Tài liệu Đề tài Thực trạng văn hóa giao tiếp với du khách tại các doanh nghiệp du lịch Đà Lạt: 1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thành phố Đà Lạt từ những ngày đầu mới hình thành đã được quy hoạch trở
thành “thành phố nghỉ mát trên cao”. Đến nay đã hơn trăm năm hình thành và phát
triển, trong những đồ án xây dựng tổng thể, Đà Lạt luôn được quy hoạch để phát
triển thành một trung tâm du lịch nghỉ dưỡng của vùng, cả nước và quốc tế.
Với ưu thế về cảnh quan thiên nhiên, khí hậu, thổ nhưỡng, con người hiền
hậu, mến khách, Đà Lạt đã trở thành một thương hiệu du lịch nổi tiếng trong và
ngoài nước. Có thể nói, chính phong cách hiền hòa, thanh lịch, mến khách trong
giao tiếp của người dân Đà Lạt nói chung và những người làm du lịch nói riêng đã
một phần làm nên thương hiệu du lịch Đà Lạt. Tuy nhiên, trong những năm gần
đây, du lịch Đà Lạt phát triển nhưng không theo quy hoạch cụ thể, du lịch chỉ dựa
vào khai thác tài nguyên có sẵn mà ít có sự đầu tư, nâng cấp. Do đó, sự xuống cấp
của các tài nguyên du lịch là điều không thể tránh khỏi, trong đó có nét đẹp v...
66 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1275 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Thực trạng văn hóa giao tiếp với du khách tại các doanh nghiệp du lịch Đà Lạt, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thành phố Đà Lạt từ những ngày đầu mới hình thành đã được quy hoạch trở
thành “thành phố nghỉ mát trên cao”. Đến nay đã hơn trăm năm hình thành và phát
triển, trong những đồ án xây dựng tổng thể, Đà Lạt luôn được quy hoạch để phát
triển thành một trung tâm du lịch nghỉ dưỡng của vùng, cả nước và quốc tế.
Với ưu thế về cảnh quan thiên nhiên, khí hậu, thổ nhưỡng, con người hiền
hậu, mến khách, Đà Lạt đã trở thành một thương hiệu du lịch nổi tiếng trong và
ngoài nước. Có thể nói, chính phong cách hiền hòa, thanh lịch, mến khách trong
giao tiếp của người dân Đà Lạt nói chung và những người làm du lịch nói riêng đã
một phần làm nên thương hiệu du lịch Đà Lạt. Tuy nhiên, trong những năm gần
đây, du lịch Đà Lạt phát triển nhưng không theo quy hoạch cụ thể, du lịch chỉ dựa
vào khai thác tài nguyên có sẵn mà ít có sự đầu tư, nâng cấp. Do đó, sự xuống cấp
của các tài nguyên du lịch là điều không thể tránh khỏi, trong đó có nét đẹp về văn
hóa giao tiếp trong du lịch Đà Lạt.
Hoạt động du lịch thường diễn ra quá trình tiếp xúc, giao tiếp giữa người với
người, cụ thể là sự giao tiếp giữa nhân viên du lịch với du khách. Đồng thời, đặc
trưng của các sản phẩm, dịch vụ du lịch là vừa chứa các yếu tố vật chất vừa chứa
các yếu tố về tinh thần. Sản phẩm, dịch vụ du lịch trọn vẹn phải đem lại cho khách
hàng sự hài lòng về cả hai yếu tố này. Sản phẩm, dịch vụ du lịch còn có thể có
những khiếm khuyết, chưa hoàn hảo nhưng sẽ được bù đắp phần nào bởi những nụ
cười thân thiện, thái độ ân cần, niềm nở, lịch sự… của nhân viên.
Văn hóa giao tiếp có tác động tích cực đến việc gìn giữ mối quan hệ với
khách hàng cũ và tạo dựng quan hệ với khách hàng mới. Những mối quan hệ bền
vững với khách hàng là nguồn lợi nhuận ổn định và lâu dài cho doanh nghiệp, ngay
cả khi doanh nghiệp gặp khó khăn. Tuy vậy, trên thực tế, các doanh nghiệp du lịch
thường chỉ chú ý đầu tư vào cơ sở vật chất mà bỏ qua việc đầu tư vào văn hóa giao
tiếp với du khách.
2
Hiện nay, nhiều doanh nghiệp trong nước đã bắt đầu chú ý đến việc xây
dựng văn hóa doanh nghiệp cho mình vì nó tạo nên những dấu ấn riêng để khách
hàng có thể nhận ra doanh nghiệp trong hàng ngàn doanh nghiệp khác. Có nhiều
yếu tố tạo nên văn hóa doanh nghiệp, trong đó văn hóa giao tiếp là một bộ phận
không thể thiếu và là những biểu hiện đầu tiên của văn hóa doanh nghiệp. Nhất là
đối với các doanh nghiệp du lịch, văn hóa giao tiếp thật sự rất quan trọng vì hoạt
động giao tiếp diễn ra thường xuyên trong đời sống kinh doanh của doanh nghiệp.
Vì vậy, việc nghiên cứu, ứng dụng văn hóa giao tiếp vào trong hoạt động
thực tiễn, đưa ra những giải pháp để phát huy tính tích cực của văn hóa giao tiếp là
điều hết sức cần thiết và là một bộ phận quan trọng để đảm bảo sự phát triển bền
vững, lâu dài của các doanh nghiệp du lịch Đà Lạt.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận về văn hóa giao tiếp với du khách trong ngành du
lịch.
Phân tích thực trạng văn hóa giao tiếp tại các doanh nghiệp du lịch Đà Lạt,
đánh giá của du khách về văn hóa giao tiếp. Trên cơ sở đó nhận định điểm mạnh,
điểm yếu trong văn hóa giao tiếp, đề xuất giải pháp cải thiện vấn đề văn hóa giao
tiếp với du khách tại các doanh nghiệp du lịch Đà Lạt.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: thực trạng văn hóa giao tiếp với du khách tại các
doanh nghiệp du lịch Đà Lạt (các doanh nghiệp lữ hành – vận chuyển, các tổ chức
lưu trú, các cơ sở ăn uống, các khu, điểm du lịch); đánh giá của du khách về văn
hóa giao tiếp của các doanh nghiệp du lịch Đà Lạt.
Phạm vi nghiên cứu: khảo sát trên phạm vi địa bàn thành phố Đà Lạt, trong
thời gian từ tháng 04/2009 đến tháng 07/2009.
4. Phương pháp nghiên cứu
Tiến hành trao đổi trực tiếp với những người làm công tác quản lý, những
nhân viên thường xuyên phải giao tiếp với du khách của một số doanh nghiệp du
lịch Đà Lạt.
3
Thu thập thông tin từ du khách, xử lý thông tin để đưa ra những nhận định
phục vụ cho việc nghiên cứu.
Sử dụng số liệu và kết quả nghiên cứu của đề tài khoa học “ Đẩy mạnh phát
triển nguồn nhân lực cho du lịch Đà Lạt – Lâm Đồng đảm bảo khả năng cạnh tranh
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế”, các báo cáo sơ kết, tổng kết ngành du lịch
của tỉnh Lâm Đồng và tham khảo các tài liệu hướng dẫn về văn hóa giao tiếp, ứng
xử.
6. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Thông qua đề tài, tác giả mong muốn các doanh nghiệp du lịch Đà Lạt có cái
nhìn đầy đủ, tích cực hơn về văn hóa giao tiếp với du khách, từ đó có sự đầu tư
nghiêm túc về vấn đề này.
Bên cạnh đó, hình thành thói quen giao tiếp văn minh với du khách trong đội
ngũ nhân viên du lịch, những người kinh doanh du lịch tại Đà Lạt, lấy lại cái nhìn
thân thiện của du khách về một Đà Lạt “hiền hòa, thanh lịch, mến khách”.
7. Cấu trúc của luận văn
A. Phần mở đầu
B. Nội dung
- Chương I: Cơ sở lý luận về văn hóa giao tiếp với du khách
- Chương II: Thực trạng vấn đề văn hóa giao tiếp với du khách tại các doanh
nghiệp du lịch Đà Lạt.
_ Chương III: Các giải pháp cải thiện vấn đề văn hóa giao tiếp với du khách
tại các doanh nghiệp du lịch Đà Lạt
C. Kết luận
4
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA GIAO TIẾP VỚI DU
KHÁCH
1.1 GIAO TIẾP VÀ GIAO TIẾP TRONG KINH DOANH
1.1.1 Khái niệm về giao tiếp và giao tiếp trong kinh doanh
Trong quá trình sống và làm việc hàng ngày, con người thường xuyên phải
giao tiếp và dành phần lớn thời gian của mình cho hoạt động giao tiếp. Giao tiếp là
hoạt động cần thiết nhằm giúp con người thoả mãn các nhu cầu về : trao đổi thông
tin, chia sẻ tình cảm, hợp tác, giúp đỡ,…
Có nhiều khái niệm được đưa ra để định nghĩa về giao tiếp, nhưng tựu trung
lại có thể nói “Giao tiếp là hành vi và quá trình, trong đó con người tiến hành trao
đổi thông tin với nhau, nhận thức, đánh giá về nhau, tác động qua lại, ảnh hưởng
lẫn nhau”.
Hoạt động giao tiếp được sử dụng trong nhiều lĩnh vực nhưng đặc biệt được
coi trọng trong lĩnh vực kinh doanh, như học giả Mỹ Kinitxi đã nói: “Sự thành công
của một người chỉ có 15% dựa vào kỹ thuật chuyên môn, còn 85% phải dựa vào
những quan hệ giao tiếp và tài xử thế của người ấy”. Giao tiếp tốt không những đem
lại thành công trong sự nghiệp của một con người mà nó còn là một trong những
cách thức xây dựng hình ảnh doanh nghiệp hiệu quả nhất.
Hành vi giao tiếp trong kinh doanh cũng tương tự như hành vi giao tiếp trong
cuộc sống thường ngày nhưng nó được thực hiện trong môi trường kinh doanh:
“Giao tiếp trong kinh doanh chính là hoạt động xác lập và vận hành mối quan hệ
kinh tế, kinh doanh giữa các chủ thể nhằm thoả mãn những nhu cầu nhất định về
lợi ích kinh tế, kinh doanh”.
Như vậy, để đạt được các lợi ích về kinh tế, doanh nghiệp ngoài việc không
ngừng nâng cao chất lượng của dịch vụ, sản phẩm thì việc thiết lập và duy trì bền
vững mối quan hệ tốt đẹp với đối tác, khách hàng, chính phủ, cộng đồng xã
hội,…thông qua hoạt động giao tiếp cũng vô cùng quan trọng.
5
1.1.2 Các hình thức giao tiếp đối với bên ngoài của doanh nghiệp
Đối với các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp luôn tồn tại hai hình
thức giao tiếp phổ biến: giao tiếp trong nội bộ và giao tiếp bên ngoài. Thông qua
giao tiếp nội bộ, các thành viên trong doanh nghiệp có điều kiện để trao đổi, chia sẻ
thông tin với nhau. Kênh giao tiếp bên ngoài giúp doanh nghiệp tiếp cận, thu thập
thông tin cần thiết đồng thời cung cấp những thông tin về doanh nghiệp cho các đối
tượng có nhu cầu.
Trong các ngành kinh doanh dịch vụ, đặc biệt là kinh doanh du lịch, đối
tượng phục vụ chủ yếu là con người nên vấn đề giao tiếp bên ngoài đặc biệt được
chú trọng vì nó là yếu tố để thu hút và giữ chân khách hàng khi họ tìm đến doanh
nghiệp.
Giao tiếp bên ngoài của tổ chức truyền thông tin từ trong ra ngoài và từ
ngoài vào trong. Giao tiếp bên ngoài truyền đạt thông tin giữa tổ chức kinh doanh
và những thực thể mà nó tương tác: khách hàng, nhà cung cấp, cơ quan chính phủ,
giới truyền thông,…
1.1.2.1 Giao tiếp không chính thức
Mặc dù giao tiếp bên ngoài đặc trưng là trang trọng nhưng nó cũng có thể
không trang trọng. Ví dụ: nhân viên công ty du lịch nói chuyện với những người
bạn của anh ta về các chương trình du lịch mà công ty của anh ta tổ chức.
Hình thức giao tiếp không chính thức giúp các thành viên trong tổ chức có
điều kiện tiếp nhận những thông tin để hiểu rõ hơn về tổ chức của mình. Ngược lại,
khi thành viên của tổ chức gởi thông điệp đi, các đối tác sẽ hình thành ấn tượng về
tổ chức dựa vào những biểu hiện như giọng nói, cử chỉ, vẻ bề ngoài.
1.1.2.2 Giao tiếp trang trọng
Một trong số các hoạt động giao tiếp trang trọng là tiếp thị (quảng cáo qua
đài, báo, truyền hình,…) và hoạt động đối ngoại (các chương trình vận động,
những sự kiện đặc biệt của công ty,…) nhằm phổ biến thông tin về doanh nghiệp
cho các tổ chức bên ngoài.
6
1.2 VĂN HOÁ DOANH NGHIỆP VÀ VĂN HOÁ GIAO TIẾP VỚI
KHÁCH HÀNG
1.2.1 Văn hoá doanh nghiệp
1.2.1.1 Khái niệm
Khái niệm về văn hoá doanh nghiệp bắt đầu được chú ý sau sự thành công
rực rỡ của các công ty Nhật Bản vào đầu những năm 70. Đến thập kỷ 90 , người ta
bắt đầu đi sâu nghiên cứu tìm hiểu về những nhân tố cấu thành cũng như những tác
động to lớn của văn hoá đối với sự phát triển của một doanh nghiệp. Đã có rất nhiều
khái niệm về văn hoá doanh nghiệp:
Ông Georges de Saite Marie, chuyên gia người Pháp về doanh nghiệp vừa và
nhỏ, đã đưa ra định nghĩa: “Văn hoá doanh nghiệp là tổng hợp các giá trị, các biểu
tượng, huyền thoại, nghi thức, các điều cấm kỵ, các quan điểm triết học, đạo đức
tạo thành nền móng sâu xa của doanh nghiệp”.
Tổ chức lao động quốc tế ILO định nghĩa: “Văn hoá doanh nghiệp là sự trộn
lẫn đặc biệt các giá trị, các tiêu chuẩn, thói quen và truyền thống, những thái độ
ứng xử và lễ nghi mà toàn bộ chúng là duy nhất đối với một tổ chức đã biết”.
…
Trên cơ sở kế thừa những nghiên cứu đi trước, văn hoá doanh nghiệp được
định nghĩa như sau: “Văn hoá doanh nghiệp là toàn bộ những nhân tố văn hoá
được doanh nghiệp chọn lọc, tạo ra, sử dụng và biểu hiện trong hoạt động kinh
doanh, tạo nên bản sắc kinh doanh của doanh nghiệp”.
1.2.1.2 Các cấp độ của văn hoá doanh nghiệp
Văn hoá doanh nghiệp có thể chia thành ba cấp độ khác nhau. Thuật ngữ
“cấp độ” chỉ mức độ cảm nhận được của các giá trị văn hoá trong doanh nghiệp hay
nói cách khác là tính hữu hình của các giá trị văn hoá đó.
Cấp độ thứ nhất: Những quá trình và cấu trúc hữu hình của doanh
nghiệp
Bao gồm tất cả những hiện tượng và sự vật mà một người có thể nhìn, nghe
và cảm thấy khi tiếp xúc với một tổ chức có nền văn hoá xa lạ như:
7
• Kiến trúc, cách bài trí, công nghệ, sản phẩm
• Cơ cấu tổ chức, các phòng ban của doanh nghiệp
• Các văn bản quy định nguyên tắc hoạt động của doanh nghiệp
• Lễ nghi và lễ hội hằng năm
• Các biểu tượng, logo, khẩu hiệu, tài liệu quảng cáo của doanh nghiệp
• Ngôn ngữ, cách ăn mặc, xe cộ, chức danh, cách biểu lộ cảm xúc,
hành vi ứng xử thường thấy của các thành viên và nhóm làm việc
trong doanh nghiệp
• Những câu chuyện và huyền thoại về tổ chức
• Hình thức mẫu mã sản phẩm
• Thái độ và cung cách ứng xử của các thành viên trong doanh
nghiệp
Cấp độ thứ hai: Những giá trị được tuyên bố (bao gồm các chiến
lược, mục tiêu, triết lý của doanh nghiệp)
“Những giá trị được tuyên bố” cũng có tính hữu hình vì người ta có thể nhận
biết và diễn đạt chúng một cách rõ ràng, chính xác. Chúng thực hiện chức năng
hướng dẫn cho các thành viên trong doanh nghiệp cách thức đối phó với một số tình
thế cơ bản và rèn luyện cách ứng xử cho các thành viên mới trong môi trường
doanh nghiệp.
