Đề tài Thực trạng về công tác tiêu thụ sản phẩm ở công ty bóng đèn phích nước Rạng Đông

Tài liệu Đề tài Thực trạng về công tác tiêu thụ sản phẩm ở công ty bóng đèn phích nước Rạng Đông: Mục lục Lời mở đầu. 4 Chương I: Những vấn đề cơ bản về công tác tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. 6 Khái niệm, vai trò của công tác tiêu thụ sản phẩm. Khái niệm tiêu thụ sản phẩm. 6 Sự cần thiết phải đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm. 8 Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác tiêu thụ và biện pháp chủ yếu để đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm. 9 Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác tiêu thụ và tăng doanh thu tiêu thụ sản phẩm. 9 Các biện pháp chủ yếu để đẩy mạnh tiêu thụ và tăng doanh thu tiêu thụ sản phẩm. 14 Chương II: Thực trạng công tác tiêu thụ ở Công ty Bóng Đèn Phích Nước Rạng Đông. 20 2.1 Khái quát chung về tình hình sản xuất kinh doanh của công ty. 20 2.1.1 Quá trình hình thành công ty. 20 2.1.2 Đặc điểm về tổ chức, quản lý sản xuất của công ty. 23 2.1.3 Đặc điểm về quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm. 24 2.1.4 Đặc điểm về sản phẩm của công ty. 25 2.1.5 Đánh giá chung về hoạt động của công ty. 27 2.2 Tình hình tiê...

doc62 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1399 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Thực trạng về công tác tiêu thụ sản phẩm ở công ty bóng đèn phích nước Rạng Đông, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục Lời mở đầu. 4 Chương I: Những vấn đề cơ bản về công tác tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. 6 Khái niệm, vai trò của công tác tiêu thụ sản phẩm. Khái niệm tiêu thụ sản phẩm. 6 Sự cần thiết phải đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm. 8 Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác tiêu thụ và biện pháp chủ yếu để đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm. 9 Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác tiêu thụ và tăng doanh thu tiêu thụ sản phẩm. 9 Các biện pháp chủ yếu để đẩy mạnh tiêu thụ và tăng doanh thu tiêu thụ sản phẩm. 14 Chương II: Thực trạng công tác tiêu thụ ở Công ty Bóng Đèn Phích Nước Rạng Đông. 20 2.1 Khái quát chung về tình hình sản xuất kinh doanh của công ty. 20 2.1.1 Quá trình hình thành công ty. 20 2.1.2 Đặc điểm về tổ chức, quản lý sản xuất của công ty. 23 2.1.3 Đặc điểm về quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm. 24 2.1.4 Đặc điểm về sản phẩm của công ty. 25 2.1.5 Đánh giá chung về hoạt động của công ty. 27 2.2 Tình hình tiêu thụ sản phẩm của công ty năm 2000. 28 2.2.1 Công tác lập kế hoạch tiêu thụ và doanh thu tiêu thụ của công ty. 28 2.2.2 Tình hình tổ chức thực hiện kế hoạch tiêu thụ sản phẩm của công ty năm 2000. 31 Chương III: Một số phương hướng và biện pháp chủ yếu để đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm ở Công ty Bóng Đèn Phích Nước Rạng Đông. 35 3.1 Phương hướng phát triển của công ty trong thời gian tới. 35 3.2 Những giải pháp chủ yếu để đẩy mạnh tiêu thụ ở Công ty Bóng Đèn Phích Nước Rạng Đông. 35 3.2.1 Hoàn thiện công tác lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm. 36 3.2.2 Hoàn thiện hơn nữa công tác tổ chức bán hàng. 37 3.2.3 Nâng cao chất lượng, đa dạng hoá và cải tiến mẫu mã sản phẩm. 38 3.2.4 Tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm. 40 3.2.5 Tăng cường sử dụng triệt để các biện pháp tài chính để thúc đẩy tiêu thụ. 42 3.2.6 Xây dựng chiến lược quảng cáo tổng hợp nhiều hình thức nhưng tiết kiệm và hiệu quả. 43 Kết luận. 45 Tài liệu tham khảo. 46 Lời mở đầu Từ khi nền kinh tế nước ta chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường đến nay tuy còn mới mẻ nhưng nó đã cuốn hút hầu hết các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia. Từ đây, nhiều doanh nghiệp đã bắt kịp được với cơ chế mới và kinh doanh có hiệu quả, tuy nhiên cũng có không ít những doanh nghiệp vẫn nằm trong tình trạng làm ăn thua lỗ và đứng trước nguy cơ phá sản. Bởi trong cơ chế mới các doanh nghiệp cùng sản xuất hàng hoá, cùng tồn tại cạnh tranh và bình đẳng với nhau trước pháp luật, đã tạo đà cho nền kinh tế phát triển mạnh mẽ bằng sự đào thải những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, thay thế bằng những doanh nghiệp có năng lực, nhạy bén và có khả năng phát triển. Vậy vấn đề quyết định sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp sản xuất đó chính là hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh. Các doanh nghiệp phải thực hiện tốt nguyên tắc hạch toán kinh doanh “lấy thu bù chi và có lãi”. Một trong những khâu ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động sx kinh doanh của doanh nghiệp là khâu tiêu thụ sản phẩm. Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp sản xuất sản phẩm là để tiêu thụ và hoạt động đó diễn ra trên thị trường ngày càng có sự cạnh tranh gay gắt, quyết liệt. Vì vậy, làm tốt công tác tiêu thụ sản phẩm sẽ giúp doanh nghiệp có nguồn tài chính để tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng, tăng nhanh vòng quay của vốn và đem lại hiệu quả kinh doanh cao. Đồng thời, qua đó cũng tạo điều kiện cho nền kinh tế tăng trưởng, phát triển và hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới. Xuất phát từ ý nghĩa và vai trò đó, các nhà sản xuất kinh doanh không ngừng hoàn thiện công tác tiêu thụ sản phẩm sao cho phù hợp với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt, phức tạp của nền kinh tế thị trường và làm thế nào để đẩy mạnh khả năng tiêu thụ sản phẩm là cả một quá trình nghiên cứu, phân tích, đánh giá một cách chính xác tình hình mọi mặt của doanh nghiệp mình: tình hình thị trường, tình hình đối thủ cạnh tranh, tình hình kinh tế xã hội... Trên cơ sở đó, các nhà lãnh đạo doanh nghiệp cần có sự quản lý sáng suốt, linh hoạt, nhạy bén và năng động để vạch ra những hướng đi đúng đắn nhất. Làm tốt được những điều đó thì doanh nghiệp mới khẳng định được sự tồn tại và phát triển của mình, nếu không doanh nghiệp sẽ tự đào thải mình ra khỏi thị trường. Hoà cùng với không khí chung của nền kinh tế đất nước, ngành sành sứ thuỷ tinh công nghiệp Việt Nam đã nhanh chóng tham gia vào quá trình đổi mới, Công ty Bóng Đèn Phích Nước Rạng Đông với hoạt động chính là sản xuất kinh doanh sản phẩm phích nước nóng và bóng đèn điện các loại, đã không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm và việc đẩy mạnh tiêu thụ và tăng doanh thu tiêu thụ sản phẩm đang trở thành vấn đề bức xúc nhất và được đặt lên vị trí quan tâm hàng đầu của công ty. Xuất phát từ quan điểm này, trong thời gian được về thực tập tại Công ty Bóng Đèn Phích Nước Rạng Đông, tôi đã cố gắng nghiên cứu, tìm hiểu về công tác tiêu thụ sản phẩm của công ty thông qua đề tài “Thực trạng về công tác tiêu thụ sản phẩm ở Công ty Bóng Đèn Phích Nước Rạng Đông”. Nội dung đề tài bao gồm: ỉ Chương I: Những vấn đề cơ bản về công tác tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. ỉ Chương II: Thực trạng công tác tiêu thụ ở Công ty Bóng Đèn Phích Nước Rạng Đông. ỉ Chương III: Một số phương hướng và biện pháp chủ yếu để đẩy mạnh tiêu thụ ở Công ty Bóng Đèn Phích Nước Rạng Đông. Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng do trình độ có hạn, thời gian thực tập tại công ty không nhiều và điều kiện nghiên cứu còn hạn chế, nên trong khuôn khổ của bản luận văn này không tránh khỏi những thiếu sót. chương I những vấn đề cơ bản về công tác tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. 1.1 Khái niệm, vai trò của công tác tiêu thụ sản phẩm. 1.1.1 Khái niệm tiêu thụ sản phẩm. Theo quy luật tái sản xuất, quá trình sản xuất trong các doanh nghiệp sản xuất bao gồm các khâu: sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng, chúng diễn ra một cách tuần tự. Giai đoạn cuối cùng của quá trình sản xuất, sản phẩm được đem ra tiêu thụ trên thị trường tức là sản phẩm được thể hiện giá trị và giá trị sử dụng của mình. Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung các doanh nghiệp chỉ sản xuất theo kế hoạch của Nhà nước. Nhưng từ khi chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch tập trung sang nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp không những có nhiệm vụ sản xuất mà còn tiêu thụ số sản phẩm đã sản xuất đó. Tiêu thụ sản phẩm được coi là vấn đề quan trọng nhất đối với các doanh nghiệp trong điều kiện hiện nay. Nó quyết định sự sống còn, sự phát triển của mỗi doanh nghiệp. Tiêu thụ sản phẩm là quá trình đơn vị bán xuất giao sản phẩm hàng hóa cho đơn vị mua và thu được khoản tiền về số sản phẩm đó. Thời điểm tiêu thụ sản phẩm là thời điểm đơn vị mua trả tiền hoặc chấp nhận trả tiền số sản phẩm đó. Thực hiện tiêu thụ sản phẩm các doanh nghiệp mới hoàn thành quá trình sản xuất kinh doanh, đảm bảo cho quá trình sản xuất được thường xuyên, liên tục, giúp cho vốn trở về hình thái ban đầu của nó. Ta có thể khái quát quá trình tái sản xuất bằng sơ đồ sau: TLSX ( TLLĐ + ĐTLĐ ) ...SX.....H’ – T’ T-H SLĐ Đứng trên góc độ luân chuyển vốn thì tiêu thụ sản phẩm là một quá trình chuyển hóa hình thái giá trị của vốn từ hình thái sản phẩm hàng hóa sang hình thái tiền tề làm cho vốn trở lại hình thái ban đầu khi nó bước vào mỗi chu kỳ sản xuất. Qua sơ đồ trên ta thấy, để tiến hành sản xuất thì nhà sản xuất phải bỏ vốn ra để mua các yếu tố đầu vào như: tư liệu lao động (TLLĐ), đối tượng lao động (ĐTLĐ), và sức lao động (SLĐ). Lúc này, vốn dưới hình thái giá trị được chuyển thành vốn dưới hình thái vật chất. Vốn dưới hình thái vật chất này được đưa vào quá trình sản xuất và sản phẩm sản xuất ra được đem đi tiêu thụ và kết quả của khâu tiêu thụ là thu tiền về. Lúc này đồng vốn lại từ hình thái vật chất quay trở lại hình thái ban đầu của nó. Đến đây một chu kỳ sản xuất kết thúc, vốn tiền tệ lại được sử dụng vào quá trình tái sản xuất mới. Như vậy, tiêu thụ sản phẩm là khâu cuối cùng của quá trình tái sản xuất, nhằm thực hiện giá trị và giá trị sử dụng của sản phẩm hàng hóa thông qua hai hành vi: doanh nghiệp cung cấp sản phẩm cho khách hàng và khách hàng thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán cho doanh nghiệp theo giá trị hàng hóa đó. Khi tiêu thụ được sản phẩm doanh nghiệp sẽ có một khoản thu nhập bán hàng hay còn gọi là doanh thu về tiêu thụ sản phẩm. Như vậy, doanh thu tiêu thụ sản phẩm là toàn bộ số tiền thu được khi bán sản phẩm hàng hóa. Tuy nhiên, doanh thu tiêu thụ sản phẩm không đồng nhất với tiền bán hàng: tiền bán hàng chỉ được xác định khi doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm, đã thu được tiền về, còn doanh thu tiêu thụ sản phẩm được xác định ngay cả khi khách hàng chưa trả tiền, nhưng đã chấp nhận thanh toán số tiền hàng đó. Trong trường hợp có giảm giá, doanh thu và tiền bán hàng còn khác nhau cả về mặt lượng. Khi đó tiền bán hàng chỉ là một phần doanh thu tiêu thụ sản phẩm, tương ứng với số tiền mà khách hàng đã thanh toán cho doanh nghiệp. Ta có thể thấy sự khác biệt giữa doanh thu tiêu thụ sản phẩm và tiền bán hàng qua các trường hợp cụ thể sau: TH1: doanh nghiệp bán hàng được khách hàng thanh toán ngay. Khi đó số hàng hóa được xác định ngay là đã tiêu thụ, đồng thời doanh thu bán hàng và tiền bán hàng cũng được xác định. Như vậy, doanh thu tiêu thụ và tiền bán hàng trùng nhau về thời điểm thực hiện. TH2: doanh nghiệp xuất giao hàng hóa được khách hàng chấp nhận thanh toán nhưng chưa trả tiền ngay. Lúc này doanh thu tiêu thụ sản phẩm được xác định nhưng tiền bán hàng thì chưa được thu về. TH3: doanh nghiệp đã xuất giao hàng cho khách hàng theo số tiền mà khách hàng đã trả trước. Khi đó đồng thời việc giao hàng cho khách, tiền ứng trước trở thành tiền thu bán hàng của doanh nghiệp. Doanh thu tiêu thụ sản phẩm của được xác định tại thời điểm này. TH4: doanh nghiệp đã thu được tiền hàng hoặc được chấp nhận thanh toán số hàng đã gửi đi bán hoặc giao cho các đại lý, với hàng gửi đi bán chỉ cho phép tính vào doanh thu phần hàng hóa gửi bán đã bán được, còn hàng giao cho các đại lý khi nhận được hóa đơn thanh toán thì được phép tính vào doanh thu. TH5: doanh nghiệp bán hàng theo phương thức trả góp thì doanh thu tiêu thụ sản phẩm cũng được xác định ngay nhưng tiền bán hàng chỉ được một phần, phần còn lại sẽ được trả vào các kỳ sau theo sự thỏa thuận giữa hai bên. Tóm lại, để xác định doanh thu tiêu thụ sản phẩm cần phải thỏa mãn hai điều kiện sau: - Doanh nghiệp đã thực sự bán sản phẩm hàng hóa cho khách hàng. - Khách hàng đã thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán số tiền hàng đó cho doanh nghiệp. 