Tài liệu Đề tài Thực trạng và những giải pháp đề xuất để nâng cao năng lực ứng dụng marketing điện tử trong hoạt động của các doanh nghiệp du lịch Việt Nam: BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG
---------o0o---------
CÔNG TRÌNH DỰ THI CUỘC THI
“Sinh viên nghiên cứu khoa học trƣờng Đại học Ngoại thƣơng 2009”
Tên công trình
THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỀ XUẤT ĐỂ NÂNG CAO NĂNG
LỰC ỨNG DỤNG MARKETING ĐIỆN TỬ TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC
DOANH NGHIỆP DU LỊCH VIỆT NAM
Nhóm ngành: XH1b
Hà Nội, tháng 7 năm 2009
2
Mục lục
LỜI MỞ ĐẦU…………………………………………………………………….. 1
CHƢƠNG I: TỔNG QUAN VỀ MARKETING ĐIỆN TỬ…………………… 3
1. Các khái niệm và đặc điểm của marketing điện tử ………………………… 3
1.1. Khái niệm marketing điện tử ……………………………………………… 3
1.1.1. Khái niệm theo nghĩa hẹp…………………………………………… 3
1.1.2. Khái niệm theo nghĩa rộng…………………………………………… 4
1.2. Các loại hình marketing điện tử …………………………………………... 4
1.2.1. Xây dựng website…………………………………………………… 5
1.2.2. Marketing bằng cỗ máy tìm kiếm……………………………………. 5
1.2.3. Quảng cáo trên các trang web……………………………………… 5
1.2.4. Email – Marketing……………………………………………………. ...
91 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1465 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Thực trạng và những giải pháp đề xuất để nâng cao năng lực ứng dụng marketing điện tử trong hoạt động của các doanh nghiệp du lịch Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG
---------o0o---------
CÔNG TRÌNH DỰ THI CUỘC THI
“Sinh viên nghiên cứu khoa học trƣờng Đại học Ngoại thƣơng 2009”
Tên công trình
THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỀ XUẤT ĐỂ NÂNG CAO NĂNG
LỰC ỨNG DỤNG MARKETING ĐIỆN TỬ TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC
DOANH NGHIỆP DU LỊCH VIỆT NAM
Nhóm ngành: XH1b
Hà Nội, tháng 7 năm 2009
2
Mục lục
LỜI MỞ ĐẦU…………………………………………………………………….. 1
CHƢƠNG I: TỔNG QUAN VỀ MARKETING ĐIỆN TỬ…………………… 3
1. Các khái niệm và đặc điểm của marketing điện tử ………………………… 3
1.1. Khái niệm marketing điện tử ……………………………………………… 3
1.1.1. Khái niệm theo nghĩa hẹp…………………………………………… 3
1.1.2. Khái niệm theo nghĩa rộng…………………………………………… 4
1.2. Các loại hình marketing điện tử …………………………………………... 4
1.2.1. Xây dựng website…………………………………………………… 5
1.2.2. Marketing bằng cỗ máy tìm kiếm……………………………………. 5
1.2.3. Quảng cáo trên các trang web……………………………………… 5
1.2.4. Email – Marketing……………………………………………………. 6
1.3. Đặc điểm của marketing điện tử ………………………………………….. 6
1.3.1. Một số đặc điểm của marketing điện tử ……………………………... 7
1.3.2. Một số lợi ích và hạn chế của marketing điện tử ……………………. 7
2. Mục tiêu và chức năng của marketing điện tử ……………………………… 9
2.1. Mục tiêu của marketing điện tử …………………………………………... 9
2.1.1. Mục tiêu của marketing truyền thống………………………………... 9
2.1.2. Mục tiêu của marketing điện tử ……………………………………… 10
2.2. Chức năng của marketing điện tử ………………………………………… 11
2.2.1. Chức năng của marketing truyền thống……………………………… 11
2.2.2. Chức năng của marketing điện tử ……………………………………. 12
3. Vai trò của marketing điện tử đối với hoạt động của DN du lịch…………... 13
3.1. Vai trò của marketing điện tử đối với ngành du lịch……………………… 13
3.2. Ví dụ về công ty du lịch trên Thế giới ứng dụng thành công marketing
điện tử ……………………………………………………………………………... 15
CHƢƠNG II: THỰC TRẠNG VÀ ĐÁNH GIÁ VỀ NĂNG LỰC ỨNG
DỤNG MARKETING ĐIỆN TỬ CỦA CÁC DOANH NGHIỆP DU LỊCH
VIỆT NAM ………………………………………………………………………
17
1. Tổng quan về tình hình hoạt động của các doanh nghiệp du lịch Việt Nam
trong thời gian qua………………………………………………………………. 17
1.1. Vai trò của ngành du lịch đối với nền kinh tế Việt Nam…………………... 17
3
1.2. Cơ cấu dịch vụ ngành du lịch……………………………………………… 19
1.2.1. Nhóm các phương tiện vận chuyển…………………………………... 19
1.2.2. Nhóm các nhà hàng khách sạn……………………………………….. 20
1.2.3. Nhóm các ngành nghề truyền thống phục vụ cho ngành du lịch…….. 21
1.2.4. Các công ty kinh doanh dịch vụ du lich……………………………… 22
1.3. Cơ cấu các thị trường phát triển dịch vụ du lịch Việt Nam ………………. 23
2. Sự cần thiết phải ứng dụng marketing điện tử vào hoạt động kinh doanh
của các doanh nghiệp du lịch Việt Nam………………………………………… 25
2.1. Tháo gỡ khó khăn………………………………………………………….. 26
2.2. Công cụ hiệu quả, tiện lợi…………………………………………………. 27
2.3. Công cụ ưu việt,vượt trội………………………………………………….. 27
3. Thực trạng và đánh giá năng lực ứng dụng marketing điện tử của các
doanh nghiệp du lịch Việt Nam…………………………………………………. 29
3.1. Thực trạng và đánh giá chung……………………………………………. 29
3.1.1 Những thành tựu đạt được…………………………………………….. 29
3.1.2. Những hạn chế và thách thức tồn tại…………………………………. 34
3.2. Đánh giá hiệu quả ứng dụng marketing điện tử …………………………. 39
3.2.1. Website: 40
3.2.2. Sử dụng và tối ưu hóa công cụ tìm kiếm …………………………….. 46
3.2.3. Quảng cáo trên các trang web khác…………………………………... 47
3.2.4. Email-Marketing……………………………………………………... 48
4. Nguyên nhân…………………………………………………………………… 48
4.1. Nguyên nhân thành công…………………………………………………. 48
4.2. Nguyên nhân của những khó khăn hạn chế………………………………. 50
4.2.1. Các nguyên nhân thuộc môi trường nội tại của các doanh nghiệp du
lịch Việt Nam………………………………………………………………………
51
4.2.2. Các nguyên nhân thuộc môi trường kinh doanh…………………….. 52
CHƢƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỀ XUẤT ĐỂ NÂNG CAO NĂNG
LỰC ỨNG DỤNG MARKETING ĐIỆN TỬ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH
DOANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP DU LỊCH VIỆT NAM………………. 54
1. Phƣơng hƣớng phát triển ngành công nghiệp dịch vụ du lịch Việt Nam…... 54
4
1.1. Mục tiêu chung……………………………………………………………. 54
1.2. Mục tiêu cụ thể …………………………………………………………… 54
1.3. Những định hướng phát triển cho ngành du lịch…………………………. 55
1.3.1. Phát triển một số lĩnh vực…………………………………………….. 55
1.3.2. Phát triển các vùng du lịch……………………………………………. 56
1.3.3. Xã hội hóa phát triển du lịch………………………………………….. 56
2. Giải pháp và đề xuất cụ thể về việc nâng cao năng lực ứng dụng marketing
điện tử ……………………………………………………………………………..
58
2.1. Giải pháp………………………………………………………………….. 58
2.1.1. Nhóm giải pháp về phía nhà nước ……………………………………. 58
2.1.2. Nhóm giải pháp về phía Bộ Văn hóa-Thể thao-Du lịch, Tổng cục du
lịch và Hiệp hội du lịch Việt Nam…………………………………………………. 59
2.1.3. Nhóm giải pháp về phía các doanh nghiệp du lịch Việt Nam………… 61
2.2. Đề xuất của nhóm tác giả…………………………………………………. 66
2.2.1. Giai đoạn 1 - Giai đoạn chuẩn bị……………………………………… 66
2.2.2. Giai đoạn 2 - Giai đoạn phát triển…………………………………….. 68
2.2.3. Giai đoạn 3 - Giai đoạn duy trì………………………………………... 73
KẾT LUẬN ………………………………………………………………………. 79
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
5
2. Đối tƣợng nghiên cứu và mục tiêu nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động Marketing điện tử.
Mục tiêu nghiên cứu: Khái quát thực trạng ứng dụng marketing điện tử để
từ đó nêu ra những giải pháp đề xuất đề nâng cao năng lực ứng dụng
marketing điện tử trong hoạt động của các doanh nghiệp du lịch Việt Nam.
3. Phạm vi nghiên cứu: Các doanh nghiệp du lịch Việt Nam.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Để thực hiện đề tài, các phương pháp tổng hợp dưới đây sẽ được áp dụng:
Phương pháp hệ thống hóa, tổng hợp, phân tích, thống kê tài liệu.
Nghiên cứu tình hình hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp du lịch
Việt Nam.
Phỏng vấn trực tiếp.
6
CHƢƠNG I: TỔNG QUAN VỀ MARKETING ĐIỆN TỬ
1. Các khái niệm và đặc điểm của marketing điện tử
1.1. Khái niệm marketing điện tử
Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ thông tin, con
người đã khai thác và ứng dụng một loạt các phương tiện điện tử vào quá trình
marketing của các tổ chức, doanh nghiệp. Cùng với việc đổi mới, cải tiến đó chính là
sự ra đời khái niệm marketing điện tử (E-Marketing). Có thể nói rằng trong giai đoạn
hiện nay, khái niệm marketing điện tử đã trở nên không còn xa lạ đối với các doanh
nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp có hình thức kinh doanh dịch vụ như
ngành du lịch. Các doanh nghiệp đã từng bước làm quen, nghiên cứu và phát triển
phương thức marketing hiện đại này. Nhờ áp dụng những chiến lược của marketing
điện tử nên nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã giành được những thành công trong quá
trình marketing nói riêng và kinh doanh nói chung của mình.
Để có thể hiểu rõ và chính xác về “Marketing điện tử”, chúng tôi xin đưa ra
những khái niệm bao gồm khái niệm theo nghĩa hẹp và theo nghĩa rộng của
“Marketing điện tử”. Những khái niệm dưới đây được nhóm tác giả đánh giá là chính
xác, dễ hiểu và rõ ràng hơn cả.
1.1.1. Khái niệm theo nghĩa hẹp
Theo cuốn sách “E-Marketing” của Judy Straus, Adel El-Ansary và Raymond
Frost, marketing điện tử là kết quả của công nghệ thông tin trong hai cách thức sau.
Thứ nhất, nó làm tăng khả năng và hiệu quả các chức năng trong marketing truyền
thống. Thứ hai, công nghệ của marketing điện tử chuyển đổi thành nhiều chiến lược
marketing khác. Sự biến đổi đó dẫn đến những hình thức kinh doanh mới làm tăng
thêm giá trị khách hàng và lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Theo định nghĩa của Phillip Kotler: “Marketing điện tử là quá trình lập kế
hoạch về sản phẩm, giá, phân phối và xúc tiến đối với sản phẩm, dịch vụ và ý tưởng để
đáp ứng nhu cầu của tổ chức và cá nhân - dựa trên các phương tiện điện tử và Internet”
1.1.2. Khái niệm theo nghĩa rộng
Theo cuốn sách “E-Marketing” của Judy Straus, Adel El-Ansary và Raymond
Frost, marketing điện tử là sự sử dụng công nghệ thông tin trong những quá trình thiết
lập, kết nối và chuyển giao giá trị đến khách hàng, để tiến hành các hoạt động
7
marketing nhằm đạt được các mục tiêu của tổ chức và duy trì quan hệ khách hàng
thông qua nâng cao hiểu biết của khách hàng, các hoạt động xúc tiến hướng mục tiêu
và các dịch vụ qua mạng hướng tới thoả mãn nhu cầu của khách hàng.
Nhóm tác giả cho rằng khái niệm marketing điện tử theo nghĩa rộng ở trên là
khá đầy đủ và chính xác. Do đó trong bài nghiên cứu này, chúng tôi xin sử dụng khái
niệm trên để dựa vào đó, đưa ra những phân tích và đánh giá về khả năng ứng dụng
marketing điện tử trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp du lịch Việt Nam
trong những phần tiếp theo.