Cấp độ thứ ba: Những quan niệm chung (những niềm tin, nhận thức,
suy nghĩ và tình cảm có tính vô thức, mặc nhiên được công nhận trong doanh
nghiệp)
Trong bất kỳ cấp độ văn hoá nào (văn hoá dân tộc, văn hoá doanh
nghiệp,…) cũng đều có quan niệm chung, được hình thành và tồn tại trong một thời
gian dài, chúng ăn sâu vào tâm lý của hầu hết các thành viên trong nền văn hoá đó
và trở thành điều mặc nhiên được công nhận.
8
1.2.2 Văn hoá giao tiếp với khách hàng
Dựa vào sự phân chia các cấp độ của văn hóa doanh nghiệp, văn hóa giao
tiếp thuộc cấp độ thứ nhất của văn hóa doanh nghiệp và là những biểu hiện đầu tiên
của văn hóa doanh nghiệp.
Văn hóa giao tiếp là một phần của văn hóa doanh nghiệp, vì vậy, khái niệm
về văn hóa giao tiếp được xây dựng dựa trên khái niệm về văn hóa doanh nghiệp:
Văn hóa giao tiếp là những quy tắc, cách thức giao tiếp đẹp làm hài lòng đối
tượng giao tiếp mà chủ thể kinh doanh chọn lọc, tạo ra, tích lũy, sử dụng và biểu
hiện ra trong hoạt động kinh doanh và tạo nên bản sắc kinh doanh riêng của doanh
nghiệp.
1.3 VĂN HÓA GIAO TIẾP VỚI DU KHÁCH TRONG NGÀNH DU
LỊCH
1.3.1 Những biểu hiện của văn hóa giao tiếp với du khách
Dựa trên khái niệm về văn hóa giao tiếp ở trên, văn hóa giao tiếp với du
khách tại các doanh nghiệp du lịch được biểu hiện như sau:
1.3.1.1 Thái độ cởi mở, thân thiện
Thái độ cởi mở, nụ cười thân thiện của nhân viên du lịch dễ tạo ấn tượng tốt
đẹp trong lần giao tiếp đầu tiên, từ đó, dễ tiếp xúc, trao đổi trong những lần giao
tiếp về sau. Khi có sự tin tưởng và thoải mái trong giao tiếp, du khách cởi mở hơn
trong việc trao đổi thông tin với nhân viên. Nhân viên có điều kiện tiếp cận, tìm
hiểu về các mối quan tâm, lợi ích mà du khách mong muốn. Những thông tin này
rất cần thiết để doanh nghiệp tổ chức và cải thiện tốt hơn các dịch vụ chăm sóc, hỗ
trợ du khách của mình.
1.3.1.2 Trang phục trong giao tiếp
Nhân viên nên mặc đồng phục của công ty khi làm việc và khi giao tiếp với
khách hàng. Hình ảnh nhân viên mặc đồng phục trong giao tiếp là hình ảnh đại diện
doanh nghiệp trước khách hàng, nó thể hiện sự đồng bộ, chuyên nghiệp trong tổ
chức doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp không quy định đồng phục, thì nhân viên
cũng cần ăn mặc lịch sự, gọn gàng, sạch sẽ và phù hợp với công việc, ví dụ: nhân
9
viên lễ tân mặc áo dài, nhân viên phục vụ khách sạn, nhà hàng mặc quần tây, áo sơ
mi trắng,…
1.3.1.3 Tôn trọng giờ giấc
Khi du khách sử dụng dịch vụ của doanh nghiệp, nhân viên cần lựa chọn giờ
giấc phục vụ sao cho thuận tiện với du khách (các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành
chuyên tổ chức các tuyến tham quan du lịch theo nhu cầu của khách).
Không để du khách phải chờ đợi phục vụ (các tổ chức lưu trú, các cơ sở ăn
uống, dịch vụ vận chuyển – lữ hành). Tôn trọng giờ giấc trong giao tiếp cũng là một
yếu tố tạo lòng tin với du khách và tạo nên chất lượng dịch vụ của doanh nghiệp du
lịch.
1.3.1.4 Biết lắng nghe
Nói và lắng nghe đều là những kỹ năng cần thiết và thể hiện sự khéo léo
trong giao tiếp. Lắng nghe là cách tốt nhất để doanh nghiệp tìm hiểu được các lợi
ích mà du khách quan tâm. Đồng thời, lắng nghe cũng là cách nhân viên thể hiện sự
tôn trọng với du khách trong giao tiếp.
1.3.1.5 Tôn trọng và cư xử đúng mực với du khách
Trong bất kỳ tình huống giao tiếp nào, nhân viên du lịch đều phải có thái độ
tôn trọng và cư xử đúng mực với du khách. Trường hợp du khách có ý kiến xung
đột với nhân viên hay đưa ra những yêu cầu mà doanh nghiệp không thể đáp ứng
được, nhân viên không nên chỉ cố gắng giữ ý kiến riêng mình mà phải tìm cách
thuyết phục, làm thay đổi quan điểm của du khách. Để làm được điều này, nhân
viên phải đứng trên quan điểm lợi ích của du khách để đưa ra ý kiến.
1.3.1.6 Làm tốt công việc
Nhân viên hoàn thành tốt công việc của mình trước hết thể hiện được năng
lực, trình độ và tinh thần trách nhiệm với công việc. Nhân viên hoàn thành tốt công
việc của mình có nghĩa đã cung cấp đầy đủ các dịch vụ mà doanh nghiệp đã cam kết
với du khách. Khi du khách nhận được những dịch vụ chất lượng theo cam kết
trước đó, họ sẽ đặt niềm tin vào doanh nghiệp, bản thân doanh nghiệp đã tạo dựng
được hình ảnh và thương hiệu đáng tin cậy trong mắt du khách.
10
1.3.1.7 Nhiệt tình, sẵn sàng hỗ trợ du khách
Sự nhiệt tình thể hiện qua việc nhân viên cố gắng hoàn thành công việc của
mình hoàn hảo hơn sự kỳ vọng của du khách; cung cấp đầy đủ thông tin, kịp thời,
chính xác; sẵn sàng giúp đỡ du khách khi có yêu cầu và dịch vụ được đáp ứng một
cách nhanh chóng. Du khách sẽ ấn tượng và ghi nhớ về tinh thần sẵn sàng phục vụ,
giúp đỡ của đội ngũ nhân viên trong doanh nghiệp, tạo sự an tâm và tin tưởng vào
dịch vụ đã lựa chọn. Tinh thần trách nhiệm cao, lòng nhiệt tình tạo nên điểm mạnh
về chất lượng dịch vụ của doanh nghiệp so với các doanh nghiệp khác trong tâm trí
du khách.
1.3.1.8 Mở rộng kiến thức trong giao tiếp
Trong giao tiếp với du khách, nhân viên cần phải có ý thức học hỏi để biết
cách ứng xử, giao tiếp và ứng xử linh hoạt trong các tình huống. Kiến thức của nhân
viên trong giao tiếp cũng là một nhân tố tạo nên chất lượng dịch vụ của doanh
nghiệp du lịch.
Nhân viên có đầy đủ kiến thức sẽ mạnh dạn và tự tin trong giao tiếp, có khả
năng truyền đạt đầy đủ thông tin cần thiết đến du khách; kiến thức phong phú giúp
quá trình giao tiếp trở nên sinh động, lôi cuốn, điều này đặc biệt cần thiết đối với
những nhân viên làm công việc hướng dẫn viên du lịch tại các công ty lữ hành,
thuyết minh tại các khu, điểm du lịch.
Chất lượng nguồn nhân lực đóng vai trò quan trọng quyết định chất lượng
dịch vụ của doanh nghiệp. Đội ngũ nhân viên du lịch có nền tảng kiến thức sâu và
rộng thì chất lượng dịch vụ của doanh nghiệp du lịch càng được nâng cao.
1.3.1.9 Quan tâm đến thông tin phản hồi từ phía du khách
Thái độ, phản ứng của du khách trong và sau quá trình sử dụng dịch vụ của
doanh nghiệp là những thông tin phản ánh trung thực nhất chất lượng dịch vụ của
doanh nghiệp. Những phản hồi từ phía du khách có thể được thể hiện qua lời phàn
nàn, khen ngợi, nhận xét,…qua tâm trạng, thái độ của du khách, qua thời gian khách
sử dụng dịch vụ , du khách quay trở lại sử dụng dịch vụ của doanh nghiệp vào
những lần sau,…
11
Thông tin phản hồi từ du khách cung cấp cho doanh nghiệp những thông tin
hữu ích về nhu cầu của du khách, những điểm hài lòng, những điểm không hài lòng
trong dịch vụ, những lợi ích mong muốn thêm về dịch vụ,…
Doanh nghiệp cần quan tâm đến nguồn thông tin hữu ích này, tận dụng nó
làm cơ sở để hoàn thiện chất lượng dịch vụ, cung cách phục vụ, ứng xử với khách
hàng, ngoài ra, nó cũng là những gợi ý về những dịch vụ khác mà doanh nghiệp có
thể cung cấp thêm cho du khách. Vì vậy, doanh nghiệp phải biết cách khai thác và
duy trì nguồn thông tin này, xem nó là kênh thông tin quan trọng của doanh nghiệp
trong quá trình kinh doanh và phát triển.
1.3.2 Vai trò của văn hóa giao tiếp với du khách trong ngành du lịch
1.3.2.1 Văn hóa giao tiếp giúp cải thiện chất lượng dịch vụ doanh nghiệp
Đặc trưng trong hoạt động du lịch là quá trình giao tiếp giữa nhân viên với
du khách diễn ra rất thường xuyên, đặc biệt đối với một số công việc như: hướng
dẫn viên du lịch, thuyết minh viên tại các điểm tham quan, lễ tân khách sạn, nhân
viên phục vụ nhà hàng,… Nhân viên không chỉ truyền đạt thông tin đến du khách,
trong quá trình trao đổi chắc chắc sẽ có những ý kiến phản hồi ngược lại đến nhân
viên. Thông qua quá trình lắng nghe, doanh nghiệp có cơ hội tìm hiểu rõ hơn về
những nhu cầu, lợi ích mà du khách mong muốn, từ đó tổ chức tốt hơn các dịch vụ
chăm sóc, hỗ trợ du khách. Các ý kiến phản hồi là kênh thông tin hữu ích trong việc
điều chỉnh, cải thiện chất lượng dịch vụ du lịch theo hướng thuận tiện nhất cho du
khách.
1.3.2.2 Văn hóa giao tiếp giúp nâng cao trình độ năng lực của đội ngũ
nhân viên
Một trong những biểu hiện của văn hóa giao tiếp với du khách là nhân viên
không ngừng mở rộng kiến thức. Khi doanh nghiệp thực hiện văn hóa giao tiếp với
du khách đồng nghĩa với việc doanh nghiệp yêu cầu nhân viên phải không ngừng
học hỏi, bổ sung kiến thức. Tinh thần học hỏi không ngừng trong đội ngũ nhân viên
là điều kiện để nâng cao trình độ năng lực nhân viên, nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực.
12
1.3.2.3 Văn hóa giao tiếp giúp doanh nghiệp đảm bảo, duy trì mối quan hệ
lâu dài, trung thành và bền vững với du khách
Ngoài những biểu hiện bên ngoài về thái độ, hành vi, trang phục,…, văn hóa
giao tiếp còn bao hàm cả việc doanh nghiệp phải đảm bảo dịch vụ đúng như cam
kết, thậm chí tốt hơn cả sự mong đợi của du khách thông qua sự nhiệt tình, tận tâm
với du khách. Một khi du khách cảm nhận được những giá trị vật chất và giá trị vô
hình mà mình nhận được xứng đáng với đồng tiền mà họ bỏ ra, chắc chắn du khách
sẽ quay trở lại vào lần sau. Văn hóa giao tiếp thật sự làm sâu sắc thêm mối quan hệ
giữa du khách với doanh nghiệp.
1.3.2.4 Văn hóa giao tiếp giúp doanh nghiệp tạo dựng thương hiệu trên thị
trường
Thông qua những biểu hiện về sự tôn trọng giờ giấc, hành vi đúng mực,
đồng phục của nhân viên, …văn hóa giao tiếp với du khách tạo cho doanh nghiệp
một phong cách chính quy, chuyên nghiệp trong tổ chức và hoạt động. Nhân viên
làm tốt công việc của mình và luôn sẵn sàng hỗ trợ du khách, thể hiện chất lượng
dịch vụ của doanh nghiệp được đảm bảo theo đúng cam kết với ban đầu, thậm chí
tốt hơn cả sự mong đợi của du khách. Hoạt động chuyên nghiệp, có tổ chức, chất
lượng dịch vụ đảm bảo, đáng tin cậy là cách thức tạo dựng và phát triển thương hiệu
doanh nghiệp trên thị trường bền vững nhất.
1.3.2.5 Văn hóa giao tiếp giúp doanh nghiệp quảng bá hình ảnh hiệu quả
Văn hóa giao tiếp đem đến sự hài lòng cho du khách thông qua thái độ trân
trọng trong ứng xử, sự quan tâm, chu đáo trong phục vụ. Du khách một khi đã hài
lòng họ sẽ lựa chọn dịch vụ của doanh nghiệp trong những lần tiếp theo. Đồng thời,
khi trở về địa phương, du khách sẽ giới thiệu đến người thân, bạn bè, đồng
nghiệp,… biết đến chất lượng dịch vụ của doanh nghiệp. Đây thật sự là một kênh
quảng bá ít tốn kém mà lại vô cùng hiệu quả vì những lời quảng cáo trên đã được
kiểm chứng chất lượng bằng chính bản thân của du khách. Khi có nhu cầu đi du
lịch, các đối tượng trên sẽ ưu tiên lựa chọn dịch vụ của doanh nghiệp.
13
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ VĂN HÓA GIAO TIẾP
VỚI DU KHÁCH TẠI CÁC DOANH NGHIỆP
DU LỊCH ĐÀ LẠT
2.1 SƠ LƯỢC VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC DOANH NGHIỆP DU
LỊCH ĐÀ LẠT
Ngành kinh tế du lịch của Lâm Đồng nói chung, Đà Lạt nói riêng những năm
gần đây đã có những bước tiến đáng kể. Sản phẩm du lịch ngày một phong phú,
lượng khách đến tham quan năm sau cao hơn năm trước, tuy nhiên sự tăng trưởng ở
đây không đáng kể.
Bảng 2.1 Bảng tổng hợp kết quả tăng trưởng ngành du lịch Lâm Đồng từ năm
2006 – 2009
(Nguồn: Sở Văn hóa Thể thao Du lịch Lâm Đồng)
Lượng khách du lịch đến Đà Lạt – Lâm Đồng tăng qua các năm, tốc độ tăng
trưởng bình quân qua các năm là 10,7%. Đáng lưu ý là lượng khách tăng đột biến từ
năm 2006 đến năm 2007 là 19%, nhưng các năm 2008, 2009 lượng khách đến Đà
Lạt tăng chậm lại (2008: 4,5%; 2009: 8,6%).
Doanh thu từ hoạt động du lịch cũng tăng tương ứng, bình quân tăng
31,1%/năm, tăng đột biến trong năm 2007 là 80,4% nhưng đến năm 2008 chỉ tăng
7,3%, năm 2009 tăng 5,6%.
Năm Số lượt khách
(ngàn lượt)
Doanh thu
(tỷ đồng)
Số ngày lưu trú bình quân
(ngày)
2006 1.848.000 1.663 2,3
2007 2.200.000 3.000 2,3
2008 2.300.000 3.220 2,3
2009 2.500.000 3.400 2,4
14
Số ngày lưu trú bình quân hầu như không thay đổi qua các năm, bình quân
2,325 ngày.
Kết quả tổng hợp trên cho thấy lượng khách đến tham quan du lịch tại Đà
Lạt – Lâm Đồng tăng không đáng kể, tốc độ tăng trưởng doanh thu từ ngành kinh tế
mũi nhọn du lịch thậm chí giảm dần qua các năm, số ngày lưu trú bình quân hầu
như không thay đổi. Trong khi đó, đời sống của người dân ngày một nâng cao, nhu
cầu đi du lịch trong dân chúng cũng tăng theo, cơ chế mở cửa của Nhà nước tạo
điều kiện đón một lượng lớn khách du lịch nước ngoài đến du lịch tại Việt Nam. Lẽ
ra với những ưu đãi và khác biệt về cảnh quan thiên nhiên, kiến trúc đô thị, khí hậu
thổ nhưỡng, … Đà Lạt phải là sự lựa chọn của nhiều du khách. Điều này cho thấy
dịch vụ du lịch tại Đà Lạt – Lâm Đồng trong những năm gần đây trở nên nhàm chán
và đơn điệu, du khách bắt đầu lựa chọn các địa phương khác làm điểm đến cho
chuyến du lịch của mình thay vì chọn đến Đà Lạt như trước đây.
