Tài liệu Đề tài Thực trạng về vai trò của ngân hàng thương mại trong hoạt động của thị trường chứng khoán ở Việt Nam: Lời mở đầu
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Ngân hàng bao gồm nhiều loại tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó Ngân hàng thương mại thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lượng các ngân hàng.
Ngân hàng là tổ chức thu hút tiết kiệm lớn nhất trong hầu hết mọi nền kinh tế. Hàng triệu cá nhân, hộ gia đình và các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế xã hội đều gửi tiền tại ngân hàng. Ngân hàng đóng vai trò là người thủ quỹ cho toàn xã hội. Ngân hàng là tổ chức cung cấp tín dụng và nhiều dịch vụ ngân hàng thuận tiện cho các cá nhân, hộ gia đình và doanh nghiệp.Ngân hàng thực hiện các chính sách kinh tế đăc biệt là các chính sách tiền tệ, vì vậy là một kênh quan trọng trong chính sách kinh tế của chính phủ. Do đó có thể nói ngân hàng là một trong những tổ chức trung gian tài chính quan trọng nhất.
Ngân hàng thương mại tham gia hoạt động trên thị trường chứng...
36 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1043 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Thực trạng về vai trò của ngân hàng thương mại trong hoạt động của thị trường chứng khoán ở Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Ngân hàng bao gồm nhiều loại tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó Ngân hàng thương mại thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lượng các ngân hàng.
Ngân hàng là tổ chức thu hút tiết kiệm lớn nhất trong hầu hết mọi nền kinh tế. Hàng triệu cá nhân, hộ gia đình và các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế xã hội đều gửi tiền tại ngân hàng. Ngân hàng đóng vai trò là người thủ quỹ cho toàn xã hội. Ngân hàng là tổ chức cung cấp tín dụng và nhiều dịch vụ ngân hàng thuận tiện cho các cá nhân, hộ gia đình và doanh nghiệp.Ngân hàng thực hiện các chính sách kinh tế đăc biệt là các chính sách tiền tệ, vì vậy là một kênh quan trọng trong chính sách kinh tế của chính phủ. Do đó có thể nói ngân hàng là một trong những tổ chức trung gian tài chính quan trọng nhất.
Ngân hàng thương mại tham gia hoạt động trên thị trường chứng khoán từ rất lâu. Ngày nay vai trò đó ngày càng được phát huy mạnh mẽ. Trong giai đoạn đầu hình thành thị trường chứng khoán ở nước ta, các ngân hàng thương mại đã tham gia với nhiều hoạt động có hiệu quả song vẫn chưa khai thác hết tiềm lực tài chính, cơ sở vật chất kỹ thuật, công nghệ,trình độ, nghiệp vụ giao dịch cho thị trường non trẻ này.
Hoạt động của ngân hàng thương mại và thị trường chứng khoán là hai mặt của một vấn đề phức tạp. Nó có tác động mạnh mẽ và rất nhậy cảm lẫn nhau.Điều đó luôn đặt ra cho ngân hàng thương mại phải thể hiện vai trò tích cực trong việc điều hoà cung cầu chứng khoán, cung cấp thêm nhiều dịch vụ để hạn chế những bất lợi nhằm phát triển thị trường chứng khoán.
Kết cấu đề tài
Ngoài lời mở đầu và kết luận, đề tài gồm hai phần chính:
Phần 1: Lý thuyết chung về vai trò của ngân hàng thương mại trong hoạt động của thị trường chứng khoán
Phần 2: Thực trạng về vai trò của ngân hàng thương mại trong hoạt động của thị trường chứng khoán ở Việt Nam
Phần 1
vai trò của NHTM trên Thị trường chứng khoán (TTCK)
1.1. Tổng quan về NHTM
1.1.1. Khái niệm và các hoạt động cơ bản của NHTM
Theo điều 20 luật các tổ chức tín dụng của Việt Nam có nêu “ Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của luật này và các quy định khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
Từ định nghĩa chung đó, căn cứ vào tính chất và mục tiêu hoạt động, luật chỉ rõ các loại hình ngân hàng gồm NHTM, Ngân hàng phát triển, Ngân hàng đầu tư, Ngân hàng chính sách, Ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác.
Người ta phân biệt NHTM với các tổ chức trung gian tài chính khác là ở chỗ NHTM là ngân hàng kinh doanh tiền gửi, chủ yếu là tiền gửi không kỳ hạn, chính từ hoạt động đó tạo cơ hội cho NHTM có thể làm tăng bội số tiền gửi của khách hàng trong hệ thống ngân hàng của mình. Đó là đặc trưng cơ bản để phân biệt NHTM với các ngân hàng và tổ chức tín dụng khác.
Hoạt động kinh doanh trên thị trường tài chính bao gồm nhiều loại hình tổ chức kinh doanh tiền tệ. Chúng là những tổ chức trung gian và môi giới tài chính, hoạt động như những chiếc cầu chuyển tải những khoản tiền tiết kiệm - tích luỹ được trong xã hội đến tay người có nhu cầu đầu tư. Nhưng giữa chúng lại có sự khác nhau về tích chất cũng như về đối tượng và phương pháp kinh doanh.
Lịch sử của NHTM là lịch sử kinh doanh tiền gửi. Các NHTM từ chỗ nhận tiền gửi với tư cách là người thủ quỹ, bảo quản tiền gửi cho chủ sở hữu để nhận những khoản thù lao, đã trở thành những chủ thể kinh doanh tiền gửi. Điều đó có nghĩa là huy động tiền gửi không những miễn tiền gửi mà còn trả lãi cho khách hàng gửi tiền để làm vốn vay nhằm tối ưu hoá khoản lợi nhuận thu được.
Trong khi thực hiện vai trò trung gian chuyển vốn từ cho vay sang người đi vay các NHTM đã tạo ra những công cụ tài chính thay thế cho tiền làm phương tiện thanh toán. Trong đó quan trọng nhất là tài khoản tiền gửi không kỳ hạn thanh toán bằng séc một trọng những công cụ tài chính thay thế cho tiền làm phương tiện thanh toán. Thông qua quá trình đó, đưa lại kết quả là đại bộ phận tiền giao dịch trong giao lưu kinh tế đều qua ngân hàng. Do đó hoạt động của ngân hàng thương mại gắn bó chặt chẽ với hệ thống lưu thông tiền tệ và hệ thống thanh toán trong nước đồng thời có mối liện hệ quốc tế rộng rãi. Mặt khác hoạt động của ngân hàng thương mại đa dạng, phong phú và có phạm vi lớn trong khi các tổ chức tài chính khác thường hoạt động trong một vài lĩnh vực hẹp theo hướng chuyên môn sâu.
1.1.2. Vị trí của NHTM trong hệ thống tài chính
Trong các trung gian tài chính thì NHTM là một tổ chức quan trọng nhất, nó nắm giữ khoảng 2/3 tài sản có trong hệ thống ngân hàng. Chính vì vậy NHTM là tổ chức trung gian tài chính có vai trò quan trọng nhất trong tài chính gián tiếp, có khả năng chi phối hoạt động của hệ thống tài chính. Vị trí, vai trò của nó đợc thể hiện qua hai biểu hiện chủ yếu sau:
Thứ nhất: NHTM là một trung gian tài chính có số lợng lớn nhất trong hệ thống các tổ chức tài chính và thực hiện phần lớn hoạt động của các tổ chức trung gian tài chính nói chung.
NHTM tập trung và huy động vốn ngân hàng bằng cách nhận tiền gửi của dân chúng dới các hình thức tiền gửi có kỳ hạn, không kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm. Với số vốn đó ngân hàng tiến hành cho vay các doanh nghiệp, cá nhân có nhu cầu về vốn. Là một trung gian tài chính giữa nhà tiết kiệm và nhà đầu t, NHTM thu lợi nhuận thông qua chênh lệch lãi suất vay và lãi suất huy động.
Thứ hai: NHTM đóng vai trò quan trọng trong việc đáp ứng đầy đủ lợi ích của hệ thống tài chính. NHTM cho phép tiết kiệm thời gian, chi phí để thu nhập và xử lý thông tin cho những ngời cho vay cũng nh ngời đi vay. Trên cơ sở đó hạ thấp chi phí sử dụng vốn .
NHTM cho phép tiết kiệm đợc chi phí giao dịch giữa ngời đi vay và ngời cho vay. Thông thờng một cá nhân đi vay hoặc cho vay trên thị trờng tài chính phải chịu chi phí giao dịch cao vì vậy đối với cả hai đều không có lợi. Sự có mặt của NHTM đã phần nào giải quyết đợc tình hình trên. NHTM là tổ chức thờng xuyên nhận tiền gửi và cho vay do đó chi phí giao dịch sẽ giảm đi rất nhiều, đồng thời huy động đợc một lợng vốn lớn để phát triển kinh tế.
Nh vậy, NHTM đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong hệ thống tài chính, nó góp phần đẩy nhanh tốc độ lu chuyển vốn trên thị trờng, thúc đẩy phát triển kinh tế
1.1.3. Vai trò của NHTM đối với sự phát triển kinh tế
1.1.3.1. Ngân hàng là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế
NHTM đứng ra huy động nguồn vốn nhàn rỗi và tạm thời nhàn rỗi ở mọi tổ chức, cá nhân, mọi thành phần kinh tế nh: vốn tạm thời nhàn rỗi trong quá trình sản xuất, vốn từ hoạt động tiết kiệm của cá nhân trong xã hội. Bằng vốn huy động đợc trong nền kinh tế, thông qua hoạt động tín dụng, NHTM sẽ cung cấp vốn cho mọi hoạt động kinh tế và đáp ứng nhu cầu vốn một cách kịp thời cho quá trình tái sản xuất. Nhờ hoạt động của hệ thống NHTM và đặc biệt là hoạt động tín dụng mà doanh nghiệp có điều kiện mở rộng sản xuất, cải tiến máy móc công nghệ, tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu quả kinh tế.
1.1.3.2. NHTM là cầu nối giữa doanh nghiệp và thị trờng
Để tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trờng, các doanh nghiệp luôn phải đối mặt với rất nhiều khó khăn thách thức đòi hỏi các doanh nghiệp phải không ngừng cải tiến máy móc thiết bị, dây chuyền, công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất một cách hợp lý, củng cố và hoàn thiện cơ chế quản lý... Những hoạt động này đòi hỏi một khối lợng vốn đầu t lớn nhiều khi vợt quá khả năng vốn tự có của doanh nghiệp. Do đó để giải quyết khó khăn này các doanh nghiệp có thể tìm đến ngân hàng xin vay vốn nhằm thoả mãn nhu cầu đầu t của mình. Thông qua hoạt động tín dụng, ngân hàng là cầu nối giữa doanh nghiệp và thị trờng. Nguồn vốn của ngân hàng cho doanh nghiệp đã đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lợng của quá trình sản xuất, đáp ứng nhu cầu thị trờng và từ đó tạo cho doanh nghiệp một chỗ đứng vững chắc trong kinh doanh.
1.1.3.3. NHTM là công cụ để nhà nớc điều tiết vĩ mô nền kinh tế
Bằng hoạt động tín dụng và thanh toán giữa các NHTM trong hệ thống, các NHTM đã góp phần mở rộng khối lợng tiền cung ứng trong lu thông. Thông qua việc cung ứng tín dụng trong nền kinh tế, NHTM thực hiện việc dẫn dắt các luồng tiền, tập hợp và phân chia nguồn vốn của thị trờng, điều khiển chúng một cách có hiệu quả và thực thi vai trò điều tiết gián tiếp vĩ mô “ Nhà nớc điều tiết ngân hàng, ngân hàng dẫn dắt thị trờng”.
1.1.3.4. NHTM là cầu nối nền tài chính quốc gia và nền tài chính quốc tế
Trong nền kinh tế thị trờng, việc phát triển kinh tế của mỗi quốc gia luôn phải gắn với sự phát triển của nền kinh tế thế giới và là một bộ phận cấu thành nên sự phát triển đó. Vì vậy nền tài chính mỗi nớc cũng phải hoà nhập với nền tài chính quốc tế và NHTM cùng với hoạt động kinh doanh của mình đã đóng góp một vai trò vô cùng quan trọng trong sự hoà nhập này. Với các nghiệp vụ kinh doanh nh nhận tiền gửi, cho vay, nghiệp vụ thanh toán, nghiệp vụ ngoại hối và các nghiệp vụ khác, NHTM đã tạo điều kiện thúc đẩy ngoại thơng không ngừng đợc mở rộng. Thông qua các hoạt động thanh toán kinh doanh ngoại hối, quan hệ tín dụng với các NHTM nớc ngoài, hệ thống NHTM đã thực hiện vai trò điều tiết nền tài chính trong nớc phù hợp với sự vận động của nền tài chính quốc tế.
1.2. Tổng quan về thị trờng chứng khoán ( TTCK )
1.2.1. Khái niệm
Khi mới thành lập, các NHTM huy động vốn bằng phát hành và cổ phiếu là thích hợp nhất vì nó là con đờng ngắn nhất, tiện lợi và tiết kiệm nhất trong việc tìm kiếm nguồn vốn để kinh doanh. Mặt khác nó tạo ra hàng hoá cung cấp cho TTCK. Về phía các thành viên, thị trờng chứng khoán là nơi diễn ra các giao dịch mua bán , trao đổi các loại chứng khoán. Chứng khoán đợc hiểu là các loại chứng từ có giá hay bút toán ghi sổ, nó cho phép chủ sở hữu có quyền yêu cầu về thu nhập và tài sản của tổ chức phát hành hoặc quyền sở hữu. Các quyền yêu cầu này có sự khác nhau giữa các loại chứng khoán, tuỳ theo tính chất sở hữu của chúng.
Bản chất của TTCK là thị trờng thể hiện mối quan hệ giữa cung và cầu vốn đầu t mà ở đó giá cả của chứng khoán chứa đựng thông tin về chi phí vốn hay giá cả của vốn đầu t.TTCK là thị trờng phát triển bậc cao của nền sản xuất và lu thông hàng hoá.
