Tài liệu Đề tài Thực trạng về cơ chế điều hành tỷ giá ở Việt Nam: - 1 -
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU trang 1
CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI trang 3
1.1 Khái niệm tỷ giá trang 3
1.2 Các loại tỷ giá trang 4
1.2.1 Phân loại theo đối tượng trang 4
1.2.2 Tỷ giá thực và tỷ giá danh nghĩa trang 5
1.2.3 Tỷ giá kinh doanh ngoại tệ trang 6
1.3 Các cơ chế điều hành tỷ giá trang 7
1.3.1 Hệ thống tỷ giá cố định trang 7
1.3.2 Hệ thống tỷ giá thả nổi trang 7
1.3.3 Hệ thống tỷ giá hỗn hợp giữa cố định và thả nổi trang 8
1.3.4 Các chế độ tỷ giá hiện hành trang 9
1.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ giá trang 13
1.4.1 Quan hệ cung cầu trang 13
1.4.2 Mức độ lạm phát trang 14
1.4.3 Lãi suất ngân hàng trang 15
1.4.4 Thu nhập tương đối trang 16
1.4.5 Kiểm soát của Chính phủ trang 16
1.4.6 Kỳ vọng trang 17
1.4.7 Những nhân tố khác trang 17
1.5 Ảnh hưởng của tỷ giá đến nền kinh tế trang 18
1.5.1 Tỷ giá hối đoái và ng...
92 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1785 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Thực trạng về cơ chế điều hành tỷ giá ở Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
- 1 -
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU trang 1
CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI trang 3
1.1 Khái niệm tỷ giá trang 3
1.2 Các loại tỷ giá trang 4
1.2.1 Phân loại theo đối tượng trang 4
1.2.2 Tỷ giá thực và tỷ giá danh nghĩa trang 5
1.2.3 Tỷ giá kinh doanh ngoại tệ trang 6
1.3 Các cơ chế điều hành tỷ giá trang 7
1.3.1 Hệ thống tỷ giá cố định trang 7
1.3.2 Hệ thống tỷ giá thả nổi trang 7
1.3.3 Hệ thống tỷ giá hỗn hợp giữa cố định và thả nổi trang 8
1.3.4 Các chế độ tỷ giá hiện hành trang 9
1.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ giá trang 13
1.4.1 Quan hệ cung cầu trang 13
1.4.2 Mức độ lạm phát trang 14
1.4.3 Lãi suất ngân hàng trang 15
1.4.4 Thu nhập tương đối trang 16
1.4.5 Kiểm soát của Chính phủ trang 16
1.4.6 Kỳ vọng trang 17
1.4.7 Những nhân tố khác trang 17
1.5 Ảnh hưởng của tỷ giá đến nền kinh tế trang 18
1.5.1 Tỷ giá hối đoái và ngoại thương trang 18
1.5.2 Tỷ giá hối đoái và sản lượng, công ăn việc làm, lạm phát trang 19
1.6 Kinh nghiệm điều hành của các quốc gia trang 20
1.6.1 Kinh nghiệm điều hành tỷ giá ở Trung Quốc trang 20
1.6.2 Kinh nghiệm điều hành tỷ giá ở Thái Lan trang 21
1.6.3 Kinh nghiệm điều hành tỷ giá ở Chi Lê trang 21
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH TỶ GIÁ CỦA VIỆT
NAM
2.1 Giai đoạn tỷ giá cố định trang 23
- 2 -
2.1.1 Giai đoạn trước năm 1989 trang 23
2.1.2 Giai đoạn 1989-1992 trang 28
2.2 Giai đoạn điều chỉnh theo tỷ giá liên ngân hàng trang 33
2.2.1 Từ 1993-1999 trang 33
2.2.2 Giai đoạn từ tháng 02/1999 đến nay trang 38
2.3 Nhận xét & yêu cầu hoàn thiện cơ chế điều hành tỷ giá của Việt Nam
2.3.1 Ưu nhược điểm trang 42
2.3.2 Yêu cầu hoàn thiện cơ chế điều hành tỷ giá trang 45
CHƯƠNG 3 XÂY DỰNG CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH TỶ GIÁ CỦA VIỆT
NAM
3.1 Mục tiêu của chính sách tỷ giá trang 51
3.2 Lộ trình thực hiện cơ chế điều hành tỷ giá của Việt Nam trong gia đoạn 2005-
2015
3.2.1 Trong trung hạn (2005-2010) trang 54
3.2.2 Trong dài hạn trang 55
3.3 Những giải pháp hổ trợ cho lộ trình trang 57
3.3.1 Vận dụng dự báo tỷ giá trang 57
3.3.2 Chính sách lãi suất trang 58
3.3.3 Phối hợp các chính sách tài chính tiền tệ trang 59
3.3.4 Các giải pháp khác trang 66
KẾT LUẬN trang 68
PHỤ LỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- 3 -
PHẦN MỞ ĐẦU
Trong một nền kinh tế thị trường mở, thương mại quốc tế trở thành phổ biến,
việc thanh toán giữa các quốc gia với nhau phải sử dụng tiền tệ của nước này hay
nước khác. Để thực hiện việc chuyển đổi tiền tệ như vậy, các quốc gia phải dựa
vào tỷ giá hối đoái.
Như chúng ta đã biết, tỷ giá hối đoái là một công cụ kinh tế vĩ mô chủ yếu
để điều tiết cán cân thương mại quốc tế theo mục tiêu đã định trước của một quốc
gia. Việc thay đổi tỷ giá sẽ ảnh hưởng đến các lĩnh vực, các doanh nghiệp có thu
chi ngoại tệ từ đó ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế... Tỷ giá hối đoái không chỉ
có tác động đến giá cả hàng hóa trong nước, mà còn tác động rất lớn xuất nhập
khẩu hàng hóa, cũng như đến xuất nhập khẩu tư bản (vốn). Vì vậy, nó tác động
đến toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Với những tác động lớn như vậy của tỷ giá đến nền kinh tế làm cho các nhà
quản lý nhà nước ở mọi quốc gia đều muốn quản lý, điều tiết tỷ giá, sử dụng tỷ
giá như một công cụ điều tiết nền kinh tế theo những mục tiêu kinh tế-xã hội đã
vạch ra.
Đối với nước ta, một nước đang trong giai đoạn tăng trưởng và phát triển,
tiến tới hội nhập càng đòi hỏi phải xác định một chính sách tỷ giá hối đoái thích
hợp để có thể khuyến khích, tận dụng nguồn lực sản xuất trong và ngoài nước,
thúc đẩy các hoạt động thương mại, du lịch, kiều hối... góp phần tích cực cho phát
triển kinh tế, cho sự nghiệp công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước.
Đối tượng & phạm vi nghiên cứu của đề tài: Những vấn đề lý luận và thực
tiễn về tỷ giá hối đoái và cơ chế điều hành tỷ giá của Việt Nam trong thời gian
qua, đồng thời nghiên cứu kinh nghiệm sử dụng tỷ giá hối đoái trong xây dựng và
phát triển kinh tế của một số nước trên thế giới.
- 4 -
Phương pháp nghiên cứu: Đề tài dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật
biện chứng, duy vật lịch sử cùng với các phương pháp tổng hợp, phân tích, so
sánh, đối chiếu... đồng thời kết hợp với các học thuyết kinh tế hiện đại, kinh
nghiệm điều hành tỷ giá hối đoái của một số nước, từ đó đưa ra phương hướng
hoàn thiện cơ chế điều hành tỷ giá của nước ta.
Vì vấn đề tỷ giá là một vấn đề phức tạp nên nội dung của đề tài chỉ giới hạn
nghiên cứu tỷ giá ở góc độ: Lựa chọn chế độ tỷ giá và Điều chỉnh tỷ giá.
Nội dung nghiên cứu chủ yếu của đề tài bao gồm 3 chương:
- Chương 1: Tổng quan về tỷ giá hối đoái.
- Chương 2: Thực trạng về cơ chế điều hành tỷ giá ở Việt Nam.
- Chương 3: Lộ trình thực hiện cơ chế quản lý tỷ giá hối đoái của Việt Nam
trong giai đoạn 2005-2015.
Ý nghĩa khoa học & thực tiễn của đề tài: Qua việc nghiên cứu lý luận về
tỷ giá, học hỏi kinh nghiệm điều hành của các nước khác nhau trên thế giới, cùng
với thực tiễn điều hành tỷ giá ở Việt Nam trong những năm qua, tìm ra những tồn
tại, vướng mắc và đưa ra biện pháp khắc phục nhằm hoàn thiện cơ chế điều hành
tỷ giá của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay để có thể sử dụng hiệu quả hơn
công cụ điều tiết này thúc đẩy kinh tế phát triển. Đồng thời, đưa ra lộ trình thực
hiện cơ chế điều hành tỷ giá cho Việt Nam từ nay đến năm 2015.
Với sự cố gắng và mong muốn hoàn thành tốt đề tài nghiên cứu nhưng đề tài
không tránh khỏi những hạn chế và sai sót. Rất mong nhận được sự chỉ dẫn và
đóng góp của quí Thầy Cô và bạn bè.
- 5 -
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI
1.1 KHÁI NIỆM TỶ GIÁ
Đã từ lâu việc trao đổi mua bán không chỉ giới hạn trong phạm vi một nước
mà có sự tham gia của nhiều quốc gia khác nhau. Khi đó, các quan hệ thanh toán,
tín dụng trong giao dịch ngoại thương giữa các bên đòi hỏi phải sử dụng đơn vị
tiền tệ của một trong hai nước nhưng cũng có thể là đồng tiền của nước thứ ba. Vì
vậy, vấn đề chuyển đổi đồng tiền nước này sang tiền nước khác để xác định giá
trị giao dịch, thanh toán có ý nghĩa rất quan trọng. Muốn thực hiện việc chuyển
đổi đó phải dựa vào một mức qui đổi xác định, hay nói cách khác là phải dựa vào
tỷ giá hối đoái.
Tùy theo từng thời kỳ và phương pháp tiếp cận người ta đưa ra nhiều khái
niệm khác nhau về tỷ giá.
Theo quan điểm cổ điển thì tỷ giá hối đoái là tỷ lệ so sánh ngang giá (ngang
giá vàng) giữa đồng tiền của hai nước. Còn theo quan điểm kinh tế hiện đại, tỷ giá
hối đoái là giá mà người ta phải trả khi mua hoặc bán một ngoại tệ.
Và trên thị trường ngoại hối, tỷ giá là giá cả của tiền tệ nước này được tính
bằng đơn vị tiền tệ nước khác.
Như vậy, tỷ giá hối đoái là sự so sánh mối tương quan giá trị giữa hai đồng
tiền với nhau; hay đó là giá chuyển đổi của một đồng tiền nước này trong quan hệ
so sánh với các đồng tiền khác.
Còn ở Việt Nam, theo mục 8/ điều 4, nghị định số 63/1998 của Chính phủ:
“Tỷ giá hối đoái là giá cả của một đơn vị tiền tệ nước ngoài tính bằng đơn vị tiền tệ
của Việt Nam”.
Chúng ta định nghĩa tỷ giá theo quan điểm hiện đại, tỷ giá là giá cả, là số
tiền mà chúng ta phải trả (nhận được) khi chúng ta mua (bán) một ngoại tệ nào
đó. Cách định nghĩa này dựa vào phương pháp yết giá trực tiếp lấy ngoại tệ là
- 6 -
đồng yết giá, còn nội tệ là đồng định giá hay nói khác hơn là lấy ngoại tệ làm một
đơn vị để so sánh với số lượng tiền tệ trong nước.
Ví dụ: Ngày 23/05/2005, tại Việt Nam 1USD = 15.845 VND
1AUD = 11.884 VND
1EUR = 19.776 VND
1GBP = 28.792 VND
1HKD = 2.018 VND
1SGD = 9.474 VND
1.2 CÁC LOẠI TỶ GIÁ
Có nhiều loại tỷ giá khác nhau tùy theo cách phân loại
1.2.1 Phân loại theo đối tượng
- Tỷ giá chính thức: là tỷ giá do Ngân hàng Trung ương của mỗi nước công
bố, nó phản ánh chính thức về giá trị đối ngoại của đồng nội tệ. Trên cơ sở tỷ giá
chính thức cộng hay trừ biên độ để có thể ấn định tỷ giá mua, bán ngoại tệ.
Tỷ giá chính thức được dùng để tính thuế xuất nhập khẩu, trả nợ nước ngoài
và các hoạt động có liên quan. Nó làm cơ sở để các ngân hàng thương mại xác
định tỷ giá mua bán ngoại tệ. Nó còn là tỷ giá chuẩn để hình thành các tỷ giá trên
thị trường.
Tỷ giá chính thức là công cụ mạnh mẽ để điều chỉnh các hoạt động của nền
kinh tế đặc biệt trong lĩnh vực ngoại thương.
- Tỷ giá thị trường: là loại tỷ giá được hình thành trên thị trường ngoại tệ một
cách công khai và hợp pháp. Tỷ giá thị trường bị chi phối bởi quan hệ cung cầu về
ngoại hối. Trong tỷ giá thị trường phân biệt hai loại tỷ giá:
y Tỷ giá mở cửa: tỷ giá được công bố vào lúc thị trường giao dịch ngoại hối
mở cửa hoạt động.
- 7 -
y Tỷ giá đóng cửa: tỷ giá hình thành vào thời điểm cuối cùng của phiên giao
dịch ngoại tệ, đây là tỷ giá phản ánh quan hệ cung cầu về ngoại tệ trên thị trường
ngoại hối.
1.2.2 Tỷ giá thực và tỷ giá danh nghĩa
- Tỷ giá hối đoái danh nghĩa là khái niệm đo lường giá cả tương quan của hai
đồng tiền. Tỷ giá danh nghĩa chính là giá của một đồng tiền được biểu thị thông
qua đồng tiền khác mà không đề cập đến tương quan sức mua hàng hóa và dịch
vụ giữa chúng. Tỷ giá hối đoái danh nghĩa gồm tỷ giá hối đoái niêm yết trên các
thị trường hối đoái thế giới, tỷ giá chính thức công bố tại các Ngân hàng, tỷ giá thị
trường tự do không nằm trong kiểm soát của Nhà nước (tỷ giá không chính thức).
- Tỷ giá hối đoái thực được điều chỉnh bởi tương quan giá cả trong nước và
giá cả ngoài nước. Khi tỷ giá danh nghiã tăng hay giảm không có nghĩa là gia
tăng hay sụt giảm sức cạnh tranh thương mại quốc tế. Nhưng tỷ giá hối đoái thực
đại diện cho khả năng cạnh tranh quốc tế của một quốc gia.
Tỷ giá hối đoái thực là tương quan giữa giá cả của hàng mậu dịch và giá cả
của hàng phi mậu dịch.
