Đề tài Thực trạng về thị trường chứng khoán

Tài liệu Đề tài Thực trạng về thị trường chứng khoán: Thị trường chứng khoán THị TRường chứng khoán I.Mở đầu 15 năm thực hiện chính sách phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hôi chủ nghĩa nước ta đã đạt được những thành tựu đáng kể : tăng trưởng kinh tế cao ổn đjnh (tốc độ tăng trưởng kinh tế luôn >7% năm ) . Công nghiệp đạt tốc độ tăng trưởng rất cao ( trên 14% ) đạc biệt các ngành công nghệ mới , ngành công nghệ thông tin phát riển nhanh chóng và đang được ứng dụng rộng rãi ; thành tựu trong nông nghiêp đã đưa nước ta không những thoát khỏi sự thiếu lương thực mà còn đưa nước ta trở thành nước xuát khẩu gạo đứng thứ hai thế giới (>4 triệu tấn /năm ) . Hàng hoá trên thị trường ngày càng phong phú đa dạng , các doanh nghiệp mới được thành lập ngày càng nhiều , đời sống của người dân ngày càng cao . Những thành tựu đó đã khẳng định đường lối kinh tế đúng đắn của Đảng và Nhà nước . Nhưng nó cũng đặt ra nhiều vấn đề lớn như: làm thế nào để duy trì tốc độ tăng trưởng đó đòng thời tiến tới phát triển bền vững , đ...

doc42 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1065 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Thực trạng về thị trường chứng khoán, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thị trường chứng khoán THị TRường chứng khoán I.Mở đầu 15 năm thực hiện chính sách phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hôi chủ nghĩa nước ta đã đạt được những thành tựu đáng kể : tăng trưởng kinh tế cao ổn đjnh (tốc độ tăng trưởng kinh tế luôn >7% năm ) . Công nghiệp đạt tốc độ tăng trưởng rất cao ( trên 14% ) đạc biệt các ngành công nghệ mới , ngành công nghệ thông tin phát riển nhanh chóng và đang được ứng dụng rộng rãi ; thành tựu trong nông nghiêp đã đưa nước ta không những thoát khỏi sự thiếu lương thực mà còn đưa nước ta trở thành nước xuát khẩu gạo đứng thứ hai thế giới (>4 triệu tấn /năm ) . Hàng hoá trên thị trường ngày càng phong phú đa dạng , các doanh nghiệp mới được thành lập ngày càng nhiều , đời sống của người dân ngày càng cao . Những thành tựu đó đã khẳng định đường lối kinh tế đúng đắn của Đảng và Nhà nước . Nhưng nó cũng đặt ra nhiều vấn đề lớn như: làm thế nào để duy trì tốc độ tăng trưởng đó đòng thời tiến tới phát triển bền vững , đồng thời với các doanh nghiệp ra đời ngày càng nhiều là thiếu vốn ,khả năng cạnh tranh kém ,Nhà nước cần ngân sách để xây dựng cơ sở hạ tầng , đường sá vv…và vấn đề không thiếu tầm quan trọng là làm sao xây dựng nền kinh tế nước ta trở thành kinh tế thị trường theo đúng nghiã . Một giải pháp đó là xây dựng thị trường chứng khoán .Và ngày 20/7/2000 đánh dấu bước ngoặt trong nền kinh tế thị trường của nước ta với sự ra đời của thị trường chứng khoán Việt Nam với việc đưa vào vận hành trung tâm Giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh . 1.Vài nét về lịch sử thị trường chứng khoán Thị trường chứng khoán được xem là đặc trưng cơ bản , là biểu tượng của nền kinh tế hiện đại .Người ta có thể đo lường và dự tính sự phát triển kinh tế qua diển biến trên thị trường chứng khoán . Là một bộ phận cấu thành của thị trưòng tài chính , thị trường chứng khoán đươc hiểu một cách chung nhất , là nơi diễn ra các hoạt động mua bán ,trao đổi các chứng khoán –các hàng hoá và dịch vụ tài chính giữa các chủ thể tham gia. Việc mua bán trao đổi này đựoc thưc hiện theo những quy tắc nhất định . Hình thức sơ khai của thị trường chứng khoán đã xuất hiện cách đây hàng trăm năm. Vào khoảng thế kỷ 15 , ở các thành phố trung tâm thương mại của các nước phương tây , trong các chợ phiên hay hội chợ , các thương gia thường tụ tập tại các quán cà phê để thương lượng mua bán trao đổi hàng hoá . Đăc điểm của hoạt động này là các thương gia chỉ trao đổi bằng lời nói vơí nhau về các hợp đồng mua bán mà không có sự xuất hiện của bất cứ hàng hoá giấy tờ nào . Đến cuối thế kỷ 15 , “khu chợ riêng “ đã trở thành thường xuyên với những qui ước xác định cho các cuộc thương lượng . Những qui ước này dần trở thành các qui tắc bắt buộc với các thành viên tham gia . Buổi họp đầu tiên diễn ra năm 1943 tại một lữ quán của gia đình Vanber tại thành phố Bruges (Vương quốc Bỉ ) .Trước lữ quán có 1 bảng hiệu vẽ hình ba túi da và chữ .Ba túi da tượng trưng choc ho ba nội dung của thị trường chứng khoán :thị trường hàng hoá , thị trường ngoại tệ , và thị trường chứng khoán động sản ; còn chữ Bourse có nghĩa là mậu dịch thị trường hay còn gọi là “ nơi buôn bán chứng khoán “. Đến năm1547 , thị trường ở thành phố Bruges sụp đổ do cửa biển Envin –nơi dẫn các tàu thuyền vào buôn bán tại thành phố bị cát biển lấp mất . Tuy nhiên vào năm 1531 ,thị trường này đã được dời đến thành phố cảng Anvers (Bỉ) ,từ đó , thị trường này phát triển nhanh chóng .Một thị trường như vậy cũng được thành lập tại London (Vương quốc Anh ) thế kỷ 18 và sau đó là một loạt thị trường ra đời tại Pháp, Đức , ý và một số nước Bắc Âu và Mỹ cũng được thành lập. Sau một thời gian hoạt động , thị trường đã chứng tỏ khả năng không đáp ứng được yêu cầu cả ba loại giao dịch khác nhau .Vì thế , thị trường hàng hoá được tách thành các khu thương mại , thị trường ngoại tệ được tách ra và phát triển thành thị trường hối đoái . Thị trừơng chứng khoán động sản trở thành thị trường chứng khoán . Như vậy , thị trường chứng khoán được hình thành cùng với thị trường hàng hoá và thị trường hối đoái . Quá trình phát triển của thị trường chứng khoán đã trải qua nhiều bước thăng trầm . Lịch sử đã ghi nhận hai đợt khủng hoảng lớn , đó là khi các thị trường chứng khoán lớn ở Mỹ ,Tây Âu ,và Bắc Âu ,Nhật Bản bị sụp đổ chỉ trong vài giờ vào “ ngày thứ năm đen tối “ 29/10/1929 và “ ngày thứ hai đen tối “ 19/10/1987 và vừa qua là cuộc khủng hoản tài chính châu á mà khởi nguồn là từ Thái Lan . Song trải qua các cuộc khủng hoảng ,cuối cùng thị trường chứng khoán lại được phục hồi và tiếp tục phát triển , cho tới nay đã có trên 160 sở giao dịch trên toàn thế giới . Thị trường chứng khoán đã trở thành một thể chế tài chính không thể thiếu được trong nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường Hiên nay trước xu thế kinh tế quốc tế và khu vực với sự ra đời của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) , của Liên minh Châu Âu , của các khối thị trường chung , đòi hỏi các quốc gia thúc đẩy phát triển kinh tế với tốc độ và hiệu quả cao .Thực tế phát triển kinh tế ở các quốc gia trên thế giới đã khẳng định vai trò quan trọng của thị trường chứng khoán trong phát triển kinh tế 2.Vai trò của thị trường chứng khoán Thứ nhất , thị trường chứng khoán với việc tạo ra các công cụ có tính thanh khoản cao, có thể tích tụ , tập trung và phân phối vốn , chuyển thời hạn của vốn phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế. ở Hàn Quốc thị trường chứng khoán đã đóng vai trò không nhỏ trong sự tăng trưởng kinh tế trong hơn ba mươi năm cho tới cuối thập kỷ 90 . Thị trường chứng khoán Hàn Quốc lớn mạnh đứng hàng thứ 13 trên thế giới , với tổng giá trị huy động là 160 tỷ đôla Mỹ , đã góp phần tạo mức tăng trưởng kinh tế đạt mức trung bình 9% năm , thu nhập quốc dân đầu người năm 1995 là trên 10000 USD Yếu tố thông tin và yếu tố cạnh tranh trên thị trường sẽ đảm bảo cho việc phân phối vốn một cách có hiệu quả . Thị trường tài chính là nơi tiên phong áp dụng công nghệ mới và nhạy cảm với môi trường thường xuyên thay đổi . Thực tế trên thị trường chứng khoán , tất cả các thông tin được cập nhật và được chuyển tải tới tất cả các nhà đầu tư , nhờ đó họ có thể phân tích và định giá cho chứng khoán . Chỉ những công ty có hiệu quả bền vững mới có thể nhận được vốn với chi phí rẻ trên thị trường . Thị trường chứng khoán tạo một sự cạnh tranh có hiệu quả trên thị trường tài chính , điều này buộc các ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính phải quan tâm tới hoạt động của chính họ và làm giảm chi phí tài chính . Việc huy đông vốn trên thị trường chứng khoán có thể làm tăng vốn tự có của các công ty và giúp họ tránh các khoản vay chi phí cao cũng như sự kiểm soát chặt chẽ của các ngân hàng thương mại . Thị trường chứng khoán khuyến khích tính cạnh tranh của các công ty trên thị trường . Sự tồn tại của thị trường chứng khoán cũng là yếu tố quyết định để thu hút vốn đầu tư nước ngoài . Đây chính là yếu tố đảm bảo cho sự phân bố có hiệu quả các nguồn lực trong một quốc gia cũng như trong phạm vi quốc tế . Thứ hai ,thị trường chứng khoán góp phần tái phân phối công bằng hơn , thông qua việc buộc các tập đoàn gia đình trị phát hành chứng khoán ra công chúng , giải toả sự tập trung quyền lực kinh tế của các tập đoàn song vẫn tập trung vốn cho việc phát triển kinh tế . Việc tăng cường tầng lớp trung lưu trong xã hội ,tăng cường sự giám sát của xã hội đối với quá trình phân phối đã giúp nhiều nước tiến xa hơn tới một xã hội công bằng và dân chủ . Việc giải toả tập trung quyền lực kinh tế cũng tạo điều kiện cạnh tranh công bằng hơn qua đó tạo hiệu quả và tăng cường kinh tế . Thứ ba , thị trường chứng khoán tạo điều kiện cho việc tách biệt giữa sở hữu và quản lý doanh nghiệp .Khi qui mô của doanh nghiệp tăng lên , môi trường kinh doanh trở nên phức tạp hơn, nhu cầu về quản lý chuyên trách cũng tăng theo . Thị trường chứng khoán tạo điều kiện cho việc tiết kiệm vốn và chất xám , tạo điều kiện thúc đẩy cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước . Cơ chế thông tin hoàn hảo tạo khả năng giám sát chặt chẽcủa thị trường chứng khoán đã làm giảm các tiêu cực trong quản lý ,tạo điều kiện kết hợp hài hoà giữa lợi ích của chủ sở hữu , nhà quản lý và người làm công. Thị trường chứng khoán Thứ tư , là hiệu quả quốc tế hoá thị trường chứng khoán . Việc mở cửa thị trường chứng khoán làm tăng tính lỏng và cạnh tranh trên thị trường quốc tế . Điều này cho phép các công ty có thể huy động nguồn vốn rẻ hơn , tăng cường đầu tư từ nguồn tiết kiệm bên ngoài , đồng thời tăng cường khả nâng cạnh tranh quốc tế và mở rộng các cơ hội kinh doanh của các công ty trong nước . Hàn Quốc , Singapore , Thailand , Malaysia là những minh chứng điển hình về việc tận dụng các cơ hội do thị trường chứng khoán mang lại . Tuy nhiên , chúng ta cũng phải xem xét các tác đọng tiêu cực có thể xảy ra như việc tăng cung tiền quá mức , áp lực lạm phát , vấn đề chảy máu vốn , hoặc sự thâu tóm của người nước ngoài trên thị trường chứng khoán . Thứ năm ,thị trường chứng khoán tạo cơ hội cho chính phủ huy động các nguồn tài chính mà không tạo áp lực về lạm phát, đồng thời tạo các công cụ cho việc thực hiện chính sách tài chính tiền tệ của chính phủ . Đây chính là điểm thể hiện rõ nhất vị trí quan trọng của thị trường chứng khoán trong nền kinh tế và hệ thống tài chính quốc gia . Thứ sáu ,thị trường chứng khoán cung cấp một dự báo tuyệt vời về các chu kỳ kinh doanh trong tương lai . Viêc thay đổi giá chứng khoán có xu hướng đi trước chu kỳ kinh doanh , cho phép chính phủ cũng như các công ty đánh giá kế hoạch đầu tư cũng như việc phân bổ nguồn lực cho họ . Thị trường chứng khoán cũng tạo điều kiện tái cấu trúc lại nền kinh tế. Ngoài những tác động tích cực trên , thị trường chứng khoán cũng có những tiêu cực nhất định . Thị trường chứng khoán làm việc trên cơ sở thông tin hoàn hảo . Sng ở các thị trường mới nổi , thông tin đựơc chuyển tải tới các nhà đầu tư không đầy đủ và không giống nhau . Việc quyết định giá cả , mua bán chứng khoán của các nhà đầu tư cơ sở thông tin và xử lý thông tin . Như vậy . giá cả chứng khoán không phản ánh giá trị kinh tế cơ bản của công ty và không trở thành cơ sở để phân phối một cách có hiệu quả các nguồn lực . Một số tiêu cực khác của thị trường chứng khoán như hiện tưọng đầu cơ , hiện tượng xung đột quyền lực làm thiệt hại cho các cổ đông thiểu số , việc mua bán nội gián , thao tong thị trường làm nản lòng nhà đầu tư và như vậy , sẽ tác động tiêu cực tới tiết kiệm và đầu tư . nhiêm vụ của các nhà quản lý thị trường là giảm thiểu các tiêu cực của thị trường nhằm bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư và đảm bảo cho tính hiệu quả của thị trường . Như vậy , vai trò của thị trường chứng khoán được thể hiện trên nhiều khía cạnh khác nhau . Song vai trò tích cực hay tiêu cực của thị trường chứng khoán có thực sự được phát huy hay hạn chế phụ thuộc đáng kể vào các chủ thể tham gia vào thị trường và sự quản lý của Nhà nước . II.Các khái niệm cơ bản về thị trường chứng khoán 1.Chứng khoán 1.1Khái niêm và đặc điểm của chứng khoán Chứng khoán là những giấy tờ có giá và có khả năng chuyển nhượng , xác định số vốn đầu tư ( tư bản đầu tư ) ; chướng khoán xác định quyền sở hữu hoặc quyền đòi nợ hợp pháp , bao gồm các điều kiện về thu nhập và tàI sản trong một thời hạn nào đó Chứng khoán là một tài sản tài chính có các đặc điểm cơ bản sau : Tính thanh khoản ( tính lỏng ) : Tính lỏng của tàI sản là khả năng chuyển tài sản đó thành tiền mặt . Khả năng này cao hay thấp phụ thuộc vào khoảng thời gian và chi phí cần thiết cho việc chuyển đỏi và rủi ro của việc giảm sút giá trị của tàI sản đó do chuyển đổi . Chứng khoán có tính lỏng cao hơn so với các tài sản khác , thể hiện qua khả năng chuyển nhượng trên thị trường và nói chung , các chứng khoán khác nhau có khả năng chuyển nhượng khác nhau . Tính rủi ro : Chứng khoán là tài sản tài chính mà giá trị của nó chịu tác động lớn của rủi ro , bao gồm rủi ro có hệ thống và rủi ro không có hệ thống . Rủi ro có hệ thống hay rủi ro thị trường là loại rủi ro tác động tới toàn bộ hoặc hầu hết các tài sản . Loại rủi ro này chịu tác động của ccác điều kiện kinh tế chung như : lạm phát , sự thay đổi tỷ giá hối đoái , lãi suất vv.. Rủi ro không có hệ thống là loại rủi ro chỉ tác động tới một tài sản hoặc một nhóm các tài sản . Loại rủi ro này thường liên quan tới điều kiện của nhà phát hành Các nhà đầu tư thường quan tâm tới việc xem xét , đánh giá các rủi ro liên quan , trên cơ sở đó đề ra các quyết định trong viêc lựa chọn , nắm giữ hay bán các chứng khoán , điều này phản ánh mói quan hệ giữa lợi tức và rủi ro hay sự cân bằng về lợi tức – người ta sẽ không chịu rủi ro tăng thêm nếu không được bù đắp bằng lợi tức tăng thêm . Tính sinh lợi . Chứng khoán là một tài sản tài chính mà khi sở hữu nó , nhà đầu tư mong muốn nhận được một thu nhập lớn hơn trong tương lai .Thu nhâp này được đảm bảo bằng lợi tức được phân chia hằng năm và việc tăng giá trên thị trường . Khả năng sinh lợi bao giờ cũng quan hệ chặt chẽ với rủi ro của tài sản , thể hiện trong nguyên lý – mức độ chấp nhân rủi ro càng cao thì lợi nhuận kỳ vọng càng lớn . 