1.1.2 Sự cần thiết phải đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm. Như ta đã biết, tiêu thụ sản phẩm là giai đoạn cuối cùng kết thúc một chu kỳ sản xuất và mở ra một chu kỳ mới. Chỉ thông qua tiêu thụ sản phẩm, đồng vốn ban đầu của doanh nghiệp chi ra mới trở về hình thái ban đầu của nó. Có tiêu thụ được sản phẩm mới có doanh thu để bù đắp toàn bộ chi phí đã chi ra trong quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, đảm bảo cho quá trình tái sản xuất được liên tục thực hiện. Khi tốc độ tiêu thụ sản phẩm được đẩy nhanh góp phần thúc đẩy tốc độ luân chuyển vốn, tiết kiệm các khoản chi phí trong khâu tiêu thụ, góp phần hạ giá thành, làm tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Đây là chỉ tiêu quan trọng nhất phản ánh hiệu quả cuối cùng của các hoạt động sản xuất kinh doanh, có lợi nhuận, doanh nghiệp sẽ có tích lũy, khi đó doanh nghiệp mới có điều kiện mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, đầu tư theo chiều sâu, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của người lao động. Khi tiêu thụ sản phẩm được đẩy mạnh, điều đó chứng tỏ phạm vi phát huy các giá trị sử dụng của sản phẩm được mở rộng. Nhờ đó uy tín của doanh nghiệp được nâng cao, tạo ra sự cân đối giữa cung cầu trên thị trường trong nước; hạn chế hàng nhập ngoại khuyến khích sản xuất trong nước phát triển. Thông qua tiêu thụ sản phẩm, có được doanh thu, doanh nghiệp mới có thể thực hiện các khoản nghĩa vụ cho Nhà nước như thuế, lệ phí và phí. Đây là nguồn thu quan trọng của ngân sách Nhà nước để từ đó Nhà nước có thể triển khai các kế hoạch, phát triển kinh tế xã hội của mình. Hơn nữa, trong điều kiện nền kinh tế mở hội nhập với các nước trong khu vực và quốc tế, thì đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm được coi là chiếc cầu nối quan trọng không chỉ đối với các đơn vị, các vùng kinh tế trong nước với nhau thành một thể thống nhất mà còn thiết chặt thêm các mối quan hệ quốc tế, nối liền thị trường trong nước với thị trường nước ngoài, thúc đẩy giao lưu thương mại quốc tế ngày càng phát triển mạnh mẽ. Việc tiêu thụ sản phẩm ra thị trường nước ngoài sẽ cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, đưa nước ta khỏi tình trạng nhập siêu, thúc đẩy sản xuất phát triển. Xuất phát từ vai trò và ý nghĩa trên ta thấy việc đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm và tăng doanh thu ở các doanh nghiệp là hết sức cần thiết, luôn giữ vị trí số một trong quá trình sản xuất kinh doanh của bất cứ một doanh nghiệp nào trong nền kinh tế thị trường. Nhận thức được vị trí to lớn của công tác này nên trong những năm gần đây, ở các doanh nghiệp công tác tiêu thụ sản phẩm đã có những chuyển biến hết sức đáng kể do sự đầu tư quan tâm của Nhà nước và của bộ máy quản lý của doanh nghiệp. Để thấy ro điều này ta cần tìm hiểu đôi nét về tình hình tiêu thụ sản phẩm ở các doanh nghiệp trong điều kiện cụ thể hiện nay. 1.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác tiêu thụ và biện pháp chủ yếu để đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm ở doanh nghiệp. 1.2.1 Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác tiêu thụ và tăng doanh thu tiêu thụ sản phẩm. Quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trải qua nhiều giai đoạn từ sản xuất đến tiêu thụ, kết thúc quá trình này là các sản phẩm sản xuất ra và nhiệm vụ của doanh nghiệp là thực hiện tiêu thụ số sản phẩm đó và hoạt động này chịu nhiều ảnh hưởng của nhiều nhân tố do đó ta cần phải nghiên cứu các nhân tố này trên cơ sở đó đề ra các phương hướng, biện pháp đẩy mạnh tiêu thụ và tăng doanh thu tiêu thụ. Có thể khái quát bằng một số nhân tố chủ yếu sau: a. Đặc điểm SXKD của từng ngành nghề, từng doanh nghiệp. Đặc điểm sản xuất kinh doanh của từng ngành chi phối, ảnh hưởng rất lớn đến tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp nên việc tiêu thụ sản phẩm ở những ngành khác nhau cũng có những đặc trưng riêng và ảnh hưởng đến doanh thu của doanh nghiệp. Trong ngành công nghiệp do sản phẩm sản xuất dựa trên quy trình công nghệ cao nên chu kỳ sống của sản phẩm ngắn, việc sản xuất ít bị phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên cho nên tiêu thụ sản phẩm được diễn ra thường xuyên liên tục, do đó tiền thu được do bán hàng cũng đều đặn ngày càng tăng. Trong ngành nông nghiệp, do đặc điểm sản xuất mang tính chất thời vụ, phụ thuộc nhiều và điều kiện tự nhiên nên việc tiêu thụ cũng theo thời vụ dẫn đến doanh thu chủ yếu tập trung vào mùa thu hoạch. Ngành xây dựng cơ bản với đặc điểm là sản xuất đơn chiếc, theo đơn đặt hàng thời gian thi công kéo dài, nơi sản xuất cũng chính là nơi tiêu thụ. Việc tiêu thụ sản phẩm xây lắp chính là bàn giao công trình đã hoàn thành cho đơn vị giao thầu và thu tiền về. Nó chịu ảnh hưởng khách quan của chế độ thanh toán như áp dụng các phương thức thanh toán theo hạng mục công trình và khối lượng hoàn thành theo giai đoạn quy ước, thanh toán theo đơn vị hạng mục công trình đã hoàn thành. Do đó, doanh thu cũng phụ thuộc vào thời gian và tiến độ công việc. b. Khối lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ. Khối lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình tiêu thụ, quy mô tiêu thụ và doanh thu tiêu thụ sản phẩm. Công thức xác định số lượng sản phẩm tiêu thụ trong kỳ của một loại sản phẩm như sau: Sl = Sd + Sx - Sc Trong đó Sl :số lượng sản phẩm tiêu thụ trong kỳ Sd :số lượng sản phẩm kết dư tính đầu kỳ kế hoạch Sx :số lượng sản phẩm sản xuất trong kỳ kế hoạch Sc :số lượng sản phẩm kết dư dự tính cuối kỳ kế hoạch Qua công thức trên cho thấy số lượng sản phẩm tiêu thụ trong kỳ là phụ thuộc chủ yếu vào khối lượng sản phẩm sản xuất ra trong kỳ kế hoạch (Sx) và công tác tổ chức tiêu thụ trong kỳ. Sản phẩm sản xuất trong kỳ kế hoạch càng lớn dẫn tới sản lượng sản phẩm tiêu thụ trong kỳ càng tăng và khả năng doanh thu có thể càng lớn song điều quan trọng là sản phẩm đưa ra phù hợp với nhu cầu của thị trường. Nếu số lượng sản phẩm sản xuất ra vượt quá nhu cầu thị trường dẫn đến không tiêu thụ được hết số sản phẩm đó thậm chí phải hạ giá bán mới có thể tiêu thụ được. Ngược lại, nếu đưa ra thị trường khối lượng sản phẩm nhỏ hơn nhu cầu dẫn đến mất thị phần tiêu thụ và số khách hàng không được đáp ứng nhu cầu đó sẽ tìm đến những sản phẩm cùng loại trên thị trường. Cả hai trường hợp đều làm cho doanh thu giảm sút. Chính vì vậy, trong công tác tiêu thụ sản phẩm, doanh nghiệp cần phải đánh giá chính xác nhu cầu thị trường và năng lực sản xuất của mình để chuẩn bị một khối lượng sản phẩm hợp lý đưa ra tiêu thụ trên thị trường và nó có ý nghĩa quan trọng để nâng cao doanh thu bán hàng. c. Chất lượng sản phẩm. Nâng cao chất lượng sản phẩm là một yếu tố quan trọng thúc đẩy công tác tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Khi chất lượng sản phẩm được nâng cao làm tăng uy tín của doanh nghiệp dẫn đến khối lượng sản phẩm tiêu thụ được nhiều hơn, hơn nữa giúp cho doanh nghiệp có điều kiện nâng cao giá bán một cách hợp lý do đó ảnh hưởng trực tiếp đến việc tăng doanh thu và tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. Như vậy chất lượng sản phẩm chính là giá trị tăng thêm của sản phẩm nó làm tăng uy tín của doanh nghiệp đối với khách hàng, chất lượng sản phẩm cũng là một vũ khí cạnh tranh sắc bén và có hiệu quả nhất trong nền kinh tế thị trường. Sản phẩm sản xuất ra có thể được phân thành những loại có phẩm cấp khác nhau như loại I, loại II, loại III... và giá bán của mỗi loại cũng khác nhaudẫn đến doanh thu bán của chúng cũng khác nhau khi cùng một khối lượng tiêu thụ. ở những doanh nghiệp sản xuất thủy hải sản, công nghiệp chế biến, nông nghiệp thì chất lượng sản phẩm có ý nghĩa rất lớn vì phần lớn sản phẩm có tính chất tươi sống. Nếu doanh nghiệp biết tổ chức thu hoạch, chế biến, bảo quản kịp thời có phương pháp khoa học thì có thể tăng được số lượng sản phẩm có phẩm cấp cao, giảm số sản phẩm có phẩm cấp thấp từ đó có thể tăng được doanh thu bán hàng. Ngược lại, nếu tăng số sản phẩm có phẩm cấp thấp gây khó khăn cho tiêu thụ và giảm doanh thu thậm chí có khi không tiêu thụ được. Còn trong xây dựng cơ bản nếu thi công nhanh nhưng chất lượng kém dẫn đến hậu quả phải tốn nhiều chi phí và thời gian sửa chữa, thậm chí phải phá đi làm lại, ảnh hưởng đến thời gian bàn giao. Như vậy, nâng cao chất lượng sản phẩm có ý nghĩa rất quan trọng tới việc nâng cao uy tín của doanh nghiệp. Nó là sợi dây vô hình thắt chặt khách hàng với doanh nghiệp, tạo điều kiện cho tiêu thụ sản phẩm được dễ dàng và nhanh chóng thu được tiền bán hàng. d. Giá cả sản phẩm tiêu thụ. Giá cả sản phẩm có tác động rất lớn đến quá trình tiêu thụ sản phẩm. Về nguyên tắc, giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa và giá cả xoay quanh giá trị. Trong cơ chế thị trường hiện nay, ngoài sự ảnh hưởng của quy luật giá trị, giá cả còn do quan hệ cung-cầu trên thị trường quyết định do đó doanh nghiệp hoàn toàn có thể sử dụng giá cả như một công cụ sắc bén để đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm. Khi doanh nghiệp đưa ra một mức giá phù hợp với chất lượng sản phẩm được đông đảo người tiêu dùng chấp nhận dẫn đến việc tiêu thụ sản phẩm sẽ thuận lợi hơn và ngược lại. Mặt khác, nếu doanh nghiệp quản lý kinh doanh tốt, làm giảm giá thành sản phẩm, tạo điều kiện cho việc giảm giá bán sản phẩm so với giá bán của sản phẩm cùng loại trên thị trường sẽ tạo ra một lợi thế trong cạnh tranh giúp doanh nghiệp có thể thu hút được khách hàng của các đối thủ cạnh tranh ngoài ra giá bán sản phẩm còn có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc xác định thị trường tiêu thụ. Chẳng hạn đối với thị trường nông thôn, miền núi nơi có thu nhập thấp, sức mua có hạn nên chỉ có với mức giá thấp hơn một chút có thể tạo ra một sức tiêu thụ lớn và ngược lại với mức giá cao hơn một chút có thể làm giảm tiêu thụ và doanh thu tiêu thụ đi rất nhiều. Như vậy, các quyết định về giá cả sản phẩm sản xuất ra của doanh nghiệp, ngoài một số loại có tính chất chiến lược được Nhà nước bảo hộ và can thiệp vào việc định giá, còn đối với những mặt hàng khác giá cả được hình thành trên cơ sở giá trị hàng hóa và quan hệ cung cầu. Doanh nghiệp cần phải tính toán cân nhắc và định giá sao cho giá bán của sản phẩm phải bù đắp được phần tư liệu sản xuất tiêu hao, trả tiền công cho người lao động và có lãi đồng thời giá cả đó cũng phải được thị trường chấp nhận. e. Cơ cấu sản phẩm tiêu thụ Cơ cấu sản phẩm thị trường là tỷ trọng theo doanh thu của từng mặt hàng so với tổng doanh thu tiêu thụ trong tất cả các loại sản phẩm của doanh nghiệp, được xác định bởi công thức : Tỷ trọng sản phẩm i = Doanh thu sản phẩm i x 100 Tổng doanh thu tiêu thụ Như vậy, ứng với mỗi cơ cấu sản phẩm nhất định sẽ có một tổng doanh thu nhất định. Khi cơ cấu này thay đổi thì tổng doanh thu cũng thay đổi. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, để đáp ứng nhu cầu ngày càng phong phú và đa dạng thì doanh nghiệp phải đưa ra nhiều loại sản phẩm khác nhau có phẩm cấp, kích cỡ, giá bán... khác nhau. Khi đưa ra tiêu thụ những sản phẩm phù hợp với nhu cầu thị trường, giá cả hợp lý, chất lượng bảo đảm .... thì sẽ tiêu thụ nhanh và ngược lại những sản phẩm không phù hợp với nhu cầu thị trường, chất lượng không bảo đảm, giá cả không hợp lý, dẫn đến tiêu thụ chậm, thậm chí không thể tiêu thụ được. Do vậy, việc đưa ra một cơ cấu sản phẩm hợp lý sẽ làm tăng khả năng tiêu thụ đồng thời mang lại lợi ích cao nhất cho doanh nghiệp. Cơ cấu đó phải dựa trên cơ sở nắm vững nhu cầu thị trường và năng lực sản xuất hiện có của doanh nghiệp, sóng nếu có hợp đồng tiêu thụ đã ký kết thì doanh nghiệp phải tôn trọng quyền lợi của khách hàng, không vì mục đích lợi nhuận mà tự ý thay đổi cơ cấu sản phẩm, phá vỡ hợp đồng kinh tế đã ký kết gây thiệt hại cho khách hàng và làm giảm uy tín của doanh nghiệp. f. Thị trường tiêu thụ sản phẩm. Khi nói đến sản xuất hàng hóa là phải nói đến thị trường tiêu thụ vì thị trường chính là nơi tiêu thụ sản phẩm và cũng là nơi cung cấp cho doanh nghiệp những thông tin quan trọng để xây dựng kế hoạch sản xuất. Trước khi tiến hành sản xuất, các doanh nghiệp phải tiến hành điều tra, nghiên cứu thị trường để nắm bắt nhu cầu, thị hiếu người tiêu dùng, nắm được các đối thủ cạnh tranh. Từ đó giúp doanh nghiệp nên sản xuất những sản phẩm nào và có giải pháp thích hợp để chiến thắng đối thủ cạnh tranh. Làm tốt công tác thị trường giúp doanh nghiệp thấy được thị trường nào là chủ yếu, thị trường nào là thứ yếu để phân phối lượng sản phẩm hợp lý cho từng thị trường, từ đó tăng khối lượng sản phẩm tiêu thụ, tăng doanh thu bán hàng cho doanh nghiệp. Đồng thời doanh nghiệp cũng cần xác định được thị trường tiềm năng trong tương lai làm cơ sở xây dựng cho mình một chính sách thị trường đúng đắn có như vâỵ khả năng mở rộng thị trường phục vụ cho việc đẩy mạnh tiêu thụ và nâng cao doanh thu cho doanh nghiệp ngày càng tăng. g. Công tác tổ chức bán hàng, thanh toán của doanh nghiệp. Đây cũng là một nhân tố quan trọng thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm và tăng doanh thu cao hay thấp. Công tác tổ chức bán hàng bao gồm nhiều mặt. - Về hình thức bán hàng: một doanh nghiệp nếu áp dụng tổng hợp các hình thức bán hàng như bán buôn, bán lẻ, bán hàng tại kho, bán tại cửa hàng, vận chuyển đến tận nơi khách hàng yêu cầu... tất nhiên sẽ tiêu thụ được sản phẩm hơn là một doanh nghiệp chỉ áp dụng một hình thức bán hàng đơn thuần nào đó. Ngoài ra, các doanh nghiệp còn tổ chức mạng lưới đại lý phân phối sản