Tùy theo phương pháp yết giá tiền tệ của từng quốc gia, tỷ giá hối đoái thực
được tính như sau:
y Yết giá gián tiếp: Nội tệ là đồng yết giá, ngoại tệ là đồng định giá. Phương
pháp này thường được dùng ở một số nước như Anh, Mỹ, Úc... Khi đó, công thức
tính tỷ giá hối đoái thực:
RER =
*CIP
CIP x NER1
Trong đó:
NER1: Tỷ giá danh nghĩa tính bằng số đơn vị ngoại tệ trên số đơn vị nội tệ
CPI: Mức giá trong nước
CPI*: Mức giá nước ngoài
- 8 -
y Yết giá trực tiếp: Ngoại tệ là đồng yết giá còn nội tệ là đồng định giá.
Phương pháp này được sử dụng ở các nước còn lại và dĩ nhiên ở nước ta cũng
dùng phương pháp yết giá này (như đã đề cập trong phần 1.1). Ta có công thức
tính tỷ giá thực như sau:
RER =
CPI
*CPI x NER2
Trong đó:
NER2: Tỷ giá danh nghĩa tính bằng số đơn vị nội tệ trên số đơn vị ngoại tệ
CPI: Mức giá trong nước
CPI*: Mức giá nước ngoài
Như vậy, trong trường hợp này nếu mức giá hàng hóa trong nước bằng với
mức giá hàng hóa nước ngoài, thì tỷ giá thực sẽ bằng với tỷ giá giao ngay trên thị
trường, nghĩa là tỷ giá danh nghĩa sẽ bằng với tỷ giá thực. Còn nếu mức giá hàng
hóa trong nước lớn hơn mức giá hàng hóa nước ngoài thì tỷ giá thực sẽ nhỏ hơn tỷ
giá giao ngay trên thị trường và ngược lại.
1.2.3 Tỷ giá kinh doanh ngoại tệ
Đó là tỷ giá do các ngân hàng, các tổ chức được phép kinh doanh ngoại tệ
công bố gồm: tỷ giá mua và tỷ giá bán, trong các loại đó có phân biệt tỷ giá tiền
mặt, tỷ giá chuyển khoản.
Ngoài ra, còn tồn tại nhiều loại tỷ giá trong giao dịch kinh doanh ngoại tệ
như:
- Tỷ giá điện hối: là tỷ giá mua bán ngoại hối trong đó ngân hàng chuyển
tiền bằng điện. Tỷ giá này nhanh chóng và chính xác, là cơ sở để xác định các
loại tỷ giá khác.
- Tỷ giá thư hối: là tỷ giá mua bán trong đó ngân hàng chuyển tiền bằng thư,
tỷ giá thư hối thường thấp hơn tỷ giá điện hối.
- Tỷ giá giao ngay (Spot): tỷ giá áp dụng cho ngày hôm nay nhưng giao dịch
ngoại tệ trong vòng 2 ngày sau đó.
- 9 -
- Tỷ giá kỳ hạn (Forward): tỷ giá áp dụng cho ngày giao dịch ngoại tệ trong
tương lai sau ngày thỏa thuận giao dịch từ 1-12 tháng.
- Tỷ giá chéo: là tỷ giá giữa hai đồng tiền được xác định thông qua một đồng
tiền khác làm trung gian.
Công thức tính: A/B = A/C * C/B
Ví dụ: 1USD = 15.750 VND và 1AUD = 12.000 VND, thì
USD/AUD = USD/VND * VND/AUD = USD/VND * 1/ AUD/ VND
= 15.750/ 12000= 1,3125
1.3 CÁC CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH TỶ GIÁ
Không phải ngay từ đầu các cơ chế điều hành tỷ giá được xác định và hình
thành (Phụ lục1) mà chúng đã trãi qua nhiều biến cố cũng như nhiều thay đổi, và
được phân chia như sau.
1.3.1 Hệ thống tỷ giá cố định
Trong một hệ thống tỷ giá hối đoái cố định, tỷ giá hối đoái được giữ không
đổi hoặc chỉ được phép cho dao động trong một phạm vi rất hẹp. Nếu một tỷ giá
hối đoái bắt đầu dao động quá nhiều, các chính phủ có thể can thiệp để duy trì tỷ
giá hối đoái trong vòng giới hạn của phạm vi này.
Trong môi trường tỷ giá hối đoái cố định, nhiệm vụ quản lý của các công ty
đa quốc gia trở nên dễ dàng hơn vì không cần quan tâm nhiều đến sự biến động
của tỷ giá. Nhưng ngược lại chính phủ lại gặp nhiều khó khăn trong việc điều
hành và quản lý tỷ giá.
1.3.2 Hệ thống tỷ giá thả nổi
Tỷ giá thả nổi tự do là tỷ giá mà mức của nó được hình thành tự phát trên thị
trường, do quan hệ cung cầu quyết định, bị tác động bởi thay đổi mức giá, các mức
lãi suất khác nhau và tăng trưởng kinh tế, không có sự can thiệp của chính phủ.
Như vậy, theo hệ thống này, các công ty đa quốc gia phải dành nhiều thời
gian cho việc tính toán và quản lý các rủi ro do dao động tỷ giá. Còn Chính phủ
- 10 -
chỉ tham gia thị trường ngoại hối với tư cách là một thành viên bình thường, có
nghĩa là Chính phủ có thể mua vào hoặc bán ra một ngoại tệ nào đó phục vụ cho
mục đích của Chính phủ chứ không nhằm mục đích can thiệp lên tỷ giá.
Cơ chế này có nhưng ưu điểm:
- Chế độ tỷ giá thả nổi cách ly những tác động dây chuyền của quốc gia này
với quốc gia khác. Các vấn đề một nước gặp như lạm phát, thất nghiệp... không
nhất thiết sẽ lây nhiễm sang các nước khác trong môi trường tỷ giá hối đoái thả
nổi tự do. (Phụ lục 2)
- Một lợi điểm khác của tỷ giá thả nổi tự do là các ngân hàng trung ương
không bị đòi hỏi phải liên tục duy trì tỷ giá hối đoái trong biên độ đã định. Vì vậy,
họ không bị buộc phải thực hiện một chính sách can thiệp có thể tạo nên những
tác động không thuận lợi đối với nền kinh tế chỉ để kiểm soát tỷ giá.
Hơn nữa, các chính phủ có thể thực thi những chính sách mà không cần bận
tâm là các chính sách đó có duy trì được tỷ giá trong biên độ quy định hay không.
Nếu tỷ giá không được phép thả nổi, các nhà đầu tư sẽ đầu tư vốn của mình
vào bất cứ nước nào có lãi suất cao nhất. Điều này có thể sẽ làm cho chính phủ
của các nước có lãi suất thấp hạn chế vốn của các nhà đầu tư đem ra khỏi nước
mình. Như vậy, sẽ có nhiều hạn chế dòng vốn và hiệu quả của thị trường tài chính
bị giảm sút.
1.3.3 Hệ thống tỷ giá hỗn hợp giữa cố định và thả nổi
Là tỷ giá thả nổi nhưng có sự can thiệp của Chính phủ để tác động đến tỷ giá
hối đoái phục vụ chiến lược chung của nước mình.
Trong chế độ tỷ giá thả nổi tự do, Chính phủ giữ thái độ thụ động, để cho thị
trường quyết định giá trị đồng tiền nước mình. Trên thực tế ít có nước nào thả nổi
tự do mà trái lại họ can thiệp bằng những công cụ tài chính, dự trữ ngoại tệ, chính
sách kinh tế, kể cả giải pháp hành chính....
- 11 -
Loại hình tyœ giá này hiện đang được áp dụng ơœ hầu hết các nước, tuy nhiên
mức độ điều tiết cuœa mỗi nước mỗi khác với những đặc trưng đa dạng phù hợp với
đặc điểm của từng quốc gia. Đến nay nó tồn tại dước các hình thức sau.
1.3.4 Các chế độ tỷ giá hiện hành
c Thả nổi hoàn toàn (Free Float, Independently Float)
Nhà nước không can thiệp vào thị trường ngoại hối, tỷ giá hối đoái do cung
cầu thị trường quyết định. Khi xảy ra biến động, tỷ giá sẽ tự điều chỉnh thông qua
cung cầu thị trường. Trên thực tế không có quốc gia nào trên thế giới có chế độ tỷ
giá thả nổi hoàn toàn.
d Thả nổi có quản lý không xác định đường đi tỷ giá (Managed float without
pre-announced path)
Trong chế độ tỷ giá này, Ngân hàng Trung ương thỉnh thoảng can thiệp vào
thị trường ngoại hối. Nếu can thiệp trực tiếp, sẽ làm thay đổi cơ cấu của dự trữ
ngoại tệ (tuỳ thuộc vào can thiệp hữu hiệu hay vô hiệu). Nếu can thiệp gián tiếp,
dự trữ ngoại tệ sẽ không thay đổi.
e Vùng mục tiêu (Target Zone)
Ngân hàng Trung ương xác định một biên độ danh nghĩa cố định để tỷ giá
hối đoái dao động. Nếu thị trường đẩy tỷ giá ra ngoài biên độ, thì Ngân hàng
Trung ương sẽ can thiệp để đưa tỷ giá trở về phạm vi biên độ ban đầu. Độ rộng
của biên độ sẽ xác định mức độ thả nổi hoặc mức độ cố định mà hệ thống hối
đoái nước đó đang theo đuổi. Chẳng hạn trước đây, theo qui định của cơ chế tỷ giá
hối đoái trong Cộng đồng châu Âu, nếu quốc gia nào có biên độ là +/-2.25% thì
hệ thống tỷ giá nước đó được xem là cố định, còn biên độ trong khoảng +/-25% thì
hệ thống tỷ giá đó được xem như thả nổi.
Chế độ vùng mục tiêu có một lợi thế là kết hợp ưu điểm của cả chế độ tỷ giá
thả nổi và cố định. Khi hệ thống hoạt động trong biên độ, tỷ giá hối đoái theo
vùng mục tiêu có thể đóng vai trò hấp thụ những đột biến đối với nền kinh tế.
- 12 -
Ngoài ra, việc qui định biên độ còn tạo ra độ tin cậy đối với hệ thống vì vậy làm
tăng yếu tố kỳ vọng và giảm rủi ro do đột biến gây ra.
Tuy nhiên, chế độ tỷ giá theo vùng mục tiêu rất dễ bị tấn công bởi đầu cơ tỷ
giá, đặc biệt là khi biên độ qui định quá hẹp, khi các biến số thực của nền kinh tế
và các chính sách vĩ mô trong nước không còn phù hợp với biên độ. Việc qui định
lại biên độ nhiều lần có thể làm suy giảm lòng tin vào chính sách tỷ giá của quốc
gia và tạo ra sự bất ổn kinh tế.
f Biên độ hạ dần (Sliding Band)
Đây là chế độ tỷ giá theo vùng mục tiêu có thể điều chỉnh được. Ngân hàng
Trung ương tuy không cam kết bảo vệ biên độ cho trước nhưng vẫn can thiệp từng
thời kỳ để điều chỉnh biên độ khi cần thiết. Vì vậy, các nền kinh tế có tỷ lệ lạm
phát cao có thể áp dụng chế độ tỷ giá này bằng cách xác định biên độ và điều
chỉnh nhằm tránh tỷ giá hối đoái lên quá cao. Tuy vậy, khó xác định biên độ hợp
lý, tạo ra tình thế không chắc chắn chính sách tùy ý mà Ngân hàng Trung ương
phải đi theo.
g Biên độ dịch chuyển dần (Crawling Band)
Trong chế độ tỷ giá hối đoái theo biên độ dịch chuyển, Ngân hàng Trung
ương xác định một biên độ luôn dịch chuyển theo 2 cách:
- Xác định biên độ dịch chuyển “nhìn về phía sau” tức là biên độ được xác
nhận dựa trên sự chênh lệch lạm phát trong quá khứ.
- Xác định biên độ dịch chuyển “nhìn về phía trước” tức là dựa trên tỷ lệ lạm
phát kỳ vọng trong tương lai, hoặc biên độ được sử dụng theo một mức nào đó mà
Ngân hàng Trung ương nhắm đến.
Ngân hàng Trung ương xác định biên độ mà không cần phải nhiều lần điều
chỉnh để đạt đến vị trí cân bằng trung tâm. Tuy nhiên, biên độ nhìn về phía sau có
thể dẫn đến lạm phát cao hơn, còn biên độ nhìn về phía trước có thể làm cho tỷ
giá hối đoái được định quá cao do đồng tiền được định vượt giá trị thực của nó.
- 13 -
h Chế độ tỷ giá cố định có dịch chuyển dần theo biên độ (Crawling Peg)
Đây là chính sách tỷ giá hối đoái được xem là giải pháp để phá giá từng
bước đồng tiền của một quốc gia. Ngân hàng Trung ương ấn định một mức tỷ giá
cố định đồng thời cho phép thị trường giao dịch với một biên độ cộng trừ, dao
động từ hẹp đến rộng tùy theo mức độ phá giá đồng tiền.
Trong chế độ tỷ giá hối đoái này, ngân hàng Trung ương có thể sử dụng
nhiều chỉ tiêu kinh tế để ấn định tỷ giá danh nghĩa. Thông thường, chế độ tỷ giá
cố định theo biên độ dịch chuyển dùng để giảm lạm phát như trong trường hợp
biên độ “nhìn về phía sau”. Ngoài ra, tỷ giá danh nghĩa luôn được điều chỉnh theo
kiểu “nhích dần” từng bước và tổng mức điều chỉnh sau khi được xác định sẽ được
chia ra nhiều tỷ lệ khác nhau và được điều chỉnh dần xuyên suốt trong một thời
kỳ. Chẳng hạn, nếu Ngân hàng Trung ương có kế hoạch phá giá VND 6% trong
một năm thì có thể chia thành 12 tháng, mỗi tháng điều chỉnh 0,5%.
Chế độ cố định điều chỉnh dần là một trong những hình thức của chế độ tỷ
giá hối đoái cố định, vì vậy giúp kiểm soát lạm phát hiệu quả và tạo ra tâm lý an
toàn, tin tưởng.
Tuy nhiên, chế độ này cũng bộc lộ nhược điểm:
- Nếu dự trữ ngoại tệ không đầy đủ thì tỷ giá cố định này có thể sụp đổ do
không đủ khả năng bảo vệ mức điều chỉnh mà Ngân hàng Trung ương xác định
trước.
- Rất dể tiêu hao ngoại tệ để bảo vệ mục tiêu điều chỉnh.
- Đường đi của tỷ giá được xác định trước, thường là đúng theo kỳ vọng nên
thường tạo ra tâm lý găm giữ ngoại tệ, tạo áp lực thiếu hụt ngoại tệ trên thị
trường.
i Chế độ tỷ giá cố định có điều chỉnh (Fixed but adjustable Rate)
Tuy chính thức cố định tỷ giá nhưng Ngân hàng Trung ương sẽ không đưa ra
cam kết nào để duy trì tỷ giá cố định đã công bố. Ngoài ra, Nhà nước cũng không
thông qua chính sách tài chính tiền tệ để đảm bảo rằng các chính sách tài chính
- 14 -
này sẽ phục vụ cho mục đích cố định tỷ giá. Vì vậy, Nhà nước có thể can thiệp
vào tỷ giá khi thấy cần thiết để duy trì ổn định các mục tiêu kinh tế vĩ mô khác.
Do tính chất can thiệp khi thấy cần thiết nên Hệ thống tỷ giá cố định có điều chỉnh
tuy cố định nhưng vẫn có thể linh hoạt.
