Đề tài Thực trạng và tiềm năng phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam

Tài liệu Đề tài Thực trạng và tiềm năng phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam: Lời nói đầu Dân số vừa là chủ thể, vừa là khách thể. Dân số vừa là lực lượng sản xuất, vừa là lực lượng tiêu dùng, là yếu tố chủ yếu của quá trình sản xuất. Vì vậy qui mô, cơ cấu và chất lượng dân số có ảnh hưởng rất lớn tới qui mô, cơ cấu sản xuất, đến quá trình phát 897triển kinh tế xã hội. Nghiên cứu dân số cũng có nghĩa là nghiên cứu nguồn lực con người, mà con người không ai khác là chủ thể của quá trình sản xuất. Vì vậy nghiên cứu dân số có ý nghĩa vô cùng quan trọng, đặc biệt là trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong thời đại mới, thời đại thông tin thời đại cách mạng, khoa học và công nghệ. Từ lâu, loài người đã bắt đầu thấy lo ngại trước sự phát triển số lượng của mình. Sự lo ngại này càng tăng cùng với tốc độ tăng của dân số. Khi mà khoảng thời gian để dân số thế giới tăng gấp đôi rút ngắn lại rất nhanh. Dân số tăng nhanh đã và đang gây sức ép rất lớn về kinh tế xã hội, môi trường sống ... Tiến sĩ Nafic Sadik đã chỉ rõ : "Cố gắng cung cấp đầy đủ các nh...

doc37 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1086 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Thực trạng và tiềm năng phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Dân số vừa là chủ thể, vừa là khách thể. Dân số vừa là lực lượng sản xuất, vừa là lực lượng tiêu dùng, là yếu tố chủ yếu của quá trình sản xuất. Vì vậy qui mô, cơ cấu và chất lượng dân số có ảnh hưởng rất lớn tới qui mô, cơ cấu sản xuất, đến quá trình phát 897triển kinh tế xã hội. Nghiên cứu dân số cũng có nghĩa là nghiên cứu nguồn lực con người, mà con người không ai khác là chủ thể của quá trình sản xuất. Vì vậy nghiên cứu dân số có ý nghĩa vô cùng quan trọng, đặc biệt là trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong thời đại mới, thời đại thông tin thời đại cách mạng, khoa học và công nghệ. Từ lâu, loài người đã bắt đầu thấy lo ngại trước sự phát triển số lượng của mình. Sự lo ngại này càng tăng cùng với tốc độ tăng của dân số. Khi mà khoảng thời gian để dân số thế giới tăng gấp đôi rút ngắn lại rất nhanh. Dân số tăng nhanh đã và đang gây sức ép rất lớn về kinh tế xã hội, môi trường sống ... Tiến sĩ Nafic Sadik đã chỉ rõ : "Cố gắng cung cấp đầy đủ các nhu cầu cần thiết cho số dân tăng thêm quá nhanh cũng giống như cố gắng chạy trên một chiếc băng truyền ngược chiều : người chạy cố gắng thật nhanh để duy trì cảm giác đi lên, từ đó có thể thấy rằng mọi cố gắng trong các chương trình xã hội đều chưa thật đầy đủ để phát triển về mặt số lượng. Quyền lợi của con người thực sự sẽ bị tước đoạt ngày càng nhiều và tương lai sẽ chẳng hứa hẹn được điều gì tốt đẹp nếu như chương trình kế hoạch hoá gia đình và các tổ chức xã hội khác không có sự bổ xung một cách đáng kể về chất lượng". Dân số tăng nhanh cùng với những hậu quả của nó sẽ trở thành vấn đề toàn cầu đòi hỏi các chính phủ không chỉ giải quyết các vấn đề trong phạm vi quốc gia mình mà còn phải có những quan hệ song phương, đa phương hợp tác chặt chẽ cùng nhau giải quyết vấn đề dân số trên phạm vi toàn cầu và toàn khu vực. Trong giai đoạn cách mạng nước ta hiện nay, việc nghiên cứu, luận cứ một cách khoa học cho việc đề ra và tổ chức thực hiện các giải pháp nhằm phát huy nhân tố con người có ý nghĩa vừa cấp bách, vừa cơ bản. Những giải pháp đó phải trên cơ sở đánh giá đúng thực trạng, khơi dậy cho được những điều kiện bảo đảm cho những tiềm năng đó biến thành hiện thực. Qua một số lý luận trên toát lên tầm quan trọng của việc nghiên cứu chiến lược phát triển dân số và phát triển nguồn nhân lực ở nước ta. Từ đó en đã chọn đề tài: "Thực trạng & tiềm năng phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam" Em xin chân thành cảm ơn những ý kiến đóng góp quý báu của thầy cô đã giúp em thực hiện đề tài này. Phần I: Dân số và lao động ở Việt Nam. I. Thực trạng và xu hướng phát triển dân số ở nước ta. 1. Quy mô và cơ cấu dân số. a. Quy mô và sự gia tăng dân số. Quy mô dân số trước hết được hiểu là tổng số dân của một vùng một quốc gia, một khu vực hay trên toàn thế giới. Những thông tin về qui mô dân số hết sức cần thiết trong việc phân tích so sánh với các chỉ tiêu phát triển kinh tế xã hội nhằm lý giải nguyên nhân của tình hình và hoạch định chiến lược phát triển. Việt nam được coi là một trong những nước nhất thế giới, với một nền nông nghiệp lạc hậu, chậm phát triển lại chịu ảnh hưởng nặng nề bởi các cuộc chiến tranh. Tuy vậy quy mô dân số nước ta vẫn đông và tăng nhanh chóng. Năm 1921 nước ta mới chỉ khoảng 16 triệu dân; 1960: 30 triệu; 1975: 48 triệu; 1985: 60 triệu; 1995: 74 triệu; 1997: 76 triệu. Như vậy, khoảng thời gian dân số nước ta tăng gấp đôi ngày càng được rút ngắn khoảng cách. Dự báo đến năm 2000 dân số nước ta khoảng 83 triệu người, 2005: 89 triệu; 2010: 95 triệu và 2015: 101 triệu. Với qui mô dân số như hiện nay, Việt Nam đứng hàng thứ hai ở Đông Nam á sau Inđônêxia, đứng thứ 7 trong số 42 nước thuộc khu vực Châu á - Thái Bình Dương và đứng hàng thứ 13 trong số những nước đông dân nhất thế giới (sau các nước Trung Quốc, ấn Độ, Mỹ, Inđônêxia, Nga, Brazin, Nhật, Nigiêria, Pakistan, Băngladet, Mêhicô và CHLB Đức). Cụ thể: Trung Quốc: 1,2 tỷ, ấn độ gần 1 tỷ, Mỹ: 261 triệu, Inđônêxia: 195 triệu, Brazil: 159 triệu, Nga: 147 triệu... Nếu đầu kỷ nguyên này, dân số Việt Nam chỉ bằng 0,6% dân số thế giới thì đến nay đã chiếm gần 1,3%. Với những số liệu trên cho thấy quy mô dân số nước ta là rất lớn và gia tăng nhanh chóng, vượt xa tốc độ gia tăng dân số thế giới. Mặc dù trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã sớm đề ra chủ trương chính sách nhằm làm giảm mức sinh, hạn chế việc gia tăng dân số. Nhưng thực tế tốc độ gia tăng dân số ở nước ta hàng năm tuy có giảm nhưng giảm chậm và vẫn còn cao so với nhiều nước trên thế giới. Điều này được thể hiện ở bảng sau: Bảng1: Tỷ lệ thay đổi hàng năm, chia theo từng nước (%) Tên nước 1965 - 1970 1985 - 1990 2000 - 2005 Trung Quốc 2,61 1,49 0,78 Inđônêxia 2,33 1,93 1,28 Nam Triều Tiên 2,25 1,22 0,59 ấn Độ 2,28 1,97 1,64 Việt nam 2,17 2,15 1,85 Nguồn: Would population prospects the 1992, United Nations Nhìn vào bảng trên ta thấy. Trong giai đoạn 1965 - 1970 tỉ lệ gia tăng ddân số của nước ta thấp hơn Trung Quốc và Inđônêsia. Nhưng đến giai đoạn 1985 -1990 khi Trung Quốc và Inđônêsia đã đạt được mức tăng dân số dưới mức 2% thì Việt Nam vẫn ở tốc độ tăng dân số trên 2%. Riêng Nam Triều Tiên đạt được mức giảm tốc độ gia tăng dân số đáng kể nhất, đã ở "điểm dừng dân số" với tốc độ tăng dân số thấp hơn 1%. Như vậy dân số nước ta vẫn ở mức tỷ lệ gia tăng dân số cao mà "nguyên nhân chủ yếu của tình trạng tăng dân số quá nhanh trước hết là do các cấp uỷ Đảng và chính quyền chưa thực sự quán triệt chủ trương coi việc giảm tốc độ gia tăng dân số là một quốc sách lơi lỏng việc lãnh đạo và chỉ đạo tổ chức thực hiện; phong trào quần chúng thực hiện kế hoạch hoá gia đình chưa được phát động rộng khắp; công tác tuyên truyền giáo dục nhằm khắc phục ảnh hưởng tâm lý và tập quán cũ làm còn yếu, đầu tư của Nhà nước cho công tác dân số và kế hoạch hoá gia đình chưa thoả đáng; dụng cụ và phương tiện cho công tác này còn thiếu nghiêm trọng, bộ máy chuyên trách yếu kém, thống kê dân số không chính xác" - Nghị quyết Hội nghị lần thứ Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VII về chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình. Quy mô dân số lớn, tốc độ gia tăng dân số còn cao trong điều kiện kinh tế nghèo nàn, lạc hậu như Việt Nam đang đặt ra những vấn đề kinh tế - xã hội hết sức gay gắt cần giải quyết, trước mắt cũng như lâu dài. b. Phân bố dân cư. Những số liệu về qui mô và đặc trưng của tổng số dân của một quốc gia chưa nói lên được qui mô và sự gia tăng dân số của từng vùng, từng khu vực trong lãnh thổ quốc gia đó. Xét trên phạm vi các quốc gia t hì phải so sánh giữa quốc gia này với quốc gia khác để thấy được tình hình phát triển kinh tế xã hội của từng quốc gia. Còn xét t rong phạm vi một quốc gia thì tuỳ vào đặc điểm của mỗi quốc gia sẽ chia thành các đơn vị hành chính trong nước khác nhau: các khu tự trị, các bang, tiểu ban, các tỉnh, thành phố, quận, huyện, phường xã... Các đơn vị hành chính có thể thay đổi theo các thời kỳ khác nhau của lịch sử. ở Việt Nam, dân số cũng được xác định cho các đơn vị hành chính. Theo số liệu của cuộc tổng điều tra dân số toàn quốc ngày 1/4/1989 dân số được chia theo 43 tỉnh, thành phố. Từ năm 1990 theo quyết định của Nhà nước, một số tỉnh trước kia sát nhập, nay lại tách ra nên có những thay đổi nhất định về mặt hành chính. Hiện nay nước ta có khoảng 53 tỉnh, thành phố với 54 dân tộc khác nhau. Việc xác định số dân trong các vùng theo các đặc trưng địa lý, kinh tế, xã hội, văn hoá và dân số học khác nhau có ý nghĩa rất quan trọng nhằm phân bố và phân bố lại lực lượng sản xuất, lao động và dân cư ở nước ta, do điều kiện lịch sử nên việc phân bố dân cư theo các vùng lãnh thổ khác nhau