phẩm để mở rộng và chiếm lĩnh thị trường. Vấn đề đặt ra là cần phải có các biện pháp thích hợp để khuyến khích các đại lý này hoạt động có hiệu quả nhằm đẩy mạnh khối lượng sản phẩm bán ra và tăng doanh thu cho công ty. - Về mặt tổ chức thanh toán: việc áp dụng nhiều hình thức thanh toán như thanh toán hàng đổi hàng, thanh toán bằng tiền mặt, thanh toán chuyển khoản, thanh toán ngay, thanh toán chậm,... sẽ làm cho khách hàng nhận thấy thuận lợi, có thể lựa chọn phương thức thanh toán phù hợp nhất do đó có thể thu hút được đông đảo khách hàng đến với doanh nghiệp. Nếu chỉ áp dụng một phương thức thanh toán nào đó thì có thể thích hợp với khách hàng này nhưng lại không phù hợp với khách hàng khác, từ đó sẽ làm hạn chế công tác tiêu thụ sản phẩm. Mặt khác, nếu doanh nghiệp có những hình thức khuyến khích khách hàng thanh toán nhanh, thanh toán ngay, chẳng hạn như chiết khấu bán hàng thì sẽ thu hút được khách hàng nhiều hơn, đẩy mạnh tốc độ tiêu thụ sản phẩm và tăng doanh thu tiêu thụ cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, doanh nghiệp cũng cần đặt ra kỷ luật thanh toán buộc khách hàng phải thanh toán đúng thời hạn quy định của hợp đồng hoặc thời hạn thỏa thuận giữa doanh nghiệp với khách hàng. Nếu khách hàng không thực hiện đúng thời gian thanh toán thì doanh nghiệp sẽ áp dng hình thức xử lý thích hợp. - Về các dịch vụ kèm theo trong công tác tiêu thụ sản phẩm: để tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng và cũng tăng sức cạnh tranh trong công tác tiêu thụ sản phẩm, các doanh nghiệp cần tổ chức các dịch vụ vận chuyển, bảo hành sản phẩm, quà tặng kèm theo, lắp ráp sản phẩm,... điều này làm cho khách hàng cảm thấy thuận lợi, yên tâm khi sử dụng sản phẩm của doanh nghiệp từ đó tạo điều kiện cho công tác tiêu thụ sản phẩm thuận lợi hơn và ngược lại. h. Quảng cáo giới thiệu sản phẩm. Trong nền kinh tế thị trường, quảng cáo là một vấn đề có tính chất chiến lược của sản xuất và tiêu thụ. Quảng cáo bao gồm các hoạt động giới thiệu và truyền đi các thông tin về sản phẩm và hình ảnh của doanh nghiệp nhằm kích thích khách hàng tiêu thụ hàng hóa dịch vụ, nâng cao uy tín cho nhà kinh doanh và tăng cườg khả năng cạnh tranh trên thị trường. Do chi phí quảng cáo cũng là một chi phí về tiêu thụ sản phẩm, nên trong quảng cáo bán hàng phải coi trọng tính tiết kiệm và hiệu quả của công tác này và việc quảng cáo yêu cầu phải gắn liền với chữ tín, phải trung thực với sản phẩm mà doanh nghiệp sản xuất, có như vậy mới thúc đẩy tiêu thụ và tăng doanh thu tiêu thụ, nếu doanh nghiệp thiếu tôn trọng khách hàng, quảng cáo sai sự thật thì sản phẩm của doanh nghiệp sẽ bị khách hàng tẩy chay khỏi thị trường, lúc đó quảng cáo sẽ phản tác dụng trở lại đối với sản phẩm. Trên đây là những nhân tố cơ bản ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình tiêu thụ sản phẩm. Ngoài ra, đường lối chính sách phát triển kinh tế của Nhà nước, sự phát triển của cơ sở hạ tầng như hệ thống đường xá, giao thông, liên lạc...cũng đều ảnh hưởng đến việc mở rộng hay thu hẹp khả năng tiêu thụ sản phẩm của mỗi doanh nghiệp. Dưới tác động của nhiều nhân tố như vậy, tính toán mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố và tìm ra cách giải quyết tối ưu để thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm là nhiệm vụ của mỗi doanh nghiệp để tăng doanh thu, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của đơn vị mình. 1.2.2 Các biện pháp chủ yếu để đẩy mạnh tiêu thụ và tăng doanh thu tiêu thụ sản phẩm. Qua phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến việc đẩy mạnh thị trường và tăng doanh thu tiêu thụ sản phẩm, trên cơ sở đó có thể đề ra các phương hướng, biện pháp cơ bản để đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm và tăng doanh thu của doanh nghiệp như sau: a. Tăng khối lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ. Đây là biện pháp ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu tiêu thụ sản phẩm. Khối lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ tăng thì khả năng doanh thu tiêu thụ cũng tăng và ngược lại. Để tăng khối lượng sản xuất và tiêu thụ thì trước hết trong khâu sản xuất doanh nghiệp phải tăng khối lươợng sản phẩm sản xuất ra bằng cách nâng cao năng suất lao động. Để nâng cao năng suất lao động thì một mặt doanh nghiệp phải thường xuyên đầu tư mua sắm, đổi mới máy móc thiết bị hiện đại, sử dụng tối đa công suất máy móc thiết bị, mặt khác doanh nghiệp phải thường xuyên tổ chức đào tạo, nâng cao tay nghề cho người lao động, kết hợp với sử dụng các biện pháp kinh tế nhằm khuyến khích tinh thần hăng say lao động sản xuất của người lao động từ đó có thể tạo ra khối lượng sản phẩm lớn nhằm đáp ứng cho nhu cầu tiêu thụ. Khi kết thúc quá trình sản xuất thì sẽ tạo ra một khối lượng sản phẩm nhất định và nhiệm vụ của doanh nghiệp là không những tiến hành tốt quá trình sản xuất mà còn phải thực hiện tốt được công tác tiêu thụ từ việc điều tra nghiên cứu thị trường, áp dụng các phương thức bán hàng phù hợp và sử dụng triệt để các biện pháp tài chính để tăng khối lượng sản phẩm tiêu thụ Đây là biện pháp cơ bản để đẩy mạnh tiêu thụ và tăng doanh thu tiêu thụ sản phẩm cho doanh nghiệp. Để tăng khối lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ đòi hỏi doanh nghiệp phải tổ chức tốt từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ sản phẩm. b. Nâng cao chất lượng sản phẩm tiêu thụ. Nâng cao chất lượng sản phẩm tiêu thụ là biện pháp có tính chất chiến lược bởi qua đó uy tín của công ty được nâng cao và tạo cho doanh nghiệp có điều kiện tiêu thụ được nhiều sản phẩm. Bên cạnh đó, khi chất lượng sản phẩm cao sẽ là điều kiện nâng giá bán một cách hợp lý nhằm tăng doanh thu. Để nâng cao được chất lượng sản phẩm thì đòi hỏi doanh nghiệp không ngừng áp dụng những tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất như đầu tư mua sắm máy móc thiết bị hiện đại, nguyên vật liệu đưa vào sản xuất phải đảm bảo chất lượng và tay nghề của người lao động không ngừng được nâng cao. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường thì nâng cao chất lượng sản phẩm không chỉ được thực hiện trong khâu sản xuất mà còn được thực hiện sau khi bán hàng đó chính là các dịch vụ sau bán nhằm tạo nên sự yêu tâm của khách hàng đối với sản phẩm và tăng uy tín của doanh nghiệp trong tiêu thụ. c. Xây dựng chính sách giá cả hợp lý, linh hoạt. Xây dựng chính sách giá cả sản phẩm hợp lý, linh hoạt có ý nghĩa quan trọng đối với doanh nghiệp. Song việc định giá như thế nào để góp phần thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm và tăng doanh thu cho doanh nghiệp. Tùy mỗi doanh nghiệp để định giá bán hợp lý, căn cứ vào kinh doanh sản xuất sản phẩm và vị trí của mình trên thị trường. Khi sản phẩm mới tung ra thị trường, thu hút được sự chú ý của người tiêu dùng và chưa xuất hiện các đối thủ cạnh tranh thì doanh nghiệp có thể định giá bán cao để nâng cao doanh thu. Lúc này giá cao hơn một chút cũng không cản trở khách hàng đến với doanh nghiệp. Nhưng khi sản phẩm đã bước vào giai đoạn bão hòa thì doanh nghiệp lại hạ giá bán xuống và đặc biệt lúc sản phẩm đã ở giai đoạn suy thoái thì doanh nghiệp phải giảm giá mạnh hơn để đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm và thu hồi vốn. Đôi khi dựa vào mục đích của mình chẳng hạn với mục tiêu mở rộng thị trường thu hút được sự chú ý của người tiêu dùng, doanh nghiệp có thể định giá bán thấp, khi sản phẩm có uy tín nhất định trên thị trường , thực hiện mục tiêu mở rộng thị trường thì doanh nghiệp sẽ dần dần nâng giá bán lên một mức nhất định nhằm tăng thêm lợi nhuận vì khi hạ giá bán, doanh nghiệp đã chấp nhận mất đi một phần lợi nhuận không nhỏ, thậm chí còn chịu lỗ. Nếu tiếp tục kéo dài sẽ dẫn tới tình trạng thua lỗ, thậm chí còn phá sản. Trong điều kiện hiện nay, giá cả sản phẩm được sử dụng hết sức linh hoạt trong công tác tiêu thụ, các doanh nghiệp rất coi trọng sử dụng biện pháp giảm giá như giảm giá theo khối lượng sản phẩm tiêu thụ, giảm giá cho những đối tượng ưu tiên, giảm giá trong thời gian ngắn,... để kích thích tiêu thụ. Ngoài ra, các doanh nghiệp còn luôn phấn đấu tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm tạo cơ sở cho việc hạ giá bán hợp lý để tăng khả năng cạnh tranh, tăng tiêu thụ trên thị trường. d. Lựa chọn kết cấu tiêu thụ sản phẩm hợp lý. Một kết cấu tiêu thụ sản phẩm hợp lý sẽ dẫn đến khả năng tiêu thụ và doanh thu được nâng cao. Doanh nghiệp lựa chọn kết cấu sản phẩm hợp lý cho mình trên cơ sở nắm vững nhu cầu thị trường, xem thị hiếu tiêu dùng tập trung vào mặt hàng nào là chủ yếu từ đó nâng cao tỷ trọng của mặt hàng đó trong kết cấu sản phẩm, trên cơ sở nắm được nhu cầu cao của thị trường, doanh nghiệp có khả năng bán với giá cao những sản phẩm có nhu cầu lớn đó dẫn đến tăng khả năng doanh thu cho doanh nghiệp. Trong trường hợp sản xuất có đơn đặt hàng thì doanh nghiệp phải dựa trên năng lực sản xuất hiện có của mình trước hết phải thực hiện đầy đủ các đơn đặt hàng để tránh gây thiệt hại cho khách hàng, tăng uy tín cho doanh nghiệp, đồng thời doanh nghiệp cũng phải tận dụng hết những năng lực sản xuất thừa để đáp ứng tối đa nhu cầu thị trường. Như vậy, kết cấu sản phẩm hợp lý sẽ giúp doanh nghiệp đẩy mạnh được khối lượng bán ra, tăng doanh thu và mang lại nhiều lợi ích nhất cho doanh nghiệp. e. Nghiên cứu, tìm hiểu thị trường. Các doanh nghiệp trước khi tiến hành sản xuất để cho sản phẩm của mình có thể tiêu thụ được thì điều quan tâm đầu tiên là phải tiến hành nghiên cứu thị trường, điều tra thị trường để nắm được nhu cầu, tình hình cạnh tranh trên tiêu thụ từ đó hướng sản xuất vào nhu cầu đó, đồng thời phải có những giải pháp để chiến thắng trong cạnh tranh. Nhờ kết quả nghiên cứu thị trường sẽ cung cấp cho doanh nghiệp thông tin về danh mục những sản phẩm hàng hóa được tiêu thụ, và sự phù hợp của chủng loại hàng hóa để quyết định mở rộng hay thu hẹp mặt hàng sản xuất và tiêu thụ. f. Thực hiện tốt công tác bán hàng của doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải có các hình thức bán hàng phù hợp sao cho tiêu thụ được nhiều sản phẩm nhất, không ngừng mở rộng thị trường tiêu thụ bằng cách mở ra hàng loạt các đại lý, các cửa hàng ký gửi và có các biện pháp động viên khuyến khích kinh tế đối với các đại lý, các cửa hàng đó để họ hoạt động có hiệu quả giúp tăng doanh thu và tăng tiêu thụ cho doanh nghiệp. Ngoài ra, nó còn giúp cho doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí tiền lương cho nhân viên bán hàng, tiết kiệm chi phí thuê cửa hàng, nhà kho, bảo quản sản phẩm, doanh nghiệp cũng giảm được công việc tìm kiếm thị trường, để tập trung vào sản xuất và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Đến việc tổ chức thanh toán sao cho cho thu hút được đông đảo khách hàng đến với doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng, đồng thời cần có các hình thức khuyến khích khách hàng thanh toán nhanh, tránh dây dưa chiếm dụng vốn của doanh nghiệp. Tiếp đến là các dịch vụ kèm theo trong công tác tiêu thụ nhằm tạo điều kiện cho khách hàng cảm thấy thuận lợi, yên tâm khi sử dụng sản phẩm của doanh nghiệp từ đó giúp cho doanh nghiệp thực hiện tốt công tác tiêu thụ sản phẩm của mình hơn. g. Quảng cáo giới thiệu sản phẩm. Quảng cáo giới thiệu sản phẩm hiện nay là một công cụ được sử dụng rộng rãi trong công tác tiêu thụ sản phẩm. Nhờ quảng cáo mà người tiêu dùng biết được thông tin về một mặt hàng nào đó, về hình ảnh của doanh nghiệp, qua hoạt động quảng cáo khách hàng có thể biết được tính năng, công dụng của sản phẩm, nhận thấy ưu thế của sản phẩm so với sản phẩm cùng loại trên thị trường. Dẫn đến lôi kéo khách hàng, kích thích nhu cầu tiêu dùng giúp cho doanh nghiệp đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm của mình. h. Một số biện pháp tài chính khác để thúc đẩy tiêu thụ và tăng doanh thu tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. - Chiết khấu bán hàng: là số tiền doanh nghiệp bán theo quy định của hợp đồng đã thỏa thuận dành cho khách hàng trong trường hợp khách hàng thanh toán sớm tiền hàng hoặc mua sản phẩm với khối lượng lớn. Chiết khấu bán hàng được tính theo tỷ lệ (%) trên doanh thu hóa đơn chưa có thuế GTGT.Thông thường chiết khấu bán hàng được chia làm nhiều bậc, khách hàng thanh toán ngay được hưởng tỷ lệ chiết khấu cao, thanh toán trong một thời gian ngắn được hưởng mức chiết khấu thấp hơn, nếu thanh toán chậm thì không được hưởng tỷ lệ chiết khấu thậm chí còn chịu tỷ lệ lãi suất trên số tiền trả chậm theo lãi suất vay vốn ngân hàng. Đối với chiết khấu bán hàng tính theo khối lượng sản phẩm bán ra cũng vậy, khách hàng mua sản phẩm đạt đến một mức nào đó sẽ được hưởng tỷ lệ chiết khấu cao, ở một mức nào đó sẽ không được hưởng chiết khấu. Đây cũng là biện pháp tài chính quan trọng được sử dụng khá phổ biến trong các doanh nghiệp ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên, cần có những tỷ lệ chiết khấu thích hợp sẽ hấp dẫn khách hàng đến với sản phẩm của doanh nghiệp mình thì công tác tiêu thụ sản phẩm mới được thuận lợi, nhanh chóng thu hồi và quay vòng vốn. - Cước phí vận chuyển: hiện nay để tạo thuận lợi cho khách hàng nhất là khách hàng ở xa, các doanh nghiệp sản xuất hầu như đảm nhận vận chuyển cho khách hàng. Bản chất việc vận chuyển hàng hóa không phải là một công cụ tài chính khi khách hàng phải trả đầy đủ cước phí vận chuyển nhưng khi doanh nghiệp giảm giá cước phó vận chuyển hoặc vận chuyển miễn phí thì số tiền đó lại trở thành một công cụ tài chính phục vụ cho công tác tiêu thụ sản phẩm. Đòn bẩy cước phí vận chuyển này thường được áp dụng khi khách hàng mua số lượng lớn đạt đến một mức nào đó thì được vận chuyển miễn phí, còn trong trường hợp mua ít thì chỉ được giảm giá cước phí hoặc phải chịu toàn bộ cước phí. - Quà tặng kèm theo khi mua hàng, quay xổ số, vé tham dự thưởng: ngoài đáp ứng nhu cầu phát sinh của khách hàng thì để đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm, các doanh nghiệp còn khơi dậy nhu cầu bằng cách tặng quà cho khách hàng khi mua sản phẩm. Có nhiều cách tặng quà khác nhau song việc tặng quà cần phải nghiên cứu kỹ lưỡng các đối tượng được tặng quà và món quà cần phải có ý nghĩa đối với người nhận và nó đem lại hiệu quả kinh tế cho doanh nghiệp. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp còn thực hiện việc quay xổ số, vé tham dự trúng thưởng trong thời gian ngắn để kích thích nhu cầu tiêu dùng. Ngoài ra, các doanh nghiệp còn phải sử dụng nhiều phương pháp khác như phát sản phẩm dùng thử, biếu tặng sản phẩm. Tất cả các biện pháp nói trên đều có tác dụng rất lớn trong việc đẩy mạnh tiêu thụ và tăng doanh thu bán hàng, tuy nhiên việc sử dụng biện pháp nào cho có hiệu quả và phù hợp thì doanh nghiệp phải phân tích, đánh giá đúng tình hình sản xuất kinh doanh của đơn vị mình, tình hình thị trường, tình hình các đối thủ cạnh tranh.... để trên cơ sở có giải pháp tối ưu và việc thành công trong công tác tiêu thụ sẽ dễ dàng hơn nhiều. Tóm lại: Trong điều kiện kinh tế thị trường nói chung và nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở nước ta nói riêng, các doanh nghiệp ngày càng được tự chủ trong sản xuất kinh doanh, cùng sản xuất kinh doanh, cùng tồn tại cạnh tranh với nhau và bình đẳng trước pháp luật. Đối với các doanh nghiệp sản xuất thì chức năng cơ bản là sản xuất và tiêu thụ trong đó công tác tiêu thụ quyết định sự sống còn của mỗi doanh nghiệp trong giai đoạn hiện nay. Trên cơ sở nghiên cứu và phân tích để nhận thức đúng đắn vấn đề tiêu thụ sản phẩm ở các doanh nghiệp nói chung và trong thời gian thực tập tại Công ty BĐPN Rạng Đông, trong bài viết này tôi xin trình bày một số nét về tình hình tổ chức công tác tiêu thụ sản phẩm và một số giải pháp chủ yếu để đẩy mạnh tiêu thụ và tăng doanh thu tiêu thụ sản phẩm ở công ty. Chương II Thực trạng công tác tiêu thụ ở Công ty Bóng Đèn Phích Nước Rạng Đông. 2.1 Khái quát chung về tình hình sản xuất kinh doanh của công ty. 2.1.1 Quá trình hình thành công ty. Công ty Công ty Bóng Đèn Phích Nước Rạng Đông ngày nay có tên giao dịch là RangDong Light Source and Cacuum Flask Company, trực thuộc Tổng cty sành sứ thủy tinh Công nghiệp và cũng trực thuộc Bộ Công nghiệp quản lý. Công ty được khởi công xây dựng vào tháng 5 năm 1959 theo thiết kế của Trung Quốc, đến tháng 6 năm 1962 thì hoàn thành và đi vào sản xuất thử. Đến ngày 27 tháng 1 năm 1963. công ty chính thức đi vào sản xuất. Công ty nằm trong khu công nghiệp Thượng Đình, trên Km7 quốc lộ 6, tại 15 phố Hạ Đình-Thanh Xuân-Hà Nội với diện tích mặt bằng khoảng 5 hecta. Trên mặt bằng nhà máy hiện nay có 45 hạng mục công trình với diện tích xây dựng là 20696 m2 chưa kể diện tích sân bãi và đường sá. Tháng 6 năm 1994 chính thức đổi tên nhà máy thành Công ty Bóng Đèn Phích Nước Rạng Đông theo Quyết định số 667/QĐ-TCLĐ ngày 30 tháng 6 năm 1994 của Bộ Công nghiệp nhẹ. Qua gần 40 năm thành lập và phát triển, đến nay Công ty Bóng Đèn Phích Nước Rạng Đông đã lớn mạnh, trở thành một cái tên quen thuộc với mọi người dân Việt Nam. Quá trình phát triển được chia thành 3 giai đoạn: * Giai đoạn 1: (từ ngày thành lập đến 1975) Đây là giai đoạn phát triển của công ty trong thời kỳ đất nước có chiến tranh, đi vào sản xuất được 3 năm thì cuộc chiến tranh phá hoại leo thang ra miền Bắc. Nhà máy bị tàn phá nặng nề, toàn bộ cán bộ và công nhân viên cùng với vật tư, máy móc, thiết bị của công ty phải sơ tán về các cơ sở ở Hà Tây và Hải Hưng. Công nhân vừa phải bám máy sản xuất, vừa phải cầm súng chiến đấu. Trong điều kiện hết sức khó khăn đó nên công ty không thể khai thác hết được công suất như thiết kế. Năm 1975 mức sản lượng tối đa cũng chỉ là: Bóng đèn tròn: 1.700.000 chiếc Ruột phích: 200.000 chiếc * Giai đoạn 2: (từ 1976 đến 1988) Giai đoạn này đất nước đã được thống nhất, nhân dân bắt tay vào công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh đồng thời xây dựng và phát triển CNXH trên phạm vi cả nước. Song giai đoạn này chúng ta cũng gặp những khó khăn không nhỏ do nguồn viện trợ của các nước XHCN giảm dần. Đặc biệt là nguồn viện trợ lớn phục vụ cho sản xuất mà ta nhập từ Trung Quốc bị cắt hoàn toàn do mâu thuẫn giữa hai nước. Mặc dù trong điều kiện khó khăn như vậy nhưng công ty vẫn xác định phải đầu tư chiều sâu vào một số công đoạn trong dây chuyền công nghệ. Sau đây là các công trình kỹ thuật tiêu biểu được thực hiện trong giai đoạn này: Lĩnh vực sản xuất Cải tiến kỹ thuật Thuỷ tinh 1977-1979: Nấu thuỷ tinh bằng lò bể đốt dầu và đốt than cho lò nồi bán khí 1982: Băng hấp phích nước bằng bức xạ nhiệt Cơ động 1976-1980: Chế tạo lò gaz kiểu Đức 350 m3/giờ thay thế cho lò gaz 60 m3/giờ của Trung Quốc 1986-1988: Cải tiến van thải không khí cho lò gaz 1988: Đưa nguồn nước Thượng Đình về bể 300 m3 Đột dập 1986-1987: Cuốn thân phích bằng thép lá tráng thiếc tipô, phích có quai xách Phích 1979: Rút khí phích nước trên máy bầu tròn tự động của Nhật Bản 1982: Công nghệ trang trí vỏ phích với khắc hoạ bản giấy, sơn mau khô Ankyd Melamin 1984-1985: Thực hiện đề tài thu hồi AgNO3. Nâng cao chất lượng ruột phích, đưa băng ủ miệng phích vào sản xuất thay cho ủ rơm 1986: Đưa vỏ phích in tipô vào sản xuất thay cho phun sơn, vỏ phích có quai xách Bóng đèn 1976: Cơ giới hoá khâu sản xuất đèn ôtô, nâng công suất 1 triệu chiếc/năm 1978: Đưa dây tóc xoắn kép vào sản xuất bóng đèn thường thay cho dây xoắn đơn là bước nhảy vọt về chất lượng 1979: Chế tạo đưa vào sử dụng dây chuyền sản xuất đèn thường 3 1986-1988: Thực hiện đề tài nâng cấp chất lượng bóng đèn về tuổi thọ, keo gắn đầu, bao bì * Giai đoạn 3: (từ 1989 đến nay) Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần V, nước ta bước vào giai đoạn mới chuyển từ kinh tế kế hoạch sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng XHCN. Hầu hết các doanh nghiệp Nhà nước đều rất lúng túng trong việc chuyển mình từ trạng thái sản xuất theo chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước giao, các nguồn lực đầu vào do Nhà nước cung cấp và sản phẩm sản xuất ra được Nhà nước bao tiêu sang trạng thái tự thân vận động. Nhà nước chỉ cấp vốn ban đầu còn lại các khoản vốn khác thì doanh nghiệp phải tự lo.Công ty đã tự tìm cho mình một hướng đi đúng đắn cho sự phát triển. Từ tình trạng công ty phải đóng cửa liền 6 tháng vì hàng ngoại lấn át, sản phẩm đơn điệu, chất lượng chưa cao, không tiêu thụ được đến duy trì sản xuất ổn định liên tục, sản lượng tăng ko ngừng để đáp ứng cho nhu cầu thị trường. Công ty vẫn tiếp tục có những cải tiến công nghệ sản xuất: Lĩnh vực sản xuất Cải tiến kỹ thuật Thuỷ Tinh 1991-1993: Thiết kế các lò thuỷ tinh đốt bằng hơi than, hiệu suất khai thác cao, chất lượng ổn định 1995: Đầu tư máy thổi vỏ bóng tự động 18 đầu khuôn Cơ động 1992-1993: Cải tiến công nghệ vận hành lò gaz, đảm bảo tuổi thọ lò, tiết kiệm than, đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng gaz cao Đột dập 1992-1993: Tự đúc cán nhôm, cải tạo hệ thống khuôn mẫu dập phụ tùng phích bằng nhôm dày 0.6 mm, tiết kiệm nguyên liệu Bóng đèn 1992: Chế tạo mới máy vít miệng cho dây chuyền số 3 1993-1994: Chế tạo đưa vào sản xuất dây chuyền đèn thường số 4 1992-1993: Thực hiện cuộc cách mạng về bao bì cho bóng đèn 1994-1995: Củng cố thiết bị, phụ tùng, ổn định chất lượng bóng đèn trong sử dụng và giảm chi phí vật tư. Đầu tư dây chuyền lắp ghép bóng đèn mới, công suất 1200 chiếc/giờ với máy vít miệng 24 đầu, máy rút khí 36 đầu và máy gắn đầu đèn hàn thiếc và thông điện liên hoàn tự động Phích 1992: Đưa vào sản xuất vỏ phích in vân đá. Thực hiện cải tiến công nghệ, giảm định mức sử dụng AgNO3 Từ một cơ sở sản xuất kinh doanh thua lỗ tiến đến làm ăn có lãi ngày càng cao. Trước đây cả nước có tới 5 cơ sở sản xuất phích nước nhưng đến nay chỉ còn Công ty Bóng Đèn Phích Nước Rạng Đông là cơ sở duy nhất còn tồn tại, trụ vững và phát triển. Đặc biệt công ty là cơ sở duy nhất ở miền Bắc 3 năm liền(1993,1994,1995) và năm 1997 được lựa chọn vào Topten hàng Việt Nam được người tiêu dùng ưa thích. Qua đó chứng tỏ công ty có sự tiến bộ vượt bậc về nhiều mặt, thể hiện sự thành công trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Mạng lưới tiêu thụ sản phẩm của công ty đã chi phối cả 3 miền. Hiện nay công ty đã liên doanh với công ty Seeesmega-Đài Loan trong việc hợp tác sản xuất đèn huỳnh quang. Sản phẩm của công ty không những chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn xuất khẩu ra thị trường nước ngoài. Đây là sự ghi nhận đánh dấu sự trưởng thành và lớn mạnh của công ty trong thời gian vừa qua. 2.1.2 Đặc điểm về tổ chức, quản lý sản xuất của công ty. Căn cứ vào đặc điểm sản xuất, tính chất phức tạp của kỹ thuật, quy mô sản xuất và định hướng theo nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, công ty đã xây dựng bộ máy quản lý theo mô hình trực tuyến chức năng (sơ đồ 1) Bộ máy quản lý của công ty đứng đầu là giám đốc, đại diện cho Nhà nước quản lý công ty. Giám đốc có quyền quyết định việc điều hành, hoạt động sản xuất của công ty theo đúng kế hoạch, chính sách pháp luật của Nhà nước, chịu trách nhiệm trước Nhà nước và tập thể công ty về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, trực tiếp chỉ đạo và giám sát phòng thị trường. Dưới giám đốc có 2 phó giám đốc và kế toán trưởng giúp việc tham mưu điều hành các phòng ban còn lại. Nhiệm vụ và chức năng cơ bản của các phó giám đốc, phòng ban, phân xưởng trong công ty được phân công như sau: - Phó giám đốc kỹ thuật và đầu tư phát triển: điều hành hoạt động của phòng KCS và đứng đầu Văn phòng Giám đốc đầu tư phát triển. - Phó giám đốc điều hành sản xuất và nội chỉnh: phụ trách quản lý các trưởng phòng quản lý kho, phòng tổ chức điều hành sản xuất, phòng dịch vụ đời sống, phòng bảo vệ. - Kế toán trưởng: quản lý trực tiếp hướng hoạt động của phòng thống kê kế toán tài vụ. - Phòng quản lý kho: chịu trách nhiệm xuất nhập kho thành phẩm và cung ứng vật tư cho quá trình sản xuất của các phân xưởng. - Phòng tổ chức điều hành sản xuất: bố trí, sắp xếp lao động trong công ty đồng thời quản lý các giấy tờ hành chính, tổ chức hội nghị... - Phòng dịch vụ đời sống: có trách nhiệm chăm lo tới đời sống vật chất, tinh thần của cán bộ, công nhân viên. - Phòng bảo vệ: có nhiệm vụ kiểm tra, bảo vệ của cải vật chất, cũng như con người trong công ty, kịp thời xử lý các hành vi về mặt an ninh trật tự. - Phòng thị trường: chịu sự giám sát trực tiếp của giám đốc, có chức năng lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm, mở rộng thị trường tiêu thụ, cải tiến phương thức bán hàng, chào hàng, đề xuất và phát hiện giá bán kịp thời để tiêu thụ sản phẩm nhanh. - Phòng thống kê kế toán tài vụ: có nhiệm vụ quản lý và sử dụng hợp lý các nguồn vốn của công ty sao cho có hiệu quả. Thường xuyên theo dõi các khoản thu chi, hướng dẫn các phòng ban thủ tục thanh toán với khách hàng, đồng thời tính toán lãi, lỗ trong quá trình hoạt động. - Phòng đầu tư phát triển: có chức năng chính là thu hút các nguồn đầu tư từ trong và ngoài công ty đồng thời định ra chiến lược phát triển cho công ty trong từng giai đoạn. - Phòng KCS (kiểm tra chất lượng sản phẩm): kiểm tra sản phẩm của từng công đoạn, quản lý chất lượng ở mọi khâu của quá trình sản xuất, kiểm soát sản phẩm không phù hợp và ra các biện pháp khắc phục. 2.1.3 Đặc điểm về quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm. Quy trình công nghệ chế tạo sản phẩm của công ty được tổ chức theo dây chuyền, được chuyên môn hoá cao và được sắp xếp theo nguyên tắc trình tự khép kín. Công ty tổ chức sản xuất theo các phân xưởng, mỗi phân xưởng bao gồm một hay nhiều giai đoạn công nghệ khác nhau. Công ty có 4 phân xưởng chính và 1 bộ phận sản xuất phụ trợ. Các bộ phận sản xuất chính bao gồm: - Phân xưởng thuỷ tinh: sản xuất ra bán thành phẩm thuỷ tinh (bình phích, bóng đèn tròn, đèn ống). Đây là khâu đầu tiên của dây chuyền công nghệ sản xuất sản phẩm. Quy trình sản xuất bằng máy tự động hoá cao nên năng suất rất cao. - Phân xưởng bóng đèn: lắp ghép thành phẩm bóng đèn từ bán thành phẩm vỏ bóng và các vật liệu đã qua chế biến tại phân xưởng thành sản phẩm bóng đèn hoàn chỉnh. Quy