1.2. Các loại hình marketing điện tử
Những hình thức cơ bản của Marketing điện tử bao gồm:
Xây dựng website (Brand Awareness)
Marketing qua các công cụ tìm kiếm (Search Engines Marketing - SEM)
Quảng cáo trên các trang web (Web Display Advertising)
Quảng cáo tương tác (Interactive Advertising)
Marketing liên kết (Affiliate Marketing)
Marketing qua thư điện tử (E-mail Marketing)
Marketing qua Blog (Blog Marketing)
Marketing Virus (Viral Marketing)
Do khuôn khổ giới hạn của đề tài nghiên cứu tập trung vào việc ứng dụng
marketing điện tử của các doanh nghiệp du lịch tại Việt Nam nên chúng tôi chỉ đề cập
đến bốn hình thức marketing điện tử chủ yếu và phù hợp đối với đặc thù của các doanh
nghiệp du lịch Việt Nam hiện nay. Đó là xây dựng website, các công cụ tìm kiếm,
quảng cáo trên trang web và email marketing.
1.2.1. Xây dựng website
Một website bao gồm cả phần chữ, hình ảnh, có thể có thêm âm thanh và video,
được sử dụng để truyền tải thông điệp của doanh nghiệp trên mạng Internet, giới thiệu
đến khách hàng tiềm năng và khách hàng hiện tại về những công dụng, lợi ích của sản
phẩm hoặc dịch vụ của doanh nghiệp. Trang web có thể bao gồm cả khả năng nắm bắt
được xu hướng của khách hàng tiềm năng hoặc trực tiếp giao dịch sản phẩm, dịch vụ
trên mạng Internet. Trang web cũng có thể được xem là hồ sơ giới thiệu, trung tâm thư
8
tín của doanh nghiệp trên mạng Internet, và đây cũng là cách tốt nhất và đơn giản nhất
để hình thành và thể hiện được bản sắc riêng của doanh nghiệp.
1.2.2. Marketing bằng cỗ máy tìm kiếm (SEM - Search Engines
Marketing)
“Cỗ máy tìm kiếm” là cụm từ dùng chỉ toàn bộ hệ thống bao gồm bộ thu thập
thông tin, bộ lập chỉ mục và bộ tìm kiếm thông tin. Các bộ này hoạt động liên tục từ
lúc khởi động hệ thống, chúng phụ thuộc lẫn nhau về mặt dữ liệu nhưng độc lập với
nhau về mặt hoạt động. Cỗ máy tìm kiếm tương tác với người dùng thông qua giao
diện trang web, có nhiệm vụ tiếp nhận và trả về những tài liệu thoả mãn yêu cầu của
người dùng. Các công cụ tìm kiếm khác nhau có những trình tự khác nhau để sắp xếp
các trang web theo mức độ tương thích với từ khoá mà bạn tìm kiếm. Công cụ tìm
kiếm được coi là sự lựa chọn đầu tiên để truy nhập tin tức hay thông tin về một sản
phẩm và dịch vụ nào đó không chỉ đối với những người mới truy cập vào mạng
Internet mà ngay cả những nhà marketing chuyên nghiệp. Đây là một công cụ
marketing trực tuyến thông qua sức mạnh tìm kiếm, bằng cách xếp hạng lượng truy
nhập của trang web thông qua khả năng dò tìm.
1.2.3. Quảng cáo trên các trang web
Đây là hình thức mua các vị trí trên trang web khác bên ngoài công ty để đặt các
mẫu quảng cáo như banner, logo, dòng chữ hoặc hình ảnh... Hình thức marketing trực
tuyến này phát triển lên từ phương pháp quảng cáo truyền thống là đặt các mẫu quảng
cáo trên các báo và tạp chí. Doanh nghiệp cần phải thiết kế trước những banner, logo
hay dòng chữ, hình ảnh mà mình dùng để quảng cáo. Sau đó, doanh nghiệp cần phải
thỏa thuận về vị trí quảng cáo trên trang web, thời hạn và giá cả…với đại diện của
công ty thiết kế website. Phương thức quảng cáo này khá đơn giản và không đòi hỏi
doanh nghiệp tốn nhiều thời gian và công sức.
1.2.4. Email Marketing
Đây là phương thức cung cấp thông tin về sản phẩm, dịch vụ và thu thập phản
hồi về sản phẩm, dịch vụ từ khách hàng thông qua email. Địa chỉ email của khách
hàng tiềm năng và hiện tại có thể được thu thập, cập nhật thường xuyên hoặc có thể
mua. Ngoài ra doanh nghiệp có thể thường xuyên gửi các thư giới thiệu (newsletters)
9
hoặc phát tán trên diện rộng những thông tin liên quan đến sản phẩm của mình.
Phương thức này có ưu điểm rất lớn là chi phí thấp và không mang tính xâm nhập đột
ngột như tiếp thị qua điện thoại. Doanh nghiệp có thể gửi thông điệp của mình đến số
lượng người rất lớn, ở bất kỳ nơi đâu và trong thời gian nhanh nhất.
1.3. Đặc điểm của marketing điện tử
Kinh doanh điện tử (E-Business) là phương thức tối ưu và liên tục của hoạt động
doanh nghiệp thông qua công nghệ số hóa. Trong đó, thương mại điện tử (E-
Commerce) là thành phần của kinh doanh điện tử tập trung vào mảng giao dịch. Còn
marketing điện tử (E-Marketing) lại là cách sử dụng công nghệ thông tin trong quá
trình thiết lập, kết nối và phân phát giá trị đến khách hàng, và dành cho việc quản lý
mối quan hệ với khách hàng trong cách thức giúp ích cho tổ chức đó. Do vậy, có thể
nói marketing điện tử cũng chính là sự áp dụng công nghệ thông tin vào thực tiễn của
marketing truyền thống.
1.3.1. Một số đặc điểm của marketing điện tử
- Môi trƣờng: Marketing điện tử được đặt trong một môi trường mới: Môi
trường Internet.
- Phƣơng tiện: Internet và các thiết bị thông tin được kết nối vào Internet.
- Bản chất: Marketing điện tử vẫn giữ nguyên bản chất của marketing truyền
thống là nhằm thoả mãn mọi nhu cầu người tiêu dùng; tuy nhiên, người tiêu dùng
trong thời đại công nghệ thông tin sẽ có những đặc điểm khác với người tiêu dùng
truyền thống. Người tiêu dùng hiện nay có xu hướng và thói quen tiếp cận thông tin
theo những cách khác, đánh giá sản phẩm dựa trên các nguồn thông tin mới và quyết
định cho đến hành động mua hàng cũng có sự thay đổi.
Ngày nay, với ứng dụng của Marketing điện tử thì khái niệm thị trường được
mở rộng ra thành “không gian thị trường” (market place) thể hiện ở phạm vi: thị
trường được mở rộng hơn trong thương mại điện tử. Thị trường ở đây vẫn được hiểu là
“tập hợp những người mua hiện tại và tiềm năng”. Tuy nhiên, người mua hiện tại và
tiềm năng được mở rộng hơn rất nhiều nhờ có Internet và các phương tiện công nghệ
10
thông tin, điện tử. Điều này xuất phát từ chính bản chất toàn cầu của Internet, cho phép
thông tin về sản phẩm, dịch vụ có thể đến với mọi cá nhân, tổ chức trên khắp thế giới
và giao dịch cũng có thể được thực hiện thông qua Internet, khiến phạm vi khách hàng
hiện tại và tiềm năng được mở rộng hơn.
1.3.2. Một số ích lợi và hạn chế của marketing điện tử
Ích lợi
Sự xuất hiện của marketing điện tử đã đem lại nhiều lợi ích như truyền tải thông
tin đến số lượng lớn đối tượng tiếp nhận với chi phí thấp hơn hẳn so với hình thức
marketing truyền thống. Thông điệp được truyền tải dưới nhiều hình thức phong phú
và đa dạng như văn bản, hình ảnh và âm thanh, phim ảnh và trò chơi…
Marketing điện tử có tính chất tương tác cao nhờ chức năng truy cập và kết nối
nhanh chóng thông qua Internet, do đó đối tượng nhận thông điệp có thể phản hồi tức
khắc hay giao tiếp trực tiếp với đối tượng gửi thông điệp. Hơn nữa, người tiêu dùng và
khách hàng có thể truy cập thông tin sản phẩm và thực hiện giao dịch, mua bán tại mọi
lúc và mọi nơi. Đây chính là lợi thế lớn và đặc thù của marketing điện tử so với các
loại hình marketing khác.
Marketing điện tử phát triển dựa trên quá trình mở rộng và quảng bá doanh
nghiệp nhờ việc sử dụng các phương tiện trực tuyến và một trong những lợi thế lớn
của hình thức này đó là sự có sẵn của lượng rất lớn thông tin. Marketing điện tử giúp
doanh nghiệp có điều kiện tiếp cận và mở rộng thị trường dễ dàng và nhanh chóng
hơn.
Ngoài ra, marketing điện tử còn kết hợp tính sáng tạo và kỹ thuật cao của công
nghệ thông tin và hệ thống mạng Internet, bao gồm thiết kế, phát triển, quảng cáo và
bán hàng. Nhờ đó, doanh nghiệp sử dụng marketing điện tử có thể tiết kiệm được chi
phí bán hàng như chi phí thuê mặt bằng, giảm số lượng lực lượng bán hàng…So sánh
với các phương tiện khác như in ấn, báo đài hay truyền hình thì marketing điện tử có
lợi thế rất lớn nhờ chi phí thấp.
Một điểm lợi thế của việc sử dụng marketing điện tử là các hoạt động của hình
thức hiện đại này là khi triển khai, doanh nghiệp có thể dễ dàng theo dõi và đánh giá
hiệu quả marketing. Ví dụ như dịch vụ “Web Analytic” cho phép theo dõi số lượng
người truy cập hay nội dung được nhiều người quan tâm, từ đó doanh nghiệp có thể
11
đánh giá thông điệp phát đi có đúng với nhu cầu và mong muốn của khách hàng hay
không.
Hạn chế
Về phương diện kỹ thuật, marketing điện tử đòi hỏi khách hàng phải sử dụng
các kỹ thuật mới hiện đại, do đó không phải mọi đối tượng khách hàng có thể tiếp cận
đến với những hình thức marketing điện tử của doanh nghiệp. Điều này đã làm giảm đi
một số lượng khách hàng nhất định, và hạn chế nhiều trong việc mở rộng những thị
trường tiềm năng cần được khai thác.
Bên cạnh đó, đường truyền tốc độ chậm cũng là một tác nhân gây khó khăn và
bất tiện đối với hình thức marketing điện tử. Nếu công ty xây dựng website lớn và
phức tạp để quảng bá sản phẩm, nhiều khách hàng sẽ gặp khó khăn khi sử dụng, truy
cập vào trang web cũng như nhận và tải thông tin.
Về phương diện bán hàng, một hạn chế lớn nhất của marketing điện tử đó là
khách hàng không thể chạm, nếm hay dùng thử, cảm nhận trực tiếp sản phẩm trước khi
giao dịch sản phẩm. Nhưng đối với những ngành kinh doanh dịch vụ như ngành du
lịch thì hạn chế này của marketing điện tử sẽ được giảm thiểu đi nhiều. Do đó giúp
người tiêu dùng có thể dễ dàng hơn trong việc ra quyết định mua sản phẩm của doanh
nghiệp.
2. Mục tiêu và chức năng của marketing điện tử
2.1. Mục tiêu của Marketing điện tử
2.1.1. Mục tiêu của marketing truyền thống
Nếu xét tới hoạt động marketing ở phương diện khái quát nhất, nó được sử
dụng để đạt tới 3 mục tiêu cơ bản như sau:
Lợi nhuận
Nhìn chung, mọi doanh nghiệp hoạt động trên thị trường, dù có những mục tiêu
trung gian nào thì mục tiêu cuối cùng mà họ hướng tới cũng là lợi nhuận kinh doanh.
Lợi nhuận là chỉ tiêu, là thước đo mức độ hoạt động hiệu quả của một doanh nghiệp.
Marketing, bằng con đường thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng, thông qua hoạt
động tìm hiểu, phát hiện, phân tích chính những nhu cầu đó, qua đó giúp doanh nghiệp
đạt được mục đích của mình, hay nói cách khác, thu về lợi nhuận cho doanh nghiệp.
12
Marketing chia vòng đời sản phẩm thành 4 giai đoạn: thâm nhập, tăng trưởng,
chín muồi và suy thoái. Với mỗi giai đoạn như vậy, hoạt động marketing giúp doanh
nghiệp định giá sản phẩm ở mức tối ưu, hợp lý nhất với khả năng thanh toán của người
tiêu dùng, phù hợp với tình hình thị trường lúc đó để tạo ra được doanh số tối đa và từ
đó, có thể có đạt tới lợi nhuận tối đa trong điều kiện có thể.
