ở Hồng Lục - Liễu Tràng đã phục vụ đắc lực cho sự nghiệp chính trị, văn hóa, giáo dục của đất nước, tiêu biểu là bộ “Đại Việt sử ký toàn thư” được khắc in vào cuối thế kỷ XVII. Các nghệ nhân ở đây không chỉ khắc chữ mà còn khắc tranh, trong đó có “Bộ Đại bách khoa toàn thư bằng tranh” do Hăngri ôgiê tổ chức thực hiện vào đầu thế kỷ XX. Cuối thế kỷ XX máy in đã thay thế nghề in mộc bản, thợ khắc ván in chuyển dần sang khắc dấu đồng, dấu gỗ và phụ bản cho nhà in. Thợ khắc dấu của Hồng Lục - Liễu Tràng có mặt ở hầu khắp các thành phố lớn trong nước để hành nghề. * Chạm khắc gỗ Đông Giao Đông Giao thời phong kiến là một xã thuộc tổng Mao Điền, từ năm 1948 đến nay là một làng thuộc xã Lương Điền, huyện Cẩm Giàng. Vây mũi chàng nên rồng nên phượng Thợ Đông Giao mẫu dạng đâu hơn (Hải Dương phong vật khúc khảo thích) Nghề chạm khắc gỗ ở Đông Giao ra đời khoảng thế kỷ XVII, đến thế kỷ XIX, những thợ giỏi được triệu vào Huế để phục vụ trong cung đình. Thợ Đông Giao chuyên làm các đồ thờ và trang trí nội thất như: ngai, ỷ, cửa võng, hương án, tủ, tạng, tràng kỷ, tượng gỗ…Thợ ở đây chỉ làm phần mộc, việc sơn khảm, thiếp thì lại do làng nghề khác đảm nhiệm. Xưa thợ Đông Giao ít khi làm tại nhà vì không có vốn. Thông lệ hàng năm, sau ngày hội làng vào hạ tuần tháng Giêng, từng nhóm thợ rời làng đi tìm việc. Đồ thờ và nội thất đều là mặt hàng kỹ nghệ vì vậy vật liệu phải chọn là gỗ tốt, bền, chắc ít cong vênh. Qua hai cuộc chiến tranh nghề chạm khắc ở Đông Giao có mai một. Đến năm 1983, nghề được phục hồi và phát triển, có tới 97% số hộ tham gia nghề mộc với trên 400 thợ nam, nữ, già, trẻ. Nét mới ở đây là ngày xưa phụ nữ đi theo các hiệp thợ để nấu cơm và làm việc nhẹ thì ngày nay họ tham gia hầu hết các công đoạn của nghề chạm. Xưa mọi việc phụ thuộc vào thợ cả, nay đã hình thành những ông chủ đặt và thu mua hàng xuất khẩu. Hàng năm thợ Đông Giao không chỉ sản xuất hàng tại quê mà có hàng trăm thợ đi làm ở các trung tâm sản xuất hàng gỗ mỹ nghệ tại các doanh nghiệp ở các thành phố lớn cũng như các làng nghề. Sản phẩm của Đông Giao đã có mặt ở hầu khắp các làng xã và thành phố trong nước trở thành dấu ấn văn hóa và là một mặt hàng xuất khẩu sang nhiều nước, được khách hàng ưa chuộng Danh mục làng nghề cổ truyền 1 Chạm khắc đá Kính Chủ Kinh Môn 2 Khắc ván in Hồng Lục-Liễu Tràng Gia Lộc 3 Chạm khắc gỗ Đông Giao Cẩm Giàng 4 Đũi Thông Thanh Miện 5 Chỉ Phú Khê Bình Giang 6 Lược Vạc Bình Giang 7 Từ nón Ma Lôi đến nón Mao Điền Cẩm Giàng 8 Bột lọc Quý Dương Cẩm Giàng 9 Lò vịt Đông Phan Thanh Hà 10 Gốm Quao Nam Sách 11 Gốm Chu Đậu Nam Sách 12 Gốm Cậy Bình Giang 13 Vàng bạc Châu Khê Bình Giang 14 Thêu Xuân Nẻo Tứ Kỳ 15 Thợ làm đình Cúc Bố Ninh Giang 16 Nhuộm Đan Loan Bình Giang 17 Lược sừng - đồi mồi Hà Xá Bình Giang 18 Chiếu Tiên Kiều Thanh Hà 19 Giầy dép da Tam Lâm Gia Lộc 20 Giần sàng Thị Tranh Bình Giang 21 Giường chõng tre Bùi Xá Bình Giang 22 Rượu Phú Lộc Cẩm Giàng 23 Nghề lấy rươi vùng nước lợ 24 Thợ đấu Nga Hong Cẩm Giàng 25 Chài lưới Hạ Bì Gia Lộc 26 Cân Bái Dương Cẩm Giàng 27 Thúng Đan Giáp Thanh Miện 28 Bánh gai Ninh Giang Ninh Giang 29 Dậm Phương Diện Thanh Miện 30 Bún Đông Cận Gia Lộc 31 Bánh đa Kẻ Sặt Bình Giang 32 Bánh đậu xanh Hải Dương TP.Hải Dương b) Tài nguyên du lịch văn hóa phi vật thể Tài nguyên văn hóa phi vật thể thực chất là sống ký sinh trên các tài nguyên văn hóa vật thể. Các trò chơi, các lễ hội thường phải được diễn ra trên những trung tâm văn hóa của từng thời kỳ mà ở giai đoạn cổ xưa chính là các đình, đền, đài, miếu. - Các lễ hội truyền thống đặc sắc Lễ hội, sinh hoạt văn hóa dân gian cũng là một loại tài nguyên nhân văn có sự hấp dẫn và khả năng thu hút khách du lịch cao, ở một mức độ nào đó du khách có thể thấy được, hiểu được phong tục tập quán của người dân địa phương. Lễ hội là một hình thức văn hóa đặc sắc phản ánh đời sống của mỗi dân tộc, gắn với các di tích lịch sử, thường là một phần trong các chương trình thu hút, quảng bá của khu du lịch. Không thể tách rời các nội dung lễ hội ra khỏi các di tích, cũng như không thể tách nội dung lễ hội truyền thống ra khỏi các chương trình du lịch. Do đó ta cần khai thác di tích lịch sử và lễ hội truyền thống như một loại hình du lịch văn hóa chuyên đề gắn với các Tour du lịch. Sau đây là một số lễ hội truyền thống đặc sắc tiêu biểu đã có ở Hải Dương từ lâu đời: * Lễ hội Côn Sơn Chùa Côn Sơn ở huyện Chí Linh, thờ Huyền Quang (Lý Đạo Tái) - một trong 3 vị sáng lập thiền phái Trúc Lâm và Nguyễn Trãi - nhà thơ lớn của Việt Nam thế kỷ XV, nhà quân sự, nhà chính trị thiên tài của nghĩa quân Lam Sơn. Hội xuân từ ngày 16 đến ngày 22 tháng Giêng Âm lịch nhằm tưởng nhớ vị tổ thứ 13 của phái Trúc Lâm. Hội thu từ ngày 15 đến ngày 20 tháng 8 Âm lịch tưởng niệm Nguyễn Trãi. Khách thập phương đến với lễ hội để tưởng niệm và vãn cảnh danh thắng. * Lễ hội đền Kiếp Bạc Lễ hội Kiếp Bạc là lễ hội có quy mô quốc gia. Nó được hình thành từ sau khi Quốc công tiết chế Trần Hưng đạo qua đời, đến nay, hội ngày càng đông, giữ vai trò to lớn trong đời sống văn hóa và tín ngưỡng của dân tộc, vì vậy được các triều đại quan tâm, bảo tồn và phát huy Mỗi mùa hội khách thập phương về dự có tới chục vạn người, dưới sông hàng nghìn con thuyền lớn nhỏ, trên bộ hàng vạn xe cộ ngược xuôi, trống phách vang lừng, cờ bay phất phới, không chỉ những thứ tốt đẹp nhất của thời đại được trưng diện mà thuần phong, mỹ tục, tinh hoa văn hoá dân tộc cũng được tái hiện, nâng cao. Thật hiếm có một di tích lịch sử, một ngôi đền nằm ở biên giới hai xã, hai tổng, hai huyện, hai phủ, hai trấn mà sau này gọi là hai tỉnh... Đền Kiếp Bạc nguyên là ngôi đền của quốc gia, do triều đình nhà Trần xây dựng tại phủ đệ Trần Hưng Đạo, thuộc địa phận hai xã Vạn Yên và Dược Sơn. Vạn Yên có tên nôm là Kiếp, Dược Sơn có tên nôm là Bạc, vì thế mà dân gian