trình sản xuất được chuyên môn hoá cao với công nghệ lắp ghép hiện đại. - Phân xưởng đột dập: gia công các phụ tùng nhôm, bộ phận sản xuất vỏ phích sắt và bộ phận lắp ráp phụ tùng nhôm, nhựa. - Bộ phận sản xuất phụ trợ (phân xưởng cơ động): sản xuất khí nén, cung cấp điện và hơi nước cho các công đoạn sấy, ủ... Như vậy, quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm của công ty được xác định là quy trình sản xuất phức tạp. Sơ đồ quy trình sản xuất cụ thể như sau (sơ đồ 2) 2.1.4 Đặc điểm về sản phẩm của công ty. Những năm đổi mới, sản phẩm của công ty chịu sự cạnh tranh mạnh mẽ của hàng ngoại, đặc biệt từ Trung Quốc. Những năm gần đây nhờ cải tiến kỹ thuật sản xuất cũng như tổ chức lại lao động trong công ty, đầu tư thêm một số máy móc thiết bị hiện đại nên sản phẩm của công ty đã có thể thay thế được hàng ngoại với mức giá cả cạnh tranh. Nhìn chung chủng loại mẫu mã các mặt hàng của công ty rất đa dạng, phong phú và đặc biệt là chất lượng cao, đạt tới trình độ khoa học kỹ thuật tiên tiến của khu vực và thế giới. Sau đây là Catalog một số sản phẩm chính của công ty : * Đèn COMPACT: Chủng loại Quang thông (Lm) Tuổi thọ (Giờ) Chiều dài (mm) Trọng lượng (g) 5W-2U 7W-2U 9W-2U 11W-2U 13W-2U 15W-2U 15W-3U 18W-3U 20W-3U 240 320 400 550 640 810 810 900 1200 5000 5000 5000 5000 5000 5000 5000 5000 5000 125 130 140 160 175 180 156 165 173 75 80 85 90 98 98 118 120 125 * Ruột phích: Ký hiệu Dung tích (l) Số lượng (chiếc/thùng) Kích thước thùng (mm) C.101 1,2 12 470x355x345 C.102-103 2 12 615x465x420 C.104 2 12 640x485x420 * Đèn huỳnh quang: Chủng loại Dòng điện (mA) Quang thông (Lm) Tuổi thọ (Giờ) Chiều dài (mm) FL-20D/T10 360 1000 6000 590 FL-40D/T10 415 2600 8000 1198 * Đèn tròn: Điện áp Công suất Màu sắc Đường kính vỏ bóng Chiều dài Đầu đèn 110/220 110/220 110/220 110/220 110/220 110/220 110/220 110/220 110/220 110/220 110/220 10 15 25 25 40 60 75 100 150 200 300 Clear Clear Clear Clear Clear Clear Clear Clear Clear Clear Clear 45 45 45 60 60 60 60 60 80 80 90 68 68 68 105 105 105 105 105 160 160 160 E27-B22 E27-B22 E27-B22 E27-B22 E27-B22 E27-B22 E27-B22 E27-B22 E27-B22 E27-B22 E27-B40 + Sản phẩm của công ty được tiêu thụ ở thị trường khắp trong cả nước và một số thị trường nước ngoài. Mặc dù vậy, sản phẩm của công ty mang tính mùa vụ, theo số liệu thống kê nhiều năm cho thấy việc tiêu thụ chỉ diễn ra nhanh ở các tháng 12,1,2. Điều này có tác động rất lớn đến công tác điều hành sản xuất và quản lý kho. + Đối tượng khách hàng trực tiếp và chủ yếu của công ty là các công ty tạp phẩm, bách hoá tại các trung tâm thành phố lớn. Công ty cung cấp sản phẩm thông qua hợp đồng và đơn đặt hàng của khách hàng. + Việc tổ chức kênh tiêu thụ, sử dụng các hình thức tiêu thụ ở mỗi doanh nghiệp đều chịu ảnh hưởng từ nhiều nhân tố như sự phát triển của thị trường hàng hoá trong nước, đặc thù hàng hoá của công ty.... ở Công ty Bóng Đèn Phích Nước Rạng Đông áp dụng kênh phân phối: Kênh1 Kênh2 Công ty Công ty Người bán buôn Người bán lẻ Người bán lẻ Người tiêu dùng Người tiêu dùng Trong các kênh tiêu thụ trên thì kênh 1 được công ty áp dụng nhiều nhất. Do vậy cũng là kênh mang lại doanh thu lớn nhất. Do thị trường của công ty tương đối rộng, sản phẩm của công ty được tiêu thụ ở hầu như trên phạm vi toàn quốc nên công ty không thể phân phối sản phẩm đến tận tay người tiêu dùng được. Đại bộ phận sản phẩm được tiêu thụ thông qua các nhà bán buôn, sau đó là các nhà bán lẻ và cuối cùng mới đến tay người tiêu dùng. 2.1.5 Đánh giá chung về hoạt động của công ty. + Ưu điểm: Nhờ luôn bám sát thị trường nên việc lập kế hoạch sản xuất và tổ chức sản xuất đã thực sự gắn liền với hoạt động tiêu thụ và được phối hợp một cách nhịp nhàng do đó luôn đảm bảo về số lượng và chất lượng, thoả mãn nhu cầu thị trường. Công ty đã đầu tư máy móc thiết bị, tạo điều kiện tăng năng lực sản xuất, đa dạng hoá sản phẩm. Công ty không ngừng cải tiến chất lượng sản phẩm , từ đó tạo lòng tin đối với khách hàng trong và ngoài nước, đảm bảo ổn định sản xuất và đời sống cho cán bộ, công nhân viên. Sản phẩm của công ty đã thuyết phục được một số lượng lớn khách hàng bằng chất lượng và giá cả. Điều đó cho thấy chính sách sản phẩm, chính sách giá cả của công ty rất hợp lý. Những chính sách này tạo cho sản phẩm có một sức cạnh tranh lớn trên thị trường Việt Nam, nhiều lần lọt vào Topten được người tiêu dùng ưa thích. Uu tín của công ty trong quan hệ kinh doanh ngày càng cao, thế và lực của công ty được tích luỹ khá; nội bộ công ty đạt được độ thống nhất ý chí và hoạt động cao; kinh nghiệm về hoạt động tiêu thụ trong cơ chế thị trường tích luỹ được nhiều bài học quý. + Nhược điểm: Công tác Marketing chưa được đề cao, sự hiểu biết về Marketing còn ít, việc nắm bắt các kiến thức về kinh tế thị trường và sự thích nghi với nền kinh tế thị trường của nhiều cán bộ còn hạn chế do hầu hết các cán bộ nhân viên của công ty đều là những người tương đối lớn tuổi, được đào tạo và trưởng thành trong thời kỳ nền kinh tế nước ta còn bao cấp. Chính vì thế, có lúc chưa thực sự là công cụ đắc lực cho công tác quản lý, tổ chức sản xuất kinh doanh ở công ty. Việc quảng cáo tiếp thị, xúc tiến bán hàng, mẫu mã, nhãn mác, bao bì sản phẩm chưa được quan tâm nhiều. 2.2 Tình hình tiêu thụ sản phẩm của công ty năm 2000. 2.2.1 Công tác lập kế hoạch tiêu thụ và doanh thu tiêu thụ của công ty. a. Lập kế hoạch tiêu thụ. Để chuẩn bị cho sản xuất kinh doanh hàng năm, mỗi doanh nghiệp phải lập cho mình rất nhiều kế hoạch như: kế hoạch vật tư, kế hoạch lao động tiền lương, kế hoạch đầu tư và xây dựng cơ bản, kế hoạch tiêu thụ sản phẩm...tất cả tập hợp thành kế hoạch sản xuất, kỹ thuật, tài chính của doanh nghiệp. Trong bài viết về công tác tiêu thụ sản phẩm của công ty thì vấn đề được đặt ra xem xét và nghiên cứu là công tác lập kế hoạch tiêu thụ và doanh thu tiêu thụ. Kế hoạch tiêu thụ sản phẩm là việc dự đoán trước số lượng sản phẩm sẽ được tiêu thụ trong kỳ kế hoạch, đơn giá bán sản phẩm kỳ kế hoạch, doanh thu tiêu thụ sản phẩm sẽ đạt được trong kỳ kế hoạch để từ đó công ty có thể chủ động tổ chức sản xuất và tiêu thụ sản phẩm sao cho đạt hiệu quả cao. Thông qua kế hoạch đã lập công ty có thể tổ chức sản xuất kinh doanh nói chung và tổ chức tiêu thụ sản phẩm nói riêng đi đúng hướng đã định, nếu công tác lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm không khoa học, không chính xác thì quá trình tiêu thụ sẽ bị động, tiêu thụ không phù hợp với sản xuất sẽ làm giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh, đồng thời cũng ảnh hưởng đến hàng loạt kế hoạch khác. Như vậy, công tác lập kế hoạch tiêu thụ và doanh thu tiêu thụ sản phẩm là điều cần thiết cho công ty trước khi bước vào sản xuất kinh doanh, nó tạo ra sự chủ động trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Kế hoạch tiêu thụ và doanh thu tiêu thụ sản phẩm thể hiện khả năng đáp ứng nhu cầu thị trường về sản phẩm của công ty. * Phương pháp lập kế hoạch tiêu thụ và doanh thu tiêu thụ sản phẩm: dựa vào đặc điểm tiêu thụ sản phẩm của mình, công ty đã lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm cho cả năm. Trong kế hoạch tiêu thụ sản phẩm năm có phân chia số lượng sản phẩm theo từng quý, trong kế hoạch tiêu thụ sản phẩm quý lại phân chia số lượng sản phẩm theo từng tháng. * Căn cứ lập kế hoạch: việc lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm căn cứ chủ yếu vào tình hình tiêu thụ sản phẩm thực tế của năm trước, kết quả dự đoán nhu cầu thị trường năm kế hoạch, các đơn đặt hàng, các hợp đồng kinh tế đã ký kết giữa công ty với khách hàng trước thời điểm lập kế hoạch. * Thời điểm lập kế hoạch: công ty lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm cho năm sau thường vào giữa quý IV năm báo cáo. Đây cũng là thời điểm công ty lập các kế hoạch sản xuất, tài chính, kỹ thuật. b. Kế hoạch tiêu thụ sản phẩm của công ty năm 2000. Trong năm 2000, kế hoạch tiêu thụ các sản phẩm của công ty được lập như sau (biểu số 1) - Cột Tên sản phẩm được lập chi tiết cho ba loại sản phẩm là bóng đèn tròn, đèn huỳnh quang và ruột phích nước. - Hai cột Số lượng tiêu thụ năm 1999 và Doanh thu tiêu thụ năm 1999 được tổng hợp từ các sổ sách, chứng từ báo cáo sản xuất kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm hàng hoá của công ty trong năm 1999. - Cột Số lượng kế hoạch năm 2000 được lập trên cơ sở căn cứ vào đơn đặt hàng, hợp đồng đã ký kết, kết hợp với việc dự đoán nhu cầu thị trường năm 2000, kết quả công tác tiêu thụ sản phẩm năm 1999 và năng lực sản xuất của công ty. - Cột Đơn giá bình quân kế hoạch năm 2000 được lập căn cứ vào đơn giá bình quân mỗi sản phẩm năm 1999 và kết quả của việc nghiên cứu thị trường như tình hình biến động của giá cả trên thị trường để tính cho năm sau. - Cột Doanh thu dự kiến năm 2000 được xác định bằng cách nhân số lượng sản phẩm kế hoạch năm 2000 với đơn giá bình quân kế hoạch của từng loại sản phẩm. Ngoài kế hoạch tiêu thụ sản phẩm được lập cho cả năm, công ty còn lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm cho từng quý. Để chi tiết chúng ta có thể xem kế hoạch tiêu thụ sản phẩm hàng quý, cụ thể ở đây ta lấy kế hoạch tiêu thụ sản phẩm của quý I (biểu số 2). Ta thấy rằng từ số lượng sản phẩm dự kiến tiêu thụ trong quý I của năm 2000, công ty sẽ chia ra số lượng sản phẩm tiêu thụ hàng tháng nhưng không phải phân bổ đều cho từng tháng bởi tính mùa vụ của sản phẩm của công ty. Qua công tác lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm của Công ty Bóng Đèn Phích Nước Rạng Đông ta có thể rút ra một số nhận xét sau: - Công tác lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm là phù hợp với đặc điểm tiêu thụ sản phẩm của công ty. Mặc dù việc lập kế hoạch tiêu thụ là hết sức khó khăn, phải dựa trên nhiều căn cứ khoa học nhằm đưa ra được những con số tương đối chính xác với thực tế tiêu thụ. Điều này chứng tỏ công ty đã quan tâm đến việc mở rộng nghiên cứu thị trường để dự kiến nhu cầu tiêu dùng, từ đó có căn cứ để lập kế hoạch sản xuất; kế hoạch tiêu thụ sản phẩm đồng thời cũng tạo điều kiện mở rộng sản xuất, mở rộng thị trường, đẩy mạnh tốc độ tiêu thụ dẫn đến tăng doanh thu và chiếm lĩnh được thị phần. - Phương pháp lập kế hoạch tiêu thụ của công ty cụ thể, chi tiết cho từng tháng, từng quý phù hợp với đặc điểm tiêu thụ sản phẩm của công ty, thuận lợi cho công tác sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Công ty đã lập kế hoạch tiêu thụ dựa trên tình hình tiêu thụ thực tế năm trước, dự đoán nhu cầu năm kế hoạch và nhu cầu tại thời điểm trong năm nhằm đạt tới sự trùng khớp giữa sản xuất và tiêu thụ. Trong kế hoạch tiêu thụ sản phẩm năm 2000 của công ty, doanh thu dự kiến sẽ đạt 174.904.000.000đ, tăng 20.893.000.000đ so với năm 1999, với tỷ lệ tăng tương ứng là 113,56%. Ta thấy rằng doanh thu dự kiến năm 2000 tăng lên so với năm 1999 chủ yếu là do một số nguyên nhân cơ bản: - Số lượng đơn đặt hàng, hợp đồng tiêu thụ tăng lên làm cho doanh thu dự kiến tăng. - Số lượng sản phẩm dự kiến tiêu thụ tại thị trường trong nước năm 2000 tăng lên so với năm 1999 cũng làm cho doanh thu tiêu thụ dự kiến tăng lên, cụ thể: + Về số lượng sản phẩm tiêu thụ: Q đèn tròn tăng từ 23.202.000 chiếc (1999) lên 24.500.000 chiếc (2000) tức là dự kiến tăng tiêu thụ 1.298.000 chiếc với tỷ lệ tăng 105,59%; Q đèn huỳnh quang tăng từ 5.122.000 chiếc (1999) lên 6.500.000 chiếc (2000) tức là dự kiến tăng tiêu thụ 1.378.000 chiếc với tỷ lệ tăng 126,9%; Q ruột phích tăng từ 1.882.000 chiếc (1999) lên 2.000.000 chiếc (2000) tức là dự kiến tăng tiêu thụ 118.000 chiếc với tỷ lệ tăng 106,26%. Sự tăng lên về số lượng sản phẩm tiêu thụ và doanh thu tiêu thụ dự kiến là một biểu hiện đáng mừng, chứng tỏ công ty đã có nhiều thành tích trong việc giữ chữ tín với khách hàng, đồng thời cũng thể hiện sự năng động trong việc tìm kiếm bạn hàng mới và mở rộng thị trường tiêu thụ. + Về giá cả tính cho mỗi đơn vị sản phẩm tiêu thụ: nhìn chung giá cả của các sản phẩm đều có biến động so với thực tế năm 1999, song sự biến động là không đáng kể: Giá bóng đèn tròn dự kiến tăng từ 1812đ (1999) lên 2000 đ tức là tăng 118đ. Giá đèn huỳnh quang dự kiến giảm từ 13.585đ (1999) xuống 13.000đ (2000) tức là giảm 585đ. Giá ruột phích dự kiến giảm từ 22.522đ (1999) xuống 22.000đ (2000) tức là giảm 522đ. Việc dự kiến tăng hoặc giảm giá bán của các loại sản phẩm là dựa trên giá bán sản phẩm năm trước và dự đoán về tình hình biến động thị trường để đặt giá bán sản phẩm kỳ kế hoạch. + Về cơ cấu sản phẩm tiêu thụ: công ty tập trung vào sản xuất và tiêu thụ mặt hàng bóng đèn huỳnh quang do những đặc tính của loại sản phẩm này đang được người tiêu dùng ưa chuộng. Chính vì vây mà sản phẩm đèn huỳnh quang dự kiến tăng sản lượng lên 126,9% trong khi đó việc tiêu thụ các sản phẩm có tính ổn định hơn (đèn tròn là 105,59% và ruột phích là 106,26%). Như vậy, với sự tác động tổng hợp của 3 nhân tố: số lượng, kết cấu, giá cả sản phẩm tiêu thụ kỳ kế hoạch năm 2000 so với kỳ thực tế năm 1999 đã dẫn đến doanh thu tiêu thụ dự kiến trong năm 2000 tăng lên. Để thấy rõ được công tác thực hiện kế hoạch tiêu thụ của công ty ra sao ta đi nghiên cứu tình hình tổ chức thực hiện kế hoạch tiêu thụ của công ty trong năm 2000. 