Thị phần
Thị trường là một yếu tố không thể thiếu đối với hoạt động kinh doanh, đồng thời
đó cũng là một trong những đối tượng quan trọng nhất trong hoạt động marketing.
Doanh nghiệp nào càng thành công trong việc chiếm lĩnh thị trường sẽ càng có nhiều
cơ hội để nâng cao doanh số hơn. Và chỉ tiêu thị phần cũng còn phản ánh lợi thế cạnh
tranh của doanh nghiệp. Có một điều hiển nhiên là không một doanh nghiệp nào hoạt
động trên thương trường mà không cần ý thức tới các đối thủ cạnh tranh của mình, do
vậy, hoạt động marketing xuất hiện cũng nhằm mục đích trợ giúp cho doanh nghiệp
tìm thấy được lợi thế cạnh tranh của mình, đâu là điểm mạnh, đâu là điểm yếu (giá cả,
chi phí vận chuyển, đóng gói, chất lượng sản phẩm…). Điều này ứng với câu nói:
“Biết người biết ta, trăm trận trăm thắng”.
An toàn
Bên cạnh lợi nhuận, rủi ro là yếu tố luôn song hành cùng các doanh nghiệp.
Đứng trước mỗi kế hoạch hay cơ hội đầu tư, doanh nghiệp luôn phải đau đầu cân nhắc
và lựa chọn giữa sự an toàn và lợi nhuận hứa hẹn. Rủi ro càng cao thì lợi nhuận hứa
hẹn cũng càng cao. Dựa vào công tác nghiên cứu, phân tích thị trường, phán đoán
những biến đổi trên thị trường, đánh giá và định giá các cơ hội…của hoạt động
marketing, doanh nghiệp có thể hạn chế ở mức cao nhất những bất trắc có thể xảy đến
trong việc kinh doanh của mình.
2.1.2. Mục tiêu của marketing điện tử
Nếu như marketing nói chung, hay marketing truyền thống tập trung vào 3 mục
đích cơ bản như trên thì marketing điện tử với công cụ chủ yếu là mạng Internet và
công nghệ số hóa được doanh nghiệp sử dùng nhằm thực hiện một hay một số những
mục tiêu sau đây:
Truyền tải các thông điệp về các đặc thù và tính chất của doanh nghiệp, giới
thiệu các thông tin về sản phẩm dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp. Thực hiện các
13
việc nghiên cứu về các đặc tính (nhân khẩu học, sở thích và nhu cầu) của khách hàng
hiện tại và tiềm năng.
Tạo ra sự tương tác và mối quan hệ gần hơn với khách hàng, từ đó nâng cao
việc thúc đẩy hỗ trợ và xúc tiến kinh doanh bằng một số hình thức như quảng cáo hay
thông báo sự kiện của doanh nghiệp trên Internet.
Giao dịch các sản phẩm của doanh nghiệp với người mua hàng.
Nhìn chung, những gì marketing điện tử có thể mang đến cho doanh nghiệp
cũng tương tự như marketing truyền thống, nhưng với công cụ số hóa, sự trợ giúp của
công nghệ thông tin, marketing điện tử luôn thể hiện được những ưu việt vượt trội của
mình. Điều này sẽ được nhóm tác giả trình bày cụ thể ở những phần sau của đề tài.
2.2. Chức năng của marketing điện tử
2.2.1. Chức năng của marketing truyền thống
Marketing nói chung mang những chức năng như sau:
- Nghiên cứu tổng hợp về thị trường để phát hiện ra cả những nhu cầu hiện tại lẫn
những nhu cầu tiềm năng của thị trường, cùng với triển vọng phát triển của thị
trường.
- Hoạch định chính sách kinh doanh của doanh nghiệp như: Chính sách sản
phẩm, chính sách giá, chính sách phân phối, chính sách xúc tiến và hỗ trợ kinh
doanh…
- Tổ chức thực hiện những chính sách nói trên, bao gồm các hoạt động:
Nghiên cứu nhằm tạo ra những mẫu sản phẩm mới, đáp ứng nhu cầu ngày
càng cao của người tiêu dùng.
Tổ chức và hoàn thiện hệ thống phân phối các sản phẩm.
- Điều tiết và thực hiện các hoạt động sản xuất, đóng gói, vận chuyển, bán hàng,
quảng cáo, dịch vụ…theo một chu trình thống nhất.
- Thực hiện việc kiểm tra giám sát hoạt động kinh doanh theo kế hoạch.
2.2.2. Chức năng của marketing điện tử
Nếu như các hình thức marketing truyền thống tập trung vào các chức năng
nghiên cứu, phát triển thị trường, hoạch định và triển khai chính sách bằng những công
cụ và phương pháp thông thường, thì marketing điện tử cũng thực hiện những chức
14
năng đó, nhưng được nhấn mạnh ở những công cụ thông minh vượt trội, đó là những
phương tiện điện tử và mạng viễn thông. Ví dụ như máy tính, laptop, điện thoại thông
minh, mạng internet, mạng di động…Marketing điện tử với sự trợ giúp của công nghệ
thông tin sẽ giúp đỡ doanh nghiệp:
Thực hiện hành vi marketing theo từng đối tượng khách hàng. Việc phân chia
khách hàng có thể được thực hiện vô cùng nhanh gọn và tự động nhờ những phần
mềm chuyên dụng, phân loại khách hàng theo những tiêu chí nhất định, phụ thuộc vào
đặc tính sản phẩm cung cấp, giá cả sản phẩm, truyền thống mua sắm từng quốc gia…
Nghiên cứu, thực hiện những điều tra khảo sát thị trường điện tử với thời gian
ngắn, chi phí thấp. Quảng cáo trực truyến với các hình thức như gửi email tới từng
nhóm đối tượng, treo những logo, banner bắt mắt trên website công ty…để thu hút
khách hàng.
Thực hiện tương tác với khách hàng, qua những bảng điều tra, phiếu hỏi trực
tuyến, diễn đàn thu thập ý kiến khách hàng, hộp thư trả lời thắc mắc tự động…
Xử lý những giao dịch trực tuyến, riêng chức năng này có thể hỗ trợ rất nhiều
cho hoạt động thương mại và giao dịch điện tử của doanh nghiệp.
15
3. Vai trò của marketing điện tử đối với hoạt động của doanh nghiệp du lịch
3.1. Vai trò của marketing điện tử đối với ngành du lịch
Theo đánh giá của các tổ chức nghiên cứu du lịch quốc tế, Việt Nam hiện đang
được cho là điểm đến an toàn nhất trong khu vực và là đất nước giàu tiềm năng về du
lịch. Nhưng nếu chỉ dựa vào những yếu tố như an toàn, nguồn tài nguyên thiên nhiên
phong phú thì ngành du lịch của chúng ta vẫn chưa có cơ sở để thực sự khởi sắc và
phát triển bền vững.
Đối với ngành du lịch, nhìn chung không thể áp dụng được câu nói “Hữu xạ tự
nhiên hương”, muốn thành công, đạt được lượng khách du lịch trong và ngoài nước
hàng năm không ngừng tăng, các biện pháp marketing hiệu quả cần được áp dụng triệt
để. Tuy không phải là một hoạt động truyền thống, và cũng mới xuất hiện ở Việt Nam
hơn chục năm (năm 1997, mạng Internet mới xuất hiện ở Việt Nam và sau đó đã phát
triển với tốc độ chóng mặt) nhưng marketing trực tuyến, hay marketing điện tử đã thể
hiện khả năng vượt trội của mình trong sự phát triển của mọi ngành nghề, đặc biệt là
lĩnh vực du lịch. Du lịch, có thể nói là một ngành dịch vụ đặc biệt, vì sản phẩm mà nó
cung cấp không phải là hữu hình, mà là những sản phẩm mang tính chất vô hình. Đó
có thể là một tour du lịch, những bữa ăn ngon tại khách sạn nổi tiếng, những bãi biển
đẹp, công viên giải trí…Do vậy, với tính chất trực tuyến, qua mạng, marketing điện tử
là một phương tiện quảng bá hữu ích cho doanh nghiệp và là một kênh thông tin vô
cùng tiện lợi cho người tiêu dùng. Có thể khái quát những vai trò quan trọng của
marketing điện tử đối với ngành du lịch thông qua hai đối tượng trên như sau:
Đối với doanh nghiệp du lịch
Marketing điện tử giúp cho doanh nghiệp du lịch truyền tải được thông tin tới
tận tay người tiêu dùng với tốc độ cao, thậm chí là ngay tức thì, cập nhật và trọn gói.
Người dân Việt Nam có tập quán chọn địa điểm và dịch vụ du lịch qua tiếp thị truyền
miệng, họ có thể tìm hiểu qua người thân, bạn bè, đồng nghiệp rồi tự mình tìm kiếm
thông tin trên mạng, chọn lựa những điểm đến phù hợp nhất với sở thích, khả năng tài
chính, sức khỏe…của mình. Thông tin này có thể đến với khách hàng ngay lập tức sau
khi công ty du lịch đưa lên trang web của mình.
Các tour du lịch, các chương trình khuyến mãi, giảm giá, tặng kèm, ưu đãi…có
thể được thể hiện qua nhiều hình thức như email, diễn đàn, banner…trên các trang
16
web có lượng truy cập cao. Công nghệ thông tin có thể giúp doanh nghiệp dễ dàng
quản lý và phân loại hệ thống khách hàng của họ với sự trợ giúp của những phần mềm
hiện đại. Các doanh nghiệp sử dụng những liên kết hiệu quả trang web của mình với
các trang web tìm kiếm, tra cứu nổi tiếng như Google, Yahoo, MSN…, quảng bá hình
ảnh du lịch Việt Nam qua các clip tự động hiện ra trên những trang web nổi tiếng.
Đối với khách hàng
Marketing điện tử là một hoạt động không thể thiếu trong nền kinh tế hiện đại,
thậm chí nó còn là một xu hướng tất yếu của xã hội, hoạt động này mang tới cho người
tiêu dùng nhiều tiện ích như sau:
Người tiêu dùng hoàn toàn không phải mất công đi tìm hiểu tận nơi, hao phí
tiền của, thời gian và sức lực để có được thông tin về sản phẩm mà chỉ cần đơn giản là
ngồi ở nhà, dùng máy tính kết nối Internet của mình để tìm kiếm, tra cứu thông tin về
chuyến du lịch sắp tới của mình. Họ có thể có được mọi thông tin cần thiết. Ví dụ, một
khách hàng muốn tìm hiểu và dự định đi một chuyến du lịch tới Nha Trang. Anh ta lên
mạng và có thể tìm được vô vàn hình ảnh về Nha Trang, chi phí ăn ở, các tour và lịch
trình cụ thể, so sánh các tour với nhau…
Với trường hợp khách hàng chưa có ý định du lịch thì marketing điện tử cũng là
một phương thức hữu ích mang lại cho người tiêu dùng những ích lợi nhất định. Khi
họ click vào một trang web bất kì có những logo, banner hoặc clip về các chương trình
khuyến mãi du lịch, quảng cáo về một khu du lịch sinh thái mới khai trương…họ có
thể sẽ tò mò, tìm hiểu và rất có thể sẽ chấp nhận chuyến đi du lịch đó, mặc dù trước
đấy, họ chưa hề có ý định này.
Trước đây, khi chưa có mạng Internet, việc đi du lịch dường như là một việc xa
xỉ, tốn kém, vì người tiêu dùng không những phải tới tận một hoặc một vài, thậm chí là
rất nhiều công ty du lịch để tìm hiểu, so sánh và chọn lựa, đăng kí, nộp tiền…Hiện
nay, với mạng Internet và hệ thống ngân hàng tự động, họ hoàn toàn có thể chọn cho
mình một sản phẩm du lịch, đặt vé qua mạng, trả tiền bằng thẻ tài khoản, và công đoạn
cuối cùng chỉ còn là tận hưởng chuyến du lịch của mình, mà không hề tốn công đi lại,
hay mọi chi phí không cần thiết khác.
3.2. Ví dụ về công ty du lịch trên Thế giới ứng dụng thành công
marketing điện tử
17
Nhận biết được tầm vai trò và sự cần thiết của việc ứng dụng marketing điện tử,
các quốc gia trên thế giới luôn cố gắng xây dựng những chiến lược marketing điện tử
hiệu quả và sáng tạo, nhằm quảng bá cho ngành du lịch của nước mình.