Trong chế độ này, áp lực thị trường có thể tạo nguy cơ lạm phát khi điều
chỉnh lại tỷ giá. Ngoài ra, thị trường sẽ không đoán được tín hiệu hoạt động can
thiệp của Chính phủ.
j Chế độ tỷ giá với cơ chế hội đồng tiền tệ (Currency Board)
Trong chế độ này, Hội đồng tiền tệ (thay cho Ngân hàng Trung ương) cố
định tỷ giá theo “một ngoại tệ neo” và cam kết trong dài hạn bảo vệ tỷ giá theo
luật định đã thông qua trước, ngay cả phải hy sinh các mục tiêu tiền tệ khác. Bên
cạnh đó, Nhà nước còn đảm bảo khả năng chuyển đổi đồng tiền nước mình để lấy
“nogại tệ neo” theo tỷ giá cố định vào bất cứ lúc nào. Để làm được điều này, Nhà
nước phải có lượng ngoại tệ đủ mạnh, tối thiểu phải tương với tổng tiền mặt đang
lưu thông trong nước.
Cơ chế này là giải pháp tốt nhất để kiềm chế lạm phát đối với quốc gia có tỷ
lệ lạm phát phi mã. Nền kinh tế theo cơ chế này sẽ có lãi suất thấp, đây là yếu tố
quan trọng kích thích đầu tư phát triển kinh tế.
Vì mục tiêu của chế độ này là cố định tỷ giá nên các quốc gia sẽ phải trả giá
đối với các mục tiêu kinh tế khác. Hội đồng tiền tệ lập ra để thay thế Ngân hàng
Trung ương nên một số chức năng quan trọng của Ngân hàng Trung ương không
còn nữa, chẳng hạn như chức năng “người cho vay cuối cùng” đối với ngân hàng
thương mại.
k Chế độ tỷ giá đô-la hóa toàn diện (Full Dollarization)
Trường hợp cực độ của hội đồng tiền tệ là đô-la hóa toàn diện. Nhà nước từ
bỏ nội tệ và thay thế bằng một ngoại tệ mạnh, thường là đô-la Mỹ nên gọi là đô-
la hóa và cam kết đi theo chế độ tỷ giá đô-la hóa trong dài hạn. Như vậy, nhà
- 15 -
nước không còn quyền tự chủ trong chính sách tiền tệ và càng không thể can thiệp
vào chính sách tiền tệ của Mỹ.
Mức độ linh hoạt điều chỉnh tỷ giá hối đoái cũng có thể được sắp xếp theo
thứ tự từ (1) đến (9) như trên, và tỷ giá càng cố định thì việc điều hành tỷ giá càng
trở nên khó khăn và ngược lại.
Theo báo cáo của Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế thì xu hướng tỷ giá hối đoái hiện
nay là “đi về hai cực” và nhóm theo chế độ tỷ giá trung dung có xu hướng ngày
càng giảm đi và tiến về hai cực, tức là hoặc đi về cố định tỷ giá hoặc thả nổi tỷ
giá. Xu hướng này không chỉ xảy ra đối với các nền kinh tế hội nhập cao mà xảy
ra đối với hầu hết các quốc gia.
1.4 CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ BIẾN ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ
Trong giai đoạn hiện nay, tỷ giá hối đoái rất nhạy cảm với tình hình kinh tế
chính trị xã hội, nó thường xuyên biến động, biến động hàng ngày, hàng giờ và nó
chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố: tốc độ lạm phát, tình hình cung cầu ngoại tệ,
lãi suất ngân hàng, chính sách kinh tế, kể cả các sự kiện chính trị xã hội, thiên
tai.... đặc biệt là chỉ số của nước Mỹ.
1.4.1 Quan hệ Cung Cầu
Khi có sự thay đổi trong lượng cung ứng hoặc lượng cầu về ngoại tệ của quốc
gia có nghĩa là đường cầu hay đường cung ngoại tệ sẽ bị dịch chuyển, từ đó tạo
lập một tỷ giá hối đoái cân bằng mới trên thị trường ngoại hối.
Có rất nhiều nhân tố tác động đến sự thay đổi cung cầu ngoại tệ: xuất nhập
khẩu, đầu tư, dự trữ ngoại hối, can thiệp của chính phủ....
Cung ngoại tệ có nguồn gốc từ xuất khẩu, từ việc nước ngoài đầu tư vào thị
trường trong nước và mua tài sản trong nước. Cầu ngoại tệ xuất phát từ nhu cầu
nhập khẩu, từ việc đầu tư ra nước ngoài và mua tài sản của nước ngoài. Trong
điều kiện kinh tế thị trường, tỷ giá được hình thành là tỷ giá tại đó cung và cầu
ngoại tệ cân bằng trên thị trường tiền tệ. Nếu nhập khẩu của một quốc gia tăng,
nghĩa là nhu cầu về ngoại tệ tăng lớn hơn cung ngoại tệ khi đó giá ngoại tệ sẽ
- 16 -
tăng khi những điều kiện khác không đổi. Ngược lại, nếu xuất khẩu gia tăng làm
cho cung ngoại tệ tăng lên lớn hơn cầu ngoại tệ thì giá ngoại tệ sẽ giảm.
Hình 1: Ảnh hưởng của Cung-Cầu đến sự hình thành tỷ giá
P
Q
D’
S
D
S’
1.50
1.60
1.55
Bên cạnh hoạt động xuất nhập khẩu còn có những chính sách thuế, chính
sách bảo hộ. Do đó, chỉ cần một trong những chính sách này có sự thay đổi cũng
dẫn đến sự thay đổi trong cung cầu ngoại tệ, từ đó dẫn đến sự thay đổi trong tỷ
giá. Chẳng hạn, khi Chính phủ gia tăng thuế đối với hàng nhập khẩu sẽ làm cho
giá hàng nhập khẩu gia tăng, trong điều kiện mặt hàng này co giản theo giá sẽ
dẫn đến nhu cầu đối với hàng hóa này giảm. Việc giảm nhu cầu hàng nhập khẩu
có nghĩa là giảm nhu cầu về ngoại tệ, cho nên giá của đồng ngoại tệ sẽ giảm đi
hay nói khác hơn là đồng nội tệ tăng giá.
Ngoài ra, khi Chính phủ có nhu cầu gia tăng dự trữ ngoại hối quốc gia sẽ làm
cho nhu cầu ngoại tệ tăng, từ đó tỷ giá sẽ tăng và ngược lại.
1.4.2 Mức độ lạm phát
Dùng lý thuyết ngang giá sức mua, ta có thể đánh giá tác động có thể có của
lạm phát với tỷ giá hối đoái. Lý thuyết ngang giá sức mua (Phụ lục 3) cho rằng tỷ
giá hối đoái cân bằng sẽ điều chỉnh cùng một mức độ chênh lệch trong tỷ lệ lạm
phát của hai nước.
- 17 -
1.4.3 Lãi suất ngân hàng
* Lãi suất tương đối: Thay đổi lãi suất tương đối tác động đến đầu tư chứng
khoán nước ngoài, và chính sự thay đổi này lại ảnh hưởng đến cung và cầu tiền và
vì thế ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái. Giả định rằng lãi suất của Mỹ tăng trong khi
lãi suất của Anh không thay đổi. Khi đó, các công ty Mỹ có khả năng sẽ giảm nhu
cầu của họ đối với đồng bảng Anh vì giờ đây lãi suất của Mỹ hấp dẫn hơn một
cách tương đối so với lãi suất của Anh, và vì thế có ít đầu tư vào các khoản ký gởi
tại ngân hàng Anh. Tuy nhiên, giờ đây lãi suất của Mỹ hấp dẫn hơn đối với các
công ty Anh với khoản tiền vượt trội nên cung bảng Anh (bởi các công ty Anh) sẽ
tăng khi họ thiết lập nhiều khoản ký gởi hơn vào ngân hàng Mỹ. Do một sự
chuyển dịch vào bên trong của đường cầu bảng Anh và sự dịch chuyển ra phía
ngoài của đường cung bảng Anh nên tỷ giá cân bằng sẽ giảm.
Hình 2: Ảnh hưởng của Lãi suất đến sự hình thành tỷ giá
S
D
D’
S’
1.50
1.55
Giá trị đồng bảng Anh
Số lượng đồng bảng Anh
* Lãi suất thực: Nếu lãi suất cao có thể thu hút dòng vốn nước ngoài đầu tư
vào các chứng khoán có lãi suất cao thì lãi suất cao này có thể phản ánh dự kiến
lạm phát cao. Vì lạm phát cao có thể đặt áp lực giảm giá lên đồng tiền của nước
đó nên không khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài trong việc đầu tư vào các
chứng khoán định danh bằng đồng tiền này. Vì vậy cần phải xem xét đến lãi suất
thực, đó là lãi suất danh nghĩa đã điều chỉnh theo tỷ lệ lạm phát.
- 18 -
Lãi suất thực = Lãi suất danh nghĩa - Tỷ lệ lạm phát
Chúng ta thường so sánh lãi suất thực giữa các quốc gia để đánh giá những
biến động của tỷ giá hối đoái vì nó kết hợp giữa lãi suất danh nghĩa và tỷ lệ lạm
phát mà cả hai nhân tố này đều ảnh hưởng đến tỷ giá. Khi các nhân tố khác
không đổi, sẽ có một tương quan cao giữa chênh lệch lãi suất thực của hai quốc
gia với tỷ giá của hai đồng tiền của hai nước đó.
1.4.4 Thu nhập tương đối
Nhân tố thứ tư tác động đến tỷ giá hối đoái là mức thu nhập tương đối. Giả
định rằng thu nhập của Mỹ tăng đáng kể trong khi thu nhập của Anh vẫn không
thay đổi. Điều này sẽ tác động lên đường cầu bảng Anh, đường cung bảng Anh và
tỷ giá cân bằng. Đường cầu bảng Anh sẽ dịch chuyển ra phía ngoài phản ánh một
sự gia tăng trong thu nhập của Mỹ và vì thế làm tăng nhu cầu về hàng hóa Anh
của người Mỹ, trong khi đó đường cung bảng Anh không thay đổi. Vì vậy tỷ giá
cân bằng của đồng bảng Anh sẽ tăng lên.
Hình 3: Ảnh hưởng của Thu nhập tương đối đến sự hình thành tỷ giá
Giá trị đồng bảng Anh
D’
D
S
1.55
1.60
Số lượng đồng bảng Anh
1.4.5 Kiểm soát của Chính phủ
Nhân tố thứ năm ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái là kiểm soát của Chính phủ.
Chính phủ của nước ngoài có thể tác động đến tỷ giá qua nhiều cách khác nhau
- 19 -
như: áp đặt những rào cản về ngoại hối, rào cản về ngoại thương, can thiệp vào
thị trường ngoại hối và tác động đến những biến động vĩ mô như lạm phát, lãi suất
và thu nhập quốc dân. Nếu lãi suất của Mỹ tăng tương đối so với lãi suất Anh,
phản ứng dự kiến là cung bảng Anh sẽ tăng lên để đầu tư và hưởng lãi suất cao ở
Mỹ. Nhưng nếu chính phủ Anh áp đặt thuế cao lên thu nhập khi đầu tư nước ngoài
thì điều này có thể không làm giảm tỷ giá của bảng Anh so với đô-la.
1.4.6 Kỳ vọng
Nhân tố thứ sáu tác động đến tỷ giá hối đoái là kỳ vọng của thị trường vào tỷ
giá tương lai. Giống như các thị trường tài chính khác, thị trường ngoại hối phản
ứng lại với các thông tin trong tương lai có liên quan đến tỷ giá. Chẳng hạn, tin về
gia tăng lạm phát tiềm ẩn ở Mỹ có thể làm những nhà đầu cơ bán đồng đô-la vì
cho rằng đô-la sẽ giảm giá trong tương lai. Điều này sẽ gây áp lực làm giảm giá
đồng đô-la ngay lập tức. Trong suốt cuộc khủng hoảng tài chính châu Á, nhiều
ngân hàng thương mại trên thế giới đã bán tháo các đồng tiền các nước châu Á để
mua những đồng tiền khác vì họ đánh giá rằng đồng tiền các nước châu Á được
đánh giá cao hơn giá trị thật của chúng. Hành vi này đã gây sức ép giảm giá đồng
tiền của các nước châu Á và các ngân hàng thương mại đã bị một số người chỉ
trích là đã hành động làm tăng thêm sự yếu kém của các đồng tiền này.
1.4.7 Những nhân tố khác
Khi tỷ giá được thả nổi thì nó rất nhạy cảm với những sự kiện kinh tế, chính
trị, xã hội, chiến tranh, kể cả yếu tố tâm lý, cụ thể như các nhân tố: chỉ số thất
nghiệp, chỉ số bán lẽ, kết quả của hội nghị G7, EU, ASEAN, sản lượng công
nghiệp, GDP, GNP, phát hành trái phiếu của Chính phủ....
Chẳng hạn, nguyên nhân làm cho tỷ giá giữa VND và USD gia tăng vào cuối
năm 2004 là do USD có dấu hiệu mạnh trở lại so với các đồng tiền chủ đạo khác
trên thị trường ngoại hối quốc tế, với sự kỳ vọng vào một số chỉ tiêu kinh tế Mỹ:
tăng trưởng, thất nghiệp, thâm hụt ngân sách, sức mua của người tiêu dùng... có
dấu hiệu hồi phục theo chiều hướng tích cực. Bên cạnh đó, lãi suất chủ đạo của
Cục dự trữ liên bang Mỹ – FED đối với USD hai lần được điều chỉnh tăng trong
- 20 -
tháng 7 và tháng 8/2004, từ mức 1,0%/ năm lên 1,25% và 1,50%/năm, làm cho
giới đầu tư tin tưởng vào sự tiếp tục tăng giá của đồng USD. Nguyên nhân thứ 2 là
do tâm lý người dân lo ngại lạm phát gia tăng khi chỉ số tăng giá tiêu dùng hết
tháng 8/2004 được công bố là 8,3%, mức tăng cao nhất trong 10 năm gần đây.
Ngoài ra là tâm lý về việc đồng tiền có mệnh giá 100.000 đồng bằng chất liệu
polymer được đưa ra lưu thông từ đầu tháng 9/2004; giá vàng cũng có hướng tăng
nhẹ nên người dân có xu hướng lựa chọn USD cho các nhu cầu cất giữ, gửi tiết
kiệm...
1.5 ẢNH HƯỞNG CỦA TỶ GIÁ ĐẾN NỀN KINH TẾ
Tỷ giá hối đoái là một công cụ kinh tế vĩ mô chủ yếu để điều tiết cán cân
thương mại quốc tế theo mục tiêu đã định trước của một quốc gia. Việc thay đổi tỷ
giá sẽ ảnh hưởng đến các lĩnh vực, các doanh nghiệp có thu chi ngoại tệ từ đó ảnh
hưởng đến toàn bộ nền kinh tế... Tỷ giá hối đoái không chỉ có tác động đến giá cả
hàng hóa trong nước, mà còn tác động rất lớn đến xuất nhập khẩu hàng hóa, cũng
như đến xuất nhập khẩu tư bản (vốn). Vì vậy, nó tác động đến toàn bộ nền kinh tế
quốc dân.