không hợp lý, được thể hiện qua tỉ trọng đất đai và tỉ trọng dân số của từng vùng cũng như mật độ dân số (xem bảng 2). Bảng 2: Sự phân bố dân cư giữa các vùng năm 1993. Các vùng Đất đai(%) Dân số(%) Mật độ dân cư (ng/km2) - Cả nước 100 100 214 1. Miền núi Trung du Bắc bộ 31,1 17,3 120 2. Đồng bằng Sông Hồng 3,76 19,77 1105 3. Bắc Trung Bộ 15,46 13,61 185 4. Duyên Hải miền Trung 13,84 10,55 160 5. Tây nguyên 16,79 4,14 52 6. Đông Nam bộ 7,09 12,43 370 7. Đồng bằng Sông Cửu Long 11,96 22,2 391 Nguồn : The population of Việt Nam Một trong những chỉ báo chủ yếu phản ánh sức ép dân số đối với đất đai tài nguyên là " Mật độ dân số" . Qua bảng trên cho thấy, trong 7 vùng chủ yếu, dân số tập trung đông nhất ở vùng Đồng Bằng Sông Hồng (1105 ng/km2). Trong khi đó ở vùng Tây nguyên chỉ có 52 người/ km2 bằng 1:21 lần so với vùng đồng bằng Sông Hồng. Những năm vừa qua, dochính sách di dân tích cực nên mật độ dân số trong một số vùng thưa dân giàu tài nguyên đã tăng lên đáng kể. Dự báo bước sang thế kỷ 21, tỷ trọng phân bố dân cư giữa các vùng như sau: Vùng(%) Năm 1 2 3 4 5 6 7 Cả nước 2000 17 19 13 11 5 13 22 100 2005 18 18 13 10 6 13 22 100 2010 18 17 13 10 7 13 22 100 Một tiêu thức khi nghiên cứu sự phân bố dân cư ở nước ta là sự phân bố dân cư theo thành thị nông thôn. Đại bộ phận dân cư nước ta sống chủ yếu bằng nghề nông nên dân cư tập trung ở vùng nông thôn lớn (80% dân số cả nước) còn ở các vùng thành thị chỉ chiếm khoảng 20%. Tuy nhiên ở nước ta, thu nhập giữa thành thị và nông thôn có sự chênh lệch nhau lớn nên việc di dân từ nông thôn ra thành thị làm cho tốc độ gia tăng cơ học của thành thị cao gây sức ép lớn về việc làm, nhà ở, ô nhiễm môi trường... đòi hỏi các ngành có chức năng phải có những biện pháp những chủ trương đúng đắn cần thiết để giải quyết vấn đề này. c. Cơ cấu dân số theo giới tính. Cơ cấu dân số là sự phân chia tổng dân số của một quốc gia hay một vùng nó đó thành các nhóm, các bộ phận theo một hay nhiều tiêu thức như: độ tuổi, giới tính, nghề nghiệp, trình độ văn hoá, học vấn... Trong đó cơ cấu dân số theo độ tuổi và giới tính có vị trí rất quan trọng bởi những số liệu về cơ cấu dân số theo độ tuổi và giới tính phục vụ cho nhiều mục đích phân tích các vấn đề kinh tế, xã hội, chính trị... Cơ cấu dân số hợp lý sẽ tạo điều kiện thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời nó còn tác động trực tiếp đến quá trình biến động tự nhiên và biến động cơ học dân số. Giới tính có vai trò quyết định để cân bằng sinh thái của cộng đồng trong những mối liên hệ xã hội và kinh tế. Vì vậy đặc trưng về giới tính có vị trí quan trọng trong việc lập kế hoạch huy động nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ lao động, hệ thống dịch vụ y tế ... Bảng sau cho thấy sự thay đổi cơ cấu giới tính ở Việt Nam 1979 - 1989 Các chỉ tiêu Nam Nữ Chênh lệch Dân số 1/10/79 25880 27167 - 1581 Dân số 1/4/89 31230 33145 - 1915 Thay đổi trong 10 năm 5650 5894 - 334 ở các nước khác nhau trong các thời kỳ khác nhau thì cơ cấu dân số theo giới tính cũng có khác nhau, nó liên quan đến nhiều vấn đề kinh tế, chính trị xã hội khác. Ví dụ như ở nước ta, trước ngày thống nhất đất nước (1975) thì cơ cấu giới nữ cao hơn so với nam bởi lẽ trong chiến tranh, một lực lượng nam giới đông phải đi làm nghĩa vụ quân sự , tuy nhiên sau thống nhất đất nước việc trở về đoàn tụ lại làm cho tỉ lệ dân số tăng nhanh, tỷ lệ giới tính vẫn tiếp tục mất cân đối và sự thay đổi theo hướng sự thiếu hụt nam giới tăng lên nhưng không đáng kể. d. Cơ cấu dân số theo độ tuổi. Việt Nam là nước đang phát triển. Cơ cấu phát triển tuổi thuộc loại dân số trẻ và trẻ hơn cơ cấu dân số của các nước đang phát triển nói chung. Thể hiện ở bảng sau: Bảng Cơ cấu tuổi các nước phát triển các nước phát triển và Việt Nam. Nhóm tuổi Các nước phát triển Đang phát triển Việt Nam 1990 1990 1989 0 - 4 7 13 14 5 - 14 14 22 25 15 - 64 67 60 56,25 65+ 12 5 4,75 Tổng số (%) 100 100 100 Tổng số (tr người) 1207 4086 64,415 Nguồn: United Nations 1991, trang 228, 230 Phân tích kết quả điều tra mẫu: TCTK Hà Nội, 1991, trang 11. Dựa vào bảng trên ta thấy tỷ lệ dân số nhóm tuổi 0 - 4 và 5 - 11 ở nước ta cao hơn so với các nước đang phát triển và cao hơn nhiều so với các nước phát triển. Theo báo cáo kết quả điều tra lao động, việc làm 1996, HN 1/1997. Nước ta với dân số hơn 76 triệu người thì có 65,7% từ 15 tuổi trở lên. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động tính từ 15 tuổi trở lên là 73,68%. Tỷ lệ thất nghiệp thành thị là 5,69% và tỉ lệ thời gian được sử dụng ở nông thôn là 72,11%. Trong khi đó lao động nông thôn chiếm 76% lực lượng lao động cả nước (PTS Nguyễn Bá Ngọc - Thị trường lao động Việt Nam thực trạng và định hướng, LĐ & XH 8/1997). Dân số tăng nhanh với qui mô lớn, số lượng người bước vào độ tuổi có khả năng lao động lớn. Một mặt nó tạo ra một nguồn lao động dồi dào , một thị trường tiêu dùng lớn là điều kiện thuận lợi để mở rộng sản xuất làm cho tổng sản phẩm quốc dân tăng lên. Mặt khác, dân số tăng nhanh tới mức "bùng nổ" đã và đang gây ra những khó khăn lớn cho chính phủ trong việc giải quyết việc làm, gây tác động xấu tới môi trường tự nhiên, tệ nạn xã hội. .. 2. Hậu quả của sự gia tăng dân số. Dân số tăng nhanh hiện nay chủ yếu tập trung vào các nước đang phát triển. Sự gia tăng dân số quá mức đã và đang gây ra sức ép về việc làm rất lớn, kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, tác động xấu tới môi trường, làm cạn kiệt nguồn tài nguyên. a. Dân số tăng nhanh kìm hãm sự phát triển kinh tế. Như đã biết, hiện nay ở các nước đang phát triển đang phải đương đầu với tình trạng dân số quá đông nơi mà nền kinh tế chưa phát triển, chưa thoả mãn nhu cầu lao động của tất cả mọi người dân thì việc tăng dân số sẽ ảnh hưởng đến quá trình nâng cao mức sống dân cư vì con người ta không thể không sống mà không ăn, không tiêu dùng. Mặt khác, nếu nguồn vốn cố định trong khi dân số tăng nhanh thì mức trang bị kỹ thuật cho mỗi lao động giảm, năng suất lao động không tăng được làm hiệu quả kinh tế kém. Từ khi chuyển đổi cơ chế, nền kinh tế Việt Nam cũng đạt được những bước chuyển đổi đáng kể. Song sự gia tăng dân số quá nhanh nhanh hơn nhiều so với sự tăng trưởng nền kinh tế làm cho mức sản xuất các sản phẩm chủ yếu bình quân đầu người đến năm 1997 vẫn còn rất thấp: điện 226 kwh, than : 117 kg, dầu thô: 118 kg, thóc: 352 kg, xuất khẩu : 96 USD. Thu nhập dân cư còn thấp, GDP bình quân đầu người mới đạt 270 USD/người/năm. Mà theo sự phân loại của các nhà kinh tế thế giới thì những nước có thu nhập quốc dân bình quân đầu người là 500 USD/năm thì được xếp vào những nước cực kỳ nghèo trên thế giới. Như vậy, có thể nói Việt Nam là một nước cực kỳ nghèo. Để phát triển sản xuất thì phải có đầu tư để tăng vốn dành cho sản xuất đã có những thuyết kinh tế chứng minh tốc độ phát triển kinh tế phụ thuộc vào mức độ tiết kiệm của đất nước. Khi dân số tăng nhanh thì tỷ lệ người ăn theo tăng lên do đó không thể tăng tỷ lệ người ăn theo tăng lên do đó không thể tăng tỷ lệ thu nhập. Nước ta còn nghèo, ngân sách Nhà nước lại eo hẹp nên hàng năm ngân sách Nhà nước dành cho đầu tư xây dựng cơ bản mới đạt khoảng 23 - 24% / GDP rất thấp so với các nước trong khu vực thời kỳ công nghiệp hoá (Singapore 40%, Hàn Quốc 30%). Do đó chúng ta đang rất thiếu vốn và thiếu máy móc thiết bị hiện đại. b. Dân số tăng nhanh ảnh hưởng đến các vấn đề xã hội. Khi dân số tăng nhanh sẽ gây sức ép lớn đối với chính phủ về vấn đề sức khoẻ, trình độ học vấn cho người dân, vấn đề tạo việc làm cho những người bước vào độ tuổi lao động, bảo hiểm xã hội, nhà ở ... Dân số đông thường đi kèm với nền kinh tế nghèo nàn do đó chính phủ không thể và không đủ điều kiện chăm sức khoẻ tốt và tạo được một nền giáo dục tốt. Bình quân mỗi học sinh chỉ có 0,43m2 phòng học, trong đó Đại học và cao đẳng: 13,1 m2, phổ thông trung học : 2,74m2, tiểu học : 0,15m2. ở các nước phát triển bình quân mỗi giáo viên cấp I phụ trách 19 học sinh, cấp II: 15 học sinh, cấp III: 13 học sinh. Trong khi đó ở Việt Nam, cấp I: 51,3 học sinh, cấp III: 18 học sinh/giáo viên. Tình hình trên đã dẫn đến tình trạng "xuống cấp" hệ thống giáo dục, chất lượng giảng dạy học tập giảm sút, tỷ lệ học sinh đến trường có xu hướng giảm xuống và tỷ lệ bỏ học có xu hướng tăng lên. Sự phân bố dân cư không đồng đều giữa các vùng cũng gây khó khăn cho việc phổ cập giáo dục, đặc biệt là đối với các dân tộc thiểu số miền núi thì việc phổ cập giáo dục cho họ hầu như nước ta chưa thực hiện được. Do đó mặt bằng dân trí ở các vùng này rất thấp. Vì vậy, hạn chế giá tăng dân số, đem lại sức khỏe tốt và việc giáo dục tốt hơn cho trẻ em ngày hôm nay sẽ tạo ra một lực lượng lao động có giá trị cho ngày mai. Dân số tăng nhanh gây sức ép lớn đối với vấn đề nhà ở và đô thị hoá. ở nước ta do có sự chênh lệch lớn giữa nông thôn và thành thị nên hiện tượng di dân tự do từ nông thôn ra thành thị đã và đang tạo nên sức ép về mọi mặt đối với các đô thị. Có tới hơn một nửa số dân đô thị phải sống chen chúc trong các ngôi nhà ổ chuột hoặc các khu xây dựng bất hợp pháp với