1.2.2. Cơ cấu tổ chức của thị trờng chứng khoán
1.2.2.1. Thị trờng sơ cấp: hay thị trờng cấp một là thị trờng phát hành các chứng khoán, là nơi mua bán các chứng khoán lần đầu tiên. Tại thị trờng này giá cả của các chứng khoán là giá phát hành. Việc mua bán chứng khoán trên thị trờng sơ cấp làm tăng vốn cho nhà phát hành.
1.2.2.2. Thị trờng thứ cấp:hay thị trờng cấp hai là thị trờng giao dịch mua bán trao đổi những chứng khoán đã đợc phát hành nhằm mục đích kiếm lời, di chuyển vốn đầu t hay di chuyển tài sản xã hội.
Thị trờng thứ cấp làm tăng tính lỏng cho các chứng khoán đã phát hành, xác định giá của chứng khoán đã phát hành trên thị trờng sơ cấp. Thị trờng thứ cấp là thị trờng đánh giá công ty qua sự lên hay xuống của giá chứng khoán công ty đó.
Vị trí của TTCK trong thị trờng tài chính: TTCK là hình ảnh đặc trng của thị trờng vốn. Trên TTCK giao dịch hai loại công cụ tài chính: công cụ tài chính trên thị trờng vốn và công cụ tài chính trên thị trờng tiền tệ. TTCK là hạt nhân trung tâm của thị trờng tài chính, nơi diễn ra quá trình phát hành, mua bán các công cụ nợ và công cụ vốn ( các công cụ sở hữu ).
1.2.3. Vai trò của thị trờng chứng khoán trong phát triển kinh tế
TTCK có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế.
Thứ nhất: TTCK với việc tạo ra các công cụ tài chính có tính thanh khoản cao, có thể tích tụ, tập trung và phân phối vốn, chuyển thời hạn của vốn phù hợp với yêu phát triển kinh tế.
Yếu tố thông tin và cạnh tranh trên thị trờng sẽ đảm bảo cho việc phân phối vốn một cách có hiệu quả.
TTCK tạo một sự cạnh tranh có hiệu quả trên thị trờng tài chính, điều này buộc các NHTM và các tổ chức tài chính phải quan tâm tới hoạt động của chính họ và làm giảm chi phí tài chính.
Việc huy động vốn trên TTCK có thể làm tăng vốn tự có của các công ty và giúp họ tránh đợc các khoản vay có chi phí cao cũng nh sự kiểm soát chặt chẽ của các NHTM khuyến khích tính cạnh tranh của các công ty trên thị trờng. Hoạt động của thị trờng chứng khoán cũng là yếu tố quyết định để thu hút vốn đầu t nớc ngoài. Đây chính là các yếu tố đảm bảo cho sự phân bổ có hiệu quả các nguồn lực trong một quốc gia cũng nh trong phạm vi quốc tế.
Thứ hai: TTCK góp phần thực hiện tái phân phối công bằng hơn, thông qua việc buộc các tập đoàn gia đình trị phát hành chứng khoán ra công chúng, giải toả sự tập trung quyền lực của tập đoàn song vẫn tập trung vốn cho phát triển kinh tế.
Thứ ba: TTCK tạo điều kiện tách biệt giữa sở hữu và quản lý doanh nghiệp. Cơ chế thông tin hoàn hảo tạo khả năng giám sát chặt chẽ của TTCK đã làm giảm các tác động tiêu cực trong quản lý, tạo khả năng kết hợp hài hoà giữa lợi ích của chủ sở hữu và nhà quản lý
Thứ t: Việc mở cửa TTCK làm tăng tính lỏng và cạnh tranh trên thị trờng quốc tế. Điều này cho phép các công ty có thể huy động vốn rẻ hơn đồng thời tăng khả năng cạnh tranh quốc tế và mở rộng cơ hội kinh doanh của các công ty trong nớc.
Thứ năm: TTCK tạo cơ hội cho chính phủ huy động các nguồn tài chính mà không tạo áp lực về lạm phát, đồng thời tạo các công cụ cho việc thực hiện chính sách tài chính tiền tệ của chính phủ.
Thứ sáu: TTCK cung cấp một dự báo tuyệt vời về các chu kỳ kinh doanh trong tơng lai do việc thay đổi giá chứng khoán luôn có xu hớng đi trớc chu kỳ kinh doanh. TTCK cũng tạo điều kiện tái cấu trúc nền kinh tế.
Bên cạnh đó TTCK cũng có những tác động tiêu cực nhất định. TTCK hoạt động trên cơ sở thông tin hoàn hảo. Song ở thị thị trờng mới nổi, thông tin đợc chuyển tới nhà đầu t không đầy đủ và không giống nhau. Việc quyết định giá cả, mua bán thông tin không dựa trên cơ sở thông tin và xử lý thông tin. Nh vậy, giá cả chứng khoán không phản ánh giá trị kinh tế cơ bản của công ty và không trở thành cơ sở để phân phối một cách có hiệu quả các nguồn lực.
Một số tiêu cực khác nh hiện tợng đầu cơ, xung đột quyền lực làm thiệt hại cho các cổ đông thiểu số, mua bán nội gián, thao túng thị trờng.
Nh vậy, vai trò của TTCK đợc thể hiện trên nhiều khía cạnh song vai trò tích cực hay tiêu cực của TTCK có thực sự đợc phát huy hay hạn chế phụ thuộc đáng kể vào các chủ thể tham gia thị trờng và sự quản lý của Nhà nớc.
1.2.4. Hàng hoá trên thị trờng chứng khoán
Hàng hoá trên TTCK gồm cổ phiếu, trái phiếu và thị trờng chứng khoán phái sinh. Trong đó cổ phiếu là sự xác nhận quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp của ngời mua với tài sản của doanh nghiệp phát hành. Trái phiếu là một công cụ nợ, với ngời phát hành là ngời đi vay còn nhà đầu t là ngời cho vay. Trái phiếu gồm trái phiếu chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phơng, trái phiếu các NHTM và trái phiếu doanh nghiệp. Chứng khoán phái sinh là loại chứng khoán gắn với một chứng khoán gốc, gồm hợp đồng quyền chọn, hợp đồng kỳ hạn và các quyền mua trớc.
1.2.5. Các chủ thể trên thị trờng chứng khoán
1.2.5.1. Chủ thể phát hành là ngời cung cấp các chứng khoán – hàng hoá trên thị trờng chứng khoán, gồm chính phủ, các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính, các quỹ đầu t.
1.2.5.2. Nhà đầu t là những ngời có tiền, thực hiện việc mua bán chứng khoán trên TTCK để tìm kiếm lợi nhuận. Nhà đầu t có thể gồm hai loại: nhà đầu t cá nhân và nhà đầu t có tổ chức. Nhà đầu t cá nhân là cá nhân là cá nhân, hộ gia đình, những ngời có vốn nhàn rỗi tạm thời tham gia mua bán chứng khoán với mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Nhà đầu t có tổ chức là các NHTM, Công ty chứng khoán, Công ty đầu t, Quỹ tơng hỗ...
1.2.4.3. Các tổ chức có liên quan đến TTCK gồm cơ quan quản lý và giám sát hoạt động chứng khoán ( Bộ Tài Chính, Uỷ ban chứng khoán nhà nớc ), Sở giao dịch chứng khoán, Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán, tổ chức lu ký và thanh toán bù trừ, các tổ chức hỗ trợ, các công ty đánh giá hệ số tín nhiệm.
1.3. Vai trò của ngân hàng thơng mại trên thị trờng chứng khoán
1.3.1. NHTM tạo hàng hoá cho TTCK
1.3.1.1. Cổ phiếu và trái phiếu ngân hàng
Cổ phiếu ngân hàng là một loại chứng khoán vốn đợc phát hành dới dạng chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ, xác nhận quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp của ngời mua đối với tài sản hoặc vốn của ngân hàng. Cổ phiếu là một công cụ tài chính có thời hạn thanh toán là vô hạn
Trái phiếu ngân hàng là một công cụ vay nợ dài hạn trên thị trờng vốn dới hình thức giấy nhận nợ do các tổ chức tín dụng phát hành để huy động vốn, trong đó cam kết trả lãi và gốc cho ngời mua ( hoặc ngời sở hữu ) sau một thời gian nhất định. Về phía ngời mua trái phiếu ngân hàng là giấy chứng nhận việc đầu t vốn và quyền đợc hởng thu nhập của ngời mua trên số tiền mua trái phiếu ngân hàng.
a, NHTM mới thành lập phát hành cổ phiếu để thành lập ngân hàng thơng mại cổ phần ( NHTMCP )
Kể từ khi có pháp lệnh ngân hàng (1990), hệ thống NHTM nớc ta, ngoài các ngân hàng thơng mại quốc doanh, các NHTMCP cũng đợc phép thành lập và hoạt động dới sự kiểm soát của ngân hàng nhà nớc. Trong pháp lệnh ngân hàng nhà nớc có ghi “ NHTMCP là ngân hàng thành lập dới hình thức công ty cổ phần trong đó một cá nhân hoặc một tổ chức không đợc sở hữu của ngân hàng không quá tỷ lệ do ngân hàng nhà nớc quy định. Nh vậy khi mới thành lập NHTM phát hành cổ phiếu để huy động vốn.
Sau khi xác định vốn điều lệ, từ đó mới tính đợc số cổ phần cần thiết phát hành với mệnh giá là bao nhiêu. Tổng mệnh giá phát đợc tính bằng vốn điều lệ. Tổng mệnh giá phát hành chia cho mệnh giá một cổ phiếu sẽ ra số lợng cổ phiếu cần phát hành.
Khi mới thành lập, các NHTM huy động vốn bằng cách phát hành và bán cổ phiếu là thích hợp nhất vì nó là con đờng ngắn nhất , tiện lợi và tiết kiệm nhất trong việc tìm kiếm nguồn vốn để hoạt động. Mặt khác nó tạo ra hàng hoá cung cấp cho TTCK. Về phía các thành viên tham gia mua cổ phiếu có quyền lợi và trách nhiệm gắn liền với hoạt động của ngân hàng tuỳ theo cổ phần mà họ nắm giữ.
Tóm lại: Các NHTMCP đã tạo ra một khối lợng khá lớn chứng khoán, nó nh một hoạt động thúc đẩy sự phát triển không ngừng của thị trờng chứng khoán.
b, NHTMCP và Quốc Doanh phát hành cổ phiếu, trái phiếu để tăng vốn bổ sung cho quá trình hoạt động
Các NHTMCP và quốc doanh trong quá trình hoạt động, khi có nhu cầu vốn để mở rộng quy mô và lĩnh vực kinh doanh có thể huy động vốn dới các hình thức:
NHTM dùng đòn bẩy lãi suất để thu hút tiền gửi từ công chúng.
Thông qua việc quản lý các khoản tiền gửi của khách hàng.
Các NHTMCP có thể phát hành cổ phiếu và trái phiếu dài hạn và các NHTMCP
Quốc doanh đợc phép phát hành trái phiếu.
Trong các hình thức huy động vốn trên thì hình thức huy động bằng cách phát hành cổ phiếu và trái phiếu là phổ biến nhất trên thế giới hiện nay. Tại Việt Nam, chính phủ đã và đang khuyến khích các NHTM huy động vốn bằng cách phát hành trái phiếu. Tuy nhiên tuỳ vào tình hình của thị trờng cũng nh tình hình kinh doanh của ngân hàng mà lựa chọn nên phát hành cổ phiếu và trái phiếu vì mỗi loại đều có u nhợc điểm nhất định.
Mặt khác các NHTM thờng xuyên phải tăng vốn điều lệ đảm bảo tỷ lệ an toàn theo thông lệ quốc tế từ 8% trở lên. Để tăng vốn điều lệ các NHTM phát hành cổ phiếu để huy động vốn.
Với việc NHTMCP và Quốc doanh phát hành cổ phiếu và trái phiếu để bổ sung vốn cho quá trình hoạt động đã làm tăng lợng cung chứng khoán trên thị trờng chứng khoán.
Việc các NHTM phát hành cổ phiếu, trái phiếu có ý nghĩa quan trọng: một mặt nó góp phần tăng hàng hoá cho TTCK , mặt khác nó là một kênh dẫn vốn quan trọng cho các NHTM cho mục tiêu tăng trởng của nền kinh tế.
Các chứng khoán ngân hàng đã, đang và sẽ là một hàng hoá hấp dẫn tạo sự sôi động cho TTCK do hoạt động kinh doanh ngày càng có hiệu quả mang lại mức cổ tức, lãi suất cao cho các nhà đầu t.
1.3.1.2. Ngân hàng là nhân tố góp phần thúc đẩy quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nớc và hình thành các công ty cổ phần
Ngân hàng tham gia vào việc thành lập các công ty cổ phần hoặc cổ phần các doanh nghiệp nhà nớc với một tỷ lệ cổ phiếu đáng kể, để có đủ điều kiện tham gia quản trị kinh doanh, tín nhiệm. Công ty cổ phần dù mới thành lập hay đã cổ phần hoá vốn vẫn còn hạn hẹp so với yêu cầu kỹ thuật và công nghệ hiện đại, do đó ngân hàng phải là các trợ thủ đắc lực cho các công ty cổ phần vay tín dụng. Nh vậy, chính chế độ tín dụng của ngân hàng đã xã hội các nguồn vốn, giải quyết mâu thuẫn trong sự vận động của các nguồn vốn giữa các thành phần kinh tế, xoá bỏ tính chất t nhân, cá biệt của nguồn vốn trong công ty cổ phần. Một doanh nghiệp có thể bắt đầu hoạt động kinh doanh của mình bằng một khoản vay nợ ngân hàng. Các ngân hàng là ngời đầu tiên đã lập ra việc kiểm tra các hoạt động của công ty, họ quyết định có cho vay hay không và có nên tiếp tục cấp tín dụng hay không? Một ngân hàng sẽ cung cấp tín dụng nếu biết rằng một công ty thành công, cuối cùng có thể hoạt động kinh doanh trên thị trờng chứng khoán. Nh vậy kỷ cơng tài chính của ngân hàng sẽ đa công ty vào thị trờng chứng khoán, sau đó thị trờng chứng khoán sẽ bổ sung một kỷ luật tài chính với công ty.