2.1.1 Hệ thống cơ sở lưu trú du lịch
Bảng 2.2 Bảng thống kê về cơ sở lưu trú du lịch Lâm Đồng từ năm 2006 – 2009
NĂM CHỈ TIÊU ĐVT 2006 2007 2008 2009
Khách sạn đạt
1-5 sao Khách sạn 54 69 79 85
Số phòng Phòng 10.000 12.500 11.000 11.000
Tổng số cơ sở
lưu trú Cơ sở 715 767 675 673
(Nguồn: Sở Văn hóa Thể thao Du lịch Lâm Đồng)
Tổng số cơ sở lưu trú giảm dần qua các năm là do các nhà nghỉ tư nhân quy
mô nhỏ, xuống cấp, phải đóng cửa ngưng hoạt động kinh doanh. Số khách sạn từ 1
– 5 sao tăng dần qua các năm là tín hiệu đáng mừng vì thành phố Đà Lạt đã tập
trung vào đầu tư xây dựng các cơ sở lưu trú cao cấp, chất lượng. Đây là hướng phát
triển đúng đắn vì trong quy hoạch đến năm 2020, Đà Lạt được xác định phát triển
du lịch theo hướng mở rộng các loại hình du lịch cao cấp: du lịch hội thảo, hội nghị,
du lịch nghỉ dưỡng kết hợp khám chữa bệnh, …
15
Hệ thống lưu trú du lịch đến năm 2009 với 11.000 phòng nhìn chung đã cơ
bản đáp ứng được nhu cầu của du khách trong thời điểm hiện tại, có khả năng phục
vụ một lượng lớn du khách trong cùng một thời điểm, đặc biệt là các dịp lễ, tết, lễ
hội.
2.1.2 Hệ thống khu, điểm du lịch
Toàn tỉnh có 24 doanh nghiệp với 31 khu, điểm du lịch đang hoạt động kinh
doanh phục vụ khách, trong đó, thành phố Đà Lạt có 21 doanh nghiệp với 27 khu,
điểm du lịch. Ngoài ra, có thêm 60 điểm tham quan du lịch miễn phí (làng nghề,
buôn dân tộc, đền, chùa, công viên,…) được đưa vào các tour du lịch tạo phong phú
cho các tour, tuyến du lịch trên địa bàn tỉnh.
2.1.3 Hệ thống lữ hành, vận chuyển du lịch
Toàn tỉnh có 22 doanh nghiệp kinh doanh lữ hành – vận chuyển du lịch,
trong đó có 6 đơn vị kinh doanh lữ hành quốc tế và 16 đơn vị kinh doanh lữ hành
nội địa và vận chuyển du lịch. Hoạt động của các doanh nghiệp vận chuyển du lịch
phát triển mạnh, tạo thuận lợi cho du khách đến Đà Lạt trong mọi thời điểm.
Ngành du lịch đã xét và cấp thẻ hướng dẫn viên du lịch cho 37 hướng dẫn
viên du lịch quốc tế nhằm đáp ứng nhu cầu hướng dẫn, tham quan cho du khách
đến Đà Lạt, đặc biệt là khách quốc tế.
Một số sản phẩm vận chuyển du lịch nội thành Đà Lạt cũng góp phần đa
dạng hóa sản phẩm du lịch như: xe ngựa cổ, tham quan bằng xe lửa tại Ga Đà Lạt,
tham quan bằng xe điện vòng quanh bờ hồ Xuân Hương,…
2.1.4 Công tác quy hoạch và đầu tư cho du lịch
Thời gian vừa qua, các địa phương, các doanh nghiệp trong tỉnh cũng đã tiến
hành quy hoạch chi tiết các khu, điểm du lịch, trong đó ưu tiên quy hoạch những
khu, điểm du lịch lớn nằm ở vị trí có nhiều tiềm năng phát triển để đưa vào danh
mục kêu gọi thu hút đầu tư.
Trong tổng số các khu, điểm du lịch đang hoạt động khai thác phục vụ tham
quan, hiện có khoảng 30% khu, điểm tiến hành lập quy hoạch và đang từng bước
đầu tư nâng cấp để phục vụ khách du lịch tốt hơn.
16
Từ năm 2006 đến tháng 06/2008, toàn tỉnh thu hút được 135 dự án đầu tư du
lịch - dịch vụ, với 72 dự án đã được thỏa thuận đầu tư hoặc cấp giấy chứng nhận
đầu tư, trong đó có 29 dự án đã khởi công triển khai xây dựng và 12 dự án đi vào
hoạt động kinh doanh, tổng vốn khoảng 1.000 tỷ đồng.
Về đầu tư hạ tầng du lịch, tỉnh đã tăng cường công tác đầu tư hạ tầng phục
vụ các khu du lịch lớn. Tổng số vốn đầu tư hạ tầng du lịch là 63 tỷ đồng, chủ yếu là
ngân sách Trung ương hỗ trợ đầu tư cho các khu du lịch trọng điểm, phân bổ rộng
trên địa bàn toàn tỉnh như: đường Dinh 3 – hồ Tuyền Lâm, đường vòng hồ Tuyền
Lâm,…
2.1.5 Sản phẩm du lịch – dịch vụ
Hình thức du lịch phổ biến nhất ở Đà Lạt từ trước tới nay là loại hình du lịch
tham quan các khu danh lam thắng cảnh trong thành phố. Mặc dù có ưu điểm về
mặt cảnh quan thiên nhiên, nhưng do tính chất giống nhau giữa các điểm du lịch,
nên hình thức này đã dần trở nên nhàm chán và đơn điệu với du khách. Trong khi
đó, nhu cầu của khách du lịch ngày nay không chỉ là thăm thú các cảnh quan đẹp,
họ còn muốn được thư giãn, nghỉ ngơi, giải trí, được tìm hiểu và khám phá văn hóa,
truyền thống của địa phương.
Nhằm làm đa dạng hóa sản phẩm du lịch trên địa bàn thành phố, các cấp các
ngành đã tập trung thu hút các dự án đầu tư vào du lịch. Phần lớn các dự án đầu tư
đều có quy mô lớn, sản phẩm đa dạng, phong phú và cao cấp: khu du lịch trường
quay ngoại cảnh – hồ Tuyền Lâm, công viên kết hợp vui chơi giải trí đường Bà
Huyện Thanh Quan, dự án Bệnh viện Hoàn Mỹ (loại hình du lịch chữa bệnh),…
Các khu, điểm du lịch đang hoạt động kinh doanh cũng tự làm mới mình
bằng cách chủ động đầu tư, nâng cấp, phát triển thêm nhiều loại hình, sản phẩm,
dịch vụ độc đáo nhằm thu hút du khách như: thác Đatanla, đồi Mộng Mơ, Thung
lũng vàng,…
Hình thức du lịch sự kiện mà tập trung là du lịch hội nghị - hội thảo đang
ngày càng phát triển. Nắm bắt được xu thế đó, các khách sạn cao cấp, khu nghỉ
dưỡng trên địa bàn đã tập trung đầu tư trang thiết bị, dịch vụ và nguồn nhân lực để
17
khai thác loại hình du lịch mới mẻ này: Sofitel Dalat Palace, Sammy Đà Lạt, Resort
Hoàng Anh – Đà Lạt,…
Loại hình du lịch khám phá văn hóa bản địa cũng được quan tâm hơn sau sự
kiện không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, trong đó có Lâm Đồng được
UNESCO công nhận là kiệt tác truyền khẩu và di sản văn hóa phi vật thể của nhân
loại. Từ đó, đã hình thành nên các đội nhóm văn nghệ cồng chiêng dân tộc Kơ Ho,
Mạ, Churu để biểu diễn phục vu du khách tại các buôn làng, các điểm du lịch.
Ngoài ra, các chương trình du lịch gắn với các hoạt động thể thao trên địa
bàn cũng đã thu hút được một lượng lớn du khách tham gia như: các giải thi đấu
Golf, đua xe đạp, chạy việt dã. Đặc biệt, còn có các sản phẩm độc đáo khác được
các công ty lữ hành khai thác trên địa bàn Đà Lạt, phục vụ du khách, chủ yếu là du
khách quốc tế như: leo núi, dù lượn, vượt thác,…
2.1.6 Công tác nguồn nhân lực du lịch
Theo thống kê của Sở Văn hóa Thể thao Du lịch Lâm Đồng, hiện nay toàn
ngành du lịch có khoảng 7.000 lao động trực tiếp và 20.000 lao động ngoài xã hội
tham gia phục vụ du lịch. Để nâng cao chất lượng phục vụ, hàng năm ngành du lịch
đã tổ chức các khóa đào tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ ngắn hạn cho đội ngũ cán bộ
công nhân viên, lao động trong ngành. Tuy nhiên, chất lượng đội ngũ lao động
ngành du lịch còn nhiều hạn chế, số lao động qua đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ du
lịch chiếm tỷ lệ thấp khoảng 40%. Đội ngũ lao động ngành du lịch hiện nay vẫn còn
hạn chế cả về số lượng và chất lượng, về cơ bản chưa đáp ứng được yêu cầu phát
triển của ngành, tính chuyên nghiệp, trình độ ngoại ngữ và phong cách giao tiếp còn
hạn chế.
Ủy ban nhân dân tỉnh đã chỉ đạo các ngành chức năng, doanh nghiệp xây
dựng phương án phối hợp tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực du lịch phục
vụ nhu cầu trước mắt và lâu dài. Tổ chức các lớp bồi dưỡng về du lịch và nghiệp vụ
chuyên môn, ngoại ngữ cho trên 1.000 lượt học viên là lãnh đạo các doanh nghiệp
du lịch, cán bộ quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn.
18
Hiện nay, trên địa bàn có 6 trường đào tạo ngành du lịch từ bậc công nhân
lành nghề cho đến đại học: Trường trung cấp Du lịch Đà Lạt, Trường trung học
Kinh tế - Kỹ thuật Lâm Đồng, Trường Cao đẳng Nghề Đà Lạt, Trường Cao đẳng Sư
phạm Đà Lạt, Trường Đại học Đà Lạt, Trường Đại học Yersin. Mỗi năm, những
trường này cung cấp cho thị trường du lịch Đà Lạt trên hai nghìn lao động, nhưng
đội ngũ nhân lực này nhìn chung còn yếu về chất lượng,
2.2 THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ VĂN HÓA GIAO TIẾP VỚI DU KHÁCH
TẠI CÁC DOANH NGHIỆP DU LỊCH ĐÀ LẠT HIỆN NAY
Quyết định số 409/QĐ-TTg ngày 27/05/2002 của Thủ tướng Chính phủ “Phê
duyệt điều chỉnh quy hoạch chung thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng và vùng phụ
cận đến năm 2020” xác định một trong những tính chất của thành phố Đà Lạt: “Là
một trong những trung tâm du lịch, đặc biệt là du lịch tham quan, nghỉ dưỡng, hội
nghị, hội thảo và sinh thái của vùng và cả nước”. Du lịch sẽ là ngành kinh tế động
lực của Đà Lạt, trong đó tập trung phát triển các sản phẩm du lịch cao cấp. Chính vì
vậy, thị trường du lịch Đà Lạt hiện nay rất sôi động, cùng với các doanh nghiệp du
lịch địa phương còn có sự tham gia của nhiều nhà đầu tư lớn trong và ngoài nước.
Các doanh nghiệp không ngừng đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng, tạo ra các sản phẩm
du lịch mới lạ, độc đáo, hấp dẫn nhưng lại bỏ qua việc đầu tư vào khía cạnh văn hóa
doanh nghiệp để tạo dựng một hình ảnh đẹp và dành được thiện cảm trong lòng du
khách về doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp du lịch, văn hóa doanh nghiệp
thể hiện rõ nhất qua văn hóa giao tiếp của doanh nghiệp, một yếu tố quan trọng để
thu hút du khách và nâng cao hiệu quả kinh doanh. Việc nâng cao kỹ năng giao tiếp,
ứng xử cho nhân viên và tạo thói quen ứng xử có văn hóa với du khách là một cách
đầu tư đem lại những hiệu quả rất tích cực và lâu dài so với việc đầu tư vào các yếu
tố vật chất khác.
Nhưng trên thực tế, không có nhiều doanh nghiệp hiểu biết đẩy đủ về văn
hóa giao tiếp cũng như sự cần thiết phải xây dựng văn hóa giao tiếp trong doanh
nghiệp. Đặc biệt, có sự khác biệt rất lớn giữa nhận thức và thực tế văn hóa giao tiếp
tại doanh nghiệp. Các doanh nghiệp đều nhận thấy nhân viên có kỹ năng giao tiếp
19
và giao tiếp có văn hóa sẽ đem lại nhiều lợi ích cho doanh nghiệp nhưng lại không
có định hướng, tiêu chí, hành động cụ thể gì để hướng những hành vi ứng xử, giao
tiếp của nhân viên trở nên chuyên nghiệp và có văn hóa.
2.2.1 Nhận thức và hiểu biết của các doanh nghiệp về văn hóa giao tiếp
đối với du khách
Đối tượng phục vụ của các sản phẩm, dịch vụ du lịch là con người. Do đó,
đặc trưng của sản phẩm, dịch vụ du lịch là quá trình tiếp xúc, giao tiếp giữa du
khách và nhân viên du lịch diễn ra thường xuyên. Điều đó cho thấy văn hóa giao
tiếp đóng vai trò vô cùng quan trọng hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp du
lịch. Thông qua kết quả khảo sát tại một số doanh nghiệp du lịch Đà Lạt, vấn đề
nhận thức và hiểu biết về văn hóa giao tiếp thể hiện như sau:
¾ Về phía doanh nghiệp:
Hầu hết doanh nghiệp du lịch qua trao đổi đều đánh giá rất cao vai trò của
văn hóa giao tiếp đối với khách hàng trong chất lượng dịch vụ của công ty. Họ cho
rằng cần nhiều yếu tố tạo nên một sản phẩm, dịch vụ du lịch hấp dẫn: cơ sở vật chất
tiện nghi, cung cách phục vụ tận tình, sự độc đáo, mới lạ, hấp dẫn của sản phẩm du
lịch,…, đặc biệt quan trọng là vấn đề giao tiếp với du khách.
Đối với các doanh nghiệp, khái niệm văn hóa giao tiếp còn khá lạ lẫm và
được hiểu theo nhiều cách khác nhau, ví dụ như:
+ Văn hóa giao tiếp là kỹ năng giao tiếp được nâng lên thành nghệ thuật
giao tiếp.
+ Văn hóa giao tiếp là sự kết hợp giữa văn hóa công ty và văn hóa địa
phương.
+ Văn hóa giao tiếp là hoạt động giao tiếp mang bản sắc riêng của doanh
nghiệp.
+ Văn hóa giao tiếp là khi giao tiếp, các đối tượng giao tiếp có thể hiểu
được tâm ý của nhau.
…
20
Theo các doanh nghiệp, những yếu tố cần thiết tạo nên văn hóa giao tiếp cho
doanh nghiệp như:
+ Lời nói nhẹ nhàng.
+ Biết sử dụng ngôn ngữ cho phù hợp với từng đối tượng du khách để nâng
cao khả năng truyền đạt thông tin.
+ Giao tiếp có phong cách riêng, lịch sự.
+ Thái độ niềm nở, thân thiện.
+ Trang phục gọn gàng, sạch sẽ, đẹp mắt.
+ Nhân viên cần vững chuyên môn nghiệp vụ, có kiến thức tốt.
¾ Về phía nhân viên:
Người lao động làm việc tại các doanh nghiệp du lịch được khảo sát đều
đánh giá cao vai trò của giao tiếp trong công việc. Nhân viên giao tiếp tốt đem lại
nhiều lợi ích: bản thân họ hoàn thành công việc được giao một cách hiệu quả; doanh
nghiệp tạo được ấn tượng tốt với du khách.
Theo đó, cách hiểu của các đối tượng nhân viên về văn hóa giao tiếp với du
khách rất đơn giản: “Văn hóa giao tiếp là giao tiếp khéo léo, niềm nở, đúng mực
trong từng trường hợp”.
Căn cứ vào khái niệm và nội dung đầy đủ của văn hóa giao tiếp với du khách
cho thấy những hiểu biết về văn hóa giao tiếp của các doanh nghiệp còn hạn chế và
mới chỉ là những biểu hiện bên ngoài về lời ăn tiếng nói, trang phục diện mạo, thái
độ nhân viên,…. Các nội dung còn lại như: tôn trọng du khách, biết lắng nghe, làm
tốt công việc, sẵn sàng hỗ trợ du khách, quan tâm đến phản hồi của du khách chưa
được đề cập đến.