điều kiện sinh hoạt rất khó khăn như: thiếu nước sinh hoạt , điều kiện vệ sinh xuống cấp... Cùng với những khó khăn thấp đó thì vấn đề giải quyết việc làm ở các đô thị cũng là một vấn đề cần được quan tâm. Khi vấn đề này không được giải quyết một cách có hiệu quả thì sẽ gây nên tình trạng thất nghiệp và đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến các tệ nạn xã hội như : trộm cắp, cướp giật, mại dâm, nghiện hút... c. Dân số tăng nhanh làm cạn kiệt nguồn tài nguyên, tăng nạn tham ô hiễm môi trường và phá huỷ môi trường thiên nhiên. Riêng vấn đề tài nguyên, thiên nhiên môi trường không mang tính chất riêng rẽ của từng quốc gia mà nó mang tính toàn cầu vì ở đâu (nước phát triển hay đang phát triển) đều có nhu cầu về ăn, ở, mặc đi lại... Để giải quyết được nhu cầu cơ bản này thì con người phải tác động vào tự nhiên. Như đã biết, diện tích đất canh tác trên hành tinh chúng ta không phải vô hạn nghĩa là nguồn cung cấp thức ăn cho con người có một giới hạn nhất định. Một số nguồn tài nguyên thiên nhiên, năng lượng , nhiên liệu khác - cái mà hiện nay sự phát triển kinh tế cũng như sự tồn tại xã hội loài người đang trông chờ thì trữ lượng và khả năng khai thác có hạn, song mức độ tiêu dùng ngày càng tăng mà không có mức độ phù hợp tất yếu sẽ gây nên không ít khó khăn cho nền kinh tế và hậu quả bất lợi cho hệ sinh thái con người. Một thực tế cho thấy trong vài chục năm trở lại đây, cùng với thời gian qui mô dân số ngày càng tăng thì diện tích rừng che phủ trên toàn cầu càng giảm và Việt Nam cũng không nằm ngoài tình trạng đó. Theo ước tính hàng năm thế giới mất từ 17 - 20 triệu ha rừng nhiệt đới trong đó các nước đang phát triển chiếm 1,0 - 1,5%. Theo tính toán của các nhà khoa học thì để đảm bảo cho sự phát triển của nhân loại một cách bền vững thì mật độ rừng che phủ phải ở mức độ 40 - 50% diện tích toàn cầu. Trên thực tế con số đó thấp hơn rất nhiều. ở nước ta giai đoạn 1943 - 1984 đã xảy ra tình trạng dân số tăng lên bao nhiêu thì diện tích rừng giảm bấy nhiêu. Năm 1943 1976 1981 Dân số 1 2,2 2,5 Diện tích 1 0,44 0,4 Rừng Hiện nay nước ta mỗi năm mất khoảng 20 vạn ha rừng với tốc độ tàn phá rừng như hiện nay thì bước vào thế kỷ 21, Việt Nam sẽ là một nước không có rừng, điều này có thể gây ra những hậu quả khó lường trước được. ở những nước phát triển hoặc đang phát triển những nỗ lực gia tăng thu nhập bằng bất cứ giá nào đã huỷ hoại các hệ thống tự nhiên. Việc sử dụng ngày càng nhiều các loại phân hoá học, thuốc trừ sâu như DDT, 666 trong nông nghiệp, đốt rừng làm nương rẫy, đánh bắt hải sản với khối lượng quá lớn gây nên những áp lực lớn đối với môi trường. Vì vậy để đảm bảo cho sự văn minh của xã hội loài người mãi mãi được tồn tại để điều chỉnh sự phát triển dân số hợp lý là cần thiết và cấp bách. Như vậy gia tăng dân số quá nhanh là một trong những nguyên nhân làm cho đất canh tác ngày một thu hẹp, rừng bị tàn phá nghiêm trọng, nguồn nước ngày càng khan hiếm và ô nhiễm, nạn thất nghiệp, thất học , thiếu chăm sóc y tế, suy dinh dưỡng, tệ nạn xã hội gia tăng, hạn chế điều kiện phát triển trí tuệ văn hoá và thể lực của giống nòi cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt trong hoàn cảnh kinh tế - xã hội còn yếu kém của nước ta. (Trích báo cáo của Bộ chính trị tình hình Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VII về chính sách DS - KHHGĐ tháng 1 - 1993) Phát triển kinh tế dù có tăng nhanh nhưng vấn đề tốc độ phát triển dân số không được kìm lại, chúng ta sẽ không thực hiện tốt được các mục tiêu kinh tế xã hội. Nhiều nỗ lực về phát triển kinh tế văn hoá sẽ bị triệt tiêu. 3. Chiến lược phát triển dân số đến năm 2000. Vấn đề dân số trong chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội được Đại học Đảng toàn quốc lần thứ VII chỉ rõ :"... Thực hiện đồng bộ chiến lược dân số trên cơ sở ba mặt quy mô dân số, cơ cấu dân số và sự phân bố dân số...". a. Mục tiêu và giải pháp. - Giảm nhanh tỉ lệ sinh con thứ 3 trở lên để đến năm 2000 tổng tỷ suất sinh đạt mức 2,9% hoặc thấp hơn để quy mô dân số dưới mức 82 triệu người. Do đặc điểm nước ta là nền công nghiệp trồng lúa nước với gần 80% dân số sống bằng nghề nông nên có thể sử dụng các giải pháp có liên quan đến nông nghiệp, chẳng hạn như phát triển nông nghiệp, tiến hành thuỷ lợi hoá, hoá học hoá, áp dụng một phần cơ giới hoá lao động nông nghiệp để đẩy mạnh mức tăng trưởng kinh tế, dẫn đến mức sống tăng nhanh, qua đó gián tiếp tác động tới việc chấp nhận qui mô gia đình nhỏ, làm giảm tỷ lệ sinh, tăng tỷ lệ thực hành tránh thai của các cặp vợ chồng. Qua thực trạng về dân số ở nước ta, cho ta thấy được sự phân bố dân cư không hợp lý giữa các vùng. Vì vậy mục tiêu đặt ra là phân bổ lại nguồn lực giữa các vùng cho hợp lý hơn. Nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế tương đối đồng đều giữa các vùng trong nước. Để thực hiện được mục tiêu này cần phải đưa ra những giải pháp nhằm khuyến khích dân cư đi khai thác vùng kinh tế mới, thực hiện biện pháp giao đất, giao rừng, hỗ trợ về vốn, vật chất cho những người đến vùng này. b. Các chính sách cụ thể. Thứ nhất, có chính sách khuyến khích về vật chất và tinh thần đối với những gia đình ít con, người vận động thực hiện và làm nhiệm vụ KHHGĐ . Từ trước đến nay, các hình thức khuyến khích mới chỉ tập trung vào các cặp vợ chồng chấp nhận KHHGĐ, còn người vận động và làm nhiệm vụ KHHGĐ hầu như bị xem nhẹ. Điều đó dẫn đến tình trạng người vận động không thấy được quyền lợi của mình trong công việc và họ không thiết tha với công việc. Còn đối với các dịch vụ KHHGĐ cũng vậy họ làm theo nghĩa vụ không tính đến chất lượng của dịch vụ và thiếu tinh thần trách nhiệm. Để giải quyết tình trạng này cần chú trọng hơn nữa các hình thức khuyến khích vật chất tinh thần cho đối tượng này. Về hình thức khuyến khích có thể thưởng bằng tiền, hiện vật hoặc những vấn đề có liên quan đến đời sống tinh thần. Tuy nhiên tuỳ theo từng vùng khác nhau nên quy định mức thưởng khác nhau. Bởi vì, ở những vùng miền núi, vùng xa, điều kiện đi lại khó khăn trình độ dân trí thấp, do đó việc vận động khó khăn hơn nhiều so với những vùng đồng bằng hay thành thị. Bên cạnh đó cần có những biện pháp hành chính đối với những Đảng viên, viên chức Nhà nước không thi hành chính sách dân số KHHGĐ như phạt tiền, giảm mức lương hoặc biện pháp mạnh nhất là buộc thôi việc. Thứ hai, tăng cường các chính sách bảo hiểm cho người già công tác bảo hiểm cho người già nếu làm tốt sẽ có tác dụng mạnh mẽ tới ý thức của người dân về số con mong muốn. Một trong những nguyên nhân dẫn đến quy mô gia đình lớn đólà cần có nhiều con để phụng dưỡng cha mẹ lúc tuổi già, khi chức năng này được xã hội đảm nhiệm và làm tốt thì tất yếu sẽ dẫn đến số con trung bình giảm. Chính sách bảo hiểm cho người già có thể là tăng mức trợ cấp cho những người chấp nhận mô hình gia đình nhỏ tăng thêm 5% lương, với những cặp không có con lương hưu tăng 10% và chăm sóc sức khoẻ lúc ốm đau. Tiến hành thành lập các trung tâm dưỡng lão, các hội người già, hội những người tình nguyện chăm sóc người già. Việc thành lập này có tác dụng thu hút sự tham gia, đóng góp của các thành viên , đoàn thể trong xã hội vào công tác này. Bản thân những người tình nguyện phải được đào tạo qua lớp nghiệp vụ y tá để có thể xử lý những tình huống đơn giản và họ sẽ hưởng chế độ ưu đãi và sự trợ cấp của Nhà nước hàng tháng. Đặc biệt chính sách bảo hiểm cho người già cần hoạt động mạnh hơn nữa ở khu vực nông thôn, nơi còn duy trì khá phổ biến và nặng nề tư tưởng cần có nhiều con. Thứ ba, cần có những chính sách phân bố lại dân cư một cách hợp lý. Đi đôi với việc khuyến khích những người đi khai thác vùng kinh tế mới, Nhà nước phải có những chủ trương chính sách đảm bảo không chỉ về mặt vật chất mà cả về mặt tinh thần cho họ. Đặc biệt cần phải đầu tư về hệ thống y tế và giáo dục cho các vùng này. Thực hiện việc giao đất giao rừng trên cơ sở đầu tư ban đầu bằng tiền hoặc cây trồng... hoặc cho vay với lãi suất thấp. Có như vậy họ mới yên ổn làm ăn tránh trường hợp quay trở lại nơi xuất phát một cách ồ ạt, không có tổ chức. Thứ tư, nâng cao năng lực tổ chức quản lý: Qua nhiều năm thực hiện khảo sát thực tế của một số nước trong khu vực, chúng ta phải thấy rằng, đồng thời với việc thực hiện các giải pháp trên, phải coi trọng việc nâng cao năng lực quản lý chương trình, một đảm bảo rất quan trọng cho việc thành công mà nội dung chính là đảm bảo một hệ thống đầy đủ, tổ chức đủ mạnh với một đội ngũ cán bộ được đào tạo và các nhà lãnh đạo có uy tín cao đảm nhận, xây dựng được một hệ thống thông tin tốt để giúp việc nâng cao chất lượng trong công việc xây dựng kế hoạch, xây dựng chính sách phải có một hệ thống chính sách đồng bộ bao quát được các nội dung có liên quan hướng vào việc giảm sinh để đưa mức sinh phát triển hợp lý. II. Thực trạng nguồn lao động ở nước ta. 1. Đặc điểm thị trường lao động. Đặc điểm đầu tiên khi nói về thị trường lao động ở nước ta là đông về mặt số lượng nhưng chưa mạnh về mặt chất lượng - Thể hiện ở chỗ số người bước vào tuổi có khả năng lao động ngày một đông. Khi đất nước mới thống nhất (1975) số người trong độ tuổi lao động chỉ có trên 2 triệu người, năm 1980: 25 triệu; 1985: 30 triệu ; 1990: 35 triệu; 1995: 40t riệu và dự tính đến năm 2000 khoảng 45 triệu người. Tỷ trọng nguồn lao động trong dân số ngày càng tăng: 1975: 45%; 1985: 50%; 1995: 54%. Dự tính đến năm 2000: 55 - 56% (GS.PTS Tống Văn Đường - phát triển dân số với việc làm ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay- LĐ & XH. Tháng 10 - 1996). Từ khi nước ta chuyển đổi từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường thì tình trạng thất nghiệp trở nên phổ biến. Tình trạng thừa lao động, thiếu việc làm vẫn rất đông ở nông thôn cũng như thành thị (khoảng 6 - 7 triệu lao động dư thừa), phần lớn họ không có khả năng tìm việc ổn định.