1.3.1.3. NHTM với vai trò phân phối, bảo lãnh phát hành trái phiếu chính phủ
Bảo lãnh phát hành là việc tổ chức bảo lãnh giúp tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trớc khi chào bán chứng khoán, tổ chức việc phân phối chứng khoán và giúp bình ổn giá chứng khoán trong giai đoạn đầu sau khi phát hành. Bảo lãnh phát hành bao gồm cả việc t vấn tài chính và phân phối chứng khoán. Tổ chức bảo lãnh đợc hởng phí bảo lãnh hoặc một tỷ lệ hoa hồng nhất định.
Trái phiếu chính phủ do chính phủ hoặc những ngành đặc biệt nh giao thông, bu điện, điện đợc chính phủ uỷ quyền phát hành. Trái phiếu chính phủ là giấy nợ của chính phủ. Trái phiếu chính phủ đợc đảm bảo chắc chắn bởi uy tín của chính phủ và tài sản của quốc gia, trái phiếu chính phủ có khả năng cầm cố và chuyển nhợng.
Tại một số thị trờng tài chính lớn trên thế giới, các trung gian tài chính, trong đó các NHTM đóng vai trò quan trọng trên thị trờng trái phiếu chính phủ với t cách là các đại lý sơ cấp hoặc bảo lãnh phát hành.
Tại Việt Nam, bảo lãnh phát hành là phơng thức phổ biến nhất đối với trái phiếu chính phủ. Với độ tín nhiệm cao và tiềm lực tài chính mạnh, các NHTM có u thế khi tham gia bảo lãnh phát hành. Bên cạnh đó, trái phiếu chính phủ còn đợc chào bán qua trung tâm giao dịch chứng khoán và bán lẻ qua hệ thống kho bạc nhà nớc
1.3.1.4. NHTM thành lập các công ty chứng khoán hạch toán độc lập thực hiện vai trò bảo lãnh phát hành chứng khoán cho các tổ chức phát hành
Công ty chứng khoán là một định chế tài chính trung gian thực hiện các nghiệp vụ trên thị trờng chứng khoán.
Tại Việt Nam theo quy định số 04/1998/QD-UBCK 3 ngày 3/10/1998 của uỷ ban chứng khoán nhà nớc thì công ty chứng khoán là công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn thành lập hớp tại Việt Nam, đợc uỷ ban chứng khoán nhà nớc cấp giấy phép thực hiện một hoặc một số loại hình kinh doanh chứng khoán.
Một trong những nguyên tắc của thị trờng chứng khoán là nguyên tắc trung gian. Nguyên tắc này yêu cầu nhà đầu t và nhà phát hành không đợc mua bán trực tiếp chứng khoán mà phải thông qua các trung gian mua bán. Các công ty chứng khoán sẽ thực hiện vai trò trung gian cho cả ngời đầu t và ngời phát hành. Và khi thực hiện công việc này, công ty chứng khoán đã tạo ra cơ chế huy động vốn cho nền kinh tế thông qua thị trờng chứng khoán.
Để thực hiện thành công các đợt chào bán chứng khoán ra công chúng, đòi hỏi các tổ chức phát hành phải cần đến các công ty chứng khoán t vấn cho đợt phát hành và thực hiện phân phối bảo lãnh chứng khoán ra công chúng. Đây chính là nghiệp vụ bảo lãnh phát hành của các công ty chứng khoán và là nghiệp vụ chiếm tỷ lệ doanh thu khá cao trong tổng doanh thu của công ty chứng khoán.
Khi một tổ chức muốn phát hành chứng khoán, tổ chức đó gửi yêu cầu bảo lãnh phát hành đến công ty chứng khoán. Công ty chứng khoán có thể sẽ kí một hợp đồng t vấn quản lý để t vấn cho tổ chức phát hành về các loại chứng khoán cần phát hành, số lợng chứng khoán cần phát hành, định giá chứng khoán và phơng thức phân phối chứng khoán tới nhà đầu t thích hợp. Để đợc cho phép bảo lãnh, phát hành, công ty chứng khoán phải đệ trình một phơng án bán và cam kết bảo lãnh lên Uỷ ban chứng khoán nhà nớc. Khi các nội dung phát hành đợc Uỷ ban chứng khoán nhà nớc thông qua. Công ty chứng khoán có thể trực tiếp kí hợp đồng bảo lãnh hoặc thành lập các nghiệp đoàn bảo lãnh để kí hợp đồng bảo lãnh giữa nghiệp đoàn và tổ chức phát hành.
Khi Uỷ ban chứng khoán cho phép phát hành chứng khoán và đến thời hạn giấy phép có hiệu lực, công ty chứng khoán (nghiệp đoàn bảo lãnh) thực hiện phân phối chứng khoán.
Đến đúng ngày theo hợp đồng, công ty bảo lãnh phát hành phải giao tiền bán chứng khoán cho tổ chức phát hành. Số tiền thanh toán là giá trị chứng khoán trừ đi phí bảo lãnh.
Có hai cách phát hành hộ chứng khoán nh sau:
Cách một: Phát hành hộ chứng khoán để hởng phí hoa hồng.
Khi thực hiện nghiệp vụ này, công ty chứng khoán và ngời phát hành sẽ kí một hợp đồng. Nếu ngân hàng không bán hết bất cứ một chứng khoán nào thì có thể trả lại cho ngời phát hành mà không bị phạt.
Thực hiện nghiệp vụ này, công ty chứng khoán có nhiều điểm lợi: đảm bảo an toàn về vốn hoạt độngcủa mình, thu đợc hoa hồng. Hoa hồng là tỷ lệ phần trăm tiền doanh số bán, do đó phát hành càng nhiều chứng khoán thì càng có thu nhập, phát hành đợc ít thì thu nhập có ít. Công ty chứng khoán không chịu trách nhiệm về việc có bán đợc chứng khoán hay không? Thông thờng lệ phí phát hành cổ phiếu cao hơn lệ phí phát hành trái phiếu và công trái nhà nớc bởi vì cổ phiếu có tính thanh khoản thấp hơn, khó bán đợc.
Cách hai: Các công ty cổ phần sử dụng phơng thức phát hành cổ phiếu để huy động vốn, đặc biệt phát hành cổ phiếu để thành lập công ty, họ muốn đợt phát hành cổ phiếu đảm bảo thành công nên thờng nhờ công ty chứng khoán bao tiêu toán bộ cổ phiếu phát hành.
Khi nhận bao tiêu các cổ phiếu đợc phát hành của một công ty nào đó, công ty chứng khoán nhận mua toàn bộ chứng khoán của công ty phát hành. Sau đó sẽ bán lại theo giá định sẵn cho ngời mua riêng biệt và đợc hởng phí bằng chênh lệch giữa giá bán và giá mua phải trả cho công ty phát hành, ngoài ra còn đợc hỏng một số quyền lợi nh đợc chia một số cổ phần sáng lập hoặc giữ một số ghế trong hội đồng quản trị hay đợc độc quyền về nghiệp vụ tài chính của doanh nghiệp. Công ty chứng khoán phải đảm bảo bán hết số chứng khoán đảm bảo hoa tiêu, nếu không phải mua lại hết không đợc trả lại cho ngời phát hành.
NHTM thực hiện bao tiêu chứng khoán phát hành thờng chịu nhiều rủi ro hơn là làm trung gian hởng hoa hồng.Để giảm bớt rủi ro các NHTM sử dụng các biện pháp: liên kết hai hay nhiều ngân hàng với nhau hình thành nhóm bảo lãnh phát hành chứng khoán để phân tán rủi ro, tìm hiểu kỹ về tình hình của công ty trớc khi đảm bảo hoa tiêu.
Số tiền phí mà các NHTM nhận đợc khi thực hiện nghiệp vụ bao tiêu phát hành chứng khoán thờng cao hơn phí hoa hồng.
1.3.2. NHTM là cầu nối giữa nhà đầu t và thị trờng chứng khoán
1.3.2.1. NHTM với vai trò là ngời môi giới chứng khoán
Tại Việt Nam khi thành lập Sở giao dịch chứng khoán, có thể nói ngân hàng là ứng cử viên có nhiều u thế nhất vào chức danh ngời môi giới chứng khoán, bởi lẽ:
Ngân hàng là ngời hiểu biết khá tờng tận về các doanh nghiệp phát hành chứng khoán ( thông qua các nghiệp vụ tín dụng, thanh toán ... của ngân hàng).
Ngân hàng là có sẵn các phơng tiện kỹ thuật cần thiết phù hợp với yêu cầu của ngời môi giới.
Ngân hàng có đội ngũ cán bộ, nhân viên có nghiệp vụ chuyên môn liên quan chặt chẽ và gần gũi với những nghiệp vụ về chứng khoán.
Với vai trò là ngời môi giới chứng khoán, trên thực tế ngân hàng chỉ thực hiện yêu cầu của khách hàng là lấy danh nghĩa của mình để mua hoặc bán chứng khoán cho khách hàng và đợc hởng một khoản hoa hồng theo thoả thuận. Với chức năng này, ngân hàng không phải bỏ ra một đồng vốn kinh doanh nào, mọi khoản chi phí do khách hàng chịu trách nhiệm cung cấp. Hơn nữa, vì có quyền thay mặt và quyền không phải thông báo cho khách hàng biết đã mua chứng khoán cua ai hoặc đã bán cho ai, ngân hàng có thể bán ngay số chứng khoán của mình cho khách hàng hoặc mua luôn số chứng khoán của khách hàng cho mình nếu thấy có lợi. Chẳng hạn, khi một khách hàng uỷ quyền cho ngân hàng mua cổ phiếu của một công ty nào đó với giá “rẻ nhất” tại thời điểm quy định thì ngân hàng sẽ không nhất thiết phải mua cổ phiếu đó tại sở giao dịch chứng khoán, mà có thể lấy chúng từ dự trữ của mình để bán cho khách hàng. Tất nhiên trong các trờng hợp nh vậy, ngân hàng phải nắm vững tỷ giá chính thức để xác định mức giá bán cho khách hàng.
1.3.2.2. NHTM cung cấp các dịch vụ tạo thuận lợi cho các nhà đầu t trên TTCK
a, Dịch vụ lu giữ quản lý hộ chứng khoán
Tại pháp lệnh ngân hàng đã viết: “ NHTM có thể thực hiện các nghiệp vụ về cất giữ, mua bán, chuyển nhợng, quản lý các chứng khoán và các giấy tờ có giá khác”.
Chứng từ có giá ở đây là các cổ phiếu, trái phiếu... nó có giá trị nh tiền nên cần đợc bảo quản và lu trữ cẩn thận. Những nhà đầu t cầm chứng khoán trong tay với khối lợng lớn sẽ không đảm bảo an toàn, họ có nhu cầu nhờ ai đó quản lý hộ. NHTM là một tổ chức rất có u thế về lĩnh vực này vì đã từng thực hiện các nghiệp vụ quản lý hộ vàng bạc, đá quý và những tài sản giá trị khác.
Nghiệp vụ lu giữ, bảo quản chứng khoán cho khách hàng của NHTM là dịch vụ cho thuê két sắt đối với những cá nhân, những công ty, xí nghiệp có nguồn chứng khoán lớn muốn tìm kiếm một nhu cầu an toàn hoặc đối với các ngân hàng nhỏ không đủ phơng tiện giữ chứng khoán cho khách hàng, có thể gửi chứng khoán tại ngân hàng lớn.
Về phía ngân hàng thơng mại khi thực hiện dịch vụ lu giữ, bảo quản hộ chứng khoán hộ khách hàng có ích lợi nh: NHTM có thể sử dụng chứng khoán lu giữ, bảo quản hộ thế chấp cho một khoản vay của ngân hàng hoặc mở rộng các dịch vụ khác cho khách hàng ( nhận lãi chứng khoán hộ, giao hoán và thanh toán chứng khoán...) theo sự uỷ quyền của khách hàng. Khi thực hiện dịch vụ này, ngân hàng thu đợc khoản phí dịch vụ từ khách hàng. Trong tơng lai dịch vụ này sẽ không ngừng đợc mở rộng, nó trở thành một nguồn lợi lớn cho khách hàng mà gần nh không bị rủi ro.
Về phía khách hàng nhờ ngân hàng lu giữ chứng khoán giúp họ tiết kiệm đợc chi phí, đảm bảo an toàn đồng thời đợc ngân hàng cung cấp các dịch vụ khác có liên quan đến chứng khoán.
b, Thực hiện thanh toán các chứng khoán.
Nghiệp vụ thanh toán nối tiếp dịch vụ quản lý chứng khoán đã nêu trên. Ngân hàng có thể mở cho khách hàng của mình các tài khoản chứng khoán để theo dõi việc mua, bán, chuyển nhợng chứng khoán cho khách hàng, kể cả việc thu hồi lãi, thu cổ tức. Rõ ràng, những tài khoản chứng khoán sẽ giúp ích rất nhiều cho hoạt động mua bán chứng khoán trên thị trờng của khách hàng. Các nhà đầu t và kinh doanh chứng khoán, các trung gian môi giới không phải bận tâm với việc lu giữ và theo dõi việc mua bán một số lợng khổng lồ các cổ phiếu, trái phiếu hàng ngày. Ngân hàng sẽ đảm bảo cho khách hàng việc này. Nhờ ngân hàng tổ chức thực hiện thanh toán chứng khoán, hoạt động mua, bán cổ phiếu, trái phiếu trên thị trờng chứng khoán sẽ thực hiện nhanh chóng, dễ dàng hơn và không phải di chuyển qua lại một số lợng lớn cổ phiếu, trái phiếu rất cồng kềnh và tốn kém.