2.2.2 Biểu hiện thực tế của văn hóa giao tiếp với du khách tại các doanh
nghiệp du lịch Đà Lạt
Như khẳng định của một số doanh nghiệp, thái độ ứng xử của nhân viên sẽ
phản ánh hình ảnh doanh nghiệp, thể hiện sức mạnh văn hóa, đẳng cấp và sự phát
triển của công ty. Du khách có đến và quyết định gắn bó lâu dài với doanh nghiệp
hay không phụ thuộc rất nhiều vào vấn đề giao tiếp của nhân viên. Ý kiến của một
21
du khách được phỏng vấn tại Villa 28 Trần Hưng Đạo, Đà Lạt thuộc Công ty du
lịch Mai Anh Đào cho biết: “Nhân viên không niềm nở, nhiệt tình thì chắc chắn lần
sau không bao giờ quay lại doanh nghiệp đó”. Trên thực tế, hoạt động giao tiếp với
du khách trong phần lớn doanh nghiệp du lịch hiện nay chưa được quan tâm đúng
mức, chưa trở thành văn hóa, chưa gây được ấn tượng tốt trong lòng du khách.
Từ lâu, lối giao tiếp, ứng xử nhẹ nhàng, thanh lịch, có phần kín đáo của
người Đà Lạt nói chung, những người làm du lịch tại Đà Lạt nói riêng đã được du
khách đề cao và xem như đó là một nét đặc sắc riêng của du lịch Đà Lạt mà không
vùng miền nào có được. Môi trường sống hài hòa giữa con người và thiên nhiên
khiến lối sống của người Đà Lạt không xô bồ, huyên náo, chính là yếu tố tạo nên lối
giao tiếp rất đặc trưng này. Dễ dàng nhận thấy ở những người bán hàng tươi tắn
chào mời du khách mua hàng một cách niềm nở, nhẹ nhàng, không có ngôn ngữ
thách đố; những người phục vụ như khuân vác, nhân viên nhà trọ,… không có thái
độ bắt chẹt, thóa mạ khách hàng,… Thái độ tế nhị, kín đáo, nhẹ nhàng, điềm đạm và
tôn trọng lẫn nhau không chỉ thể hiện trong các quan hệ xã hội mà cả trong quan hệ
trao đổi mua bán.
Tuy nhiên, sự thay đổi của môi trường xã hội, sự giao lưu kinh tế, văn hóa từ
nhiều vùng miền khác trong giai đoạn mở cửa ít nhiều tác động đến lối sống, cách
hành xử, giao tiếp của những người kinh doanh du lịch tại Đà Lạt. Nét kín đáo, rụt
rè được thay thế dần bằng sự cởi mở, nhiệt tình trong giao tiếp. Nhưng những biểu
hiện xấu trong giao tiếp xuất hiện ngày càng nhiều. Dọc các tuyến đường đổ về
trung tâm thành phố Đà Lạt, lực lượng môi giới khách cho các khách sạn, nhà nghỉ,
nhà hàng,… thường xuyên chèo kéo khách. Đây là một cách cạnh tranh nhau của
một số địa chỉ kinh doanh du lịch. Hình ảnh “chèo kéo” du khách rất phản cảm và
gây phiền toái cho nhiều đoàn khách đến Đà Lạt tham quan, nghỉ dưỡng. Tại các
cửa hàng ăn uống, đặc sản, quần áo,… người bán thường nói thách giá thật cao
khiến du khách e ngại trong mua bán. Tại các điểm tham quan du lịch, nhân viên
bán vé, bảo vệ, thuyết minh viên,… ít có “nụ cười thân thiện” hay sự niềm nở cần
thiết. Mùa cao điểm du lịch như các ngày nghỉ lễ, tết, Festival,… các dịch vụ về lưu
22
trú, ăn uống, giải trí,… không đáp ứng đủ nhu cầu khách, chất lượng không tăng
nhưng giá cả thì tăng gấp đôi, gấp ba.
Một số doanh nghiệp du lịch có quy mô lớn, vốn đầu tư nước ngoài kinh
doanh các dịch vụ cao cấp được chuẩn hóa về cơ sở vật chất, con người, sản phẩm,
dịch vụ theo quy trình chuẩn của công ty nên chất lượng dịch vụ được đảm bảo.
Nhân viên nhiệt tình, thân thiện; hành xử đúng mực; đồng phục theo quy định; đáp
ứng mọi yêu cầu của du khách kịp thời; cơ sở vật chất tiện nghi, đầy đủ; giá cả ổn
định; dịch vụ đúng như cam kết; có chính sách hỗ trợ, chăm sóc khách hàng tận tình
cả trong và sau quá trình sử dụng dịch vụ… Du khách hoàn toàn yên tâm và hài
lòng khi sử dụng dịch vụ tại những đơn vị này.
Tuy nhiên, mảng dịch vụ cao cấp chỉ phục vụ một số đối tượng du khách có
thu nhập cao. Đa số du khách đến tham quan Đà Lạt là khách bình dân: học sinh,
sinh viên, viên chức, người lao động,… nên những dịch vụ cao cấp không nằm
trong khả năng tiêu dùng của họ. Nhưng cho dù đối tượng khách hàng là ai, doanh
nghiệp vẫn phải đảm bảo dịch vụ cung cấp xứng đáng với chi phí mà người tiêu
dùng đã bỏ ra. Đáng tiếc dịch vụ của những doanh nghiệp này lại nhận được nhiều
lời phàn nàn từ phía du khách nhất: sản phẩm du lịch qua bao nhiêu năm không có
gì thay đổi, thái độ nhân viên thì thờ ơ, phục vụ không kịp thời, quảng cáo ban đầu
thì hấp dẫn nhưng dịch vụ thực thế lại hạn chế, doanh nghiệp thường bỏ ngoài tai
những ý kiến phản hồi của du khách hoặc có nhận được cũng không có động thái gì
để thay đổi cung cách phục vụ, …
Văn hóa giao tiếp là những quy tắc, cách thức giao tiếp đẹp làm hài lòng đối
tượng giao tiếp. Theo cách hiểu này, có thể thấy hoạt động giao tiếp hiện còn khá
mờ nhạt nếu không muốn nói là kém và chưa thể gọi là văn hóa giao tiếp. Chỉ một
số doanh nghiệp lớn, có vốn đầu tư nước ngoài tạo được dấu ấn về văn hóa giao tiếp
cho riêng mình nhưng số lượng những doanh nghiệp này rất ít. Trong khi đó, những
doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm đa số, phục vụ một lượng lớn du khách đông đảo
thì văn hóa giao tiếp bị xem nhẹ. Đây cũng là lý do khiến nhiều du khách đánh giá
23
văn hóa giao tiếp trong du lịch Đà Lạt chỉ ở mức trung bình, không có gì nổi bật,
không đủ sức cuốn hút du khách quay trở lại lần nữa.
2.2.3 Công tác xây dựng văn hóa giao tiếp và bồi dưỡng kỹ năng giao
tiếp cho nhân viên
Để hoạt động giao tiếp đạt hiệu quả nhất thì văn hóa giao tiếp cần được xây
dựng trên cơ sở chọn lọc những thói quen, cách thức giao tiếp đẹp, phù hợp với đặc
thù hoạt động của từng doanh nghiệp.
Ý thức được văn hóa giao tiếp là bộ mặt của doanh nghiệp, nhiều doanh
nghiệp rất coi trọng việc xây dựng văn hóa giao tiếp để áp dụng cho toàn thể nhân
viên khi ứng xử với khách hàng, có thể kể đến một vài doanh nghiệp như: Sofitel &
Novotel Đà Lạt, Công ty TNHH XQ Sử quán, Blue moon Hotel & Spa,… Đây là
những doanh nghiệp có quy mô tương đối lớn, số lượng nhân viên đông đảo từ vài
chục đến vài trăm người, tên tuổi đã được khẳng định trên thị trường du lịch Đà Lạt.
Doanh nghiệp xây dựng bộ tài liệu riêng về văn hóa giao tiếp dùng để hướng
dẫn cho những nhân viên mới vào làm việc và định kỳ huấn luyện, bồi dưỡng thêm
cho nhân viên cũ.
Nội dung xây dựng dựa vào những chuẩn mực giao tiếp chung cũng như
những kinh nghiệm giao tiếp được chắt lọc, tích lũy, kế thừa trong quá trình hoạt
động, đảm bảo văn hóa giao tiếp vừa mang phong cách riêng của doanh nghiệp vừa
phù hợp để ứng dụng trong thực tiễn.
Tại đây, những nhân viên sau khi được tuyển dụng vào làm việc sẽ được
dành một khoảng thời gian nhất định ban đầu để tìm hiểu về doanh nghiệp, về văn
hóa doanh nghiệp và được học cách giao tiếp với khách hàng theo văn hóa của
doanh nghiệp. Mặc dù được biết, phần lớn nhân viên trước kia được được đào tạo từ
chuyên ngành du lịch, nghĩa là họ đã được học về các kỹ năng giao tiếp trong công
việc nhưng công ty vẫn muốn huấn luyện thêm cho nhân viên với mục đích hoạt
động giao tiếp mang bản sắc văn hóa riêng của công ty.
Đặc biệt, có doanh nghiệp còn có rất nhiều tài liệu viết về công ty, văn hóa
công ty để khi nhân viên có thời gian rảnh (những thời gian không có khách tham
24
quan), họ có thể đến để đọc và hiểu hơn về công ty, với mong muốn khi nhân viên
thấm nhuần văn hóa công ty thì giao tiếp của nhân viên sẽ mang hình ảnh của công
ty như trường hợp của Công ty TNHH XQ Sử quán. Đây cũng là ví dụ rất hay về
định hướng văn hóa giao tiếp cho nhân viên.
Ngược lại với sự đầu tư rất công phu vào văn hóa giao tiếp ở những công ty
trên thì đa phần các doanh nghiệp du lịch Đà Lạt còn bỏ ngỏ vấn đề này. Phần nhiều
trong số này rơi vào doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ phần (những doanh nghiệp
nhà nước đã được cổ phần hóa), doanh nghiệp tư nhân nhỏ. Bản thân doanh nghiệp
thường chú trọng vào chuyên môn nghiệp vụ của nhân viên, ít chú ý đến việc giao
tiếp, ứng xử của nhân viên, chỉ yêu cầu giao tiếp lịch sự, phục vụ tận tình.
Một số doanh nghiệp cũng có những hướng dẫn ban đầu về cách thức giao
tiếp với khách hàng cho nhân viên, còn hầu như các doanh nghiệp tự để nhân viên
giao tiếp theo cách thức mà họ cho là phù hợp nhất. Trong quá trình làm việc, nhân
viên sẽ được giám sát và nhắc nhở nếu người quản lý nhận thấy nhân viên giao tiếp
chưa đúng hoặc bị khách hàng phàn nàn. Những kiến thức về giao tiếp mà người
quản lý hướng dẫn cho nhân viên của mình là những điều họ đọc từ sách vở cộng
thêm những kinh nghiệm mà họ đã trải nghiệm trong thực tế.
Tuy nhiên, đa phần nhân viên cho biết cách thức giao tiếp được họ tích lũy
từ những kinh nghiệm trong cuộc sống và trong chính công việc của họ. Điều này
cho thấy các doanh nghiệp thật sự chưa quan tâm đến việc nâng cao khả năng giao
tiếp, ứng xử của nhân viên với khách hàng để tận dụng được những hiệu ứng tích
cực của giao tiếp hiệu quả.
Thực tế, nhiều doanh nghiệp rất mong muốn ở địa phương sẽ có nơi đứng ra
tổ chức các lớp đào tạo, huấn luyện ngắn hạn về kỹ năng giao tiếp, văn hóa giao
tiếp cho nhân viên du lịch, họ sẵn sàng tạo điều kiện để nhân viên tham gia học tập.
Số các doanh nghiệp có lượng nhân viên từ vài chục người trở lên lại cảm thấy việc
tổ chức học tập cho toàn bộ nhân viên cùng lúc sẽ khiến doanh nghiệp gặp khó khăn
về thời gian và tổ chức công việc vì nó ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh
25
thường nhật của doanh nghiệp, như trường hợp của Công ty TNHH Phương Trang
(Đà Lạt).
2.3 NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VĂN HÓA GIAO TIẾP
VỚI DU KHÁCH TẠI CÁC DOANH NGHIỆP DU LỊCH ĐÀ LẠT
2.3.1 Nguồn nhân lực du lịch
Lao động làm việc tại các doanh nghiệp du lịch bao gồm lao động trực tiếp
và lao động gián tiếp tại các phòng ban quản lý.. Trong đó, bộ phận lao động trực
tiếp là bộ phận thường xuyên phải tiếp xúc và giao tiếp với khách hàng.
Một số vị trí công việc đòi hỏi nhân viên phải có trình độ, có khả năng giao
tiếp tốt, đặc biệt giao tiếp bằng ngoại ngữ như: quản lý khách sạn, lễ tân, hướng dẫn
viên du lịch,…, những nhân viên này thường có trình độ cao (đại học) nhưng chỉ
một số ít được đào tạo về du lịch còn lại thuộc những chuyên môn khác như: ngoại
ngữ, ngữ văn,…; những công việc nghiệp vụ như: phục vụ bàn, phục vụ buồng
phòng, nhân viên bán vé, nhân viên lái xe,…trình độ nhân viên thấp, phần lớn được
bồi dưỡng nghiệp vụ du lịch ngắn ngày, tại chỗ, ngoại ngữ yếu. Như vậy, đội ngũ
lao động làm việc trong các doanh nghiệp du lịch hiện nay có trình độ đào tạo ở các
ngành không phải du lịch khá cao nên không được trang bị đầy đủ kiến thức về
nghiệp vụ lẫn kỹ năng giao tiếp trong công việc, dẫn tới tính chuyên nghiệp thấp.
26
¾ Trình độ đào tạo nghề du lịch
Bảng 2.3 Trình độ đào tạo nghề của nhân viên du lịch tại Đà Lạt
Trình độ đào tạo Tỷ lệ (%)
Đại học 7
Cao đẳng 2
Trung cấp 15
Sơ cấp 27
Chứng chỉ nghề 4
Chưa qua đào tạo nghề 45
Tổng cộng 100
(Nguồn: Đề tài khoa học “Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực cho du lịch
Đà Lạt – Lâm Đồng đảm bảo khả năng cạnh tranh trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế”)
Số lao động đã qua đào tạo nghề du lịch dù chiếm hơn một nửa nhưng nhìn
vào tỷ lệ trên cho thấy đa số là trình độ thấp - khoảng 46%, trình độ cao (cao đẳng,
đại học) chỉ đạt 9%. Trình độ đội ngũ lao động du lịch ở Đà Lạt do đó có tính
chuyên nghiệp thấp vì thiếu nền tảng kiến thức nghề nghiệp. Điều này làm giảm khả
năng cạnh tranh và thu hút khách du lịch đến Đà Lạt. Trong tương lai, Đà Lạt được
định hướng phát triển thành một trung tâm du lịch của cả nước và khu vực Châu Á,
ưu tiên phát triển các loại hình du lịch cao cấp như du lịch hội nghị, hội thảo, du
lịch khám chữa bệnh,… thì đội ngũ nhân viên du lịch như trên là không thể đáp ứng
được yêu cầu phát triển.
27
¾ Trình độ ngoại ngữ
Bảng 2.4 Trình độ ngoại ngữ của nhân viên du lịch tại Đà Lạt
Ngoại ngữ Tỷ lệ (%)
Tiếng Anh 46
Tiếng Pháp 2
Tiếng Nhật 1
Tiếng Hoa 1
Chưa biết ngoại ngữ 50
Tổng cộng 100
(Nguồn: Đề tài khoa học “Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực cho du lịch
Đà Lạt – Lâm Đồng đảm bảo khả năng cạnh tranh trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế”)
Theo số liệu trên, đội ngũ nhân viên du lịch tại Đà Lạt chưa đáp ứng được
yêu cầu phục vụ du khách nước ngoài. Khả năng ngoại ngữ là trung bình và chủ yếu
là tiếng Anh. Đặc biệt thiếu trầm trọng nhân viên biết giao tiếp bằng tiếng Pháp,
Nhật, Hoa. Với lượng du khách đến du lịch Đà Lạt ngày càng tăng thì tỷ lệ 50%
nhân viên du lịch chưa biết ngoại ngữ là một rào cản lớn. Điều này cũng phù hợp
với nhận định của Tổng cục du lịch Việt Nam về khả năng ngoại ngữ của nguồn
nhân lực du lịch Việt Nam vừa thiếu, vừa yếu toàn diện.