1.5.1 Tỷ giá hối đoái và ngoại thương
Vào năm 2000 với mức tỷ giá 1USD =14.000VND một chiếc xe máy với giá
6000USD nhập khẩu sẽ được tính tương đương thành tiền Việt Nam là 84 triệu
đồng. Đến năm 2002, với tỷ giá 1USD = 15.000VND thì cũng chiếc xe máy đó chỉ
có thể nhập khẩu và bán với giá 90 triệu đồng; Ngược lại, 1tấn gạo với chi phí sản
xuất 3,5triệu đồng thì vào năm 2000 có thể thu lãi với giá xuất khẩu trên
250USD/tấn, nhưng với tỷ giá năm 2002 (cùng điều kiện các yếu tố khác không
đổi) thì ta có thể xuất khẩu có lãi với giá chỉ trên 234USD. Từ đó, nếu các yếu tố
khác là không đổi, thì khi tỷ giá tăng từ 1USD = 14.000VND lên 1USD =
15.000VND (USD tăng giá hay VND giảm giá) đã làm cho hàng nhập khẩu trở
nên đắt hơn còn hàng xuất khẩu trở nên rẻ hơn, từ đó có thể làm giảm nhập khẩu
và tăng xuất khẩu. Chúng ta sẽ có kết quả ngược lại nếu USD mất giá và VND
tăng giá.
- 21 -
Như vậy, khi tỷ giá tăng, tức giá trị đồng nội tệ giảm nên giá cả hàng hóa
xuất khẩu tính bằng tiền nước ngoài giảm, sức cạnh tranh của hàng hóa đó trên thị
trường thế giới sẽ tăng lên có tác dụng đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa. Đồng thời
việc tỷ giá tăng làm cho giá hàng hóa nhập khẩu tăng lên dẫn đến hạn chế nhập
khẩu. Ngược lại, khi tỷ giá giảm, nghĩa là giá trị đồng nội tệ tăng thì có tác động
giảm xuất khẩu và tăng nhập khẩu hàng hóa.
Khi tỷ giá thay đổi cũng có tác động điều tiết việc di chuyển tư bản từ quốc
gia này sang quốc gia khác. Việc di chuyển tư bản trên thế giới nhằm mục đích là
tìm kiếm lợi nhuận và tránh rủi ro. Do vậy, nếu tỷ giá giảm, trong trường hợp
người ta dự đoán tỷ giá không tiếp tục giảm nữa thì tư bản nhập khẩu sẽ gia tăng
và tư bản xuất khẩu sẽ giảm. Nếu tỷ giá tăng, trong điều kiện dự đoán nó không
tiếp tục tăng nữa thì tư bản xuất khẩu sẽ tăng và tư bản nhập khẩu sẽ giảm.
1.5.2 Tỷ giá hối đoái và sản lượng, công ăn việc làm, lạm phát
Với mức tỷ giá 1USD =14.000VND của năm 2000 thấp hơn mức 1USD =
15.000VND của năm 2002, tức tiền Việt Nam mất giá và nếu giả định mặt bằng
thế giới là không đổi, thì không chỉ có xe máy nhập khẩu tính bằng tiền Việt Nam
tăng giá mà tất cả các sản phẩm nhập khẩu đều rơi vào tình trạng tương tự, trong
đó có cả nguyên vật liệu, máy móc cho sản xuất. Nếu tất cả các yếu tố khác trong
nền kinh tế là không đổi, thì điều này tất yếu sẽ làm cho mặt bằng giá cả trong
nước tăng lên. Nếu tỷ giá tiếp tục gia tăng qua các năm có nghĩa là lạm phát đã
tăng. Nhưng bên cạnh đó, đối với các lĩnh vực sản xuất chủ yếu dựa vào nguồn
lực trong nước, thì sự tăng giá của hàng nhập khẩu sẽ giúp tăng khả năng cạnh
tranh cho các lĩnh vực này, giúp phát triển sản xuất và từ đó có thể tạo thêm công
ăn việc làm, giảm thất nghiệp, sản lượng quốc gia có thể tăng lên. Và ngược lại
nếu đồng Việt Nam tăng giá khi các yếu tố khác không đổi thì lạm phát sẽ giảm,
khả năng cạnh tranh của các lĩnh vực sản xuất trong nước cũng có xu hướng giảm,
sản lượng quốc gia có thể giảm, thất nghiệp có thể tăng lên...(Phụ lục 4)
- 22 -
1.6 KINH NGHIỆM ĐIỀU HÀNH TỶ GIÁ CỦA CÁC QUỐC GIA
1.6.1 Kinh nghiệm điều hành tỷ giá ở Trung Quốc: Chính sách tỷ giá ở nền
kinh tế chuyển đổi.
Quá trình chuyển đổi chế độ tỷ giá ở Trung Quốc có thể chia thành 4 giai
đoạn:
- Từ năm 1949-1979: Trong thời kỳ này, nền kinh tế Trung Quốc quản lý
theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung, Chính phủ thực hiện quản lý tập trung đối với
hoạt động ngoại hối, áp dụng chế độ tỷ giá cố định và tỷ giá này do Ngân hàng
nhân dân Trung Quốc công bố.
- Từ năm 1980-1990: Cùng với cải cách kinh tế năm 1979, chế độ tỷ giá
được thay đổi theo hướng gia tăng yếu tố thị trường. Bên cạnh tỷ giá chính thức do
Ngân hàng nhân dân Trung Quốc công bố, còn có tỷ giá mua bán trên thị trường.
Mặc dù tỷ giá chính thức được điều chỉnh nhiều lần nhưng tỷ giá trên thị trường
ngoại tệ luôn có xu hướng cao hơn tỷ giá chính thức.
- Từ năm 1991 Trung Quốc hướng tới chuyển đổi chế độ tỷ giá cố định sang
chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý. Tuy nhiên, tỷ giá chính thức vẫn ít được áp dụng
hơn tỷ giá thị trường. Từ năm 1993, thị trường ngoại hối giữa các doanh nghiệp
phát triển mạnh và hơn 80% sử dụng tỷ giá của thị trường. Sự sai lệch giữa tỷ giá
chính thức và tỷ giá thị trường gây ra những tác động tiêu cực, lượng ngoại tệ do
dân cư nắm giữ rất lớn trong khi dự trữ ngoại hối của quốc gia còn hạn chế.
- Từ năm 1994 Trung Quốc có nhiều chuyển biến lớn trong việc điều hành
chỉnh sách tỷ giá: đưa tỷ giá chính thức lên mức cân bằng với tỷ giá thị trường để
thống nhất hai tỷ giá và thực hiện chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý, tạo điều kiện
cho việc chuyển đổi đồng Nhân dân tệ.
Từ năm 1994 đến nay, Trung Quốc vẫn áp dụng cơ chế tỷ giá thả nổi có
quản lý của Nhà nước. Ngân hàng nhân dân Trung Quốc chủ yếu sử dụng biện
pháp kinh tế thông qua việc mua bán ngoại tệ trên thị trường để điều chỉnh tỷ giá
ở mức độ phù hợp.
- 23 -
Như vậy, quá trình chuyển đổi chế độ tỷ giá của Trung Quốc gắn liền với
công cuộc cải cách nền kinh tế và có xu hướng ngày càng gia tăng yếu tố thị
trừơng.
1.6.2 Kinh nghiệm điều hành tỷ giá ở Thái Lan
Sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực châu Á năm 1997 mà Thái
Lan là nơi đầu tiên giảm giá đồng tiền của mình.
Nhằm kích thích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu, Thái Lan đã dùng chính
sách phá giá nhẹ đồng THB vào tháng 05 năm 1981 và tháng 11 năm 1984.
Nhưng cũng từ đó đến khi cuộc khủng hoảng xảy ra thì tỷ giá của THB so với
USD gần như cố định, chỉ dao động quanh 25THB/USD. Tuy nhiên, xuất khẩu của
Thái Lan chiếm hơn 70% GDP hàng năm, lại tập trung vào một số mặt hàng chủ
lực, cán cân thương mại thâm hụt từ 10% năm 1990 lên 60-70% so với xuất khẩu
năm 1997. Nền kinh tế Thái Lan bắt đầu sa sút từ cuối năm 1995, tốc độ tăng
trưởng giảm, thâm hụt tài khoản vãng lai cao, nợ nước ngoài tăng. Thị trường
chứng khoán suy sụp từ cuối năm 1996, các nhà đầu cơ quốc tế lại tấn công vào
đồng THB làm cho giá trị đồng THB giảm mạnh. Đến ngày 02/07/1997 chính phủ
Thái Lan tuyên bố thả nổi đồng THB. Đến cuối năm 1997, nợ nước ngoài của
Thái Lan lên đến 88 tỷ USD và dự trữ ngoại tệ tụt xuống còn 28 tỷ USD.
Đây là bài học trong việc đưa ra một chính sách tỷ giá thích hợp, hạn chế tối
đa những tác hại đến nền kinh tế bởi vì chính sách tỷ giá ảnh hưởng đến xuất
nhập khẩu, tổng sản phẩm quốc dân cũng như tốc độ phát triển kinh tế của một
quốc gia.
1.6.3 Kinh nghiệm điều hành tỷ giá ở Chi Lê
Nếu so sánh giữa hai lựa chọn chế độ tỷ giá neo cứng và thả nổi, chế độ tỷ
giá hối đoái neo cứng có thể làm tăng đáng kể ngoại thương, khuyến khích xuất
khẩu, tạo ra một mức neo danh nghĩa và tránh hiện tượng đầu cơ. Trong khi đó,
chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi tạo ra mức độ độc lập tiền tệ cao hơn, tạo ra cơ chế
điều chỉnh tự động đối với các cú sốc thương mại từ bên ngoài và tránh được
những sự tấn công mang tính chất đầu cơ.
- 24 -
Chile áp dụng chế độ neo tỷ giá nhích dần lên (crawing peg) trong những
năm 80 để thúc đẩy tăng trưởng qua xuất khẩu và duy trì chế độ này cho đến khi
nổ ra khủng hoảng tài chính, tiền tệ ở châu Á.
Khi nổ ra khủng hoảng tài chính ở châu Á, các điều kiện thương mại ở Chile
trở nên xấu đi, nợ khu vực doanh nghiệp tư nhân tăng lên đáng kể và thâm hụt
cán cân vãng lai. Chile đã thực hiện các biện pháp ổn định tình hình, và khi tình
hình được ổn định Chile quyết định thả nổi đồng tiền của mình. Chile đặt mục tiêu
ưu tiên giữ lạm phát ở mức 3% và việc thả nổi tỷ giá này đã tạo ra sự linh hoạt
hơn và minh bạch hơn trong chính sách tiền tệ.
Qua tìm hiểu kinh nghiệm về chính sách tỷ giá của các nước, ta nhận
thấy rằng:
- Lựa chọn chế độ tỷ giá hối đoái của mỗi nước tuỳ thuộc vào điều kiện thực
tế của nước đó. Các chính phủ có thể áp dụng chế độ tỷ giá hối đoái hỗn hợp hay
độc lập, có thể thực thi một chế độ tỷ giá hối đoái cố định trong một vài năm, sau
đó có thể thả nổi rồi trở lại cố định hay bán thả nổi.... Nó tuỳ thuộc vào độ tự do
hóa tài chính, tự do hóa thương mại, năng lực kinh tế của mỗi nước cũng như mục
tiêu phát triển của quốc gia.
- Thành công của một chế độ tỷ giá ở nước này không nhất thiết sẽ thành
công ở nước khác. Nó tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của mỗi nước và năng lực
vận hành cơ chế, chính sách của Chính phủ của mỗi nước.
- Điều hành chế độ tỷ giá gắn liền với các biện pháp can thiệp của Chính
phủ, như việc dựa hẳn vào quy luật thị trường hay sử dụng nhiều biện pháp hành
chính. Nếu sử dụng quá nhiều biện pháp hành chính thì quy luật thị trường bị bóp
méo và sẽ làm nảy sinh một chế độ đa hối suất mà đặc trưng là một tỷ giá cố định
hoặc bán thả nổi hợp pháp trên thị trường chính thức và một tỷ giá thả nổi bất hợp
pháp trên thị trường chợ đen.
- 25 -
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ CƠ CHẾ
ĐIỀU HÀNH TỶ GIÁ CỦA VIỆT NAM
Từ nhiều năm qua, song song với tiến trình đổi mới của đất nước nói chung
và cơ chế quản lý kinh tế nói riêng, cơ chế quản lý tỷ giá hối đoái ở Việt Nam
cũng đã có những thay đổi quan trọng để phù hợp với hiện trạng của nền kinh tế.
Có thể nghiên cứu cơ chế điều hành tỷ giá của Việt Nam theo những giai đoạn
sau:
2.1 GIAI ĐOẠN TỶ GIÁ CỐ ĐỊNH
2.1.1 Giai đoạn trước năm 1989
Trước năm 1989, nước ta thực hiện chính sách tỷ giá cố định, giá cả ngoại tệ
do Ngân hàng Nhà nước quyết định và hầu như cố định theo thời gian. Trong thời
gian đó, ở nước ta tỷ giá hối đoái cố định được ấn định rất cao, vừa không phản
ánh đúng quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại hối, vừa không phản ánh đúng
giá trị của đồng tiền nội tệ. Có thể nói tỷ giá hối đoái của đồng tiền Việt Nam lúc
bấy giờ chỉ là hệ số quy đổi để các công ty thương mại quốc doanh lập kế hoạch
và tính toán nội bộ. Vì vậy mới xuất hiện hiện tượng có nhiều tỷ giá khác nhau: tỷ
giá mậu dịch, tỷ giá phi mậu dịch, tỷ giá kết toán nội bộ, và các tỷ giá trên thị
trường tự do theo quan hệ cung cầu.
- Tỷ giá mậu dịch (tỷ giá chính thức):
Tỷ giá này lần đầu tiên được xác định giữa đồng Việt Nam và Nhân dân tệ
(CNY) của Trung Quốc vào ngày 25/11/1955 là 1CNY=1470 VND. Đó là tỷ giá
được xác định trên cơ sở giá bán lẽ của 34 mặt hàng ở Hà Nội và Bắc Kinh cùng
một số tỉnh biên giới hai nước Việt Nam, Trung Quốc, với mục đích giải quyết nhu
cầu thanh toán giữa hai nước trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp.
Đến ngày 31/05/1956 Việt Nam và Liên Xô ký kết hiệp định về tỷ giá chính
thức giữa đồng Việt Nam và đồng SUR dựa trên cơ sở tính chéo tỷ giá VND/CNY
và tỷ giá CNY/SUR. Vào thời điểm này 1CNY= 2SUR, do đó 1SUR=735 VND.
- 26 -
Sau đợt đổi tiền đầu tiên năm 1959 thì 1VND mới = 1000VND cũ thì tỷ giá cũng
được điều chỉnh thành: 1SUR= 0,735VND. Đến đầu năm 1961, tỷ giá SUR/VND
được điều chỉnh lại: 1SUR= 3,27VND do hàm lượng vàng trong đồng Rúp được
điều chỉnh tăng 4,44 lần.