Chính nhờ có ngân hàng, mà phần lớn các giao dịch chứng khoán thực hiện bằng chuyển khoản qua hệ thống ngân hàng nên nhu cầu tiền mặt không lớn lắm.
c, Công tác thanh toán bù trừ
Hoạt động giao dịch chứng khoán đợc diễn ra liên tục trên sở giao dịch chứng khoán, bên cạnh đó sự luân chuyển vốn làm sao phải theo kịp với sự chuyển của chứng khoán. Chúng ta biết rằng hoạt động trên TTCK hết sức sôi động, nếu tất cả các khoản thanh toán đều thực hiện bằng tiền mặt thì có lẽ sở giao dịch chứng khoán đã biến thành một “ngân hàng” và hoạt động giao dịch tiền mặt ngày càng tăng lên theo sự gia tăng của giao dịch chứng khoán. Để giải quyết đợc nhợc điểm này, ngời ta áp dụng thanh toán bằng chuyển khoản, đã giảm đi một gánh nặng lớn, theo đó tất cả những ngời mua bán, các nhà môi giới, kinh doanh chứng khoán đều có tài khoản ở ngân hàng, khi các giao dịch mua bán kết thúc thì mỗi ngời sẽ nhận đợc các giấy báo nợ, báo có mà không phải quan tâm đến vấn đề tiền mặt nữa, đây là một bớc tiến mới giúp TTCK hoạt động trôi chảy hơn.
Mặt khác, các nhà đầu t, các nhà môi giới, các chuyên gia chứng khoán phải thực hiện rất nhiều giao dịch trong ngày do đó để giản tiện ngời ta áp dụng việc thanh toán bù trừ để đơn giản hoá việc thanh toán. Thanh toán bù trừ chứng khoán là hoạt động luân chuyển chứng khoán trên các tài khoản lu ký dới sự điều hành của trung tâm lu ký, thanh toán bù trừ chứng khoán.
Công tác thanh toán bù trừ đều do các ngân hàng đảm nhận, nếu công tác này đợc tiến hành tốt sẽ là một yếu tố quan trọng thúc đẩy sự thành công của TTCK. Thanh toán và bù trừ đợc thực hiện theo các trình tự sau:
Ngời mua, ngời bán, nhà môi giới đều có tài khoản tại một ngân hàng. Sau khi các lệnh mua bán đợc nhà môi giới thực hiện, lúc này sẽ có một hoá đơn đợc lập để xác định việc mua bán ( về số lợng, giá cả) để gửi đến ngân hàng nhờ thanh toán hộ. Căn cứ vào hoá đơn này, ngân hàng sẽ ghi nợ cho ngời mua và ghi có cho ngời bán và những ngời đợc hởng hoa hồng, đây là trờng hợp thanh toán đơn giản nhất. Tất nhiên theo yêu cầu của khách hàng thì có thể đợc thanh toán ngay sau một thời gian nhất định, thờng thì sau từ một đến hai ngày vì không thể thực hiện đợc tất cả giao dịch chứng khoán đợc ngay. Nếu khách hàng muốn thanh toán nóng thì phải trực tiếp tới ngân hàng còn thờng thì do ngời môi giới chuyển đến ngân hàng để thanh toán, khách hàng có thể nhận giấy báo nợ, báo có tại ngân hàng hay tại các công ty chứng khoán.
Ngời mua, ngời bán, ngời môi giới không mở tài khoản tại một ngân hàng, lúc này phải tham gia thanh toán bù trừ qua ngân hàng nhà nớc, các hoá đơn mua bán đều đợc gửi về ngân hàng ngời mua và ngân hàng ngời bán mở tài khoản để thanh toán, sau đó ngân hàng bên mua và bán tham gia thanh toán bù trừ, trong trờng hợp này thì phải mất từ hai đến ba ngày khách hàng mới có thể nhận các giấy báo nợ, báo có.
Dịch vụ thanh toán và thanh toán bù trừ của các NHTM hỗ trợ cho hoạt động của TTCK diễn ra đều đặn, suôn sẻ. Thanh toán chứng khoán thực sự là một khâu quan trọng trong hoạt động mua, bán chứng khoán đặc biệt là trên TTCK thứ cấp. Ngân hàng có thể kết hợp với trung tâm giao khoán và thanh toán chứng khoán để hoàn thiện hệ thống lu giữ và thanh toán chứng khoán.
d, Dịch vụ nhận lãi chứng khoán hộ khách hàng
Các chứng khoán khách hàng gửi ngân hàng bảo quản hộ có thể là trái phiếu chính phủ hoặc trái phiếu, cổ phiếu công ty. Thông thờng các chứng khoán này trả lãi vào cuối năm và các chủ chứng khoán nhờ ngân hàng nhận hộ lãi khi đến kỳ hạn trả lãi. Để thực hiện nghiệp vụ này ngân hàng mở cho khách hàng một tài khoản tạm gọi là tài khoản lu giữ chứng khoán bên cạnh tài khoản tiền gửi và nếu ngời nhận lãi và ngời trả lãi ( các công ty cổ phần, kho bạc) đều có tài khoản tiền gửi tại một ngân hàng thì việc nhận và trả lãi diễn ra rất đơn giản cụ thể: ngân hàng chỉ việc trích số tiền từ bên nợ của tài khoản tiền gửi của đơn vị trả lãi để trả cho ngời nhận lãi và ghi có tài khoản tiền gửi của ngời nhận lãi. Nếu ngời trả lãi và ngời nhận lãi có tài khoản ở hai ngân hàng thơng mại khác nhau thì cũng không có gì phức tạp khi nớc ta đã có hệ thống thanh toán liên ngân hàng và hệ thống thanh toán bù trừ khá hoàn chỉnh.
Ngoài ra ngân hàng còn thu hút đợc một khoản tiền gửi là lãi chứng khoán, làm tăng thêm vốn của NHTM để cho vay. Mặt khác nó góp phần làm kích thích sử dụng thanh toán không dùng tiền mặt.
Thông thờng, ngân hàng chỉ thực hiện các dịch vụ bảo quản và nhận lãi chứng khoán hộ khách hàng có khối lợng chứng khoán lớn và không nhận đối với khách hàng có số lợng chứng khoán nhỏ vì tốn tiền chi phí, đôi khi số tiền nhận lãi chứng khoán không đủ để trả phí dịch vụ cho Ngân hàng.
Ngân hàng quản lý chứng khoán hộ cũng tơng tự nh quản lý tiền gửi của khách hàng, nghĩa là mọi nghiệp vụ liên quan đến chứng khoán đều do ngân hàng thực hiện, nhng phải dựa trên cơ sở các lệnh của khách hàng đa ra hoặc uỷ nhiệm hợp pháp của khách hàng.
1.3.2.3. Hoạt động của công ty chứng khoán trực thuộc NHTM tạo cầu nối giữa nhà đầu t và TTCK
a, Nghiệp vụ môi giới chứng khoán
Công ty chứng khoán đại diện cho khách hàng tiến hành giao dịch thông qua cơ chế giao dịch tại các sở giao dịch chứng khoán hoặc tại thị trờng OTC mà chính khách hàng phải chịu trách nhiệm đối với kết quả giao dịch của mình.
Thông qua hoạt động môi giới, công ty chứng khoán sẽ chuyển đến cho khách hàng các sản phẩm, dịch vụ t vấn đầu t và kết nối giữa nhà đầu t bán chứng khoán với nhà đầu t mua chứng khoán. Và trong những trờng hợp nhất định, hoạt động môi giới sẽ trở thành ngời bạn, ngời chia sẻ những lo âu, căng thẳng và đa ra những lời động viên kịp thời để nhà đầu t có những quyết định tỉnh táo.
b, Nghiệp vụ tự doanh
Tự doanh là việc công ty chứng khoán tự tiến hành các giao dịch mua bán chứng khoán cho chính mình. Hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán đợc thực hiện thông qua cơ chế giao dịch trên SGDCK hoặc thị trờng OTC.
Mục đích của hoạt động t doanh là nhằm thu lợi nhuận cho chính công ty thông qua hành vi mua, bán chứng khoán với khách hàng. Nghiệp vụ này hoạt động song hành với nghiệp vụ môi giới, vừa phục vụ lệnh giao dịch cho khách hàng đồng thời cũng phục vụ cho chính mình, vì vậy trong quá trình hoạt động có thể dẫn đến xung đột lợi ích giữa thực hiên giao dịch cho khách hàng và cho bản thân công ty. Do đó, luật pháp của các nớc đều yêu cầu tách biệt rõ ràng giữa nghiệp vụ môi giới và nghiệp vụ tự doanh, công ty chứng khoán phải u tiên thực hiện lệnh của khách hàng trớc khi thực hiện lệnh của mình. Thậm chí luật pháp ở một số nớc còn quy định có hai loại hình công ty chứng khoán là công ty môi giới chứng khoán chỉ làm chức năng môi giới và công ty chứng khoán có chức năng tự doanh.
c, Nghiệp vụ quản lý danh mục đầu t
Đây là nghiệp vụ quản lý vốn uỷ thác của khách hàng để đầu t vào chứng khoán thông qua danh mục đầu t nhằm sinh lợi cho khách hàng trên cơ sở tăng lợi nhuận và bảo toàn vốn cho khách hàng. Quản lý danh mục đầu t là một dạng nghiệp vụ t vấn mang tính chất tổng hợp có kèm theo đầu t, khách hàng uỷ thác tiền cho công ty chứng khoán thay mặt mình quyết định đầu t theo một chiến lợc hay những nguyên tắc đã đợc khách hàng chấp nhận hoặc yêu cầu ( mức lợi nhuận kỳ vọng, rủi ro có thể chấp nhận...).
d, Nghiệp vụ t vấn đầu t chứng khoán
Cũng nh các loại hình t vấn khác, t vấn đầu t chứng khoán là việc công ty chứng khoán thông qua hoạt động phân tích để đa ra các lời khuyên, phân tích các tình huống và có thể thực hiện một số công việc dịch vụ khác liên quan đến phát hành, đầu t và cơ cấu tài chính cho khách hàng. Nhà t vấn phải hết sức thận trọng trong việc đa ra các lời khuyên với khách hàng, vì với lời khuyên đó khách hàng có thể thu về lợi nhuận lớn hoặc thu lỗ, thậm chí phá sản, còn ngời t vấn thu về cho mình khoản thu phí về dịch vụ t vấn ( bất kể t vấn đó có thành công hay không ).
e, Các nghiệp vụ phù trợ
- Lu ký chứng khoán: là việc lu giữ, bảo quản chứng khoán của khách hàng thông qua các tài khoản lu ký chứng khoán. Khi thực hiện dịch vụ này, công ty chứng khoán sẽ nhận đợc các khoản thu phí lu ký chứng khoán, phí gửi, phí rút và phí chuyển nhợng chứng khoán.
- Quản lý thu nhập của khách hàng ( quản lý cổ tức ): xuất phát từ việc lu ký chứng khoán cho khách hàng, công ty chứng khoán sẽ theo dõi tình hình thu lãi, cổ tức cuả chứng khoán và đứng ra làm dịch vụ thu nhận và chi trả cổ tức cho khách hàng thông qua tài khoản của khách hàng.
- Nghiệp vụ tín dụng: Đối với các TTCK phát triển, bên cạnh nghiệp vụ môi giới chứng khoán cho khách hàng để hởng hoa hồng, công ty chứng khoán còn triển khai dịch vụ cho vay chứng khoán để khách hàng thực hiện giao dịch bán khống hoặc cho khách hàng vay tiền để khách hàng thực hiện nghiệp vụ mua ký quỹ. Cho vay ký quỹ là hình thức cấp tín dụng của công ty chứng khoán và sử dụng các chứng khoán đó làm vật thế chấp cho khoản vay đó. Khách hàng chỉ cần ký quỹ một phần, số còn lại sẽ do công ty chứng khoán ứng tiền trớc thanh toán. Đến kỳ hạn thoả thuận, khách hàng phải hoàn trả đủ số gốc vay cùng với lãi cho công ty chứng khoán. Trờng hợp khách hàng không trả đợc nợ, thì công ty sẽ phát mãi số chứng khoán đã mua để thu hồi nợ.
- Nghiệp vụ quản lý quỹ: ở một số TTCK, pháp luật về TTCK còn cho phép công ty chứng khoán đợc thực hiện nghiệp vụ quản lý quỹ đầu t. Theo đó, công ty chứng khoán cử đại diện của mình để quản lý quỹ và sử dụng vốn và tài sản cuả quỹ đầu t để đầu t vào chứng khoán. Công ty chứng khoán đợc thu phí dịch vụ quản lý quỹ đầu t.
1.3.3. Vai trò đầu t trực tiếp trên TTCK của NHTM
Danh mục đầu t chứng khoán của NHTM gồm:
Những chứng khoán đợc nắm giữ nhằm tạo ra thu nhập chính. Mức đầu t chứng khoán thờng xếp hàng thứ hai sau các khoản cho vay và có khi thay cho các khoản cho vay.
Các chứng khoán nắm giữ nhằm tạo thanh khoản. Phần lớn chứng khoán mà các định chế tài chính mua vào đều có một thị trờng thứ cấp năng động. Nhờ vậy mà chúng dễ dàng bổ sung tính thanh khoản cho NHTM khi cần thiết hoặc có thể chuyển đổi thành các dạng ngân quỹ trong tơng lai gần, trớc khi đến hạn thanh toán với mức rủi ro thấp và có sẵn tính khả thi.
Đầu t chứng khoán là loại hình phổ biến nhất trong tài sản có của các NHTM ở các nớc đã phát triển. Bản thân chứng khoán rất đa dạng về thể loại. Nhng chúng ta chỉ xem xét khái lợc về các chứng khoán dới giác độ nó là một loại đầu t của các NHTM. Chứng khoán là một loại phiếu nợ đợc ghi trên giấy dới hình thức một chứng từ. Chứng khoán có hai loại: trái phiếu của chính phủ hoặc các doanh nghiệp và cổ phiếu của các công ty cổ phần.