Dưới đây là một bài học kinh nghiệm của ngành du lịch Australia, chiến lược
này còn được đánh giá là chiến lược quảng bá thông minh nhất thế giới. Chiến lược
mang tên “Công việc tốt nhất thế giới” do CumminsNitro, một công ty quảng cáo ở
Melbourne, Australia, thực hiện. Chiến dịch này đã giành được vị trí cao nhất trong
giải One Show lần thứ 34 ở New York - một trong những giải thưởng danh giá nhất
của ngành công nghiệp quảng cáo toàn cầu.
Sự đột phá trong chiến dịch này là đã khai thác triệt để Internet và các phương
tiện truyền thông, nhằm thu hút hơn 34.000 bài viết cho công việc chăm sóc dải san hô
ngầm khổng lồ ở quần đảo Hamilton và người viết đoạt giải sẽ được hưởng lương
110.000 USD. Chi phí cho chiến dịch này chỉ khoảng trên 1 triệu USD, tuy nhiên hiệu
quả quảng cáo toàn cầu của nó lại được ước tính lên tới 150 triệu USD. Chương trình
đã thu hút được 7 triệu lượt người quan tâm và tham gia, với 34.000 video dài 1 phút
từ 200 quốc gia, 200.000 blog và khoảng 43.000 bài viết về giải pháp nhằm chăm sóc
cho những dải san hô ngầm đó.
Quả thật, cuộc thi này đã thu hút được sự quan tâm không chỉ của người dân
nước Úc và hiệu quả quảng bá du lịch của nó cũng chưa từng thấy. Có thể thấy rằng,
những tác động tích cực của truyền thông, của các phương tiện điện tử trong quảng bá
du lịch, nhất trong bối cảnh phát triển không ngừng của những trang blog, hay các
mạng xã hội như ngày nay là không thể phủ nhận được. Và còn gì thú vị hơn, khi
không phải chính quyền địa phương tự PR cho hình ảnh của mình mà chính các
blogger viết bài quảng bá du lịch cho địa phương đó thông qua trang blog cá nhân của
họ, chúng sẽ mang tính khách quan hơn rất nhiều, đặc biệt là từ những blogger nổi
tiếng, hiệu quả quảng bá sẽ càng cao.
Tuy nhiên thực tế cho thấy, vai trò của các phương tiện điện tử trong quảng bá
du lịch vẫn chưa được đánh giá và quan tâm xứng đáng. Thành công vang dội của
chiến dịch mang tên "Công việc tốt nhất thế giới" của Queensland, Australia có lẽ là
bài học đáng giá cho nhiều quốc gia có thể thay đổi tư duy sáng tạo, từ đó tìm ra con
đường marketing hiệu quả cho ngành du lịch đất nước mình.
18
19
CHƢƠNG II: THỰC TRẠNG VÀ ĐÁNH GIÁ VỀ NĂNG LỰC ỨNG DỤNG
MARKETING ĐIỆN TỬ CỦA CÁC DOANH NGHIỆP DU LỊCH VIỆT NAM
1. Tổng quan về tình hình hoạt động của các doanh nghiệp du lịch Việt Nam
trong thời gian qua
1.1. Vai trò của ngành du lịch đối với nền kinh tế Việt Nam
Du lịch được coi là một trong số những ngành kinh tế mới, còn non trẻ của Việt
Nam song vai trò của nó đối với nền kinh tế Việt Nam lại vô cùng to lớn. Du lịch góp
phần giúp nền kinh tế Việt Nam chuyển dịch cơ cấu theo hướng hiện đại, tăng nguồn
thu ngoại tệ, rút ngắn khoảng cách tụt hậu và tăng cường hội nhập quốc tế.
Nhìn chung, tỷ trọng ngành của một nền kinh tế thể hiện tình trạng của nền kinh
tế đó. Các nước có nền kinh tế phát triển thì dịch vụ và công nghiệp chiếm tỷ trọng
lớn, nông nghiệp chiếm tỷ lệ nhỏ trong cơ cấu. Ngược lại, ở các quốc gia đang phát
triển, nông nghiệp lại chiếm tỷ trọng khá cao. Nền kinh tế Việt Nam được coi là một
nền kinh tế đang phát triển. Trong cơ cấu GDP của Việt Nam hiện nay, ngành nông
nghiệp đang có xu hướng giảm dần nhưng vẫn chiếm một tỷ lệ lớn. Tuy nhiên, trong
những năm gần đây, khách du lịch quốc tế đến Việt Nam ngày càng nhiều hơn, doanh
thu của ngành du lịch ngày càng tăng lên; do vậy, cơ cấu kinh tế của Việt Nam đang
có những bước chuyển biến đáng kể. Có thể thấy, tỉ trọng của ngành dịch vụ du lịch
ngày càng tăng, tỉ trọng của ngành nông nghiệp ngày càng giảm. Từ đó, có thể khẳng
định rằng du lịch có vai trò lớn trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt .
Không chỉ giúp nền kinh tế Việt Nam chuyển dịch cơ cấu, du lịch còn đóng vai
trò là một nguồn thu ngoại tệ lớn. Đẩy mạnh hoạt động du lịch đã và đang đem lại
những hiệu quả thiết thực cho nền kinh tế. Theo số liệu của Tổng cục du lịch Việt
Nam, lượng khách du lịch đến Việt Nam ngày càng tăng. Năm 1995, tổng số lượt
khách quốc tế đến Việt Nam là 610.600 lượt khách. Con số này đã tăng gấp đôi sau 6
năm; tổng số lượt khách quốc tế đến Việt Nam năm 2001 là 1.221.200 lượt khách. Ta
thấy rằng, số lượng khách quốc tế đến Việt Nam không ngừng tăng qua các năm.
Bảng 1: Bảng số liệu về lƣợt khách quốc tế đến Việt Nam
từ năm 2003 đến năm 2008
2003 2004 2005 2006 2007 2008
20
Số lƣợt khách
quốc tế đến
Việt Nam
1238500 2927876 3467757 3583468 4171564 4235740
So sánh với
năm trƣớc
X 20.5% 18.4% 3% 16% 0.6%
(Nguồn: Tổng cục du lịch Việt Nam)
Du khách nước ngoài đến Việt Nam mang lại nguồn thu lớn cho nền kinh tế
Việt Nam. Nhờ lượng khách du lịch tăng hàng năm nên doanh thu từ ngành du lịch
cũng tăng lên. Năm 1999, doanh thu từ ngành du lịch là 15.600 tỷ đồng. Năm 2002, du
lịch đóng góp cho nền kinh tế quốc dân 23.300 tỷ đồng. Sang đến năm 2005, con số
này lên tới 30.000 tỷ đồng, tăng 15.4% so với năm 2004 và tăng 28,75% so với năm
2003. Đặc biệt, năm 2008, doanh thu của ngành du lịch lên tới 4 tỷ USD (khoảng
71.200 tỷ đồng). Có thể thấy rằng, du lịch thực sự là một trong những ngành kinh tế
mũi nhọn, quan trọng, thu về một lượng lớn ngoại tệ, thúc đẩy nền kinh tế phát triển và
rút ngắn khoảng cách của nền kinh tế Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế
giới.
Ngoài ra, du lịch còn có vai trò là cầu nối văn hóa, đưa nền văn hóa của Việt
Nam ra thế giới. Mục đích của phát triển du lịch không chỉ là lợi nhuận kinh tế, điều
quan trọng và căn bản hơn là du lịch cần trực tiếp góp phần nâng cao vị thế, hình ảnh
của Việt Nam đối với thế giới cũng như các nước trong khu vực. Qua du lịch, khách
muôn phương có dịp hiểu hơn về con người, đất nước, kinh tế, văn hóa Việt Nam. Do
đó, du lịch là cách thức đưa Việt Nam tiếp cận với thế giới, giới thiệu Việt Nam ra thế
giới. Đây cũng được coi là một vai trò vô cùng quan trọng của du lịch. Làm thế nào để
xây dựng được một ngành du lịch phát triển, thân thiện, biến du lịch thành sứ giả của
hòa bình và hữu nghị cũng chính là một trong những nhiệm vụ cấp thiết hiện nay của
ngành du lịch Việt Nam.
Ngành du lịch, với những vai trò của mình đang ngày càng trở thành một ngành
kinh tế quan trọng của Việt Nam. Sự phát triển du lịch tác động trực tiếp đến nền kinh
tế quốc dân, thúc đẩy các ngành sản xuất và dịch vụ phát triển, tăng tỷ trọng dịch vụ
21
trong tổng thu nhập quốc dân, khôi phục được nhiều nghề truyền thống, và đưa hình
ảnh Việt Nam đến gần hơn với thế giới.
1.2. Cơ cấu dịch vụ ngành du lịch
Với những vai trò quan trọng đã được đề cập ở trên, ngành du lịch cũng phải
xây dựng cho mình những dịch vụ nhằm phục vụ tốt nhất cho khách du lịch trong và
ngoài nước. Các dịch vụ chăm lo cho du khách từ lúc bắt đầu cho tới ngày kết thúc
chuyến đi chính là những dịch vụ thuộc cơ cấu của ngành du lịch. Cơ cấu dịch vụ
ngành du lịch bao gồm rất nhiều những phân ngành khác nhau và cũng có rất nhiều
cách thức phân chia cơ cấu dịch vụ của ngành du lịch. Tuy nhiên, nhóm tác giả đưa ra
cách phân chia mà theo chúng tôi là khá chính xác và rõ ràng nhất, đó là 4 nhóm dịch
vụ tiêu biểu: các phương tiện vận chuyển, hệ thống nhà hàng khách sạn, các ngành
nghề truyền thống phục vụ cho ngành du lịch, và các công ty kinh doanh dịch vụ du
lịch.
1.2.1. Nhóm các phƣơng tiện vận chuyển
Trước hết, có thể khẳng định rằng các phương tiện vận chuyển là một trong
những dịch vụ hỗ trợ tích cực nhất cho ngành du lịch. Đó là phương tiện giao thông
đường không như máy bay; các phương tiện giao thông đường bộ như tàu hỏa, ôtô, xe
khách, xe buýt, xích lô; các phương tiện giao thông đường thủy như tàu biển, ca nô,..
Các phương tiện vận chuyển đóng vai trò rất quan trọng bởi vì đó chính là cầu nối giữa
các vùng lãnh thổ trên thế giới, giữa các thành phố trong một quốc gia…Chất lượng
của các phương tiện vận chuyển và sự phát triển của ngành du lịch có mối quan hệ với
nhau. Các phương tiện vận chuyển nếu có thể phục vụ được nhu cầu đi lại của khách
du lịch, tạo cho khách du lịch cảm giác an toàn, thoải mái thì sẽ kích thích được sự
phát triển của ngành du lịch; nếu không đáp ứng được nhu cầu trên thì sẽ cản trở sự
phát triển của ngành du lịch.
Trong thời gian vừa qua, ngành du lịch Việt Nam cũng đã ra sức phát triển chất
lượng của các phương tiện vận chuyển để phục vụ tốt nhất nhu cầu của khách du lịch
trong nước và nước ngoài. Trước hết, về đường không, rất nhiều chuyến bay với mức
giá khác nhau được đưa ra để có thể phù hợp với nhu cầu của nhiều nhóm khách hàng
có thu nhập khác nhau. Ví dụ như hãng hàng không quốc gia Vietnam Airline đã liên
tục mở thêm rất nhiều chuyến bay mới, bay thẳng đến các thành phố trong nước cũng
như nước ngoài để giúp khách hàng tiết kiệm chi phí. Các phương tiện giao thông
22
đường bộ như tàu hỏa, xe khách cũng được nâng cấp với các dịch vụ mới như xe buýt
có giường nằm, xe buýt hai tầng, phục vụ khăn lạnh miễn phí, cung cấp đồ uống miễn
phí….cũng nhằm mục đích hỗ trợ khách hàng một cách tối đa. Hệ thống xích lô ở một
số thành phố như Hà Nội, Huế cũng đã được qui hoạch và phát triển một cách hợp lý
nhằm thỏa mãn nhu cầu của khách du lịch mà lại không làm ảnh hưởng tới giao thông
và trật tự. Về các phương tiện đường thủy, hệ thống thuyền và tàu của chúng ta cũng
không ngừng được nâng cấp ngày một hiện đại hơn. Tổng cục du lịch Việt Nam đã
ban hành những tiêu chuẩn cho những con thuyền 2 sao, 3 sao, 4 sao, thường xuyên có
các đợt kiểm tra, đánh giá hàng năm để kiểm soát được chất lượng và kịp thời nâng
cấp. Phải nói rằng, hệ thống phương tiện vận chuyển an toàn, đem lại thoải mái cho du
khách chính là một phần không thể thiếu và rất cần được quan tâm trong cơ cấu dịch
vụ du lịch.