1.2Phân loại chứng khoán Tuỳ theo cách chọn tiêu thức , ngưòi ta có thể phân loại khứng khoán thành nhiều loại khác nhau , có ba loại tiêu thức chủ yếu , đó là theo tính chất của chứng khoán , theo khả năng chuyển nhượng và theo khả năng thu nhập . Tuy nhiên, ở đây ta chỉ giới thiệu sơ quavề các loại chứng khoán thường thấy nhất trên thị trường chứng khoán : Cổ phiếu là một loại chứng khoán vốn được phát hành dưới dạng chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ , xác nhận quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp đối với tàI sản hoặc vốn của một công ty cổ phần . Cổ phiếu là công cụ tài chính có thời hạn thanh toán là vô hạn Khi tham gia mua cổ phiếu , các nhà đầu tư trở thành các cổ đông của các công ty cổ phần . Cổ đông có quyền hạn và trách nhiệm đối với công ty cổ phần, được chia lời (cổ tức) theo kết quả kinh doanh của công ty cổ phần: được quyền bầu cử, ứng cử vào ban quản lý, ban kiểm soát. Cổ phiếu có thể được phát hành vào lúc thành lập công ty, hoặc lúc công ty cần thêm vốn để mở rộng, hiện đại hoá sản xuất kinh doanh.Một đặc điểm của cổ phiếu là cổ đông được chia cổ tức theo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Cổ đông có thể được hưởng lợi nhuận nhiều hơn giá trị của cổ phiếu và cũng có thể bị mất trắng khi công ty làm ăn thua lỗ. Cổ đông không được quyền đòi lại số vốn mà người đó đã góp vào công ty cổ phần, họ chỉ có thể thu lại tiền bằng cách bán cổ phiếu đó ra trên thị trường chứng khoán theo qui định pháp luật Trái phiếu , điển hình của chứng khoán nợ là một loại chứng khoán quy định nghĩa vụ của người phát hành ( người đi vay ) phải trả cho người đứng tên sở hữu chứng khoán ( người cho vay ) một khoản tiền nhất định bao gồm cả vốn lẫn lãi trong những khoảng thời gian cụ thể Nhờ phát hành trái phiếu mà chính phủ , các tổ chức công cộng ( có tư cách pháp nhân ) , các công ty cổ phần tạo ra được các nguồn vốn ổn định .Với loại chứng khoán này , do rủi ro thấp hơn so với chứng khoán có thu nhập biến đổi nên sự thay đổi về giá là thấp hơn , tỷ lệ lợi tức quyết đinh chủ yếu tới khả năng sinh lời của chứng khoán . Bị ảnh hưởng của rủi ro lãi suất, cả người mua và người bán đều quan tâm tới tỷ lệ lợi tức ở từng thời điểm . Ngoài ra , trên thị trường chứng khoán còn phát hành hình thức hỗn hợp chứng khoán nhằm thích ứng với nhu cầu đặc biệt của thị trưoừng vốn .Chứng khoán hỗn hợp có những loại chủ yếu sau Trái phiếu công ty có khả năng chuyển đổi : Loại trái phiếu này có một mức lãi suất cố định , ngoài ra nó còn đảm bảo cho người có quyền sở hữu quyền đổi tráI phiếu thành côr phiếu trong một thời hạn với những điều kiện xác định . Giá trị của quyền chuyển đổi không chỉ phụ thuộc vào quyền chuyển đổi mà còn phụ thuộc vào chất lượng cổ phiếu của công ty Trái phiếu có quyền mua cổ phiếu : Trái phiếu có quyền mua cổ phiếu tương tự như trái phiếu nói chung nhưng ngoàI khoản lợi tức cố địng được nhận , nó còn có quyền mua một số lượng cổ phiếu nhất định của công ty đang phát hành với một tỷ lệ và thời hạn ưu đãi như đối với cổ đong thực thụ . Loại chứng khoán này có một “ chứng chỉ quyền mua “ được tách ra sau khi phát hành chứng khoán . Về nguyên tắc “chứng chỉ quyền mua “được Thị trường chứng khoán tách ra sau khi phát hành chứng khoán một thời gian và được lưu thông độc lập trên thị trường Trái phiếu thu nhập bổ sung : loại chứng khoán này đảm bảo một khoản lợi tức cố đinh nhưng người người sở hữu có thể nhận được một khoản thu nhập bổ sung theo sự dao đọng tăng của cổ tức mà các cổ đong được hưởng 2.Khái niệm và bản chất của thị trường chứng khoán 2.1 Thị trường tài chính 2.1.1Khái niệm Thị trường tài chính là nơi diễn ra sự chuyển vốn từ người dư thừa vốn tới những người thiếu vốn .Thị trường tài chính cũng có thể được định nghĩa là nơi phát hành , mua bán , trao đổi và chuyển nhượng những công cụ tài chính theo các qui tắc và luật lệ nhất định Trong nền kinh tế thị trường , sư tồn tại và phát triển của thị trường tài chính là tất yếu khách quan . Hoạt động trên thị trường tài chính có những tác động , hiệu ứng trực tiếp tới hiệu quả đầu tư của các cá nhân của các doanh nghiệp và hành vi của người tiêu dùng ,và tới động thái chung của toàn bộ nền kinh tế . 2.1.2Cấu trúc thị trường tài chính Căn cứ vào các tiêu thức khác nhau , người ta phân loại thị trường tài chính thành các thị trường bộ phận * Thị trường nợ và thị trường vốn cổ phần Căn cứ vào phương thức huy động vốn của tổ chức phát hành ,thị trường tài chính được phân thành thị trường nợ và thị trường vốn cổ phần Thị trường nợ là thị trường mà hàng hoá tại đó là các công cụ nợ . Các công cụ nợ có thời hạn xác định , có thể ngắn hạn , trung hạn hay dài hạn . Tín phiếu và trái phiếu là 2 ví dụ điển hình của công cụ nợ *Thị trường tiền tệ và thị trường vốn Căn cứ vào thời gian luân chuyển vốn , thị trường tài chính được chia thành thị trương tiền tệ và thị trường vốn Thị trường tiền tệ là thị trường tài chính trong đó các công cụ ngắn hạn ( có thời han dưới một năm ) được mua bán , ccòn thị trường vốn là thị trường giao dịch ,mua bán các công cụ tài chính trung và dài hạn ( gồm các công cụ vay nợ dài hạn và cổ phiếu ).Các hàng hoá trên thỉtường tiền tệ có đặc điểm là thời gian đáo hạn ngắn hạn nên có tính lỏng cao , độ rủi ro thấp và ổn định . Thị trường tiên tệ bao gồm :thị trường liên ngân hàng , thị trường tín dụng ,thị trường ngoại hối . 2.2 Khái niệm và bản chất thị trường chứng khoán Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các giao dịch mua bán trao đổi các loại chứng khoán Các quan hệ mua bán trao đổi này làm thay đổi chủ sở hữu của chứng khoán ,và như vậy , thực chất đây là quá trình vận động của tư bản ,chuyển từ tư bản sở hữu sang tư bản kinh doanh Thị trường chứng khoán không giống với các thị trường các hàng hoá thông thường khác vì hàng hoá của thị trường chứng khoán là loại hàng hoá đặc biệt , là quyền sở hữu về tư bản . Loại hàng hoá này cũng có giá trị và giá trị sử dụng . Như vậy , có thể nói , bản chất của thị trường chứng khoán là thị trường thể hiện mối quan hệ giữa cung và cầu của vốn đầu tư nào đó , giá cả của chứng khoán chứa đựng thông tin về chi phí vốn hay giá cả của vốn đầu tư . Thị trường chứng khoán là hình thức phát triển bậc cao của nền sản xuất và lưu thông hàng hoá 3. Vị trí và cấu trúc thị trường chứng khoán . 3.1 Vị trí của TTCK trong thị trường tài chính Thị trường chứng khoán là một bộ phận của thị trường tàichính . Vị trí của thị trường chứng khoán trong tổng thể thị trường tài chính thể hiện Thị trường chứng khoán -Thị trường chứng khoán là hình ảnh đặc trưng của thị trường vốn 1 TT tiền tệ TT vốn TTCK Thời gian đáo hạn 1 năm t Như vậy , trên thị trường chứng khoán giao dịch 2 loại công cụ tài chính:công cụ tại chính trên thị trường vốn và công cụ tài chính trên thị trường tiền tệ -Thị trường chứng khoán là hạt nhân trung tâm của thị trường tàI chính nơi diễn ra quá trình phát hành , mua bán các công cụ Nợ và công cụ Vốn (các công cụ sở hữu) TT Nợ TT Vốn cổ phần TT Trái phiếu TT Cổ phiếu Cấu trúc thị trường chứng khoán Tuỳ theo mục đích nghiên cứu , cấu trúc TTCK có thể được phân loại theo nhiều cách khác nhau . Tuy nhiên, ở đây ta chỉ xét cách phân loại theo quá trình luân chuyển vốn .Theo cách phân loại này ,TTCK được phân thành thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp Thị trường sơ cấp hay thị trường cấp 1 (Primary Market) là thị trường phát hành các chứng khoán hay là nơi mua bán chứng khoán đầu tiên. Tại thị trường này , giá cả các chứng khoán là giá phát hành .Việc mua bán chứng khoán trên thị trường sơ cấp làm tăng vốn của nhà phát hành . Thông qua việc phát hành chứng khoán ,Chính phủ có thêm nguồn thu để tàI trợ cho các dự án đầu tư hoặc chi tiêu dùng cho chính phủ ,các doanh nghiệp huy động vốn trên thị trưòng nhằm tài trợ cho các dự án đầu tư . Thị trường thứ cấp hay thị trường cấp 2 ( Secondary Market ) là thị trường giao dịch ,mua bán ,trao đổi những chứng khoán đã được phát hành nhằm kiếm lời , di chuyển vốn đầu tư hay di chuyển tài sản xã hội . Quan hệ giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp thể hiện trên các góc độ sau : Thứ nhất , thị trường thứ cấp làm tăng tính lỏng của các chứng khoán được phát hành . Việc này làm tăng sự ưa chuộng của chứng khoán và làm giảm rủi roc cho các nhà đầu tư . Các nhà đầu tư sẽ dễ dàng hơn trong việc sàng lọc , lựa chọn , thay đổi kết cấu trong danh mục đầu tư , trên cơ sở đó làm giảm chi phí cho các nhà phát hành trong việc huy động và sử dụng vốn ,Việc tăng tính lỏng của tài sản sẽ tao điều kiện tách biệt giữa sở hữu và quản lý , làm tăng hiệu quả quản lý doanh nghiệp . Việc tăng tính lỏng cho các chứng khoán tạo điều kiện cho việc chuyển đổi thời hạn vốn , từ vốn ngắn hạn sang vốn trung hạn và dàI hạn , đồng thời tạo điều kiệ cho việc phân phối vốn một cách có hiệu quả . Sự di chuyển vốn trong nền kinh tế được thực hiện thông qua cơ chế “ bàn tay vô hình “ , co chế xác định giá chứng khoán và thông qua hoạt đọng thâu tóm , sáp nhập doanh nghiệp trên thị trường thứ cấp . Thứ hai , thị trường thứ cấp xác định giá của chứng khoán đã được phát hành trên thị trường sơ cấp . Thị trường thứ cấp được xem là thị trường định giá các công ty Thứ ba , thông qua việc xác định giá , thị trường thứ cấp cung cấp một danh mục chi pphí vốn tương ứng cho các mức độ rủi ro khác nhau của từng phương án đâu tư , tạo cơ sở tham chiếu cho các nhà phát hành cũng như các nhà đầu tư trên thị trường sơ cấp . Thông qua cơ chế “bàn tay vô hình “ , vốn sẽ được chuyển đến tới những công ty nao làm ăn có hiệu quả nhất , qua đó làm tăng hiệu quả kinh tế xã hội Tóm lại , thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp có quan hệ mật thiết , hỗ trợ lẫn nhau . Về bản chất mối quan hệ giữa thị trường sơ cấp và thị trường là mối quan hệ nội tại , biện chứng .Nếu không có thị trường sơ cấp sẽ không có thị trường thứ cấp , đồng thời , thị trường thứ cấp lại tạo điều kiện phát triển thị trường sơ cấp. Hai thị trường được ví dụ như hai bánh xe của một chiếc xe, trong đó thị trường sơ cấp là cơ sở, là tiền đề, thị trường thứ cấp là động lực. Nếu không có thị trường sơ cấp thì sẽ chẳng có chứng khoán để lưu thông trên thị trường thứ cấp và ngược lại, nếu không có thị trường thứ cấp thì việc hoán chuyển các chứng khoán thành tiền sẽ bị khó khăn, khiến cho người đầu tư sẽ bị thu nhỏ lại, hạn chế khả năng huy động vốn trong nền kinh tế. Điểm khác nhau căn bản giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp không phải là sự khác nhau về hình thức mà là sự khác nhau về nội dung, về mục đích của từng loại thị trường. Bởi lẽ, việc phát hành cổ phiếu hay trái phiếu ở thị trường sơ cấp là nhằm thu hút mọi nguồn vốn đầu tư và tiết kiệm vào công cuộc phát triển kinh tế. Còn ở thị trường thứ cấp, dù việc giao dịch rất nhộn nhịp có hàng chục, hàng trăm thậm chí hàng ngàn tỉ đô la chứng khoán được mua đi bán lại, nhưng không làm tăng thêm qui mô đầu tư vốn, không thu hút thêm được các nguồn tài chính mới. Nó chỉ có tác dụng phân phối lại quyền sở hữu chứng khoán từ chủ thể này sang chủ thể khác, đảm bảo tính thanh khoản của chứng khoán. Do đó, mục đích cuối cùng của các nhà quản lý là phải tăng cường huy động vốn trên thị trường sơ cấp , vì chỉ có tại thị trường này , vốn mới thực sự hoạt động từ người tiết kiệm sang người đầu tư , còn sự vận động vốn trên thị trường thứ cấp chỉ là tư bản giả , không tác động trực tiếp tới việc tích tụ , tập trung vốn .Việc phân biệt thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp chỉ có ý nghĩa về mặt lý thuyết. Trong thực tế tổ chức thị trường chứng khoán không có sự phân biệt đâu là thị trường sơ cấp và đâu là thị trường thứ cấp. Nghĩa là, trong một thị trường chứng khoán vừa có giao dịch của thị trường sơ cấp vừa có giao dịch của thị trường thứ cấp. Vừa có việc mua bán chứng khoán theo tính chất mua đi bán lại. Tuy nhiên, điểm cần chú ý là phải coi trọng thị trường sơ cấp, vì đây là thị trường phát hành là hoạt động tạo vốn cho đơn vị phát hành đồng thời phải giám sát chặt chẽ thị trường thứ cấp, không để tình trạng đầu cơ lũng đoạn thị trường để đảm bảo thị trường chứng khoán trở thành công cụ hữu dụng của nền kinh tế. 3. Thị trường chứng khoán phi tập trung (OTC) Thị trường chứng khoán phi tập trung (OTC ) là loại thị trường chứng khoán xuất hiện sớm nhất trong lịch sử hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán . Thị trường này được mang tên OTC (Over the Counter )có nghĩa là “ Thị trường qua quầy “ . Điều này xuất phát từ đặc thù thị trường là các giao dịch mua bán được thực hiện trực tiếp tại các quầy của các ngân hàng hoặc các công ty chứng khoan mà không phảI thông qua các trung gian môI giới để đưa vào đấu giá tập trung . 