ở nông thôn, hàng chục triệu nông dân chỉ làm việc, bốn tháng trong một năm, tập trung vào mùa vụ, thời gian còn lại hầu như là nhàn rỗi. Trong khi lao động nông thôn chiếm tới 76% lực lượng lao động cả nước thì thời gian được sử dụng ở nông thôn chỉ ở mức 72,11%. Đặc điểm lao động ở nông thôn là trình độ văn hoá thấp, chủ yếu làm những công việc sử dụng nhiều sức lao động, lao động mang tính chất thủ công là chính, trình độ tay nghề rất thấp... Tình trạng thất nghiệp ở nông thôn cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự di dân tự do ra các thành phố lớn, các đô thị để kiếm việc hình thành nên những "chợ lao động" gây khó khăn cho việc quản lý của các nhà chức trách. Năm 1996, tỷ lệ lao động nông thôn ra thành thị tìm việc làm trong dân số hoạt động kinh tế là 7,14%. Số lao động này chủ yếu làm các công việc và dịch vụ nặng nhọc như: làm thuê, đạp xích lô, đào đất... Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến các tệ nạn xã hội ở các thành phố lớn như cờ bạc, nghiện hút, mại dâm... Hiện nay cả nước có khoảng 80 nghìn gái mại dâm, 80 nghìn người nghiện hút và 50 nghìn người sống lang thang bụi đời. Trong khi tình trạng thất nghiệp ở nông thôn cao thì ở các khu công nghiệp kỹ thuật cao, khu chế xuất lại thiếu các kỹ sư và công nhân lành nghề. Đội ngũ quản lý ở tầm vĩ mô và tầm vi mô đông nhưng chưa mạnh, trình độ năng lực quản lý còn thấp kém, khả năng nắm bắt thông tin, tiếp cận với những tri thức tiên tiến của khoa học quản lý trong cơ chế thị trường chưa kịp thời đầy đủ. Không những thế, số lượng cán bộ bị thoái hoá biến chất ngày càng gia tăng, tình trạng một bộ phận cán bộ tham nhũng, vi phạm kỷ cương phép nước có chiều hướng phát triển, nạn quan liêu ăn đút lót, hối lộ, tham ô tài sản của Nhà nước đang trở thành "quốc nạn". Không chỉ ở nông thôn mà kể cả các khu vực thành thị số lượng lao động chưa có việc làm cũng rất lớn, đặc biệt là các đô thị lớn như Đà Nẵng, Hải Phòng... Theo số liệu điều tra gần đây chiếm khoảng 7 - 8% tổng số lao động thành thị trong đó 80% tập trung ở lứa tuổi thanh niên và đại bộ phận là chưa có nghề. Trong số này khoảng 70% có nhu cầu cấp bách cần giải quyết việc làm ngay. Đặc điểm lao động thành thị là có trình độ văn hoá cao hơn nông thôn (phổ biến ở trình độ cấp II). Song thụ động trong việc tìm kiếm việc làm, trông chờ ỷ lại vào gia đình hoặc Nhà nước, kén chọn nghề (không thích lao động nặng nhọc, phổ thông, thu nhập thấp). Học sinh các trường Đại học, cao đẳng sau khi tốt nghiệp không muốn xa rời thành phố về nông thôn v à đi các tỉnh vùng sâu, vùng xa (theo báo cáo số này lên đến hàng nghìn người. Thành phố Hồ Chí Minh, Hà nội có hàng trăm bác sĩ chờ việc, trong khi ở Tây nguyên miền núi Bắc Bộ rất thiếu). Lao động thành thị có hiện tượng tái thất nghiệp (do các doanh nghiệp thay đổi công nghệ, đòi hỏi lao động mới trẻ khoẻ, có tay nghề cao)... (Nguyễn Khang - về lao động, việc làm ở thành thị thời kỳ 1996 - 2000 - LĐ & XH tháng 2/1996). Như vậy, phải khẳng định một lần nữa là chúng ta đang thiếu nghiêm trọng lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật, đặc biệt và trước hết là thiếu công nhân có kỹ thuật. Mặt khác, cơ cấu lao động ở nước ta lại rất đặc trưng của một nền kinh tế thuần nông: 71% số người đang làm việc trong nền kinh tế là làm nông - lâm - ngư nghiệp, 14% làm trong các ngành công nghiệp và xây dựng cơ bản, 15% làm trong các ngành dịch vụ - hậu quả là năng suất lao động bình quân đầu người rất thấp: 1,25 triệu đồng/năm/1 lao động(1995) Đất nước ta từ khi chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường, việc tiếp cận với nền kinh tế thị trường còn rất mới mẻ. Những thông tin về thị trường lao động còn rời rạc, thiếu chuẩn mực chung, thiếu kinh nghiệm nên chưa có sự thích ứng linh hoạt với cơ chế quản lý mới đã làm cho nhiều xí nghiệp, nhà máy thuộc khu vực quốc doanh bị giải thể hàng loạt dẫn đến tình trạng mất việc làm của rất nhiều công nhân. Theo tổng liên đoàn lao động Việt Nam :hiện có khoảng 3% số lao động trong doanh nghiệp Nhà nước không có việc làm hoặc không lương và gần 15% số lao động không làm việc hết thời gian quy định. Với những đặc điểm nêu ở trên đã cho thấy một bức tranh khái quát về thị trường lao động ở Việt Nam hiện nay. Đó là tình trạng thất nghiệp trá hình ở nông thôn và tình trạng thất nghiệp ở thành thị do chuyển đổi cơ chế. Với trình độ tay nghề của lao động rất thấp chưa theo kịp với tốc độ phát triển của nền kinh tế. Nhận thấy Đảng và Nhà nước cần phải có những chủ trương, chính sách nhằm giảm tỉ lệ thất nghiệp ở nước ta hiện nay. 2. Một số mục tiêu và giải pháp khắc phục vấn đề thất nghiệp ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. a. Mục tiêu: Phát triển hợp lý dân số trong sự cân đối với sự phát triển kinh tế, sử dụng có hiệu quả nguồn lao động tập trung giải quyết vấn đề việc làm cho người lao động là mục tiêu cấp bách trong giai đoạn hiện nay của cách mạng nước ta. Những hạn chế và thể lực, kiến thức, tay nghề của người Việt Nam phải được khắc phục "thì nguồn nhân lực và nhân tố con người mới thực sự trở thành thế mạnh của đất nước"(1) Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000, trang 5 . Đảng ta coi"Giải quyết việc làm, sử dụng tối đa tiềm năng lao động xã hội là mục tiêu quan trọng hàng đầu của chiến lược, là tiêu chuẩn để định hướng cơ cấu kinh tế và lựa chọn công nghệ"(2) Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000, trang 5 . Phương hướng quan trọng nhất để giải quyết việc làm thời kỳ này, báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương tại Đại hội VIII của Đảng đã chỉ rõ" Nhà nước cùng toàn dân ra sức đầu tư phát triển, thực hiện tốt kế hoạch và các chương trình kinh tế, mọi công dân, mọi nhà đầu tư mở mang ngành nghề, tạo nhiều việc làm cho người lao động. Mọi công dân đều tự do hành nghề, thuê mướn công nhân theo pháp luật, phát triển dịch vụ việc làm. Tiếp tục phân bố lại dân cư và lao động trên địa bàn cả nước, tăng dân cư trên các địa bàn có tính chiến lược và kinh tế, an ninh - quốc phòng. Mở rộng kinh tế đối ngoại, đẩy mạnh xuất khẩu lao động. Giảm đáng kể tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn" (PTS. Nguyễn Lương Trào - Vấn đề việc làm thời kỳ 1996 - 2000: nhiệm vụ và giải pháp - LĐ & XH. tháng 10-1996 trang 1) Đại hội đảng VIII đã vạch ra mục tiêu về lĩnh vực lao động - việc làm đến năm 2000 như sau: - Giải quyết việc làm cho 6,5 - 7 triệu người, giảm tỷ lệ lao động thất nghiệp ở thành thị xuống dưới 5% và tăng thời gian lao động được sử dụng ở nông thôn lên trên 75%. - Số lao động qua đào tạo chiếm khoảng 22-25% tổng số lao động. b. Một số giải pháp chủ yếu: Để phấn đấu đạt được các mục tiêu đã nêu trên, chúng ta phải hiện đồng bộ hàng loạt các giải pháp. Trong đó có cả những giải pháp lâu dài cơ bản và có cả những giải pháp có tính trước mắt. 1. Huy động mọi nguồn lực để tạo ra môi trường kinh tế phát triển nhanh có khả năng tạo mở nhiều chỗ làm việc mơí một cách thường xuyên và liên tục. Do dân số nước ta tăng nhanh từ nhiều năm trước, nên cung lao động còn tiếp tục tăng. Điều này gần như là bất khả kháng. Vì vậy vấn đề đặt ra là phải tìm mọi cách tăng cầu về lao động. Để đạt được điều này cần một số giải pháp sau: - Tận dụng mọi nguồn lực để mở rộng sản xuất kinh doanh trong nước. Việc mở rộng sản xuất kinh doanh trong nước chúng ta đang gặp một mâu thuẫn là: muốn phát triển nông nghiệp thì đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp, còn công nghiệp thì lạc hậu, sức cạnh tranh rất yếu, thị trường nội địa đang bị "lấn sân". Hơn nữa trong điều kiện khoảng 70% lực lượng lao động nông nghiệp đang thiếu việc làm trầm trọng, thì giải pháp kinh tế tổng hợp hàng đầu để từng bước khắc phục tình trạng này là phải dồn sức cho sự phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp, gắn với công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản và đổi mới cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hóa. Phát triển mạnh mẽ các ngành nghề phi nông nghiệp sử dụng nhiều lao động ở nông thôn; Khôi phục và phát triển ngành nghề truyền thống như: thêu ren, mây, tre đan... hướng vào đầu tư và phát triển các cây trồng vật nuôi đem lại giá trị kinh doanh cao, có giá trị xuất khẩu. Hiện nay, các doanh nghiệp Nhà nước đang dần đi