1.2.2. Nhóm các nhà hàng khách sạn
Hệ thống nhà hàng, khách sạn cũng là một bộ phận thuộc cơ cấu dịch vụ của
ngành du lịch. Khách du lịch khi đến thăm bất cứ vùng nào cũng cần có nơi để ăn
uống nghỉ ngơi, nên trong nhiều năm vừa qua hệ thống khách sạn đã được đầu tư, nâng
cấp và xây mới. Rất nhiều khách sạn chất lượng cao đã được xây dựng khắp Việt
Nam, đặc biệt là hệ thống các khu nghỉ dưỡng cao cấp (resort) và các khách sạn 5 sao;
có thể kể đến như khách sạn Sofitel Plaza (Hà Nội), Melia (Hà Nội), khách sạn Bến
Thành- Rex (TP.HCM), Nikko (Hà Nội), Evason Ana Mandara Nha Trang (Khánh
Hoà), Vinpearl Resort & Spa Nha Trang (Khánh Hoà), Furama (Đà Nẵng)…
Sự phát triển của các hệ thống nhà hàng, khách sạn cũng có mối quan hệ với sự
phát triển của ngành du lịch. Hệ thống nhà hàng khách sạn chất lượng cao, phục vụ tốt
sẽ kích thích du lịch phát triển, hệ thống nhà hàng kém chất lượng sẽ kìm hãm sự phát
triển của ngành du lịch. Đặc biệt, để nâng cao chất lượng của hệ thống khách sạn ở
Việt Nam, trong những năm gần đây, Tổng cục Du lịch Việt Nam đã đưa ra giải
thưởng “10 khách sạn hàng đầu Việt Nam”. Giải thưởng này được Tổng cục Du lịch
khởi xướng từ năm 1999 trong một chương trình quảng bá du lịch Việt Nam, khuyến
khích các khách sạn nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ. Giải thưởng được tổ
chức thường niên và được trao cho 10 khách sạn tốt nhất Việt Nam. Để nhận được giải
thưởng có uy tín này, bên cạnh các tiêu chuẩn cơ bản về cơ sở hạ tầng và dịch vụ, các
khách sạn đoạt giải còn phải đạt được một số tiêu chuẩn khác như đảm bảo an ninh trật
23
tự trong khách sạn, bảo đảm tuyệt đối an toàn về tài sản và tính mạng cho khách đến
lưu trú và vui chơi giải trí, an toàn vệ sinh thực phẩm,... Đạt được giải thưởng cao quý
do chính Tổng cục Du lịch trao tặng cũng là một trong những phương thức quảng bá
hiệu quả và khẳng định thương hiệu của khách sạn.
1.2.3. Nhóm các ngành nghề truyền thống phục vụ cho ngành du lịch
Các ngành nghề truyền thống cũng là một trong những ngành bổ trợ cho ngành
du lịch. Khách du lịch đến nước ta ngoài mục đích tham quan những cảnh đẹp còn
muốn tìm hiểu về những nét văn hóa, những nghề truyền thống nổi tiếng của đất nước
Việt Nam như tranh Đông Hồ, gốm sứ Bát Tràng, lụa Vạn Phúc,và các mặt hàng thổ
cẩm, thủ công mỹ nghệ khác... Những mặt hàng truyền thống này đều là sản phẩm của
một nền văn hóa mang bản sắc riêng, được đúc kết và lưu truyền từ bao đời nay. Mỗi
mặt hàng, mỗi sản phẩm đều gắn với một làng nghề truyền thống, hay nói cách khác,
mỗi làng nghề đều nổi tiếng và được biết đến với một sản phẩm đặc trưng nào đó.
Khách du lịch đến Việt Nam thường rất tò mò tìm hiểu và yêu thích những mặt hàng
thủ công truyền thống này, cho nên họ thường mua lại để làm quà lưu niệm, quà tặng
hay vật kỷ niệm.
Bên cạnh đó, những loại hình nghệ thuật truyền thống như múa rối nước, ca trù,
nhã nhạc cung đình Huế, quan họ Bắc Ninh… hay những di sản văn hóa phi vật thể
như áo dài cũng có những sức hút kì lạ với du khách nước ngoài. Nếu ngành du lịch có
những kế hoạch và chiến lược để bảo tồn và phát triển những ngành nghề này một
cách hợp lý, chúng ta sẽ có thể thu hút một lượng rất lớn khách du lịch quốc tế đến
Việt Nam hàng năm.
1.2.4. Các công ty kinh doanh dịch vụ du lịch
Yếu tố cuối cùng chính là các công ty kinh doanh dịch vụ du lịch. Các công ty
du lịch không đưa ra một sản phẩm cụ thể cho khách du lịch, nhưng các công ty này
làm nhiệm vụ kết nối các dịch vụ khác nhau và cung cấp cho khách hàng sản phẩm
cuối cùng: đó là một tour du lịch với đầy đủ các dịch vụ như phương tiện vận chuyển,
nhà hàng khách sạn, các loại hình nghệ thuật truyền thống… Các công ty du lịch chính
là các công ty sắp xếp bố trí tour, lên chương trình, bố trí khách sạn, nhà hàng, quản lý
và phân bổ hướng dẫn viên…. Những hoạt động này có vai trò vô cùng quan trọng
trong sự phát triển của ngành du lịch bởi vì ấn tượng của khách du lịch về một đất
nước phụ thuộc vào những dịch vụ mà du khách được đáp ứng, những cảnh đẹp mà
24
khách du lịch được đến thăm, những món ngon được thưởng thức, thái độ của hướng
dẫn viên đối với khách và một số yếu tố khác. Các công ty du lịch đã kết hợp các nhân
tố khác nhau của dịch vụ du lịch để tạo ra được sản phẩm cuối cùng cho khách hàng.
Cũng chính các công ty du lịch trong nước đã kết hợp với các công ty du lịch nước
ngoài để tổ chức tour cho khách tham quan, thực hiện những trao đổi, giao dịch đầu
tiên với khách hàng, tạo những ấn tượng đầu tiên cho khách hàng.
Tuy nhiên, không phải trong mọi trường hợp, khách hàng đều tự tìm đến với
công ty mà các công ty du lịch còn có một trách nhiệm vô cùng quan trọng đó là tìm
kiếm khách hàng tiềm năng cho mình. Thông thường, các công ty du lịch Việt Nam
thường tìm kiếm khách hàng thông qua 2 cách sau đây. Cách thứ nhất được dành cho
những khách hàng đến Việt Nam trước rồi mới tìm các tour du lịch phù hợp với mình.
Cách thứ hai là cách dành cho những khách hàng đã bỏ sức ra tìm kiếm thông tin qua
mạng trước, đặt tour và dịch vụ trước khi đến Việt Nam. Với những khách hàng thuộc
nhóm người đến Việt Nam rồi mới tìm tour du lịch, các văn phòng của các công ty du
lịch đặt trên các tuyến phố trọng điểm về du lịch như Hàng Bè, Hàng Trống, Mã
Mây…sẽ là cách làm hiệu quả nhất của các công ty du lịch. Một văn phòng được bố trí
gọn gàng, sạch sẽ với nhiều tờ rơi quảng cáo, poster bắt mắt; đội ngũ tư vấn viên nhiệt
tình, hết lòng tư vấn, giúp đỡ khách; catalogue đẹp mắt với những thông tin chi tiết, cụ
thể; giá cả cạnh tranh chính là cách mà rất nhiều các công ty du lịch hiện nay đang
thực hiện. Đối với nhóm khách hàng thứ hai, trang web chính là công cụ hữu hiệu
nhất. Công ty du lịch nào có thể tạo lập được một trang web đẹp hơn, đầy đủ thông tin
hơn và dễ dàng tìm thấy bằng các công cụ tìm kiếm như Google, Yahoo… hơn thì
công ty đó có được lợi thế cạnh tranh. Các công ty kinh doanh dịch vụ du lịch, với
những vai trò khác nhau của mình chính là một trong những nhân tố vô cùng quan
trọng trong cơ cấu dịch vụ ngành du lịch Việt Nam.
1.3. Cơ cấu các thị trƣờng phát triển dịch vụ du lịch của Việt Nam
Thị trường phát triển dịch vụ du lịch của Việt Nam được chia ra làm hai thị
trường chính: đó là thị trường trong nước và thị trường nước ngoài.
Thị trường trong nước bao gồm những khách du lịch Việt Nam có nhu cầu đi du
lịch trong nước cũng như nước ngoài. Những năm trước đây, khi nền kinh tế Việt Nam
còn gặp nhiều khó khăn, nhu cầu đi du lịch đối với người dân còn là một nhu cầu xa
xỉ. Tuy nhiên, trong vòng 10 năm trở lại đây, khi mức sống của người dân tăng cao,
25
các nhu cầu về ăn, mặc, ở… đã được đáp ứng tốt thì người dân bắt đầu hướng đến
những nhu cầu cao hơn, ví dụ như đi du lịch. Người dân Việt Nam, với tính cách thích
đi đây đi đó, khám phá cho nên thị trường trong nước đã hứa hẹn là một thị trường đầy
tiềm năng phát triển. Ngày nay, khách du lịch Việt Nam chủ yếu hướng đến những
danh lam thắng cảnh đẹp trong nước như vịnh Hạ Long, biển Nha Trang, Đà Nẵng,
Lăng Cô, những thành phố đẹp và thơ mộng như Đà Lạt, Sa Pa…Nhiều du khách còn
chọn cho mình một tour du lịch xuyên Việt dài ngày để có thể khám phá hết vẻ đẹp
của đất nước. Một bộ phận khách hàng khác thì chọn cho mình những tour du lịch
nước ngoài, mà phổ biến nhất là các nước thuộc khu vực Đông Nam Á và Nam Á như
Thái Lan, Singapore,..Theo Tổng cục Du lịch, năm 2008, ngành du lịch đã phục vụ
cho hơn 20 triệu lượt khách nội địa, đó là một con số không hề nhỏ.
Thị trường nước ngoài chính là những khách du lịch nước ngoài có nhu cầu đi
du lịch tới Việt Nam. Khách du lịch nước ngoài đến Việt Nam có thể đến từ rất nhiều
quốc gia khác nhau; trong đó, nhiều nhất là các khách du lịch đến từ Trung Quốc, Mĩ
và một số nước châu Âu... Dưới đây là bảng tổng hợp khách du lịch quốc tế đến Việt
Nam năm 2008.
Bảng 2: Khách quốc tế đến Việt Nam năm 2008 căn cứ theo
một số thị trƣờng lớn (đơn vị tính: lƣợt ngƣời)
Quốc gia Năm 2008 Năm 2008 so với năm 2007 (%)
Trung Quốc 650.055 113,1
Hàn Quốc 449.237 94,5
Mỹ 417.198
102,2
Nhật Bản 392.999
93,9
Đài Loan (TQ) 303.527 95,1
Úc 234.760
104,5
Thái Lan 183.142
109,6
Pháp 182.048
99,1
Malaysia 174.008
113,4
26
Singapore 158.405
114,6
Các thị trường khác 1.108.362
95,0
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Thị trường ngoài nước luôn là một thị trường tiềm năng, mang lại nguồn thu
ngoại tệ lớn cho nền kinh tế trong nước. Có thể thấy rằng, Việt Nam là một đất nước
với nhiều danh lam thắng cảnh đẹp, nền chính trị ổn định, an toàn, người dân gần gũi,
thân thiện, được đánh giá là điểm đến lý tưởng đối với nhiều du khách trên thế giới.
Trên thực tế, tổng số lượt khách quốc tế đến Việt Nam đều tăng nhanh qua mỗi năm.
Ngành du lịch Việt Nam qua những phân tích số liệu và dự đoán hoàn toàn có thể xác
định được những thị trường tiềm năng cho mình, từ đó cần đề ra những biện pháp đầu
tư xứng đáng để kích thích sự phát triển của những thị trường tiềm năng này.
Tuy nhiên, dù là thị trường trong nước hay ngoài nước đều có những điểm
mạnh riêng và đóng góp nhất định vào tổng thu nhập của đất nước, không thể nói thị
trường nào là đáng đầu tư hơn thị trường nào. Do vậy, ngành du lịch phải luôn chú
trọng đến việc kết hợp và phát triển đồng thời, cân xứng hai thị trường trong nước và
ngoài nước để ngành du lịch có thể phát triển một cách cân đối và đồng đều nhất,
mang lại lợi ích kinh tế lớn nhất, trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn cho nền kinh tế
Việt Nam.