3.1.Khái niệm Thị trường OTC là thị trường không có trung tâm giao dịch chứng khoán tập trung , đó là một mạng lưới các nhà môi giới và tự doanh chứng khoán mua bán với nhau và với các nhà đầu tư , các hoạt động giao dịch của thị trường OTC được diễn ra tại các quầy (sàn giao dịch ) của các ngân hàng và các công ty chứng khoán . Đặc điểm quan trọng nhất của thị trường chứng khoán OTC để phân biệt với thị trường chứng khoán tập trung ( tại các Sở giao dịch chứng khoán ) là cơ chế lập giá bằng hình thức thương lượng và thoả thuận song phương giữa người bán và người mua là chủ yếu, còn hình thức xác lập giá bằng đấu lệnh chỉ được áp dụng hạn chế và phần lớn là các lệnh nhỏ . Thời kỳ ban đầu của thị trường , việc thương lượng giá theo thoả thuận trực tiếp – “ mặt đối mặt” song cho đến nay với sự phát triển của công nghệ thông tin , việc thương lượng có thể được thực hiện qua diện thoại và hệ thống mạng máy tính điện tử diện rộng . Thị trường OTC đóng vai trò của một thị trường thứ cấp , tức là thực hiện vai trò điều hoà , lưu thông các nguồn vốn ,đảm bảo chuyển hoá các nguồn vốn ngắn hạn thành dài hạn dể đầu tư phát triển kinh tế . Quá trình phát triển của thị trường OTC là quá trình phát triển từ hình thái thị trường tự do , không có tổ chức đến thị trường có tổ chức có sự quản lý ccủa Nhà nước hoặc của các tổ chức tự quản và được phát triển từ hình thức giao dịch truyền thống ,thủ công sang hình thức giao dịch điện tử hiện đại . Hiện nay , thị trường OTC được coi là thị trường chứng khoán bậc cao , có mức dộ tự động hoá cao độ . 3.2. Những đặc điểm cơ bản của thị trường OTC Thị trường OTC ở mỗi nước có những đặc điêmr riêng , phù hợp với điều kiện và đặc thù mỗi nước . Tuy nhiên , hệ thống thị trường OTC trên thế giới hiện nay được xây dựng theo mô hình thị trường NASDAQ của Mỹ . Vì vậy , có thể khái quát một số đặc điểm chung ở các nước như sau Về hình thức tổ chức thị trường . Thị trường OTC được tổ chức theo hình thức phi tập trung , không có địa điểm giao dịch mang tính tập trung giữa bên mua và bán . Thị trường sẽ diễn ra tại các điểm giao dịch của các ngân hàng , các công ty chứng khoán , và các địa diểm thuận lợi cho ngời mua và bán . Chứng khoán giao dịch trên thị trường OTC bao gồm hai loại : Thứ nhất , chiếm phần lớn là các chứng khoán chưa đủ điều kiện niêm yết trên Sở giao dịch song đáp ứng các điều kiện về tính thanh khoản và yêu cầu tài chính tối thiểu của thị trường OTC , trong đó chủ yếu là các chứng khoán của các công ty vừa và nhỏ , công ty công nghệ cao và có tiềm năng phát triển . Thứ hai là các loại chứng khoán đã niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán . Như vậy , chứng khoán niêm yết và giao dịch trên thị trường OTC rất đa dạng vàcó độ rủi ro cao hơn so với các chứng khoán niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán Cơ chế lập giá trên thị trường OTC chủ yếu được thực hiện qua phương thức thương lượng và thoả thuận song phương giữa bên bán và bên mua , khác với cơ chế đấu giá chứng khoán trên Sở giao dịch chứng khoán . Hình thức khớp lệnh trên thị trường OTC rất ít phổ biến và chr dược áp dụng đối với các lệnh nhỏ . Giá chứng khoán được hình thannhf qua thương lượng và thoả thuận riêng biệt nên sẽ phụ thuộc vào từng nhà kinh doanh đối tác trong giao dịch và như vậy sẽ có nhiều mức giá khác nhau đối với một loại chứng khoán tại một thời điểm . Tuy nhiên , với sự tham gia của các nhà tạo lập thị trường và cơ chế báo giá tập trung qua mạng máy tính điện tử như ngày nay dẫn ddến sự cạnh tranh giá mạnh mẽ giữa các nhà kinh doanh chứng khoán và vì vậy , khoảng cách chênh lệch giữa các mức giá sẽ thu hẹp do diẽn ra sự “ đấu giá “ giữa các nhà tạo lập thị trường với nhau , nhà đầu tư chỉ viẹc chọn lựa giá tốt nhất trong các báo giá của các nhà tạo lập thị trường Thị trường có sự tham gia của các nhà tạo lập thị trường đó là các công ty giao dịch – môi giới . Các công ty này có thể hoạt động giao dịch dưới hai hình thức : Thứ nhất là mua bán chứng khán cho chính mình bằng nguồn vốn của công ty - đó là hoạt động giao dịch. Thứ hai là làm môI giới đại lý cho khách hàng để hưởng hoa hồng - đó là hoạt động môI giới Khác với Sở giao dịch chứng khoán chỉ có một người tạo ra thị trường cho mỗi loại chứng khoán đó là các chuyên gia chứng khoán , thị trường OTC có sự tham gia và vâvj hành của các nhà tạo lập thị trường ( Market Maker ) cho một loại chứng khoán bên cạnh các nhà môi giới tự doanh . Nhiệm vụ quan trọng nhất và chủ yếu của các nhà tạo lập thị Thị trường chứng khoán trường là tạo tính thanh khoản cho thị trường thông qua viêc nắm giữ một lươngj chứng khoán để sẵn sàng giao dịch với khách hàng . Để tạo ra chỉ thị trường cho một loại chứng khoán ,các công ty giao dịch – môi giới sẽ xướng mức giá cao nhất sẵn sàng mua ( giá đặt mua ) và giá thấp nhất sẵn sàng bán (giá chào bán ) , các mức giá này là giá yết của các nhà tạo thị trường và họ sẽ được hưởng chênh lệch giá thông qua việc mua và bán chứng khoán . Hệ thống các nhà tạo lập thị trường được coi là động lực cho thị trường OTC phát triển . Muốn tham gia trên thị trường OTC , các công ty môI giới phải đăng ký hoạt động với các cơ quan quản lý ( Uỷ ban chứng khoán , Sở giao dịch chứng khoán hoặc hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán ) và có trách nhiệm tuân thủ các chuẩn mực về taì chính , kỹ thuật , chuyên môn và đạo đức hành nghề Là thị trường sử dụng hệ thông mạng máy tính điện tử diện rộng liên kết tất cả các đối tượng tham gia thị trường . Vì vậy , thị trường OTC còn được gọi là thị trường mạng hay thị trường báo giá điện tử . Hệ thông mạng của thị trường được các đối tượng tham gia trên thị trường sử dụng để đặt lệnh giao dịch , đàm phán , thương lượng giá , truy cập và thông báo các thông tin liên quan đến các giao dịch chứng khoán … Chức năng của mạng được sử dụng rộng rãi trong giao dịch mua bán và quản lý trên thị trường OTC Quản lý thị trường OTC . Cấp quản llý trên thị trường OTC tương tự như quản lý hoạt động của thị trường chứng khoán tập trung và được chia làm hai cấp * Cấp quản lý Nhà nước : do cơ quan quản lý thị trường chứng khoán trực tiếp quản lý theo pháp luật về chứng khoán và các luật có liên quan , cơ quan này thường gọi là Uỷ quan chứng khoán nhà nước *Cấp tự quản : có thể do hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán quản lý như ở Mỹ , Nhật , Thái Lan , Hàn Quốc … hoặc do trực tiếp sở giao dịch đồng thời quản lý mhư ở Anh Pháp ,Canada …Nhìn chung , nội dung và mức độ quản lý ở mỗi nước khác nhau m tuỳ thuộc vào điều kiện và đặc thù từng nước nhưng đều có chung mục tiêu là đảm bảo sự ổn định và phát triển liên tục của nền kinh tế thị trường Cơ chế thanh toán trên thị trường OTC là linh hoạt và đa dạng . Do phần lớn các giao dịch mua bán trên thị trường OTC đều thực hiện trên cơ sở thương lượng và thoả thuận nên phương thức thanh toán trên thị trường OTC linh hoạt gữa người mua và bán , khác với phương thức thanh toán bù trừ đa phương thống nhất như trên thị trường tập trung . Thời hạn thanh toán không cố định như trên thị trường tập trung mà rất đa dạng T+0,T+1, T+2,T+x trên cùng một thị trường, tuỳ theo thương vụ và sự phát triển của thị trường 3.3.Vị trí và vai trò thị trường OTC 3.3.1 Vị trí của thị trường OTC Thị trường OTC là một bộ phận cấu thành thị trường chứng khoán ,luôn tồn tại và phát triển song song với thị trường chứng khoán tập trung ( các Sở giao dịch chứng khoán ). Tuy nhiên , do đặc đểm khác biệt với thị trường tập trung ở cơ chế xác lập giá thương lượng và thoả thuận là chủ yếu , hàng hoá trên thị trường da dạng . Vì vậy , thị trường OTC có vị trí quan trọng trong cấu trúc thị trường chứng khoán ,là thị trường bộ phận hỗ trợ thị trường tập trung 3.2 Vai trò thị trường OTC Hỗ trợ và thúc đẩy thị trường chứng khoán tập trung phát triển Hạn chế , thu hẹp thị trường tự do góp phần đảm bảo sự ổn định và lành mạnh của thị trường chứng khoán Tạo thị trường cho các chứng khoán của các công ty vừa và nhỏ , các chứng khoán chưa đủ điều kiện niêm yết Tạo môi trường đầu tư linh hoạt cho các nhà đầu tư 4. Sở giao dịch chứng khoán 4.1.Khái niệm , chức năng của Sở giao dịch chứng khoán 1.1 Khái niệm Thị trường chứng khoán Sở giao dịch chứng khoán (SGDCK) là thị trường giao dịch chứng khoán được thực hiện tại một địa điểm tập trung gọi là sàn giao dịch chứng khoán ( trading floor) hoặc thông qua hệ thống máy tính Các chứng khoán được niêm yết tại SGDCK thông thường là chứng khoán của các công ty lớn , có danh tiếng và đã từng trảI qua thử thách trên thị trường và đáp ứng được các tiêu chuẩn niêm yết ( gồm các tiêu chuẩn định tính và dịnh lượng do SGDCK đặt ra ) Lịch sử phát triển thị trường chứng khoán gắn liền với sự ra đời và phát triển của SGDCK , từ buổi sơ khai ban đầu hoạt động của SGDCK với phương thức thủ công (bảng đen , phấn trắng ) diễn ra tại sàn giao dịch , sau này có sự trợ giúp của máy tính (bàn tính thủ công ) và ngày nay hầu hết các thị trường chứng khoán mới nổi , đã điện toán hoá hoàn toàn , không còn khái niệm sàn giao dịch. 1.2 Chức năng của SGDCK Việc thiết lập một thị trường chứng khoán có tổ chức , vận hành liên tục với các chứng khoán có chọn lựa là một trong những chức năng quan trọng nhất của SGDCK . Mặc dù hoạt động của SGDCK kkhông mang lại vốn trực tiếp cho tổ chức phát hành , nhưng thông qua SGDCK các chưngs khoán phát hành được giao dịch liên tục , làm tăng tính thanh khoản và khả mại cho các chứng khoán . Các tổ chức phát hành có thể phát hành để tăng vốn qua thị trường chứng khoán ,các nhà đầu tư có thể dễ dàng mua hoặc bán chứng khoán niêm yết một cách nhanhchóng Chức năng xác định giá công bằng là cực kỳ quan trọng trong việc tạo ra một thị trường liên tục .Giá cả không do SGDCK hay thành viên SGDCK áp đặt mà được SGDCK xác định dựa trên cơ sở so khớp các lệnh mua và bán chứng khoán . Giá cả được xác địng bởi cung- cầu trên thị trường . Qua đó , SGDCK mới có thể tạo ra được một thị trường tự do, công khai và công bằng . Hơn nữa , SGDCK mới có thể đưa ra các báo cáo một cách chính xác , liên tục về các chứng khoán , tình hình hoạt động các tổ chức niêm yết , các công ty chứng khoán 4.2. Niêm yết chứng khoán 4.2.1Khái niêm Niêm yết chứng khoán là quá trình định danh các chứng khoán đáp ứng đủ các tiêu chuẩn được giao dịch trên SGDCK . Cụ thể đay là quá trình SGDCK chấp thuận cho các công ty phát hành có chứng khoán được phép niêm yết và giao dịch trên SGDCK nếu công ty đó đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn về định lượng cũng như định tính mà SGDCK đề ra Niêm yết chứng khoán thường bao hàm việc yết tên tổ chức phát hành và giá các chứng khoán Hoạt động niêm yết đòi hỏi phải đảm bảo sự tin cậy đối với thị trường cho các nhà đầu tư . Cụ thể , các công ty niêm yết phảI đáp ứng những điều kiện niêm yết . Điều kiện này được quy định cụ thể trong quy định về niêm yết chứng khoán do SGDCK ban hành . Thông thường , có hai loại quy định cính về niêm yết là yêu cầu về công bố thông tin của công ty và tính khả mại của chứng khoán . Các nhà đầu tư và công chúng phả