2.2.2 Tình hình tổ chức thực hiện kế hoạch tiêu thụ sản phẩm của công ty năm 2000. a. Phương thức bán hàng. Thông thường, công ty áp dụng phương thức bán hàng là bán buôn và bán lẻ. Nghiệp vụ bán buôn được thực hiện thông qua phương thức bán buôn qua kho với chứng từ ban đầu, kiêm phiếu xuất kho là chứng từ bán hàng duy nhất có giá trị làm căn cứ cho hạch toán nghiệp vụ bán buôn. Còn hàng hoá bán lẻ được thực hiện tại phòng thị trường của công ty. Phòng thống kê kế toán tài vụ sẽ theo dõi chung dựa theo các chứng từ do 2 phòng trên cung cấp. Từng loại sản phẩm được theo dõi trên sổ chi tiết riêng, kế toán tiêu thụ sản phẩm căn cứ vào các hoá đơn phiếu xuất kho phát sinh trong tháng để lập sổ. Công ty cũng thực hiện theo dõi tổng hợp tình hình tiêu thụ sản phẩm theo từng tháng, từng quý. Cuối mỗi quý, phòng tài vụ lại tập hợp kết quả tiêu thụ theo các chỉ tiêu số lượng, số tiền chi tiết cho từng loại sản phẩm. Như vậy,với các phương thức bán hàng linh hoạt, sáng tạo đã giúp công ty phát huy được thế mạnh trong vấn đề giữ được khách hàng truyền thống và không ngừng tìm kiếm bạn hàng mới. b. Một số biện pháp kinh tế tài chính đã được công ty sử dụng để đẩy mạnh tiêu thụ và tăng doanh thu. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, Công ty Bóng Đèn Phích Nước Rạng Đông đã từng bước đi lên khẳng định vị trí và uy tín của mình. Công ty đã nhận thức được rằng trong điều kiện cạnh tranh găy gắt với các sản phẩm ngoại nhập trên thị trường, thì cạnh tranh về chất lượng sản phẩm luôn được đưa lên vị trí hàng đầu. Vì vậy công ty luôn chú trọng đến việc nâng cao chất lượng sản phẩm ngay từ khâu đầu vào. Điều đó được thể hiện thông qua mục tiêu chất lượng đó là: duy trì và nâng cao hiệu lực của hệ thống quản lý chất lượng. Thường xuyên đánh giá nội bộ mỗi tháng một lần, ổn và cải tiến dần công nghệ sản xuất, không để xảy ra việc khiếu nại về chất lượng. Bên cạnh đó, công ty đã áp dụng một số biện pháp khác để giúp cho việc tiêu thụ sản phẩm được diễn ra nhanh chóng, thuận lợi hơn dựa trên việc phân tích, đánh giá tình hình tiêu thụ hiện tại cụ thể là: + Chính sách chiết khấu ưu đãi: công ty sử dụng đòn bẩy này để kích thích sức mua của các bạn hàng của mình, vì được hưởng mức chiết khấu bán hàng cao tỷ lệ với mức sản phẩm tiêu thụ nên các khách hàng càng tiêu thụ nhiều sản phẩm của công ty hơn. Biện pháp này có tính khả thi cao, có lợi cho cả hai bên. + Giá cả hàng hoá: Để thúc đẩy quá trình tiêu thụ của một số mặt hàng của công ty, công ty đã chủ động giảm giá bán đèn huỳnh quang từ 13.000đ xuống 12.500đ. Việc giảm giá này có tác động lớn làm tăng tiêu thụ vượt kế hoạch 100.050 sản phẩm. Ngoài ra, còn căn cứ vào thị trường tiêu thụ sản phẩm mà công ty có thể tăng giá bán khi thấy cầu về sản phẩm của công ty tăng. + Quảng cáo, giới thiệu sản phẩm: việc giới thiệu sản phẩm không chỉ được giới thiệu tại các cửa hàng mà còn được tiến hành thông qua việc tham dự các hội chợ triển lãm hàng công nghiệp, hàng tiêu dùng trong và ngoài nước. Công ty không chỉ đưa thông tin về sản phẩm, về hình ảnh của mình đến với khách hàng mà còn tiếp cận thông tin từ phía khách hàng, giúp cho công ty thực hiện tốt công tác sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, góp phần nâng cao doanh thu và lợi nhuận của công ty. c. Tình hình thực hiện kế hoạch tiêu thụ sản phẩm của công ty. Sau đây là tình hình tiêu thụ sản phẩm (biểu số 3) và tình hình thực hiện kế hoạch tiêu thụ sản phẩm (biểu số 4) của Công ty Bóng Đèn Phích Nước Rạng Đông trong năm 2000. Để hiểu rõ hơn những số liệu trên ta đi phân tích tình hình tiêu thụ sản phẩm, đó là quá trình nghiên cứu để đánh giá toàn bộ quá trình và kết quả hoạt động tiêu thụ sản phẩm ở công ty nhằm làm rõ chất lượng hoạt động và các nguồn tiềm năng cần khai thác, trên cơ sở đó đề ra các phương án,các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động sản phẩm và tiêu thụ sản phẩm ở công ty. Phân tích tình hình tiêu thụ không những là công cụ để phát hiện khả năng tiềm tàng trong hoạt động tiêu thụ mà còn là công cụ cải tiến cơ chế quản lý công tác tiêu thụ bởi nó chỉ rõ được nguyên nhân của các vấn đề trong quá trình hoạt động và có giải pháp cụ thể để cải tiến quản lý.Với ý nghĩa, vài trò quan trọng như vậy, nên để hiểu rõ công tác tiêu thụ sản phẩm ở công ty và đề ra phương hướng giải quyết kịp thời những tồn tại thì ta phải đi vào phân tích tình hình tiêu thụ thực tế sản phẩm của Công ty Bóng Đèn Phích Nước Rạng Đông năm 2000.Với số liệu ở hai biểu trên ta có vài nhận xét sau: + Trong biểu này, số lượng sản phẩm tiêu thụ kỳ kế hoạch là 33.000.000 sản phẩm các loại nhưng thực tế chỉ tiêu thụ được 31.483.140 sản phẩm tức là giảm 1.516.860 sản phẩm với tỷ lệ hoàn thành kế hoạch là 95,4%, trong đó: đèn tròn: - 1.344.910 chiếc đạt 94,5% kế hoạch đèn huỳnh quang: + 100050 chiếc đạt 101,54% kế hoạch ruột phích: - 272.000 chiếc đạt 86,4% kế hoạch + Về số lượng sản phẩm hàng tồn kho ở cả hai thời điểm đầu kỳ và cuối kỳ không có sự biến động đáng kể, riêng số lượng bóng đèn tròn tồn kho về cuối năm tăng mạnh từ 1.102.389 chiếc lên 2.440.454 chiếc do sức mua mặt hàng này cuối năm giảm mạnh không như dự đoán của công ty. Do vậy, để đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm này công ty cần tìm hiểu rõ nguyên nhân, để từ đó đề ra các biện pháp thích hợp như việc điều chỉnh lại kế hoạch sản xuất dựa trên việc xác định lại chính xác hơn nhu cầu thị trường, chính sách giá cả cũng phải được xem xét lại để đối phó với các mặt hàng nhập lậu trên thị trường của Trung Quốc, Đài Loan... + Về giá bán bình quân mỗi sản phẩm của công ty tăng lên 0,19% hay 24đ so với kế hoạch, cụ thể là: - Giá bán bình quân một chiếc bóng đèn tròn theo kế hoạch là 2000đ nhưng thực tế là 2070đ tức là tăng 70đ đạt 103,5% so với kế hoạch. - Giá bán bình quân một chiếc bóng huỳnh quang theo kế hoạch là 13000đ nhưng thực tế là 12500đ tức là giảm 500đ đạt 96,15% so với kế hoạch. - Giá bán bình quân một chiếc ruột phích theo kế hoạch là 22.000đ nhưng thực tế là 22.500đ tức là tăng 500đ đạt 102,27% so với kế hoạch. + Về doanh thu tiêu thụ thực tế giảm so với kế hoạch là 5.592.338.700đ bằng 96,8% so với kế hoạch, cụ thể: - Riêng đối với bóng đèn tròn, doanh thu thực tế tăng 1.527.036.300đ và bằng 103,29% so với kế hoạch. - Còn đối với đèn huỳnh quang, doanh thu thực tế giảm 1.999.375.000đ và bằng 97,63% so với kế hoạch. - Và ruột phích thì doanh thu thực tế giảm 5.120.000.000đ bằng 88,36% so với kế hoạch. Như vậy, doanh thu tiêu thụ thực tế của công ty so với kế hoạch đã không hoàn thành mặc dù có sự bù trừ về tăng giảm doanh thu của từng sản phẩm cụ thể. Chính vì vậy, khi bù trừ cho nhau vẫn làm cho tổng doanh thu tiêu thụ giảm, chỉ đạt có 96,8% so với kế hoạch. Qua biểu số 3 ta thấy, mặc dù đã có nhiều cố gắng trong công tác tiêu thụ nhưng công ty vẫn chưa hoàn thành được kế hoạch đặt ra trong năm 2000: + Về mặt số lượng tiêu thụ hầu hết kế hoạch các mặt hàng đều cao hơn so với thực tế trừ đèn huỳnh quang, điều đó do nhiều nguyên nhân như công tác lập kế hoạch chưa chính xác, chưa khoa học, chưa nắm bắt kịp thời thay đổi của nhu cầu thị trường, hơn nữa lại do rất nhiều sản phẩm cùng loại trên thị trường cạnh tranh quyết liệt với sản phẩm của công ty được tung ra nên ảnh hưởng rất lớn đến kế hoạch tiêu thụ của công ty. + Việc lập giá bán bình quân còn có sự chênh lệch tương đối lớn giữa kế hoạch và thực tế, điều này đã tác động không nhỏ tới doanh thu và tiêu thụ. Việc lập kế hoạch giá bán bình quân một bóng đèn tròn và ruột phích đều cao hơn so với thực tế, nhưng đèn huỳnh quang lại thấp hơn so với thực tế. Nguyên nhân ở đây là do sự biến động mạnh về tình hình cung cầu trên thị trường. Cầu hướng vào những sản phẩm mang tính thời đại (đèn huỳnh quang), giảm thị hiếu đối với mặt hàng đèn tròn và phích nước. Đây cũng là nguyên nhân mang tính khách quan, khiến công ty khó lường trước được nhưng cũng chứng tỏ việc chưa nắm rõ tình hình xu hướng biến động trên thị trường. Tuy không đạt được kế hoạch đặt ra nhưng với kết quả như trên cũng đã chứng tỏ sự cố gắng của tập thể lãnh đạo, công nhân viên chức trong công ty và các chính sách kinh tế tài chính đã được áp dụng đã phần nào phát huy tác dụng nhằm đẩy mạnh tốc độ tiêu thụ và nâng cao doanh thu bán hàng. Vấn đề đặt ra là ban lãnh đạo công ty phải đánh giá chính xác những mặt mạnh cần phát huy và nc tồn tại hạn chế trên cơ sở đó để củng cố, cải tiến và hoàn thiện các giải pháp nhằm mang lại hiệu quả cao hơn nữa trong công tác tiêu thụ sản phẩm. Chương III: Một số phương hướng và biện pháp chủ yếu để đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm ở Công ty Bóng Đèn Phích Nước Rạng Đông. 3.1 Phương hướng phát triển của công ty trong thời gian tới. Cùng với sự phát triển của xã hội, nhu cầu tiêu dùng đòi hỏi ngày một nâng cao. Xu hướng tiêu dùng nhằm vào các chủng loại hàng hoá phong phú về mẫu mã, chất lượng đảm bảo, giá cả phù hợp trong đó không ngoại trừ các sản phẩm của công ty. Để định hướng phát triển tiêu thụ sản phẩm và tăng doanh thu trong thời gian tới cần căn cứ vào mục tiêu chiến lược của ngành, của Tổng công ty sành sứ thuỷ tinh công nghiệp và căn cứ vào thực trạng tình hình phát triển sản xuất kinh doanh của công ty trong những năm gần đây cũng như căn cứ vào những kết quả bước đầu nghiên cứu thị trường, Công ty Bóng Đèn Phích Nước Rạng Đông đã xác định các định hướng kế hoạch cho những năm tới, cụ thể như sau: - Khẳng định quan điểm hướng trọng tâm vào thị trường trong nước với phương hướng đảm bảo nâng cao hiệu quả sản xuất, tăng nhanh tích luỹ, nâng cao chất lượng và đa dạng hoá các mặt hàng. - Hình thành mạng lưới tiêu thụ xuyên suốt trên phạm vi cả nước; tổ chức nghiên cứu kỹ thị trường, chú trọng mẫu mã để vươn tới chiếm lĩnh thị trường, đồng thời tổ chức mạng lưới tiêu thụ tại các thành phố lớn, khu công nghiệp trọng tâm, khu dân cư và vùng nông thôn... để đáp ứng yêu cầu của đông đảo người tiêu dùng, tạo thế cạnh tranh với hàng nhập từ Trung Quốc và các nước trong khu vực. - Bồi dưỡng và nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ kỹ thuật, công nhân lành nghề của công ty, đảm bảo tiếp thu nhanh chóng những tiến bộ của khoa học công nghệ ứng dụng vào sản xuất. - Tìm kiếm và phát triển nguồn lực tài chính lâu dài, ưu tiên các dự án đầu tư mở rộng và đầu tư mới nhằm ra tăng năng suất, đảm bảo đạt trình độ công nghệ mới. 3.2 Những giải pháp chủ yếu để đẩy mạnh tiêu thụ ở Công ty Bóng Đèn Phích Nước Rạng Đông. Qua quá trình nghiên cứu, phân tích và đánh giá tình hình tiêu thụ sản phẩm của Công ty Bóng Đèn Phích Nước Rạng Đông ta thấy trải qua quá trình gần 40 xây dựng, tồn tại và phát triển với một quy mô lớn và đội ngũ cán bộ, công nhân viên dày dạn kinh nghiệm nhưng tiêu thụ sản phẩm mới chỉ trở thành nhiệm vụ trong một vài năm gần đây. Do đó, vấn đề tiêu thụ sản phẩm của công ty không tránh khỏi những tồn tại và hạn chế nhất định. Những tồn tại và hạn chế đó đã cản trở rất nhiều đến công tác tiêu thụ sản phẩm, dẫn đến việc công ty không hoàn thành kế hoạch tiêu thụ sản phẩm trong năm 2000. Đó cũng là những vấn đề được quan tâm hàng đầu của công ty trên con đường tìm kiếm những biện pháp giải quyết tình hình tiêu thụ hiện nay. Để có thể đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm ở công ty đòi hỏi phải có sự tác động tổng hợp từ nhiều phía: kinh tế, kỹ thuật, tài chính, quản lý ... với vốn kiến thức đã được học ở trường, tôi đã cố gắng tìm hiểu, nghiên cứu về quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty nói chung và tập trung nghiên cứu quá trình tiêu thụ sản phẩm của công ty nói riêng. Từ đó tìm ra những tồn tại, vướng mắc của công ty trong quá trình tiêu thụ sản phẩm. Do đó, tôi xin phép được đóng góp một số ý kiến nhằm góp phần đẩy mạnh công tác tiêu thụ của công ty. 3.2.1 Hoàn thiện công tác lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm. Việc lập kế hoạch là công việc rất quan trọng và hoàn toàn cần thiết đối với công ty vì sản xuất với một quy mô lớn, khối lượng sản phẩm nhiều. Do việc lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm của công ty phụ thuộc chủ yếu vào tình hình tiêu thụ sản phẩm thực tế của năm trước, kết quả dự đoán nhu cầu và tình hình biến động trên thị trường năm kế hoạch do vậy công tác điều tra nghiên cứu thị trường có ý nghĩa rất quan trọng trong công tác lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm. Nó giúp công ty có thể nắm vững thị hiếu người tiêu dùng, sức mua của thị trường cũng như tình hình cạnh tranh trên thị trường đó. Căn cứ vào đó, công ty mới có thể tổ chức sản xuất, tiêu thụ theo phương châm bán ra những thứ thị trường cần chứ không phải bán ra thứ mình có. Trong thực tế việc lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm của công ty so với tình hình tiêu thụ thực tế vẫn còn có sự chênh lệch lớn