2. Sự cần thiết phải ứng dụng marketing điện tử vào hoạt động kinh
doanh của các doanh nghiệp du lịch Việt Nam
Qua phần 1, nhóm tác giả đã trình bày những nét khái quát nhất về ngành du
lịch cũng như tình hình hoạt động của các doanh nghiệp du lịch Việt Nam trong những
năm qua. Có thể thấy được vai trò quan trọng và những đóng góp to lớn của ngành du
lịch đối với sự phát triển kinh tế của đất nước ta, đặc biệt là trong thời kì hội nhập hiện
nay, do vậy, việc xúc tiến phát triển ngành du lịch là một yêu cầu, cũng là một thách
thức đặt ra đối với các ngành, các cấp có liên quan, đặc biệt là đối với các doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực du lịch. Chỉ thị 46/CT-TƯ của Ban Bí thư Trung
ương Đảng khoá VII tháng 10 năm 1994 cũng đã khẳng định: “Phát triển du lịch là
một hướng chiến lược quan trọng trong đường lối phát triển kinh tế - xã hội nhằm góp
phần thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nuớc”; và để thực hiện được mục
tiêu đó, cần có sự phối hợp đồng bộ của nhiều biện pháp khác nhau. Có thể nói, đối
27
với một ngành kinh tế có nhiều nét đặc thù riêng biệt như ngành du lịch, công tác xúc
tiến hoạt động, quảng bá hình ảnh, sử dụng những công cụ phương tiện hiện đại, hiệu
quả… là một trong những yếu tố then chốt đem lại sự cạnh tranh cho các doanh nghiệp
du lịch Việt Nam nói riêng và ngành du lịch Việt Nam nói chung. Việc ứng dụng
Internet và các công cụ điện tử khác vào hoạt động xúc tiến du lịch được coi như một
nét đột phá mang lại những giá trị to lớn cho ngành kinh tế giàu tiềm năng này. Nhóm
tác giả xin đưa ra ba lý do cơ bản để giải thích cho sự cần thiết phải ứng dụng
marketing điện tử vào hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp du lịch Việt Nam
như sau:
2.1. Tháo gỡ khó khăn
Đây là nguyên nhân cơ bản nhất để doanh nghiệp du lịch “tin dùng” marketing
điện tử cho hoạt động quảng bá của họ. Qua tình hình thực tế, có thể thấy trong 2 năm
gần đây (2008 và 2009), tình hình ngành du lịch nước ta đã có những bước đi không
mấy sáng sủa. Theo thống kê của Tổng cục Du lịch, lượng khách trong nước giảm
mạnh (6 tháng đầu năm 2009, lượng khách quốc tế chỉ đạt xấp xỉ 1,9 triệu người, trong
khi đó, chỉ tiêu chúng ta đặt ra vào cuối năm 2008 là sẽ đón 4,5 – 5 triệu lượt khách
quốc tế trong năm nay). Tình trạng này được xem như một hệ quả tất yếu của cuộc suy
thoái kinh tế toàn cầu trong năm 2008, cuộc khủng hoảng này khiến cho những thị
trường vốn là tiềm năng nhất của du lịch Việt Nam như Trung Quốc, Châu Âu cũng
trở nên ảm đạm đi rất nhiều. Thêm vào đó, năm 2009 kinh tế thế giới đã có những dấu
hiệu hồi phục nhất định, tuy nhiên, dịch cúm A H1N1 bùng phát từ Mỹ đã nhanh
chóng lây lan sang Việt Nam, chủ yếu qua con đường du lịch, khiến lượng khách quốc
tế trong 6 tháng đầu năm sụt giảm mạnh mẽ. Đứng trước những khó khăn đó, bên cạnh
việc những đơn vị du lịch phải đề ra kế hoạch tự cải tạo môi trường kinh doanh của
mình, một chiến lược, một phương thức marketing hiệu quả cũng là rất cần thiết để
vực dậy ngành du lịch đang gặp quá nhiều trở ngại, thách thức. Marketing điện tử, với
những yếu tố tích cực của mình, như việc quảng bá du lịch trên website, sử dụng công
cụ Internet kết nối toàn cầu sẽ hoàn toàn xứng đáng là một thử nghiệm mới mẻ và hứa
hẹn nhiều kết quả tốt đẹp đối với ngành du lịch.
2.2. Công cụ hiệu quả, tiện lợi
Không ai có thể phủ nhận được những ưu điểm của marketing điện tử, như tính
chính xác, nhanh gọn, tiết kiệm, dễ dàng…Chỉ với một website có hình thức hấp dẫn,
28
đầy đủ thông tin, cùng với một hệ thống quản lý khách hàng, chăm sóc khách hàng qua
mạng được sự hỗ trợ của các phần mềm chuyên dụng, mỗi công ty đã có thể xây dựng
được cho mình một kế hoạch hay chiến lược marketing qua mạng hiệu quả. Doanh
nghiệp có thể sử dụng website của mình để thực hiện việc quảng bá tới tất cả mọi tầng
lớp dân cư, bất kể họ là ai, và ở đâu. Hiện nay, người tiêu dùng càng ngày càng nắm
bắt xu thế hiện đại, phần lớn đã chuyển sang dùng Internet làm công cụ tìm kiếm
thông tin, cho nên việc marketing, quảng bá trên Internet nghiễm nhiên trở thành một
phương thức phổ biến và hữu dụng hơn cả.
Hơn nữa, thay vì phải in ấn rất nhiều poster, banner, in tin tức quảng cáo trên
báo đài…thì nay, doanh nghiệp du lịch lại chỉ cần cho những hình ảnh về công ty
mình, về các điểm đến du lịch, các thông tin cần thiết cho khách hàng trên website
công ty và khách hàng sẽ tự tìm đến họ qua hệ thống tra cứu tự động như Google,
Yahoo…Nhờ đó mà chi phí dành cho hoạt động marketing có thể giảm đi đáng kể,
doanh nghiệp có thể tiết kiệm rất nhiều và tập trung đầu tư cho những mảng khác, ví
dụ như cơ sở hạ tầng, đào tạo đội ngũ nhân viên, nâng cao chất lượng phục vụ…
2.3. Công cụ ƣu việt, vƣợt trội
Nếu marketing điện tử chỉ đơn thuần là một phương thức marketing mới, hiệu
quả và dễ dàng hơn cho doanh nghiệp thì nó sẽ rất nhanh chóng bị thay thế bởi một
phương thức mới hiệu quả và tiện lợi hơn có thể sẽ xuất hiện trong tương lai không xa
của ngành du lịch. Tuy nhiên, marketing điện tử, trên thực tế, còn tỏ rõ những ưu điểm
vượt trội của mình, mà không một phương thức quảng bá thương hiệu, xúc tiến sản
phẩm nào có thể cạnh tranh được. Có thể thấy rằng, các phương thức marketing truyền
thống, dù có phổ biến và dễ dàng tới đâu, cũng không thể có được khả năng tương tác
nhanh và chính xác như marketing điện tử. Mỗi một thông tin được đưa lên website
đều sẽ nhận được sự phản hồi nhanh chóng, thậm chí là ngay lập tức của khách hàng,
mỗi thông tin của khách hàng sẽ được lưu lại và phân tích một cách chính xác; qua đó,
công ty không chỉ nắm bắt được khách hàng của mình là ai, ở đâu, có nhu cầu gì,…mà
còn phân loại được danh sách khách hàng. Sau đó, với mỗi chiến dịch giảm giá,
khuyến mãi…công ty chỉ cần một cú click chuột là có thể gửi email tới mọi khách
hàng của mình để quảng bá về chương trình mà không hề tốn công sức hay chi phí in
ấn. Hiệu quả vượt trội của marketing điện tử đã được kiểm chứng bằng thực tế, từ khi
Internet ra đời đến nay, số lượng du khách nước ngoài tới nước ta thăm quan, du lịch
29
nghỉ dưỡng đã tăng vọt đáng kể. Theo số liệu báo cáo của Tổng cục Du lịch, năm
1999, lượng khách quốc tế vào Việt Nam là 1.781.754 người, trong khi số lượng
khách vào 6 tháng đầu năm 2009 đã lên đến 1.893.605 người.
Tuy vậy, khả năng marketing tới mọi đối tượng, ở mọi nơi, kết nối 24/24,
không bao giờ có giới hạn về không gian, thời gian cũng chưa phải là đặc điểm vượt
trội duy nhất mà marketing trực tuyến có thể thuyết phục các doanh nghiệp du lịch sử
dụng nó. Mặc dù Internet xuất hiện ở Việt Nam cũng khá lâu (hơn mười năm) nhưng
không phải doanh nghiệp du lịch nào ở nước ta cũng sử dụng marketing điện tử làm
hình thức marketing chủ đạo của công ty mình. Do chưa thực sự phổ biến cho nên,
doanh nghiệp du lịch nếu sử dụng và tối ưu hóa được công cụ này sẽ đạt được những
hiệu quả và thành công mà chính họ cũng không ngờ tới. Những doanh nghiệp biết
nắm bắt thời cơ và xu thế mới sẽ dễ dàng cán đích hơn cả.
Cùng với các chức năng kết nối từ trang web này sang trang web khác, chia sẻ
thông tin giữa các công ty cung cấp dịch vụ khác nhau, marketing điện tử cũng được
đánh giá là một công cụ lan truyền thông tin rất hiệu quả. Nó tương tự như một loại
virus marketing, kết nối và truyền đạt thông tin từ người này tới người khác, từ tổ chức
này tới tổ chức khác…Và hiệu quả mà nó đạt được đương nhiên sẽ là không nhỏ.
Qua những phân tích trên đây, nhóm tác giả muốn một lần nữa khẳng định
marketing điện tử chính là một xu thế tất yếu đối với hoạt động của các doanh nghiệp
du lịch, bởi những lợi ích to lớn, sự hữu dụng và ưu điểm vượt trội của nó mang lại.
3. Thực trạng và đánh giá về ứng dụng marketing điện tử của các doanh nghiệp
du lịch Việt Nam 3.1. Thực
trạng và đánh giá chung
3.1.1. Những thành tựu đạt đƣợc
Trong việc ứng dụng marketing điện tử vào hoạt động của các doanh nghiệp thì
việc phát triển xây dựng các website là rất quan trọng và cần thiết. Website là kênh
thông tin quan trọng giúp doanh nghiệp tiếp cận với người tiêu dùng và với các doanh
nghiệp khác.
Mặt khác, trong thời đại công nghệ thông tin (CNTT) bùng nổ như hiện nay và
cùng với đặc thù của ngành du lịch thì việc thành lập một website đã trở thành một yêu
cầu thiết yếu đối với doanh nghiệp thuộc ngành dịch vụ này. Trong những năm gần
30
đây, số lượng các tổ chức và doanh nghiệp du lịch có website riêng cho mình đã tăng
lên đáng kể. Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch , Hiệp hội du lịch Việt Nam (VITA) và
Tổng cục du lịch Việt Nam đều có website hoạt động riêng. - Trang chủ của
Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch Việt Nam: -
- Trang chủ của Hiệp hội du lịch Việt
Nam (VITA):
- Trang chủ của Tổng cục Du lịch Việt Nam:
Theo Báo cáo Thương mại điện tử năm 2008, lĩnh vực kinh doanh có ảnh hưởng
lớn đến nhu cầu xây dựng website của doanh nghiệp và ngành du lịch đứng đầu với
85% doanh nghiệp có website. Ngành du lịch cũng là một trong hai ngành có số lượng
website tăng đáng kể nhất trong những năm gần đây. Bên cạnh đó, số người truy cập
những website ngày càng nhiều, chỉ riêng website vietnamtourism.com tính đến hết
năm 2008 đã có gần 9 triệu lượt người truy cập, góp phần đẩy mạnh công tác tuyên
truyền quảng bá du lịch, thu hút khách du lịch đến Việt Nam.
Bảng 3: Tỷ lệ doanh nghiệp có website phân theo
lĩnh vực kinh doanh qua các năm
(Nguồn: Báo cáo Thương mại điện tử năm 2008)
Về mặt chất lượng, các website của các doanh nghiệp đã được cải thiện và phát
triển hơn. Hiện nay, nhiều website của các doanh nghiệp du lịch Việt Nam đa dạng và
phong phú nhờ được thiết kế khá đẹp mắt, cập nhật thông tin nhanh nhạy hơn trước,
31
đặc biệt là có thêm sự tương tác với khách hàng và sự chuyên nghiệp trong việc trình
bày nội dung và cung cấp thông tin cho thị trường. Một số website nổi bật về hiệu quả
hoạt động marketing và được đánh giá cao như website của các công ty du lịch và lữ
hành sau: Bến Thành Tourist, Fidi Tour, Saigon Tourist, Hanoi Tourist.