gọi là đền Kiếp Bạc, nhưng tên tự của đền là Trần Hưng Đạo Vương từ. Vạn Yên từ thời Lê đến thời Nguyễn thuộc tổng Trạm Điền, huyện Phượng Nhãn ( Phượng Sơn ), phủ Lạng Giang, xứ rồi trấn Kinh Bắc. Dược Sơn thuộc tổng Chi Ngại, huyện Phượng Nhãn, đến đầu thể kỷ XVIII, cắt chuyển về trấn Hải Dương. Còn Vạn Yên đến năm 1899, mới chuyển về Hải Dương, nhưng lễ hội vẫn thuộc hai làng cùng tổ chức. Từ sau CM tháng Tám đến nay, Dược Sơn và Vạn Yên chỉ là hai thôn của một xã Hưng Đạo, nhưng việc tế lễ ở đền vẫn do hai làng song hành thực hiện. Căn cứ vào vị trí chiến lược của Kiếp Bạc trong sự nghiệp giữ nước, sau cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ nhất,Trần Hưng Đạo đã lập phủ đệ ở Kiếp Bạc, đồng thời cũng là nơi ông được phong điền kiến ấp và sống ở đây cho tới khi qua đời Kiếp Bạc còn là nơi diễn ra trận quyết chiến chiến lược năm 1285, trong cuộc kháng chiến chống Nguyên lần thứ hai, một trung tâm sản xuất đồ gốm ở thế kỷ XIII - XIV, một cảnh quan đẹp mặc dầu nay đã phôi pha. Chính vì thế mà nơi đây đã in dấu chân danh nhân nhiều thời đại Thời kỳ Pháp xâm lược , hội Kiếp Bạc vẫn được nhân dân tổ chức trọng thể. Sau CM tháng Tám, danh nhân được kỷ niệm đầu tiên là Trần Hưng Đạo, lễ hội được tổ chức đầu tiên là lễ hội Kiếp Bạc. Sau ngày miền Bắc được giải phóng, Kiếp Bạc là một trong những di tích được nhà nước quan tâm, liệt hạng vào đợt đầu vào ngày 28/4/1962 Lễ hội Kiếp Bạc bắt nguồn từ kỉ niệm ngày mất của Trần Hưng Đạo, ngày 20 tháng 8 năm Canh Tý (1300). Lễ hội xưa bắt đầu từ 16/8 đến 20/8 Âm lịch hằng năm. Nay đã khác, hội bắt đầu sớm hơn và kết thúc muộn hơn, tuy nhiên trọng hội vẫn là ngày 18/8 . Khách không chỉ đến Kiếp Bạc vào ngày hội mà quanh năm suốt tháng với số lượng ngày càng đông. Đền Kiếp Bạc còn ngày lễ trọng thứ hai vào 28/9 , ngày mất của Thiên Thành công chúa - phu nhân của Đại vương, nhưng ngày này không thành hội , chỉ có hai làng sở tại tổ chức tế lễ cùng vài đoàn khách xa. Những người được thờ trong đền Kiếp Bạc có: Trần Hưng Đạo, Thiên Thành công chúa - phu nhân đại vương, Hoàng thái hậu Quyên Thanh công chúa - phu nhân Trần Nhân Tông, Anh Nguyên quận chúa - phu nhân Phạm Ngũ Lão. Năm vị này có tượng đồng. Ban thờ bốn con trai: Trần Quốc Hiến (Hiện), Trần Quốc Nghiễn, Trần Quốc Tảng, Trần Quốc Uy (Uất), Yết Kiêu, Dã Tượng và gia tiên chỉ có bài vị và ngai thờ, quan Nam Tào, Bắc Đẩu có tượng đồng nhưng thờ trên núi Nam Tào, Bắc Đẩu Thời trước Cách mạng, tuỳ từng năm mà chủ tế là quan triều hay quan tỉnh, thực hiện theo nghi thức quốc tế. Theo thông lệ thì quan tri huyện chịu trách nhiệm tổ chức lễ hội. Đây là công việc lớn, phức tạp, gồm nhiều công việc khác nhau về tiếp khách, nơi ăn, nghỉ, vui chơi, tế lễ, kiểm két, vệ sinh, an ninh cho hàng vạn khách hành hương từ mọi miền đất nước, từ quan triều cho đến thứ dân trong thời gian 5 ngày. Từ ngày 10 tháng 8, Tri huyện cùng các nhà chức trách của huyện xuống đền cắm đất, chia ô cho những người bán hàng phục vụ lễ hội, chỉ đạo việc vệ sinh, phân công trách nhiệm từng bộ phận, công bố những quy định về lễ hội Về an ninh: Trương tuần hai xã phải trực tại đền cùng với số đinh tráng theo quy định. Lính khố xanh của huyện đóng tại hai nhà các, hai chánh tổng của Trạm Điền và Chi Ngãi (Ngại) trực ở hai hành lang. Mọi người làm việc tận tâm, chu đáo, lịch sự Bộ phận an ninh hướng dẫn việc dựng quán bán hàng, đậu thuyền theo quy định, giữ trật tự, vệ sinh trong quá trình lễ hội, không thu tiền bến bãi Phần lễ: Ngày 10 tháng 8 làm lễ mở cửa đền, chuẩn bị cho lễ hội hằng năm, đây là môt việc làm chiếu lệ, thực tế thì đền ngày nào cũng mở cửa tiếp khách Lễ vật khai hội : Làng Vạn sắm 8 mâm, mỗi mâm một lợn sống khoảng 70 - 80 kg, đại diện cho 8 giáp. Dược Sơn 4 mâm tương tự, đại diện cho 4 giáp. Về bánh trái có: Bánh trong, bánh bột lọc, bánh chằng gừng, bánh rán, bánh phu thê, xôi mầu và mâm ngũ quả. Trên đây là lễ vật của hai xã sở tại theo lệ, còn lễ vật của khách thập phương, quan lại các cấp thì có thể nói, cuộc sống đương đại có gì quý báu thì trên mâm lễ có thứ đó. Riêng dân chài lưới ở vùng duyên hải về hội, thường có lợn quay hay lợn sống để cả con, tế lễ xong mang xuống thuyền làm cỗ, ăn dần trong những ngày hội Văn tế Đức thánh Trần Triều ngày trọng hội của bản xã, do chủ tế đọc: Bát nguyệt, nhị thập nhật, chính kỳ tế văn Duy: Tuế thứ (Can Chi), bát nguyệt, nhị thập nhật. Hải Dương tỉnh, Chí Linh huyện, Trạm Điền tổng, Vạn Yên xã; kỳ lão, sắc mục, lý hương dịch toàn xã, thượng hạ đẳng, cẩn dĩ khiết sinh, cụ soạn, phù lang thanh chước, thứ chi nghi cẩm kỳ cáo vu. Thánh vương Trần triều, khâm sai thiết chế, thống lĩnh thiên hạ thuỷ bộ chư doanh, đại nguyên soái, tổng quốc chính, Thái sư Thượng phụ, Thượng quốc công, Nhân vũ Hưng Đạo Đại vương, lịch triều phổ tặng khai quốc an trinh, hồng đồ tá tự, hiển linh trác vĩ, minh đức chí nhân, phong huân hiển liệt, chí trung, đại nghĩa, dực bảo trung hưng, thượng đẳng tôn thần, ngọc bệ tiền. Nguyên Từ quốc mẫu, Thiên cảm thái trưởng công chúa, ngọc bệ hạ tiền. Cung duy: Thanh vương sơn nhạc giáng thần, càn khôn chung khí, nãi vũ, nãi văn, chí tinh, chí tuý, nội tham thứ chính áo, trần tộ ư Thái sơn, ngoại đổng binh nhung, điển hồ nguyên ư đẳng thuỷ quốc tôn thần, gia tôn, tử thịnh, lưu đức thanh sử chi thư. Sinh danh tương, hoá danh thần, dư uy hiệp cường hồ chi quỷ, anh linh hiển hách, hạp kiếm minh nhi phạm nghiệt quỷ tiêu, đức trạch tại nhân phương độ mạc, nhi dương nhân khang,. tỉ dương dương chính khí, thiên thu chi hương hoả, nhi tân ngột ngột, sùng từ vạn cổ chi tinh linh phấy truy, từ nhân tiên khuất thu, nhật kỳ, lễ dụng trần chu nghi tái tự, phục vọng giám thử. Thành tuy chi phúc, bạ đẳng lương thiếp thế, kính vu an ninh vật ấp nhân khang, tề tư dân vụ thọ chỉ. Đinh loại Kính phối: Thanh vương nhiên, tướng