Từ năm 1955 cho đến 1975, miền Bắc thiết lập quan hệ kinh tế-thương mại
với trên 40 quốc gia nhưng chủ yếu vẫn là các nước xã hội chủ nghĩa. Do đó, quan
hệ tỷ giá của đồng Việt Nam cũng chủ yếu là xác định với đồng Rúp, còn các
đồng tiền chuyển đổi tự do khác thì cơ bản là không được xác lập chính thức.
Năm 1977, các nước xã hội chủ nghĩa thống nhất thanh toán với nhau bằng
tiền Rúp chuyển nhượng, là đồng tiền ghi sổ trong thanh toán mậu dịch giữa các
nước, có hàm lượng vàng qui định là 0,98712gam. Tỷ giá SUR chuyển nhượng so
với các đồng tiền được xác định theo thỏa thuận của Chính phủ các nước. Tỷ giá
này cố định cho nhiều năm, nó phản ánh không đúng giá trị thực của các ngoại tệ
có liên quan và được sử dụng như phương pháp ghi nhận để cân bằng trao đổi giữa
Việt Nam và các nước thành viên trong khối SEV.
- Tỷ giá phi mậu dịch
Tỷ giá phi mậu dịch là loại tỷ giá được áp dụng thanh toán trong lĩnh vực
quan hệ đối ngoại khác như quan hệ ngoại giao, du lịch, văn hóa, thể thao, giáo
dục, y tế... trong phạm vi các nước xã hội chủ nghĩa. Tỷ giá này được chuyển đổi
từ tỷ giá mậu dịch theo hệ số chuyển đổi là chênh lệch giữa giá bán lẽ trong nước
so với giá cả ngoại thương được xác định và ký kết bằng hiệp định riêng về thanh
toán phi mậu dịch giữa các nước xã hội chủ nghĩa.
- Tỷ giá kết toán nội bộ
Loại tỷ giá này chỉ mang tính chất đối nội, nó được hình thành trên cơ sở so
sánh giá cả hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam bằng Rúp và Nhân dân tệ với giá
cả hàng hóa đó bằng Việt Nam đồng trong 3 năm 1955, 1956 và 1957 và hình
thành từ năm 1958.
- 27 -
Tỷ giá kết toán nội bộ thể hiện quan hệ so sánh giá hàng xuất khẩu hoặc giá
bán hàng nhập khẩu tính bằng VND với số ngoại tệ thu được từ số hàng xuất khẩu
hoặc số ngoại tệ phải thanh toán cho số hàng nhập khẩu trong một thời gian nhất
định.
Tỷ giá này không công bố ra ngoài, mà nó được sử dụng trong quan hệ thanh
toán giữa các đơn vị, tổ chức có thu chi ngoại tệ với ngân hàng ngoại thương, chủ
yếu làm chức năng “cân bằng giá”. Tỷ giá này dựa trên cơ sở tỷ giá chính thức
cộng thêm một hệ số, thực chất là để bù lỗ cho các xí nghiệp, các đơn vị kinh
doanh tham gia quan hệ kinh tế đối ngoại khi thanh toán kết hối cho ngân hàng và
thu nộp lãi vào ngân sách nhà nước. Tỷ giá này được cố định cho đến năm 1986
mới được điều chỉnh lại là 1SUR=18VND, 1987: 1SUR=150VND và năm 1988:
1SUR=700VND.
Mặc dù nhà nước áp dụng loại tỷ giá này cho các đơn vị sản xuất hàng xuất
khẩu nhưng tỷ giá này vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu và chưa bù đắp đủ chi phí
sản xuất. Đồng thời vẫn còn chênh lệch quá xa (chỉ bằng 15-20%) so với giá
ngoại tệ trên thị trường chợ đen. Tình hình này dẫn đến một thực trạng là càng
xuất khẩu nhiều thì nhà nước càng phải bù lổ nhiều. Nếu bù lổ không đủ hay
chậm trễ sẽ dẫn đến tình trạng nợ nần chồng chất và thiếu vốn kinh doanh. Đây
cũng là một trong những nguyên nhân tạo nên thâm hụt ngân sách trong giai đoạn
này.
Bảng1: Tỷ lệ bội chi ngân sách từ năm 1976-1989
Tỷ lệ bội chi so với
Năm
Tổng số chi Tổng số thu
1976-1980 2 -
1981 15,3 18,1
1982 7,5 8,1
1983 3,8 3,9
1984 3,5 3,6
1985 26,8 36,5
1986 19,8 29,5
1987 17,3 20,3
- 28 -
1988 17,7 21,5
1989 26,0 36,0
Mặt khác, vì bội chi ngân sách nên phản ứng tất yếu của nhà nước là tăng
cường quản lý ngoại hối, bảo hộ mạnh mẽ. Từ đó làm nảy sinh tình trạng khan
hiếm hàng hóa, vật tư, nguyên liệu ảnh hưởng đến sản xuất khiến cho nền kinh tế
phát triển trì trệ và một mức lạm phát cao.
Bảng 2: Tốc độ tăng trưởng, lạm phát từ năm 1986-1989
Chỉ số 1986 1987 1988 1989
Tỷ lệ tăng GDP (%) 2,8 3,6 6,0 4,7
Lạm phát (%) 774,7 223,1 393,8 34,7
Chỉ số giá tháng 12 so với cùng kỳ năm trước 845,3 338,4 406,5 130,0
Chỉ số giá bình quân tháng trong năm 120,0 110,5 113,4 102,5
Nguồn: Báo cáo của Uỷ ban vật giá Nhà nước
Khi có chủ trương thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào năm 1985 và thông qua
luật đầu tư nước ngoài năm 1987 thì việc xác lập tỷ giá giữa VND và USD là cần
thiết. Khi đó, tỷ giá này được xác lập thông qua đồng Rúp. Năm 1985: 1SUR=
18VND và 1SUR tương đương 1USD nên tỷ giá chính thức giữa đồng Việt Nam
và đô-la là 1USD = 18VND.
Với quan niệm đồng tiền có giá trị cao là thể hiện sự vững mạnh về kinh tế,
giữ tỷ giá cố định là ổn định sức mua của đồng tiền, nên đồng Việt Nam được ấn
định khá cao một cách đơn phương với các ngoại tệ và tỷ giá được giữ cố định
trong thời gian dài. Bởi vì tỷ giá không phản ánh đúng lực của đồng tiền nên làm
nảy sinh thị trường “chợ đen” về ngoại tệ cùng một mức tỷ giá chênh lệch khá
cao so với mức tỷ giá nhà nước qui định.
- 29 -
Bảng 3: Tỷ giá chính thức và tỷ giá tự do bình quân 1985-1989
1 Tỷ giá chính thức Tỷ giá tự do Chênh lệch (lần)
1985 15 115 7,67
1986 80 425 5,31
1987 368 1270 3,45
1988 3000 5000 1,67
1989 3900 4100 1,05
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (LPD Thảo)
Hình 4: Tỷ giá chính thức và tỷ giá tự do bình quân 1985-1989
0
1000
2000
3000
4000
5000
6000
1985 1986 1987 1988 1989
Tỷ giá chính thức Tỷ giá thị trường
Và với mức tỷ giá quá thấp so với thị trường tự do như vậy đã kích thích cho
hoạt động nhập khẩu vì càng nhập nhiều bao nhiêu thì càng có lợi bấy nhiêu và
kết quả là tài khoản vãng lai bị thâm hụt nghiêm trọng.
Tất cả điều đó làm cho nền kinh tế nước ta trong một thời gian dài bị khủng
hoảng.
- 30 -
Giai đoạn này, tỷ giá chính thức được xây dựng trên cơ sở “đồng sức mua”
(PPP) bằng việc lập ra một rổ hàng hóa tiêu dùng qua đó so sánh giá cả trong và
ngoài nước để từ đó xác định tỷ giá. Việc xây dựng tỷ giá bằng phương pháp này
thiếu chính xác và không phản ánh đúng mức được tình hình thị trường. Hệ thống
tỷ giá này đã gây không ít khó khăn cho việc quản lý và điều hành của nhà nước
trong lĩnh vực tài chính tiền tệ, kinh tế đối ngoại. Tuy nhiên, trong xu thế cải cách
từ một nền kinh tế kế hoạch đóng cửa sang một nền kinh tế thị trường mở, thể chế
kinh tế mới ngày càng được xác lập và phát triển. Để thích ứng với nền kinh tế thị
trường, đòi hỏi trong kinh tế đối ngoại cần phát huy tác dụng điều tiết của tỷ giá
hối đoái đối với xuất nhập khẩu hàng hóa, xuất nhập khẩu tư bản. Vì vậy, từ một
cơ chế quản lý với chế độ đa tỷ giá đã được thống nhất thành một loại tỷ giá duy
nhất áp dụng cho mọi loại hình trao đổi. Phương pháp xây dựng tỷ giá cũng được
đổi mới.
2.1.2 Giai đoạn 1989-1992
Năm 1989, phương pháp “đồng sức mua” được loại bỏ. Kể từ ngày
20/10/1988 thực hiện quyết định 271/CTHĐBT-NHNN điều chỉnh tỷ giá theo tín
hiệu thị trường. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước xây dựng tỷ giá chính thức dựa
trên một loạt các yếu tố:
y Biến động giá cả
y Tình hình cán cân thanh toán
y Mục tiêu của chính sách tiền tệ
y Biến động tỷ giá ngoại tệ ở thị trường tự do
Cũng từ đó tỷ giá chính thức từng bước được điều chỉnh một cách linh hoạt,
phù hợp với thị trường, không còn cố định trong thời gian dài như trước đây nữa.
Ngày 15/03/1989 Thông tư 33/NH-TT của Ngân hàng Nhà nước ban hành,
hướng dẫn thi hành Nghị định 166/HĐBT về quản lý ngoại hối. Thông tư này đã
qui định về hoạt động mua bán ngoại tệ, xóa bỏ chế độ đa tỷ giá, vận hành theo
cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Tuy nhiên, trong những năm 1989-
1990 nước ta không thể duy trì được tỷ giá và có những biến động rất lớn:
- 31 -
Bảng 4: Biến động tỷ giá 1989-1992
1989 1990 1991 1992
Năm Ngân
hàng
Tư
Nhân
Ngân
Hàng
Tư
Nhân
Ngân
Hàng
Tư
Nhân
Ngân
hàng
Tư
nhân
Tháng 1 3.500 5.200 4.300 4.650 7.000 7.400 11.880 12.200
Tháng 3 4.200 5.350 4.300 4.450 7.400 7.900 11.550 11.550
Tháng 6 4.350 4.400 4.800 5.600 8.300 8.830 11.285 11.290
Tháng 9 4.100 4.225 5.750 6.300 10.700 11.050 10.950 10.980
Tháng 11 14.000
Tháng 12 4.200 4.575 6.650 7.050 12.900 12.550 10.720 10.650
Nguồn: Tổng hợp Ngân hàng Nhà nước, số liệu tỷ giá TTTD từ Tạp chí kinh tế phát triển 06/1999
và các Tạp chí tài chính
Hình 5: Tỷ giá USD/VND từ 11/1988 đến 11/1991
0
2000
4000
6000
8000
10000
12000
14000
16000
11
/88
02
/89
05
/89
08
/89
11
/89
02
/90
05
/90
08
/90
11
/90
02
/91
05
/91
08
/91
11
/91
Những số liệu trên cho thấy sự biến động mạnh mẽ cuœa tyœ giá USD/VND từ
giữa năm 1990. Do tình hình buông lỏng trong quản lý ngoại tệ dẫn đến hiện
tượng đầu cơ ngoại tệ làm giá USD lên cơn sốt 14.000VND/USD vào tháng
11/1991. Nguyên nhân chính làm cho USD tăng giá là do aœnh hươœng cuœa tình hình
cán cân thanh toán quốc tế, sự thâm hụt tài chính cuœa chính phuœ, nợ nước ngoài
tăng nhanh, mức độ lạm phát nặng nề, dự trữ ngoại tệ quốc gia nhỏ bé... cộng
- 32 -
thêm với việc đầu cơ tích trữ ngoại tệ ở khu vực tư nhân đã khiến cho tỷ giá
USD/VND của cả khu vực nhà nước lẫn tư nhân leo thang liên tục nên mọi cố
gắng của Chính phủ về quản lý ngoại tệ dường như mất hiệu lực ngay khi vừa mới
công bố, ngân hàng không kiểm soát được lưu thông ngoại tệ trên thị trường.
Cuối năm 1992, nguồn ngoại tệ kiều hối đổ về khá lớn làm tăng cung về
ngoại tệ, mặt khác Ngân hàng nhà nước kiên trì quan điểm ổn định tyœ giá bằng
cách can thiệp vào thị trường ngoại tệ, nhu cầu ngoại tệ cuœa các doanh nghiệp về
cơ baœn được đáp ứng, nạn lạm phát gần như được chặn lại, tạo lòng tin cho dân
chúng vào sự ổn định cuœa đồng Việt Nam, giaœi toœa được tâm lý đầu cơ. Đó chính
là những nguyên nhân cơ baœn nhất khiến cho xu hướng lên giá cuœa đồng đô la bị
chặn lại, tyœ giá USD/VND không những không tăng mà còn giaœm xuống.
Bảng 5: Chỉ tiêu kinh tế vĩ mô 1989-1993
ĐVT: triệu USD
Năm 1989 1990 1991 1992 1993
1.Tăng trưởng GDP (%) 8,0 5,1 5,8 8,7 8,1
2. Lạm phát (%) 34,7 67,4 67,6 17,5 5,2
3. Đầu tư nước ngoài thực tế giải ngân 120 165 333 832
4. Kiều hối 50 36 59 70
5. Dự trữ ngoại tệ 24 24 27 465 404
6. Cán cân thương mại -619,8 -348,4 -251 40 -938,8
7. Cán cân thanh toán -142 50 267 -1.055
8. Thâm hụt ngân sách (% GDP) -7,6 -5,9 -1,5 -1,7 -4,7
Nguồn: Tổng hợp từ ADB và Ngân hàng Nhà nước, Tổng cục Thống kê....
Trước tình hình đó, Ngân hàng Nhà nước đã thành lập trung tâm giao dịch
ngoại tệ ở Hà Nội vào tháng 08/1991 và thành phố Hồ Chí Minh vào tháng
11/1991. Thành viên các trung tâm này là các ngân hàng được phép kinh doanh
ngoại tệ và một số tổ chức nhập khẩu lớn. Việc mua bán ngoại tệ được tổ chức
theo hình thức đấu giá. Bên cạnh đó, việc kiểm soát trạng thái hối đoái của Ngân
hàng Nhà nước đối với các ngân hàng thương mại đã được qui định cụ thể là 15%
- 33 -
so với vốn điều lệ. Ngân hàng Nhà nước đã hoàn thiện cơ chế quản lý thị trường
ngoại hối và điều tiết tỷ giá hối đoái thông qua các mệnh lệnh hành chính. Chính
phủ ban hành Chỉ thị 330 và quyết định 337/HĐBT ngày 25/10/1991 về một số
biện pháp quản lý ngoại tệ:
- Tất cả các nguồn thu ngoại tệ của doanh nghiệp, cá nhân đều phải chuyển
vào tài khoản tại ngân hàng.