28
¾ Khả năng ứng xử với du khách
Bảng 2.5: Kết quả khảo sát một số hành vi khuyến khích nên làm của nhân
viên du lịch Đà Lạt
HÀNH VI NÊN LÀM
Thường
xuyên
làm
(%)
Thỉnh
thoảng
làm
(%)
Không
bao giờ
làm
(%)
Sẵn sàng giúp đỡ du khách 86 12 2
Kìm nén bực tức khi tranh cãi với du khách 68 25 7
Cân nhắc phục vụ du khách say rượu đi một mình 36 53 10
Ngừng phục vụ du khách say rượu đi một mình 49 35 15
Tỷ lệ bình quân 60 31 9
(Nguồn: Đề tài khoa học “Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực cho du lịch
Đà Lạt – Lâm Đồng đảm bảo khả năng cạnh tranh trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế”)
Bảng 2.6: Kết quả khảo sát một số hành vi khuyến cáo không nên làm của
nhân viên du lịch Đà Lạt
HÀNH VI KHÔNG NÊN LÀM
Không
bao giờ
làm
(%)
Thỉnh
thoảng
làm
(%)
Thường
xuyên
làm
(%)
Tán chuyện với du khách đi một mình 35 40 25
Xét nét du khách lần đầu tiên đến 77 13 10
Dọn bàn không hỏi ý kiến du khách 75 19 6
Điện thoại việc riêng để khách chờ 78 15 7
Tỷ lệ bình quân 66 22 12
(Nguồn: Đề tài khoa học “Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực cho du lịch
Đà Lạt – Lâm Đồng đảm bảo khả năng cạnh tranh trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế”)
29
Kết quả trên cho thấy khả năng lựa chọn hành vi và kiểm soát hành vi ứng
xử đúng đắn với du khách ở mức độ trung bình. Một bộ phận nhân viên chưa hình
thành thói quen ứng xử văn minh với khách hàng, có những hành vi không phù hợp
với những quy tắc nghề nghiệp trong phục vụ khách du lịch. Những hành vi đúng
đắn chưa trở thành thói quen thường trực trong mỗi nhân viên. Nguyên nhân có thể
do sự đào tạo và huấn luyện nhân viên chưa đạt đến chuẩn mực nghề nghiệp theo
như thống kê về trình độ nhân viên qua đào tạo nghề du lịch ở trên, cũng có thể do
vấn đề quản trị nhân sự tại các doanh nghiệp chưa chặt chẽ, thiếu biện pháp khuyến
khích, chế tài hợp lý.
Nhân lực là nguồn tài nguyên quý giá hơn bất kỳ nguồn tài nguyên nào của
doanh nghiệp. Nguồn nhân lực có chất lượng cao sẽ là động lực thúc đẩy doanh
nghiệp phát triển. Hiện nay, trên địa bàn thành phố Đà Lạt có nhiều trường học đào
tạo về du lịch như: trường Đại học Đà Lạt, trường Đại học Yersin, trường Cao đẳng
nghề Đà Lạt, trường Trung học kỹ thuật Đà Lạt., …Đây là nguồn đào tạo nhân lực
dồi dào và chất lượng cho ngành du lịch. Nhưng các doanh nghiệp du lịch Đà Lạt
chưa tận dụng được ưu thế này, thể hiện rõ nhất ở thực tế là nhân viên du lịch phần
lớn không được đào tạo về du lịch, làm trái chuyên môn, nhân viên thời vụ nên tính
chuyên nghiệp thấp dẫn đến việc du khách thường phàn nàn về thái độ phục vụ, ứng
xử, giao tiếp của nhân viên.
2.3.2 Ảnh hưởng của tâm lý cá nhân trong văn hóa giao tiếp với du khách
Hoạt động giao tiếp là hoạt động nhằm trao đổi thông tin và thiết lập mối
quan hệ giữa con người với con người, vì vậy, nó chịu ảnh hưởng nhiều bởi trạng
thái tâm lý của các đối tượng giao tiếp. Giao tiếp trong công việc buộc đối tượng
giao tiếp phải điều chỉnh hành vi của mình để không bị ảnh hưởng bởi những trạng
thái tâm lý tiêu cực, ví dụ như những lúc đang buồn bực, khó chịu,…
Đặc điểm nguồn nhân lực của các doanh nghiệp du lịch là trình độ không
đồng đều (từ lao động phổ thông cho đến trình độ đại học), đội ngũ lao động đào
tạo không thuộc ngành du lịch cao, tức là không có nhiều nhân viên được học qua
về kỹ năng giao tiếp nhưng phần lớn nhân viên du lịch đều ý thức được tầm quan
30
trọng của giao tiếp trong công việc mình làm. Do đó, khi trạng thái tâm lý không
tốt, họ sẽ tự cố gắng điều chỉnh bản thân để những tình cảm cá nhân không ảnh
hưởng đến quá trình giao tiếp với khách hàng.
Tuy vậy, cả từ phía nhân viên và du khách cũng nhận định nhiều nhân viên
vẫn bị ảnh hưởng bởi tình cảm cá nhân trong giao tiếp:
+ Khi vui thì nhân viên giao tiếp cởi mở, thoải mái, nói chuyện nhiều hơn và
đôi lúc còn pha chút hài hước trong câu chuyện.
+ Khi buồn, giao tiếp bị hạn chế, nhân viên ít nói chuyện, kém nhiệt tình và
giảm sự kiên nhẫn với khách hàng.
Riêng tại các doanh nghiệp mà nhân viên đều đã được công ty hướng dẫn về
văn hóa giao tiếp trước khi bắt đầu làm việc thì nhận thức về vấn đề này rất tốt.
Nhân viên luôn phân định rõ ràng những tình cảm cá nhân với công việc. Khi đã
làm việc, họ đặt công việc lên trên hết, luôn tươi cười và thân thiện với khách hàng.
2.3.3 Đối tượng phục vụ của hoạt động du lịch là con người
Du lịch là một ngành kinh doanh đặc biệt, vừa có sản phẩm vật chất, vừa là
một lĩnh vực đậm màu sắc văn hóa. Nó vừa phản ánh mặt kinh tế lại vừa phản ánh
mặt văn hóa thông qua giao tiếp giữa người với người. Vì đối tượng phục vụ là con
người nên nó tương đối nhạy cảm, đòi hỏi phải có sự giao tiếp khéo léo và tinh tế.
Sản phẩm du lịch vừa phải thỏa mãn nhu cầu vật chất, vừa phải thỏa mãn
nhu cầu tinh thần của du khách một cách trọn vẹn, không thể thiếu một trong hai
mặt. Du khách chỉ có thể cảm thấy hài lòng về sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp
khi được cung cấp dịch vụ tốt, sản phẩm hấp dẫn, thỏa mãn nhu cầu nghỉ ngơi, giải
trí, thư giãn,… đồng thời cảm thấy được phục vụ một cách tận tình, chu đáo, nhận
được sự trân trọng từ phía doanh nghiệp.
Chính vì đối tượng phục vụ là con người nên các doanh nghiệp không nên
chỉ chú trọng vào những yếu tố vật chất hữu hình, cần hoàn thiện cả những yếu tố
thuộc về văn hóa riêng của doanh nghiệp. Nâng cao khả năng giao tiếp, ứng xử tinh
tế, khéo léo của nhân viên để khách hàng sử dụng dịch vụ của doanh nghiệp cảm
thấy hài lòng và xứng đáng nhất.
31
Du khách có thể gồm nhiều thành phần khác nhau: viên chức Nhà nước,
người kinh doanh, nông dân, công nhân, học sinh, sinh viên,…. Ngày nay do đời
sống người dân được nâng cao nên trình độ về dân trí, thẩm mỹ cũng cao hơn, họ có
tính cách, suy nghĩ riêng. Yêu cầu của họ về sản phẩm, dịch vụ không chỉ nằm ở giá
trị vật chất mà phải mang giá trị tinh thần, những yếu tố văn hóa của doanh nghiệp.
Du khách lựa chọn các sản phẩm, dịch vụ du lịch không chỉ quan tâm đến yếu tố vật
chất tiện nghi mà còn nhìn vào cách doanh nghiệp quan tâm, cư xử với mình ra sao.
Do đó mà yếu tố văn hóa giao tiếp cũng là một phần quan trọng làm nên sự hoàn
chỉnh cho các sản phẩm, dịch vụ của các doanh nghiệp du lịch.
2.3.4 Văn hóa dân tộc
Văn hóa giao tiếp cũng là một bộ phận của văn hóa dân tộc. Vì vậy, xây
dựng văn hóa giao tiếp trong các doanh nghiệp du lịch cần phải kế thừa được những
nét tinh tế trong văn hóa giao tiếp, ứng xử người Việt Nam nói chung, người Đà Lạt
nói riêng.
Đặc điểm của người Việt Nam là vừa thích giao tiếp lại vừa rất rụt rè. Việt
Nam vốn là một nước nông nghiệp, người dân lại thường xuyên phải chống chọi với
thiên tai địch họa, đặc điểm này khiến những thành viên trong cộng đồng cần phải
nương tựa vào nhau mà tồn tại. Vì vậy, người Việt Nam rất coi trọng việc giữ gìn
các mối quan hệ giữa các thành viên trong cộng đồng, đó chính là nguyên nhân dẫn
đến việc coi trọng giao tiếp. Sự giao tiếp tạo ra các mối quan hệ và củng cố tình
thân. Nhưng khi sự giao tiếp vượt ra khỏi phạm vi cộng đồng quen thuộc, trước
người lạ, người Việt Nam lại rất rụt rè, đây là điều mà nhiều khách nước ngoài vẫn
hay nhắc tới.
Nguồn gốc văn hóa nông nghiệp với đặc điểm trọng tình đã dẫn đến việc
người Việt Nam thường lấy tình cảm, lấy sự yêu ghét là nguyên tắc ứng xử (Yêu
nhau chín bỏ làm mười; Yêu nhau yêu cả đường đi, ghét nhau ghét cả tông ti họ
hàng,…). Trong cuộc sống người Việt Nam sống có lý có tình nhưng vẫn thiên về
tình cảm hơn. Vì vậy, trong giao tiếp, người Việt Nam thiên về ứng xử theo tình
cảm.
32
Trong cách thức giao tiếp, người Việt Nam ưa sự tế nhị, ý tứ và trọng hòa
thuận. Đây cũng là sản phẩm của lối sống trọng tình và lối tư duy coi trọng các mối
quan hệ. Nó tạo nên thói quen đắn đo cân nhắc kỹ càng trước khi nói để không mất
lòng người nghe. Để giữ gìn sự hòa thuận, người Việt Nam rất hay cười. Nụ cười là
một bộ phận quan trọng trong thói quen giao tiếp của người Việt Nam. Nụ cười tạo
nên hình ảnh người Việt Nam thân thiện và mến khách.
Ngoài ra, văn hóa ứng xử của người Việt Nam còn được thể hiện qua thái độ
đề cao người đối thoại và dành phần khiêm tốn về phía mình. Đó là nguyên tắc ứng
xử xưa nay rất được tôn trọng. Do dó, khi giao tiếp thì các yếu tố kèm theo lời nói:
âm điệu, nói to hay nhỏ, nói nhanh hay chậm,… cũng hài hòa theo nguyên tắc trên.
Về văn hóa ứng xử của người Đà Lạt, có thể nói do ảnh hưởng của các điều
kiện khí hậu, thổ nhưỡng thuận lợi, môi trường sống hài hòa giữa con người và
thiên nhiên tạo nên lối cư xử giao tiếp nhẹ nhàng, hiền hòa của người dân Đà Lạt,
từng được du khách đánh giá cao. Nét ứng xử này là một trong những nét văn hóa
đẹp, đặc sắc của du lịch Đà Lạt. Nhưng hiện nay, với sự phát triển ồ ạt các doanh
nghiệp du lịch, nhiều doanh nghiệp kinh doanh theo lối nhất thời, chụp giật dẫn đến
thay đổi trong văn hóa giao tiếp, ứng xử với du khách. Nạn cò kèo thường xuyên
diễn ra khiến du khách không khỏi phiền lòng, nhiều du khách không còn muốn
quay lại với du lịch Đà Lạt cũng một phần vì văn hóa giao tiếp của các doanh
nghiệp đã xuống cấp.
Thực tế, chính lối sống trầm, phong cách có phần khép kín, ít chấp nhận sự
sôi động tạo một nhược điểm trong giao tiếp của người Đà Lạt là rất thụ động,
không mạnh dạn. Nhiều nhân viên du lịch cũng bị ảnh hưởng bởi tâm lý này thường
không chủ động để giao tiếp với khách hàng. Đây là hạn chế lớn trong giao tiếp, vì
như vậy nhân viên sẽ không có điều kiện để trao đổi thông tin, tiếp thu ý kiến và
truyền đạt thông tin cần thiết đến khách hàng. Trong khi đó, khách hàng lại luôn
mong muốn nhận được sự quan tâm từ phía doanh nghiệp. Văn hóa giao tiếp thể
hiện bộ mặt của doanh nghiệp, thái độ thụ động dễ gây cho du khách cảm giác chất
33
lượng dịch vụ của doanh nghiệp không tốt, du khách không được phục vụ một cách
tận tình.
2.3.5 Các chính sách của Nhà nước
Quyết định số 121/2006/QĐ-TTg ngày 29/05/2006 của Thủ tướng Chính phủ
“ Về việc phê duyệt chương trình hành động quốc gia về du lịch giai đoạn 2006 –
2010” đã nêu một trong những mục tiêu quan trọng của ngành du lịch đó là phát
triển du lịch bền vững. Trong đó, xác định những nhiệm vụ chủ yếu như: bảo vệ tài
nguyên môi trường du lịch; đào tạo, phát triển nguồn nhân lực du lịch;… Bảo vệ
môi trường du lịch bao gồm cả việc bảo vệ môi trường tự nhiên, môi trường văn
hóa,… Việc đào tạo, phát triển nguồn nhân lực du lịch cần phải được đào tạo toàn
diện về chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ, văn hóa ứng xử, giao tiếp,…
Nghị quyết 06-NQ/TU của tỉnh ủy Lâm Đồng “Về phương hướng, mục tiêu,
nhiệm vụ và giải pháp đột phá, tăng tốc phát triển kinh tế du lịch – dịch vụ du lịch
giai đoạn 2006 – 2010” đã đưa ra bảy nhiệm vụ và giải pháp phát triển du lịch Lâm
Đồng nói chung, thành phố Đà Lạt nói riêng. Một trong bảy nhiệm vụ đó là “ Xây
dựng, nâng cấp và bảo vệ môi trường du lịch, đảm bảo cho ngành du lịch phát triển
bền vững”. Song song với việc tích cực bảo vệ môi trường cảnh quan thiên nhiên,
xây dựng môi trường kinh doanh du lịch lành mạnh, là việc đẩy mạnh xây dựng một
môi trường văn hóa tốt đẹp, hài hòa cùng với sự phát triển của du lịch. Phương
châm đề ra là xây dựng phong cách người Đà Lạt “ hiền hòa, thanh lịch, mến
khách” để tuyên truyền và làm sinh hoạt, giáo dục vận động thường xuyên của Mặt
trận, các đoàn thể của thành phố Đà Lạt; đưa vào giảng dạy ngoại khóa ở các trường
phổ thông trên địa bàn thành phố Đà Lạt và vùng phụ cận, đưa vào chương trình
chính khóa của khoa du lịch thuộc các trường trung học chuyên nghiệp, dạy nghề,
cao đẳng, đại học và các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ du lịch trên địa bàn tỉnh. Phải làm
cho mỗi tổ chức, mỗi người dân đều nhận thức sâu sắc rằng cảnh quan thiên nhiên
và nét văn hóa trên là tài nguyên vô giá của Đà Lạt.
Như vậy, xây dựng văn hóa giao tiếp là một trong những chính sách quan
trọng của tỉnh Lâm Đồng và thành phố Đà Lạt trong chiến lược xây dựng Đà Lạt trở
34
thành đô thị du lịch có tầm cỡ khu vực và quốc tế, xây dựng Đà Lạt trở thành “đô
thị du lịch hiện đại, phát triển và thân thiện”.
2.3.6 Quá trình mở cửa, hội nhập
Quá trình mở cửa, hội nhập của nền kinh tế nói chung kéo theo sự mở cửa
của thị trường du lịch. Lượng khách nước ngoài đến Việt Nam du lịch ngày càng
tăng và đến từ nhiều nền văn hóa khác nhau. Ngoài ra, nhiều doanh nghiệp kinh
doanh du lịch nước ngoài cũng tham gia vào thị trường du lịch Việt Nam nói chung,
Đà Lạt nói riêng. Chính quá trình mở cửa, giao lưu này tạo nên sự phong phú, đa
dạng trong văn hóa du lịch, trong đó có văn hóa giao tiếp.
Văn hóa giao tiếp nếu chỉ tuân theo những thói quen truyền thống mà không
phù hợp với xu hướng chung thì xem như là một rào cản cho sự hội nhập và phát
triển. Văn hóa giao tiếp trong doanh nghiệp nếu không được cập nhật kịp thời
những chuẩn mực giao tiếp chung, học hỏi những tinh hoa giao tiếp hay từ bên
ngoài thì sẽ là một hạn chế lớn của doanh nghiệp trong việc giao tiếp với du khách,
đặc biệt là du khách nước ngoài.