âm phù chi đại đức dã. Khải thánh vương phụ, Khâm minh đại vương. Khải thánh vương mẫu, kiền chúa chính trị phu nhân Thiên đạo quốc mẫu. Tứ vương thánh tử đại vương. Nhị vị vương nữ Hoàng thái hậu. Trần triều điện suý, thịnh chưởng chiêu cảm hùng văn Phạm đại vương tôn thần. Tiền hậu văn võ lưỡng ban, quan lĩnh đồng phối hưởng. Cẩn cáo. Văn tế của quan triều hay quan tỉnh tuỳ từng năm mà soạn, nhưng phần căn bản vẫn phải có nội dung như trên Khách thập phương đến hội, công việc đầu tiên là phải lo phần lễ. Thông thường hội rất đông, không phải lúc nào cũng tới được trước thần tượng Đại vương, tìm được chỗ đặt mâm lễ lại càng khó. Vào những ngày hội, mỗi ngày có hàng trăm đoàn tế lễ. Người ta thường cử người đội lễ, làm các lễ nghi ở tiền tế hoặc ngoài sân, rồi vào thắp hương các ban thờ. Hiện nay việc thắp hương trong cung vào những ngày ngày hội đã bị cấm, người ta chỉ có thể khấn vái cầu phúc. Những người không biết khấn có thể nhờ các ông đồng, bà cốt khấn giúp, chỉ cần cho địa chỉ, tên họ và những yêu cầu cụ thể, tất nhiên là phải mất tiền Bài khấn nôm hiện nay cho người đến nhờ lễ . Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hôm nay ngày ...tháng...năm (can chi) Con chắp tay con lạy chín phương trời, mười phương đất, chư Phật mười phương. Con lạy Trần triều hiển thánh Vương phụ, Vương mẫu, con lạy gia phong Nhân vũ Hưng Đạo Đại vương. Con lạy Trần triều hiển thánh Hưng Đạo Đại vương. Con lạy tứ vị thái tử Hưng Đạo Đại Vương. Con lạy đệ nhất vương cô Quyên Thanh công chúa, văn võ song toàn, phu nhân tướng quân Phạm Ngũ Lão. Con lạy tả quan Nam Tào, hữu quan Bắc Đẩu. Và những điều cần cầu cho chủ lễ. Lệ công đức: Vào dịp hội khách thập phương ít hay nhiều đều bỏ tiền công đức để tỏ lòng thành trước thần tượng đức thánh, góp phần bảo tồn di tích. Người nghèo bỏ một hai xu, người giầu có khi bỏ vài chỉ vàng vào hòm công đức, ngày nay người ta có thể công đức hàng chục triệu đồng. Đây chưa kể vào các dịp trùng tu tôn tạo, có người công đức vài lạng vàng, hàng chục lạng bạc, hàng trăm quan tiền. Ngoài tiền bạc, người ta còn công đức các đồ tế khí hoặc những đồ dùng thiết thực cho nhà đền. Đây là tài sản quan trọng góp phần làm cho đền ngày càng khang trang. Hiện nay, lệ công đức bằng tiền và hiện vật không kém thời phong kiến, có người trong lễ hội công đức tới vài chục triệu đồng. Câu đối đại tự không còn chỗ treo. Từ xưa tới nay, hội đền đồng thời cũng là hội chợ. Hàng quán xen dầy dọc hai bên đường từ cửa đền ra bờ sông, từ Nam Tào lên Bắc Đẩu. Người ta mang đến đây đủ loại hàng thiết yếu cho sinh hoạt gia đình và tín ngưỡng như: đồ gốm, đồ đồng, đồ gỗ sơn , quần áo, mũ , nón, võng, chiếu; các loại đồ trang sức, đồ chơi của trẻ em; các loại hàng ăn, các loại lương thực thực phẩm phục vụ sắm lễ tại chỗ Việc tế lễ và rước sách được thực hiện theo một thể thức theo quy định của hai làng. Khách thập phương đến tế lễ do ban tổ chức hướng dẫn Đồng bóng, mê tín dị đoan ở đền xưa khá nặng nề. Dân gian quan niệm rằng, Trần Hưng Đạo là một vị thánh, đánh thắng giặc Nguyên Mông, cứu dân độ thế, lại diệt được Phạm Nhan, tên Việt gian thường làm hại phụ nữ, vì thế cứ vào dịp hội, bất cứ việc gì khó khăn trong đời sống là người ta cầu xin đức thánh Trần phù hộ. Dựa vào tâm lý này, mà các ông đồng bà cốt tác oai tác quái không nhỏ Hội trước CM có nhiều trò vui dân gian như: đấu vật, bơi trải, múa rối, tuồng, chèo... Bơi trải không chỉ là một trò vui mà còn như một nghi lễ để tế đức thánh, vì sinh thời, Đại vương có biệt tài thuỷ chiến. Hội vui nhất về ban đêm, vì phần lớn trò vui diễn ra ban đêm, trong đó có hàng chục chiếu chèo biểu diễn nhiều tích khác nhau tại sân đền. Khách lưu qua đêm hàng vạn người, không có nhà khách nào chứa nổi. Người ta ngủ trên thuyền, trong các nhà dân, nhưng phần lớn ngủ tại hành lang, sân đền và trong các quán hàng dọc theo bờ sông trước cửa đền. Những đêm dự hội như thế có thể trở thành kỷ niệm suốt cả đời người, thậm chí có đôi trai gái trở thành vợ chồng sau những ngày hội Hội Kiếp Bạc là hội lớn của đất nước, hội lớn nhất của Hải Dương, có lịch sử 7 thế kỷ, được mọi tầng lớp nhân dân hưởng ứng nhiệt thành, được Nhà nước quan tâm. Trong 10 năm lại đây, đồ tế tự nhân dân cung tiến trị giá hàng trăm triệu đồng, tiền công đức cũng tới hàng tỷ đồng, nhà nước đầu tư các hạng mục cũng rất lớn. Việc tổ chức lễ hội, quản lý các mặt hoạt động đã đạt được kết quả đáng kể, các tệ nạn đã được khắc phục cơ bản. Lượng khách đến lễ hội hằng năm và tham quan di tích ngày càng tăng. Đây là cơ hội tốt để nâng cao tinh thần yêu nước, hun đúc lòng tự tin vào sức mạnh dân tộc trước hoạ xâm lăng, xây dựng nếp sống lành mạnh, tạo điều kiện cho du lịch phát triển. * Hội hát trống quân Tào Khê - Đào Xá Đào Xá nguyên là một làng của tổng Ngọc Cục, huyện Đường An, tỉnh Hải Dương, cuối thế kỷ XIX, cắt chuyển về huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên. Đào Xá ở hữu ngạn sông Cửu Yên êm đềm, lắng đọng nhiều truyền thuyết, vang vọng những bài ca dân gian. Đối ngạn là làng Tào Khê của huyện Đường An, phía Bắc giáp làng Phù Ủng, quê hương danh tướng Phạm Ngũ Lão. Truyền thuyết kể rằng, ngày xưa Đào Xá mở hội, dân làng đón một gánh chèo về hát ở sân đình. Khi vào hát, mới có hai nhân vật ra giáo đầu đã lăn ra, “chết ngay”, các cụ cho là “Thánh vật”, từ đó hội làng chỉ mời các cặp hát ca trù của Tào Khê. Có lẽ từ đó mà hai làng có mối quan hệ mật thiết. Theo sự tích làng Tào Khê, vào thời Trịnh Sâm, có một bà phi tên là Nguyễn Thị Mỹ, con gái cụ Nguyễn Danh Quán, người làng Tào Khê, hát hay đứng đầu các ca công trong phủ chúa, chuyên dạy các cung nữ hát ca trù,được chúa ban ân tứ cho thu tiền hát xướng cửa đình của trấn Hải Dương. Năm 1780, bà qua đời, linh cữu được chuyển về quê, nơi mai táng sau này trở thành vùng đất cấm, cây