Đầu t vào chứng khoán của chính phủ thờng chiếm bộ phận lớn trong các loại đầu t chứng khoán của NHTM. Vì chứng khoán của chính phủ đợc xem là loại tài sản an toàn nhất. Dù rằng hầu hết các chính phủ trên thế giới đều có mức thâm hụt ngân sách ngày càng tăng và phải liên tục vay mợn của nhân dân bằng cách phát hành trái phiếu. Nhng chính phủ luôn có khả năng trả nợ đã vay qua phát hành trái phiếu vì khi cần thiết nó hoàn toàn có thể ra lệnh cho ngân hàng trung ơng in tiền mặt để trả nợ mà chỉ tốn ít thời gian. Thật ra không phải lúc nào cũng có thể và cũng nên in tiền mặt, nên chính phủ quyết định vay nợ của nhân dân bằng cách phát hành trái phiếu để bù đắp thâm hụt ngân sách và chi dùng.
Mua bán chứng khoán với mục tiêu kiếm lợi, buộc NHTM phải cân nhắc kỹ nên mua loại chứng khoán nào, mua vào lúc nào và bán vào lúc nào để có khả năng thu lợi nhuận cao nhất. Để giải quyết một loạt câu hỏi trên, ngân hàng phải tiến hành điều tra, nghiên cứu, thẩm định tính khả thi của chứng khoán sẽ mua bán với các chỉ tiêu phân tích kỹ thuật trong mua bán chứng khoán, ngành nghề kinh doanh của công ty, khả năng điều hành của ban giám đốc, khả năng sinh lợi hiện tại và tơng lai, chiến lợc phát triển...Kết hợp với khả năng phán đoán, nhận xét trên cơ sở phân tích các thông tin thu thập trên thị trờng để lựa chọn loại chứng khoán mua, bán. Họ thờng chọn chứng khoán của các công ty kinh doanh tốt để mua vì chứng khoán của các công ty này có ít rủi ro và tính thanh khoản cao. Ngoài ra, các ngân hàng còn phải phân tích lựa chọn thời điểm nào để mua bán chứng khoán sao cho có lợi nhất. Thông thờng, ngân hàng mua lúc hạ giá, bán lúc giá đã lên cao nhất hoặc bán lúc giá hạ để giảm lỗ khi dự đoán thị giá chứng khoán đó sụt không níu kéo đợc, không nên bán khi giá chứng khoán tiếp tục tăng.
1.3.4. Hoạt động của ngân hàng thơng mại tạo tính thanh khoản cho TTCK
1.3.4.1. Giao dịch các sản phẩm phái sinh
Các NHTM có thể thực hiện các sản phẩm phái sinh nh: hoán đổi, kỳ hạn, quyền chọn, hợp đồng tơng lai đối với trái phiếu, cổ phiếu trên thị trờng. Nh vậy, sự kết hợp liên thị trờng giữa thị trờng tiền tệ với thị trờng chứng khoán sẽ cung cấp cho các nhà đầu t nhiều công cụ để kinh doanh ( đầu cơ ) và bảo hiểm rủi ro, đồng thời sẽ tăng tính thanh khoản của thị trờng.
1.3.4.2. NHTM mở rộng cho vay cầm cố chứng khoán
Cầm cố là hình thức theo đó ngời nhận tài trợ của ngân hàng phải chuyển quyền kiểm soát tài sản đảm bảo sang cho ngân hàng trong thời gian cam kết ( thờng là thời gian nhận tài trợ ).
Cầm cố chứng khoán là hình thức theo đó ngời sở hữu chứng khoán phải chuyển quyền kiểm soát chứng khoán cho ngân hàng trong thời gian nhận tài trợ. Cách cầm cố chứng khoán: Khách hàng làm đơn vay và xin cầm cố chứng khoán; các chứng khoán này có thể sang tên ngân hàng hoặc đợc ngân hàng lu giữ với cam kết chuyển lại cho khách hàng. Ngân hàng chuyển đơn chuyển nhợng tới công ty đăng ký chứng khoán để công ty chuyển tên sang cho ngân hàng. Các chứng khoán này thuộc sở hữu ngân hàng. Khi khách hàng trả đủ nợ, ngân hàng sẽ làm thủ tục chuyển nhợng lại. Các chứng khoán vô danh thì không thể làm thủ tục chuyển nhợng.
Do nhiều yếu tố tác động đến khiến cho hoạt động này của NHTM ngày càng đợc mở rộng và phát triển. Các yếu tố đó là:
Thị trờng chứng khoán nóng lên, nhu cầu mua cổ phiếu của ngời dân tăng vọt, nên rất nhiều ngời đă dùng cổ phiếu vay vốn ngân hàng để kinh doanh chứng khoán.
Lãi suất tiền gửi ngắn hạn tăng cao ( thậm chí có ngân hàng còn cao hơn lãi suất trung hạn ), do đó các ngân hàng huy động đợc vốn ngắn hạn nhiều, vốn trung và dài hạn ít, thêm vào đó lãi suất cho vay tăng vợt quá mức lợi nhuận trên vốn bình quân của doanh nghiệp. Chính vì vậy, các NHTM xuất hiện tình trạng d vốn cho vay.
Từ các yếu tố trên, nhiều NHTM đã cầm cố cổ phiếu cho vay đáp ứng đợc nhu cầu đầu t chứng khoán của ngời dân và nhu cầu của chính TTCK.
1.3.5. NHTM góp phần điều hoà cung cầu, ổn định thị trờng chứng khoán
Vai trò này của NHTM đợc thể hiện một cách rõ rệt và tích cực thông qua các hoạt động:
Điều hoà quan hệ cung cầu chứng khoán: NHTM là chủ thể quan trọng cung cấp hàng hoá cho thị trờng chứng khoán, là ngời tạo thị trờng có thể làm tăng nhu cầu hoặc giảm nhu cầu chứng khoán khi cần thiết. Với cơ chế giao dịch đó, NHTM tham gia điều hoà cung cầu chứng khoán một cách nhanh nhạy.
Hoạt động của NHTM tạo ra sự ổn định của thị giá chứng khoán: Khi NHTM tham gia mua bán một khối lợng chứng khoán lớn sẽ làm thay đổi giá trị chứng khoán theo những chiều hớng nhất định. Hơn nữa, NHTM chủ động thay đổi mức tín dụng sẽ tác động trực tiếp đến thị giá chứng khoán bằng những hoạt động này các NHTM góp phần ổn định thị giá chứng khoán và TTCK.
Trợ giúp cho các công ty niêm yết, ổn định tâm lý của nhà đầu t chứng khoán: Sự ổn định và phát triển của TTCK phụ thuộc chủ yếu vào hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, đặc biệt là các công ty niêm yết và tâm lý của công chúng - những nguồn nắm giữ chứng khoán.Các NHTM còn thực hiện việc ổn định TTCK thông qua việc trợ giúp cho các công ty niêm yết khi họ gặp khó khăn về tài chính rủi ro, đảm bảo khả năng thanh toán, quyền tự chủ của họ trên thị trờng.
Hoạt động của NHTM góp phần nâng cao chất lợng GDCK cả về thời gian, độ chính xác và an toàn cần thiết. NHTM luôn hoàn thiện các nghiệp vụ GDCK. Điều này không chỉ giúp phần tăng nhanh tốc độ luân chuyển vốn, mà còn hạn chế rủi ro, bảo vệ lợi ích cho các nhà đầu t, thị trờng hoạt động an toàn.
1.3.6. Sự tham gia cuả NHTM góp phần đảm bảo nguyên tắc hoạt động của TTCK
Mỗi NHTM có thể tổ chức các bộ phận hoặc công ty chứng khoán độc lập. Từ đó họ sẽ đi sâu vào nghiệp vụ giao dịch đảm nhận.
Khách hàng có quan hệ tiền gửi và vay vốn của NHTM có thể mua bán chứng khoán qua công ty chứng khoán của ngân hàng. Đây là lợi thế cho các khách hàng vì ngân hàng có thể thực hiện toàn bộ GDCK. Song điều quan trọng hơn là các NHTM luôn đảm bảo nguyên tắc trung gian trong hoạt động kinh doanh chứng khoán.
NHTM có thể đảm bảo cung cấp các thông tin chính xác, hạn chế những hiện tợng lừa đảo trong kinh doanh chứng khoán.
NHTM góp phần rất quan trọng vào việc thực hiện nguyên tắc công khai và công bằng thông qua chức năng kiểm soát. Các hành vi buôn bán tay trong, đầu cơ bất chính sẽ đợc phát hiện và hạn chế khi có sự tham gia của NHTM vào hoạt động của TTCK.
Phần 2
Đánh giá về vai trò của NHTM trong hoạt động của TTCK
Việt Nam hiện nay
2.1. Thực trạng về TTCK Việt Nam hiện nay
Thị trờng chứng khoán Việt Nam năm nay đă có những bớc tiến khả quan. Theo đánh giá của hãng kinh tế Bloomberg, chỉ số thị trờng chứng khoán Việt Nam ( VN- Index ) - tính theo đồng đôla- đã tăng 66% trong năm 2006, mức cao nhất trong số 413 chỉ số của các TTCK Châu á. Các chỉ số của TTCK Trung Quốc đứng ở vị trí tiếp theo. Theo đó hãng này nhận định TTCK Việt Nam là một trong những thị trờng chứng khoán triển vọng nhất Châu á.
Theo ớc tính của công ty quản lý quỹ Dragon Capital, trong năm 2006 có khoảng 500 triệu USD vốn đầu t gián tiếp của nớc ngoài đổ vào TTCK Việt Nam. Đặc biệt từ trung tuần tháng 7-2006, với việc Ngân hàng Thơng Mại Cổ phần Sài Gòn thơng tín (Sacombank) niêm yết cổ phiếu trên Trung tâm giao dịch chứng khoán (TTGDCK) Tp. HCM với số vốn điều lệ gần 1900 tỷ đồng đã trở thành doanh nghiệp có số vốn lớn nhất niêm yết cổ phiếu và cũng làm cho quy mô hoạt động của trung tâm từ 1.5 tỷ USD tăng lên 2.0 tỷ USD.
Dự báo tới đây một loạt cổ phiếu của các doanh nghiệp lớn và hấp dẫn nh: ACB, Vinaphone, Bảo Việt, Cao su Dầu Tiếng, một số công ty cổ phần thuộc lĩnh vực hàng không, đợc niêm yết sẽ làm cho số vốn trên trung tâm giao dịch Chứng khoán T.p HCM lên tới 10 tỷ USD. Tại thời điểm tháng 11/ 2006 tổng giá trị vốn hoá TTCK chiếm 9% GDP với cổ phiếu và 8% với trái phiếu.
Tuy nhiên, TTCK nớc ta còn nhiều hạn chế nh: quy mô của thị trờng chứng khoán hiện nay còn quá nhỏ, bình quân đạt doanh số giao dịch 7-10 triệu USD/ ngày, trong khi đó của Thái Lan là 314 triệu USD, của Mỹ - NYSE, đạt 60 -70 tỷ USD/ ngày, Đài Loan đạt 3tỷ USD/ ngày, Hồng Kông là 3,2 tỷ USD...Theo Công ty chứng khoán Vietcombank, tại trung tâm giao dịch chứng khoán T.p HCM hiện có khoảng 49 cổ phiếu đợc niêm yết với tổng giá trị thị trờng là 3,1 tỷ USD. Trong khi đó, nớc láng giềng Thái Lan có 458 cổ phiếu đợc niêm yết với tổng giá trị 132,3 tỷ đô la. Tại Trung Quốc có tới 1381 công ty đợc niêm yết trên hai trung tâm giao dịch chứng khoán với tổng giá trị cổ phiếu là 650 tỷ đô la. Bên cạnh đó tính thanh khoản của các cổ phiếu tại thị trờng này cha cao nên TTCK Việt Nam cha thực sự thu hút đợc sự quan tâm của các nhà đầu t nớc ngoài. Hơn nữa cơ chế để các nhà đầu t nớc ngoài tiếp xúc đối với TTCK Việt Nam còn nhiều hạn chế: Họ chỉ đợc mua tối đa 49% lợng cổ phiếu của các công ty đợc niêm yết tại trung tâm giao dịch chứng khoán T.p HCM và nắm tối đa 30% cổ phiếu của Sacombank. Các nhà đầu t chứng khoán nớc ngoài cũng chỉ đợc mua cổ phiếu ở Việt Nam thông qua một công ty chứng khoán đợc đăng ký tại nớc này và phải có tài khoản ngân hàng bằng đồng Việt Nam. Hiện nay các nhà đầu t nớc ngoài có thể mua cổ phiếu trên TTCK Việt Nam thông qua các quỹ đầu t nớc ngoài nh Vietnam Growth Fund ( vốn 193 triệu đô la ) và Vietnam Dragon Fund (vốn 96 triệu đô la ). Cả hai quỹ này đều do Công ty Quản lý quỹ Dragon thành lập và điều hành.
2.2. Thực trạng về vai trò của NHTM trong TTCK Việt Nam
2.2.1. Cơn sốt cổ phiếu ngân hàng thơng mại
Trong khi cơ hội đầu t ở các kênh khác đang mất dần lợi thế nh giá vàng biến động thất thờng, thị trờng bất động sản trầm lắng, khó giao dịch...nhiều nhà đầu t đã chuyển hớng kinh doanh mới đó là mua bán cổ phiếu. Bằng chứng là những tháng đầu năm 2006, trên TTCK giá trị giao dịch bình quân mỗi phiên của tháng sau so với tháng trớc tăng khoảng 30%. Chỉ số VN- Index tăng liên tục từ mức 327,67 điểm vào phiên ngày 15/2/2006 lên 612,11 điểm phiên ngày 3/5/2006 ( tăng khoảng 86,8% ), nhiều nhà đầu t tham gia vào TTCK hơn, biểu hiện qua số lợng tài khoản tính đến tháng 5 /2006 tăng 35% so với cuối năm 2005 ( tăng từ 31000 tài khoản lên 42000 tài khoản ). Tuy nhiên xu hớng mua bán cổ phiếu cha thực sự mang tính chuyên nghiệp, cha có sự phân tích thấu đáo, đánh giá thực lực của thị trờng. Các nhà đầu t, nhất là nhà đầu t cá nhân (chiếm khoảng 99% thị trờng) chủ yếu mua bán theo cảm tính, tạo nên sự mất cân đối cung cầu hàng hoá, khiến giá cổ phiếu tăng giảm bất thờng.