2.4 ĐÁNH GIÁ VỀ VẤN ĐỀ VĂN HÓA GIAO TIẾP VỚI DU KHÁCH
TẠI CÁC DOANH NGHIỆP DU LỊCH ĐÀ LẠT
Trong phạm vi đề tài, để có cơ sở cho việc đánh giá vấn đề văn hóa giao tiếp
với du khách, tác giả đã tiến hành một điều tra nhỏ với 105 phiếu điều tra được gởi
đến các đối tượng du khách đến du lịch Đà Lạt. Ngoài ra, tác giả cũng tiến hành
trao đổi trực tiếp với một số đối tượng du khách, nhà quản lý, nhân viên du lịch để
thu thập thêm ý kiến đánh giá về vấn đề văn hóa giao tiếp trong du lịch Đà Lạt. Kết
quả được tổng hợp theo phụ lục 3, 5, 7.
2.4.1 Đánh giá về văn hóa giao tiếp với du khách trên thực tế
35
Bảng 2.7 Tổng hợp kết quả điều tra
MỨC ĐỘ
STT YẾU TỐ
Đánh
giá
chung
Rất
tốt
(%)
Tốt
(%)
Bình
thường
(%)
Tệ
(%)
Rất
tệ
(%)
2,8 5 4 3 2 1
1
Thái độ nhân viên cởi mở,
thân thiện
3,9 32,4 41,1 17% 5,9 3,6
2
Trang phục, diện mạo
trong giao tiếp
(gọn gàng, lịch sự, đẹp
mắt,…)
2,9 2,2 6,8 77,3 8,6 5,1
3
Tôn trọng giờ giấc (đúng
giờ, không để khách chờ
đợi lâu,…)
3,2 10,4 11,9 66,5 7,7 3,7
4
Luôn biết lắng nghe mọi
yêu cầu của du khách
2,7 4,3 9,6 49,9 22 14,2
5
Tôn trọng và cư xử đúng
mực với du khách trong
mọi trường hợp
2,7 2,3 4,1 59,5 24,7 9,4
6 Làm tốt công việc 2,5 1,8 5,8 42,2 38,5 11,7
7
Nhiệt tình, sẵn sàng hỗ trợ
du khách (cung cấp thông
tin, sẵn sàng hỗ trợ, dịch
vụ nhanh chóng,…)
2,5 0,5 3,9 55,6 27,7 12,3
8
Kiến thức trong giao tiếp
(linh hoạt xử lý tình
huống, cung cấp đầy đủ
thông tin cho khách, tự tin
trong giao tiếp,…)
2,9 3,5 8,2 73,8 13,7 0,8
9
Quan tâm đến những phản
hồi từ phía du khách
2,3 2,7 4,4 36,7 37,5 18,7
36
¾ Đánh giá về thái độ thân thiện, cởi mở
Nhìn vào bảng tổng hợp kết quả cho thấy thái độ thân thiện, cởi mở của nhân
viên du lịch đạt 3,9 điểm, được đánh giá là tốt. Đây là yếu tố được đánh giá nổi bật
nhất trong văn hóa giao tiếp với du khách ở Đà Lạt. Kết quả này cũng tương đồng
với kết quả phỏng vấn du khách, đa số đều đánh giá cao sự nhiệt tình, thân thiện,
vui vẻ của nhân viên. Chính lối sống không xô bồ, tấp nập của vùng đất này đã tạo
nên cách ứng xử nhẹ nhàng, thân thiện rất khác biệt so với những địa phương khác.
Từ lâu, nét văn hóa này cùng cảnh quan thiên nhiên đã làm nên thương hiệu du lịch
Đà Lạt. Trải qua thời gian, Đà Lạt cũng chuyển mình phát triển nhưng mức độ phát
triển không quá mạnh mẽ như những khu vực lân cận: Thành phố Hồ Chí Minh,
Đồng Nai, … nên lối ứng xử thay đổi không đáng kể. Hơn nữa, trong giai đoạn mà
“nhà nhà làm du lịch, người người làm du lịch” như ở Đà Lạt hiện nay, nếu không
tạo được sự thân thiện, cởi mở ban đầu thì khó lòng thu hút được du khách.
¾ Đánh giá về trang phục trong giao tiếp
Trang phục trong giao tiếp công việc thường yêu cầu trước hết phải phù hợp,
lịch sự, gọn gàng, sau đó là yếu tố đẹp mắt hoặc theo thiết kế riêng của mỗi doanh
nghiệp. Loại hình dịch vụ khác nhau thì yêu cầu về trang phục cũng khác nhau. Ví
dụ, khảo sát tại điểm du lịch XQ Sử quán: nữ nhân viên mặc áo dài, đội nón lá, nam
nhân viên mặc quần tây, áo sơ mi trắng, thắt cà vạt; Công ty TNHH Phương Trang
chuyên về lữ hành – vận chuyển, khách sạn thì đồng phục là áo sơ mi và áo khoác
màu xanh lá cây; nhưng tại Công ty du lịch Phương Nam chuyên về lữ hành, tổ
chức tour thì trang phục tự do, … Tuy nhiên, số lượng những công ty lớn có khả
năng trang bị đồng phục cho nhân viên như XQ Sử quán, Phương Trang không
nhiều. Ở mục trang phục, diện mạo trong giao tiếp, du khách đánh giá mức 2,9
điểm, tương ứng với mức bình thường. Có nghĩa các doanh nghiệp không tạo được
ấn tượng gì đặc biệt với du khách qua trang phục, diện mạo của nhân viên. Thật ra,
trang phục chỉ là dáng vẻ bên ngoài nhưng nó cũng là cách ghi dấu trong tâm trí du
37
khách, thông qua trang phục du khách nhận diện được doanh nghiệp. Doanh nghiệp
muốn du khách ghi nhớ tên mình nhưng lại bỏ quên yếu tố trang phục của nhân viên
thì thật đáng tiếc. Như ví dụ trên, ở Đà Lạt nếu nhìn những nữ nhân viên mặc áo
dài, đầu đội nón lá, du khách dễ dàng nhận ra đó là hình ảnh của Công ty XQ nổi
tiếng, hay bộ đồng phục màu xanh lá cây đặc trưng của Công ty Phương Trang
chuyên về vận chuyển – lữ hành.
¾ Đánh giá về việc tôn trọng giờ giấc với du khách
Yếu tố này được đánh giá 3,2 điểm, mức trung bình so với thang điểm 5.
Việc tôn trọng giờ giấc với du khách thể hiện ở hai mặt: một là chọn giờ giấc phục
vụ sao cho thuận tiện nhất với khách, hai là không để khách hàng phải chờ đợi được
phục vụ. Các dịch vụ như lưu trú, tổ chức tour, đến các điểm du lịch tham quan
thường không chịu ảnh hưởng nhiều về yếu tố thời gian, một là thời gian đến sử
dụng dịch vụ hoàn toàn do khách chủ động , hai là các dịch vụ buồng phòng, địa
điểm du lịch luôn sẵn sàng, khách đến là có thể sử dụng ngay. Chỉ có các dịch vụ về
ăn uống thường phải có thời gian chờ đợi để chế biến. Dù vậy, yếu tố giờ giấc chỉ
được đánh giá ở mức độ bình thường còn cho thấy các dịch vụ du lịch đã không
được cung cấp một cách nhanh chóng nhất.
¾ Đánh giá về yếu tố lắng nghe du khách
Lắng nghe du khách có nghĩa là nhớ và hiểu tất cả những thông tin có được
từ quá trình giao tiếp với du khách. Lắng nghe du khách là cách tốt nhất để hiểu
được nhu cầu của khách. Hoạt động này chỉ đạt 2,7 điểm, tức là dưới mức bình
thường. Như phần phỏng vấn trực tiếp, một số du khách cho biết họ đánh giá cao sự
nhạy bén trong nắm bắt tâm lý và nhu cầu của khách, thế nhưng họ chỉ thấy điều
trong các cơ sở du lịch cao cấp. Nếu không biết lắng nghe, thông tin hạn chế ,
doanh nghiệp làm sao có thể biết được nhu cầu khách cần gì, muốn phục vụ ra sao,
chưa nói đến việc nắm bắt tâm lý du khách còn đòi hỏi người giao tiếp phải có sự
chuyên nghiệp và kinh nghiệm, sự tinh tế của bản thân. Hạn chế trong việc lắng
nghe thể hiện nhân viên thiếu chuyên nghiệp, không có kỹ năng trong giao tiếp với
khách, doanh nghiệp thờ ơ với người sử dụng dịch vụ của mình. Liên hệ với kết quả
38
phỏng vấn một số nhà quản lý du lịch tại phụ lục 3, quả thật, nhiều doanh nghiệp
không hề biết du khách phản ứng thế nào về dịch vụ của mình. Đó là lý do tại sao
du lịch Đà Lạt có chiều hướng ngày càng chững lại và dậm chân tại chỗ.
¾ Đánh giá về sự tôn trọng, hành vi cư xử đúng mực với du khách
Bảng tổng hợp kết quả cho thấy việc lựa chọn hành vi cư xử đúng mực với
du khách chỉ đạt 2,7 điểm, dưới mức điểm trung bình. 84,2 % người được điều tra
đều đánh giá hành vi cư xử với du khách ở Đà Lạt rất bình thường, thậm chí là tệ.
Sau sự cởi mở , thân thiện ban đầu để thu hút khách, thái độ sau đó lại khác hẳn.
Đến các cửa hàng bán đặc sản, đồ lưu niệm, quần áo,… càng thấy rõ điều này, sau
lời chào mời đon đả, du khách chỉ cần chạm tay vào món đồ hay hỏi mà bỏ đi là có
chuyện không hay xảy ra, nhẹ là những lời nói không hay, nặng có thể xảy ra xích
mích, to tiếng. Nguyên nhân chủ yếu là do kinh doanh du lịch tại Đà Lạt chưa có
quy hoạch, định hướng cụ thể, không chú trọng đến phát triển lâu dài, bền vững,
doanh nghiệp chỉ chú ý đến kết quả nhất thời theo lối “ăn xổi ở thì”. Chất lượng
nguồn nhân lực hạn chế về chuyên môn nghiệp vụ (45% nhân viên du lịch chưa qua
đào tạo nghề, 46% có trình độ trung cấp, sơ cấp) nên kỹ năng giao tiếp yếu. Bản
thân những người làm công tác quản lý hiểu biết chưa đầy đủ về văn hóa giao tiếp
nên doanh nghiệp chưa quan tâm đúng mức, không có biện pháp khuyến khích hay
chế tài cần thiết để nhân viên có động cơ trau dồi những thói quen giao tiếp văn
minh, lịch sự với du khách.
¾ Đánh giá về khả năng hoàn thành tốt công việc
Làm tốt công việc là trách nhiệm của doanh nghiệp, thể hiện dịch vụ cung
cấp cho du khách đúng như cam kết. Khả năng này chỉ đạt 2,5 điểm, du khách
không hài lòng về khả năng thực hiện công việc của nhân viên cũng như chất lượng
dịch vụ của doanh nghiệp. Thật vậy, nhiều du khách cho biết rất thất vọng khi đến
Đà Lạt du lịch vì chất lượng dịch vụ không được như những lời quảng cáo, giới
thiệu hấp dẫn ban đầu. Đặc biệt, nếu du khách đến tham quan Đà Lạt vào những dịp
cao điểm như dịp 2/9, 30/4 và 1/5, Festival hoa,… thì sự xuống cấp về chất lượng
dịch vụ càng thể hiện rõ: gía cả phòng ốc tăng từ 100% - 300%, lại phải chịu cảnh
39
chen chúc nhiều người một phòng, các điểm tham quan du lịch thì nghèo nàn, đơn
điệu, du khách đến chỉ ngắm cảnh mà không có dịch vụ giải trí nào khác, nhân viên
du lịch trình độ hạn chế không thể thỏa mãn nhu cầu tìm hiểu, khám phá những điều
mới lạ của du khách,… Chính điều này đã làm cho du khách mất dần sự tin tưởng
vào dịch vụ du lịch Đà Lạt. Nguyên nhân là do du lịch Đà Lạt chỉ biết khai thác
những gì sẵn có, không coi trọng việc đầu tư và tái đầu tư cả về cơ sở vật chất lẫn
nguồn nhân lực. Tâm lý làm du lịch theo kiểu tận thu mùa cao điểm để bù đắp cho
những thời điểm không có khách trong năm. Tất cả đều cho thấy các doanh nghiệp
du lịch Đà Lạt còn kinh doanh theo lối nhất thời, không nghĩ đến việc đầu tư cần
phải đạt hiệu quả lâu dài và bền vững.
¾ Đánh giá về sự nhiệt tình, sẵn sàng hỗ trợ du khách
Như đã trình bày ở phần lý luận, thái độ nhiệt tình, sẵn sàng hỗ trợ thể hiện
dịch vụ của doanh nghiệp không chỉ ở mức hoàn thành theo cam kết mà còn tốt hơn
cả sự kỳ vọng của khách hàng. Phần này du khách đánh giá rất thấp, 2,5 điểm, mức
dưới trung bình. Liên hệ với yếu tố hoàn thành tốt công việc ở trên cũng đạt 2,5
điểm. Kết quả này là tất yếu bởi trách nhiệm trước hết của doanh nghiệp là hoàn
thành dịch vụ đã cam kết, sau đó mới đưa thêm các hoạt động hỗ trợ để làm hoàn
hảo hơn dịch vụ của mình. Bản thân dịch vụ chưa tốt thì doanh nghiệp khó có khả
năng cung cấp thêm các dịch vụ hỗ trợ khác. Nhiều du khách phàn nàn nhân viên tại
một số doanh nghiệp rất chậm trong việc đáp ứng yêu cầu của khách, đôi khi yêu
cầu một vài lần mới được đáp ứng, ví như khâu tiếp thực ở các cơ sở ăn uống, nhân
viên phục vụ trong khách sạn,… Trước hết là do bản thân nhân viên thiếu kỹ năng
nghề nghiệp nên khả năng phục vụ không chuyên nghiệp. Một số nhân viên chỉ cố
gắng làm cho xong việc, không có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các bộ phận phục
vụ nên thiếu hẳn sự nhiệt tình trong cung cách phục vụ. Sau phải thẳng thắn nhìn
nhận rằng bản thân doanh nghiệp thờ ơ với nhu cầu của khách, không biết quan tâm
lắng nghe để nắm bắt nhu cầu của khách, dẫn đến phục vụ thiếu nhiệt tình, công tác
chăm sóc, hỗ trợ khách hàng bị bỏ ngỏ.
40
¾ Đánh giá về kiến thức trong giao tiếp của nhân viên
Du khách đánh giá kiến thức của nhân viên du lịch Đà Lạt ở mức bình
thường – 2,9 điểm. Trong hoạt động giao tiếp, yếu tố kiến thức là điều kiện cần, các
kỹ năng giao tiếp là điều kiện đủ. Một số công việc trong ngành du lịch đòi hỏi
nhân viên có trình độ cao, kiến thức rộng như: hướng dẫn viên du lịch, thuyết minh
viên,… Để thỏa mãn nhu cầu được thông tin của du khách, nhân viên không chỉ cần
có kiến thức chuyên môn, còn phải mở rộng kiến thức về nhiều lĩnh vực khác: văn
hóa, xã hội, lịch sử,… Với kết quả 45% nhân viên chưa qua đào tạo nghề, 46%
nhân viên có trình độ trung cấp, sơ cấp và chứng chỉ nghề thì nền tảng kiến thức của
đội ngũ nhân viên du lịch chưa thể đáp ứng được yêu cầu công việc chứ chưa nói
đến việc cần phải mở rộng thêm kiến thức. Ngoài ra, trình độ thấp cũng hạn chế khả
năng học hỏi, tiếp thu cái mới đối với nhân viên.
¾ Đánh giá về mức độ quan tâm đến những phản hồi từ phía du khách
Chỉ tiêu này được đánh giá thấp nhất trong 9 chỉ tiêu khảo sát. Với mức 2,3
điểm, việc quan tâm đến những phản hồi từ phía du khách không tốt. Thông tin
phản hồi từ du khách là kênh thông tin vô cùng quan trọng để doanh nghiệp cải
thiện chất lượng sản phẩm, thay đổi cung cách phục vụ, ứng xử. Trong phần trao
đổi trực tiếp, chúng tôi có đặt câu hỏi với các nhà quản lý du lịch về việc du khách
nhận xét, phản ứng thế nào về cung cách ứng xử, phục vụ của nhân viên trong
doanh nghiệp. Kết quả 50% số người được hỏi không hề biết khách phàn nàn, khen
ngợi hay có ý kiến gì về dịch vụ của doanh nghiệp. Chính vì không nắm được các
thông tin phản hồi từ du khách mà du lịch Đà Lạt qua bao nhiêu năm vẫn dậm chân
tại chỗ, nếu không muốn nói là đang tụt hậu so với những địa phương khác cũng
làm du lịch.