về số lượng sản phẩm tiêu thụ (giảm 4,6%) so với kế hoạch. Nguyên nhân chính của thực trạng này là việc điều tra nghiên cứu thị trường trước khi lập kế hoạch chưa được công ty thực sự chú trọng, chưa sâu sát và chưa tính hết được mức độ ảnh hưởng sâu sắc của các nhân tố có liên quan đến tốc độ tiêu thụ sản phẩm của công ty. Do vậy, điều này không những ảnh hưởng đến tình hình tiêu thụ thực tế mà còn ảnh hưởng đến các bộ phận khác của công ty như kế hoạch sản xuất, kế hoạch tài chính... Chính vì vậy, công ty cần có một phương hướng điều tra nghiên cứu thị trường thật hợp lý và đưa nó trở thành một hoạt động thường xuyên. Có như vậy thì công tác lập kế hoạch sản xuất và kế hoạch tiêu thụ mới chính xác, phù hợp và đảm bảo sản xuất đến đâu tiêu thụ hết đến đó. Để thực hiện tốt điều này thì công ty nhất định phải nắm vững các thông tin cần thiết về kinh tế-xã hội, trình độ văn minh, sức tiêu thụ, phong tục tập quán của người tiêu dùng, mức độ thay đổi thị hiếu giữa các thời kỳ và sự cạnh tranh của các sản phẩm cùng loại khác trên thị trường. Để tổ chức tốt công tác này, công ty phải có một đội ngũ cán bộ điều tra, nghiên cứu thị trường, nắm vững các nghiệp vụ marketing nhằm thu thập, phân tích tổng hợp các thông tin,... để tránh sự cồng kềnh trong bộ máy quản lý thì công ty có thể sử dụng bộ phận nhân lực có sẵn ở phòng thị trường và phòng kế toán để đảm nhận công việc này. Để đảm bảo chất lượng của thông tin tổng hợp, công ty cần trang bị các phương tiện thông tin hiện đại như điện thoại, máy fax... các phương tiện lưu trữ, xử lý thông tin nhanh chóng, chính xác như máy vi tính. Hiện nay, công ty đang trên đường đầu tư chiều sâu nhằm trang bị hiện đại cho các phòng ban về các phương tiện đó. Ngoài ra, công ty cần quan hệ chặt chẽ với các cơ quan thông tin đại chúng khác như báo trí, phát thanh, truyền hình,... để thu thập bổ xung các thông tin cần thiết mà nhân viên của công ty chưa kịp hoặc chưa có khả năng thu thập được. Từ đó, công ty có thể sản xuất thử các sản phẩm theo các yêu cầu của khách hàng, đưa vào thị trường để tiếp tục thu nhận thông tin và làm xuất hiện những thông tin cần thiết phản hồi. Công ty cũng cần tăng cường điều tra trực tiếp người tiêu dùng trên diện rộng bằng các hình thức phát phiếu điều tra, đặt các hòm thư góp ý tại các cửa hàng... Công việc này đòi hỏi phải có thời gian và sự đầu tư hợp lý. Việc điều tra, nghiên cứu thị trường đòi hỏi phải diễn ra một cách thường xuyên liên tục nhằm giúp cho công ty có thể đưa ra những sản phẩm mới phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng hoặc cải tiến mẫu mã, chất lượng sản phẩm sẵn có của mình. Nhờ vậy góp phần làm cho công tác lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm được chính xác và khoa học hơn, phù hợp với kế hoạch sản xuất nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và mở ra nhiều phương hướng hoạt động mới cho công ty. 3.2.2 Hoàn thiện hơn nữa công tác tổ chức bán hàng. Với đối tượng khách hàng là các tô chức kinh tế, các công ty tạp hoá, bách hoá...thì công ty thực hiện giao hàng trước và thanh toán sau, cần phải chú ý đến vấn đề thanh toán để tránh xảy ra hiện tượng chậm thanh toán, cố tình dây dưa chiếm dụng vốn của công ty. Do vây, công ty cần đặt ra kỷ luật thanh toán chặt chẽ, yêu cầu các khách hàng thiết lập hệ thống sổ sách, chứng từ đầy đủ. Định kỳ hàng tháng, hàng quý công ty cần trực tiếp đi kiểm tra, phát hiện kịp thời các sai sót, yếu kém và có biện pháp khắc phục kịp thời. Tuy nhiên, công ty cũng cần có các hình thức hướng dẫn, tạo mọi điều kiện để khách hàng có thể thanh toán tiền hàng cho công ty nhanh và đúng hạn. Bên cạnh đó, phải nâng cao chất lượng công tác bán hàng, giao dịch bán hàng, phục vụ khách hàng ân cần, chu đáo là rất cần thiết trong giai đoạn hiện nay, công ty có thể giới thiệu trực tiếp sản phẩm của mình nếu là khách hàng mới, đưa khách hàng đi thăm quan quy trình sản xuất để họ có thể kiểm tra được chất lượng của từng khâu sản xuất. Khi có sản phẩm mới hoặc sản phẩm đã được cải tiến, công ty cũng cần giới thiệu trực tiếp với khách hàng trong quá trình giao dịch để khách hàng thấy rõ ưu điểm của nó, những nét mới trong công tác cải tiến. 3.2.3 Nâng cao chất lượng, đa dạng hoá và cải tiến mẫu mã sản phẩm. Để nâng cao sức cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại trên thị trường thì việc nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mã là điều có tính chất chiến lược. Sản phẩm của công ty hiện nay về chất lượng, hình dáng, mẫu mã không thua kém gì hàng ngoại nhập. Nhưng vấn đề lâu dài là để cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại trên thị trường thì chất lượng phải không ngừng nâng cao, mẫu mã phải thường xuyên được cải tiến nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao của xã hội, do đó công ty cần có hướng đầu tư để nâng cao chất lượng của các yếu tố đầu vào. a. Đầu tư, mua sắm, sửa chữa và bảo dưỡng máy móc thiết bị. Đầu tư đổi mới trang thiết bị đó là đầu tư theo chiều sâu nhằm tăng năng lực sản xuất, nâng cao trình độ kỹ thuật của máy móc thiết bị, hiện đại dây chuyền công nghệ tiên tiến, liên quan trực tiếp đến việc nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng khả năng tiêu thụ sản phẩm sản xuất ra. Do đó tăng khả năng cạnh tranh, khả năng tiêu thụ của công ty. Trong điều kiện vốn có hạn, lợi nhuận thu được từ hoạt động sản xuất kinh doanh chưa nhiều thì việc đầu tư mới trang thiết bị còn gặp nhiều khó khăn, công ty có thể đầu tư từng bước, từng dây chuyền tiến tới hoàn thiện đồng bộ dây chuyền sản xuất là điều rất cần thiết. Bên cạnh đó công ty cũng cần duy trì và nâng cao năng sản xuất của máy móc thiết bị cũ, đảm bảo cho sản xuất được liên tục, đáp ứng đủ sản phẩm cả về chất lượng và số lượng. Đối với những máy móc thiết bị mới, hiện đại, thời gian sử dụng chưa lâu thì việc duy trì, bảo dưỡng là rất thuận lợi. Tuy nhiên, vẫn phải có một đội ngũ công nhân sửa chữa tay nghề cao, làm việc nhiệt tình, tích cực sáng tạo để khắc phục khó khăn. Để đảm bảo cho công tác sửa chữa được tiến hành tốt, công ty cần phải tính toán, dự trù và đảm bảo vốn cho công tác sửa chữa và điều quan trọng là phải tính toán đến hiệu quả của việc sử dụng vốn cho công tác sửa chữa đó. Nếu như chi phí của việc sửa chữa máy móc là quá lớn thì công ty cần loại bỏ máy móc thiết bị này và thay đổi bằng máy móc thiết bị hiện đại hơn. Cùng với việc sửa chữa, công ty cần đảm bảo tốt chế độ bảo dưỡng máy móc theo đúng yêu cầu kỹ thuật và thực trạng của máy móc thiết bị. Công tác bảo dưỡng cần gắn liền với từng phân xưởng sản xuất. Làm tốt công tác này vừa đảm bảo duy trì năng lực sản xuất vừa hạn chế sự hỏng hóc của máy móc thiết bị, tiết kiệm chi phí sửa chữa. b. Đảm bảo sử dụng vật tư đúng về số lượng và chất lượng quy định. Trong quá trình sản xuất ở công ty, yếu tố nguyên vật liệu được xem là vấn đề then chốt quy định toàn bộ quá trình sản xuất của công ty cũng như quy định chất lượng của sản phẩm được sản xuất ra. Do vậy, cùng với việc kiểm tra kỹ thuật, công ty cũng cần kiểm tra lượng vật tư từ khâu nhập đến khâu xuất nhằm đảm bảo cho vật tư được sử dụng đúng chất lượng quy định, đúng các định mức kinh tế-kỹ thuật, tránh mọi hiện tượng gian lận, bớt xén, thay thế vật tư làm ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm. Bên cạnh việc đảm bảo về chất lượng, thì về mặt số lượng, công ty cũng cần có kế hoạch dự trữ vật tư để phục vụ kịp thời, liên tục cho công tác sản xuất, tránh hiện tượng ngừng sản xuất do thiếu vật tư, hay khi có cầu về vật tư quá cao dẫn đến giá vật tư bị đẩy lên làm ảnh hưởng đến giá thành sản xuất. Do vậy, công ty cũng cần quan tâm hơn đến hệ thống kho tàng, bảo quản vật tư, có những biện pháp phòng ngừa để tránh xảy ra rủi ro đáng tiếc. c. Nâng cao trình độ, năng lực tay nghề của công nhân sản xuất. Công nhân sản xuất là người trực tiếp vận hành máy móc thiết bị, cho nên ngay cả trong điều kiện sản xuất tự động hoá thì máy móc vẫn chịu sự điều khiển của con người. Trong điều kiện sản xuất hiện nay, với quy trình công nghệ sản xuất hiện đại, sản xuất theo dây chuyền nên rất cần những người có trình độ để có thể điều khiển được máy móc nhằm đảm bảo đúng tiến độ sản xuất và chất lượng sản phẩm. Vì vậy, cần thiết phải nâng cao năng lực, trình độ tay nghề của công nhân sản xuất và để thực hiện điều này công ty có thể áp dụng các hình thức khác nhau như: + Mở các lớp đào tạo, hướng dẫn nghiệp vụ kỹ thuật ngắn hạn. + Tổ chức các buổi hội thảo, rút kinh nghiệm, báo cáo kinh nghiệm trong phạm vi từng phân xưởng cũng như toàn công ty. + Huấn luyện kỹ thuật, rút kinh nghiệm trực tiếp từ máy móc thiết bị, phương tiện sản xuất. + Tổ chức hội thi tay nghề giỏi một cách thường xuyên để công nhân tự phấn đấu, học hỏi nâng cao tay nghề, tích luỹ kinh nghiệm sản xuất. Bên cạnh đó, công ty cũng cần cải thiện điều kiện làm việc cho công nhân như điều kiện nhà xưởng, ánh sáng, điều kiện vệ sinh môi trường...để công nhân có khả năng phát huy và nâng cao tay nghề. d. Đa dạng hoá và cải tiến mẫu mã sản phẩm. Song song với việc nâng cao chất lượng thì việc đa dạng hoá và cải tiến mẫu mã sản phẩm cho phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng là việc làm cần thiết bởi trên thị trường hiện nay với sự phong phú và đa dạng của các sản phẩm nhập ngoại cùng loại đòi hỏi Công ty Bóng Đèn Phích Nước Rạng Đông phải đa dạng hoá và cải tiến mẫu mã sản phẩm của chính mình thì mới đủ sức cạnh tranh. Trên thực tế hiện nay, sản phẩm của công ty về chủng loại và mẫu mã, kiểu dáng là khá phong phú nên đã người tiêu dùng rất ưa chuộng. Tuy nhiên không thể dừng lại ở đó bởi vì sản phẩm của công ty là sản phẩm tiêu dùng do đó phải luôn phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng nếu không sẽ bị lỗi mốt và lạc hậu. Việc đa dạng hoá sản phẩm có thể dựa trên cơ sở tập trung nghiên cứu thị trường, dự đoán nhu cầu để đưa ra mẫu mã mới. Ngoài việc đa dạng hoá sản phẩm, công ty cũng cần cải tiến mẫu mã, kiểu dáng, màu sắc và hình thức trang trí sản phẩm nhằm tạo ra những sản phẩm có sức hấp dẫn cao. 3.2.4 Tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm. Trên thực tế cho thấy, giá bán sản phẩm của Công ty Bóng Đèn Phích Nước Rạng Đông hiện nay trên thị trường còn tương đối cao so với các sản phẩm nhập lậu từ nước ngoài. Mặc dù chất lượng sản phẩm có cao, có uy tín lâu năm chăng nữa thì vẫn ảnh hưởng đến tốc độ tiêu thụ sản phẩm của công ty. Do vậy, để có thể cạnh tranh được với các sản phẩm cùng loại trên thị trường, một trong những phương pháp hữu hiệu đó là hạ thấp giá bán bằng cách tiết kiệm chi phí và hạ giá thành sản phẩm. Để làm được việc đó, công ty có thể áp dụng một số biện pháp sau: a. Hạ thấp chi phí nguyên vật liệu. Việc phấn đấu giảm thấp chi phí nguyên vật liệu có ý nghĩa rất lớn đối với việc hạ thấp giá thành sản phẩm. Vì vậy, điều quan trọng là phải lựa chọn nguồn nhập vật tư tối ưu. Cùng với việc lựa chọn nguồn vật tư tối ưu, cần đảm bảo cung ứng vật tư đầy đủ, kịp thời, đúng chất lượng tránh việc dự trữ quá nhiều gây ứ đọng vốn cũng như tránh tình trạng thiếu vật tư làm gián đoạn sản xuất. Cùng với việc kiểm tra kỹ thuật, công ty cần kiểm tra tài chính trong việc sử dụng vật tư, từ đó đề ra những biện pháp thưởng phạt vật chất thích đáng nhằm khuyến khích việc phát huy sáng kiến, cải tiến, sử dụng tiết kiệm vật tư, tận dụng phế liệu và hạn chế ngăn ngừa việc sử dụng vật tư sai quy cách, lãng phí để hao hụt, mất mát vật tư. Thông qua tình hình xuất, nhập vật tư, thực hiện việc kiểm tra đối với các khâu mua sắm, kiểm nhận vật tư, bảo quản dự trữ, xuất vật tư dùng vào sản xuất...nhằm ngăn chặn tình trạng vật tư bị mất mát, hư hỏng và kém phẩm chất. b. Tổ chức quản lý, phân công lao động hợp lý, sử dụng có hiệu quả chi phí tiền lương, thưởng. Trong công tác bố trí lao động, công ty cần sắp xếp lao động theo đúng trình độ chuyên môn, tay nghề; cân đối lao động giữa các phân xưởng để có thể phát huy tối đa năng suất lao động của từng người đồng thời khơi dậy tiềm năng trong mỗi người, giúp họ gắn bó, cống hiến sức lực và tài năng cho công ty. Việc tiết kiệm thời gian lao động cũng cần phải áp dụng bằng cách bố trí hợp lý dây chuyền sản xuất để tinh giảm lao động, kết hợp với quản lý chặt chẽ tại các bộ phận trên cơ sở áp dụng các phương án quản lý như: dùng thẻ chấm công cho khối phòng ban, dùng cách bỏ thẻ hoặc thẻ ra vào đối với các phân xưởng sản xuất. Hơn nữa, phải tăng cường việc kiểm tra, giám sát việc thực hiện nội quy kỷ luật lao động, khắc phục việc đi lại lộn xộn, sử dụng lãng phí thời gian lao động từ đó nâng cao hoạt động công việc của từng người. Công ty thực hiện hình thức khoán lương cho người công nhân sản xuất, giúp phân xưởng chủ động trong quản lý, sử dụng tiết kiệm lao động từ đó tăng thu nhập. Sử dụng tiền thưởng phải phát huy được vài trò đòn bẩy của nó, công ty cần áp dụng nhiều hình thức thưởng như thưởng do tăng năng suất lao động, do sử dụng tiết kiệm vật tư, do có phát minh sáng kiến... nhưng cũng cần sử