cối um tùm như rừng, dân gian gọi là Mưỡu Tào. Tào Khê xưa nay nổi tiếng về hát ca trù và trống quân, thời nào cũng có nghệ nhân xuất sắc Hằng năm, cứ vào dịp trung thu, Tào Khê và Đào Xá lại mở hội hát trống quân qua sông Cửu Yên từ chập tối cho đến quá nửa đêm, kéo dài suốt tuần trăng. Người đến xem và nghe hát chật hai bờ sông, phải kể đến con số hàng nghìn, đủ mọi tầng lớp. Đông nhất vào 9 - 10 giờ đêm. Bề rộng của sông Cửu Yên chỉ xấp xỉ 30 m, rất phù hợp cho lối hát đối qua sông. Tào Khê và Đào Xá là hai làng quê giữa một vùng văn hiến, quê hương của nhiều nhân tài xuất chúng, trong đó có thơ văn (1). Những bài ca đối đáp có các loại: Hát chào, hát mời, hát gọi, hát đố, hát yêu đương, hát ca ngợi quê hương. Hát trống quân là loại hát đối đáp, là một bộ phận của hát đúm, nam hát với nữ, những lứa tuổi ngang nhau hát với nhau, người ta chia ra từng nhóm, mỗi nhóm cử vài người có giọng tốt để hát, còn lại tập trung sáng tác để kịp thời đối đáp với đối phương. Thông thường mỗi nhóm có một hai người có khả năng sáng tác, thuộc Truyện Kiều, ca dao và những truyện nôm khuyết danh để vận vào mà sáng tác. Khi vào cuộc chơi, người ta thường giao ước với nhau qua lời hát giáo đầu, tránh dùng những lời thô tục hoặc sống sượng như: Trống quân trống quýt trống còi, Ta không lấy nó, nó đòi lấy ta. Mà người ta thường mở đầu bằng câu: Tháng tám anh đi chơi xuân, Đồn đây có hội trống quân anh vào. -------------------------- 1). Đào Xá là quê hương giáo sư Phạm Huy Thông, một nhà khoa học tài danh, một nhà thơ nổi tiếng đầu TK XX. Tào Khê nay thuộc xã Thúc Kháng, quê hương của nhiều vị đại khoa và tác gia nổi tiếng như Phạm Quý Thích, Vũ Tông Phan, Phạm Quỳnh,... * Lễ hội Đền Sượt Thanh Cương linh từ hay Quang liệt miếu, nôm gọi là đền Sượt, ở tại làng Thanh Cương , phường Thanh Bình , Thành Phố Hải Dương, thờ Vũ Hựu , một danh tướng thời Lê sơ, quê tại làng Thanh Cương. Khi qua đời (16/11 năm Tân Tỵ - 1521) được tôn là Thượng đẳng phúc thần, Minh quốc linh ứng, Hiển Hựu đại vương và Thành hoàng làng Đền Sượt được xây dựng từ sau khi Vũ Hựu qua đời. Công trình hiện còn mang dấu ấn kiến trúc thế kỷ XIX. Di tích đã được nhà nước xếp hạng năm 1992. Lễ hội đền Sượt tổ chức vào 10/3 hàng năm , kỷ niệm ngày sinh của Đại vương. Hội kéo dài tới 20/3. Trong những ngày lễ hội có tục đánh bệt tức đánh hổ. Đây là trò diễn dân gian độc đáo Quá trình chuẩn bị lễ hội Trước khi vào hội, đinh tráng từ 18 - 54 tuổi đều phải sắm gậy đánh bệt. - Gậy cho dân đinh dài 7 thước ta (1 thước = 40cm). - Gậy cho 5 người trực tiếp đánh hổ, dài 4 thước. - Gậy cho nữ đồng trinh múa trước hàng quân, dài 1,2 thước. Nấu rượu Hoàng tửu để tiến lễ Đại vương. Nuôi lợn để lễ Đại vương. 1/3 Làng họp tại đền bàn việc tổ chức lễ hội. Ban khánh tiết chuẩn bị nước mộc dục. 9/3, ông hành văn lập ban thờ để chuẩn bị rước văn tế về nhà. Đinh tráng tập trung làm lễ cáo yết , mở cửa đền. Các giáp chuẩn bị làm bánh dầy, cỗ chay, cỗ mặn, mổ lợn cho ngày trọng hội. Giã bánh giầy ở đây là một mỹ tục , được cả làng hưởng ứng, gọi là Hội giã bánh. Sáng 10/3, rước cỗ ra đình. Khoảng 7 giờ, làm lễ mộc dục. 11/3, làm lễ bái yết, 4 giáp tế yết tại đền, mỗi giáp làm một mâm cỗ. Bưổi tối tổ chức hát chèo. 12/3, tế xuân, làng giết một con trâu đực, đặt trên giá. Tế lễ xong, chia theo suất đinh của cả làng. 13/3, các ông đám và ông hoá (1) làm lễ tại đền. Lễ có gỏi cá, xôi, rượu Rước văn từ đền về nhà ông hành văn. 14/3, chuẩn bị tạ rằm, mỗi giáp làm thịt một lợn cấn khoảng 50kg -------------------- 1). Ông Đám là người của một giáp đăng cai hộ năm đó; Ông Hoá là người của giáp cử ra thu lễ trong những ngày hội. 15/3, tổ chức rước văn từ nhà ông hành văn ra đền. 16, 17, 18/3, làm cỗ hát tại đình, 6 người một mâm. 19/3 , Chuẩn bị lễ tạ 20/3, lễ tạ, tổ chức rước Đức thánh từ đình , qua lăng về đền. Hôm ấy tổ chức thả cây đám ở ao đình. Cây đám (2) nổi và trôi về phía xóm nào thì xóm đó năm ấy may mắn, cây đám chìm thì là điềm không may. * Lễ hội Đền Quát Đền Quát tức là đền thờ Yết Kiêu, một gia nô trung thành của Trần Hưng Đạo, tại tả ngạn sông Đò Đáy (sông Quát) thôn Hạ Bì , xã Yết Kiêu , Gia Lộc. Nguyễn Hữu Thế , hiệu là Yết Kiêu, là con ông Nguyễn Hữu Hiệu, quê tại Hạ Bì. Mẹ là Vũ Thị Duyên, người làng Lôi Động, huyện Thanh Hà. Sinh trưởng trong một gia đình ngư dân nghèo, cha mất sớm, từ nhỏ Phạm Hữu Thế đã phải lặn lội sông nước kiếm ăn và nuôi mẹ. Truyền thuyết kể rằng, năm 15 tuổi, trong một lần đi gánh nước, ông thấy hai con trâu trắng húc nhau trên bờ sông. Vốn có sức khoẻ, ông dùng đòn ống đánh trâu. Chúng hoảng sợ bỏ chạy. Ông nhặt được hai cái lông trâu, đặt xuống nước , nước rẽ làm đôi. Ông cho đó là lông trâu thần, liền nuốt vào bụng. Từ đó thân thể ông cường tráng, trí dũng phi thường, bơi lội dưới nước như đi trên đất bằng. Giai thoại trên chỉ là một cách lý giải về sức khoẻ và tài trí của Nguyễn Hữu Thế được rèn luyện qua thực tế cuộc sống. Do có biệt tài bơi lội, Nguyễn Hữu Thế được tuyển vào làm gia nô cho Trần Hưng Đạo. Ông lập công lớn trong hai cuộc khánh chiến chống Nguyên, được lịch sử ghi nhận như một danh tướng. Dân chài quê ông vốn nghèo nàn, một tấc đất phơi chài cũng không có nên trước khi qua đời, ông đề nghị vua Trần cho mỗi hộ dân chài làng ông 3 thước (72 m2) đất làm nơi phơi chài lưới không mất thuế. Nhà vua y cho. Luật ấy được thi hành đến triều Nguyễn. Sau khi Yết Kiêu qua đời, nhân dân lập đền thờ và được tôn làm Thành hoàng, tổ chức lễ hội kỷ niệm ông vào 15 tháng giêng. Thông lệ , hội bắt đầu từ 10 - 20 tháng Giêng. Trước cách mạng, Hạ Bì có 8 giáp và 9 hà chài. Mỗi hà làm ăn một phương, chỉ đến tết và lễ hội mới về làng. Lễ hội tại đình 10/1, mở cửa đền làm lễ mộc dục. 11/1, mỗi giáp mổ một con lợn cúng thành hoàng. Cúng xong, thịt chia làm 5 phần, chia theo thứ bậc khác