nắm được đầy đủ các thông tin và có cơ hội nắm bắt thông tin do công ty phát hành công bố ngang nhau , đảm bảo sự công bằng trong tiếp nhận thông tin , kể cả thông tin mang tính chất định kỳ hoặc thông tin tức thời có tác động đén giá cả , khối lượng giao dịch 2.2 Mục tiêu của việc niêm yết Thiết lập quan hệ hợp đồng giữa SGDCK với tổ chức phát hành có chứng khoán niêm yết , từ đó quy định trách nhiệm và nghĩa vụ của tổ chức phát hành trong vệc công bó thông tin , đảm bảo tính trung thự , công khai và công bằng Nhằm mục đích hỗ trợ thị trường hoạt động ổn định , xây dựng lòng tin của công chúng với thị rường chứng khoán bằng cách lựa chọn các chứng khoán có chất lượng cao để giao dịch . Cung cấp cho các nhà đầu tư những thông tin về các tổ chức phát hành Thị trường chứng khoán Giúp cho việc xác định giá chứng khoán được công bằng trên thị trường đấu giá vì thông qua việc niêm yết công khai , giá chứng khoán được hình thành dựa trên sư tiếp xúc hiệu quả giữa cung và cầu chứng khoán 4.2.3 Vai trò việc niêm yết chứng khoán đối với tổ chức phát hành *Thuận lợi Công ty dễ dàng trong việc huy động vốn : Niêm yết nhằm mục đích huy động vốn thông qua phát hành chứng khoán . Công ty được niêm yết có thể thu hút vốn dàI hạn với chi phí thấp . Thông thường , công ty niêm yết được công chúng tín nhiệm hơn công ty không được niêm yết , bởi vậy , khi trở thành một công ty được niêm yết thì họ có thể dễ dàng hơn trong việc huy động vốn Tác động đến công chúng : Niêm yết góp phần “ tô đẹp “ thêm hình ảnh của công ty trong mắt các nhà đầu tư , các chủ nợ , người cung ứng , các khách hàng và những ngưòi làm công , nhờ vậy công ty niêm yết có “ sức hút “ đầu tư hơn đối với các nhà đầu tư Nâng cao tính thanh khoản cho các chứng khoán : Khi các chứng khoán được niêm yết , chúng có thể được nâng cao tính thanh khoản , mở rộng phạm vi chấp nhận làm vật thế chấp và dễ dàng được sử dụng phục vụ cho các mục đích về tàI chính , thừa kế và các mục đích khác . Hơn nữa , các chứng khoán được niêm yết có thể được mua với một số lượng nhỏ , do đó các nhà đầu tư có vốn nhỏ vẫn có thể dễ dàng trở thành cổ đông công ty Ưu đãi về thuế Thông thường ở các thị trường chứng khoán mới nổi , công ty tham gia niêm yết được hưởng những chính sách ưu đãI về thuế trong hoạt động kinh doanh như : miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp trong một số năm nhất định Đối với các nhà đầu tư mua , chứng khoán niêm yết sẽ được hưởng các chính sách ưy đãI về thuế thu nhập ( miễn, giảm ) đối với các cổ tức , lãi hoặc chênh lệch mua bán chứng khoán ( lãi vốn ) từ các khoản đầu tư vào thị trường chứng khoán *Hạn chế Nghĩa vụ báo cáo như một công ty đai chúng : Công ty niêm yết phải có nghĩa vụ thông tin một cách chính xác , đầy đủ , và kịp thời liên quan đến các mặt hoạt động của công ty cũng như các biến động có ảnh hưởng đến giá cả chứng khoán niêm yết . Nghĩa vụ công bố thông tin trong một số trường hợp làm ảnh hưởng đến bí quyết , bí mật kinh doanh, gây phiền hà cho công ty Những cản trở trong việc thâu tóm và sát nhập : Niêm yết bộc lộ nguồn vốn và phân chia quyền biểu quyết của côg ty cho những người mua là những người có thể gây bất tiện cho những cổ đông chủ chốt và công việc quản lý điều hành hiện tại cảu công ty . Công ty có thể gặp nhiều cản trở trong việc thực hiện mục tiêu thâu tóm hay sát nhập của mình 5. Công ty chứng khoán 5.1. Khái niệm và phân loại CTCK Công ty chứng khoán là một định chế tài chính trung gian thực hiện các nghiệp vụ tren thị trường chứng khoán ở Việt Nam , theo quyết định 04/1998/QĐ-UBCK3 ngày 13 tháng 10 năm 1998 của UBCKNN ,CTCK là công ty cổ phần ,công ty trách nhiệm hữu hạn thành lập hợp pháp tại Việt Nam , được Uỷ ban chứng khoán nhà nước cấp giấy phép thực hiên một số loại hình kinh doanh chứng khoán Do đặc điểm một CTCK có thể kinh doanh chứng khoán nhất định do đó ,hiện nay , có quan điểm phân chia CTCK như sau Công ty môi giới cứng khoán : là công ty CK chỉ thựchiện việc trung gian mua bán chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng Công ty bảo lãnh phát hành chứng khoán : là CTCK chủ yếu thực hiện nghiệp vụ tự doanh , có nghiã là tự bỏ vốn và tự chịu trách nhiệm về hậu quả kinh doanh Công ty trái phiếu : là CTCK chuyên mua bán các loại tráI phiếu Thị trường chứng khoán Công ty chứng khoán không tập trung : là các CTCK hoạt động chủ yếu trên thị trường OTC và họ đóng vai trò các nhà tạo lập thị trường 5.2. Nguyên tắc hoạt động của công ty chứng khoán CTCK hoạt động theo hai nhóm nguyên tắc đó là nhóm nguyên tắc đạo đúc và nhóm nguyên tắ mang tính tài chính Nhóm nguyên tắc đạo đức CTCK phải đảm bảo tính trung thực và công bằng vì lợi ích của khách hàng Kinh doanh có kỹ năng , tận tuỵ , có tinh thaanf trách nhiệm Ưu tiên thực hiện lệnh của khách hàng trước khi thực hiện lệnh của công ty Có nghĩa vụ bảo mật cho khách hàng , không được tiết lộ các thông tin về tàI khoản khách hàng khi chưa được khách hàng đồng ý bằng văn bản trừ khi có yêu cầu của cơ quan quản lý nhà nước CTCK khi thực hiện nhiệm vụ tư vấn phải cung cấp đầy đủ thông tin chokhách hàng và giảI thích rõ ràng về các rủi ro mà khách hàng có thể phải gánh chịu ,đồng thời họ không được khẳng định về lợi mhuận các khoản đầu tư mà họ tư vấn CTCK không được phép nhận bất cứ khoản thù lao nào ngoài các khoản thù lao thông thường cho dịch vụ tư vấn của mình ở nhiều nước ,các CTCK phả đóng góp tiền vào quỹ bảo vệ nhà đầu tư chứng khoán để bảo vệ lợi ích khách hàng trong trường hợpCtCK mất khả năng thanh toán Nghiêm cấm thực hện các gio dịch nội gián , các công ty chứng khoán không được phép sử dụng các thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán cho chính mình , gây thiệt hại đến lợi ích khách hàng Các CTCK không được tiến hành các hoạt động có thể lamf cho khách hàng và công chúng hiểu lầm về giá cả , giá trị và bản chất của chứng khoán hoặccác hoạt động khác gây thiệt hại cho khách hàng Nhóm nguyên tắc tài chính Đảm bảo các yêu cầu về vốn , cơ cấu vốn và nguyên tắc hạch toán ,báo cáo theo qui định của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước . Đảm bảo nguồn tài chính trong cam kết kinh doanh chứng khoán với khách hàng Công ty chứng khoán không được dùng tiền khách hàng làm nguồn tài chính để kinh doanh , ngoại trừ trường hợp số tiền đó dùng phụcvụcho giao dịch khách hàng Công ty chứng khoán phảI tách bạch tiền và chứng khoán của khách hàng với tài sản của mình . Công ty chứng khoán không được ding chứng khoán của khách hàng làm vật thế chấp để vay vốn trừ trường hợp được khách hàng đồng ý bằng văn bản 5.3. Cơ cấu tổ chức của công ty chứng khoán Cơ cấu tổ chức của công ty chứng khoán phụ thuọc vào loại hình nghiệp vụ chứng khoán mà công ty thực hiện cũng như qui mô hoạt động kinh doanh chứng khoán của nó . Tuy nhiên , chúng đều có những đặc điểm chung là hệ thống các phòng ban chức năng được chia thành nhóm 2 khối khác nhau là khối nghiệp vụ và khối phụ trợ Khối nghiệp vụ ( front office ) là khối thực hiện các giao dịch kinh doanh và dịch vụ chứng khoán . Khối này đem lại thu nhập cho công ty bằng cách đáp ứng nhu cầu khách hàng và tạo ra sản phẩm phù hợp với các nhu cầu đó . Tương ứng với các nghiệp vụ do khối này phụ trách sẽ có những bộ phòng ban nhất định Phòng môi giới Phòng tự doanh Phòng bảo lãnh phát hành Phòng quản lý danh mục đầu tư và quĩ đầu tư Phòng tư vấn tài chính đầu tư Phòng kỹ quĩ Tuy nhiên , căn cứ vào quy mô thị trường và sự chú trọng vào các nghiệp vụ mà công ty chứng khoán có thể chuyên sâu từng bộ phận hoặc tổng hợp các nghiệp vụ trong bộ phận Thị trường chứng khoán Khối phụ trợ (back office ) là khối không trực tiếp thực hiên các ngiệp vụ kinh doanh , nhưng nó không thể thiếu được trong vận hành của công ty chứng khoán vì hoạt động của nó mang tính chất ttrợ giúp cho khối nghiệp vụ . Khối này bao gồm các bộ phận sau Phòng nghiên cứu phát triển Phòng phân tích và thông tin thị trường Phòng kế hoạch công ty Phòng phát triển sản phẩm mới Phòng công nghẹ tin học Phòng pháp chế Phòng kế toán , thanh toán và kiểm soát nội bộ Phòng ngân quĩ , kí quĩ Phòng tổng hợp hành chính , nhân sự Ngoài sự phân biệt rõ ràng hai khối như vậy , do mức độ phát triển của công ty chứng khoán và thị trường chứng khoán mà có thể có thêm các bộ phạn khác như : mạng lưới chi nhánh , văn phòng trong và ngoàI nước , văn phòng đại lý … vv, hoặc các phòng ban liên quan đến các nghiệp vụ khác từ ngân hàng , bảo hiểm (tín dụng chứng khoán , bảo hiểm chứng khoán ) 5.4. Vai trò , chức năng của công ty chứng khoán Hoạt động của thị trường chứng khoán trước hết cần những người môi giới trung gian , đó là các công ty chứng khoán – một định chế tài chính trên thị trường chứng khoán , có nghiệp vụ chuyên môn , đội ngũ nhân viên lành nghề và bộ máy tổ chức phù hợp để thực hiện vai trò trung gian môI giới mua- bán chứng khoán , tư vấn đầu tư và một số dịch vụ khác cho cả người đầu tư lẫn tổ chức phát hành Công ty chứng khoán là tác nhân quan trọng thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng . Nhờ các công ty chứng khoán nà chứng khoán được lưu thông từ nhà phát hành tới người đầu tư và có tính thanh khoản cao , qua đó huy động nguồn vốn từ nơI nhàn rỗi để phân bổ vào nơI sử dụng có hiệu quả Chức năng cơ bản của công ty chứng khoán Tạo ra cơ chế huy động vốn linh hoạt giữa người có tiền nhàn rỗi đến những người sử dụng vốn ( thông qua cơ chế phát hành và bảo lãnh ) Cung cấp cơ chế giá cả cho giao dịch ( thông qua hệ thống khớp giá hoặc khớp lệnh) Tạo tính thanh khoản cho chứng khoán ( hoán chuyển từ chứng khoán ra tiền mặt và ngược lại từ tiền mặt ra chứng khoán moat cách dễ dàng ) Góp phần điều tiết và bình ổn thị trường ( thông qua hoạt động tự doanh hoặc vai trò tạo lập thị trường ) Vai trò của công ty chứng khoán Với những đặc điểm trên , công ty chứng khoán có vai trò rất quan trọng đối với những chủ thể khác nhau trên thị trường chứng khoán Đối với tổ chức phát hành . Mục tiêu khi tham gia vào thị trường chứng khoán của các TCPH là huy động vốn thông qua việc phát hành các chứng khoán . Vì vậy , thông qua hoạt động đại lý phát hành , bảo lãnh phát hành , các công ty chứng khoán có vai trò tạo ra cơ chế cơ chế huy động phụcvụ các nhà phát hành Một trong những nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán là nguyên tắc trung gian . Nguyên tắc này yêu cầu những nhà đầu tư và những nhà phát hành không được mua bán trực tiếp chứng khoán mà phải thông qua các trung gian mua bán . Các công ty chứng khoán sẽ thực hiện vai trò trung gian mua bán cho cả người đầu tư và người phát hành . Và khi thực hiện công việc này , các công ty chứng khoán đã tạo ra cơ chế huy động vốn cho nèn kinh tế qua thị trường chứng khoán Đối với các nhà đầu tư .Thông qua các hoạt động như môi giới , tư vấn đầu tư , quản lý danh mục đầu tư , công ty chứng khoán có vai trò làm giảm chi phí và thời gian giao dịch , do đó nâng cao hiệu quả các khoản đầu tư . Đối với hàng hoá thông thường , Thị trường chứng khoán mua bán qua trung gian sẽ làm tăng chi phí cho người mua và bán . Tuy nhiên , đối với thị trường chứng khoán , sự biến động thường xuyên của giá cả chứng khoán cũng như mức độ rủi ro cao sẽ làm cho các nhà đầu tư tốn kém chi phí , công sức và thời gian tìm kiếm thông tin trước khi quyết định đầu tư. Nhưng thông qua công ty chứng khoán , với trình độ chuyên môn cao và uy tín nghề nghiệp sẽ giúp các nhà đầu tư thực hiện các khoản đầu tư một cách hiệu quả nhất Đối với thị trường chứng khoán . Với thị trường chứng khoán , công ty chứng khoán thể hiện 2 vai trò chính (1)Góp phần tạo lập giá cả , điều tiết trên thị trường . Giá cả chứng khoán là do thị trưòng quyết định . Tuy nhiên , để đưa ra mức giá cuối cùng , người mua và người bán phảI thông qua các công ty chứng khoán vì họ không được tham gia trực tiếp vào quá trình mua –bán . Các công ty chứng khoán là những thành viên của thị trường , do vậy họ cũng góp phần tạo lập giá cả thị trường thông qua đấu giá . Trên thị trường sơ cấp , các công ty chứng khoán cùng các nhà phát hành đưa giá đầu tiên . Chính vì vậy , giá cả mỗi loại chứng khoán giao dịch đều có sự tham gia định giá của các công ty chứng khoán Các công ty chứng khoán còn thể hiện vai trò lớn hơn khi tham gia điều tiết thị trường . Để bảo vệ nhứng khoản đầu tư của khách hàng và bảo vệ lợi ích của chính mình , nhiều công ty chứng khoán đã giành một tỷ lệ nhất định các giao dịch để thực hiện vai trò bình ổn thị trường (2) Góp phần làm tăng tính thanh khoản của tài sản tài chính Thị trường chứng khoán có vai trò là môi trường làm tăng tính thanh khoản của các tàI sản tài chính . Nhưng các công ty chứng khoán mới la người thực hiện tốt vai trò đó vì công ty chứng khoán tạo ra cơ chế giao dịch trên thị trường . Trên thị trường cấp 