- Mọi việc thanh toán bằng ngoại tệ phải được thực hiện qua ngân hàng hoặc
2 trung tâm giao dịch ngoại tệ. Không được phép cho vay, thanh toán, mua bán,
chuyển nhượng với nhau trực tiếp bằng ngoại tệ.
- Khuyến khich các tổ chức, cá nhân trong nước, ngoài nước mang ngoại tệ
vào Việt Nam, mở rộng kiểm soát khối lượng ngoại tệ mang ra khỏi Việt Nam.
Biện pháp trên bước đầu đã cắt được cơn sốt USD và kéo giá USD trên thị
trường xuống (tháng 12/1991 là 12.900 VND/USD, tháng 12/1992 là 10.720 VND/
USD, tháng 12/1993 là 10.840 VND/USD) góp phần ổn định thị trường ngoại hối
vốn nhiều biến động và rất khan hiếm trước đó.
Tuy nhiên, hoạt động của Trung tâm giao dịch đã bộc lộ nhiều nhược điểm:
tỷ giá không theo quy luật cung cầu, các giao dịch mua bán chỉ mang tính hình
thức, hầu như chỉ có các đơn vị đăng ký mua, còn bán thì chỉ có ngân hàng.
Nhưng bên cạnh những tác động tiêu cực này, thì việc đồng tiền bị phá giá
mạnh tạo điều kiện nâng cao khả năng cạnh tranh các mặt hàng xuất khẩu của
Việt Nam và nhất là hàng nông sản vì nông sản chiếm một tỷ trọng đáng kể trong
xuất khẩu của nước ta. Đồng thời điều này cũng giúp cải thiện CA của Việt Nam
từ chổ thâm hụt 251 triệu USD năm 1991 đã chuyển thành thặng dư 40 triệu USD
năm 1992.
- 34 -
Bảng 6: Xuất khẩu, nhập khẩu, CA 1989-1992
Năm
Xuất khẩu
(triệu USD)
Tốc độ tăng
(%)
Nhập khẩu
(triệu USD)
Tốc độ tăng
(%)
Cán cân
thương mại
1989 1946,0 87,4 2565,8 -6,9 -619,8
1990 2404,0 23,5 2752,4 7,3 -348,4
1991 2087,1 -13,2 2338,1 -15,1 -251,0
1992 2580,7 23,7 2540,7 8,7 40,0
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Cùng với việc phá giá nhà nước cũng đã tiến hành cắt giảm mạnh lượng tiền
đưa vào lưu thông, thắt chặt tín dụng Ỉ giảm lạm phát.
Bảng 7: Mức cung tiền 1988-1992
Năm Cung tiền (tỷ đồng) Mức tăng cung tiền Lạm phát
1988 8.336 445,4 % 393,80%
1989 7.419 189,0 % 34,70%
1990 11.358 158,0% 67,40%
1991 20.301 78,7% 67,60%
1992 27.144 33,7% 17,50%
Nguồn: NHNN và Thống kê
Nhìn chung, việc điều hành tỷ giá trong giai đoạn này chưa thể hiện rõ nét
vai trò chủ đạo của Chính phủ. Những điều chỉnh về tỷ giá chỉ nhằm giảm bớt sự
cách biệt giữa tỷ giá chính thức của Ngân hàng Nhà nước so với tỷ giá ở thị trường
tự do và phản ứng hoàn toàn theo tín hiệu của thị trường tự do. Tỷ giá hối đoái
chưa thật sự là công cụ mà Chính phủ có thể sử dụng để tạo ra luồng sinh khí cho
nền kinh tế.
- 35 -
2.2 GIAI ĐOẠN ĐIỀU CHỈNH THEO TỶ GIÁ LIÊN NGÂN HÀNG
2.2.1 Từ 1993-1999
Ngày 20/09/1994 theo quyết định 203/QĐ-NH, Ngân hàng Nhà nước thành
lập thị trường ngoại tệ liên ngân hàng thay thế cho hai trung tâm giao dịch ngoại
tệ trước đây và chỉ có ngân hàng mới được giao dịch trên thị trường này. Mỗi
ngày, Ngân hàng Nhà nước sẽ công bố tỷ giá chính thức gữa ngoại tệ với VND,
theo đó tỷ giá mua bán trên thị trường chỉ được dao động trong phạm vi +/- x% so
với tỷ giá chính thức. Lúc đầu biên độ này là 0,5%, đến tháng 11/1996 là 1%.
Nhưng trong thời gian này tỷ giá đã bị ngũ quên, hầu như là cố định trong suốt
thời gian từ năm 1994 đến năm 1996 với tỷ giá là 11.000VND/USD.
Bảng 8: Tỷ giá ngân hàng và thị trường tự do 1993-1996
Quí I Quí II Quí III Quí IV
Năm Ngân
Hàng
TT
tự do
Ngân
Hàng
TT
tự do
Ngân
Hàng
TT
tự do
Ngân
Hàng
TT
tự do
1993 10.513 10.543 10.558 10.712 10.675 10.787 10.813 10.883
1994 10.940 10.953 10.981 10.977 10.995 10.989 11.045 11.027
1995 11.044 11.053 11.025 11.050 11.007 11.038 11.970 11.987
1996 10.970 11.007 10.970 11.008 11.000 11.097 11.100 11.230
Nguồn: NHNN, niên giám thống kê
Ta nhận thấy rằng mức chênh lệch giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá trên thị
trường chợ đen là rất nhỏ. Thậm chí có khi tỷ giá trên thị trường chính thức còn
cao hơn cả thị trường chợ đen như từ quí II đến quí IV trong năm 1994. Do đó, nạn
đầu cơ ngoại tệ về cơ bản được cắt giảm và hướng mạnh vào xuất khẩu.
- 36 -
Bảng 9: Xuất khẩu, nhập khẩu, cán cân thương mại 1993-1998
Xuất khẩu Nhập khẩu Tăng trưởng Cán cân thương mại
Năm
(triệu USD) (triệu USD) XK (%) NK (%) (triệu USD)
1993 2985,2 3924,0 15,7 54,4 -938,8
1994 4054,3 5825,8 35,8 48,5 -1771,5
1995 5448,9 8155,4 34,4 40,0 -2706,5
1996 7255,9 11143,6 33,2 36,6 -3887,7
1997 9185,0 11592,3 26,6 4,0 -2407,3
1998 9360,3 11499,6 1,9 -0,8 -2139,3
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Trong khi đó giá USD liên tục tăng giá so với các ngoại tệ khác trên trường
quốc tế, chênh lệch lãi suất đồng Việt Nam với ngoại tệ thì rất cao... Tình trạng
trên dẫn đến việc nhập siêu với tốc độ ngày càng cao:
1994: nhập siêu là 1.771,5 triệu USD
1995: nhập siêu là 2.706,5 triệu USD
1996: nhập siêu là 3.887,7 triệu USD, chiếm tỷ lệ lên đến 16%GDP, cao gấp
rưỡi so với các nước có mức độ nhập siêu cao nhất thế giới; cán cân vãng lai thâm
hụt đến mức báo động, năm 1996 là 11,2%/ GDP. Từ đó làm cho nợ nước ngoài
gia tăng số lượng lớn, tỷ số nợ trên GDP đã trên mức 50%.
Hiện tượng nhập siêu ồ ạt góp phần làm cho lạm phát cao năm 1995 là
12,70% xuống lạm phát thấp năm 1996 là 4,50% và chuyển dần sang giảm phát
rồi thiểu phát như tình trạng tháng 09/1999. Kinh tế phát triển với tỷ lệ cao năm
1994 là 8,80% và năm 1996 GDP tăng 9,37%, nhưng sau đó giảm xuống 8,8%
năm 1997 và năm 1998 chỉ còn 5,8% và còn tiếp tục giảm. Nhờ nhập siêu làm cho
doanh thu từ thuế nhập khẩu tăng nên tỷ lệ bội chi ngân sách cũng được cải thiện
(năm 1993 tỷ lệ bội chi ngân sách/GDP là 4,60% đến năm 1996 là 0,20%).
Nhu cầu về USD tăng tạo sức ép giảm giá lên VND. Do vậy Ngân hàng Nhà
nước đã mở rộng biên độ dao động của tỷ giá từ 0,5% trước đây lên 1% và tháng
- 37 -
02/1997 biên độ này là 5%, bên cạnh đó tỷ giá chính thức cũng được nâng dần
lên. Nhìn chung từ đầu năm 1997 tỷ giá USD/VND liên tục tăng lên, không còn
ổn định như thời gian từ 1993-1996.
Bảng 10: Tỷ giá VND/USD hàng tháng năm 1997
1997 Ngân hàng
Thị trường
tự do
Ngân hàng
Thị trường
tự do
Tháng 1 11.172 11.320 Tháng 7 11.674 11.750
Tháng 2 11.188 11.420 Tháng 8 11.690 11.760
Tháng 3 11.466 11.658 Tháng 9 11.708 11.780
Tháng 4 11.656 11.758 Tháng 10 11.849 13.050
Tháng 5 11.661 11.670 Tháng 11 12.126 12.950
Tháng 6 11.663 11.675 Tháng 12 12.293 13.000
Nguồn: Tổng hợp từ VCB, NHNN và niên giám thống kê (PL1 LQL)
Hình 6: Tỷ giá chính thức và tỷ giá thị trường năm 1997
10000
10500
11000
11500
12000
12500
13000
13500
VN
D
/U
SD
Tỷ giá chính thức Tỷ giá thị trường
- 38 -
Ngày 02.07.1997, ngòi nổ cuœa cuộc khuœng hoaœng tiền tệ châu Á bắt đầu phát
ra từ Thái Lan. Là một nước trong khu vực, Việt Nam cũng bị aœnh hươœng về mặt
buôn bán, thanh toán và kể caœ về tâm lý.
- Ngày 13.10.1997, Ngân hàng nhà nước công bố quyết định nới rộng biên
độ tyœ giá mua bán ngoại tệ lên 10% so với tyœ giá chính thức. Như vậy, việc Ngân
hàng Nhà Nước công bố thay đổi biên độ theo hướng mở rộng là biện pháp phá
giá gián tiếp vì tác dụng của nó cũng làm cho USD tăng giá, giảm giá nội tệ.
Cùng với nhiều giải pháp đã góp phần giảm nhập siêu, năm 1997 nhập siêu là 2,4
tỷ USD, năm 1998 là 2,1 tỷ USD và năm 1999 là 82 triệu USD. Cầu ngoại tệ trên
thị trường rất cao nên hầu như việc mua bán ngoại tệ cuœa các ngân hàng thương
mại thường xuyên bám sát mức trần cho phép. Mặc dù vậy, giá trên thị trường tự
do còn cao hơn nhiều, có lúc lên đến trên 14.000 VND/USD. Đây chính là hậu
quaœ cuœa tình trạng găm giữ ngoại tệ do lo ngại về khaœ năng khuœng hoaœng cuœa
VND.
- Đứng trước tình hình này, những tháng đầu năm 1998 Ngân hàng Nhà nước
đã đưa ra một loạt các biện pháp nhằm ổn định thị trường như: quy chế về giao
dịch ngoại hối, các nghiệp vụ mua bán ngoại tệ mới, quy định về trạng thái ngoại
tệ, trạng thái tiền đồng đối với các tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại
tệ. Đặc biệt là hai lần chuœ động điều chỉnh tyœ giá:
y Lần thứ nhất, ngày 16.02.1998, Ngân hàng Nhà nước quyết định nâng tyœ
giá chính thức từ 11.175 VND/USD lên 11.800 VND/USD tức là phá giá 5,3% đưa
tỷ giá trên thị trường liên ngân hàng lên 12.980 VND/USD, làm tyœ giá giao dịch
cuœa ngân hàng thương mại xấp xỉ với giá trên thị trường tự do. Điều cần lưu ý là
do tỷ giá chính thức được công bố luôn thấp hơn tỷ giá trên thị trường nên cứ mỗi
lần thay đổi biên độ là lập tức tỷ giá thị trường tăng lên theo mức tối đa = tỷ giá
chính thức + biên độ x%.
y Lần thứ hai, diễn ra vào ngày 07.08.1998, Ngân hàng Nhà nước thay đổi
biên độ từ 10% xuống 7% đồng thời công bố tỷ giá chính thức từ 11.816 VND lên
12.998 VND/USD, tức là phá giá VND 9,1%, theo đó tỷ giá thị trường ngân hàng
- 39 -
từ 12.998 VND lên 13.908 VND/USD. Trong thời gian này Ngân hàng Nhà nước
thường xuyên thay đổi tỷ giá chính thức, có lúc tăng vài đồng nhưng cũng có lúc
giảm vài đồng, nhìn chung là ổn định.
Bảng 11: Tỷ giá chính thức và tỷ giá tự do năm 1998
Năm 1998
Tỷ giá
chính thức
Tỷ giá
tự do
Tháng 1 12293 13273
Tháng 6 12996 13071
Tháng 12 13895 13992
Bình quân 13273 13498
Nguồn: NHNN 1998â
Việc chuœ động điều chỉnh tăng tyœ giá cuœa Ngân hàng Nhà nước đã làm thu
hẹp khoaœng cách giữa tyœ giá trên thị trường tự do và tyœ giá cuœa các ngân hàng
thương mại. Vào những tháng cuối năm 1998 tyœ giá cuœa hai thị trường này thường
xuyên xấp xỉ nhau.
Bảng12: Tốc độ tăng trưởng kinh tế, lạm phát và bội chi ngân sách 1993-1998
Năm
Tốc độ tăng trưởng
(%)
Lạm phát
(%)
Bội chi NSNN
so với GDP (%)
1993 8,10 5,20 4,60
1994 8,80 14,40 1,60
1995 9,54 12,70 0,50
1996 9,37 4,50 0,20
1997 8,80 3,60 4,80
1998 5,80 9,20 3,60
Nguồn: Tổng cục thống kê
- Cùng thời gian này, một nghị định quan trọng đã được ban hành đó là Nghị
Định 63/1998/ NĐ-CP ngày 17.08.1998 của Chính phủ về quản lý ngoại hối, theo
- 40 -
đó tỷ giá hối đoái của đồng Việt Nam so với các ngoại tệ được hình thành dựa
trên cơ sở cung cầu ngoại tệ trên thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Hằng
ngày, Ngân hàng Nhà nước công bố tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường
ngoại tệ liên ngân hàng giữa VND với USD trên các phương tiện thông tin đại
chúng. Căn cứ vào mục tiêu của chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ, Ngân hàng
Nhà nước quy định biên độ dao động so với tỷ giá giao dịch bình quân trên thị
trường ngoại tệ liên ngân hàng, để các ngân hàng được phép xác định tỷ giá mua,
tỷ giá bán giữa VND với USD.