vào thế ổn định cần phải tiếp tục đầu tư cho khu vực này. Các doanh nghiệp tư nhân trực tiếp sản xuất cũng như được ưu đãi về thuế, về tín dụng và bảo hiểm rủi ro. Nhà nước cần mở rộng hình thức nhượng để thu hút các nguồn đầu tư nước ngoài cho phát triển sản xuất. Đầu tư cho sản xuất phải đi lên với ứng dụng khoa học kỹ thuật và chuyển giao công nghệ tiên tiến. Nhà nước cần có chính sách khuyến khích ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào các ngành sản xuất nông nghiệp, công nghiệp như giảm thuế, cho vay vốn với lãi suất ưu đãi, bảo trợ rủi ro. - Đầu tư phát triển các ngành công nghiệp, chú trọng trước hết công nghiệp chế biến, công nghiệp hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu; xây dựng có chọn lọc một số cơ sở sông nghiệp nặng về dầu khí, than, xi măng, cơ khí, điện tử... - Cần xúc tiến, mở rộng và phát triển các ngành dịch vụ. Trong đó tập trung vào các lĩnh vực vận tải, thông tin liên lạc, thương mại, dịch vụ tài chính, ngân hàng.... Phấn đấu tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm 9-10% vừa là yêu cầu của sự phát triển, vừa là đòi hỏi của việc tạo mở công ăn việc làm. Tuy nhiên để có được tốc độ phát triển trên, tạo mở nhiều việc làm cho người lao động, phải có chính sách huy động tối đa mọi nguồn lực trong nước, đồng thời thu hút mạnh các nguồn vốn bên ngoài, tăng nhanh đầu tư phát triển toàn xã hội, đưa tỷ lệ này đạt khoảng 30%GDP vào năm 2000. 2. Tiếp tục nghiên cứu, ban hành các chính sách hỗ trợ các đối tượng yếu thế trong việc tìm kiếm hoặc tự tạo việc làm. Trong thời gian trước mắt, cần tập trung nghiên cứu, ban hành các chính sách và cơ chế cụ thể về: - Khuyến khích sử dụng lao động nữ, trong đó cần chú ý việc lựa chọn nghề đào tạo (hoặc đi học nghề) và hình thức đào tạo phải tuỳ thuộc vào các địa bàn thuộc nông thôn hay đô thị, mới có thể nâng cao được khả năng có việc làm (tự tạo việc làm) sau đào tạo. - Khuyến khích sử dụng lao động là người tàn tật: hỗ trợ các cơ sở sản xuất của thương binh và người tàn tật. - Tập trung phần vốn tín dụng từ quỹ quốc gia về việc làm với lãi suất ưu đãi cho các đối tượng trọng điểm vay theo dự án nhỏ tự tạo việc làm cho bản thân, gia đình và cộng đồng. - Hỗ trợ một phần kinh phí đào tạo cho lao động thuộc diện chính sách ưu đãi, lao động thuộc đối tượng yếu thế. - Có những chính sách nhằm trợ cấp thất nghiệp. 3. Tiếp tục ban hành và kiện toàn hệ thống luật pháp về sản xuất kinh doanh và về quan hệ lao động Mối quan hệ giữa người thuê và người làm thuê trong cơ chế thị trường không chỉ là mối quan hệ hợp tác mà còn tồn tại những mâu thuẫn thậm chí dẫn đến xung đột. Vì vậy trong nhiều trường hợp người lao động nhận được những giá trị thấp hơn nhiều so với giá trị thực mình bỏ ra. Người lao động phải chịu nhiều vất vả, thiệt thòi trong sự cạnh tranh khắc nghiệt của thị trường. Vì vậy Nhà nước cần có chính sách triệt để để bảo vệ quyền lợi người lao động khi họ làm việc trong các cơ sở sản xuất kinh doanh. Bộ luật lao động của nước ta là cơ sở pháp lý căn bản của vấn đề việc làm. Tuy nhiên, việc khuyến khích tự tạo việc làm chỉ trở thành hiện thực trong cuộc sống khi các văn bản hướng dãn thực hiện Bộ luật lao động, cũng như các văn bản pháp luật khác về đầu tư, về tài chính, tín dụng, thuế đất đai, doanh nghiệp... được xây dựng, bổ sung hoàn thiện có xem xét kỹ lưỡng đến vấn đề này một cách đồng bộ. Mặt khác, các cơ quan pháp lý và cơ quan quản lý Nhà nước về kinh tế cần tăng cường hơn nữa việc giám sát hoạt động mua bán và sử dụng lao động. Cần khuyến khích các tổ chức chính trị - xã hội như công đoàn, hội phụ nữ, hội nông dân, thanh niên tích cực hoạt động để bảo vệ lợi ích của các bên tham gia hợp đồng lao động. 4. Đẩy mạnh dậy nghề gắn với việc làm, đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật, trình độ lành nghề của đội ngũ lao động. Đây là đòi hỏi búc xúc của người lao động để có cơ hội tìm kiếm việc làm hoặc tự tạo việc làm, là một trong những điều kiện cần thiết để duy trì việc làm, tránh bị sa thải trước những thay đổi nhanh chóng về cơ cấu và công nghệ. Đây cũng là đòi hỏi bức xúc đối với lực lượng lao động để đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước. Nước ta hiện nay có khoảng 700.000 cán bộ có trình độ đại học 7000-8000 cán bộ có trình độ thạc sỹ trở lên và khoảng 1000.000 công nhân được đào tạo có tay nghề. Đặc điểm lớn nhất của đội ngũ này là được đào tạo trong điều kiện cơ chế kế hoạch hoá tập trung và điều kiện của công nghệ lạc hậu của các nước XHCN cũ. Hiện nay nhiều lĩnh vực kinh tế mũi nhọn đang thiếu chuyên gia giỏi và cán bộ khoa học kỹ thuật đầu đàn. Tỷ lệ công nhân bậc cao trong các doanh nghiệp rất hạn chế (7,8% công nhân là công nhân bậc 5 trở lên trong các doanh nghiệp Nhà nước. Do trình độ cán bộ khoa học kỹ thuật yếu kém, nên sản phẩm làm ra chất lượng thấp, giá thành cao, thiếu sức cạnh tranh. Để khắc phục kịp thời cần có kế hoạch đào tạo và bồi dưỡng vượt đội ngũ lao động có trình độ cao trên cơ sở dự báo được nhu cầu về các loại ngành nghề về trình độ cần đào tạo trong những năm trước mắt và 20 năm sau. Thực hiện giải pháp này đòi hỏi phải đa dạng các loại hình, qui mô đào tạo; phải gắn chặt đào tạo nghề với việc làm sau đào, phát triển hình thức đào tạo theo hợp đồng; khuyến khích phát triển mở rộng và nâng cao chất lượng các cơ sở đào tạo nghề của Nhà nước, doanh nghiệp của các tổ chức xã hội và tư nhân; Quy hoạch lại hệ thống các cơ sở dạy nghề cùng với việc tăng cường quản lý của Nhà nước hoạt động của các cơ sở này để bảo đảm chất lượng, trật tự, tránh bóc lột người lao động trong hoạt động dạy nghề. Sau khi đào tạo cán bộ khoa học có trình độ cao cần phải có cơ chế chính sách sử dụng hợp lý, nhằm tạo điều kiện để họ yên tâm làm việc, phát huy cao độ tay nghề của mình. 5. Phát triển, nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống trung tâm dịch vụ, việc làm. Trung tâm dịch vụ việc làm là một đơn vị sự nghiệp, hoạt động vì mục tiêu xã hội. Nó là chiếc cầu nối rất quan trọng và không thể thiếu giữa cung và cầu lao động. Chức năng cơ bản của nó là tư vấn, cung cấp thông tin cho người lao động và người sử dụng lao động về học nghề, việc làm, về những vấn đề có liên quan đến tuyển dụng và sử dụng lao động, giới thiệu việc làm, cung ứng lao động, dạy nghề gắn với việc làm. Nó còn là cách *** của quản lý Nhà nước thông qua việc tổ chức thu nhập và cung cấp các thông tin về thị trường lao động cho các cơ quan quản lý Nhà nước về lao động. Việc tổ chức các trung tâm dịch vụ việc làm theo Bộ luật Lao động đòi hỏi phải quy hoạch, sắp xếp lại và nâng cao năng lực hệ thống các trung tâm dịch vụ việc làm. Đầu tư xây dựng, nâng cấp trang thiết bị, phương tiện dạy nghề cho các cơ sở dạy nghề thuộc trung tâm dịch vụ việc làm của các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương để có đủ năng lực đảm bảo thực hiện các hoạt động đào tạo của chương trình. 6. Tăng cường hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá. Hiện nay, xu thế quốc tế hoá lực lượng sản xuất đang ngày càng trở nên phổ biến và đóng vai trò quan trọng trong quá trình tăng cường và phát triển của các quốc gia. Việc hoà nhập với thị trường thế giới là nhân tố quan trọng để giải quyết nhiều vấn đề kinh tế - xã hội của Việt Nam trong đó có vấn đề lao động. Giải quyết vấn đề lao động trong quốc tế hoá lực lượng sản xuất có thể bằng cách sản xuất lao động đi làm việc ở nước ngoài. Xuất khẩu lao động đang được coi là biện pháp xoá đói giảm nghèo, nhưng một trong những vấn đề đang làm đau đầu các cơ quan quản lý lao động với nước ngoài cũng như các doanh nghiệp xuất khẩu lao động là con em các gia đình nghèo (đối tượng cần được giải quyết việc làm thực sự, lại có ít cơ may được đi làm việc ở nước ngoài vì không có tiền làm thủ tục dịch vụ cũng như đặt cọc. Để công tác xuất khẩu lao động thực sự có thể phục vụ công cuộc xoá đói giảm nghèo trong đó cần ưu tiên cho con các gia đình nghèo và các gia đình chính sách cần có các giải pháp sau: - Doanh nghiệp xuất khẩu lao động chỉ tạm thu của người lao động một khoản lệ phí tối thiểu để làm các thủ tục như khám sức khoẻ, đào tạo ban đầu... Khoản tiền này người lao động vay từ các nguồn như ngân hàng phục vụ người nghèo, quỹ quốc gia giải quyết việc làm. - Số tiền đặt cọc được thay thế bằng biện pháp tín chấp, cụ thể là giấy bảo lãnh của gia đình người được xuất khẩu lao động. Các loại giấy tờ này đề có xác nhận của chính quyền địa phương và các đoàn thể như hội nông dân, phụ nữ, đoàn thanh niên... với mục đích là sẽ phải bồi thường mọi thiệt hại cho tổ chức kinh tế khi con em họ bỏ trốn. - Về phía cơ quan quản lý Nhà nước, nên ban hành văn bản pháp luật qui định trách nhiệm dân sự của người lao động và thân nhân họ khi vi phạm các điều khoản trong hợp đồng. Thực hiện các chế độ bồi thường kinh tế khi người lao động lợi dụng việc trên để trốn ra nước ngoài cư trú bất hợp pháp, gây thiệt hại cho các doanh nghiệp và Nhà nước, làm mất thị trường lao động Việt Nam ở nước ngoài. - Phần trích nộp từ lương của người lao động cho các doanh