Với diễn biến đó, giá cổ phiếu ngân hàng cũng đợc các nhà đầu t đánh giá cao.Nhiều nhà đầu t bắt đầu quan tâm đến cổ phiếu ngân hàng từ khi hàng loạt các NHTMCP triển khai tăng vốn điều lệ thông qua phát hành cổ phiếu và đợc một số ngân hàng nớc ngoài mua cổ phần. Mặc dù đến nay, ngoài NHTMCP Sài Gòn Thơng Tín Sacombank và NHTMCP á Châu ACB đợc niêm yết trên TTCK thành phố HCM và Hà Nội, các NTMCP khác vẫn cha đợc niêm yết, nhng cổ phiếu ngân hàng vẫn đang thu hút sự quan tâm lớn của các nhà đầu t cả trong và ngoài nớc.
Hiện nay, hệ thống ngân hàng thơng mại Việt Nam có 5 ngân hàng thơng mại nhà nớc, 37 ngân hàng thơng mại cổ phần, 5 ngân hàng liên doanh và khoảng 31 chi nhánh ngân hàng nớc ngoài. Hoạt động kinh doanh ngày càng hiệu quả của các NHTM đã thu hút đợc sự quan tâm của các nhà đầu t khiến giá trị thị trờng của các cổ phiếu này luôn ở mức cao. Chỉ trong vòng cha đầy 1 năm nhng giá cổ phiếu của các NHTMCP đă tăng bình quân gấp 6 đến 7 lần so với mệnh giá ban đầu, nh cổ phiếu của NHTMCP xuất nhập khẩu Eximbank , thời điểm đầu năm 2005, mới còn giao dịch ở mức 1.130.000 đồng/ cổ phiếu thì đến đầu tháng 6/2006, đã tăng lên hơn 7.000.000 đồng/ cổ phiếu. Cổ phiếu của NHTMCP Sacombank , ACB...cũng tăng giá mạnh trong thời gian qua trên thị trờng OTC. Cao nhất là cổ phiếu của ACB đã lên tới 14 triệu đến 15 triệu đồng/ cổ phiếu, cao gấp 14 lần đến 15 lần mệnh giá. Ngay cả nh một số NHTMCP quy mô còn khiêm tốn, mới bắt đầu có danh tiếng trên thị trờng, nhng giá giao dịch trên thị trờng OTC đã ở mức khá, nh NHTMCP Việt á thời điểm cao nhất cũng đã tăng lên tới 3,5 đến 4 triệu đồng/ cổ phiếu. Trờng hợp tơng tự cũng diễn ra với cổ phiếu NHTMCP An Bình.
Vậy tại sao cổ phiếu của các NHTMCP lại hấp dẫn giới đầu t nh vậy? Có thể lý giải ở một sỗ nguyên nhân sau:
Thứ nhất: mức cổ tức hấp dẫn, không chỉ ở mức cổ tức cao mà còn ở tỷ lệ chi trả cổ tức bằng cổ phiếu trong điều kiện giá cổ phiếu ngân hàng ngày càng cao nh hiện nay và còn có xu hớng tiếp tục tăng trong thời kỳ hội nhập WTO
Bảng chia cổ tức của một số ngân hàng thơng mại
Cổ tức dự tính năm 2006
Cổ phiếu
Tiền mặt
NHTMCP á Châu
28%
30%
8%
VP Banh
20%
Trên 20%
NHTMCP Đông á
20%
Trên 30%
NHTMCP Phơng Nam
17%
27%
NHTMCP Phơng Đông
18,9%
15-18%
NHTMCP Sacombank
15%
22%
Thứ hai: Các NHTMCP thờng xuyên phải tăng vốn điều lệ bởi các quy định pháp luật về tỷ lệ an toàn sau đây:
- Theo Quyết định số 457/2005/ QĐ-NHNN, ngày 19-4-2005 của Thống đốc ngân hàng nhà nớc ban hành quy định các tỷ lệ an toàn trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, thì tổ chức tín dụng phải duy trì tối thiểu 8% giữa vốn tự có so với tổng tài sản có rủi ro. Trong cơ cấu vốn tự có ch yếu là vốn điều lệ. Do đó quy mô hoạt động ngân hàng này ngày càng tăng, dự nợ cho vay tăng cao, thì vốn điều lệ cung phải tăng cao.
- Quyết định 888/2005/QĐ - NHNN ngày 16-6-2006 của Thống đốc ngân hàng nhà nớc, thì một trong số các điều kiện để mở chi nhánh của Tổ chức tín dụng là số vốn điều lệ hiện có trừ đi số vốn pháp định tối thiểu, thì mỗi chi nhánh bình quân phải là 20 tỷ đồng. Do đó tổ chức tín dụng muốn phát triển kinh doanh mở rộng địa bàn và chiếm lĩnh thị phần thì thờng xuyên phải thành lập thêm chi nhánh mới, tất nhiên phải tăng vốn điều lệ.
- Trong quá trình phát triển kinh doanh, đa dạng hoá dịch vụ theo thông lệ quốc tế và theo yêu cầu hội nhập, các NHTM, ngày càng mở ra nhiều công ty trực thuộc. Vì vậy, các NHTM phải tăng thêm vốn điều lệ để có vốn cấp cho việc thành lập các công ty trực thuộc, nh: Công ty chứng khoán, Công ty cho thuê tài chính, Công ty kiều hối, Công ty thơng mại dịch vụ, Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản...
Việc nâng cao năng lực tài chính dờng nh là bắt buộc đối với tất cả NHTMNN hiện nay và các NHTM khác cũng đi theo hớng này. Vietcombank đã mở đợt phát hành tăng vốn đầu tiên trong số các NHTMNN với gần 1400 tỷ đồng để bổ sung vốn cấp hai vào cuối năm ngoái. Đầu năm 2006, BIDV phát hành 2.200 tỷ đồng trái phiếu tăng vốn. Ngày 10/10/2006, Agribank phát hành 3.000 tỷ đồng trái phiếu đợt một để bổ sung vốn tự có của ngân hàng. Ông Nguyễn Thế Bình, Phó Tổng giám đốc Agribank cho biết, việc phát hành trái phiếu tăng vốn sẽ đợc tiến hành từ nay đến năm 2007, sau đó từ năm 2008 trở đi sẽ chính thức tiến hành cổ phần hoá để tăng vốn điều lệ
Quy mô vốn tự có của các NHTM cổ phần ở nớc ta hiện nay còn quá nhỏ bé so với mức vốn bình quân của các nớc trong khu vực.
Do đó việc thờng xuyên tăng vốn điều lệ là yêu cầu khách quan theo quy định của pháp luật về hoạt động ngân hàng và yêu cầu khách quan về phát triển kinh doanh của ngân hàng. Các NHTMCP tiếp tục tăng vốn điều lệ và phát hành cổ phiếu mới bán cho các cổ đông hiện hữu bằng mệnh giá, hoặc bán theo giá thoả thuận nhng cũng có khoảng cách khá xa so với giá đang giao dịch trên thị trờng OTC. Vốn điều lệ thờng năm sau tăng gấp 1,5 lần đến 2,0 lần so với năm trớc. Do đó số cổ phiếu mới cổ đông đợc mua thêm cũng tăng lên tơng ứng.
Thứ ba: các ngân hàng và tập đoàn tài chính nớc ngoài rất quan tâm tìm mua cổ phần trong các NHTMCP Việt Nam, để mở rộng kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng ở Việt Nam. Sacombank đã bán hết 30% số vốn điều lệ cho IFC, Dragon Financial Holdings, Standard Chartered Bank...; Techcombank bán 10% cho HSBC; ACB bán 10% cho ANZ. Hiện nay thông tin một số ngân hàng thơng mại cổ phần khác kết thúc đàm phán bán cổ phần cho đối tác nớc ngoài đợc lan truyền trong giới đầu t, cổ đông và ngời quan tâm. Đối với Eximbank d luận trong giới đầu t bàn luận rằng đã kết thúc đàm phán thành công với đối tác là một ngân hàng của Pháp. VP bank trong tháng 8 - 2006 sẽ hoàn tất thủ tục bán 10% vốn cổ phần cho tập đoàn ngân hàng OCBC của Singapore và cuối năm nay sẽ bán tiếp 10% nữa cho đối tác này.
Các đối tác chiến lợc khác ở trong nớc nh: Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam, Tổng công ty dầu khí Việt Nam, Tổng công ty điện lực Việt Nam, Tổng công ty hàng không Việt Nam.... cũng mua tỷ lệ cổ phần khá trong các NHTM CP Việt Nam.
Một bộ phận ngời Việt Nam đang làm ăn sinh sống ở nớc ngoài chuyển tiền về đầu t trong nớc. Một trong số các hớng lựa chọn là đầu t trở thành cổ đông lớn tại một số NHTM CP, sẵn sàng đàm phán không chính thức mua cổ phần với giá thoả thuận.
Việc bán cổ phần cho đối tác nớc ngoài cao gấp 4,5 lần đến 6,0 lần mệnh giá; bán cho đối tác chiến lợc trong nớc cao gấp 2,0 lần đến 4,0 lần mệnh giá, bán một tỷ lệ cổ phần cho cổ đông hiện hữu theo giá thoả thuận cao gấp 1,5 lần đến 3,5 lần mệnh giá...số tiền chêch lệch đó đa vào quỹ thu nhập sau đó lại chia bằng hình thức thích hợp cho cổ đông.
Tuy nhiên , ngân hàng nớc ngoài mua cổ phiếu của các NHTM CP không hẳn là vì hiệu quả kinh doanh , lợi nhuận mà đây là con đờng thuận lợi để họ thâm nhập vào hệ thống ngân hàng Việt Nam, điều đó giúp giảm bớt đợc các khâu trung gian, thủ tục hành chính phức tạp. Đây chính là thời điểm họ quyết định bỏ vốn đầu t vào Việt Nam để đón đầu cơ hội khi Việt Nam gia nhập WTO. Nhng cũng phải thấy rằng sự tham gia mua cổ phiếu của các NHTM nớc ngoài tạo điều kiện cho các NHTM CP có cơ hội tiếp cận với công nghệ hiện đại, kỹ năng quản trị điều hành tiên tiến, đặc biệt là quản trị rủi ro.
Thứ t: những kỳ vọng khác về lợi ích có đợc nhờ đầu t vào cổ phiếu NHTM CP càng trở nên rõ ràng, minh bạch, chắc chắn và hấp dẫn hơn. Bởi vì ngoài cổ tức các cổ đông sở hữu đợc hởng từ lợi nhuận hoạt động kinh doanh bình thờng, thì còn những khoản lợi nhuận bất thờng mà NHTM CP có đợc, nh những khoản nợ xấu đã trích lập dự phòng rủi ro đa ra ngoại bản trớc đây, nay xử lý đợc tài sản, phát mại thu hồi tiền về, nên vừa có thu nhập từ bán tài sản, vừa có thu nhập từ ngoại bảng chuyển vào nội bảng từ khoản dự phòng rủi ro đã trích,... Đây là một đặc thù của hoạt động ngân hàng. Ví dụ nh năm 2005, Công ty mua bán nợ của Bộ tài chính thanh toán cho Eximbank khoản nợ của Công ty Việt Hà tới 104 tỷ đồng, đợc hạch toán vào thu nhập của ngân hàng. Nhiều NHTM CP bán đợc tài sản xiết nợ cao gấp 3 - 4 lần giá khi toà án tuyên giao tài sản cho ngân hàng. Số tiền đó đợc đa vào quỹ thu nhập của ngân hàng.
Thứ năm: sau năm năm thực hiện đề án cơ cấu lại, đến nay tình hình tài chính của các NHTM cổ phần khá lành mạnh. Nội bộ Hội đồng quản lí và ban điều hành đoàn kết, năng lực đợc nâng lên, nắm vững các quy định pháp luật và chấp hành tốt các quy định pháp luật về hoạt động ngân hàng. Các NHTM cổ phần đều xây dựng đợc chiến lợc kinh doanh và chiến lợc phát triển hiệu quả. Khả năng quản trị rủi ro, trình độ chuyên môn của cán bộ lãnh đạo, nhân viên, nghệ thuật Marketing và tiếp thị ... của các NHTM cổ phần đợc nâng cao.Bên cạnh đó tính hệ thống trong cộng đồng ngân hàng cũng chặt chẽvà có tính ràng buộc. Đó chính là các đối tác kinh doanh của nhau, trực tiếp là cho vay trên thị trờng liên ngân hàng, trong quan hệ tiền gửi, cho vay hợp vốn hay đồng tài trợ, trong quan hệ ngân hàng đại lý liên kết thẻ...Đó là cha kể một hệ thống các quy định pháp lý, các chế tài khác về quản lý, điều hành của nhà nớc, của Ngân hàng nhà nớc đảm bảo an toàn cho hoạt động ngân hàng, nh: bảo hiểm tiền gửi, tiền gửi dự trữ bắt buộc, tiền gửi bảo đảm thanh toán, thanh tra Ngân hàng Nhà nớc, kiểm soát nội bộ, kiểm toán bắt buộc, công khai báo cáo tài chính. Bên cạnh đó nghiệp vụ cho vay tái cấp vốn, cho vay tái chiết khấu, nghiệp vụ thị trờng mở,... của Ngân hàng Nhà nớc sẽ đáp ứng ngay tức thời vốn thanh toán cho NHTM và Tổ chức tín dụng.
Bên cạnh đó hầu hết các NHTM cổ phần đều hết sức thận trọng trọng cho vay, giảm tỷ trọng d nợ cho vay trong tổng tài sản có, tăng tỷ trọng các khoản đầu t, bán buôn vốn, đầu t trên thị trờng tiền gửi trong và ngoài nớc, cho vay trên thị trờng liên ngân hàng. Đồng thời phát triển mạnh dịch vụ nhất là dịch vụ thanh toán, kiều hối, chuyển tiền, kinh doanh ngoại tệ, thu hút tiền gửi thanh toán, dịch vụ thẻ, tăng tỷ trọng trong thu nhập từ dịch vụ tổng thu nhập của ngân hàng. Bởi vậy lợi nhuận của ngân hàng gia tăng mạnh và vững chắc. Lợi tức của NHTM cổ phần kết thúc năm tài chính có thể chi bằng tiền mặt cho cổ đông, có thể chia bằng cổ phiếu cho cổ đông.
Do đó hoạt động ngân hàng ngày càng an toàn, hiệu quả và phù hợp với thông lệ quốc tế hơn, cổ phiếu trở nên hấp dẫn các nhà đầu t. Tuy nhiên việc mua cổ phiếu trên thị trờng OTC với giá quá cao khi sốt giá, đồng thời không nắm vững các thủ tục pháp lý khi mua bán trên thị trờng OTC, dễ gây rủi ro cho các nhà đầu t cá nhân cha nắm vững thông tin và thủ tục.
2.2.2. Kế hoạch CPH ngân hàng
Thủ tớng chính phủ đã có quyết định CPH Ngân hàng thơng mại Việt Nam (Vietcombank) với nguyên tắc nắm gửi tối thiểu 51% CP. Theo kế hoạch Vietcombank sẽ kiểm khai CPH vào đầu năm 2007. Năm 2005 Ngân hàng này đã phát hành hơn 1.000 tỷ đồng trái phiếu để tăng vốn. Khi CPH’ tổng giá trị CP’ của Vietcombank niêm yết trên hai trung tâm GDCK sẽ lên tới hàng nghin tỷ đồng. Với hàm lợng giá trị cổ phiếu lớn nh vậy, nếu đợc giao dịch và niêm yết trên hai trung tâm giao dịch chứng khoán, thì chứng khoán giao dịch của hai trung tâm này sẽ là cổ phiếu của Vietcombank. Khi đó chắc chắn hoạt động giao dịch của hai trung tâm GDCK này sẽ sôi động hẳn lên, tạo nền tảng mới cho sự phát triển của TTCK Việt Nam.
Đối với ngân hàng phát triển nhà Đồng Bằng Sông Cửu Long , theo kế hoạch cổ phần hoá đó là lựa chọn cổ đông lớn từ các tập đoàn tài chính - ngân hàng có uy tín trên thế giới để mua một tỷ lệ cổ phần khống chế. Mục tiêu là cơ cấu lại toàn diện ngân hàng phát triển nhà Đồng Bằng Sông Cửu Long theo tiêu chuẩn quốc tế, từ quản trị điều hành, công nghệ, sản phẩm dịch vụ... Cổ phiếu của ngân hàng sẽ đợc niêm yết trên thị trờng chứng khoán. Dự kiến công việc định giá và kiểm toán ngân hàng phát triển nhà Đồng Bằng Sông Cửu Long phải hoàn thành sớm trong năm 2006 hoặc đầu năm 2007.
Theo đề án cổ phần hoá, lộ trình cổ phần hoá hai NHTM nhà nớc trên sẽ phải hoàn thành sớm trớc năm 2008. Incombank hiện nay vẫn cha có tuyên bố chính thức nào về việc cổ phần hoá, nhng lãnh đạo của Incombank khẳng định, sẽ cố gắng đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá, muộn nhất là vào năm 2008.
Đến năm 2010 sẽ thực hiện cổ phần hoá một số NHTM nhà nớc khác nh BIDV, Ngân hàng Công Thơng Việt Nam. Riêng Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Agribank, ngân hàng lớn nhất trong số các NHTMNN hiện nay với tổng tài sản xấp xỉ 200.000 tỷ đồng, do đặc thù hoạt động, đối tợng khách hàng nhỏ lẻ, chủ yếu là nông dân phân bố không tập trung nên sẽ tiến hành cổ phần hoá theo đề án riêng. Tuy nhiên quá trình cổ phần hoá đợc thực hiện theo nguyên tắc thận trọng, bảo đảm ổn định kinh tế xã hội , cho phép các nhà đầu t nớc ngoài tham gia mua cổ phần và tham gia quản trị điều hành các ngân hàng trong nớc. Đối với các ngân hàng nớc ngoài sẽ đợc mở rộng phạm vi hoạt động ở Việt Nam theo lộ trình hội nhập quốc tế. Các ngân hàng này sẽ tiếp tục đợc nới lỏng các hạn chế về tiếp cận thị trờng nh tỷ lệ huy động vốn nội tệ, mạng lới hoạt động và một số hoạt động khác... Tuy nhiên, bên cạnh việc tạo điều kiện cho ngân hàng nớc ngoài, sẽ có biện pháp hạn chế thao túng, cạnh tranh không lành mạnh hoặc thôn tính bất lợi của tổ chức tín dụng nớc ngoài với tổ chức tín dụng Việt Nam.
Theo nh kế hoạch cổ phần hoá này thì trong thời gian tới các NHTMCP sẽ cung cấp một lợng lớn chứng khoán cho thị trờng chứng khoán Việt Nam. Đó sẽ là một cú hích thúc đẩy thị trờng chứng khoán Việt Nam tăng trởng hơn nữa.
2.2.3. Thực trạng cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nớc
Bộ kế hoạch và đầu t cho biết, năm 2005 cả nớc đã cổ phần hoá 724 doanh nghiệp nhà nớc, đa tổng số doanh nghiệp nhà nớc đợc cổ phần hoá từ năm 1992 đến nay lên tới 2.996 doanh nghiệp.
Năm 2005, đã có những doanh nghiệp quy mô vừa và lớn đã cổ phần hoá nh: Công ty Khoan và dịch vụ dầu khí, các nhà máy điện: Sông Hinh - Vĩnh Sơn, Thác Bà, Phả Lại Công ty giấy Tân Mai, Công ty Vận Tải xăng dầu đờng thuỷ I...Việc cổ phần hoá một số doanh nghiệp nhà nớc quy mô lớn, nhà nớc giữa cổ phần chi phối đã thu hút đợc nhiều vốn từ xã hội qua việc bán các chứng khoán, tạo điều kiện đổi mới công nghệ, thay đổi phơng thức quản lý, nâng cao hiệu quả hoạt động.
Theo điều tra của ban chỉ đạo phát triển đổi mới và phát triển doanh nghiệp, hiệu quả kinh tế của các doanh nghiệp nhà nớc sau cổ phần hoá tăng lên rõ rệt. Kết quả khảo sát hơn 850 doanh nghiệp cổ phần hoá cho thấy, năm 2005 vốn điều lệ tăng bình quân 44%, doanh thu tăng gần 24%, lợi nhuận tăng 140%, nộp ngân sách tăng hơn 25%, thu nhập lao động tăng 12%.
Chính Phủ vừa yêu cầu các Bộ, ngành khẩn trơng triển khai việc thực hiện kế hoạch đổi mới doanh nghiệp nhà nớc 5 năm 2006 - 2010, trọng tâm là cổ phần hoá hầu hết các doanh nghiệp, các tổng công ty nhà nớc. Theo đó kết thúc năm 2006 sẽ có khoảng 420 doanh nghiệp đợc cổ phần hoá, đa tổng số doanh nghiệp đợc cổ phần hoá lên 3480 doanh nghiệp và hầu hết là doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả. Riêng trong năm 2007 sẽ có khoảng 600 doanh nghiệp nhà nớc tiến hành cổ phần hoá gồm một số tổng công ty, NHTM doanh nghiệp hoạt động công ích. Quá trình này sẽ thực hiện theo nguyên tắc thị trờng, gắn việc cổ phần hoá với phát triển TTCK.
Điều đó góp phần tạo ra cho thị trờng chứng khoán Việt Nam nhiều loại hàng hoá hơn, cung cấp nhiều sự lựa chọn hấp dẫn cho các nhà đầu t khi tham gia TTCK.
2.2.4. Vai trò đầu t trực tiếp của NHTM
Với tiềm lực tài chính mạnh và khả năng sử dụng vốn ngắn hạn đầu t dài hạn, các NHTM có thể đóng vai trò là nhà đầu t trên thị trờng trái phiếu đặc biệt là thị trờng trái phiếu chính phủ. Trong năm 2005, tổng lợng Trái phiếu chính phủ phát hành là 17.226 tỷ VNĐ, trong đó các NHTM mua 12.058 tỷ VNĐ, chiếm khoảng 70%.
Trong 6 tháng đầu năm 2006 tổng giá trị giao dịch của các NHTM đạt khoảng 15022 .tỷ đồng
2.2.5. Thực trạng về vai trò của công ty chứng khoán trực thuộc ngân hàng đối với TTCK nớc ta
Các công ty chứng khoán của các NHTM là thành viên quan trọng của trung tâm GDCK thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội, trên thị trờng OTC. Do đó một lợng lớn chứng khoán đợc giao dịch mua bán qua các công ty này.
Hiện nay trên TTCK có khoảng 16 công ty chứng khoán đợc cấp phép hoạt động trong đó chiếm hơn một nửa là các công ty chứng khoán của các ngân hàng thơng mại nh : Công ty chứng khoán ngân hàng đầu t và phát triển Việt Nam (BSC), Công ty Chứng khoán NHTMCP Đông á, Công ty chứng khoán NHTMCP các doanh nghiệp ngoài quốc doanh VB Bank...
Mới đây, ngày 20/10/2006 công ty chứng khoán Sài Gòn Thơng Tín ( Sacombank Securities ) đã chính thức khai trơng, trở thành thành viên thứ 16 của thị trờng GDCK Hà nội với số vốn điều lệ 300tỷ đồng. Sacombank Securities là một trong những công ty chứng khoán có vốn điều lệ lớn nhất ở Việt Nam hiện nay. Công ty sẽ tham gia cung cấp tất cả các dịch vụ chứng khoán đợc phép thực hiện bao gồm môi giới, tự doanh, t vấn, bảo lãnh phát hành, quản lý danh mục đầu t.
Tuy ra đời sau nhng công ty chứng khoán của NHTM Sacombank đã phát triển 3 loại hình dịch vụ u đãi cho các nhà đầu t mà các công ty chứng khoán khác cha thực hiện. đó là nhà đầu t khi thông qua SBS mở tài khoản t vấn, môi giới có thể thế chấp cho SBS những cổ phiếu đã niêm yết mà nhà đầu t dự tính mua, thế chấp cổ phiếu cha niêm yết và thế chấp bằng bất động sản để đầu t vào mua cổ phiếu niêm yết.
Các công ty chứng khoán của NHTM đều đợc cấp phép thực thi nghiệp vụ quản lý danh mục đầu t. Nhiều hợp đồng có giá trị hàng chục, hàng trăm tỷ VNĐ đợc triển khai, mang lại tổng doanh thu đầu t lên tới 240 tỷ VNĐ vào cuối năm 2004. Bên cạnh đó nghiệp vụ t vấn tài chính và đầu t chứng khoán cũng đợc cấp phép cho các công ty chứng khoán. Kết quả của hoạt động này là các công ty chứng khoán đã t vấn cho nhiều khách hàng, trong đó có các công ty niêm yết để hoạt động chứng khoán có hiệu quả tốt
Trong năm 2005, tình hình hoạt động của các công ty chứng khoán đạt đợc những kết quả khá khả quan. Tổng doanh thu từ các hoạt động kinh doanh và lãi đầu t của các công ty chứng khoán, tăng 23% so với năm 2004. Hai nguồn thu chủ yếu trong năm 2005 là thu từ hoạt động tự doanh và thu từ lãi đầu t, có tổng doanh thu đạt khoảng 540 tỷ đồng, chiếm 79% tổng doanh thu và lãi đầu t của các Công ty chứng khoán. Riêng tổng doanh thu từ hoạt động từ hoạt động tự doanh đạt khoảng 158 tỷ đồng, chiếm khoảng 23%. Doanh thu từ hoạt động môi giới, quản lý danh mục đầu t, bảo lãnh phát hành và đại lý phát hành, t vấn đầu t đạt thấp, tơng ứng chiếm 3,5%, 1,1%, 6,2%, 3,4%. Còn lại, nguồn thu từ vốn kinh doanh chiếm 4,2% tổng doanh thu và lãi đầu t. Nhìn chung, các công ty chứng khoán đều kinh doanh có lãi. Lợi nhuận sau thuế của các Công ty chứng khoán đạt 170 tỷ đồng, tăng 41% so với năm 2004.
2.2.6. Một số dịch vụ của NHTM nhằm hỗ trợ cho TTCK
Để đáp ứng nhu cầu linh hoạt của khách hàng và thị trờng, các NHTM đang triển khai nhiều loại hình dịch vụ về chứng khoán nh : cho vay kinh doanh chứng khoán, cho vay ứng trớc tiền bán chứng khoán, cầm cố chứng khoán. Trong đó, nghiệp vụ cầm cố chứng khoán trong thời gian gần đây đợc đông đảo khách hàng tìm đến. Tính đến cuối tháng 3/2006 đã có khoảng 13 triệu cổ phiếu các loại đợc cầm cố với tổng giá trị khoảng 751 tỷ VNĐ
Tuy nhiên việc phát triển cho vay cầm cố cổ phiếu cũng là nguy cơ cảnh báo đối với các NHTM do đó các NTHM cần xem xét kỹ điều kiện của cổ phiếu đó trớc khi cho phép cầm cố cổ phiếu của doanh nghiệp nào đó.