Xuất phát từ thực tế, du khách đến du lịch Đà Lạt phần nhiều do điều kiện
khí hậu mát mẻ, trong lành đặc trưng. Tình hình khí hậu trên thế giới đang có chiều
hướng nóng lên, do đó, yếu tố khí hậu vẫn đảm bảo một lượng du khách nhất định
đến nghỉ dưỡng tại Đà Lạt để “giải nhiệt” cho dù chất và lượng của các dịch vụ du
lịch đang xuống cấp. Chính vì vậy, các doanh nghiệp kinh doanh du lịch Đà Lạt khó
41
lòng nhận ra thực tế các loại hình dịch vụ du lịch Đà Lạt không còn đủ sức hấp dẫn
du khách. Điều này dẫn đến việc doanh nghiệp xem nhẹ việc quan tâm đến phản hồi
của du khách để có những thay đổi cho phù hợp và hiệu quả hơn. Đồng thời, các
doanh nghiệp hiện nay vẫn còn thiếu các kênh tiếp nhận ý kiến, thông tin từ phía
khách hàng của mình nên yếu tố này chưa được coi trọng đúng mức.
Kết quả tổng hợp điều tra cho thấy, một số những yếu tố biểu hiện bên ngoài
như: thân thiện, cởi mở, trang phục lịch sự, tôn trọng giờ giấc trong giao tiếp được
đánh giá cao hơn cả, mặc dù chỉ ở trên mức bình thường, chưa đạt đến mức đánh
giá tốt. Các yếu tố về chiều sâu: cư xử đúng mực, hoàn thành công việc theo cam
kết, hỗ trợ du khách, quan tâm đến phản hồi của du khách được đánh giá không tốt.
Rõ ràng các doanh nghiệp hiện nay chỉ cố gắng thu hút du khách đến nhưng không
có ý thức giữ chân và thu hút du khách quay lại vào lần sau.
42
Bảng 2.8 Khả năng thu hút du khách thông qua văn hóa giao tiếp của
các doanh nghiệp du lịch Đà Lạt
II
Đánh giá của du khách về văn hóa giao tiếp
Với du khách tại các doanh nghiệp du lịch Đà Lạt
Số phiếu Tỷ lệ (%)
1
Đây là lần thứ mấy anh/chị đi du lịch tại Đà Lạt?
- Lần đầu tiên 64 61%
- Lần thứ hai 23 22%
- Lần thứ ba 12 11%
- Trên ba lần 6 6%
105 100%
2 Anh/ chị dự định đến Đà Lạt du lịch mấy ngày?
- Từ 1 – 2 ngày 69 66%
- Từ 3 – 4 ngày 26 25%
- Trên 4 ngày 10 9%
105 100%
3
Sau khi sử dụng dịch vụ tại một số doanh nghiệp du lịch
tại Đà Lạt, anh/chị có dự định kéo dài thời gian du lịch
tại Đà Lạt so với dự định không?
- Có 28 27%
- Không 77 73%
105 100%
4
Sau khi quay trở về, anh/chị có ý định giới thiệu về văn
hóa giao tiếp của du lịch Đà Lạt (sự thân thiện, cởi mở;
quan tâm, lo lắng đến du khách; tôn trọng du khách, cư
xử đúng mực; …) đến người thân, bạn bè hay không?
- Có 25 24%
- Không 80 76%
105 100%
_ Trên 60% du khách đến Đà Lạt tham quan, nghỉ dưỡng lần đầu tiên. Tỷ lệ
du khách quay trở lại vào những lần sau giảm dần. Thời gian du khách lưu lại Đà
43
Lạt ngắn, đa số chọn 1 -2 ngày. So sánh với thời gian lưu trú bình quân qua các năm
từ 2006 - 2009 mà Sở Văn hóa Thể thao Du lịch Lâm Đồng đã tính toán là 2,353
ngày cho thấy xu hướng du khách muốn rút ngắn thời gian du lịch tại Đà Lạt. Như
vậy, du lịch Đà Lạt chỉ thu hút du khách về sự khác lạ của khí hậu, cảnh quan thiên
nhiên,… vào ban đầu, còn lại các dịch vụ du lịch không đủ sức hấp dẫn để kéo dài
thời gian lưu trú của du khách.
Anh Nguyễn Đại Nam, một du khách đến từ Hà Nội tỏ vẻ thất vọng: “Gia
đình chúng tôi đi nghỉ mát ở Đà Lạt nhiều lần nhưng chất lượng dịch vụ ngày càng
kém, năm sau có lẽ chúng tôi sẽ chọn nơi khác để tới”.
_ Sau khi sử dụng dịch vụ tại một số doanh nghiệp trong chuyến du lịch,
77% du khách được khảo sát cho biết không có ý định kéo dài thời gian du lịch tại
Đà Lạt. Tương ứng với số liệu trên, 76% du khách không có ý định quảng bá, giới
thiệu đến người thân, bạn bẻ,… đến tham quan, du lịch tại Đà Lạt. Như vậy, văn
hóa giao tiếp với du khách tại Đà Lạt chưa thể hiện được vai trò là nhân tố đảm bảo
mối quan hệ lâu dài, bền vững với du khách và quảng bá hình ảnh doanh nghiệp.
Nhìn chung, du khách đánh giá văn hóa giao tiếp của các doanh nghiệp du
lịch ở Đà Lạt chỉ ở mức độ trung bình và không có gì nổi bật so với những địa
phương khác. Thậm chí, một số du khách đã so sánh văn hóa giao tiếp của du lịch
Đà Lạt với một số địa phương cũng làm du lịch như Nha Trang, Hội An, Đà
Nẵng,… cho biết vẫn còn rất kém. Văn hóa giao tiếp là một phần của chất lượng
dịch vụ, văn hóa giao tiếp yếu thể hiện chất lượng dịch vụ còn thiết sót, chưa đạt
yêu cầu của một sản phẩm du lịch trọn vẹn.
2.4.2 Những mặt tích cực của văn hóa giao tiếp với du khách tại các
doanh nghiệp du lịch Đà Lạt
_ Cả về phía doanh nghiệp lẫn nhân viên đều nhận thức được văn hóa giao
tiếp đóng vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp: văn hóa
giao tiếp cũng là một phần quyết định chất lượng dịch vụ của doanh nghiệp, văn
hóa giao tiếp phản ánh hình ảnh doanh nghiệp, văn hóa giao tiếp là chất keo kết
44
dính khách hàng với doanh nghiệp, … Nhân viên luôn cố gắng duy trì thái độ thân
thiện, cởi mở với du khách dù trong hay ngoài giờ làm việc.
_ Dù không nhiều nhưng một số doanh nghiệp đã tạo được dấu ấn về văn hóa
giao tiếp đối với du khách. Doanh nghiệp đã đầu tư về thời gian, công sức để xây
dựng văn hóa giao tiếp vừa chuyên nghiệp lại vừa mang phong cách riêng của
doanh nghiệp. Trong doanh nghiệp có những tài liệu dành riêng cho việc hướng dẫn
cách giao tiếp, ứng xử cho nhân viên. Doanh nghiệp cũng dành một khoảng thời
gian ban đầu để nhân viên tìm hiểu về doanh nghiệp, văn hóa doanh nghiệp và đào
tạo cho nhân viên các kỹ năng giao tiếp theo cách thức riêng của doanh nghiệp.
Nhân viên được trang bị đồng phục đẹp mắt, lịch sự, phù hợp với công việc.
_ Những doanh nghiệp nhỏ không có điều kiện để đào tạo chính quy về giao
tiếp cho nhân viên nhưng cũng cố gắng tìm tòi tài liệu, sách vở và những kinh
nghiệm hữu ích trong thực tế để áp dụng nhằm phát huy tối đa hiệu quả của các kỹ
năng giao tiếp.
_ Giao tiếp của nhân viên thường xuyên được giám sát, kiểm tra và nhắc nhở
nhằm định hướng cho hoạt động giao tiếp của nhân viên trở thành một nét văn hóa
đẹp.
_ Bản thân đội ngũ nhân viên du lịch luôn cố gắng tìm tòi, học hỏi những kỹ
năng, kinh nghiệm giao tiếp từ thực tế cuộc sống, trong công việc, từ các nguồn
thông tin xung quanh (đài, báo, truyền hình,…) để trau dồi kỹ năng cho mình và
nâng cao hiệu quả công việc.
_ Nhìn chung, du khách đều cảm nhận được sự thân thiện, vui vẻ, nhiệt tình
trong cung cách phục vụ, ứng xử của nhân viên.
2.2.3 Những mặt hạn chế của văn hóa giao tiếp với du khách tại các
doanh nghiệp du lịch Đà Lạt
_ Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp du lịch được tuyển dụng
từ nhiều nguồn khác nhau: đại học, trung cấp nghề, lao động phổ thông,… Tỷ lệ
người lao động chưa qua đào tạo nghề rất cao – 45% . Như vậy, phần lớn người lao
45
động làm việc tại các doanh nghiệp du lịch hiện nay không được trang bị kiến thức
cơ bản về kỹ năng giao tiếp, văn hóa giao tiếp để làm việc.
_ Với 50% nhân viên du lịch không biết ngoại ngữ sẽ là một rào cản lớn
trong giao tiếp với du khách nước ngoài. Hạn chế trong sử dụng ngoại ngữ khiến
cho việc truyền đạt thông tin, quảng bá, giới thiệu sản phẩm cũng bị hạn chế theo.
Đặc biệt là trong giai đoạn sắp tới, khi Đà Lạt phấn đấu trở thành đô thị du lịch tầm
cỡ khu vực và quốc tế.
_ Khả năng lựa chọn và kiểm soát hành vi đúng đắn, vấn đề tâm lý cá nhân
ảnh hưởng đến hoạt động giao tiếp của nhân viên với du khách được đánh giá là ở
mức độ trung bình. Nhân viên chưa hình thành thói quen ứng xử văn minh với du
khách, đôi lúc có những hành vi không phù hợp với nghề nghiệp.
_ Tâm lý rụt rè trong giao tiếp của người Đà Lạt đã ảnh hưởng đến tâm lý
giao tiếp của một bộ phận nhân viên du lịch. Điều này dẫn đến sự thụ động trong
giao tiếp, trong khi đó, du khách lại rất cần được cung cấp nhiều thông tin.
_ Phía các doanh nghiệp đều khẳng định văn hóa giao tiếp rất quan trọng
trong chất lượng dịch vụ nhưng thực tế cho thấy có sự khác biệt rõ ràng giữa nhận
thức và hành vi. Ngoại trừ một số doanh nghiệp đã đầu tư chuyên nghiệp vào tất cả
các hoạt động, trong đó chú trọng đến văn hóa giao tiếp còn lại doanh nghiệp khác
chỉ chú ý đến đầu tư vào cơ sở vật chất, nghiệp vụ của nhân viên còn cách ứng xử,
giao tiếp với khách hàng thì không được coi trọng. Doanh nghiệp không có định
hướng hay những hành động gì cụ thể để xây dựng văn hóa giao tiếp mang bản sắc
riêng, để lại dấu ấn trong lòng du khách.
_ Một số doanh nghiệp cũng cố gắng phát triển kỹ năng giao tiếp cho nhân
viên bằng cách tích lũy những kinh nghiệm giao tiếp từ thực tế và những kỹ năng
giao tiếp trong các sách vở hướng dẫn về giao tiếp rồi hướng dẫn lại cho nhân viên.
Bản thân nhân viên không được hướng dẫn đầy đủ, phần nhiều là tự học hỏi và tích
lũy kinh nghiệm giao tiếp từ trong cuộc sống và chính những công việc mà họ đã
trải qua. Điều này cũng cải thiện phần nào khả năng giao tiếp của nhân viên nhưng
cách thức giao tiếp như vậy là không chuyên nghiệp, thiếu sự đồng bộ, không thể
46
hiện được bản sắc văn hóa riêng của doanh nghiệp. Đôi khi, những thói quen giao
tiếp cá nhân có thể không phù hợp với chuẩn mực giao tiếp trong công việc.
_ Nhiều doanh nghiệp thật sự không quan tâm đến phản ứng của khách hàng
về văn hóa giao tiếp của doanh nghiệp. Họ không biết khách hàng khen ngợi hoặc
phàn nàn điều gì về văn hóa giao tiếp của doanh nghiệp mặc dù họ khẳng định văn
hóa giao tiếp là rất quan trọng.
_ Tại một số doanh nghiệp, có sự khác biệt trong việc giới thiệu, chào bán
dịch vụ với dịch vụ thực tế mà du khách nhận được. Du khách thường bị thuyết
phục bởi những lời quảng cáo về dịch vụ du lịch hấp dẫn, thú vị, được phục vụ tận
tình, chu đáo nhưng thực tế dịch vụ mà họ nhận được lại đơn điệu, nhàm chán, trái
với mong đợi, khiến nhiều du khách thất vọng và không muốn quay lại.
2.2.4 Nguyên nhân của những hạn chế trong văn hóa giao tiếp với du
khách tại các doanh nghiệp du lịch Đà Lạt
_ Tỷ lệ nhân viên du lịch chưa được đào tạo qua về nghề du lịch chiếm gần
một nửa đội ngũ lao động – 45%, nhân viên có trình độ cao (cao đẳng và đại học) –
9%. Tỷ lệ này cho thấy đội ngũ nhân viên du lịch hiện nay trình độ thấp, không
đồng đều dẫn đến thiếu nền tảng chuyên môn về nghề nghiệp, trong đó bao gồm cả
các kỹ năng giao tiếp. Một khi đã thiếu nền tảng về kỹ năng giao tiếp sẽ dẫn tới việc
giao tiếp của nhân viên không đáp ứng được yêu cầu công việc, không chuyên
nghiệp, ngoài ra còn hạn chế khả năng học hỏi, tiếp thu những kiến thức mới.
_ Một bộ phận người lao động là những người làm nghề tự do, hoặc những
người làm việc trái nghề không mong muốn gắn bó lâu dài với nghề du lịch nên
không có động cơ học hỏi, nâng cao kỹ năng nghề nghiệp, trong đó có khả năng về
ngoại ngữ dẫn tới việc hạn chế trong giao tiếp với du khách nước ngoài.
_ Trong doanh nghiệp còn thiếu những biện pháp khuyến khích để tôn vinh,
phát huy những hành vi giao tiếp đẹp hoặc những chế tài cần thiết để phê phán, loại
bỏ dần những hành vi giao tiếp không đẹp. Vì vậy mà nhân viên không có thói quen
rèn luyện, trau dồi những hành vi giao tiếp văn minh với du khách, để việc giao tiếp
47
có văn hóa trở thành thói quen của mỗi nhân viên. Do đó, giao tiếp của nhân viên
còn cảm tính và thiếu chuyên nghiệp.
Việc không thường xuyên rèn luyện các kỹ năng giao tiếp cũng làm nhân
viên thiếu tự tin trong giao tiếp, dẫn đến tâm lý rụt rè, thụ động.
_ Bản thân những người làm công tác quản lý, lãnh đạo tại một số doanh
nghiệp du lịch cũng chưa hiểu biết đầy đủ về văn hóa giao tiếp và những nội dung
của văn hóa giao tiếp, do đó, văn hóa giao tiếp không được quan tâm đầu tư đúng
mức, văn hóa giao tiếp trong doanh nghiệp không có định hướng, không có phong
cách, bản sắc riêng. Thậm chí, chính vì không hiểu biết đầy đủ về văn hóa giao tiếp
và vai trò của văn hóa giao tiếp đối với hoạt động kinh doanh mà nhiều doanh
nghiệp tỏ ra thờ ơ, không quan tâm đến những phản ứng, nhận xét của du khách về
văn hóa giao tiếp ở doanh nghiệp mình
_ Tình trạng một số du khách cảm thấy thất vọng vì sản phẩm du lịch khác
biệt quá nhiều so với những lời giới thiệu, quảng cáo ban đầu xuất phát từ nguyên
nhân nguồn nhân lực của các doanh nghiệp hạn chế về trình độ, hiểu biết, đặc biệt
là đội ngũ hướng dẫn viên du lịch. Đội ngũ lao động này chính là những người trực
tiếp cung cấp dịch vụ du lịch cho du khách (thông qua việc giới thiệu, thuyết trình,
cung cấp thông tin,…trong quá trình giao tiếp). Tự bản thân du khách không thể
cảm nhận hết giá trị của các sản phẩm, dịch vụ du lịch (lịch sử, truyền thuyết, vẻ
đẹp, ý nghĩa, giá trị văn hóa,… tại những nơi họ đến tham quan, nghỉ dưỡng) nếu
không có quá trình cung cấp thông tin từ phía hướng dẫn viên du lịch. Vì vậy, trình
độ hiểu biết của đội ngũ hướng dẫn viên du lịch hạn chế thì không thể thỏa mãn nhu
cầu được thụ hưởng, tìm hiểu, khám phá các sản phẩm du lịch.