nhau. 12 - 14/1, làm cỗ trực nhật do những người có phẩm hàm trong làng đăng cai, cứ 6 người một mâm, mỗi ngày từng người thay nhau sắm cỗ. 15/1, thi cỗ hộp (1)của những ông cai đám. Bắt đầu vào hội , thần tượng Yết Kiêu được rước từ miếu từ đền về đình. Đoàn rước có múa tứ linh, đòn bát cống rước tượng Yết Kiêu và phu nhân. Trong những ngày hội sân đình có các trò diễn dân gian. Lễ hội dưới sông Đây là lễ hội độc đáo vá hấp dẫn. Thông lệ , hội diễn ra trong ba ngày, từ 16 - 18/1. Ngay những ngày đầu hội, thuyền các hà chài đã trở về tập kết san sát bên sông. Sáng 16, khi mọi việc đã chuẩn bị xong, tượng Yết Kiêu và phu nhân được rước ra bờ sông, đặt trên bệ cao , nhìn ra sông nước, để các ngài “duyệt” con cháu thao diễn thuỷ chiến. Các hà chài dự bơi trải đều phải đến lễ trước thần tượng Thành hoàng, mong ngài phù hộ cho cuộc sống trên sông nước trong năm may mắn. -------------------- 1). Cỗ hộp là loại cỗ đặc biệt của Hội đền Quát, gồm có xôi nén, gà luộc, chuối, rượu, chè kho, do những giai ngoại có tài làm cỗ thực hiện. Ngày 16 bơi chiềng , biểu diễn cho khách xem đồng thời cũng là tập dượt. Ngày 17, bơi phân loại Ngày 18, bơi tranh giải nhất, nhì, ba. ngày 19, tiết tục tế lễ tại đình Ngày 20, kết thúc hội, các hà chài tạm biệt cố hương, trở về các con sông quen thuộc quăng chài, thả lưới, theo cuộc sống thường nhật, hẹn xuân sau trở về. Hội đền Yết Kiêu nay vẫn được duy trì, đây là nơi có truyền thống bơi trải xuất sắc của tỉnh. - Các loại hình nghệ thuật dân gian Trò vui dân gian trong những ngày hội Trong những ngày hội, ngoài phần lễ là các trò diễn dân gian, những trò này không chỉ lấy làm vui mà còn có ý nghĩa giáo dục sâu sắc. từ trò diễn dân gian mà ông cha ta đã nâng lên thành các môn nghệ thuật truyền thống. Có những trò vui trở thành phổ biến trong lễ hội như: hát chèo, hát quan họ, đấu vật, kéo co, chọi gà..., có những trò vui chỉ có ở từng hội, như: đánh thó ở hội Cối Xuyên (Gia Lộc), thi quăng chài ở hội Từ Xá (Thanh Miện), thi mâm ngũ quả ở Chùa Minh Khánh (Thanh Hà)… Dưới đây là những trò vui thường thấy trong những ngày hội ở Hải Dương. 1- Hát chèo hay còn gọi là chèo sân đình. Nói sân đình là nói tính phổ biến, trong thực tế người ta ta có thể biểu diễn ở sân chùa, sân đền...Chèo nguyên thuỷ không có sân khấu, người ta giải chiếu ra sân rồi biểu diễn, người xem có thể đứng, ngồi xung quanh. Xưa gọi là đi xem hát, vì vừa nghe hát vừa xem biểu diễn, tức là nghe và nhìn. Các tích chèo sân đình hầu hết là tích cổ điển, như: Phạm Tải Ngọc Hoa, Trống Trân Cúc Hoa, Trương Viên, Tấm Cám, Nhị Độ Mai, Lưu Bình Dương Lễ...Khi diễn ở địa phương nào, người ta lại sáng tác một vài đoạn, lấy từ sự tích địa phương vào phần giáo đầu để được lòng chủ và cũng vui lòng khách. 2- Hát ca trù hay còn gọi là hát cô đầu, khi biểu diễn chỉ có một cô đào vừa gõ sênh vừa hát một làn điệu gọi là ca trù và một nhạc công đánh đàn tam, một người kéo nhị hoặc hồ, bên ngoài có một người cầm chầu, tức là người đánh trống chầu giữ nhịp, hết một câu lại gõ tom, chát. Người đánh trống chầu thường là các vị chức dịch trong các làng xã. Những cô đào tài hoa có thể vừa kéo nhị, vừa gõ sênh vừa hát, không cần nhạc công. 3- Hát đúm hình thành do những người đi cấy, đi cày, làm cỏ đồng, những cô cắt cỏ bên sông với những anh lái đò dọc, rồi trở thành trò vui trong các ngày hội làng mùa xuân, mùa thu. Ví dụ: Lời anh lái đò dọc: Hỡi cô cắt cỏ bên sông, Có muốn lấy chồng thì xuống với anh. Lời cô cắt cỏ: Anh ơi ghé mũi lại đây, Để em xắn váy bước vào mũi anh. Ngày nay người ta còn ghi được một số câu hát đúm, lời thơ mộc mạc, chất phác nhưng cũng rất ý nhị, sâu sắc, để từ đó ra đời những câu ca dao bất hủ cùng năm tháng. Quá trình hát đối đáp, người ta có thể lấy các tích trong truyện cổ, truyện nôm, ca dao, rồi sáng tác một vài câu cho phù hợp với hoàn cảnh và tình cảm của từng người, từng bên. Khi hát người ta chia làm hai phe, nam một bên, nữ một bên, mỗi phe 5 - 10 người, kể cả người xui hát, đứng cách xa nhau chừng 20 - 30 m như ở hai bên sân đình, hồ đình hoặc hai bên bờ sông hẹp để có một khoảng cách cần thiết, nhưng cũng không xa quá để khi hát có thể nghe rõ, nếu ban ngày có thể nhìn rõ mặt nhau. Khi hát con trai thường hát trước. 4- Hát trống Quân là một cách hát theo nhịp một loại trống đặc biệt, lời theo thể thơ lục bát. Theo truyền thuyết hát trống quân có từ thời Hai Bà Trưng và tồn tại đến nay. Trống được tạo ra trên một mảnh đất bằng phẳng, người ta đào một cái hố sâu rộng chừng 50 cm, kiểu hàm ếch, trên đặt một mâm gỗ, tương tự như một mặt trống; đóng một cọc cách hố chừng 15 m, chăng một dây thừng qua mặt mâm đến đầu cọc. Khi hát, người ta lấy một đoạn tre dài khoảng 40 cm, đánh lên đoạn dây trên mặt mâm, theo nhịp hát, tạo ra một âm thanh trầm ấm đặc biệt. Có thể thay mâm gỗ và dây thừng bằng mâm thau và dây thép nhưng âm thanh không trầm ấm như mâm gỗ, thứ âm thanh gợi nhớ về một quá khứ xa xăm của dân tộc. Hát trống quân cũng như hát đúm, chia làm nhiều nhóm, nhiều lứa tuổi khác nhau; nam một bên, nữ một bên; người ta thường đứng cách nhau 20 - 30m, thường hát hai bên hồ hay bên sông, hát trống quân thường diễn ra vào mùa thu, giữa tuần trăng sáng, từ chập tối đến nửa đêm. 5- Múa rối nước là một loại hình múa rối, sân khấu đặt trên mặt nước, người ta điều khiến con rối ngầm dưới nước, tạo nên sự bất ngờ và sinh động, đây là một loại hình nghệ thuật độc đáo của Việt Nam. Hải Dương có hai phường trò rối nước nổi tiếng là Bồ Dương (Ninh Giang) và An Liệt ( Thanh Hà). 