nghiệp nên tăng từ 12% hiện nay lên 15% nhằm bù đắp các rủi ro cho doanh nghiệp xuất khẩu lao động khi thực hiện biện pháp tín chấp này. Từ khi Nhà nước có những chính sách xuất khẩu lao động thì qui mô xuất khẩu lao động ngày càng tăng: Năm 1992: 812 người; 1993: 3.976 người; 1994: 9.234 người; 1995: 9593 người; 1996: 12.661 người(1) Bài đăng ở Thời báo kinh tế Việt Nam số 34 ngày 26/4/1997. Một số giải pháp nêu trên đây nhằm tăng cường về lao động. Nhưng giải quyết việc làm phải thực sự gắn với đối tượng thất nghiệp, người thiếu việc làm. Có như vậy mới thực hiện được mục tiêu về giải quyết việc làm do Đại hội VIII. Phần II Thực trạng và tiềm năng phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam I/ Vai trò của nguồn nhân lực đối với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa Việt Nam. Ngày nay trước sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học công nghệ và thông tin, sự giao lưu trí tuệ và tư tưởng sự liên minh kinh tế giữa các khu vực trên thế giới. Sự ra đời của nhiều công ty xuyên quốc gia đã tạo ra tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa từng thấy. Tình hình đó đã dẫn đến sự quốc tế hoá nền kinh tế thế giới, gây nên những đảo lộn về chính trị xã hội sâu sắc mang tính toàn cầu và đang đi tới thiết lập một trật tự thế giới mới. Trong bối cảnh đó khu vực châu á - Thái Bình Dương đang nổi lên là khu phát triển kinh tế năng động nhất. Một trong những yếu tố chủ chốt thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh chóng là vai trò của nguồn nhân lực. Theo kinh nghiệm của nhiều nước thì nếu chỉ có lực lượng lao động đông và rẻ thì không thể tiến hành công nghiệp hoá, mà đòi hỏi phải có một đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn cao. Chính nhờ lực lượng lao động có trình độ chuyên môn cao mà Nhật Bản và các Nics (các nước công nghiệp mới) vận hành có hiệu quả công nghệ nhập khẩu hiện đại, sản xuất ra nhiều mặt hàng có thể cạnh tranh với các nước công nghiệp phát triển trên thế giới. Để đảm bảo thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước, phải bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người. Với tư cách là mục tiêu và động lực phát triển, con người có vai trò to lớn không những trong đời sống kinh tế mà còn trong lĩnh vực hoạt động khác. Bởi vậy phải quan tâm, nâng cao chất lượng con người, không chỉ với tư cách là người lao động sản xuất, mà với tư cách là một công dân trong xã hội một cá nhân trong tập thể, một thành viên trong cộng đồng nhân loại... không thể thưc hiện được công nghiệp hoá, hiện đại hóa nếu không có đội ngũ đông đảo những công nhân lành nghề, những nhà khoa học kỹ thuật tài năng, giỏi chuyên môn nghiệp vụ, những nhà doanh nghiệp tháo vát, những nhà lãnh đạo, quản lý tận tụy, biết nhìn xa trông rộng. Vào những nưm 80, quan điểm phát triển nguồn nhân lực đã trở thành vấn đề được quan tâm đặc biệt ở châu á - Thái Bình Dương. Con người được coi là yếu tố, quan trọng nhất của sự phát triển. Trong thời đại mới, muốn giải quyết hài hoà các yếu tố cung và cầu có liên quan đến chiến lược phát triển nguồn nhân lực thì cần xem xét khía cạnh nguồn nhân lực theo quan hệ một phía. Phải thấy được vai trò sản xuất của nguồn là vấn đề cốt lõi của học thuyết vốn con người. Và vai trò sản xuất của nguồn nhân lực có quan hệ chặt chẽ với vai trò tiêu dùng được thể hiện bằng chất lượng cuộc sống. Cơ chế nối lền hai vai trò là trả công cho người lao động tham gia các hoạt động kinh tế và thu nhập đầu tư trở laị để nâng cao mức sống của con người tạo nên khả năng nâng cao mức sống cho toàn xã hội và làm tăng năng suất lao động... các nước nghèo ở châu á đều nhận thức do tốc độ tăng dân số quá nhanh nhiều quốc gia coi việc giảm đói nghèo còn quan trọng hơn cả giáo dục, đó là một thiệt thòi to lớn. Việt Nam đang hướng tới một nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước với mục tiêu đảm bảo cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, an ninh quốc gia và sự bền vững của môi trường. Nền kinh tế Việt Nam chỉ có thể đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh, hiệu quả kinh tế - xã hội cao khi nền kinh tế ấy thực sự dựa trên cơ sở công nghiệp hoá, hiện đại hóa trong đó phải lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh bền vững... Công nghiệp hoá, hiện đại hóa đang đặt con người trước những vấn đề phức tạp nan giải cả trong quan hệ giữa người với người cũng như giữa người với tự nhiên. Để giải quyết chúng, cần có sự thay đổi sâu sắc cách nghĩ, cách nhìn, cách hành động của con người. Đấy chính là lý do vì sao mà nhiều nhà khoa học kêu gọi phải tiến hành cuộc "cách mạng con người" bởi vì "cách mạng con người là chìa khoá mở đường cho hoạt động tích cực, đưa đến một cách sống mới và đổi mới số phận con người". Công nghiệp hoá, hiện đại hóa với cách mạng con người là hai mặt của một quá trình phát triển thống nhất. Công cuộc phát triển này to lớn phức tạp và khó khăn đến mức phải có sự nỗ lực to lớn mới mong "đẩy tới một bước" trong thời gian tới. II/ Thực trạng nguồn nhân lực nước ta "Mọi tài nguyên đề có hạn, chỉ có sức sáng tạo của con người là vô hạn". Triết lý trên của tập đoàn Deawoo (Hàn Quốc) cũng đúng với mọi doanh nghiệp, mọi quốc gia... Trong thời đại mà khoa học, công nghệ tiến bộ nhanh như vũ bão - một doanh nghiệp muốn thành đạt, một đất nước muốn tăng trưởng, phát triển nhanh... đều cần điều kiện tiên quyết: phải tạo được cho mình một nguồn nhân lực, có trình độ tay nghề và trình độ chuyên môn tương xứng (PTS. Nguyễn Quang Huế - về nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao cho thế kỷ 21 - LD&XH tháng 2/1997). "Nguồn nhân lực" ở đây xin được đề cập theo hai nghĩa. Nếu theo nghĩa rộng thì con người là nguồn lực quan trọng nhất và có quyết định thành công hay không thành công trong thời kỳ mới. Nguồn nhân lực ấy bao gồm cả đội ngũ trí thức, lực lượng lao động, cán bộ quản lý.... đang đứng trước yêu cầu phải có khả năng nghiên cứu khoa học, lao động, làm việc và quản lý ở trình độ cao hơn trước đây. Tuy nhiên, trong phạm vi đề tài nghiên cứu chỉ xét "nguồn nhân lực" trong phạm vi hẹp, đó là "nguồn nhân lực" với nghĩa là đội ngũ trí thức, nghĩa là đã được đào tạo có trình độ học vấn và trình độ tay nghề. Đất nước ta đang xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội trên cơ cở kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Để đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đổi mới, đáp ứng với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước, thì việc phát triển nguồn nhân lực (phát triển giáo dục) là yêu cầu bức xúc và cần được quan tâm hàng đầu. Với nhận thức đó, Đại hội Đảng VIII đã xác định: "Lấy việc phát huy nguồn lực con người cho sự phát triển nhanh và bền vững" và sự phát triển nguồn nhân lực phải được coi là mục đích cuối cùng, cao nhất của quá trình phát triển. Trong những năm qua chúng ta đã cố gắng nâng cao hiệu quả nguồn nhân lực, sang mức độ đạt được còn thấp so với yêu cầu: * Những mặt đạt được: Có thể nói, Nhà nước Việt Nam rất chú ý đến phát triển giáo dục và thành công trong việc thiết lập hệ thống giáo dục trong phạm vi cả nước. Hệ thống giáo dục ngày càng phong phú, quy mô giáo dục không ngừng mở rộng, phát triển ở các vùng, các ngành học và các cấp học. Nhìn vào số lượng hiện có, với hơn 100 trường đại học, cao đẳng, kể cả đại học dân lập, với quy mô đào tạo gần 600.000 sinh viên, có nhiều khoa, bộ môn, ngành nghề mới hình thành... chúng ta thấy đào tạo đại học đã có một bước phát triển khá nhanh, nhất là trong 10 trở lại đây cùng với những cố gắng bền bỉ của đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ giảng dạy và sinh viên. Có thể nói, đây là thời điểm "nở rộ" của phát triển số lượng đào tạo đại học. Hình thức đào tạo đại học và cao đẳng nước ta khá phong phú, có khoảng 66% số sinh viên theo học hệ chính quy tập trung, số còn lại học các hệ đại học cao đẳng tại chức, ngắn hạn. Mỗi năm có khoảng 20 ngàn sinh viên cao đẳng, đại học tốt nghiệp hệ chính quy. Hiện tại Việt Nam có hơn 700 ngàn người có trình độ đại học cao đẳng trở lên. Tỷ lệ sinh viên đại học trong độ tuổi đi học của Việt Nam là 2,3-2,5%. Tỷ lệ này còn hơn mức 2% của Trung Quốc, nhưng thấp hơn mức 16% của Thái Lan, 1% của Inđônêxia, 18% của Philipin và 40% của Hàn Quốc. Cùng với sự phong phú và đa dạng về hình thức đào tạo thì quy mô giáo dục cũng ngày một tăng. Trong ba năm học 1993-1994, 1994-1995 và 1995-1996 số lượng học sinh phổ thông ở các cấp học cũng tăng lên: 5,7% (1993-1994); 6,4% (1994-1995) và 7,0% (1995-1996). Tuy nhiên, có một vấn đề đáng quan tâm là chất lượng giáo dục đào tạo của nước nhà, đặc biệt là khi đất nước ta bước vào thời kỳ tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hóa còn gặp nhiều điều bất cập. * Những mặt yếu kém: Thứ nhất, lao động có chuyên môn kỹ thuật vừa thiếu về số lượng, vừa kém về chất lượng, bất hợp lý về cơ cấu: Hiện nay, cả nước ta có 40 triệu lao động trong đó lực lượng lao động trẻ có 26 triệu (chiếm trên 50%). Đây là vốn quý nhưng lại nhiều bất cập về phân bổ, cơ cấu và trình độ. Tỷ lệ lao động qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật chỉ chiếm 12% trong tổng số trong công nghiệp và xây dựng. Công nhân bậc cao chiếm hơn 4%. Tình trạng này đã và đang hạn chế việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, chuyển giao công nghệ vào thực tiễn sản xuất. Tỷ lệ lao động kỹ thuật chỉ chiếm 13,3% lực lượng lao động với cơ cấu là: 1 cao đẳng, đại học và trên đại học - 1,6 trung học chuyên nghiệp - 3,6 công nhân kỹ thuật (thể hiện ở bảng). Theo kinh nghiệm của các nước phát triển thì tỷ lệ trên phải đạt mức 1-1-10 thì mới đáp ứng được yêu cầu phát triển của nền kinh tế. So với thời kỳ trước đổi mới, số học sinh các trường trung học chuyên nghiệp và các trường dạy nghề vẫn tiếp tục giảm đi nhanh chóng. Năm học 1996-1997 cả nước có 156 ngàn học sinh trung học chuyên nghiệp từ năm học 1995-1996 con số này là 116,4 ngàn (giảm 25,4%). Từ năm 1991-1992 cho đến nay, số lượng này có tăng nhưng mức tăng không đáng kể. Trong khi đó, số lượng sinh viên cao đẳng và đại học bắt đầu tăng lên từ năm học 1992-1993, đặc biệt tăng nhanh vào những năm gần đây. Năm học 1995-1996 số sinh viên cao đẳng số sinh viên cao đẳng là 173,1 ngàn, tăng 26,4 so với 1994-1995 và 62,7% so với 1990-1991. Như vậy, tương quan trong cac cấp học đã thay đổi một cách căn bản. Trong khi sinh viên cao đẳng, đại học tăng lên nhanh thì số học sinh trung học chuyên nghiệp và dạy nghề không tăng hoặc tăng không đáng kể. Đó là một vấn đề bất hợp lý vì trong quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế, nhiều ngành cần có nhu cầu đào tạo lại nghề và đào tạo nghề mới. Bảng: Dự tính số lao động kỹ thuật nghiệp vụ thời kỳ 1995-2010 (đơn vị: 1000 người) Chỉ tiêu 1995 2000 2005 2010 Tổng số 4.70 7.200 10.860 16.770 - Cao đẳng, đại học 759 1.100 1.600 2.500 - Trung học chuyên nghiệp 1.240 1.900 2.700 3.560 - Công nhân kỹ thuạt 2.769 4.200 6.560 10.700 + Tỷ lệ lao động kỹ thuật (%) 13,3 17,2 23,1 31,3 + Cơ cấu trình độ 1-1,6-3,6 1-1,7-3,8 1-1,7-4 1-1,4-4 Nguồn: Bộ Giáo dục và Đào tạo Các chuyên gia của Viện Nghiên cứu giáo dục cho rằng, với tốc độ đại trà đại học như hiện nay thì chẳng bao lâu nữa trong xã hội, trung bình cứ 10 người là cử nhân (kỹ sư, luật sư, bác sỹ, kinh tế...) mới chỉ có 3 người là công nhân. Trong khi đó theo kinh nghiệm của các nước thuộc thế giới thứ 3 tỷ lệ thích hợp nhất đối với phát triển kinh tế là cứ 13 lao động thì có khoảng 10 công nhân lành nghề 3 người còn lại là cử nhân và trung cấp kỹ thuật. Hơn nữa theo kết quả của cuộc tổng điều tra dân số và lao động năm 1989 cả nước có tới lực lượng lao động chưa tốt nghiệp phổ thông cơ sở và chỉ có khoảng 2.44% công nhân kỹ thuật được đào tạo một cách chính quy, ngay tại các đô thị lớn vẫn còn 0,2% công nhân mù chữ. Về mặt phân bố lao động đào tạo, hiện nay rất mất cân đối giữa các vùng lãnh thổ, nhóm ngành và thành phần kinh tế. Nông - lâm - ngư nghiệp chỉ chiếm 7% trong tổng số chuyên môn kỹ thuật, trong khi ngành này chiếm gần 3/4 lực lượng lao động cả nước 65,5 cán bộ chuyên môn kỹ thuật đang làm việc trong khu vực phi sản xuất, 80% đang làm việc trong khu vực Nhà nước, trong khi lao động Nhà nước chiếm chưa đến 9% trong tổng số. Rõ ràng là, cơ cấu lao động và chất lượng nguồn nhân lực của nước ta chư hỗ trợ và đáp ứng các yêu cầu đã nêu của thay đổi cơ cấu kinh tế và thực hiện chiến lược phát triển định hướng việc làm và xuất khẩu (Trần đình Hoan - phát triển nguồn nhân lực và toàn dụng lao động, nhân tố quyết định sự phát triển bền vững - LĐ & XH tháng 12/1997). Thứ hai, mức chênh lệch về nông sản và thành thị, giữa miền núi và đồng bằng về trình độ, giáo dục rất sâu sắc. Khu vực thành thị có 47% dân số tốt nghiệp phổ thông trung học cơ sở trở lên thì ở nông thôn tỷ lệ này dưới 30% tỷ lệ thất nghiệp phổ thông trung học ở thành thị cao gấp 3 lần khu vực nông thôn, và ở các bậc học cao hơn sự chênh lệch còn sâu sắc hơn. Nhiều thanh thiếu niên nông thôn, dân nghèo thành thị ít có cơ hội được tiếp tục bậc cao, trong khi đó một bộ phận lớn thanh niên các tầng lớp khá giả đã vào học các trường đại học để có cơ hội tìm kiếm việc làm tốt hơn. ở miền núi phía Bắc, miền Trung và vùng đồng bằng sông Cửu Long, tỷ lệ học sinh nữ đến trường rất thấp và số học sinh phổ thông bỏ học có xu hướng tăng lên. Dân số của các dân tộc thiểu số chiếm 13,4% dân số của cả nước nhưng số học sinh phổ thông chỉ ciếm 4,2%, đó là tỷ lệ rất thấp, tạo nên sự phát triển không đồng đều giữa các vùng. Thứ ba, chất lượng giáo dục chưa đáp ứng kịp với yêu cầu: Phải khẳng định rằng người Việt Nam không thua kém các nước khác. Điều đó đã được chứng minh qua các kỳ thi Olympic quốc tế và toán học, tin học, vật lý... đoàn Việt Nam từ trước đến nay bao giờ cũng chiếm giải cao trong các kỳ thi. Song do phương tiện học tập nghèo nàn, trường lớp thiếu, đời sống giáo viên khó khăn, ngân sách dành cho giáo dục còn hạn chế đã làm cho chất lượng giáo dục nói chung ở các cấp học của ta còn thấp. Những yếu kém của giáo dục đào tạo Việt Nam được bộc lộ ở một số điểm chính sau: - Hệ thống giáo dục đại học của ta do một thời gian dài áp dụng mô hình của Liên Xô cũ đào tạo đa ngành, chuyên sâu hẹp và cứng nhắc nên cơ cấu ngành nghề đào tạo và yêu cầu về mặt kỹ năng không phù hợp với một nền kinh tế thị trường. Đây cũng là lý do chính dẫn đến tình trạng nhiều sinh viên tốt nghiệp đại học không tìm được việc làm. - Cơ cấu giáo dục giữa các bậc học không hợp lý. Thể hiện ở quy mô giáo dục đào tạo đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp dạy nghề. Trong khi giải quyết áp lực về việc làm, đáng ra phải đầu tư mạnh cho các trường dạy nghề để đào tạo nghề mới: giúp cho người đến tuổi lao động có cơ hội tìm việc làm thì hệ thống giáo dục lại được mở rộng nhiều hình thức phong phú. Trong khi học thì nhiều nhưng thực hành thì ít cũng không khai thác được tiềm năng con người. - Tính chất thực dụng trong quá trình giáo dục thể hiện khá rõ. Một số thực tế là ngày càng hiếm thấy sinh viên giỏi học các ngành khoa học. Cơ bản, các ngành khoa học kỹ thuật số học sinh theo học cũng ít. Phần đông sinh viên học các ngành kinh tế. Trong tương lai không xa sẽ thiếu hụt lực lượng nghiên cứu khoa học cơ bản, khoa học kỹ thuật mà chính lực lượng đó lại là động lực cho sự phát triển khoa học kỹ thuật và tiếp thu làm chủ công nghệ mới. Thứ tư, mặc dù Nhà nước rất chú ý đến giáo dục tiểu học, để có 80% học sinh trong độ tuổi đi học đã đến trường. Theo số liệu điều tra của Bộ Giáo dục và Đào tạo thì số trẻ em thất học trong cả nước là 2,1% đến 2,3% triệu và số người lớn từ 15-35 tuổi chưa biết chữ khoảng 2 triệu cho thấy xu thế mù chữ lại đang gia tăng số trẻ em mù chữ và thất học tập trung vào hai vùng chính : miền núi chiếm 40%, đồng bằng sông Cửu long: 33%. Công tác xoá mù và vận động trẻ em các vùng đó đến trường trở thành vấn đề cấp bách. Thứ năm, việc đầu tư cho giáo dục chưa được quan tâm đúng mức: Các nhà kinh tế học giáo dục cho rằng đầu tư cho giáo dục là đầu tư có hiệu quả nhất. Tốc độ tăng trưởng và bền vững đạt được của các quốc gia Hồng Kông, Hàn Quốc, Đài Loan và Thái Lan là nhờ vào chiến lược phát triển nguồn nhân lực trong suốt thập kỷ qua. Garry Becker - nhà kinh tế học Hoa Kỳ đã khẳng định: "Không có đầu tư nào mang lại nguồn lợi lớn như đầu tư vào nguồn nhân lực. Bởi vì thứ nhất, hàng hoá tiêu dùng được sản xuất ra có giá trị cao. Thứ hai, làm cho năng suất lao động tăng nhanh. Và cuối cùng là làm giảm quá trình tái sản xuất dân số". Mặc dù Nhà nước đã chú ý đến việc đầu tư cho giáo dục nhưng so với các nước thì ngân sách dành cho giáo dục của nước ta rất thấp chỉ bằng 1/29 của Hàn Quốc, 1/22 của Malaixia, và 1/8 của Thái Lan. Do đó dẫn đến tình trạng thiếu trường học, phòng học và đa số trường học không đủ tiêu chuẩn. Đây cũng chính là nguyên nhân đến tình trạng kém chất lượng giáo dục ở nước ta. Cơ cấu phân bổ ngân sách giữa các cấp học chưa hợp lý. Trong khi số học sinh trung học chiếm 25% tổng số học sinh của cả nước nhưng ngân sách dành cho nó chỉ là 8-9%. Ngược lại ngân sách dành cho bậc đại học cao đẳng lại là 15% trong khi số học sinh chỉ là 6,7%. Sự phân bố ngân sách ở các địa phương cũng không đều đã tạo nên sự mất cân đối và phát triển giáo dục các vùng. Cái giá phải trả cho sự bao cấp trong giáo dục kéo dài đã làm cho mọi người dân quen dần với nếp cũ, học tập do Nhà nước phải lo. Kết quả là nền giáo dục của ta chậm tiến, lạc hậu, kém hiệu quả và khả năng đáp ứng yêu cầu của một xã hội đang đổi mới là rất hạn chế. III/ Các định hướng chiến lược phát triển nguồn nhân lực Cuộc cách mạng khoa học, kỹ thuật và công nghệ đang có những bước tiến hết sức tạo bạo và mạnh mẽ. Giáo dục - đào tạo trở thành lĩnh vực "đua tranh" giữa các quốc gia để hoặc là đi lên hoặc là tụt hậu. Do đó việc đề ra các mục tiêu, chiến lược phát triển nguồn nhân lực cho Nhà nước đáp ứng yêu cầu trước mắt và lâu dài cần được Nhà nước quan tâm đúng mức. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã quyêt định đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước, phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp. Đó là nhiệm vụ hàng đầu bảo đảm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Để hoàn thành nhiệm vụ đó, phát triển giáo dục, đào tạo và khoa học công nghệ làm yếu tố cơ bản "coi đó là khâu đột phá". Giáo dục nhằm vào định hướng phát triển trước hết là cung cấp cho xã hội một đội ngũ lao động mới có trình độ chuyên môn cao, năng động sáng tạo, một đội ngũ công nhan lành nghề để thích ứng với nền kinh tế thị trường. Do đó cần phải đặt ra mục tiêu và biện pháp thực hiện các mục tiêu đó. 1. Mục tiêu phát triển giáo dục đào tạo từ nay đến năm 2020. Giáo dục - đào tạo phải đảm bảo mục tiêu giáo dục nhân cách con người Việt Nam yêu nước, gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có trách nhiệm đối với bản thân, gia đình và xã hội, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Hết sức coi trọng giáo dục chính trị, tư tưởng nhân cách, khả năng tư duy sáng tạo và năng lực thực hành. Giáo dục - đào tạo của Việt Nam đang đứng trước những thử thách to lớn. Quy mô giáo dục nhỏ bé, chất lượng giáo dục nói chung thấp kém. Để phát triển nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay, giáo dục - đào tạo phải thực được các mục tiêu sau: - Thứ nhất, nâng cao mặt bằng dân trí: dân trí là nền tảng để xây dựng và phát triển nhân lực và nhân tài để xây dựng nên đất nước giàu mạnh và văn minh. Mục tiêu đặt ra là phổ cập tiểu học trong cả nước, thanh toán nạn mù chữ cho những người trong độ tuổi từ 15-35; nâng cao tỷ lệ người biết chữ từ 15 tuổi trở lên từ 89% hiện nay lên 94% vào năm 2000 và 97% vào năm 2020. Vận động thanh thiếu niên dưới 23 tuổi đi học tăng từ 47% hiện nay lên 60% vào năm 2010 và 80% vào năm 2020. Từ đó nâng được số năm đi học trung bình của người lớn từ 5 năm mức hiện nay lên 9 năm vào năm 2020 ngang với mức của Hàn Quốc hiện nay. Tăng tỷ lệ học sinh đại học cao đẳng từ 2,2% mức hiện nay lên 20% vào năm 2010 và 25% vào năm 2020. Số lượng người có học vị cử nhân, thạc sỹ, tiến sỹ Việt Nam sẽ đạt mức tương đương với các nước trong khu vực. Thứ 2, phát triển nhân lực: để chuẩn bị lực lượng lao động cho xã hội, mục tiêu phát triển nguồn nhân lực là tập trung và đào tạo hướng nghiệp cho học sinh thiết thực hơn để học sinh có kỹ năng lao động kỹ thuật. Tỷ lệ học sinh hướng nghiệp tăng từ 10% như hiện nay lên 20% vào năm 2000 và 30% vào năm 2020. Nâng tỷ lệ lao động được dạy nghề từ 12% như hiện nay lên 25% vào năm 2000 và 60% vào năm 2020. Cuối cùng tỷ lệ cán bộ khoa học - kỹ thuật công nghệ có trình độ đại học trên 1000 dân tăng từ 15 mức hiện nay lên 25 vào năm 2000 và 50 vào năm 2020. Thứ 3, bồi dưỡng nhân tài: nhân tài là động lực của sự phát triển và có tác động thúc đẩy sản xuất, kinh doanh và quản lý. Đồng thời là một động lực tạo ra các thế mạnh trong hợp tác cạnh tranh kinh tế quốc tế. Để bồi dưỡng nhân tài, cần phải chủ trương thành lập một bộ phận giáo dục đào tạo có chất lượng đạt tiêu chuẩn quốc tế. Cùng với đào tạo trong nước, đào tạo ở nước ngoài cũng rất quan trọng. Đến năm 2000 chúng ta gắng nâng số lượng sinh ivên, nghiên cứu sinh đi học tập ở nước ngoài ngang với mức của trước năm 1990 khoảng 10% cán bộ quản lý, khoa học kỹ thuật đã được đào tạo ở nước ngoài. Năm 2010 phải nâng tỷ lệ này lên gấp đôi và năm 2020 phải nâng lên gấp ba so với hiện nay. 2. Các biện pháp thực hiện: Những mục tiêu phát triển nguồn nhân lực có trở thành hiện thực hay không phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố nhận thức, các biện pháp thực hiện, khả năng nội sinh. Tuy vậy các biện pháp thực hiện có vị trí rất quan trọng. (1) Tăng cường các nguồn lực cho giáo dục: Đầu tư cho giáo dục - đào tạo lấy từ các nguồn chi thường xuyên và nguồn chi phát triển trong ngân sách Nhà nước. Ngân sách Nhà nước giữ vai trò chủ yếu trong tổng nguồn lực cho giáo dục - đào tạo. Tăng dần tỷ trọng chi ngân sách cho giáo dục - đào tạo để đạt được 15% tổng chi ngân sách vào năm 2000 và sử dụng nguồn ngân sách đó một cách hợp lý. Do nguồn ngân sách Nhà nước cấp còn hạn chế nên cần phải huy động vốn đầu tư cho giáo dục từ trong và ngoài nước. Cần tranh thủ các tổ chức quốc tế như UNICEF, ENESCO, VOB và tổ chức viện trợ phát triển chính thức (ODA) của các nước khác để phát triển giáo dục, cho phép các trường dạy nghề, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học và các viện nghiên cứu lập cơ sở sản xuất và dịch vụ khoa học đúng với ngành đào tạo. Khuyến khích đi học nước ngoài bằng con đường tự túc, hướng vào những ngành mà đất nước đang cần, theo quy định của Nhà nước. (2) Xây dựng đội ngũ giáo viên, tạo động lực cho người cho người dạy, người học. Giáo viên phải có đủ đức, tài. Bồi dưỡng thường xuyên, bồi dưỡng chuẩn hoá, nâng cao phẩm chất và năng lực cho đội ngũ cán bộ giáo viên để đến năm 2000 có ít nhất 50% giáo viên phổ thông và 30% giáo viên đại học đạt tiêu chuẩn qui định. Để đạt được điều đó, chúng ta phải dành công sức chăm lo đội ngũ cán bộ giảng dạy, tạo điều kiện để họ có một mức sống ổn định để yên tâm với nhiệm vụ đào tạo. Phải có kế hoạch tích cực đào tạo, bồi dưỡng một đội ngũ cán bộ giảng dạy trẻ, đủ trình độ chuyên môn và phẩm chất đáp ứng được những yêu cầu mới về đào tạo đại học. Phải xếp lương giáo viên cao nhất trong hệ thống bậc lương hành chính sự nghiệp và có thêm chế độ phụ cấp tuỳ theo tính chất công việc, theo vùng do chính phủ quy định. Có chính sách sử dụng đãi ngộ và sử dụng giá trị nguồn nhân lực được đào tạo. (3) Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức giáo dục - đào tạo và tăng cường cơ sở vật chất cho các trường học. Việc đổi mới nội dung ở đây không có nghĩa là mỗi năm phải thay đổi nội dung sách giáo khoa (đối với học sinh tiểu học và trung học) hoặc giáo trình (đại học), mà đổi mới ở đây có thể là đổi mới ở cách dạy, cách truyền đạt kiến thức song phải tránh việc dạy nhồi nhét, học thụ động, học lệch, học tủ. Tăng cường hình thức tự giáo dục, tự học, tự nghiên cứu cho từng người. Gia đình, nhà trường và xã hội cũng hải luôn khăng khít với nhau trong qat đào luyện con người mới. Nội khoá và ngoại khoá cũng phải khăng khít với nhau. Nội khoá là phần cứng làm cái lõi, vì nó cứng nên khó thay đổi cho linh hoạt, khoá tranh thủ được các nguồn, lực phi chính quy ngoài xã hội. Ngoại khoá dễ linh hoạt và bù đắp thêm cho nội khoá như một bộ rễ cắm sâu vào trong lòng xã hội để hút những chất dinh dưỡng mà nội khoá vì cứng quá không hút được. Trong hoàn cảnh đất nước ta còn nghèo, sự quan tâm của Nhà nước có mặt chưa đầy đủ, điều kiện cơ sở vật chất, thiết bị dạy và học còn thiếu thốn nhưng trường học vẫn phải là nơi có môi trường giáo dục đào tạo gương mẫu, phải quan tâm xây dựng ký túc xá cho học sinh, sinh viên, phải nhanh chóng dẹp bỏ những hàng quán đang trở thành tụ điểm tệ nạn xã hội lấn chiếm trong và ngoài trường, trả lại cảnh quan, môi trường văn minh, trong lành sạch đẹp cho nơi giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ ở trình độ cao. Bài toán nhân lực là bài toán đòi hỏi phải có lời giải và sự đóng góp chung của nhiều ngành nghề, lĩnh vực nhưng Bộ Giáo dục và Đào tạo với tư cách là nơi quản lý Nhà nước lĩnh vực này trước đây phải cùng với Bộ Lao động và Thương binh xã hội và cơ quan quản lý Nhà nước về đào tạo nghề sắp được thành lập, cùng với các bộ, ngành khẩn trương có sự hợp tác và thống nhất trong mục tiêu đáp ứng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước. Kết luận Qua nghiên cứu đề tài cho thấy bức tranh toàn cảnh về tình hình dân số và nguồn nhân lực ở Việt Nam. Với quy mô dân số như hiện nay chúng ta đang có một lực lượng lao động rất dồi dào. Song việc đầu tư phát triển nguồn lực con người chưa được quan tâm đúng mức đã và đang dẫn đến tình trạng thất nghiệp (hữu hình và trá hình lớn). Hơn thế nữa chất lượng nguồn nhân lực nước ta chưa đáp ứng kịp thời với trình độ phát triển của khoa học kỹ thuật. Vì vậy vấn đề đặt ra là phải giảm được tỷ lệ sinh đẻ xuống. Đồng thời đi đôi với nó là việc tăng cường đầu tư vào giáo dục, mở rộng hệ thống giáo dục trên nhiều hình thức: đào tạo chính quy, đào tạo từ xa, mở trường dạy nghề, dân lập... Tuy nhiên, điều quan trọng cốt yếu là phải đảm bảo được chất lượng đào tạo và phải đào tạo những ngành nghề mà hiện nay đất nước đang cần (trong điều kiện nước ta hiện nay cần đào tạo nhiều công nhân có trình độ tay nghề kỹ thuật cao). Đồng thời phải biết tận dụng lợi thế của kẻ đi sau, tiếp thu, những kiến thức khoa học công nghệ, kinh nghiệm của những nước đi trước, biết tận dụng cơ hội và kết hợp với nội lực của đất nước một cách hợp lý sẽ là động lực lớn thúc đẩy nước ta phát triển tiến kịp với thời đại. Phụ lục Sách: 1. Giáo trình dân số học 2. Kinh tế xã hội Việt Nam, thực trạng và xu thế phát triển Tạp chí: 1. Tạp chí Lao động và xã hội số 12/1997, tr.4 số 2/1998, tr.4,32 số 10/1996, tr.12,13,2 số 8/1997, tr.28,30 số 2/1996, tr.16 số 4/1996, tr.21 số 2/1997, tr.4,5 2. Tạp chí kinh tế và phát triển : 5/95 3. Các báo chí liên quan

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc75889.DOC
Tài liệu liên quan