1 , do thực hiện các hoạt động như bảo lãnh , phát hành , chứng khoán hoá , các công ty chứng koán không những huy động một lượng vốn lớn đưa vào sản xuất kinh doanh cho các nhà phát hành mà còn làm tăng tính thanh khoản của tài sản tài chính được đầu tư vì các chứng khoán qua đợt phát hành sẽ được mua bán trên thị trường cấp 2 . Điều này làm giảm rủi ro , tạo tâm lý yên tâm cho người đầu tư . Trên thị trường cấp 2 , do thực hiện các giao dịch mua bán , các công ty chứng khoán giúp người đầu tư chuyển đổi chứng khoán thành tiền mặt và ngược lại . Những hoạt động đó có thể làm tăng tính thanh khoản của nhứng tàI sản tài chính Đối với các cơ quan quản lý thị trường . Công ty chứng khoán có vai trò cung cấp thông tin về thị trường chứng khoán cho các cơ quan quản lý thị trường để thực hiện mục tiêu đó . Các công ty chứng khoán thực hiện đựoc vai trò này vì họ vừa là người bảo lãnh cho các chứng khoán mới , vừa là trung gian mua bán và thực hiện các giao dịch trên thị trường . Một trong những yêu cầu của thị trường chứng khoán là các thông tin cần phải được công khai hoá dưới sự giám sát của cơ quan quản lý thị trường . Việc cung cấp thông tin vừa là qui định của hệ thống luật pháp , vừa là nguyên tắc nghề nghiệp của các công ty chứng khoán vì công ty chứng khoán cần minh bạch và công khai trong hoạt động . Các thông tin công ty chứng khoán có thể cung cấp bao gồm thông tin về các cổ phiếu , trái phiếu và các tổ chức phát hành , thông tin về các nhà đầu tư vv… Nhờ các thông tin này , các cơ quan quản lý thị trường có thể kiểm soát và chống các hoạt động thao túng , lũng đoạn và bóp méo thị trường Tóm lại , công ty chứng khoán là một tổ chức chuyên nghiệp trên thị trường chứng khoán , có vai trò cần thiết và quan trọng với các nhà đầu tư , các nhà phát hành , đối với các cơ quan quản lý thị trường và đối với thị trường chứng khoán nói chung . Những vai trò này được thể hiện thông qua các nghiệp vụ hoạt động của các công ty chứng khoán 6. Giao dịch trên chứng khoán 6.1.Lệnh giao dịch Trên các thị trường chứng khoán quốc tế , có rất nhiều loại lệnh giao dịch được sử dụng . Trên thực tế , phần lớn các lệnh giao dịch được người đầu tư sử dụng là lệnh giao dịch và lệnh thị trường Lệnh thị trường ( market order ) là loại lệnh được sử dụng rất phổ biến trong các giao dịch chứng khoán . Khi sử dụng lệnh này , nhà đầu tư sẵn sàng chấp nhận mua hoặc bán theo mức giá của thị trường hiện tại và lệnh của nhà đầu tư luôn được thực hiện . Tuy nhiên , mức giá do quan hệ cung cầu chứng khoán trên thị trường quyết định . Vì vậy , lênh thị trường còn được gọi là lệnh không ràng buộc Lệnh thị trường là một công cụ hữu hiệu có thể được sử dụng để nâng cao doanh số giao dịch trên thị trường , tăng cường tính thanh khoản của thị trường . Lệnh thị trường cũng tỏ ra thuân tiện cho người đầu tư vì họ chỉ cần chỉ ra khối lượng giao dịch mà không càc chỉ ra mức giá giao dịch cụ thể và lệnh thị trường được ưu tiên thực hiện trước so với các loại lệnh giao dịch khác . NgoàI ra , nhà đầu tư cũng như công ty chứng khoán sẽ tiết kiệm được các chi phí do ít gặp phảI sai sót hoặc không phảI sửa lệnh cũng như huỷ bỏ lệnh Tuy nhiên , hạn chế nhất định của lệnh thị trường là dế gây sự biến động giá bất thường , ảnh hưởng đến tính ổn định giá của thị trường , do lệnh luôn tiềm ẩn khả năng được thực hiện ở một mức giá không thể dự tính trước . Vì vậy, các thị trường chứng khoán mới đưa vào vận hành thường ít sử dụng lệnh thị trường và lệnh thị trường thông thường chỉ áp dụng với các nhà đầu tư lớn , chuyên nghiệp ,đã có thông tin liên quan đến mua bán và xu hướng vận động giá cả chứng khoán trước , trong và sau khi lệnh được thực hiên . Lệnh thị trường được áp dụng chủ yếu trong các trường hợp bán chứng khoán vì tâm lý người bán thường là muốn bán nhanh theo giá thị trường và đối tượng lệnh này thường là các chứng khoán “ nóng “ , nghĩa là các chứng khoán đang có sự thiếu hụt hoặc dư thừa tạm thời Lệnh giới hạn (limit order ) là loại lệnh giao dịch trong đó người đặt lệnh đưa ra mức giá mua hay bán có thể chấp nhận đựoc . Lệnh giới hạn mua chỉ ra mức giá cao nhất mà người ua chấp nhạn thực hiện giao dịch ; lệnh giới hạn bán chỉ ra mức giá bán thấp nhất mà bán chấp nhận giao dịch Một lệnh giới hạn thông thường không thể thực hiện ngay , do đó người đầu tư phải xác định thời gian cho phép đến khi có lệnh huỷ bỏ .Trong khoảng thời gian lệnh giới hạn mua chưa được thực hiện , khách hàng có thể thay đổi mức giá giới hạn . Khi đã hết thời gian qui định , lệnh chưa được thực hiện hoặc thực hiện chưa đầy đủ mặc nhiên sẽ hết giá trị Lệnh giới hạn có ưu và nhược điểm . Về ưu điểm , lệnh giới hạn giúp các nhà đầu tư dự tính được mức lời hoặc lỗ khi giao dịch được thực hiện . Tuy nhiên , lệnh giới hạn có nhược điểm là nhà đầu tư khi ra lệnh giới hạn có thể nhận rủi ro mất cơ hội đầu tư , đặc biệt là trong trường hợp giá thị trường bỏ xa mức giá giới hạn (ngoàI tầm kiểm soát của khách hàng ) . Trong một số trường hợp , lệnh giới hạn có thể không được thực hiện ngay cả khi giới hạn được đáp ứng vì không đáp ứng đựoc các nguyên tắc ưu tieen trong khớp lệnh Lệnh dừng ( stop order )là loại lệnh đặc biệt để đảm bảo cho các nhà đầu tư có thể thu lợi nhuận tại một mức độ nhất định ( bảo vệ lợi nhuận ) và phòng chống rủi ro trong trường hợp giá chứng khoán chuyển động theo chiều hướng ngược lại Sau khi đặt lệnh , néu giá thị trường đạt tới hoặc vượt qua mức giá dừng thì khi đó lệnh dừng thực tế sẽ trở thành lệnh thị trường Lệnh dừng thường được các nhà đầu tư chuyên nghiệp áp dụng và không có sự bảo đảm nào cho giá thực hiện sẽ là giá dừng . Như vậy , lệnh dừng khác lệnh giới hạn ở chỗ , lệnh giới hạn bảo đảm được thực hiện với giá giới hạn hoặc tốt hơn Lệnh dừng giới hạn ( stop limit order )là lệnh sử dụng nhằm khắc phục sự bất định về mức giá thực hiện tiềm ẩn trong lệnh dừng . Đối với lệnh dừng giới hạn , người đầu tư phải chỉ rõ hai mức giá .Một mức giá dừng và một mức giá giới hạn. Khi giá thị trường đạt tới hoặc vượt qua mức giá dừng thì sẽ trở thành lệnh giới hạn thay vì lệnh thị trường Hạn chế của lệnh dừng giới hạn là không được áp dụng trên thị trường OTC vì không có sự cân bằng giữa giá của nhà môi giới và người đặt lệnh Lệnh mở là lệnh có hiệu lực vô thời hạn . VớI lệnh này , nhà đầu tư yêu cầu nhà môI giới mua hoặc bán chứng khoán tại các mức giá cá biệt và lệnh có gia trị thường xuyên cho đến khi bị huỷ bỏ Lệnh sửa đổi là lệnh do nhà dầu tư đưa vào hệ thống để sửa đổi một số nội dung vào lệnh gốc đã đặt trước đó ( giá , khối lượng, mua hay bán ) .Lệnh sửa đổi chỉ được chấp nhận khi lệnh gốc chưa được thực hiện Lệnh huỷ bỏ ( cancel order ) là lệnh do khách hàng đưa vào hệ thống để huỷ bỏ lệnh đặt trước đó . Lệnh huỷ bỏ chỉ được chấp nhận khi lệnh gốc chưa được thực hiện 6.2. Đơn vị giao dịch Trên thị trường chứng khoán , chứng khoán được giao dịch không theo từng chứng khoán riêng lẻ mà theo từng đơn vị giao dịch còn gọi là lô ( lot) chứng khoán. Căn cứ vào lô chứng khoán để phân chia thành các khu vực thương mại khác nhau . Việc qui định đơn vị giao dịch lớn hay nhỏ sẽ có ảnh hưởng đến khả năng tham gia của các nhà đầu tư cũng như khả năng xử lý lệnh của hệ thống thanh toán bù trừ trên thị trường . Đơn vị giaodịch được qui định cụ thể cho từng loại chứng khoán ( cổ phiếu , trái phiếu , chứng chỉ , quĩ đầu tư , công cụ phát sinh ) Lô chẵn ( round lot ). Một lô chẵn đối với cổ phiếu , chứng chỉ quĩ đầu tư thông thường là 100 cổ phieeus hoặc chứng chỉ quĩ đầu tư . Một lô chẵn đối với tráI phiếu thông thường là 10 tráI phiếu Lô lẻ ( odd lot ) là giao dịch có khối lượng dưới lô chắn ( dưới 100 cổ phiếu hoặc <10 tráI phiếu ) Lô lớn ( block lot ) là giao dịch có khối lượng tương đối lớn , thông thường 10.000 cổ phiếu trở lên Tuy nhiên , ngoàI việc qyi định đơn vị giao dịch thống nhất như trên , tại một số sở giao dịch chứng khoán , còn qui địng đơn vị giao dịch tương ứng vớithị trường tương ứng đó 3. Đơn vị yết giá Đơn vị yết giá ( quatotation unit ) là các mức giá tối thiểu trong đặt giá chứng khoán (tick size ) . Đơn vị yết giá có tác động tới tính thanh khoản của thị trường cũng như hiệu quả của nhà đầu tư . Trường hợp đơn vị yết giá nhỏ sẽ tạo ra nhiều mức giá lựa chọn cho nhà đầu tư khi đặt lệnh nhưng các mức giá sẽ giàn trải , không tập trung ,và ngược lại đơn vị yết giá lón sẽ tập trung được mức giá , nhưng sẽ làm hạn chế mức giá lựa chọn của nhà đầu tư , do đó không khuyến khích được các nhà đầu tư nhỏ tham gia thị trường Đối với các giao dịch theo phương pháp thoả thuận , thông thường các thị trường chứng khoán không qui định đơn vị yết giá 7.Hệ thống thông tin trên thị trường chứng khoán 7.1.Các nguồn thông tin trên thị trường chứng khoán 7.1.1 Thông tin từ tổ chức niêm yết Chứng khoán là một dạng tài sản tài chính ( khác với tài sản thực ) được niêm yết giao dịch trên thị trường thị trường chứng khoán bởi chính tổ chức phát hành .NgoàI yếu tố quan hệ cung- cầu , giá chứng khoán được hình thành dựa trên “ sức khoẻ “ của chính công ty phát hành . Do vậy , các thông tin liên quan đến tổ chức phát hành đều tác động tức thời lên giá chứng khoán của chính tổ chức đó , và trong những chừng mực nhất định có thể tác động lên toàn bộ thị trường . Trên thị trường chứng khoán , vấn đề công bố thông tin công ty ( corporate disclosure ) được xem là yếu tố quan trọng hàng đầu trong hệ thống thông tin của thị trường , bảo đảm cho thị trường hoạt động cong bằng , công khai và hiệu quả , bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cả nhầ đầu tư Nội dung thông tin liên quan đến tổ chức phát hành bao gồm các thông tin trước khi phát hành , sau khi phát hành chứng khoán ra công chúng , và sau khi chứng khoán được niêm ýêt giao dịch trên thị trường tập trung . Các thông tin bao gồm : Thông tin trên bản cáo bạch ( prospectus ) . Bản cáo bạch là bản thông cáo của tổ chức phát hành khi thực hiện phát hành chứng khoán ra công chúng , nhằm giúp nhà đầu tư hiểu rõ về tình hình họat động kinh doanh , tàI chính vv.. và các thông tin khác về mục tiêu phát hành chứng khoán của tổ chức phát hành Thông tin định kỳ là những thông tin do tổ chức niêm yết công bố vào những thời điểm theo qui định của cơ quan quản lý như : hằng năm , hàng quý , hàng tháng . Nội dung thông tin liên quan đến các báo cáo tàI chính , kết quả hoạt động kinh doanh ; báo cáo lưu chuyển tiền tệ ..vv Các báo cáo thường niên phảI có ý kiến của tổ chức kiểm toán độc lập được UBCK chấp thuận Thông tin bất thường là thông tin được tổ chức niêm yết công bố ngay sau khi xảy ra các sự kiện quan trọng , làm ảnh hưởng đến giá chứng khoán hoặc lợi ích của nhà đầu tư Thông thường , các thông tin này được công bố trong vòng 24h sau khi xảy ra sự kiện hoặc sau 3 ngày . Nội dung của các thông tin bất thường do cơ quan quản lý qui định. Thông tin theo yêu cầu là việc công bố thông tin khi UBCK hoặc SGDCK yêu cầu phảI công bố thông tin do có những dấu hiệu bất thường , hoặc nguồn tin đồn trên thị trường có tác động đến giá chứng khoán 7.1.2 Thông tin từ SGDCK Hệ thống các văn bản , chính sách ban hành mới ; thay đổi , bổ sung , huỷ bỏ …vv Đình chỉ giao dịch hoặc cho phép giao dịch trở lại các chứng khoán Công bố ngày giao dịch không được hưởng cổ tức , lãi và các quyền kèm theo Các chứng khoán thuộc diện bị kiểm soát , cảnh báo Đình chỉ thành viên hoặc cho phép niêm yết trở lại Thông tin về tình hình thị trường : thông tin giao dịch của năm cổ phiếu hàng đầu ; dao động giá cổ phiếu hàng ngày ; cổ phiếu đạt mức giá trần , sàn … Thông tin về diễn biến thị trường Thông tin về giao dịch trên thị trường ( giá mở cửa , đóng cửa , giá cao nhất, thấp nhất trong ngày giao dịch ; khối lượng giao dịch ; giá trị giao dịch ; giao dịch lô lớn ; giao dịch mua bán lại cổ phiếu của tổ chức niêm yết ) Thông tin về lệnh giao dịch ( giá chào mua , chào bán tốt nhất , quy mô đặt lệnh ; số lượng mua hoặc bán ) Thông tin về chỉ số giá ( chỉ số giá cổ phiếu tổng hợp ; bình quân giá cổ phiếu ; chỉ số giá trái phiếu ) Thông tin về tình hình các tổ chức niêm yết Thông tin về các nhà đầu tư : giao dịch lô lớn ; giao dịch thâu tóm công ty ; giao dịch đấu thầu mua cổ phiếu ..vv 7.1.3 Thông tin về giao dịch chứng khoán Các thông tin về giao dịch chứng khoán được thông báo trên bảng điện tử kết quả giao dịch trên SGDCK và trên các phương tiện thông tin đại chúng như : báo , tạp chí … vv 7.2. Chỉ số giá chứng khoán 7.2.1 Chỉ số giá cổ phiếu Chỉ số giá cổ phiếu là thông tin thể hiên giá chứng khoán bình quan hiện tại co với giá bình quan tại thời kỳ gốc đã chọn Chỉ số giá cổ phiếu được xem là phong vũ biểu hiện tình hình hoạt động của TTCK . Đây là thông tin rất quan trọng đối với hoạt động của thị trường của các nhà đầu tư và các nhà phân tích kinh tế Tất cả các