6- Đi cầu kiều hay còn gọi là cầu thùm. Người ta chọn một cấy tre dài và thẳng, đặt gốc ở bờ, cách mặt nước chừng 1 m; đóng hai cọc ở ao hay hồ cách bờ 6 - 7 m, buộc dây vào ngọn tre ở tư thế thăng bằng, trên cọc có một cờ nhỏ. Ai đi hết cầu, giật được lá cờ thì thắng cuộc. Nhiều người chỉ đi được một đoạn cầu đã rơi xuống nước, cũng vì thế mà gọi là cầu thùm. Trò vui đi cầu thùm nay vẫn còn nhưng không phổ biến như xưa. 7- Bơi trải là trò vui khá phổ biến ở vùng sông nước Hải Dương, bắt nguồn từ truyền thống thuỷ chiến xa xưa. Ở đền Quát (Gia Lộc) và Chùa Hào Xá ( Thanh Hà) bơi trải không chỉ là một trò vui mà như một nghi thức tế Thành hoàng. Thuyền bơi trải có thể đan bằng tre hoặc đóng bằng gỗ, kiểu thon dài, mũi nhọn, lướt sóng nhẹ nhàng, dài 8 - 9 m, mỗi thuyền có từ 14 - 18 người, trong đó có một người cầm lái, một người gõ mõ cầm nhịp, mặc áo dài, thắt lưng đỏ, còn lại là những tay chèo, đóng khố, cởi trần. Khi thi người ta có thể cho từ 3 - 6 trải bơi cùng một lúc, nếu nhiều hơn phải chia làm nhiều đội đấu loại trước khi vào chung kết. 8- Cờ người cũng là cờ tướng, bắt nguồn từ Trung Quốc, chỉ khác cờ tướng ở chỗ, quân cờ đóng bằng nam nữ chưa vợ, chưa chồng. Nam một bên, nữ một bên. Đóng tướng, sĩ phải là người có nhan sắc. Tướng trang phục như võ tướng, có hai lá cờ đuôi nheo cắm sau lưng rất oai vệ; sĩ đóng vai quan văn, đội mũ cánh chuồn chững chạc. Quân bên nữ mạc áo dài đỏ, chít khăn, thắt lưng xanh, đi hài thêu, môi son, má phấn. Nam mặc áo dài trắng, áo the ngoài, thắt lưng, chít khăn khác mầu bên nữ. Tướng ngồi ghế tựa, quân ngồi ghế đẩu; mỗi người cầm một biển gỗ, sơn son thiếp vàng, viết tên quân cờ hai mặt, có cán chừng một mét. Khi vào chơi cờ các đấu thủ phải qua khảo trịch. Khi đánh, hai đấu thủ vẫn đi trên bàn cờ thông thường; đi quân nào, có thừa sai phất cờ, dóng trống để quân đi đúng vị trí. Quân bị triệt, phải ra ngoài. Như vậy, người đi xem không chỉ xem đánh cờ mà còn được xem những người đóng quân cờ. 9- Cờ Bỏi cũng là một hình thức đánh cờ người, nhưng quân không phải bằng người mà chỉ bằng những thẻ gỗ sơn son thiếp vàng, có cán dài chừng 1 m, viết tên quân cờ hai mặt, cắm vào các ô đã định sẵn trên sân. Người đánh phải tự nhấc quân mà đi, trước khi đi phải có hiệu lệnh bằng trống bỏi. Cờ bỏi là một hình thức mở rộng bàn cờ để nhiều người được xem trong ngày hội. 10- Tổ tôm điếm cũng như tổ tôm thường, chỉ khác là mỗi người đánh ngồi một điếm, 5 người ngồi ở 5 điếm cách nhau vài ba mét, trên một đường tròn, tuỳ theo sân rộng hay hẹp mà đặt các điếm cho phù hợp với không gian. Mỗi điếm có một giá cắm bài. Giữa sân có một điếm để chia bài, có giá để bài nọc. Những nơi có điều kiện có thể che rạp cả sân để tránh mưa nắng. Đánh bài có trống và thanh la làm hiệu, có người chạy bài giữa các điếm. Khi ăn bài hoặc dậy khàn, dậy thiên khai, hoặc ù đều có hiệu trống riêng, ví dụ: Ăn bài thì đánh một tiếng trống, phỗng thì đánh hai tiếng, dậy thiên khai đánh 4 tiếng, ù thì đánh liền một hồi, không ăn thì đánh một tiếng thanh la, khi còn lưỡng lự, suy nghĩ thì đánh một tiếng tùng, một tiếng cắc. Đánh sai hiệu lệnh thì không những không được ăn mà còn bị phạt. 11- Đáo đĩa. Đánh đáo là một trò chơi phổ biến của trẻ em nam và có nhiều cách đánh khác nhau, nhưng chỉ có đáo đĩa là thu hút nhiều người trong ngày hội. Khi đánh người ta cắm ba bốn cộ tre xuống hồ, ao hay sông cách bờ ba bốn mét, cũng có khi đặt trên sân. Trên cọc đặt một cái nia, giữa nia để một cái đĩa cỡ 12 cm. Người chơi gọi là con, người đứng ra tổ chức gọi là cái. Người chơi cầm đồng xu cả vào đĩa, đồng xu nằm trong đĩa thì được thường gấp bao nhiêu lần tuỳ quy ước của cái, khoảng cách xa hay gần, đồng nào bật ra ngoài nia thì cái thu, đồng nào văng ra ngoài nia thì người chơi được nhận lại. 12- Đánh mãng. Nếu đánh đáo là trò chơi của con trai thì đánh mãng chủ yếu của con gái. Trò này phổ biến ở phía Bắc Thanh Hà. Khi đánh các em vạch hai vạch thẳng trên sân phẳng, cách nhau khoảng 4 m, vạch trên đặt đứng hai nửa viên gạch lục theo đường vạch, cách nhau chừng 1,5 m. Mỗi lần có hai người chơi, mỗi người phải tự ghè một viên mãng bằng mảnh ngói mũi, đường kính khoảng 7 cm. Khi chơi hai người đứng ở dưới vạch dưới. Động tác thứ nhất, cả hòn mãng vào hòn gạch, nếu đúng là được. Động tác thứ hai, đứng một chân, chân còn lại co lên, đặt hòn mãng trên đầu gối, nhấy lên 3 bước, tay hất hòn mãng xuống hòn gạch, nếu đúng là được. Động tác thứ ba, quặp hòn mãng vào khe ngón chân cái, ngẩy ba bước, văng vào hòn gạch, nếu trúng là được. Đây chỉ là một trò chơi trong những ngày hội, chưa thấy ai lấy tiền của nhau nhưng được các cháu gái hưởng ứng nhiệt liệt. Ngoài những trò chơi nói trên, trong nhừng ngày hội tuỳ tập quán từng nơi còn có các trò: Vật cầu, đá cầu, đánh phết, xông hệ, bịt mắt đập niêu, bịt mắt bắt dê, bắt vịt dưới nước, leo cột mỡ, đấu vật, kéo co, nấu cơm thi, thi quăng chài, thi mâm ngũ quả. - Ẩm thực Trong thời kỳ ngành Du lịch phát triển với mức độ cao như bây giờ thì chắc chắn nghệ thuật ẩm thực cũng không nằm ngoài danh sách những tài nguyên của du lịch. Hải Dương nằm trong vùng đồng bằng Bắc Bộ, có những loại cây đặc sản như vải thiều, có vùng sông nước rộng lớn, có nhiều vùng nước lợ…bởi vậy ẩm thực của Hải Dương cũng có những nét độc đáo riêng biệt. Nổi tiếng là: rượu nếp cái hoa vàng (Kinh Môn), rượu Phú Lộc; vải thiều Thanh Hà, bánh gai Ninh Giang, mắm cáy Thanh Hà, bánh đa Kẻ Sặt…Tuy nhiên có một món ăn mà khi đến thăm Hải Dương, khách du lịch sẽ được thưởng thức và nhớ mãi về hương vị đặc biệt của nó chỉ có ở vùng đất thân thương này. Đó chính là bánh đậu xanh Hải Dương. * Bánh đậu xanh Hải Dương Biết chế biến ra các món ăn tinh khiết hợp khẩu vị là một phương diện văn hóa, hơn thế nữa còn là biểu hiện văn minh của mỗi địa phương, mỗi dân tộc. Hiện nay báo ảnh nhiều nước thường dành một trang in màu trang trọng giới thiệu các món ăn tiêu biểu của dân tộc mình. Ở nước ta, tục chế biến các món ăn truyền thống hình thành từ rất sớm, nhất là các loại bánh. Truyền thuyết cho hay, tục làm bánh chưng, bánh dày đã có từ thời Hùng