Như vậy, đặc trưng cơ bản nhất trong cách thức điều hành tỷ giá của Ngân
hàng Nhà nước trong thời gian này là việc sử dụng tỷ giá chính thức và biên độ
dao động. Cách làm này đã tạo điều kiện cho Ngân hàng Nhà nước dễ dàng kiểm
soát, điều tiết được thị trường ngoại tệ. Biên độ dao động là một công cụ tỏ ra khá
hữu hiệu trong suốt thời gian qua, nhờ vậy mà tỷ giá USD/VND đã đạt đến một sự
ổn định tương đối.
2.2.2 Giai đoạn từ tháng 02/1999 đến nay
Trong thời gian qua Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã đưa ra những bước đi
thích hợp trong việc điều hành tyœ giá và đã gặt hái được những thành công nhất
định, đặc biệt là trong lĩnh vực ổn định thị trường ngoại tệ, góp phần tích cực vào
những thành tựu chung cuœa nền kinh tế.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy tỷ giá chính thức đã không phản ánh đúng giá trị
của VND nên khi có cơ hội tỷ giá đã liên tục tăng đến mức trần cho phép. Rõ
ràng, trong điều kiện nền kinh tế ngày càng phát triển, các nhân tố thị trường
ngày càng phát huy tác dụng, quan hệ hợp tác quốc tế ngày càng mơœ rộng thì cơ
chế điều hành tyœ giá như vậy bộc lộ khá nhiều nhược điểm và chưa đuœ sức thuyết
phục.
Từ đầu năm 1999, Ngân hàng Nhà nước đã chính thức bỏ cơ chế điều hành
tỷ giá theo kiểu bao cấp như trước đây thông qua việc công bố hai quyết định mới
về tyœ giá: Quyết định số 64/1999/QĐ - NHNN7 về việc công bố tyœ giá hối đoái
cuœa đồng Việt Nam với các ngoại tệ và Quyết định số 65/1999/QĐ - NHNN7 về
- 41 -
việc quy định nguyên tắc xác định tyœ giá mua bán ngoại tệ cuœa các tổ chức tín
dụng được phép kinh doanh ngoại tệ. Từ đó, một cơ chế điều hành tyœ giá mới
được hình thành tại Việt Nam: thay cho việc công bố tyœ giá chính thức, hàng ngày
Ngân hàng Nhà nước sẽ công bố tyœ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại
tệ liên ngân hàng cuœa đồng Việt Nam so với đồng USD. Căn cứ vào tyœ giá này,
tổng giám đốc, giám đốc các tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại tệ xác
định tyœ giá mua bán ngoại tệ theo nguyên tắc: đối với USD, tối đa không được
vượt quá 0,1% so với giá Ngân hàng Nhà nước công bố cuœa ngày giao dịch gần
nhất trước đó. Còn đối với các ngoại tệ khác, tyœ giá sẽ do tổng giám đốc, giám
đốc các tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại tệ xác định. Như vậy, tỷ giá
đã được hình thành trên cơ sở thị trường, dẫu rằng vẫn còn những thắc mắc liên
quan đến cách tính tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường liên ngân hàng.
Bên cạnh đó, biên độ quy định tỷ giá các Ngân hàng thương mại được phép
giao dịch cũng không ngừng được đổi mới. Nếu như trong thời gian đầu 1999-
2000, khi mới thực hiện cơ chế này, Ngân hàng Nhà nước còn quy định quá chi
tiết các mức biên độ và biên độ quá hẹp, được coi là vẫn can thiệp quá sâu vào
công việc kinh doanh của các Ngân hàng thương mại, thì về sau cũng dần dần
được chỉnh sửa theo hướng nới rộng hơn. Trong năm 2001, cơ chế điều hành tỷ giá
mặc dù vẫn thực hiện theo nguyên tắc giá trung bình thị trường cộng thêm biên độ
1% như đã được quyết định từ tháng 2/2000, nhưng các can thiệp kỹ thuật của
Ngân hàng Nhà nước đã được giảm thiểu, vì vậy tỷ giá vận động khá linh hoạt
theo quan hệ cung cầu trên thị trường (chỉ số tăng giá đông đô-la so với đồng Việt
Nam cả năm đạt 3,8%). Điều này cho phép giảm thiểu sức ép phá giá đồng Việt
Nam so với ngoại tệ khác.
- 42 -
Bảng 13: Tỷ giá hối đoái 1999-2004
Tháng 1 Tháng 6 Tháng 12 Bình quân
Năm Chính
thức Tự do
Chính
thức Tự do
Chính
thức Tự do
Chính
thức Tự do
1999 13885 13893 13916 13948 14019 14104 13940 13972
2000 14037 14168 14086 14206 14507 14617 14159 14265
2001 14510 14620 14746 14853 15050 15120 14796 14825
2002 15065 15135 15247 15317 15366 15438 15235 15305
2003 15391 15421 15484 15469 15615 15750 15560 15575
2004 15603 15695 15717 15672
Nguồn: Tổng hợp Bộ tài chính, NHNN, niên giám thống kê
Một sự kiện quan trọng khác là từ ngày 02/06/2001 Ngân hàng Nhà nước
chính thức chuyển sang thực hiện cơ chế tự do hóa lãi suất ngoại tệ. Các ngân
hàng thương mại được chủ động quy định các mức lãi suất đô-la Mỹ trên cơ sở lãi
suất giao dịch trên thị trường liên ngân hàng Singapore – Sibor. Ngân hàng Nhà
nước chỉ quy định lãi suất tiền gởi ngoại tệ của các ngân hàng thương mại và kho
bạc Nhà nước tại Ngân hàng Nhà nước.
Trong giai đoạn từ 01/07/2002 đến nay, Ngân hàng Nhà nước quy định 5 kỳ
hạn với biên độ tiếp tục được nới rộng: tăng lên +/- 0,25% so với mức +/- 0,1%
trước đó đối với nghiệp vụ giao ngay, lên +/- 0,5% so với mức +/-0,4% của nghiệp
vụ giao dịch kỳ hạn 30 ngày, lên +/- 2,5% so với mức 2,35% của nghiệp vụ giao
dịch kỳ hạn trên 90 ngày.... Việc điều chỉnh tăng này đáp ứng được yêu cầu của
các ngân hàng thương mại cũng như các doanh nghiệp có nhu cầu mua bán ngoại
tệ với các ngân hàng không bị gò bó trong khuôn khổ chật hẹp trước đây.
Năm 2003, tỷ giá VND/USD ở nước ta khá ổn định, mặc dù USD mất giá
mạnh so với các loại ngoại tệ chủ chốt khác và có diễn biến phức tạp trên thị
trường ngoại hối quốc tế. Tại thị trường ngoại hối Việt Nam, USD giảm giá nhẹ
vào tháng 02/2003 (khoảng 0,05% so với tháng 01/2003) nhưng sau đó tăng giá trở
lại. Đầu tháng 12/2003, tỷ giá biến động cao do tin đồn thất thiệt về việc Ngân
hàng Nhà nước phát hành 5 loại tiền mới ra lưu thông. Trên thị trường tự do có lúc
- 43 -
đạt 16.000VND/USD, sau đó lại giảm xuống. Tính bình quân cả năm 2003 tỷ giá
chỉ tăng 1,7%.
Từ đầu năm 2004 đến tháng 08/2004 tỷ giá tương đối ổn định. Trên thị
trường tự do, tỷ giá trong 8 tháng đầu năm chỉ xoay quanh mức 15.750 VND-
15.790 VND/USD, còn tỷ giá giao dịch của các ngân hàng thương mại với khách
hàng xoay quanh mức 15.705VND-15.740 VND/USD. Tính chung 8 tháng đầu
năm 2004 tỷ giá chỉ tăng 0,1%, mức tăng thấp nhất trong cùng kỳ nhiều năm qua.
Nguồn cung ngoại tệ dồi dào, trong khi nhu cầu ngoại tệ thấp là nguyên nhân chủ
yếu của tình hình tỷ giá ổn định. Trong 7 tháng đầu năm 2004, lượng khách quốc
tế vào Việt Nam đạt 1,63 triệu lượt người, chi tiêu một lương ngoại tệ lớn; cũng
trong thời gian đó kim ngạch xuất khẩu cả nước đạt 14,17 tỉ USD, tăng 21,8% so
với cùng kỳ năm trước; và lượng kiều hối chuyển về là trong năm 2004 lên đến
hơn 3 tỷ USD.
Nhìn chung giai đoạn này nhờ chính sách tỷ giá linh hoạt cùng với các chính
sách hổ trợ khác, nền kinh tế đã có những bước khởi sắc. Kim ngạch xuất khẩu
gia tăng đáng kể, các mặt hàng của Việt Nam ngày càng có chổ đứng trên thị
trường thế giới. Quỹ dự trữ ngoại hối ngày càng được tăng cường, tỷ giá ổn định.
Sự ổn định tỷ giá làm cho tâm lý găm giữ USD giảm dần, thậm chí còn có sự dịch
chuyển USD sang VND ở trong nước. Bên cạnh đó, xuất khẩu được thúc đẩy và
nhập khẩu vẫn có lợi, nhất là trong điều kiện nước ta vẫn trong tình trạng nhập
siêu ở mức độ lớn.
Bảng 14: Tình hình xuất nhập khẩu và cán cân thương mại (1999-2004)
Năm
Xuất khẩu
(triệu USD)
Tốc độ tăng
(%)
Nhập khẩu
(triệu USD)
Tốc độ tăng
(%)
Cán cân
thương mại
1999 11541,4 23,3 11742,1 2,1 -200,7
2000 14482,7 25,5 15636,5 33,2 -1153,8
2001 15029,0 3,8 16218,0 3,7 -1135,0
2002 16706,1 11,2 19745,6 21,8 -3039,5
2003 20176,0 20,8 25226,9 27,8 -5050,9
2004 26027,4 29,0
Nguồn: Niên giám thống kê 2003
- 44 -
Bảng 15:Một số chỉ tiêu kinh tế 1999-2004
Năm 1999 2000 2001 2002 2003 2004
1.GDP (tỉ đồng) 399.942 441.646 481.295 535.762 605.586 652.216
GDP (tỷ USD) 28,68 31,35 32,94 35,10 38,20
2.Tốc độ tăng trưởng (%) 4,77 6,79 6,89 7,08 7,26 7,69
3.Xuất khẩu (triệu USD) 11541,4 14482,7 15029,0 16706,1 20176,0 26027,4
4.Nhập khẩu (triệu USD) 11742,1 15636,5 16218,0 19745,6 25226,9
5.Cán cân xuất nhập khẩu
(triệu USD) -200,7 -1153,8 -1135,0 -3039,5 -5050,9
6.Cán cân xuất nhập khẩu
/GDP (%) -0,7 -3.4 -3.5 -8.7 -13.5
7.Tốc độ lạm phát (%) 4,1 -1,7 0,8 1,5 3,0 *7,2
Nguồn: Niên giám thống kê. Vietnam Statistical Appendix, 2003 (*) 6 tháng đầu năm 2004
Sự kết hợp giữa các chính sách kinh tế ở tầm vĩ mô hợp lý, đặc biệt là sự
điều chỉnh liên tục của chính sách tỷ giá, chính sách quản lý ngoại hối cũng như
những qui định thông thoáng hơn trong lĩnh vực xuất nhập khẩu đã tác động tích
cực đến nền kinh tế Việt Nam, tạo đà phát triển trong tương lai.
2.3 NHẬN XÉT & YÊU CẦU HOÀN THIỆN CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH TỶ
GIÁ CỦA VIỆT NAM
2.3.1 Ưu nhược điểm
Cơ chế điều hành tỷ giá được thay đổi căn bản: Cơ chế tỷ giá thả nổi có sự
điều tiết của Nhà nước đã dần dần thay đổi cở chế tỷ giá cố định, đa tỷ giá. Việc
tỷ giá được đánh giá khách quan hơn đã phần nào phản ánh đúng giá trị thật của
đông tiền, kiềm chế lạm phát, ổn định giá cả, làm thay đổi cơ bản tâm lý của thị
trường. Lòng tin của công chúng vào chính sách kinh tế nói chung và chính sách
tiền tệ, chính sách quản lý nói riêng ngày càng gia tăng. Tác động này được thể
hiện rõ nét ở mức gia tăng tổng vốn đầu tư cho nền kinh tế. Tỷ lệ tiết kiệm và đầu
tư từ nội bộ nền kinh tế từ 7%-9%/ GDP thời kỳ trước năm 1990 lên 20% năm
1995 và 23,62% trong năm 2000. Nguồn ngoại tệ tập trung vào ngân hàng ngày
càng tăng. Theo báo cáo của ngân hàng nhà nước Việt Nam, so với đầu năm
2001, nguồn vốn huy động bằng ngoại tệ vào đầu năm 2002 tăng 28,6%.
- 45 -
Cơ chế này có những ưu điểm như:
- Tyœ giá Ngân hàng Nhà nước công bố hàng ngày là tyœ giá giao dịch bình
quân trên thị trường liên ngân hàng, điều này phaœn ánh tyœ giá được hình thành
khách quan hơn, phaœn ánh đúng hơn cung cầu ngoại tệ trên thị trường.
-Trước đây, mặc dù vẫn nói tyœ giá chính thức mà Ngân hàng Nhà nước công
bố cũng được căn cứ vào giá thị trường tự do, tình hình cung và cầu về ngoại tệ...
song nó vẫn có một cái gì đó thật mơ hồ, mang nặng tính chuœ quan nhiều hơn.
Chúng ta có thể thấy rõ điều này khi nhìn vào những biến động về tyœ giá cuœa các
Ngân hàng thương mại.
Từ ngày 1.12.1997 đến giữa tháng 2.1998, tyœ giá chính thức cuœa Ngân hàng
Nhà nước luôn ơœ khoaœng 1 USD = 11.175 VND, thì giá bán cuœa hầu hết các Ngân
hàng thương mại được xác định ơœ mức 12.293 VND/1USD (11.175 x 110% =
12.292,5).
Ngày 16.2.1998, Ngân hàng Nhà nước nâng tyœ giá chính thức lên 1 USD =
11.800 VND, thì lập tức ngày hôm sau giá cuœa các ngân hàng thương mại cũng
được nâng theo đúng tyœ lệ, giá 1 USD không còn là 12.293 VND mà là 12.980
VND (12.980 = 11.800 x 110%).
Và các ngày sau tình trạng tương tự, giá 1 USD được tính như sau:
Ngày 21/2/1998 27/2/98 28/2/98 2/3/98 5/3/98 9/3/98
Tỷ giá
chính thức 11803 11804 11801 11799 11798 11803
Tỷ giá
NHTM 12983 12984 12981 12979 12978 12983
Các con số trên cho thấy giá cuœa các NHTM luôn bám sát mức trần cao nhất
mà NHNN cho phép (giá công bố chính thức x 110%), thậm chí giá chính thức chỉ
cần thay đổi 1 đồng thì giá cuœa các ngân hàng thương mại cũng bám theo. Đó là vì
vượt thì không được phép, nhưng thấp hơn mức trần thì các ngân hàng thương mại
cũng không thể chấp nhận được.
- 46 -
Còn một khi giá công bố chính là giá hình thành trên thị trường liên ngân
hàng, các ngân hàng thương mại không còn phaœi phòng thuœ nữa, bơœi vì giá này
chính là điểm gặp gỡ giữa cung và cầu về ngoại tệ cuœa các ngân hàng.