TTCK đều xây dựng hệ thống chỉ số giá cổ phiếu cho riêng mình Giá bình quân thời kỳ gốc trong so sánh thường được lấy là 100 Chỉ số giá cổ phiếu được tính cho Từng cổ phiếu Tất cả các cổ phiếu của từng thị trường , ví dụ :chỉ số KOSPI; Hangseng Từng ngành , từng nhóm ngành : như chỉ số ngành công nghiệp của Mỹ (DJIA) Thị trường quốc tế như chỉ số Hang Seng Châu á (HSAIS) Ngoài ra , một số chỉ tiêu sau cũng thường được thống kê , tổng hợp đối với chỉ số giá và thông báo rông rãi : chỉ số giá trong ngày ; ngày đó so với ngày trước ; so với đầu năm ; chỉ số cao nhất hoặc thấp nhất trong năm … Chỉ số giá có thể tính theo thời gian ( so sánh theo thời gian ) hoặc theo không gian để so sánh giữa các lãnh thổ khác nhau Bất kỳ một thị trường chứng khoán nào cũng có một chỉ số chứng khoán của riêng nó. Ví dụ thị trường chứng khoán New york có chỉ số Dow Jones, thị trường chứng khoán Tokyo áp dụng chỉ số Nikkei, Hong Kong áp dụng chỉ số Hang - xieng, Singapore áp dụng chỉ số "Strai taime"… Một loại chỉ số chứng khoán được nhiều người biết đến nhất là chỉ số Dow Jones ra đời cách đây vừa tròn 100 năm (1896). Chỉ số này được coi như một cột mốc của thị trường chứng khoán thế giới. Chỉ số này do hai nhà kinh tế Mỹ Edward David Jones và Charles Hery Dow đề xuất đo lường mức độ biến động của thị giá cổ phiếu trên thị trường chứng khoán New York. Chỉ số Dow Jones bao gồm 65 loại cổ phiếu được chia thành 3 nhóm chỉ số bình quân nhỏ như sau: + Chỉ số Dow Jones công nghiệp bao gồm giá cổ phiếu của 30 công ty hàng đầu ngành công nghiệp công lại rồi chia cho 1504 (con số này có khi có giảm). + Chỉ số Dow Jones vận tải bao gồm giá cổ phiếu của 20 công ty hàng đầu ngành giao thông vận tải cộng lại chia cho 2785 (con số này có khi tăng). + Chỉ số Dow Jones dịch vụ công cộng bao gồm giá cổ phiếu của 15 công ty hàng đầu ngành dịch vụ công cộng Để biết được tình hình phát triển kinh tế gần đây người ta xác định thêm một số tiêu chuẩn khác. Đó là các điểm giới hạn và điểm liệt. Chẳng hạn điểm giới hạn của chỉ số Dow Jones là 800, điểm liệt là 700. Nếu chỉ số Dow Jones hàng ngày vượt quá 800 điểm chung trong nền kinh tế đang đi lên, nếu dưới 800 điểm cho biết có nguy cơ xảy ra suy thoái kinh tế. 7.2.2 Chỉ số thị trường chứng khoán Việt Nam ( VN INDEX ) Chỉ số thông tin trên thị trường chứng khoán Việt Nam –VN INDEX là chỉ số phản ánh mức giá trên TTCK trong một ngày cụ thể so với mức giá cả tại thời điểm gốc . Chỉ số được cấu thành bởi hai yếu tố là loại chứng khoán trọng số và giá của từng chứng khoán cấu thành ở Việt Nam , trong giai đoạn đầu chỉ số VN Indẽ là chỉ số duy nhất cho đại diện các cổ phiếu được niêm yết trên TTGDCK . Chỉ số này được tính theo phương pháp trọng số giá trị thị trường Công thức tính VN Index như sau P1i x Q1i VN.Index = x 100 P0i x Q0i P1i x Q1i : là tổng giá trị thị trường tại thời điểm tính toán P0i x Q0i : là tổng giá trị thị trường tại thời điểm gốc P1i :là giá cả giao dịch thực tế của phiếu công ty tại thời điẻm tính toán i P0i : là giá cả giao dịch thực tế của cổ phiếu công ty tại thời điểm gốc Q1i, Q0i : là sốlượng cổ phần công ty tại thời điểm tính toán và thời điểm gốc III.Hiện trạng thị trường chứng khoán Việt Nam 1. Tính tất yếu của sự ra đời thị trường chứng khoán Việt Nam Trước khi tìm hiểu hiện trạng , ta hãy xem xét câu hỏi ; “Vào thời điểm năm 2000 sự thành lập thị thị trường chứng khoán liệu có sớm quá chăng “. Muốn vậy ta cần xem xét tình hình kinh tế năm 2000 và các năm trước đó Năm 2000 sau 15 năm thực hiện đổi mới , chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Lạm phát đã giảm từ 67% năm 1992 xuống còn 14,4% năm 1994 và 12,7% năm 1995 (hiện nay , lạm phát đang được giữ ở mức > 6% ). Tỷ lệ tăng trưởng kinh tế bình quân trong 5 năm trở lại đây luôn được duy trì ổn định ở mức > 7%. Công nghiệp , nông nghiệp dịch vụ đều có những thành tựu vượt bậc. Nền kinh tế thị trường đã bắt đầu ổn định, đang thâm nhập trong chính đời sống hằng ngày của người dân. Thu nhập của dân cư đã tăng và trong nội bộ nền kinh tế đã có tích luỹ. Nhưng liệu có sớm quá không khi mà nền kinh tế của nước ta tuy trên quan điểm của Đảng là từ năm 1986 xây dựng kinh tế thị trường nhưng thực chất mới thực sự phát triển từ những năm 90. Hệ thống thể chế tài chính của nước ta vẫn chưa hoàn chỉnh , còn rất nhiều chỗ hổng , hơn thế nữa ,việc đưa nền kinh tế thị trường -vốn là đặc trưng của CNTB- theo định hướng XHCN không phải là một chuyện dễ dàng trong ngày một , ngày hai . Kinh tế thị trường gắn liền với doanh nghiệp, mà hệ thống doanh nghiệp của nước ta chủ yếu là doanh nghiệp Nhà nước , vốn chậm thay đổi và phát triển . Bởi vậy , Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách khuyến khích doanh nghiệp phát triển , sửa đổi và bổ sung luật doanh nghiệp, và từ năm 1993 , Nhà nước có chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp .Tuy nhiên ,các doanh nghiệp của chúng ta vẫn còn yếu kém về nhiều mặt : thiếu vốn , thiếu kinh nghiệm quản lý ,khả năng cạnh tranh kém vv… Như vậy nền kinh tế thị trường nước ta vẫn còn nhiều yếu điểm, mà thị trường chứng khoán lại là một sự phát triển bậc cao của nền kinh tế thị trường ,thế thì việc thành lập TTCK là sớm quá chăng. Nhưng chính TTCK lại là một trong những giải pháp tốt nhất cho những câu hỏi lớn mà nền kinh tế đang gặp phải, đồng thời nó cũng là hướng phát triển đầy triển vọng trong tương lai. Thật vậy ,TTCK có một vai trò quan trọng trong nền kinh tế và hệ thống tài chính quốc gia Muốn xem xét điều này , chúng ta hãy so sánh nguồn vốn của ngân hàng , nguồn vốn từ ngân sách và nguồn vốn từ TTCK . Nguồn vốn ngân sách trong nền kinh tế thị trường được cung cấp để xây dựng cơ sở hạ tầng , dịch vụ công cộng . Đây là nguồn vốn đáng kể , và đối với các nước đang phát triển thì lại càng có ý nghĩa to lớn . Song , cơ chế phân phối nguồn vốn này có những hạn chế nhất định và có thể gây ra các hiện tượng tiêu cực . Nguồn vốn thứ hai đóng vai trò quan trọng đối với nền kinh tế của các quốc gia đang phát triển là nguồn vốn từ các ngân hàng , song cũng cần nhìn nhận những hạn chế của nguồn vốn này . Vì nhu cầu thực tiễn của xã hội nên ngân hàng phải cho vay các chương trình phát triển nông thôn , các công trình đầu tư công nghiệp hoá -hiện đại hoá đất nước . Khối lượng cho vay mỗi năm một tăng lên , trong khi việc trả nợ không theo kịp , vì việc cho vay ngắn hạn có rủi ro thu hồi vốn cao , còn việc cho vay dài hạn thì ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong việc chuyển đổi vốn ngắn hạn sang vốn dài hạn . Ngoài ra , nền kinh tế thế giới luôn luôn biến động và có thể đẩy ngân hàng vào tình thế khó khăn và nguy cơ khủng hoảng .Đối với các nước đang phát triển , vay nợ nước ngoài , thì những biến động kinh tế thế giới càng tác động nghiêm trọng hơn đối với nền kinh tế và hệ thống ngân hàng . Khác với hai nguồn vốn nói trên , nguồn vốn từ thị trường chứng khoán , thứ nhất , được huy đông và phân phối theo đúng cơ chế tị trường , vì vậy nó phải tuân theo qui luật nghiêm ngặt của thị trường . Việc phân phối vốn qua ngân hàng cũng theo qui luaatj thị trường , nhưng vẫn bị tác động của ý chí chủ quan ,vì việc cho vay vẫn phải qua thẩm định dự án và đánh giá của ngân hàng . Thứ hai , TTCK đóng vai trò quan trọng và có ý nghĩa như ngân hàng trong việc cung cấp vốn cho nền kinh tế . Thậm chí , trong từng giai đoạn phát triển , khi ngân hàng lâm vào tình trạng khó khăn thì TTCK có thể là hệ thống huy động vốn thay thế TTCK Việt Nam nếu được thành lập sẽ có tiềm năng rất lớn phát triển vì đã có hệ thống các công ty cổ phần , có nhiều doanh nghiệp CPH . Quá trình CPH doanh nghiệp và phadt triển TTCK có thể thúc đẩy lẫn nhau . Vốn trong dân đã tích tụ nhiều cũng là điều kiện thuận lợi cho việc phát triển TTCK. Các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán là các công ty đại chúng , do nhiều người đầu tư . Khi tham gia trên thị trường chứng khoán thì các công ty phải công bố công khai mọi thông tin liên quan đến hoạt động sản xuất , kinh doanh của mình . Việc thay đổi hành vi công ty có nghiã là hội đồng quản trị và ban giám đốc phải thay đổi phương thức quản lý theo xu hướng hội nhập quốc tế , cạnh tranh – phát triển và cùng tồn tại . Đây chính là giảI pháp hoàn hảo để tạo ra một môi trường cạnh tranh công bằng cho các doanh nghiệp Vậy ,sự thành lập TTCK là vô cùng cần thiết nhưng trong lúc này ,ta chưa thể có một TTCK đúng nghĩa .Trong tình hình đó , Nhà nước ta quyết định thành lập thị trường chứng khoán nhưng lúc đầu chỉ xây dựng mô hình để tập dượt, tìm ra những kinh nghiệm để từng bước xây dựng một thị trường chứng khoán hoàn chỉnh trong tương lai 2. Hiện trạng thị trường chứng khoán Việt Nam Thị trường chứng khoán Việt Nam tính đến nay đã hoạt động được trên 3 năm .. Sau 3 năm hoạt động , nhìn tổng thể kết quả đạt được là thiết lập đưa vào hoạt động một TTCK có tổ chức cho giai đoạn ban đầu , thể hiện trên các mặt sau 2.1 Về công tác tổ chức và vận hành trung tâm giao dịch Chứng khoán (TTGDCK) TTGDCK thành phố Hồ Chí Minh được tổ chức theo mô hình tập trung qui mô nhỏ, thực hiện chức năng xác định giá chứng khoán theo quan hệ cung cầu và tạo cơ hội luân chuyển cho các nhà đầu tư chứng khoán Khi thị trường bắt đầu hoạt động ,chỉ có 2 cổ phiếu được niêm yết ,giao dịch tại TTGDCK với tổng giá trị vốn niêm yết là 270 tỷ , đến nay tổng giá trị chứng khoán niêm yết là gần 6.600 tỷ đồngbao gồm trên 1000 tỷ đồng cổ phiếu của 21 công ty cổ phần và trên 5.550 tỷ đồng trái phiếu chính phủ (TPCP) và trái phiếu ngân hàng đầu tư và phát triển (NHĐT&PT) . Thời gian đầu TTGDCK chỉ thực hiện 3 phiên / 1tuần , từ tháng 3/2002 nâng lên 5 phiên một tuần . Tính đến 30/6/2003 TTGDCK đã tổ chức 570 phiên giao dịch chứng khán liên tục , an toàn ,cđạt giá trị giao dịch chứng khoán gần 3700 tỷ đồng trong đó giao dịch cổ phiếu khoảng 88% và giao dịch trái phiếu gần 12% TTGDCK đã thực hiện tốt chức năng của một trung tâm lưu ký chứng khoán trong điều kiện cơ sở kỹ thuật cũng như nhân lực còn rất hạn chế . Hệ thống lưu kí hoạt động tương đối có hiệu quả , vì thế đã rút ngắn thời gian thanh toán từ 4 ngày xuống còn 3 ngày. NgoàI việc lưu ký 100% trái phiếu niêm yết ,số lượng cổ phiếu niêm yết đượclưu ký đều trên 50% giúp cho hoạt động thanh toán giao dịch chứng khán nhanh gọn , giảm nhiều rủi ro. TTGDCK đã chủ động thực hiện việc cung cấp thông tin kịp thời thông qua các công ty chứng khoán tới người đầu tư , đến nay đã thực hiện cung cấp thông tin trực tuyến thay cho việc cung cấp thông tin tại sàn thông qua đại diện giao dịch của các công ty chứng khoán Từ ngày 20/5/2003 TTGDCK đã áp dụng một số giải pháp kỹ thuật như hạ thấp lô giao dịch cổ phiếu , tăng từ 1 lên 2 lần khớp lệnh trong phiên giao dịch , bổ sung lệnh giao dịch tại mức giá khớp lệnh (ATO ), giảm tỷ lệ ký quĩ tối thiểu xuống 70% . Việc áp dụng những giải pháp trên bước đầu có tác dụng thu hút thêm các nhà đầu tư , đa dạng hình thứclệnh giao dịch , tăng thêm lựa chọn cho nhà đầu tư , tập dượt cho việc khớp lệnh liên tục Nhìn chung , trong 3năm hoạt động ,TTCK đã thực hiện tốt công tác quản lý , niêm yết thành viên ,giao dịch và công bố thông tin trên thị trường ngày càng chủ động hơn trong tổ chức ,vận hành và quản lý giao dịch chứng khoán . Tuy nhiên vẫn còn những bấy cập trong giám sát giao dịch chứng khóan , giám sát thực hiện chế độ công bố thông tin của công ty niêm yết 2.2 Về phát triển hàng hoá trên thị trường chứng khoán Đến nay , Uỷ ban chứng khoán đã cấp giấy phép đăng ký niêm yết cổ phiếu cho 21 công ty cổ phầnvới tổng giá trị cổ phiếu niêm yết là 1.086 tỷ đồng ; cấp phép niêm yết cho Ngân hàng đầu tư và phát triển (NHĐT&PT )với tổng giá trị trái phiếu niêm yết là 157 tỷ đồng ; TTGDCK TP.HCM đã phối hợp với bộ tài chính , tổ chức đấu thầu hơn 50 đợt TPCP, trái phiếu của Quĩ hỗ trợ đầu tư và phát triển được hơn 5400 tỷ đồng đưa ra niêm yết trên TTGDCK . UBCKNN cũng đã cấp giấy phép phát hành cho 5 công ty với tổng giá trị trên 155,4 tỷ đồng . Hiện nay , UBCKNN đang xem xét hồ sơ xin đăng ký niêm yết cổ phiếu của 2 công ty ( Cty Cơ khí xăng dầu và Cty cp bông Bạch Tuyết ) Qua hơn 3 năm hoạt động cho thấy , công tác tạo hàng hoá cho TTCK là rất quan trọng , thời kỳ đầu việc triển khai công tác này có nhiều khó khăn , nhưng đến nay số lượng hàng hoá niêm yết trên 6000 tỷ đồng là một gắng rất lớn của UBCKNN Các công ty niêm yết bước đầu đã thực hiện tốt các qui định về công bố thông tin trên TTCK và chú trọng nâng cao chất lượng quản trị công ty . Tuy nhiên ,do TTCK là một lĩnh vực mới , phức tạp nên các Cty niêm yết cũng đã bộc lộ những hạn chế nhất định . Các Cty niêm yết còn thụ động trong việc công bố thông tin liên quan đến hoạt động của công ty . Trong thời gian qua , một số công ty niêm yết đã có những vi