phạt đối với những trường hợp vi phạm kỷ luật lao động, làm lãng phí vật tư, làm hư hỏng sản phẩm... qua đó thúc đẩy việc tăng năng suất lao động, sử dụng tiết kiệm vật tư và hạ giá thành sản phẩm. c. Quản lý bảo dưỡng tốt máy móc, đảm bảo điều kiện kỹ thuật cho máy móc thiết bị, áp dụng nhanh những tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ vào sản xuất. Để duy trì và phát huy năng lực sản xuất của máy móc thiết bị cần phải bảo dưỡng tốt theo đúng chế độ và tình trạng của máy móc thiết bị như nhiệt độ, độ ẩm, độ thoáng gió...Máy móc phải được vận hành đúng quy trình kỹ thuật và phải được phát huy tối đa công suất thiết kế để giảm chi phí khấu hao trên đơn vị sản phẩm. Cố gắng huy động tối đa khả năng tự sửa chữa của công ty, tận dụng thời gian nghỉ theo chế độ để sửa chữa nhằm hạn chế thiệt hại do ngừng sản xuất, tiết kiệm chi phí sửa chữa. Tuy nhiên, cũng phải tuỳ từng trường hợp mà công ty có thể đầu tư mua sắm từng bộ phận tiến tới đồng bộ hoá dây chuyền sản xuất hiện đại hoặc cũng có thể mạnh dạn huy động vốn để đầu tư, áp dụng nhanh chóng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ vào sản xuất dẫn đến việc hao phí nguyên vật liệu ngày càng ít, lực lượng lao động dùng vào sản xuất cũng được giảm bớt, từ đó góp phần không nhỏ trong việc tiết kiệm chi phí và hạ giá thành sản phẩm. 3.2.5 Tăng cường sử dụng triệt để các biện pháp tài chính để thúc đẩy tiêu thụ. Để tăng nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm thì công ty đã sử dụng nhiều biện pháp tài chính và đã đem lại hiệu quả lớn trong công tác tiêu thụ, biểu hiện qua số lượng sản phẩm được bán ra hàng năm. Trong các biện pháp đó, có biện pháp được thực hiện tốt, có biện pháp còn chưa phát huy hết mặt tích cực của nó. Do vậy, công ty cần sử dụng phối hợp triệt để các biện pháp, duy trì các biện pháp đang thực hiện tốt, khắc phục hạn chế của những biện pháp tài chính có tính đòn bẩy, đó là: - Chiết khấu bán hàng: Sử dụng chiết khấu bán hàng nhằm thúc đẩy thanh toán tiền nhanh, hạn chế việc thanh toán chậm, nợ nần dây dưa, chiếm dụng vốn của công ty. Tỷ lệ chiết khấu phải được quy định sao cho thích hợp, không nên cố định trong một thời gian dài và phải được đặt trong sự liên hệ với lãi suất ngân hàng. Bởi vì khi khách hàng trả chậm, trong thời gian chờ đợi khách hàng trả tiền, công ty sẽ phải đi vay vốn để tiếp tục sản xuất kinh doanh. Vì vậy, với việc bớt cho khách hàng một số tiền nhất định nhỏ hơn tiền lãi vay vốn để có thể thu được tiền ngay vẫn có lợi hơn việc đợi khách hàng trả toàn bộ số tiền. Bên cạnh đó, công ty nên bổ xung thêm các tỷ lệ chiết khấu khác nhau và chúng cần thay đổi linh hoạt để phù hợp với tình hình thực tế và căn cứ vào lãi suất ngân hàng: nếu khách hàng thanh toán ngay thì được hưởng tỷ lệ chiết khấu cao, nếu thanh toán trong thời gian ngắn được hưởng tỷ lệ chiết khấu thấp hơn và quá thời hạn đó thì khách hàng sẽ không được hưởng chiết khấu mà thậm chí còn có thể bị phạt theo lãi suất quá hạn của ngân hàng trên số tiền trả chậm đó. Với tỷ lệ chiết khấu như vậy sẽ giúp cho công ty nâng cao tỷ lệ doanh thu tiền ngay, hạ thấp doanh thu trả chậm, hạn chế nợ nần, làm cho quá trình tiêu thụ sản phẩm diễn ra nhanh chóng hơn và vòng quay vốn cũng nhanh hơn, làm tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh. - Giảm giá hàng bán: Công ty có thể giảm giá hàng bán trong trường hợp khách hàng mua khối lượng sản phẩm lớn, hoặc đối với những khách hàng mới nhằm tạo uy tín trên cơ sở khuyến khích về vật chất để biến họ từ khách hàng mới trở thành khách hàng thường xuyên và liên tục. Công ty giảm giá trong kỳ hạn ngắn với mục đích nhằm đẩy mạnh tiêu thụ trong thời kỳ hàng hoá của công ty tiêu thụ chậm thường vào các quý II và III, do vậy công ty có thể áp dụng một đợt giảm giá trong khoảng 2 đến 3 tuần. Tuy nhiên, việc giảm giá và định ra tỷ lệ giảm giá phải dựa trên cơ sở tính toán xem cần tăng tiêu thụ lên bao nhiêu sản phẩm thì mức tăng doanh thu mới bù đắp được mức giảm doanh thu do giảm giá bán. Muốn vậy phải làm tốt công tác thăm dò thị trường, nắm chắc nhu cầu và sức mua thì mới có thể dự đoán được số sản phẩm tiêu thụ. Việc áp dụng giảm giá hàng bán cho khách hàng mua khối lượng sản phẩm lớn cũng cần có một mức chuẩn nhất định để thuận tiện trong việc vận dụng, tránh tạo ra khe hở làm xuất hiện gian lận thương mại, gây ra tình trạng tiêu cực trong công tác tiêu thụ, để biện pháp này phát huy vai trò là đòn bẩy tài chính giúp đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm. - Hồi khấu cho khách hàng làm tốt công tác thanh toán: Hàng tháng hoặc hàng quý, công ty nên lập bảng theo dõi tình hình thanh toán công nợ cho từng khách hàng, qua đó vừa giám sát chặt chẽ quá trình thu tiền hàng, xử lý kịp thời những trường hợp nợ đến hạn trả, đồng thời đối chiếu, lựa chọn ra những khách hàng làm tốt công tác thanh toán thì cho hưởng một khoản giảm trừ nhất định tính trên tổng số tiền khách hàng đã thanh toán áp dụng trong kỳ hồi khấu. Ngoài ra, công ty có thể áp dụng hình thức khuyến mại, tặng quà cho khách hàng mua số lượng lớn, phát lịch cho khách hàng,... Tất cả các biện pháp tài chính trên đều có tác dụng rất lớn trong việc đẩy mạnh tiêu thụ và tăng doanh thu. Công ty cần sử dụng triệt để và có hiệu quả chúng trên cơ sở đánh giá đúng tình hình sản xuất kinh doanh của đơn vị mình, tình hình thị trường, tình hình các đối thủ cạnh tranh,... để không ngừng đẩy mạnh khối lượng sản phẩm bán ra. 3.2.6 Xây dựng chiến lược quảng cáo tổng hợp nhiều hình thức nhưng tiết kiệm, hiệu quả. Quảng cáo, giới thiệu sản phẩm là biện pháp tích cực để đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm, với nhiều hình thức khác nhau và cần phải có những khoản chi phí rất lớn. Chính vì vậy, việc quảng cáo phải thực hiện tiết kiệm và có hiệu quả. Công ty có thể lựa chọn hình thức quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng như đài phát thanh, đài truyền hình để đưa thông tin sản phẩm đến nhiều đối tượng khách hàng ở nhiều vùng địa lý khác nhau. Bên cạnh đó, công ty có thể quảng cáo trên báo chí, các ấn phẩm, các đơn chào hàng hay thông qua các bài viết, hình ảnh giới thiệu về công ty nhằm đưa tới khách hàng thông tin về sự tồn tại và phát triển của công ty. Ngoài ra, công ty có thể sử dụng hình thức quảng cáo như panô, áp phích đặt ở những nơi thuận tiện sao cho khách hàng dễ thấy và tìm đến sản phẩm của công ty hoặc cũng tiến hành qua các hình thức tài trợ trong các cuộc thi đấu thể thao, các chương trình giải trí, các hoạt động văn hoá xã hội... Hơn nữa, công ty cần tham gia vào các hội trợ triển lãm hàng tiêu dùng, hàng công nghiệp trong nước và quốc tế vì đây là cơ hội tốt để công ty đạt được nhiều mục đích: quảng cáo giới thiệu sản phẩm của mình với khách hàng trong và ngoài nước, nắm bắt thông tin từ phía người tiêu dùng, gặp gỡ, trao đổi thông tin với bạn hàng, học tập bán hàng từ các đơn vị bạn, ký kết hợp đồng với khách hàng... Như vậy, có thể nói việc phân tích, đánh giá tình hình tiêu thụ sản phẩm của Công ty Bóng Đèn Phích Nước Rạng Đông là hoàn toàn cần thiết, qua đó công ty tự đánh giá được những mặt mạnh của mình để tiếp tục phát huy đồng thời chỉ ra những mặt hạn chế còn tồn tại, tìm hiểu rõ nguyên nhân để rút ra những bài học kinh nghiệm và tìm ra những giải pháp tối ưu nhằm khắc phục những hạn chế đó. Nếu công ty làm tốt việc này thì công tác tiêu thụ sẽ đạt được hiệu quả cao hơn và khối lượng sản phẩm bán ra ngày một nhiều hơn. Và đó cũng chính là ý kiến đóng góp của tôi nhằm góp phần đẩy mạnh khả năng tiêu thụ và tăng doanh thu tiêu thụ sản phẩm ở Công ty Bóng Đèn Phích Nước Rạng Đông. Kết luận Hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường thì vấn đề tiêu thụ được xem là vấn đề quan trọng nhất của bất cứ một doanh nghiệp nào, nó bao trùm từ khâu đầu đến khâu cuối. Ta không thể hiểu một cách giản đơn “tiêu thụ sản phẩm là đầu ra” bởi vì sản phẩm muốn được người tiêu dùng chấp nhận lại do chất lượng, mẫu mã và giá cả của sản phẩm đó quyết định. Những yếu tố này chủ yếu bị chi phối bởi đầu vào của sản xuất, tức là doanh nghiệp phải tổ chức tốt quá trình sản xuất. Bên cạnh đó, cần phải tổ chức tốt cả công tác tiêu thụ sản phẩm, có như vậy sản xuất và tiêu thụ sản phẩm mới diễn ra nhịp nhàng, cân đối, tạo điều kiện cho việc thực hiện tái sản xuất thuận lợi và đem lại hiệu quả cao trong sản xuất kinh doanh. Trước sự cạnh tranh ngày càng gay gắt của nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp được thành lập càng nhiều hơn, do vậy xuất hiện các sản phẩm cùng loại của các công ty trong và ngoài nước cũng ngày một tăng. Do vậy, vấn đề tiêu thụ sản phẩm không hoàn toàn dễ dàng chút nào. Với tình hình đó,việc nghiên cứu hoạt động tiêu thụ sản phẩm đối với Công ty Bóng Đèn Phích Nước Rạng Đông là hoàn toàn cần thiết. Hơn nữa, trước tình trạng sản xuất kinh doanh khó khăn trong mấy năm vừa qua, thị trường tiêu thụ sản phẩm của công ty bị thu hẹp, việc đề xuất ra một số biện pháp và tổ chức vận dụng chúng một cách đúng đắn và kịp thời nhằm đẩy mạnh khả năng tiêu thụ sản phẩm tại công ty là một vấn đề cấp thiết. Trong đề tài này, vận dụng những kiến thức đã được học trong nhà trường và thời gian được tìm hiểu thực tế tại Công ty Bóng Đèn Phích Nước Rạng Đông, tôi đã cố gắng trình bày theo quan điểm của tài chính doanh nghiệp về những vấn đề cơ bản trong công tác tiêu thụ và tăng doanh thu tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp nói chung đồng thời phân tích, đánh giá tình hình tiêu thụ sản phẩm của công ty. Từ đó mạnh dạn đề xuất một số giải pháp thúc đẩy tiêu thụ và tăng doanh thu tiêu thụ sản phẩm ở Công ty Bóng Đèn Phích Nước Rạng Đông. Mặc dù còn nhiều hạn chế về trình độ, thời gian thực tập và kinh nghiệm thực tế chưa nhiều nên không thể tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong được sự giúp đỡ, chỉ bảo của các thầy cô giáo trong tổ bộ môn, của các cán bộ công ty để bài viết được hoàn chỉnh. Tôi cũng hy vọng rằng sự đóng góp nhỏ bé này sẽ giúp đỡ phần nào cho công ty trong công tác tiêu thụ. tài liệu tham khảo Giáo trình quản trị tài chính doanh nghiệp-trường Đại học Kinh tế quốc dân (nhà xuất bản thống kê 1999). Giáo trình kế toán tài chính-trường Đại học Tài chính kế toán (nhà xuất bản Tài chính 2000). Kinh tế chính trị Mac-Lenin (nhà xuất bản chính trị quốc gia 1998). Giáo trình marrketing-trường Đại học Kinh tế quốc dân (nhà xuất bản thống kê 1999). Quản trị bán hàng-James M.Comer (nhà xuất bản thống kê 1995). Chiến lược thị trường-John Show (nhà xuất bản thế giới 1995). Quản trị doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường-trung tâm Pháp Việt đào tạo về quản lý (CFVG 1999). Tạp chí thời báo kinh tế Việt Nam số 1-2001. Sơ đồ 1Phân xưởng bóng đèn Phân xưởng phích nước Phân xưởng đột dập Phân xưởng cơ động Phân xưởng thuỷ tinh Kế toán trưởng Phòng dịch vụ đời sống Phòng quản lý kho Phòng tổ chức điều hành sản xuất Phòng bảo vệ Phòng thị trường Phòng thống kê kế toán Phòng KCS Văn phòng GĐ và đầu tư phát triển PGĐ điều hành sản xuất và nội chỉnh PGĐ kỹ thuật và đầu tư phát triển Giám đốc : Nguồn: Phòng Tổ chức Phân xưởng phích nước Phân xưởng bóng đèn Phân xưởng cơ động Phân xưởng đột dập Nguyên liệu cho sản xuất Phân xưởng thuỷ tinh Sản phầm bóng đèn Sản phẩm phích nước Sơ đồ 2: Biểu số 1: Kế hoạch tiêu thụ sản phẩm năm 2000. Tên sản phẩm Số lượng (1000c) Chia ra các quý năm 2000 (1000c) Giá trị Tiêu thụ 1999 Kế hoạch 2000 So sánh (%) I II III IV Đơn giá bq 1999 Doanh thu tiêu thụ 1999 (1000đ) Đơn giá bq kế hoạch Doanh thu dự kiến 2000 (1000đ) So sánh (%) Bóng đèn tròn 23.202 24.500 105,59 9.500 4.500 3.000 7.500 1.812 42.042.024 2.000 46.404.000 110,37 Đèn huỳnh quang 5.122 6.500 126,9 2.500 1.000 1.000 2.000 13.585 69.582.370 13.000 84.500.000 121,43 Phích nước 1.882 2.000 106,26 800 200 300 700 22.522 42.386.606 22.000 44.000.000 103,8 Tổng 30.206 33.000 12.800 5.700 4.300 10.200 154.011.000 174.904.000 113,56 Biểu số 2: Kế hoạch tiêu thụ sản phẩm quý I năm 2000. Tên sản phẩm Kế hoạch quý I (1000c) Chia ra các tháng Giá bán bình quân kế hoạch Doanh thu dự kiến (1000đ) Tháng 1 Tháng 2 Tháng 3 Bóng đèn tròn 9.500 4.000 3.000 2.500 2.000 19.000.000 Đèn huỳnh quang 2.500 1.000 1.000 500 13.000 32.500.000 Phích nước 800 350 300 150 22.000 17.600.000 Tổng 12.800 5.350 4.300 3.150 69.100.000 Nguồn: Phòng Kế toán Biểu số 3: Tình hình tiêu thụ sản phẩm năm 2000. Tên sản phẩm Tồn đầu kỳ (chiếc) Nhập trong kỳ (chiếc) Xuất trong kỳ (chiếc) Giá bán bình quân (đ) Doanh thu tiêu thụ (1000đ) Tồn cuối kỳ (chiếc) Bóng đèn tròn 1.102.389 24.493.155 23.155.090 2.070 47.931.036,3 2.440.454 Đèn huỳnh quang 426.621 6.655.080 6.600.050 12.500 82.500.625 481.651 Phích nước 218.830 1.880.725 1.728.000 22.500 38.880.000 371.555 Tổng 1.747.840 33.028.960 31.483.140 169.311.661,3 3.293.660 Nguồn: Phòng Kế toán Biểu số 4: Tình hình thực hiện kế hoạch tiêu thụ năm 2000. Tên sản phẩm Số lượng tiêu thụ (1000c)

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc10674.DOC