Bảng 4: Trang chủ của một số doanh nghiệp du lịch tiêu biểu
Doanh nghiệp Địa chỉ website
Công ty dịch vụ lữ hành Saigontourist
Công ty cổ phần du lịch Việt Nam - Hà Nội
Công ty dịch vụ du lịch Bến Thành
Công ty du lịch Hòa Bình
Công ty cổ phần Du lịch Việt Nam Vitour
Công ty TNHH lữ hành Hương Giang
Công ty lữ hành Hanoitourist
Công ty dịch vụ lữ hành Hạ Long Travel
(Nguồn: Internet)
Theo kết quả khảo sát của Bộ Công Thương năm 2008, trong số 132 đơn vị tổ
chức trả lời phiếu điều tra, có 122 đơn vị có thu thập thông tin cá nhân của khách
hàng. Trong đó, các doanh nghiệp và hiệp hội kinh doanh dịch vụ du lịch có tỉ lệ thu
thập thông tin cá nhân qua mạng là cao nhất (100%). Tất cả 14 doanh nghiệp kinh
doanh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch tham gia cuộc khảo sát đều trả lời có thu thập
thông tin cá nhân. Kết quả này cũng phù hợp với xu thế ứng dụng mạnh mẽ marketing
điện tử vào hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp du lịch. Bên cạnh đó, các
doanh nghiệp cũng đã chú trọng và chủ động hơn trong việc khảo sát và bảo vệ thông
tin dữ liệu cá nhân của khách hàng. Kết quả này cho thấy việc thu thập thông tin và
bảo vệ dữ liệu cá nhân đã trở thành một trong những hoạt động phổ biến của các doanh
nghiệp, đặc biệt là tại các doanh nghiệp có ứng dụng marketing điện tử thường xuyên
trong hoạt động của mình như các doanh nghiệp thuộc ngành dịch vụ du lịch.
Bảng 5: Các doanh nghiệp du lịch tham gia khảo sát về bảo vệ dữ liệu cá
nhân
32
(Nguồn: Báo cáo Thương mại điện tử năm 2008)
Cũng theo thống kê điều tra trong báo cáo Thương mại điện tử năm 2008, có đến
93% doanh nghiệp du lịch thu thập địa chỉ email của khách hàng nhưng tỷ lệ thu thập
địa chỉ liên lạc lại thấp nhất (57%). Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp cũng đã tiến
hành thu thập thông tin về số tài khoản của khách hàng. 77% doanh nghiệp dịch vụ du
lịch trả lời là có thu thập số tài khoản của khách hàng và 100% doanh nghiệp cho biết
có thông báo trước việc sử dụng thông tin cá nhân của khách hàng. Việc thu thập
thông tin khách hàng thông qua các công cụ hỗ trợ của marketing điện tử như website,
email marketing…đã tạo ra điều kiện thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp, không
những trong hoạt động bán hàng, cung cấp dịch vụ, mà còn trong việc phát hiện ra nhu
cầu tiềm ẩn của thị trường. Từ đó, doanh nghiệp có thể dễ dàng hơn trong việc nghiên
cứu đưa ra những loại hình dịch vụ đáp ứng được những nhu cầu đó.
Bảng 6: Các loại thông tin đƣợc doanh nghiệp thu thập
33
(Nguồn: Báo cáo Thương mại điện tử năm 2008)
Trong những năm gần đây, nhờ áp dụng nhiều hơn công nghệ thông tin hiện đại
và nắm bắt được xu hướng nhu cầu của thị trường, các doanh nghiệp du lịch đã chú
trọng đầu tư và phát triển nhiều hơn công cụ marketing điện tử. Do đó, hiệu quả của
việc sử dụng marketing điện tử trong hoạt động quảng bá và kinh doanh của các doanh
nghiệp được nâng cao hơn. Ví dụ như nhiều doanh nghiệp đã tập trung vào việc cập
nhật email của những đối tác khách hàng tiềm năng và thường xuyên loại bỏ những
account “chết” làm tốn phí gửi thư và thời gian vô ích. Ngoài ra, việc sử dụng hiệu quả
và phát triển website cũng chính là một công cụ hữu hiệu để các doanh nghiệp mở
rộng thị trường tour du lịch, và còn phù hợp với đặc thù của ngành dịch vụ du lịch đó
là thường xuyên tiếp xúc và làm việc với những khách hàng ở xa về địa lý hay ở trên
toàn thế giới.
Tóm lại, tuy mới áp dụng loại hình marketing điện tử trong thời gian không lâu,
nhưng một số doanh nghiệp du lịch Việt Nam đã nắm bắt được cơ hội và nhận thức
được tầm quan trọng của loại hình marketing hiện đại này.
3.1.2. Những hạn chế và thách thức tồn tại
Bên cạnh những thành tựu đạt được, việc ứng dụng marketing điện tử của các
doanh nghiệp du lịch Việt Nam hiện nay còn gặp phải rất nhiều hạn chế và thách thức
lớn.
34
Thứ nhất, theo thống kê trong Báo cáo thương mại điện tử năm 2008, tỷ lệ các
doanh nghiệp du lịch có cơ chế giải quyết tranh chấp, khiếu nại của khách hàng liên
quan đến việc sử dụng thông tin cá nhân còn rất thấp, mới chỉ chiếm 7%. Bên cạnh đó,
các doanh nghiệp du lịch cũng chưa chú trọng việc xây dựng chặt chẽ và tiến hành phổ
biến quy chế về thu thập và bảo vệ thông tin cá nhân trong hoạt động marketing điện
tử .
Bảng 7: Kết quả điều tra về bảo vệ dữ liệu cá nhân tại doanh nghiệp
(Nguồn: Báo cáo Thương mại điện tử năm 2008)
Do những điểm yếu còn tồn tại nêu trên nên tình hình gian lận lừa đảo chiếm
đoạt tài sản dưới hình thức tội phạm công nghệ cao có xu hướng tăng và phát triển
trong những năm gần đây. Theo thống kê của bộ công thương, trong năm 2008, lực
lượng cảnh sát điều tra tội phạm kinh tế đã bắt giữ 42 vụ (gây thiệt hại 1.978 tỷ đồng
và 11,3 triệu USD), khởi tố điều tra 35 vụ, 75 bị can, thu hồi 120 tỷ đồng; qua đó đã
phát hiện nhiều thủ đoạn tinh vi của đối tượng phạm tội. Đối tượng vi phạm chủ yếu là
những người nước ngoài vào Việt Nam đi du lịch sử dụng hộ chiếu, thẻ tín dụng giả để
thanh toán các dịch vụ khách sạn, mua vé máy bay, chiếm đoạt tiền, hay ăn cắp thông
tin cá nhân trong tài khoản, in thẻ giả lấy trộm tiền, tấn công vào các trang web du lịch
bán hàng trên mạng lấy thông tin thẻ tín dụng nước ngoài để bán trên mạng kiếm lời.
35
Một ví dụ điển hình về hình thức và loại hình tội phạm này là vụ án lừa đảo chiếm
đoạt tài sản đối với công ty Cổ phần Hàng không Pacific Airlines.
Ngày 6/6/2008, Cục 15 - Bộ Công an đã hoàn tất bản kết luận điều tra vụ án lừa
đảo, chiếm đoạt tài sản đối với Công ty cổ phần Hàng không Pacific Airlines (Công ty
PA), chuyển hồ sơ đến Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) tối cao đề nghị truy tố 2 đối
tượng là
của Công ty PA về việc bị lừa đảo chiếm đoạt tài
sản. Từ tháng 2/2007, Công ty PA đã triển khai bán vé máy bay qua mạng Internet
theo phương thức tất cả những người có loại thẻ tín dụng VISA, MASTER, JCB… đều
có thể mua vé thông qua website của công ty. Việc thanh toán được tiến hành thông
qua các tổ chức phát hành thẻ quốc tế và Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
(Vietcombank). Tới thời điểm ngày 12/9/2007, Công ty PA được Ngân hàng Ngoại
thương thông báo, có tới 545 giao dịch với tổng số tiền gần 1,1 tỷ đồng và hơn 14.000
USD bị chủ thẻ khiếu nại không thực hiện giao dịch, và tổ chức phát hành thẻ quốc tế
đã chính thức từ chối thanh toán cho Công ty PA số tiền hơn 440 triệu đồng và gần
2.700 USD. Lí do từ chối là các chủ thẻ đã không thực hiện các giao dịch trên. Trong
số các giao dịch bị khiếu nại, Công ty PA nghi vấn 417 giao dịch trị giá 491.316.000
đồng và gần 3.500 USD do Công ty Hoàng Yến Minh thực hiện. Ông Trần Văn Hạ,
trưởng phòng Phòng chống tội phạm công nghệ cao (thuộc C15) cho rằng, để xử lí
mạnh tay hơn, mang lại sự ổn định cho môi trường kinh doanh và marketing mạng, cơ
quan chức năng cần sửa đổi các luật liên quan nhằm tăng tính nghiêm minh và có giá
trị răn đe hơn nữa.
Bên cạnh việc kiếm soát an ninh mạng thì hệ thống quảng bá và xúc tiến hỗ trợ
kinh doanh nhờ ứng dụng marketing điện tử của hầu hết các doanh nghiệp du lịch cũng
chưa đạt được hiệu quả cao. Về tổng quan, hệ thống quảng bá doanh nghiệp hiện nay
còn yếu và thiếu, thông tin dàn trải và chưa có sự tập trung liên kết giữa các tổ chức và
doanh nghiệp với nhau. Các sở, ban, ngành cũng có website thông tin du lịch nhưng
chưa đủ mạnh và chuyên nghiệp để có thể cung cấp thông tin đầy đủ về du lịch Việt
Nam, thu hút người truy cập trên toàn cầu. Việc triển khai các giải pháp ứng dụng
36
công nghệ thông tin (CNTT) vào quảng bá du lịch vẫn còn nhiều bất cập. Hiện còn rất
nhiều nhà nghỉ, nhà hàng thiếu kết nối không dây (wifi), hoặc các khách sạn nếu có lắp
đặt thì tiền cước truy cập mạng còn cao gây bất tiện cho du khách. Ngoài ra, chất
lượng đường truyền nhiều khi cũng chưa tốt, nhất là ở các khu vực xa trung tâm.
Thêm nữa, các doanh nghiệp chưa thật sự hiểu biết hết lợi ích từ các giải pháp
CNTT. Đội ngũ kỹ thuật viên, chuyên viên chuyên trách về CNTT còn thiếu và yếu,
phần lớn các doanh nghiệp đều phải thuê công ty thiết kế web bên ngoài quản lý và hỗ
trợ. Đa số các doanh nghiệp không có bộ phận chuyên môn về biên tập nội dung, hình
ảnh và quản trị web, ứng dụng chỉ ở mức cơ bản, không có khả năng độc lập với phía
đối tác kỹ thuật (nghĩa là bị phụ thuộc nhiều vì thiếu chuyên môn). Doanh nghiệp cũng
khó khăn và còn lúng túng khi sử dụng công cụ tìm kiếm (SEM) và phải chọn những
trang web tốt nhất để quảng bá hình ảnh doanh nghiệp của mình.
Tuy số lượng các trang web du lịch có tăng lên đáng kể, nhưng theo khảo sát và
đánh giá, thực trạng tồn tại vẫn là khách du lịch, đặc biệt là thị trường khách du lịch
trong nước vẫn thường tìm hiểu và lựa chọn thông tin qua các kênh trực tiếp như các
nhà tổ chức tour, qua kinh nghiệm, qua “truyền miệng”…nhiều hơn là tham khảo từ
các trang web. Có nhiều nguyên nhân nhưng nguyên nhân cơ bản đó là do việc xây
dựng và phát triển website các doanh nghiệp du lịch chưa đạt được hiệu quả cao. Các
trang web chưa được quảng bá rộng rãi, còn đơn điệu về hình thức, trình bày theo lối
chữ nhiều hình ít, nội dung còn sơ sài, không được cập nhật kịp thời và thiếu những
thông tin cần thiết cung cấp cho khách hàng.
Đối với một trang web, thì hình thức bên ngoài cũng là một yếu tố rất quan
trọng. Thực tế cho thấy, hầu hết các doanh nghiệp du lịch hiện nay chưa có được một
trang web đáp ứng được yêu cầu về hình thức trình bày. Đa số các website còn quá
đơn giản và sơ sài, thiếu thông tin cụ thể và không có nhiều hình ảnh đẹp về địa điểm
du lịch để hấp dẫn người xem. Một vài ví dụ như trang web quảng bá du lịch Hà Nội :
công ty du lịch Thanh Thanh:
37
Ngược lại, bên cạnh đó lại có một số website có quá nhiều hình ảnh và hiệu ứng
hình ảnh động, giao diện phức tạp và thông tin quá nhiều làm trang web bị nặng, hiển
thị chậm làm người xem mất kiên nhẫn và lúng túng trong việc tìm kiếm thông tin cần
tìm, ví dụ như website của công ty Bến Thành Tourist:
hay công ty lữ hành quốc tế Lạc Việt:
Về mặt nội dung, nhiều trang web được ra mắt một thời gian nhưng lại bị rơi
vào tình trạng “đóng băng” hay ngừng hoạt động do các doanh nghiệp không cập nhật
thông tin thường xuyên, không có những hoạt động quảng bá hay marketing trang web
liên tục, khiến cho việc xây dựng trang web trở nên rất lãng phí và vô ích. Website của
công ty du lịch sông Hồng: và công ty du lịch và
thương mại Gia Lê: ện nay đều không còn hoạt động
và truy cập vào được.