phạm về nghĩa vụ công bố thông tin gây mất lòng tin công chúng đầu tư như : chậm nộp và công bố báo cáo tài chính . Nhìn chung , các công ty niêm yết đều hoạt động tốt , tuy nhên có Cty niêm yết thực hiện đầu tư dàn trải , thiếu hiệu quả , ảnh hưởng không tốt tới tình hình tài chính cũng như sự phát triển của công ty ( trường hợp của Bibica ) Hiện nay , việc phát triển hàng hoá cho TTCK đang gặp nhiều khó khăn . Số lượng hàng hoá có tăng nhưng rất chậm. , các Cty niêm yết chủ yếu vẫn là những công ty qui mô nhỏ , chưa có phát hành trái phiếu công ty , trái phiếu công trìng niêm yết trên TTGDCK ; việc đấu thầu TPCP qua TTGDCK triển khai còn ít , chưa đáp ứng được yêu cầu 2.3 Về hoạt động của các tổ chức trung gian trên thị trường a) Hoạt động của công ty chứng khoán ( CtyCK) Đến 30/6/2003 ,UBCKNN đã cấp phép hoạt động cho 12 công ty chứng khoán với tổng số vốn điều lệ là 465 tỷ đồng , hoạt động các nghiệp vụ : môI giới , bảo lãnh phát hành, quản lý danh mục đầu tư và tư vấn đầu tư Qua hơn 3 năm tham gia thị trường , về cơ bản , các Cty CK đều tuân thủ các qui định của pháp luật về chứng khoán và TTCK . Bước đầu các Cty Ck đã tập trung hoàn thiện bộ máy tổ chức , nâng cao năng lực phục vụ khách hàng , một số công ty đã tăng vốn điều lệ , sử dụng phương thức nhận lệnh giao dịch gián tiếp qua Fax , mạng thông tin trực tuyến … ,mở thêm các chi nhánh , phòng giao dịch , đại lý nhận lệnh tại các tỉnh , thành phố Hà Nội ,TP.HCM , HảI Phòng , Bình Dương ,Đồng Nai , Long An , Đà nẵng . Các công ty chứng khoán đã xây dựng được một đội ngũ nhân viên nghiệp vụ kinh doanh được đào tạo tốt Nhìn chung , các công ty chứng khoán đã thực hiện vai trò trung gian trong việc môi giới , mua bán chứng khoán , tích cực tham gia tư vấn niêm yết và thực hiện cung cấp thông tin đến các nhà đầu tư , góp phần cvào thành công của thị trường . Tuy nhiên , hạn chế trong hoạt động của các công ty chứng khoán là một số công ty chưa tuân thủ nghiêm túc các yêu cầu về hoạt đôngj , chưa thể hiện và trò tích cực , chủ động phát triển thị trường; chất lượng tư vấn đầu tư chứng khoán và tư vấn niêm yết chưa cac , chưa đẩy mạnh nghiệp vụ tự doanh , nhà đầu tư còn chưa thật sự tin tưởng vào tính công bằng và khách quan trong hoạt động môi giới , tư vấn đầu tư , đội ngũ nhân viên chưa đáp ứng được nhu cầu công việc b) Hoạt động của các tổ chức trung gian hỗ trợ khác UBCKNN đã lựa chọn NHĐT&PT Việt Nam làm ngân hàng chỉ định thanh toán , thực hiên thanh toán tiền cho các giao dịch chứng khoán . Tính đến 30/6/2003 , ngân hàng thanh toán đã thực hiên thanh toán bù trừ cho các giao dịch chứng khoán một cách kịp thời, hính xác với tổng số tiền khoảng 1000 tỷ đồng . Hiện nay , ngân hàng thanh toán đang triển khai hoạt động theo hướng vừa là ngânhàng lưu kí , vừa là ngân hàng phục vụ hoạt động TTCK Để phục vụ cho triển khai chứng khoán nhanh chóng , an toàn và thực hiện dịch vụ liên quan đến quyền của người nắm giữ chứng khoán , đến nay đã có 5 ngân hàng lưu kí ( 2 ngân hàng trong nước , ba ngân hàng nước ngoàI ) và 11 công ty chứng khoán được cấpgiấy phép thực hiện dịch vụ lưu ký chứng khoán . Hiện nay , TTCK đã có hệ thống lưu ký chứng khoán tập trung , hoạt động ổn định và đã cho phép người nước ngoài mở tài khoản tại các Cty CK , ngân hàng trong nước tạo điều kiện để người đầu tư trong nước và ngoài nước tham gia thị trường . Tuy nhiên cơ sở vật chất còn yếu kém , ngiệp vụ lưu ký , đăng ký và thanh toán bù trừ chưa được tự động hoá , phải xử lý thủ công làm tăng thời gian và chi phí, độ an toàn thấp Đến nay ,UBCKNN đã chấp thuận cho 07 tổ chức kiểm toán độc lập kiểm toán các báo cáo tài chính của các tổ chức phát hành , niêm yết chứng khoán và tổ chức kinh doanh chứng khoán gồm 06 tổ chức kiểm toán trong nước và 1 tổ chức kiểm toán nước ngoài . Các tổ chức kiểm toán được chấp thuận đã đáp ứng được yêu cầu kiểm toán cho các đối tượng tham gia TTCK .Tuy nhiên trong quá trình triển khai nghiệp vụ này , nhiều tổ chức kiểm toán cũng có những thiếu sót nhất định , chất lượng báo cáo kiểm toán chưa cao ,UBCKNN đã phối hợp chătj chẽ với Bộ tài chính trong việc quản lý các tổ chức kiểm toán đựơc chấp thuận cũng như có biện pháp xử lý kịp thời 2.4 Về tham gia của nhà đầu tư trong và ngoài nước Mặc dù thị trường chứng khoán Việt nam mới hình thành và hoạt động được 3 năm nhưng đã thu hút được sự tham gia của các nhà đầu tư trong và ngoài nước . Số lượng các nhà đầu tư tham gia trên thị trường liên tục tăng ; cuối năm 2000 có gần 3000 tài khoản giao dịch ; cuối năm 2001 có gần 9000 tài khoản và đến 30/6/2003 có hơn 14.500 tài khoản giao dịch trong đó hơn 90 nhà đầu tư cố tổ chức và 35 nhà đầu tư nước ngoài . Sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài đã góp phần quan trọng cho sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam . Một trong những điểm nổi bật ở đối tượng các nhà ĐTNN là tính chuyên ngiệp và bản lĩnh đầu tư . Sự góp mặt của các nhà ĐTNN đã phần nào làm hạn chế sự suy giảm của thị trường , thâm chí có những thời điểm đã hâm nóng nhiệt độ thị ttrờng . Tuy nhiên , số lượng nhà đầu tư tham gia TTCK chủ yếu là nhà đầu tư cá nhân , ít vốn , tham gia thị trường mang tính chất thăm dò , khi thị trường có dấu hiệu bất ổn thì rút khỏi thị trường . Số lượng tài khoản thường xuyên giao dịch khoảng 1000 tài khoản . Nhà đầu tư có tổ chức quá ít . Nhà đầu tư nước ngoài phần lớn đang cư trú tại Việt Nam , do qui mô thị trường còn bé , các chính sách đối với nhà ĐTNN còn chưa rõ ràng , cơ chế mở tàI khoản lưu ký , giao dịch cho nhà ĐTNN còn phức tạp nên chưa thu hút được đông đảo nhà ĐTNN đặc biệt là người không cư trú tại Việt Nam 2.Đánh giá thị trường chứng khoán sau hơn 3 năm hoạt động Qua 3 năm hoạt động , thị trường chứng khoán Việt Nam đã đạt được những kết quả như sau Một là , đã mở ra một TTCK theo mô hình tập trung với qui mô nhỏ . Hoạt động của thị trường chứng khoán mặc dù chưa phát triển như mong muốn song bước đầu đã được triển khai suôn sẻ , không gây ra những biến cố lớn hoặc tác động tiêu cực tới đời sống kinh tế – xã hội của đất nước Hai là , đã huy động được một khối lượng vốn nhất định cho ngấnachs Nhà nước thông qua cơ chế đấu thầu và bảo lãnh phát hành trên 5400 tỷ đồng TPCP , trái phiếu Quỹ hỗ trợ phát triển để niêm yết trên thị trường . Đã có 05 Cty phát hành thêm cổ phiếu để mở rộng sản xuất kinh doanh , tăng vốn điều lệ với tổng vốn tăng thêm 155,4 tỷ đồng Ba là , đã xây dựng được một hệ thống các tổ chức trung gian tham gia trên TTCK , bao gồm các Cty CK , các tổ chức lưu ký , ngân hàng chỉ định thanh toán . Các trung gian tàI chín đã làm tốt vai trò môi giới , mua bán chứng khoán trên thị trường tập trung , tích cực tham gia bảo lãnh phát hành và tư vấn cho các công ty trong việc niêm yết và cung cấp thông tin cho các nhà đầu tư , thực hiện tốt việc thanh toán bù trừ các giao dịch chứng khoán trên thị trường Bốn là , công chúng dần làm quen với với thị trường chứng khoán . TTCK Việt Nam được xây dựng là một thị trường CK mang tính đại chúng , vì thế , mỗi cổ phiếu theo qui định tại nghị định 48/1998/NĐ -CP chỉ có mệnh giá là 10.000 đồng đẻ người dù ít tiền cũng có thể tham gia . Nhờ vậy , trong một thời gian ngắn , số lượng các nhà đầu tư tăng lên rất nhanh Năm là , hoạt động quản lý , vận hành thị trường của UBCKNN và TTGDCK TPHCM đã có nhiều cải tiến và từng bước hoàn thiện trên cơ sở rút kinh ngihiêm từ hoạt động thực tiễn Sáu là , hoạt động cuẩ TTCK góp phần thúc đẩy tiến trình CPH doanh nghiệp Nhà nước và áp dụng những công nghệ tốt nhất trong quản trị doanh nghiệp trong đó việc thực hiện công khai thông tin về hoạt động sản xuất , kinh doanh và quản trị doanh nghiệp có ý ngiã đặc biệt quan trọng tạo ra tiền đề phấn đấu cho sự phát triển vững chắc của doanh nghiệp nói chung và Cty niêm yết nói riêng 2.2 Những hạn chế Thứ nhất , TTCK Việt Nam phải chăng còn quá trầm lặng . Ta xem xét kể từ phiên giao dịch chứng khoán đầu tiên, ngày 28/7/2000 , liên tiếp giá cổ phiếu tăng . Đến phiên giao dịch ngày 26/6/2001 chỉ số chứng khoán VN. Index đạt con số kỷ lục là 571, 04 điểm, trị giá trong phiên đạt 23.570.700.000 đồng . Tại thời điẻm đó , giá các cổ phiếu giao dịch đã đạt tới mức cực đỉnh . Chỉ trong vòng một năm đầu chỉ số giao dịch đã tăng liên tục . Nhưng đó cũng là lời cảnh báo về sự tụt dốc tất yếu sẽ xảy ra . Và điều đó đã xảy ra ,chỉ số VN.Index liên tục sụt giảm trong những tháng tiếp theo cùng với sự nguội lạnh dần của thị trường . Đến tháng 3 năm 2003 , giá các cổ phiếu đồng loạt sụt giảm , VN, Index giảm đến mức kỷ lục145,41 điểm vào ngày 31/3 . Cung cầu của thị trường cổ phiếu có những biểu hiện khó nắm bắt . Các nhà đầu tư trong tình trạng thiếu thông tin thị trường trong khi những thông tin tác động đa chiều luôn được chuyênr tải . Một số công ty niêm yết dường như đang bị xói mòn hình ảnh tốt đẹp trong mắt các nhà đầu tư . Sau đó , TTCK “ phục hồi" nhưng từ đó đến nay chỉ số chứng khoán chỉ trongphạm vi 150- 160 điểm ,tổng giá trị giao dịch khớp lệnh từng phiên giao dịch chỉ đạt 2- 10 tỷ đồng . Thêm vào đó , mặc dù còn ở giai đoạn phát triển ban đầu những hiện tượng đầu cơ , thao túng thị trường … đã có dấu hiệu manh nha trên thị trường chứng khoán Việt Nam , và gây khó khăn không ít cho hoạt động quản lý và điều hành thị trường Đồng thời do tổng mệnh giá các chứng khoán niêm yết còn quá nhỏ vì vậy ,sự thay đổi giá cả của chúng chưa phản ánh được động tháI của nền kinh tế quốc dân. Cho nên chỉ số chứng khoán VN.Index không những không phát huy được tác dụng dự báo trước xu hướng mà còn phản ánh không đúng thực trạng nền kinh tế . Trong những năm gần đây , nền kinh tế Việt Nam luôn tăng trưởng cao , ổn định >7% trong khi đó ,chỉ số chứng khoán thì liên tục biến thiên giảm .Như vậy , TTCK chưa thể đóng vai trò “ hàn thử biểu “ của nền kinh tế Thứ hai , nền kinh tế Việt Nam còn khó khăn , thu nhập dân chúng thấp , nguồn vống lại bị phân tán ,đầu tư vào các tàI sản thay thế như tiền gửi , ngân hàng , đầu tư bất động sản , ngoại tệ … chưa có chính sách phù hợp để khai thác nguồn lực tàI chính trong dân . TTCK chưa thực sự trở thành kênh huy động vốn trung và dàI hạn cho đầu tư páht triển . Hiện nay tỉ lệ vốn đầu tư vào chứng khoán còn quá nhỏ bé , tổng giá trị thị trường mới chiếm 1,6% GDP Thứ ba , hệ thống doanh nghiệp Việt Nam còn mang nặng tư tưởng của cơ chế kế hoạch hoá tập trung , còn trông chờ vào nguồn vay ưu đãi không muốn huy động vốn trên thị trường . Các doanh nghiệp e nhại kiểm toán và công bố thông tin khi niêm yết trên thị trường chứng khoán . Các doanh nghiệp niêm yết không phải là các doanh nghiệp lớn , có khả năng phát triển hấp dẫn người đầu tư . Ngoài ra ở một số Cty niêm yết tỷ lệ vốn thuộc sở hữu nhà nước còn khá cao ,do vậy khối lượng cổ phiếu thực sự đưa vào giao dịch rất thấp. Các tổ chức niêm yết chưa they hết dược tầm quan trọng của việc công khai thông tin nên chưa chủ động , tự giác cung cấp thông tin cho công chúng đầu tư , chính điều này phần nào ảnh hưởng đến lòng tin và quyết định tham gia thị trường của người đầu tư Thứ tư , Đảng và chính phủ chủ trương phát triển hệ thống tài chính trong đó có thị trường vốn , TTCK ; tuy nhiên trong điều hành thì hệ thống thị trường bị chia cắt : Thị trrường tiền tệ do Ngân hàng Nhà nước quản lý , thị bảo hiểm do Bộ tài chính điều hành , TTCK do UBCKNN giám sát . Các bộ ngành đều xây dựng chiến lược phát triển của ngành mình, song chưa có sự tổng hợp thống nhất chiến lược phát triển thị trường tài chính nói chung. Vì vậy định hướng và các giảI pháp thiếu đồng bộ ; chưa coi việc phát triển thị trường vốn, TTCK là khâu đột phá trong chiến lược phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN Thứ năm , quản lý Nhà nước về chứng khoán và TTCK còn nhiều bất cập, khó khăn. UBCKNN đã tăng cường công tác quản lý giám sát , xử lý kịp thời các vi phạm , tuy nhiên cơ chế quản lý điều hành chưa đáp ứng đòi hỏi thị trường , thể hiện ở các mặt như hệ thống pháp lý chưa đồng bộ , thâm chí mâu thuẫn ( ví dụ giữa các văn bản về tham gia mua cổ phiếu của các nhà ĐTNN) ; chính sách khuyến khích các đối tượng tham gia thị trường ( thuế , phí .. )chưa thống nhất và chưa thực sự được phát huy tác dụng ( ví dụ đối với nhà đầu tư cá nhân được miễn thuế , nhưng các nhà đầu tư có tổ chức thì chưa được miễn thuế); hưa kịp thời xử lý các tình huống đặc biệt là lúc thị trường lên xuống thất thường Hoạt động của TTGDCK còn hạn chế về mô hình tổ chức và trình độ kỹ thuật ; việc cung cấp thông tin thị trường chưa được thuận lợi cho người quan tâm . 