Nh Techcombank chỉ cầm cố cổ phiếu của các ngân hàng, với cổ phiếu niêm yết phải là cổ phiếu của các doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn do Techcombank quy định ( về tổng tài sản, tổng vốn điều lệ, tổng doanh thu, tỷ suất sinh lời ROE ) đồng thời Techcombank thông qua các công ty chứng khoán để xác nhận tình trạng sức khỏe của cổ phiếu niêm yết rồi mới xem xét cho cầm cố. Cổ phiếu đợc cầm cố sẽ bị phong toả tài khoản. Để theo dõi tình hình thông tin các loại cổ phiếu, Techcombank sẽ cập nhật thông tin vào đầu tháng đối với cổ phiếu OTC và hàng quý đối với cổ phiếu niêm yết. Thời hạn cho vay với cổ phiếu niêm yết là 6 tháng, cổ phiếu OTC là 12 tháng. Mức cho vay tuỳ thuộc vào từng trờng hợp cụ thể, mức cao nhất bằng 4 lần mệnh giá cổ phiếu. Tuỳ thuộc vào loại tài sản thế chấp và kỳ hạn vay, khách hàng phải trả lãi cho ngân hàng trung bình 1,05%/ tháng. Trong hợp đồng quy định giữa ngân hàng với khách hàng, nếu cổ phiếu giảm giá 10% thì khách hàng phải bổ sung chứng khoán khác hoặc nộp tiền thêm vào nếu không ngân hàng sẽ bán cổ phiếu đó.
Tuy nhiên các NHTM cũng phải cảnh giác, nếu nh cho vay quá nhiều, khi cổ phiếu sụt tới một mức nào đó thì theo hợp đồng cầm cố ngân hàng phải giải toả cầm cố và bán ồ ạt ra, điều này không những ảnh hởng đến kết quả kinh doanh của các ngân hàng mà còn tác động trở lại TTCK và khiến giá chứng khoán tiếp tục sụt giảm.
2.2.7. NHTM góp phần điều hoà cung cầu và ổn định TTCK
Các NHTM thông qua hoạt động cuả các công ty chứng khoán trực thuộc, nơi một lợng lớn chứng khoán đợc giao dịch mua bán, để điều hoà lợng cung cầu chứng khoán một cách tốt nhất để tạo ra sự ổn định cho thị trờng chứng khoán.
Ngân hàng Ngoại Thơng là NHTM đầu tiên triển khai dịch vụ giám sát quỹ đầu t chứng khoán (VF1) và sau đó một số NHTM khác cũng triển khai dịch vụ này. Các NHTM thực hiện bảo quản, lu ký chứng khoán, định giá giá trị tài sản của quỹ đầu t chứng khoán và công ty quản lý quỹ. Hoạt động này góp phần nâng cao chất lợng GDCK.
2.3. Hạn chế và nguyên nhân khiến các NHTM cha phát huy đợc vai trò phát triển TTCK
Các NHTM Việt Nam đã tham gia tích cực ngay từ giai đoạn đầu hình thành và góp phần quan trọng vào việc phát triển TTCK tuy nhiên nó vẫn cha khai thác hết đợc tiềm lực tài chính, cơ sở vật chất kỹ thuật, công nghệ, trình độ nghiệp vụ giao dịch... cho thị trờng non trẻ này.
Đến nay, mới chỉ có cổ phiếu của hai NHTMCP đợc niêm yết trên TTCK, đó là cổ phiếu của NHTMCP Sacombank, NHTMCP á Châu ACB. Các NHTM khác vẫn cha chính thức niêm yết. Quá trình cổ phần hoá các NHTMNN và các doanh nghiệp nhà nớc diễn ra chậm chạp. Quy mô vốn của các NHTM còn nhỏ so với các ngân hàng các nớc trong khu vực. Những vớng mắc từ cơ chế chính sách nhà nớc đối với việc phát hành chứng khoán ra công chúng... Tất cả điều đó làm cho TTCK nớc ta cha thực sự trở thành một kênh huy động vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế.
Hiện nay, Việt Nam đã gia nhập WTO, các NHTM , các công ty chứng khoán trong nớc còn non trẻ cả về nghiệp vụ chứng khoán, kinh nghiệm , khả năng cạnh tranh còn yếu sẽ phải đối mặt với những thách thức rất lớn từ các tổ chức tài chính nớc ngoài.
2.4. Một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao vai trò của NHTM trong việc phát triển TTCK Việt Nam
Một là, đẩy mạnh thị trờng OTC với nòng cốt là hoạt động của các NHTM và các công ty chứng khoán. Đồng thời Trung tâm lu ký chứng khoán mới ra đời phải phát huy tốt vai trò của mình. Trung tâm này sẽ tập trung hoá tất cả các hoạt động lu ký đối với các chứng khoán niêm yết và đăng ký giao dịch tại hai TTGDCK Hà nội và Thành phố Hồ Chí Minh, tạo điều kiện thuận lợi cho các giao dịch ngoài sàn do các NHTM, Công ty chứng khoán thực hiện.
Hai là, thu hút mạnh sự tham gia của các nhà đầu t cá nhân nhỏ và phát triển dịch vụ quản lý danh mục đầu t cho khách hàng và cá nhân. với dịch vụ này, các NHTM sẽ thiết kế các sản phẩm để thu hút vốn đầu t trong nớc hoặc liên kết với các đối tác nớc ngoài để bán các sản phẩm qũy đầu t của nớc ngoài(đầu t ra nớc ngoài)
Ba là, tạo khuôn khổ pháp luật khuyến khích các NHTM tham gia hoạt động chứng khoán. Việc khuyến khích các NHTM tham gia hoạt động chứng khoán đặc biệt là hoạt động cổ phiếu sẽ phát huy đợc các thế mạnh của NHTM, đó là : u thế về mạng lới, khả năng phát triển thị trờng OTC và đáp ứng xu thế của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng - đầu t, các NHTM Việt Nam đợc phép và đã thực hiện hoạt động quản lý tài sản, thực chất là hoạt động đầu t chứng khoán ở nớc ngoài trong khi hoạt động này bị hạn chế ở trong nớc.
Tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý cho thị trờng, thiết lập một môi trờng pháp lý ổn định, đồng bộ cho hoạt động kinh doanh chứng khoán. Cụ thể là, từ 1/1/2007 khi luật chứng khoán bắt đầu có hiệu lực, thị trường chứng khoán ở nước ta đã có một văn bản chính thức quy định hoat động của thị trường. Bên cạnh đó cần tăng cờng tính hiệu lực của các văn bản pháp luật trong lĩnh vực hoạt động và kinh doanh chứng khoán. Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra và xử phạt thích đáng đối với các hành vi vi phạm. Cần phải xây dựng luật giao dịch điện tử trên mạng để có sự bảo đảm cho nhà đầu tư khi thực hiện giao dịch trên mạng.
Bốn là, xây dựng đợc hệ thống xếp hạng ( định mức ) tín nhiệm. Một trong những đặc điểm quan trọng nhất của thị trờng chứng khoán là tính minh bạch. Do vậy, ở tất cả các thị trờng phát triển, vấn đề xếp hạng tín nhiệm các định chế tham gia thị trờng đợc thực hiện bởi các công ty xếp hạng độc lập, các thông tin đợc công bố công khai cho các nhà đầu t và các chủ thể tham gia hoặc có liên quan đến thị trờng. TTCK Việt Nam muốn phát triển cũng phải xây dựng đợc một cơ chế đánh giá, xếp hạng tín nhiệm độc lập và hữu hiệu. ý tởng về việc thành lập và đa vào hoạt động một công ty xếp hạng tín nhiệm tại Việt Nam đã có. Nh là một nỗ lực thúc đẩy tiến trình này, vào tháng 7/2006, Vietcombank phối hợp với phòng thơng mại và công nghiệpViệt Nam ( VCCI ), hiệp hội Ngân hàng Châu á ( ABA), Hội đồng t vấn doanh nghiệp APEC ( ABAC ) cùng tổ chức hội thảo quốc tế để bàn về vấn đề này.
Năm là, mở rộng hoạt động của các công ty chứng khoán. Việc tăng cờng năng lực tài chính cũng nh phạm vi hoạt động của các công ty chứng khoán với mục tiêu trở thành các ngân hàng đầu t, đủ sức bảo lãnh phát hành và thực hiện các dịch vụ đầu t chứng khoán không chỉ ở thị trờng Việt Nam, mà còn tiến tới tham gia vào quá trình phát hành trái phiếu quốc tế của Chính phủ và các doanh nghiệp Việt Nam là hết sức cần thiết.
Kết luận
NHTM tham gia hoạt động trên TTCK từ rất lâu. Ngày nay vai trò đó ngày càng đợc phát huy mạnh mẽ. Trong giai đoạn đầu hình thành TTCK ở nớc ta, các NHTM đã tham gia với nhiều hoạt động có hiệu quả. NHTM cung cấp hàng hoá cho TTCK và là cầu nối quan trọng giữa nhà đầu t với TTCK qua nhiều nghiệp vụ chứng khoán : môi giới,đầu t, cầm cố chứng khoán...Bên cạnh đó các NHTM trên TTCK góp phần điều hoà cung cầu chứng khoán, đảm bảo tính ổn định và các nguyên tắc trên TTCK. Song các NHTM vẫn cha khai thác hết tiềm lực tài chính, cơ sở vật chất kỹ thuật, đội ngũ cán bộ, trình độ nghiệp vụ giao dịch cho TTCK còn non trẻ này.
Ngày 11- 1- 2007, Việt Nam chính thức gia nhập WTO. Sự kiện trọng đại này mang lại cho nền kinh tế nớc ta nói chung và các tổ chức tín dụng trong nớc nói riêng nhiều cơ hội để phát triển song cũngcó không ít những thách thức. Sự gia nhập của các NHTM, các công ty chứng khoán nớc ngoài với nhiều kinh nghiệm , tiềm lực tài chính mạnh, đội ngũ cán bộ đợc đào tạo chuyên sâu... thực sự là một thách thức rất lớn với các NHTM và các công ty chứng khoán. Đòi hỏi các NHTM và Công ty chứng khoán trong nớc phải không ngừng trau dồi kiến thức và kỹ năng chuyên ngành cho đội ngũ cán bộ, tăng cờng tiềm lực tài chính góp phần thức đẩy năng lực cạnh tranh. Qua đó nâng cao vị thế của các NHTM trong nớc trên TTCK Việt Nam.
Dựa vào kiến thức đă đợc học tập, nghiên cứu, đề tài : Vai trò của NHTM trên TTCK Việt Nam hiện nay. Đề tài này đã trình bày một cách cơ bản nhất cá vấn đề lý luận cũng nh thực tiễn của vấn đề này. Qua đó đa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm tăng cờng vai trò của các NHTM trong sự phát triển không ngừng của TTCK Việt Nam.
Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn sự quan tâm hớng dẫn và giúp đỡ tận tình của T.S Trương Hoài Linh đã giúp cho em hoàn thành đề tài nghiên cứu của mình!
Tài liệu tham khảo
Giáo trình tài chính tiền tệ - Frederic S. Mishkin.
Giáo trình thị trờng chứng khoán - G.S. TS Lê Văn T.
Giáo trình ngân hàng thơng mại.
Thời báo đầu t chứng khoán.
Thời báo ngân hàng.
Tạp chí ngân hàng .
Tạp chí thị trờng chứng khoán.
Tạp chí tài chính.
Một số trang web về ngân hàng và thị trờng chứng khoán.
Mục lục
Lời mở đầu 1
Phần 1: vai trò của NHTM trên Thị trờng chứng khoán (TTCK) 2
1.1. Tổng quan về NHTM 2
1.1.1. Khái niệm và các hoạt động cơ bản của NHTM 2
1.1.2. Vị trí của NHTM trong hệ thống tài chính 3
1.1.3. Vai trò của NHTM đối với sự phát triển kinh tế 3
1.2. Tổng quan về thị trờng chứng khoán ( TTCK ) 4
1.2.1. Khái niệm 4
1.2.2. Cơ cấu tổ chức của thị trờng chứng khoán 5
1.2.3. Hàng hoá trên TTCK..........................................................................................................6
1.2.4. Các chủ thể trên TTCK......................................................................................................6
1.3. Vai trò của ngân hàng thơng mại trên thị trờng chứng khoán 7
1.3.1. NHTM tạo hàng hoá cho TTCK 7
1.3.2. NHTM là cầu nối giữa nhà đầu t và thị trờng chứng khoán 11
1.3.3. Vai trò đầu t trực tiếp trên TTCK của NHTM 15
1.3.4. Hoạt động của ngân hàng thơng mại tạo tính thanh khoản cho TTCK 16
1.3.5. NHTM góp phần điều hoà cung cầu, ổn định thị trờng chứng khoán 17
1.3.6. Sự tham gia cuả NHTM góp phần đảm bảo nguyên tắc hoạt động của TTCK 18
Phần 2: Đánh giá về vai trò của NHTM trong hoạt động của TTCK.
Việt Nam hiện nay 19
2.1. Thực trạng về TTCK Việt Nam hiện nay 19
2.2. Thực trạng về vai trò của NHTM trong TTCK Việt Nam 20
2.2.1. Cơn sốt cổ phiếu ngân hàng thơng mại 20
2.2.2. Kế hoạch CPH ngân hàng 25
2.2.3. Thực trạng cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nớc 26
2.2.4. Vai trò đầu t trực tiếp của NHTM 27
2.2.5. Thực trạng về vai trò của công ty chứng khoán trực thuộc ngân hàng đối với TTCK nớc ta 27
2.2.6. Một số dịch vụ của NHTM nhằm hỗ trợ cho TTCK 29
2.2.7. NHTM góp phần điều hoà cung cầu và ổn định TTCK 29
2.3. Hạn chế và nguyên nhân khiến các NHTM cha phát huy đợc vai trò phát triển TTCK 30
2.4. Một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao vai trò của NHTM trong việc phát triển TTCK Việt Nam 30
Kết luận 32
Tài liệu tham khảo 33
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 72078.DOC