- Trước đây, do giá Ngân hàng Nhà nước công bố cứng nhắc không thực sự
phaœn ánh quan hệ cung cầu nên nếu thấy giá cuœa các ngân hàng thấp thì các
doanh nghiệp mang ngoại tệ ra thị trường tự do bán, ngược lại nếu mua cuœa ngân
hàng quá khó khăn thì mua trên thị trường tự do. Vì thế chỉ cần có những biến
động nhoœ trong nền kinh tế cũng đuœ tác động để mơœ ra một khoaœng cách rộng giữa
giá thị trường tự do và giá cuœa các Ngân hàng thương mại. Nhưng với cơ chế điều
hành mới, tyœ giá mà Ngân hàng Nhà nước công bố bơœi nó xuất phát từ cung cầu
ngoại tệ giữa các ngân hàng nên nó sẽ gần gũi hơn với giá thị trường tự do và như
vậy những biến động có thể tạo ra khoaœng cách giữa giá thị trường tự do và giá
cuœa các Ngân hàng thương mại sẽ khó có thể xaœy ra hơn.
- Với cơ chế điều hành tyœ giá trước đây, vì Ngân hàng Nhà nước muốn giữ
giá ổn định, không thay đổi, trong khi đó khaœ năng cung ứng ngoại tệ cuœa Ngân
hàng Nhà nước cũng như các ngân hàng thương mại thấp nên nhu cầu ngoại tệ
cuœa các doanh nghiệp cũng thường xuyên không được đáp ứng, điều này đã làm
cho nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn khi có nhu cầu thanh toán với nước ngoài.
Còn với cơ chế điếu hành tyœ giá như hiện nay thì baœn thân tyœ giá tự nó đã được
điều chỉnh theo quan hệ cung cầu, hay nói cách khác chính nhu cầu cuœa các doanh
nghiệp là cơ sơœ xác định tyœ giá và tại đó cung và cầu đều được thoœa mãn.
- Khi tyœ giá không xuất phát từ quan hệ cung cầu thì mỗi lần nhà nước điều
chỉnh tyœ giá đều tạo sức ép tâm lý nặng nề, nhất là khi tyœ giá không được điều
chỉnh thường xuyên, đến khi điều chỉnh sẽ tạo ra một bước nhaœy đột ngột, người ta
bắt đầu nghi ngờ về một chuœ trương nào đó, lòng tin vào đồng tiền có thể vì thế
mà bị dao động, tình trạng đầu cơ, găm giữ ngoại tệ sẽ có cơ hội phát triển. Nhưng
với cơ chế mới, tyœ giá được hình thành theo quan hệ cung cầu, để giữ ổn định hoặc
điều chỉnh tyœ giá theo mục tiêu nào đó, Ngân hàng Nhà nước chỉ việc điều chỉnh
- 47 -
cung hoặc cầu bằng cách bán ngoại tệ ra hoặc mua ngoại tệ vào và như vậy tất caœ
đều hết sức tự nhiên, giaœm bớt tâm lý hoang mang dao động.
- Trong cơ chế mới, tyœ giá không phaœi là được điều chỉnh mà là được hình
thành trên thị trường, rõ ràng là nó mềm deœo hơn, linh hoạt hơn và vì thế nó phù
hợp với thông lệ quốc tế, góp phần tăng cường sự hòa nhập cuœa nền kinh tế nước
ta vào cộng đồng kinh tế thế giới.
Những điểm nêu trên cho thấy cơ chế điều hành tyœ giá mới cuœa Ngân hàng
Nhà nước không chỉ khắc phục được những hạn chế cuœa cơ chế cũ mà còn phù
hợp với một nền kinh tế mơœ như điều kiện cuœa nước ta hiện nay.
Thành công của chính sách tỷ giá trong thời gian qua là xóa bỏ sự áp đặt chủ
quan, duy ý chí trong việc thiết lập tỷ giá. Khoảng cách giữa tỷ giá chính thức và
tỷ giá thị trường “chợ đen” dần dần được thu hẹp. Tuy nhiên, bên cạnh những
thành quả đã đạt được, trong vấn đề điều hành chính sách tỷ giá vẫn còn một số
điểm cần quan tâm:
- Việc xác định tỷ giá còn mang tính cứng nhắc, chưa thật sự linh hoạt.
- Tồn tại song hành tỷ giá thị trường tự do bên cạnh tỷ giá chính thức, tỷ giá
của các ngân hàng thương mại và hiện tượng đô-la hóa ngày càng trầm trọng.
- Chưa sử dụng hiệu quả các công cụ điều chỉnh tỷ giá hối đoái.
- Cơ chế quản lý ngoại hối còn rất lỏng lẻo.
2.3.2 Yêu cầu hoàn thiện cơ chế điều hành tỷ giá
Để cơ chế mới về điều hành tyœ giá có thể thực sự phát huy tác dụng cần giải
quyết một số vấn đề sau:
⊇ Đối với việc điều tiết tỷ giá hiện nay của Ngân hàng Nhà nước
Điều chỉnh tỷ giá theo cách tăng đều như hiện nay cũng bộc lộ nhiều hạn
chế. Quan sát tỷ giá từ 2/1999 nhận thấy rằng tỷ giá chính thức luôn có mức thay
đổi nhỏ và biến động theo hướng tăng dần. Ưu điểm của cách làm này là giá VND
- 48 -
được điều chỉnh theo sự biến động sức mua hàng hóa, tạo tâm lý ổn định cho
người sở hữu ngoại tệ, nhưng mặt trái của vấn đề này là nảy sinh hiện tượng găm
giữ ngoại tệ. Để hạn chế nhược điểm này, Ngân hàng Nhà nước nên thay đổi cách
điều tiết tỷ giá theo hướng có tăng, có giảm với nhiều mức độ khác nhau sao cho
tổng mức giảm giá VND tương xứng với sự biến động của chỉ số lạm phát trong
kỳ. Khi đó, hiện tượng găm giữ ngoại tệ sẽ được hạn chế, các công cụ phòng ngừa
rủi ro có cơ hội phát huy hiệu quả, hoạt động kinh doanh ngoại tệ mới được năng
động.
⊄ Tiến đến loại bỏ các công cụ kiểm soát mang tính hành chính
Hiện nay Ngân hàng Nhà nước đang áp dụng cơ chế tỷ giá thả nổi có sự điều
tiết của Chính phủ để điều hành chính sách tiền tệ. Theo đó, tỷ giá chính thức do
Ngân hàng Nhà nước thiết lập trên cơ sở tỷ giá bình quân của thị trường ngoại tệ
liên ngân hàng và tỷ giá kinh doanh ngoại tệ của các ngân hàng thương mại
không được lớn hơn +/-0,25% so với tỷ giá chính thức.
Với cách tính này, Ngân hàng Nhà nước khống chế được sự biến động thất
thường của tỷ giá. Tuy nhiên, hạn chế của nó là tỷ giá không phản ánh đúng cung
cầu tiền tệ trên thị trường, làm cho hoạt động kinh doanh tiền tệ của các ngân
hàng gượng ép, giả tạo.
Vì vậy, trong tương lai Ngân hàng Nhà nước cần thay đổi cơ chế điều hành
tỷ giá theo hướng gắn liền với các quy luật của nền kinh tế thị trường. Ngân hàng
Nhà nước phải giảm dần và tiến đến xóa bỏ các biện pháp điều tiết tỷ giá mang
tính hành chính như: khống chế tỷ giá kỳ hạn, giới hạn phí hoán đổi tiền tệ, hạn
chế biên độ trong xác định tỷ giá kinh doanh.... tạo điều kiện cho các ngân hàng
thương mại kinh doanh tiền tệ theo cơ chế thị trường và quen dần với các công cụ
phòng chống rủi ro tỷ giá. Nói khác hơn, tỷ giá phải được xác định dựa trên cung
cầu tiền tệ. Ngân hàng Nhà nước không nên áp đặt trực tiếp lên tỷ giá mà chỉ
được quyền tác động gián tiếp thông qua các hoạt động mua bán ngoại tệ trên thị
trường ngoại hối.
- 49 -
⊂ Nâng cao năng lực các công cụ can thiệp tỷ giá
* Công cụ nghiệp vụ thị trường mở: do lượng ngoại tệ dự trữ của Việt Nam
còn quá thấp nên công cụ này chưa đủ sức để giữ vai trò chủ đạo trong điều chỉnh
tỷ giá. Vì vậy cần:
- Xây dựng cơ chế, khung pháp lý, môi trường hoạt động nhằm từng bước
đưa công cụ nghiệp vụ thị trường mở lên đúng vị trí của nó trong việc can thiệp
điều chỉnh tỷ giá hối đoái.
- Tranh thủ tối đa khả năng tích lũy ngoại tệ, đồng thời duy trì mức ngoại tệ
tương xứng với nhịp độ tăng kim ngạch nhập khẩu. Tập trung quản lý ngoại tệ vào
một đầu mối duy nhất là Ngân hàng Nhà nước, ngay cả ngoại tệ của Kho bạc Nhà
nước có được cũng phải bán ngay cho Ngân hàng Nhà nước và khi co nhu cầu thì
mua lại như những đơn vị khác.
- Nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn ngoại tệ dự trữ. Trong thời gian trước
mắt, khi dự trữ ngoại tệ chưa đủ mạnh thì trong trường hợp cần thiết nếu phải sử
dụng đến dự trữ ngoại tệ để tác động vào tình hình cung cầu ngoại tệ trên thị
trường thì phải đảm bảo là lượng ngoại tệ tung thêm vào thị trường được sử dụng
có hiệu quả. Cụ thể, khi cần tung dự trữ ngoại tệ vào thị trường, Ngân hàng Nhà
nước có thể đứng ra bảo lãnh tín dụng nhập khẩu cho các tổng công ty nhập khẩu
các mặt hàng chiến lược, thiết yếu phục vụ cho quốc kế dân sinh và quá trình
công nhiệp hóa-hiện đại hóa đất nước. Điều này giúp đảm bảo ngoại tệ dự trữ
được sử dung đúng cho hoạt động ngoại thương.
- Lựa chọn cơ cấu dự trữ ngoại tệ khả thi. Trong số các đồng tiền mạnh hiện
nay, chủ yếu nổi lên 3 đồng tiền chính: USD, EUR và JPY. Xu hướng vận động
của các đồng tiền này được đánh giá như sau:
y Đô-la Mỹ (USD): đây là ngoại tệ thông dụng nhất tại Việt Nam (hơn 90%
giao dich đối ngoại qua Vietcombank được thực hiện bằng đồng tiền này).
Trong những năm gần đây, tuy gặp nhiều khó khăn về tài chính lẫn chính trị
nhưng Mỹ vẫn giữ vai trò là một nền kinh tế hùng mạnh trên thế giới và là
- 50 -
một đối tác quan trọng của các doanh nghiệp Việt Nam. Vì vậy, việc chiếm
tỷ trọng cao của USD trong tổng dự trữ ngoại tệ quốc gia khó có thể thay đổi
trong tương lai gần.
y Đồng Euro (EUR): đồng tiền này manh tính quốc tế hóa thứ hai sau Mỹ.
Thực trạng kinh tế Mỹ hiện nay góp phần đẩy EUR tăng giá. Tuy nhiên sự
tăng giá này chỉ tác động xấu thêm sự phục hồi kinh tế và làm sâu sắc hơn
những bất ổn vốn có của khu vực sử dụng EUR. Giữa các thành viên EU luôn
có bất đồng trên nhiều mặt; sự liên kết giữa các quốc gia này ẩn chứa nguy
cơ mất kiểm soát đối với những nguồn lực đã phình rộng ra khi thiếu hụt
thông tin hay thiếu đồng bộ trong điều hành kinh tế.
Do vậy, tính ổn định của đồng tiền cần được xét đến khi có quyết định điều
chỉnh lớn trong cơ cấu dự trữ ngoại tệ.
y Đồng Yên Nhật (JPY): đồng tiền này cho đến nay vẫn chưa thực sự là đồng
tiền quốc tế và nước Nhật vẫn đang nổ lực quốc tế hóa đồng tiền của mình.
Theo các nhà kinh tế phương Tây thì người Nhật khó làm được điều này vì:
thứ nhất, vào những năm 1970-1980 khi nước Nhật đang phát triển với một
tốc độ thần kỳ, họ đã từ chối mong muốn các nước tư bản khác về việc quốc
tế hóa đồng Yên vì không muốn những thế lực bên ngoài can thiệp sâu vào
nền kinh tế của mình. Với thực trạng kinh tế hiện nay chưa thoát khỏi suy
thoái và một chính sách phục hồi kinh tế dựa phần lớn vào xuất khẩu đang
gặp trở ngại bởi đồng USD giảm giá, cùng với giá dầu lửa tăng vọt, Nhật đã
xem như đánh mất cơ hội quốc tế hóa đồng tiền của mình. Thứ hai, nước Mỹ
đang phải đương đầu với sự xâm lấn của EUR, khi mọi chuyện chưa ngã ngũ
thì họ không muốn thấy sự xuất hiện một đồng tiền đối trọng thứ ba.
Từ những đánh giá trên, ta nhận thấy rằng trước mắt đồng đô-la vẫn giữ một
vị trí quan trọng trong dự trữ ngoại hối của Việt Nam. Tuy nhiên, cơ cấu này phải
phù hợp với tình hình kinh tế trong nước trong mỗi thời kỳ, đồng thời xây dựng cơ
cấu dự trữ ngoại tệ cần phải có sự theo dõi sự biến động tình hình kinh tế thế giới.
* Công cụ lãi suất
- 51 -
Bản thân lãi suất chỉ có tác động gián tiếp đến tỷ giá nhưng nó lại tác động
trực tiếp đến đầu tư và sản xuất kinh doanh vì nó gắn liền với chi phí sử dụng vốn.
Do vậy, việc sử dụng công cụ này cần nhiều sự cân nhắc.
Luồng vốn ra vào nền kinh tế Việt Nam chủ yếu là đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI). Đầu tư gián tiếp và dòng vốn ngắn hạn gần như không có do thị
trường chứng khoán và thị trường tiền tệ chưa phát triển. Hơn nữa, giao dịch vốn
chưa được mở cửa một phần bởi các quy định của Chính phủ, một phần do điều
kiện tài chính Việt Nam chưa chín muồi và đồng Việt Nam chưa được tự do
chuyển đổi. Tất cả cho thấy lãi suất chưa có thể ảnh hưởng mạnh đến tỷ giá. Tác
động của nó chỉ giới hạn ở chổ làm thay đổi những dòng tiền lưu thông trong thị
trường nội địa, từ nội tệ chuyển sang ngoại tệ và ngược lại. Thực tế cho thấy trong
năm 1998, việc điều chỉnh tyœ giá lên 16% làm cho lợi tức dự tính cuœa việc giữ
ngoại tệ tăng hơn so với lợi tức dự tính cuœa việc giữ VND, đã dẫn đến sự chuyển
đổi từ VND sang ngoại tệ làm aœnh hươœng tới nguồn vốn khaœ dụng VND cuœa các tổ
chức tín dụng. Nhu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 43089.pdf