Vương. Chế biến các loại bánh từ lâu đã trở thành nghề nghiệp của nhiều gia đình trong từng địa phương. Trong số đặc sản của tỉnh Đông xưa phải kể đến bánh đậu xanh của thành phố Hải Dương. Nguyên liệu để chế biến nên loại bánh này không phải khai thác từ đâu xa mà lấy ngay từ hoa mầu của đồng nội, hương vị của vườn quê. Thành phần của bánh cũng đơn giản : đậu xanh, đường kết tinh, mỡ lợn, tinh dầu của hoa bưởi. Những nguyên liệu này đều phải chọn lọc chế biến tinh khiết. Bốn nguyên liệu trên pha trộn với nhau theo một tỉ lệ hợp lý, vượt tỉ lệ đó bánh sẽ kém chất lượng. Giấy gói bánh, mầu sắc của nhãn phải nghiên cứu để bánh giữ được lâu và tôn vẻ đẹp của bánh : Bánh từ lâu đã được đóng theo quy ổn định : 10 khẩu mỏng xếp 5 hàng (8,5 x 3,2 x 1,1 cm) nặng 45 gam, gần đây đã có những cải tiến, nhưng quy cách của khẩu không thay đổi. Bánh đậu xanh Hải Dương ra đời tại thị xã Hải Dương vào đầu thế kỷ XX, nổi tiếng có hiệu Bảo Hiên, Cự Hương, Mai Phương, Mai Hoa.... Bánh đậu xanh Hải Dương nhãn hiệu Rồng vàng đã có mặt ở hầu hết các tỉnh Bắc Kỳ bốn lần tham gia hội chợ đều được giải. Người Hải Dương xa nhà nhìn thấy bánh đậu xanh như nhìn thấy quê hương, lòng rạo rực nhớ quê. Khách muôn phương thấy bánh đậu xanh lại nhớ lại một thành phố nhỏ êm đềm, cư dân thuần hậu, giữa đồng bằng châu thổ nơi ấy có đường sắt, đường bộ, đường thuỷ đi qua. Những người luống tuổi hôm nay vẫn còn trong ký ức hình ảnh và hương vị bánh đậu xanh Bảo Hiên và Cự Hương xưa: Chủ hiệu Bảo Hiên là bà Nguyễn Thị Nhung, mở hàng làm bánh từ đầu thế kỷ khoảng năm 1922, khi tuổi còn đôi mươi. Làm bánh đậu là nghề bà được thừa kế gia đình từ thủa nhỏ. Tuy chồng mất sớm để lại một đàn con nhỏ. Bà Nhung vẫn đảm đương một cửa hiệu có trên 30 thợ, làm việc một ngày 2 kíp, sản xuất hàng tạ bánh mỗi ca. Buôn bán lấy lòng tin làm đầu. Sáng sáng hàng chục khách đến nhận hàng, chỉ cần ghi số lượng, chiều tối hoặc ngày sau thanh toán. Khi bánh mất phẩm chất bị huỷ ngay để giữ gìn tín nhiệm. Nguyên liệu mỗi lần nhận hàng toa tầu đường kính kết tinh loại tốt từ Tuy Hoà ra, từng thuyền lớn chở đậu xanh từ Lục Nam xuống và hàng tạ mỡ khổ từ lò mổ chở tới. Tinh dầu hoa bưởi thì nhà tự chưng cất lấy. Cửa hiệu tấp nập hoạt động nhịp nhàng suốt ngày đêm. Mọi việc từ kỹ thuật, giao dịch quản lý, kế toán, điều hành công nhân...chỉ có một phụ nữ với một quyển sổ, một bàn tính cùng đàn con líu ríu bên mình. Với bàn tay tài hoa và khối óc năng động ấy, bánh đậu xanh Hải Dương nổi tiếng, rồi trở thành đặc sản và hiệu Bảo Hiên, Rồng Vàng trở thành một hiệu lớn của tỉnh Đông. Cùng với Bảo Hiên, bánh đậu xanh Cự Hương cũng rất nổi tiếng về chất lượng tuy sản lượng không lớn. Cự Hương có hai loại bánh : bánh ướt và bánh khô chất lượng đều cao. Bánh Cự Hương đã từng sản xuất tại Hà Nội, nhưng khi xa đất mẹ bánh đậu thật khó phát huy. Kháng chiến bùng nổ, rồi chiến tranh kéo dài, thị trường bánh đậu bị thu hẹp dần. Hoà bình lập lại bánh đậu xanh Rồng Vàng vào tổ chức sản xuất công tư hợp doanh rồi tiến lên quốc doanh. Qua nhiều năm tồn tại bánh đậu xanh không thiếu trên thị trường, trong đó có nhiều loại bánh kém phẩm chất với những nhãn hiệu và giấy bao gói khác nhau, tiếng tăm và hương vị của nó chỉ còn trong ký ức . Từ năm 1986, đất nước có nhiều đổi mới, một nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần được quan tâm và thừa nhận. Nền kinh tế quốc gia như nắng ấm đầu xuân tạo cho trăm hoa đua nở. Trong bối cảnh ấy, bánh đậu xanh Hải Dương được phục hồi và phát triển. Người tiên phong trong mặt hàng này là ông Đoàn Văn Đạt, nguyên một quân nhân về mất sức, học hành có hạn, ông từng trải làm nghề thợ mộc, nuôi lợn, làm bánh quy bằng bột sắn, tuy gian nan nhưng đều thành công. Hiện nay trên địa bàn thành phố Hải Dương có trên 50 nhà hàng bánh đậu xanh, trong đó có những nhà hàng nổi tiếng như : Bảo Hiên, Nguyên Hương, Bảo Long, Bá Tiến, Hoà An, Minh Ngọc, Quê Hương... Trên đây chưa kể những cơ sở sản xuất theo thời vụ, sản xuất mà chưa đăng ký hoặc có chi nhánh ở các thành phố lớn trong nước. Dọc các phố lớn trong thành phố Hải Dương và nhất là dọc tuyến đường cao tốc Hà Nội - Hải Phòng qua thành phố Hải Dương, bánh đậu bày bán đầy ắp các của hàng. Nhiều thế nhưng không ế. Trong một năm mùa xuân và mùa đông hàng bán chạy hơn cả. Nhất là vào dịp tết, những nhà hàng nổi tiếng thường không đủ bánh bán. Thành phần của bánh đến nay chưa có gì thay đổi, nhưng công cụ sản xuất và vệ sinh công nghiệp, bao nhãn và phương pháp quảng cáo đã đạt trình độ cao, điển hình là nhà hàng Nguyên Hương, qua kiểm nghiệm của cơ quan có trách nhiệm, xác định, nếu bánh làm tốt, có thể sử dụng được trên 100 ngày, đây là điều kiện để bánh đậu mở rộng thị trường. Chiếc bánh đậu xanh nhỏ bé, giản dị nhưng đã mang tiếng thơm của tỉnh Đông đến muôn nơi và mang về cho quê hương một nguồn thu không nhỏ. Hiện nay đã có một số nhà hàng doanh thu trên 10 tỷ một năm. * Vải thiều Thanh Hà Hiện nay, 5.000 ha trong tổng số 7.000 ha diện tích vải Thanh Hà - Hải Dương đang cho sản lượng đạt 18.000 - 20.000 tấn quả một năm. Hơn một nửa người dân Thanh Hà sống bằng nghề trồng vải. Riêng ba xã Thanh Sơn, Thanh Thủy, Thanh Xá gần như 100% người dân chuyên canh cây vải. Vải thiều Thanh Hà được nhân giống từ cây vải tổ ở thôn Thúy Lâm, xã Thanh Sơn, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương. Đặc điểm về giống: Cây sinh trưởng tốt, tán hình bán cầu cân đối. Quả hình cầu, khi chín có màu đỏ tươi, gai thưa, ngắn. Trọng lượng quả trung bình 20,7 g (45 - 55 quả/kg), tỷ lệ phần ăn được trung bình 75%, độ Brix 18 - 21%, thịt quả chắc, vị ngọt đậm, thơm. Năng suất trung bình cây 8 - 10 tuổi đạt 55 kg/cây (8 - 10 tấn/ha). Đây là giống chính vụ, thời gian cho thu hoạch từ 5/6 đến 25/6. Được bao bọc, bồi đắp phù sa của các con Sông Rạng, Văn