2.3 Nguyên nhân tồn tại Những tồn tại và hạn chế nêu trên , bắt nguồn từ các nguyên nhân cơ bản sau Một là , TTCK là một bộ phận cấu thành của thị trường tài chính nhưng được xây dựng và phát triển một cách riêng rẽ , thiếu chiến lược tổng thể phát triển thị trường tài chính cũng như sự phối hợp chưa chặt chẽ giữa các bộ , các ngành liên quan trong việc hoạch định và thực thi chính sách Hai là ,chứng khoán niêm yết còn hạn chế về số lượng , chất lượng chưa cao . Nhiều doanh nghiệp chưa tiếp cân kịp thời với thị trường vốn mà còn ỷ lại vào sự ưu đãI , bao cấp của nhà nước hoặc thói quen vay ngân hàng , mặt khác doanh nghiệp còn ngại công bố thông tin , công khai tàI chính khi tham gia niêm yết Ba là , thị trường còn thiếu vắng các nhà đầu tư có tổ chức ( Ngân hàng , bảo hiểm , quỹ đầu tư ,các tổ chức đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp ) nên ảnh hưởng đến tính ổn định của thị trường do tác động tâm lý của các nhà đầu tư nhỏ , thiếu chuyên nghiệp Bốn là ,việc quản lý và điều hành thị trường của UBCKNN , TTGDCK còn bất cập , hạn chế do sự thiếu chủ động và thiếu kinh nghiêm của đội ngũ quản lý thị trường Năm là , vai trò của nhà nước hỗ trợ thị trường là rất quan trọng nhưng chưa được quan tâm đúng mức như các chính sách khuyến khích ưu đãi về thuế đối với các tổ chức tham gia thị trường Sáu là , những biến động trong thời gian qua về thị trường bất động sản , giá vàng , lãI suất ngân hàng tăng … cũng tác động, ảnh hưởng xấu đến thị trường chứng khoán IV. Giải pháp và định hướng phát triển Thị trường chứng khoán 1.Giải pháp trước mắt Để củng cố và phát triển TTCK Viêt Nam , theo em , trước hết cần những biện pháp cơ bản sau Một là , phát triển thị trường tiền tệ một cách đồng bộ ( tiền đề của sự củng cố và phát triển TTCK ) bao gồm TTCK ngắn hạn , thị trường liên ngân hàng và thị trường ngoại tệ . Do ccác chứng khoán ngắn hạn cho phép hạn chế rủi ro bởi các nhân tố như lạm phát , thiên tai , chiến tranh , các nhân tố chính trị … đồng thời sự phát triển của thị trường tiền tệ tạo điều kiện cho cong chúng và các nhà đầu tư làm quen và tạo ra thói quen giao dịch , đầu tư – kinh doanh chứng khoán . Do vậy , TTCK Việt Nam chỉ có thể phát triển trên cơ sở sự phát triển mạnh mẽ của thị trường tiền tệ – nghĩa là trước mắt cần tăng cường việc phát hành và lưu thông chứng khoán ngắn hạn Hai là , củng cố và phát triển TTCK sơ cấp –là nguồn duy nhất cung cấp các sản phẩm tàI chính ( các chứng khoán ) cho thị trường thứ cấp và TTCK nói chung . Vì vậy , thị trường sơ cấp phảI đủ mạnh đảm bảo đủ lượng chứng khoán trên thị trường và đạt tới mức đòi hỏi phảI phát sinh một lĩnh vực đầu tư và kinh doanh độc lập ( đầu tư – kinh doanh chứng khoán ) . Hơn nữa kinh nghiệm thế giới chỉ ra rằng : lượng chứng khoán cơ bản lưu thông ttrên thị trường tập trung chỉ chiếm 10-20 % lượng chứng khoán được phát hành trên thị trường sơ cấp ; ở Việt Nam hiên nay mới chỉ có 21 công ty cổ phần thực hiện niêm yết chứng khoán tại trung tâm giao dịch chứng khoán và đều là các công ty CP có qyi mô vừa và nhỏ ; việc phát hành chứng khoán chính phủ đang vấp nhiều khó khăn ( đã nhiều lần liên tục đấu giá trái phiếu chính phủ không thành công) và chưa thu hút được sự quan tâm của các nhà đầu tư Để củng cố và phát triển TTCK sơ cấp , trước hết cần phải kích thích bằng lợi ích vật chất đối với các công ty cổ phần , các công ty liên doanh tham gia niêm yết trên TTCK (như ưu đãI về thuế …) ; đổi mới chế độ tín dụng trên cơ sở thay thế dần nguồn vốn vay ngân hàng bằng nguồn vốn phát hành chứng khoán Ba là , tiến hành cổ phần hoá đại bộ phận các doanh nghiệp Nhà nước – một trong những con đường chủ yếu cung cấp các sản phẩm tài chính cho TTCK trong bước quá độ sang nền kinh tế thị trươngf ở Việt Nam . Mặc dù quá trình cổ phần hoá trên qui mô lớn bắt đầu từ năm 1998 , nhưng cho đến tháng 10/ 2002 mới chỉ cổ phần hoá được 800 doanh nghiệp –chiếm khoảng 2% tổng giá trị vốn và tàI sản của các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế Nha nước . Để thúc đẩy quá trình này , Chính pủ đã thực hiện hàng loạt các giảI pháp như : thực hiện các chế dộ ưu đãI đối với các doanh ngiệp và người lao động khi tiến hành cổ phần hoá ; xây dựng và triển khai kế hoạch đến từng doanh nghiệp phải cổ phần hoá ; tuyên truyền và động viên người lao động trong các doanh nghiệp Nhà nước , quần chúng và các nhà đầu tư tham gia quá trình cổ phần hoá ; thiết lập thị trường tàI mà chủ yếu là TTCK … nhằm thúc đẩy quá trình cổ phần hoá . Nhưng hầu hết việc cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước vẫn không thực hiện được và đang lâm vào tình trạng bế tắc ; mô hình kế hoạch hoá tập trung nền kinh tế quốc dân ( trước đây )dựa tên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất đã tạo ra thói quen chờ đợi , ỷ lại nhà nước ; sự phản ứng nội bộ của đội ngũ cán bộ chủ chốt ở các doanh nghiệp cần cổ phần hoá do sợ bị thu hẹp , mất đI quyền lãnh đạo , quản lý doanh nghiệp ; sợ phảI báo cáo công khai hoạt động tàI chính ; .. mặt khác do nghèo nên người lao động không thể mua tàI sản của các doanh nghiệp , còn người đầu tư chưa tin tưởng vào cơ chế quản lý tàI chính của công ty cổ phàn và những lợi ích kinh tế mà việc đầu tư mang lại . Theo em đẻ tiến hành nhanh chóng quá trình cổ phần hoá ta có thể áp dụng giải pháp như các nước XHCN cũ đó là phát hành cho công nhân các chứng chỉ cổ phần hoá “ không phải trả tiền “ rồi chuyển thành cổ phiếu Bốn là tăng cung hàng hoá cho thị trường về số lượng , chất lượng và chủng loại , đẩy mạnh cầu chứng khoán. Nghiên cứu ban hành các chính sách khuyến khích đưa thêm các loại cổ phiếu của các ngân hàng thương mại (NHTT) , cổ phiếu của các công ty lớn , cổ phiếu ưu đãi , quyền mua cổ phiếu , trái phiếu công trình , trái phiếu doanh nghiệp , chuyể đổi chứng chỉ quỹ đầu tư vào niêm yết . Hỗ trợ các Cty niêm yết trong việc quản trị doanh nghiệp theo thông lệ quốc tế ; thực hiện chế độ kiểm toán thao tiêu chuẩn quốc tế áp dụng nhiều biên pháp thu hút nhà đầu tư cá nhân tham gia thị trường ; phát triển các nhà đầu tư có tổ chức tham gia thị trường như quỹ đaauf tư , quỹ hưu trí , bảo hiểm , tổ chức tài chính , khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài. Nghiên cứu ban hành các chính sách phát triển như chương trình bán cổ phiếu cho người lao động trong doanh nghiệp , nới lỏng các quy định hạn chế với các tổ chức tín dụng , tài chính , thúc đẩy thành lập các công ty tư vấn đầu tư , tăng cường khả năng tiếp cận thị trường cho các nhà đầu tư nhỏ . Nới lỏng hạn chế đầu tư của người nước ngoài , ban hành các chính sách ưu đãi về thúê ; Sáu là đa dạng hoá dạng hoá các loại hình chứng khoán . Hiện nay , chứng khán trên thị trường Việt Nam chủng loại còn rất đơn điệu . Việc đa dạng hoá các loại hình chứng khoán không chỉ tạo ra sự phong phú ,đa dạng của sản phẩm tài chính ,tạo điều kiện tăng thêm dung lượng thị trường …mà vấn đề hết sức quan trọng lácho phép tăng thêm khả năng lựa chọn các phương án lựa chọn phương án trong danh mục đầu tư – một trong những tiền đề thúc đẩy sự phát triển , sự vận động của thị trường chứng khoán . Bởi vậy , đối với hệ thống chứng khoán chính phủ cần phát hành các loại hình tráI phiếu có thời hạn khác nhau , với lãI suất thay đổi ( căn cứ vào tình hình thực tế của thị trường tàI chính ) trên cơ sở bảo vệ lợi ích của người đầu tư ; đối với các chứng khoán công ty , không chỉ thuần tuý phát hành cổ phiếu như hiện nay , mà còn phải tổ chức phát hành tráI phiếu : trái phiếu chuyển đổi ( có thể chuyển thành các cổ phiếu khác nhau), trá phiếu có kỳ hạn và lãi suất thay đổi , trái phiếu công trình , trái phiếu được đảm bằng vàng hoặc ngoại tệ mạnh Bảy là củng cố và phát triển kết cấu hạ tầng của TTCK bao gồm : sở giao dịch chứng khoán ( trung tâm giao dịch chứng khoán ) , hệ thống các công ty chứng khoán , các công ty đầu tư , tư vấn về nghiệp vụ đầu tư kinh doanh chứng khoán ; hệ thống lưu ký , thanh toán bù trừ , hệ thống báo giá … ; đồng thời phải đào tạo được đội ngũ cán bộ nghiệp vụ , các nhà đầu tư đủ mạnh để cung ứng cho TTCK . Sắp xếp , hoàn thiện bộ máy của UBGDCK , TTGDCK theo tinh thần ngị định 30/20003/NĐ-CP ngày 1/4/2003 của chính phủ nhằm nâng cao khả năng điều hành , giám sát thị trường một cách linh hoạt ,có hiệu quả . Tăng cường quản lý , giám sát thị trường thông qua việc tổ chức hoàn thiện các hoạt động theo dõi kiểm tra , thanh tra các hoạt động thị trường để kịp thời ban hành chính sách điều chỉnh phù hợp và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật . Có như vậy mới thực hiện vấn đề bảo vệ lợi ích kinh tế các nhà đầu tư – một trong những nguyên tắc tối cao của thị trường chứng khoán – là động lựu thúc đẩy sự tham gia của công chúng và các nhà đầu tư trênTTCK . Sự chao đảo của TTCK Việt Nam đã khiến cho nhiều nhà đầu tư phải xa lánh thị trường . Vì vậy , cần phải xây dựng bộ luật về chứng khoán và TTCK- cơ sở pháp lý của tất cả các hoạt động liên quan đến phát hành và lưu thông chứng khoán , đồng thời bảo vệ lợi ích công chúng và nhà đầu tư - động lực thúc đẩy họ tham gia TTCK 2.Định hướng phát triển 2.1 Xây dựng thị trường giao dịch chứng khoán cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ tiến tới xây dựng thị trường chứng khoán phi tập trung (OTC ) tại Hà Nội Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội sẽ là nơi niêm yết cổ phiếu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ thoả mãn điều kiện có số vốn từ 5 tỷ VNĐ trở lên , kinh doanh có lãi một năm và có tối thiểu 30 cổ đông bên ngoài nắm giữ tối thiểu 20% cổ phần , có cổ phiếu lưu ký tập trung và báo cáo định kỳ trên cơ sở kiểm toán độc lập Theo số liệu thống kê , số lượng doanh nghiệp cổ phần đã đáp ứng được các điều kiện như trên không dưới 500 doanh nghiệp , và nếu chương trình CPH được thúc đẩy mạnh mẽ hơn , cộng với chính sách của Chính phủ nâng cao vai trò các doanh nhân trong nền kinh tế , số lượng doanh nghiệp tham gia thị trưòng này sẽ còn tăng nhanh Tuy nhiên,trên thực tế ít doanh nghiệp đủ điều kiện sẽ mong muốn niêm yết , đặc biệt lại là niêm yết tại bảng loại hai . Bởi vì họ chưa thấy rõ ngay lợi ích của việc niêm yết mang lạ , trong khi niêm yết lại phảI chịu áp lực thường xuyên về hoạt động và quản trị công ty , công bố thông tin và nhiều yêu cầu khác từ TTGDCK , đồng thời phảI theo dõi và tìm cách nâng cao giá trị cổ phiếu doanh nghiệp trên thị trường Như vậy muốn phát triển thị trường chứng khoán bảng II, ta cần thực hiện một số biện pháp sau: Thứ nhất , chủ động tạo ra các nguồn vốn dài hạn và có chất lượng , có nhu càu đầu tư vào các chứng khoán trước niêm yết và chứng khoán niêm yết thông qua việc cho phép tổ chức các tổ chức đầu tư , trong đó công ty quản lý quỹ đầu tư và các quỹ đầu tư đóng vai trò quan trọng . Thứ hai , nâng cao các điều kiện ưu đãi nhằm khuyến khích các doanh nghiệp đủ điều kiện tham gia niêm yết , xác định rõ doanh nghiệp khi niêm yết phải đầu tư nâng cao giá trị của mình nếu không muốn bị đào thải . Thứ ba , ban hành các văn bản nhà nước không chỉ khuyến khích mà còn đồng thời áp dụng các biện pháp áp đặt , thúc đẩy mạnh hơn tiến trình CPH doanh nghiệp Nhà nước , mở rộng CPH sang nhiều lĩnh vực quan trọng hơn và các doanh nghiệp có vốn lớn hơn , trước mắt cần ban hành ngay thông tư hướng dẫn nghị định 64/CP , trong đó việc bán 30% cổ phiếu cho các cổ đông bên ngoàI doanh nghiệp nên đưa thành điều kện bắt buộc Thứ tư , nhìn nhận việc nước ngoàI tham gia TTCK theo quan theo quan điểm tích cực , qua đó khuyến khích các nhà ĐTNN , thường là những tổ chức và cá nhân có vốn lớn ,và đầu tư dàI hạn tham gia đầu tư gián tiếp bằng các ưu đãI nhiều hơn ,cấp phép đầu tư dễ dàng hơn ; nâng cao hơn các giới hạn sở hữu của phía nước ngoài trong các doanh nghiệp Thứ năm , tăng cường mối liên kết giữa các cơ quan quản lý thị trường như Uỷ ban chứng khoán nhà nước và các tổ chức cá nhân tham gia thị trường như các nhà dầu tư , các công ty chứng khoán ,các quỹ đầu tư trong và ngoàI nước , các công ty bảo hiểm … thông qua một hệ thống thông tin hai chiều rõ ràng , minh bạch TTGDCK Hà nội sẽ tạo ra một sân chơI mới công khai và minh bạch cho các doanh ngiệp nhưng năng động ,mong muốn huy động vốn với chi phí thấp để tăng trưởng . TTGDCK Hà Nội cũng sẽ góp phần tạo nên một TTCK Việt nam hoàn thiện hơn 2.2 Xây dựng quỹ đầu tư chứng khoán Quỹ đầu tư chứng khoán (quỹ DTCK) là một cơ chế hoạt động mà trong đó một số đông các nhà đầu tư riêng lẻ góp vốn để hình thành một quỹ chung , rồi sau đó uỷ thác quản lý cho các nhà đầu tư chuyên nghiệp tiến hành đầu tư nhằm thu lợi nhuận cao và số lợi nhuận thu được từ hoạt động của quỹ được phân chia cho các nhà đầu tư riêng theo tỉ lệ số vốn đã đóng góp . Quỹ DTCK là một khái niệm còn mới lạ ở Việt Nam nhưng loại quĩ Thị trường chứng khoán này rất cần được thành lập và phát triển dể góp phần huy động vốn cho nền kinh tế nói chung và phát triển thị trường chứng khoán (TTCK) một cách

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docDA179.doc