_ Chính vì không được hướng dẫn một cách chính quy về kỹ năng giao tiếp
và văn hóa giao tiếp mà người lao động làm việc tại các doanh nghiệp du lịch phải
tự tìm tòi, học hỏi, tích lũy kinh nghiệm giao tiếp từ cuộc sống, từ môi trường làm
việc để phục vụ cho chính công việc của mình. Nhưng do trình độ, nhận thức của
mỗi người khác nhau nên những kiến thức về văn hóa giao tiếp được vận dụng
trong công việc ở mỗi người cũng khác nhau, không đồng bộ, thống nhất, đôi khi
48
không phù hợp và tất yếu là văn hóa giao tiếp của doanh nghiệp không được định
hình rõ ràng, không chuyên nghiệp.
_ Mặc dù rất muốn nhân viên được hướng dẫn vào đào tạo bài bản về các kỹ
năng giao tiếp nhưng doanh nghiệp cũng gặp rất nhiều khó khăn trong vấn đề này.
Những doanh nghiệp có quy mô lớn, số lượng nhân viên từ hàng chục đến hàng
trăm nhân viên không thể sắp xếp thời gian cùng lúc cho tất cả nhân viên được tham
gia huấn luyện vì sẽ ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng ngày.
_ Một số doanh nghiệp khác có quy mô nhỏ, nhân viên có thể chỉ một vài
người cần được hướng dẫn, đào tạo thêm, họ rất muốn nếu có thể có các lớp đào
tạo, tập huấn ngắn hạn thì họ sẵn sàng gởi nhân viên đến tham gia nhưng hiện nay
tại thành phố Đà Lạt không có nơi nào đứng ra tổ chức.
_ Nghị quyết 06 – NQ/TU của tỉnh ủy Lâm Đồng kêu gọi người dân hưởng
ứng việc xây dựng môi trường du lịch lành mạnh với phương châm xây dựng phong
cách người Đà Lạt “ Hiền hòa, thanh lịch, mến khách” rất có ý nghĩa trong việc xây
dựng văn hóa giao tiếp với du khách trong mỗi doanh nghiệp du lịch. Nhưng trên
thực tế, nội dung này đã không được tuyên truyền, phát động rộng rãi đến cộng
đồng dân cư và doanh nghiệp. Chính vì vậy, các doanh nghiệp không nhận thấy
được tầm quan trọng và trách nhiệm cần phải xây dựng văn hóa giao tiếp trong hoạt
động kinh doanh của mình.
49
CHƯƠNG 3
CÁC GIẢI PHÁP XÂY DỰNG VĂN HÓA GIAO TIẾP VỚI
DU KHÁCH TẠI CÁC DOANH NGHIỆP DU LỊCH ĐÀ LẠT
3.1 ĐỊNH HƯỚNG, MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN CỦA DU LỊCH ĐÀ
LẠT
3.1.1 Định hướng phát triển du lịch Đà Lạt
Phát triển du lịch theo hướng phát huy triệt để nội lực, đồng thời tranh thủ tối
đa ngoại lực để tạo sự đột phá, tăng tốc phát triển kinh tế du lịch của địa phương.
Tăng cường củng cố và mở rộng hợp tác song phương và hợp tác đa phương với các
tổ chức quốc tế, các nước có khả năng và kinh nghiệm phát triển du lịch. Khuyến
khích, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các
khu du lịch, các dự án tạo sản phẩm du lịch đặc thù, chất lượng cao. Thu hút và sử
dụng có hiệu quả nguồn vốn ODA cho phát triển nguồn nhân lực, công nghệ và bảo
vệ môi trường du lịch.
Phát triển du lịch theo theo chiều sâu nhằm góp phần cho sự phát triển bền
vững, ổn định. Chú trọng việc định hướng xây dựng cơ sở hạ tầng du lịch, khảo sát
xác định, tiến đến việc mở rộng các loại hình du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, hội
thảo, … nâng cao chất lượng nguồn nhân lực du lịch theo hướng chuyên nghiệp.
Phát triển du lịch phải đảm bảo tính bền vững trên cơ sở khai thác hợp lý tài
nguyên thiên nhiên, đi đôi với bảo vệ, giữ gìn môi trường du lịch và bản sắc văn
hóa các dân tộc trong tỉnh.
Phát triển du lịch theo hướng chất lượng cao trên cơ sở giữ gìn môi trường
cảnh quan, làm tốt công tác quy hoạch, quản lý xây dựng, tăng cường quản lý Nhà
nước.
Phát triển du lịch phải đảm bảo tính liên ngành, liên vùng và xã hội hóa cao
với vai trò du lịch là động lực để thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển và
ngược lại.
50
Phát triển du lịch hướng đến sự hài hòa giữa hiện đại và bản sắc. Đa dạng
hóa các sản phẩm, dịch vụ du lịch nhưng cần xây dựng được những sản phẩm du
lịch có nét độc đáo riêng. Phát triển du lịch theo hướng hiện đại nhưng phải bảo tồn
được các nguồn tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên văn hóa, tài nguyên kiến trúc,…
của Đà Lạt.
3.1.2 Mục tiêu
3.1.2.1 Mục tiêu tổng quát
Phát triển du lịch theo hướng du lịch chất lượng cao và bền vững để ngành
du lịch – dịch vụ du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế động lực của tỉnh Lâm
Đồng và thành phố Đà Lạt.
Khai thác có hiệu quả nguồn lực của địa phương, sự hỗ trợ của Trung ương,
thu hút đầu tư nước ngoài và các thành phần kinh tế để xây dựng Đà Lạt trở thành
một trung tâm du lịch chất lượng cao của cả nước và khu vực. Đầu tư xây dựng cơ
sở vật chất kỹ thuật và phát triển các loại hình du lịch có lợi thế của địa phương như
du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng – chữa bệnh, hội nghị - hội thảo đi đôi với đẩy mạnh
phát triển các cơ sở nghiên cứu khoa học, giáo dục đào tạo, phát triển du lịch gắn
với việc bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc bản địa, phát triển nhiều loại
hình sản phẩm dịch vụ thúc đẩy tiêu dùng, tạo việc làm, góp phần nâng cao đời
sống, xóa đói giảm nghèo ở các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa.
3.1.2.2 Mục tiêu cụ thể
Nhịp độ tăng trưởng lượng khách bình quân mỗi năm từ 15% - 17%. Đến
năm 2015 đón được trên 4 triệu lượt khách. Tăng thời gian lưu trú của khách lên 2,5
– 2,7 ngày. Tổng sản phẩm du lịch – dịch vụ du lịch chiếm tỷ trọng trên 50% GDP
của ngành dịch vụ nói chung (tương đương 19% GDP toàn tỉnh).
Xây dựng và đưa vào khai thác các công trình trọng điểm về du lịch: Tuyền
Lâm, Đankia – Suối Vàng và phát triển mạnh các khu du lịch hiện có, phấn đấu có
trên 10 khu, điểm tham quan du lịch được đầu tư, nâng cấp theo chủ đề để thu hút
du khách.
51
Nâng cấp và xây dựng mới các cơ sở lưu trú, tăng số phòng lưu trú lên
khoảng 15.000 – 17.000 phòng, trong đó có ít nhất 1.500 phòng đạt tiêu chuẩn từ 3
đến 5 sao, đồng thời sắp xếp lại hệ thống cơ sở lưu trú ở thành phố Đà Lạt và nâng
cấp thành khách sạn đạt tiêu chuẩn sao lên trên 100 cở sở.
Phát triển nguồn nhân lực du lịch cả về chất và lượng, phấn đấu đến năm
2015 đạt 30.000 lao động trực tiếp trong ngành du lịch và 60.000 lao động gián tiếp
ngoài xã hội, trong đó 80% lao động trực tiếp trong ngành được đào tạo, bồi dưỡng
chuyên môn, nghiệp vụ.
Hoàn thành quy hoạch tổng thể về phát triển văn hóa, thể thao, du lịch Lâm
Đồng đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2020 và quy hoạch chi tiết về du lịch ở
những nơi có tiềm năng phát triển du lịch.
Có chiến lược giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa mang bản sắc riêng
của địa phương trong phát triển kinh tế du lịch, đặc biệt là văn hóa ứng xử “ hiền
hòa, thanh lịch, mến khách” của người Đà Lạt.
3.2 CÁC GIẢI PHÁP XÂY DỰNG VĂN HÓA GIAO TIẾP VỚI DU
KHÁCH TẠI CÁC DOANH NGHIỆP DU LỊCH ĐÀ LẠT
3.2.1 Giải pháp về xây dựng chuẩn mực giao tiếp với du khách
Chuẩn mực giao tiếp vừa là những quy tắc giao tiếp, ứng xử được quy định
để áp dụng trong doanh nghiệp nhưng cũng vừa mang tính giáo dục đối với toàn thể
nhân viên. Vì vậy, đối với những doanh nghiệp có quy mô lớn, số lượng nhân viên
nhiều, việc xây dựng chuẩn mực giao tiếp là cần thiết để tạo sự đồng bộ, chuyên
nghiệp trong cung cách ứng xử của nhân viên.
Mỗi doanh nghiệp hoạt động trên thị trường đều theo đuổi những giá trị nhất
định. Xây dựng văn hóa doanh nghiệp nói chung, văn hóa giao tiếp nói riêng phải
dựa trên nền tảng những giá trị mà doanh nghiệp đề xướng, theo đuổi. Những giá trị
đó chính là niềm tin và định hướng trong mọi hoạt động của doanh nghiệp. Từ
những giá trị chung sẽ tạo nên các nguyên tắc trong giao tiếp, ứng xử hàng ngày
phù hợp với đặc trưng ngành nghề của doanh nghiệp.
52
Các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực du lịch khi xây dựng chuẩn
mực giao tiếp cần dựa trên cơ sở thực tế mà có sự chọn lọc, điều chỉnh cho phù hợp:
+ Duy trì, phát huy những điểm mạnh trong văn hóa giao tiếp của người Đà
Lạt: lối giao tiếp nhẹ nhàng, thanh lịch, đặc biệt phát huy tính cách mến khách vốn
có; “nụ cười thân thiện” đặc trưng của người Việt Nam càng cần được chú trọng
nhất là trong giai đoạn du lịch Đà Lạt mở rộng cửa đón du khách đến từ nhiều quốc
gia khác nhau trên thế giới; sự tế nhị, ý tứ, trọng hòa thuận trong giao tiếp người
Việt Nam rất phù hợp với đặc điểm tâm lý của các du khách đến từ Châu Á.
+ Khắc phục những điểm yếu, loại bỏ những hành vi giao tiếp không phù
hợp: nhân viên nên mạnh dạn, chủ động bắt chuyện, dẫn dắt du khách thay vì thụ
đông, rụt rè như trước đây; thói quen cư xử theo cảm tính theo kiểu vui thì giao tiếp
hào hứng, buồn thì giao tiếp thờ ơ, lạnh nhạt, phải dứt khoát loại bỏ ra khỏi văn hóa
giao tiếp với du khách; chấn chỉnh tình trạng nói thách khi mua bán, càng không thể
chấp nhận những lời nói, hành vi khiếm nhã khi khách đến chọn hàng nhưng chưa
mua hàng.
Bên cạnh việc kế thừa và phát huy nét văn hóa ứng xử tốt đẹp trong truyền
thống dân tộc, văn hóa giao tiếp trong doanh nghiệp không thể thiếu việc tiếp thu
những chuẩn mực giao tiếp văn minh của thế giới để phù hợp với tiến trình hội nhập
và phát triển.
Những chuẩn mực giao tiếp là do lãnh đạo doanh nghiệp đề ra nhưng toàn
thể nhân viên trong doanh nghiệp sẽ thực hiện. Việc thực hiện chỉ đạt được hiệu quả
khi nhân viên có sự tự giác. Vì vậy, trong quá trình xây dựng các chuẩn mực giao
tiếp cho doanh nghiệp, nếu có đội ngũ nhân viên cùng tham gia xây dựng dựa trên
những kinh nghiệm trong công việc sẽ có tính thực tiễn cao và nhận được sự đồng
thuận của toàn thể nhân viên.
Như vậy, văn hóa giao tiếp trong các doanh nghiệp du lịch Đà Lạt cần được
xây dựng trên cơ sở kế thừa có chọn lọc những nét văn hóa ứng xử truyền thống của
người Việt Nam nói chung, người Đà Lạt nói riêng, tiếp thu những chuẩn mực giao
tiếp hiện đại phù hợp với xu thế phát triển, quan trọng nhất là thể hiện được văn hóa
53
riêng của mỗi doanh nghiệp, phù hợp với tiêu chí, mục đích hoạt động của doanh
nghiệp. Văn hóa giao tiếp của các doanh nghiệp du lịch Đà Lạt cần tạo được sự
khác biệt, nổi bật so với những địa phương khác cũng làm du lịch và phải trở thành
ưu thế của du lịch Đà Lạt.
3.2.2 Giải pháp về huấn luyện kỹ năng giao tiếp cho nhân viên
Quá trình huấn luyện giúp nhân viên trau dồi, rèn luyện những kỹ năng cần
thiết cho công việc, bổ sung những kiến thức mới, ngoài ra, còn giúp nhân viên mới
hòa nhập với văn hóa của công ty. Tùy theo đặc thù, hoàn cảnh mỗi doanh nghiệp
có thể tổ chức các đợt huấn luyện nhân viên sao cho thuận tiện nhất, nhưng nhìn
chung các doanh nghiệp du lịch Đà Lạt có thể tham khảo giải pháp sau:
+ Kế hoạch huấn luyện có thể tổ chức định kỳ mỗi năm, chọn thời điểm có ít
khách du lịch. Thời điểm thuận tiện nhất là cao điểm mùa mưa Đà Lạt, tháng 9, 10
dương lịch. Thời điểm vừa kết thúc mùa hè, các em học sinh vào năm học mới nên
các gia đình không chọn đi du lịch. Thời tiết mưa dầm, ẩm ướt cản trở các hoạt
đông du ngoạn ngoài trời nên du khách thường không chọn đi du lịch Đà Lạt. Chọn
lựa thời gian thực hiện như trên không ảnh hưởng nhiều đến hoạt động kinh doanh
thường nhật, bản thân nhân viên cũng không bị phân tâm trong quá trình huấn
luyện.
+ Người hướng dẫn có thể là những người làm công tác quản lý trực tiếp
trong doanh nghiệp, các chuyên gia công tác tại các trường đào tạo nghề du lịch,
các tổ chức hiệp hội ngành nghề du lịch . Những người làm quản lý trực tiếp có ưu
điểm về kinh nghiệm thực tế, phù hợp với công việc mỗi bộ phận, mỗi nhân viên
trong doanh nghiệp. Chuyên gia có ưu điểm là chuyên môn sâu, rộng, kiến thức
được cập nhật mới, khả năng truyền đạt tốt.
+ Nội dung của các đợt huấn luyện phải đảm bảo truyền đạt đầy đủ các kỹ
năng về giao tiếp bằng lời, giao tiếp không lời. Xây dựng tài liệu cụ thể cho mỗi đợt
huấn luyện. Huấn luyện kỹ năng phải bao gồm việc nắm vững nội dung lý thuyết và
có phần thực hành thực tế. Đưa những tình huống giao tiếp thực tế giữa nhân viên
với du khách thường xảy ra để trao đổi, đúc rút kinh nghiệm.
54
Nếu những doanh nghiệp không có điều kiện tổ chức huấn luyện cho nhân
viên có thể đăng ký các khóa huấn luyện về kỹ năng giao tiếp cho nhân viên tại
những tổ chức giáo dục có uy tín dưới sự hướng dẫn của các chuyên gia trong nghề.
Việc huấn luyện nhân viên về các kỹ năng giao tiếp, giáo dục văn hóa giao
tiếp là rất cần thiết, nhất là khi doanh nghiệp có những chuẩn mực giao tiếp của
riêng mình, vì chuẩn mực giao tiếp áp dụng đồng nhất cho tất cả nhân viên nhưng
trình độ, nhận thức khác nhau có thể dẫn đến việc hiểu khác nhau, cách thể hiện ở
mỗi người có thể khác nhau. Công tác huấn luyện sẽ trang bị đồng bộ cho nhân viên
các kỹ năng giao tiếp, hiểu biết đầy đủ về văn hóa giao tiếp với du khách.
3.2.3 Giải pháp về giáo dục văn hóa giao tiếp với du khách trong cộng
đồng các doanh nghiệp
Văn hóa giao tiếp chỉ đi vào thực tiễn khi những người tham gia vào quá
trình giao tiếp nhận thức được đầy đủ nội dung và vai trò, ý nghĩa quan trọng của
nó, từ đó mà tự giác thực hiện. Nếu không
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- van_hoa_giao_tiep_voi_du_khach_tai_cac_doanh_nghiep_du_lich_da_lat.pdf