Úc, Thái Bình, sông Hương bao đời nay mảnh đất Thanh Hà trở thành một vùng quê trù phú với hoa thơm, quả ngọt quanh năm. Gần 200 năm trước, cây vải thiều đầu tiên được đem về đây ươm trồng. Như có sự sắp đặt của tự nhiên, giống tốt gặp đất phì nhiêu đã cho ra một sản vật nổi tiếng có một không hai. Không biết tự bao giờ, mỗi khi nhắc đến Thanh Hà người ta nhớ ngay đến những quả vải thiều mọng đỏ, cùi dày vị ngọt lịm. Được thưởng thức sự ngọt mát của vải thiều Thanh Hà trong những ngày hè, cái nóng, cái nắng oi ả như bị xua tan. Đã bao năm nay, cây vải thiều đã làm giàu cho mảnh đất thuần nông này. Vải thiều Thanh Hà là cây đặc sản trồng giữa vùng đồng bằng phù sa màu mỡ, do đó việc xây dựng thương hiệu, đề nghị công nhận xuất xứ hàng hóa là việc làm cần thiết, từ đó đưa vải thiều trở về với giá trị đích thực của nó. Trong những năm tới, cần hình thành một mạng lưới tiêu thụ vải thiều rộng khắp nhằm quảng bá, tiếp thị, tìm bạn hàng, đối tác cho vải Thanh Hà. Trong sản xuất cần áp dụng những tiến bộ kỹ thuật nhằm tăng năng suất, lượng quả vải. Tiếp tục tìm công nghệ chế biến vải để đạt hiệu quả cao, giá thành hạ. Đã đến lúc ở Thanh Hà phải hình thành nên những công ty, xí nghiệp chế biến nông sản mà chủ yếu là vải thiều. Cần thêm nhiều lắm những tâm huyết với cây vải thiều của các nhà khoa học, nhà doanh nghiệp. Đó sẽ là một nguồn lợi lớn đem lại cho ngành Du lịch Hải Dương. 2.3.Thực trạng khai thác và phát triển du lịch của Hải Dương 2.3.1.Thực trạng về thị trường khách Những năm cuối thế kỷ XX, tình hình khu vực và thế giới tác động không thuận lợi tới du lịch toàn cầu. Du lịch Việt Nam giảm sút cả về lượng khách, doanh thu và thu hút đầu tư. Trước tình hình ấy, Đảng và Nhà nước đã kịp thời có những chính sách đúng đắn nhằm tháo gỡ khó khăn, chặn đà suy giảm, tạo thế và lực cho du lịch phát triển trong thời kỳ mới. Từ kết luận của Bộ Chính trị về phát triển du lịch trong tình hình mới (số 179/TB - TW, 11/11/1998), Ban chỉ đạo Nhà nước về Du lịch được thành lập, chương trình hành động quốc gia về du lịch với tiêu đề “Việt Nam - điểm đến của thiên niên kỷ mới” được thông qua. Qua những năm triển khai, chương trình đã đạt được nhiều kết quả quan trọng góp phần vào việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, thay đổi diện mạo và khẳng định tầm vóc ngành Du lịch, rút ngắn khoảng cách tụt hậu so với các nước trong khu vực Hòa chung với sự phát triển của du lịch cả nước, du lịch tỉnh Hải Dương cũng đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Nếu năm 2004 có 720.000 lượt khách đến tham quan (trong đó khách trong nước là 165.000 lượt, khách quốc tế là 37.500 lượt, khách do các điểm dừng chân đón 517.000 lượt), thì đến năm 2007 khách du lịch đến Hải Dương đã lên đến 1.500.000 lượt khách (trong đó khách trong nước là 303.000 lượt, khách quốc tế là 82.500 lượt, khách do các điểm dừng chân đón 1.115.000 lượt). Tuy nhiên qua nghiên cứu có thể thấy tuy số khách du lịch đến Hải Dương đông nhưng số khách đi du lịch thuần tuý, lưu trú qua đêm ở Hải Dương theo thống kê là còn thấp. Thống kê lượng khách du lịch đến tỉnh Hải Dương giai đoạn 2004 - 2007 ĐVT: lượt khách Chỉ tiêu năm 2004 2005 2006 2007 Khách quốc tế 37.500 50.999 60.000 82.500 Khách nội địa 165.000 200.000 243.000 303.000 Các cơ sở lưu trú phục vụ 203.000 250.999 303.000 385.000 Khách do các điểm dừng chân đón 517.000 749.977 800.000 1.115.000 Tổng số khách 720.000 1.000.976 1.100.000 1.500.000 (Nguồn: Sở Thương mại và Du lịch tỉnh Hải Dương) a) Khách du lịch quốc tế Hải Dương là tỉnh có không nhiều điểm du lịch nổi tiếng vượt ra khỏi biên giới quốc gia, vì vậy lượng khách du lịch quốc tế hàng năm đến Hải Dương không nhiều, chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng lượng khách du lịch đến Hải Dương. Năm 2004 Hải Dương đón 37.500 lượt khách du lịch quốc tế, chiếm khoảng 18,5% tổng lượt khách đến tỉnh; năm 2007 số lượt khách du lịch quốc tế đến Hải Dương đã tăng lên là 82.500 lượt, chiếm khoảng 21,4% tổng lượt khách đến tỉnh và tăng hơn so với năm 2004 là 45.000 lượt người. Đối tượng khách quốc tế đến Hải Dương trong những năm qua chủ yếu là: + Khách khảo sát, thực hiện một số dự án đầu tư tại Hải Dương (thăm dò dầu khí, đầu tư công nghiệp…) + Khách của các tổ chức phi chính phủ làm từ thiện (hội chữ thập đỏ, chương trình môi trường, nước sạch Phần Lan…) + Nguồn khách là người Hải Dương làm ăn sinh sống ở nước ngoài về thăm thân. + Khách du lịch theo Tour Nhìn chung từ năm 2004 đến năm 2007 khách du lịch quốc tế vào Hải Dương tuy có mức tăng trưởng hàng năm tương đối cao nhưng con số tuyệt đối còn quá khiêm tốn nếu so sánh với các tỉnh lân cận như: Hà Nội, Hải Phòng... Nguyên nhân chủ yếu là do sản phẩm du lịch của Hải Dương chưa hấp dẫn khách quốc tế, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch còn yếu và thiếu, chưa đáp ứng nhu cầu của khách. b) Khách du lịch nội địa Số lượng khách du lịch nội địa đến Hải Dương đã tăng lên trong những năm qua. Năm 2004 Hải Dương đón được 165.000 lượt người, đến năm 2007 đã đón được 303.000 lượt người. Khách du lịch đến Hải Dương chủ yếu bằng đường bộ từ Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Hưng Yên, Bắc Ninh…qua đường 5 theo đường 18 tới. Khách du lịch nội địa đến Hải Dương hàng năm tập trung chủ yếu vào mùa lễ hội, vào các tháng giêng, tháng hai và tháng tám hằng năm. Thành phần, đối tượng khách nội địa chủ yếu là khách đi dự các lễ hội, tham quan các di tích lịch sử văn hóa, thăm thân, du lịch sinh thái cảnh quan, đi với mục đích công tác làm ăn; học sinh, sinh viên đi du lịch dã ngoại… Một dạng đối tượng khách du lịch không thể không nói đến là khách du lịch dừng chân. Với vị trí nằm giữa tam giác tăng t

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docDL (175).doc
Tài liệu liên quan