Về mặt tiện ích, nhiều website chưa có đầy đủ những chức năng tương tác và
hỗ trợ khách hàng, không coi trọng việc thu thập thông tin ý kiến phản hồi từ phía
khách hàng mà chỉ chú trọng vào việc quảng cáo trên website. Một số trang web có
hòm thư hỗ trợ khách hàng nhưng lại không thường xuyên kiểm tra và trả lời thư.
Tóm lại, thực tế hiện nay là kết quả của những hoạt động marketing điện tử đó
còn bị hạn chế nhiều. Việc ứng dụng marketing điện tử chưa đồng bộ và hiệu quả
không những không tạo ra ích lợi cho doanh nghiệp mà còn là một rào cản tạo ra
không ít khó khăn cho các doanh nghiệp hiện nay.
3.2. Đánh giá hiệu quả ứng dụng marketing điện tử của một doanh
nghiệp du lịch điển hình
Trên đây là những đánh giá chung nhất về tình hình ứng dụng marketing điện tử
vào hoạt động kinh doanh của các công ty du lịch. Trong phần này, nhóm tác giả đưa
ra những đánh giá cụ thể hơn về một trang web du lịch điển hình, đó là trang web
của Công ty du lịch Hạ Long.
Được thành lập vào năm 2002 với giấy phép của Tổ chức điều hành du lịch thế
giới 0451/2005/TCDL, Hạ Long Travel đã thu hút được một số lượng lớn khách du
38
lịch từ Pháp, Mỹ, Canada, Thụy Sĩ, Hà Lan, Nhật Bản, Đức, Singapore, Tây Ban
Nha…Doanh nghiệp này chủ yếu tổ chức các tour du lịch ở Việt Nam, Lào và
Campuchia theo yêu cầu của khách hàng. Tuy là một doanh nghiệp vừa và nhỏ, được
thành lập không lâu nhưng Hạ Long Travel đã đạt được những thành công trong kinh
doanh chính nhờ vào sự đổi mới trong hình thức marketing và có sự đầu tư thích đáng
vào việc ứng dụng marketing điện tử như hiện nay.
Trong quá trình nghiên cứu và làm đề tài, nhóm tác giả đã đi khảo sát thực tế và
làm việc trực tiếp với doanh nghiệp du lịch Hạ Long Travel tại Hà Nội. Nhóm tác giả
đã thực hiện cuộc phỏng vấn trực tiếp với giám đốc doanh nghiệp là ông Đỗ Tống
Quân về khả năng ứng dụng marketing điện tử của doanh nghiệp. Do khuôn khổ đề tài
hạn chế, chúng tôi chỉ đưa ra những đánh giá đối với một số công cụ marketing điện tử
chính mà doanh nghiệp Hạ Long Travel đang áp dụng hiện nay, gồm có: website, sử
dụng công cụ tìm kiếm (SEM), quảng cáo trên trang web khác và email-marketing.
Trong đó, trang web là công cụ trợ giúp quan trọng và mang lại hiệu quả rất lớn cho
doanh nghiệp; do đó, nhóm tác giả sẽ đánh giá cụ thể và chi tiết hơn về hiệu quả sử
dụng trang web của doanh nghiệp.
3.2.1. Website:
Website được ra đời từ năm 2003 (một năm sau khi doanh nghiệp được thành
lập). Ưu điểm dễ dàng nhận thấy đó là tên miền của trang web trùng với tên công ty,
đơn giản và dễ nhớ đối với khách hàng. Ngoài ra, tốc độ truy cập vào trang web khá
nhanh và ổn định.
Nhóm tác giả đánh giá những điểm mạnh và điểm yếu của website dựa vào
những tiêu chí cụ thể sau: Giao diện, nội dung, tính năng và tiện ích.
39
(Nguồn:
Giao diện:
- Banner được thiết kế bằng hiệu ứng hình ảnh động
- Có hình ảnh minh họa cho các tour du lịch
- Giao diện khá đơn giản và dễ dàng sử dụng
- Tuy nhiên, ở các giao diện khác vẫn còn trình bày theo lối nhiều chữ,
thiếu hình ảnh minh họa.
- Hình ảnh về các địa điểm du lịch
chưa phong phú, chất lượng ảnh
chưa cao, kích thước ảnh cũng quá
nhỏ (195 pixels x 102 pixels), do đó không thu hút và hấp dẫn người
xem.
- Có quá nhiều thông tin trên một trang web (trang chủ) cho nên dễ
làm người xem bị rối mắt và khó tìm kiếm thông tin.
Nội dung:
40
- Có thông tin giới thiệu khái quát chung về công ty Halong Travel
(About us), có thông tin liên lạc đầy đủ bao gồm: số điện thoại, fax, đường dây
nóng, email, website, địa chỉ trụ sở chính, địa chỉ đại lý bán hàng, đặc biệt có thêm
bản đồ minh họa. Điều này thuận tiện hơn cho khách hàng tìm đại lý bán hàng,
nhất là đối với khách du lịch nước ngoài.
41
(Nguồn:
- Việc đứng đầu phụ trách trực tiếp về trang web do chính giám đốc công ty
đảm nhận; vì vậy, thông tin về các tour du lịch khá đầy đủ bao gồm: lịch trình
tour cụ thể, giá cả…Ngoài ra, các thông tin luôn được cập nhật kịp thời và
chính xác.
- Có thông tin giới thiệu chung về địa lý, khí hậu và đất nước Việt Nam nhưng
thông tin chưa đầy đủ và không có hình ảnh minh họa.
42
- Có thông tin giới thiệu về Vịnh Hạ Long – 1 trong 7 kỳ quan thiên nhiên của
Thế Giới.
- Có những lời khuyên hữu ích dành cho khách du lịch.
- Có ghi lại những ý kiến phản hồi từ phía khách hàng.
Tính năng và tiện ích:
- Một đặc điểm đặc biệt của trang web này đó là không có phiên bản
bằng tiếng Việt. Nguyên nhân là do khách hàng mục tiêu của doanh
nghiệp là khách du lịch nước ngoài, chứ không phải khách du lịch
trong nước. Do đó, ngoài tiếng Anh, trang web còn có các phiên bản
dịch sang 4 thứ tiếng khác là: tiếng Pháp, tiếng Đức, tiếng Ý và tiếng
Tây Ban Nha.
43
- Trên thanh công cụ có các tiện ích truy cập vào: trang chủ (Home),
chương trình tour du lịch (Tour Program), dịch vụ khách sạn (Hotel
Services), phương tiện (Transport), du thuyền (Cruise), và có cả chức
năng giúp khách hàng liên lạc được với doanh nghiệp (Contact us). Đây
là một trong những công cụ quan trọng nhất giúp doanh nghiệp có thể
liên lạc trực tiếp, nhận thông tin phản hồi và hỗ trợ khách hàng một cách
nhanh chóng và thuận tiện.
- Chức năng giao dịch đặt hàng đơn giản và tiện lợi , dễ sử dụng cho
khách hàng.
44
- Tuy nhiên, không có công cụ tìm kiếm nhanh thông tin trên trang web
dựa vào từ khóa, điều này làm khách hàng sẽ bị lúng túng mà mất nhiều
thời gian hơn khi tìm kiếm thông tin.
- Chức năng hỗ trợ khách hàng nằm ngay trên thanh công cụ và khách
hàng có thể dễ dàng sử dụng. Theo ông Đỗ Tống Quân, giám đốc doanh
nghiệp, bộ phận chuyên trách về trang web luôn thường xuyên kiểm tra
hòm thư và gửi trả lời. Ngoài ra, công ty cũng có đường dây nóng luôn
hoạt động 24/24 để cung cấp thông tin cho khách hàng, nhất là khách
hàng nước ngoài có múi giờ chênh lệch với Việt Nam.
3.2.2. Sử dụng và tối ƣu hóa công cụ tìm kiếm:
Đây là một trong những công cụ hỗ trợ đắc lực nhất trong việc quảng bá
website hay còn gọi là “marketing website” của doanh nghiệp.
Công ty đã đăng ký lên Google Search địa chỉ website của công ty
từ khóa tìm kiếm và giá cả thỏa thuận để đưa trang web
lên top đầu trong trang tìm kiếm trên Google. Bên cạnh đó, giám đốc công ty cũng cho
biết để có thể duy trì hiệu quả công cụ này, công ty còn tập trung khai thác và tối ưu
hóa cỗ máy tìm kiếm (hay còn gọi là phương thức SEO – Search Eniges
Optimization). Ông Đỗ Tống Quân cũng cho biết trước đây khi mới thành lập, tên
công ty là “Công ty du lịch Đường Xanh”; tuy nhiên, do nhận thấy nếu để tên công ty
như vậy sẽ khiến cho việc tiếp cận và thu hút khách du lịch, đặc biệt là khách nước
ngoài sẽ gặp nhiều khó khăn nên công ty đã thay đổi tên thành Hạ Long Travel. Với
cụm từ khóa “Ha Long travel”, theo kết quả tìm kiếm của Google thì website
hiện ra ngay ở kết quả đầu tiên. Vì vậy, chính việc thay
đổi tên công ty thành Hạ Long Travel và đặt tên miền cho website là
đã giúp trang web của công ty dễ dàng xuất hiện ở
những kết quả đầu tiên trên webstie Google Search và được nhiều khách du lịch biết
đến và truy cập nhiều hơn.
45
Theo số liệu do công ty cung cấp, hiện nay tổng số lượng lượt người truy cập
vào trang web là 34.000 lượt. Tuy nhiên, ông Đỗ Tống Quân cũng cho biết công cụ
đếm số lượt khách truy cập vào trang web thường xuyên bị hack; do đó, con số thống
kê trên chưa thực sự chính xác và chỉ mang tính tương đối. Việc này cũng cho thấy
rằng khả năng bảo mật website nói riêng và an ninh mạng nói chung của công ty còn
chưa được cao và website vẫn có nguy cơ bị hacker phá hoại nếu không được tăng
cường hệ thống bảo mật.
3.2.3. Quảng cáo trên trang web khác:
Quảng cáo trên trang web khác cũng chính là một công cụ khá đơn giản và
thuận tiện để doanh nghiệp marketing website của mình. Công ty Hạ Long Travel
cũng đã sử dụng công cụ quảng cáo này, và đã đăng banner quảng cáo trang web công
ty lên 2 website có lượng người truy cập khá lớn đó là:
và với giá thỏa thuận là gần 20 triệu đồng/tháng. Giám đốc
công ty cho biết, chi phí trên là khá cao đối với công ty, nhưng mức độ hiệu quả thu lại
thấp hơn chi phí bỏ ra (nghĩa là do công cụ này chưa mang lại được lợi nhuận cho
doanh nghiệp). Do đó, Hạ Long Travel đã dừng hợp đồng quảng cáo với 2 website trên
và không còn sử dụng công cụ này nữa.
3.2.4. Email – marketing:
46
Ông Đỗ Tống Quân cho biết công ty của luôn có sẵn một thư mục cơ sở dữ liệu
về thông tin của khách hàng để và đối tác của công ty có thể gửi email và cung cấp
thông tin thường xuyên và thuận tiện hơn. Công ty cũng luôn chú ý bổ sung thêm dữ
liệu thông tin của các khách hàng thường xuyên (1 lần/tháng). Tuy nhiên, doanh
nghiệp chưa chú trọng vào việc phân loại và chọn lọc khách hàng hay tập trung vào
những khách hàng tiềm năng. Do đó, theo đánh giá khách quan của giám đốc doanh
nghiệp, việc gửi thư giới thiệu, quảng cáo khuyến mãi qua email chưa thực sự đạt
được hiệu quả cao mặc dù hình thức này giảm thiểu được chi phí quảng cáo rất nhiều.
Có thể nói rằng, qua những đánh giá chung và nhận xét cụ thể trên về hoạt động
marketing điện tử của công ty du lịch Hạ Long Travel, có thể nhận thấy rằng các
doanh nghiệp du lịch Việt Nam đã tiếp cận với phương thức marketing mới này, và
thực tế đã đạt được một số thành công bước đầu. Tuy nhiên, nét thực trạng nổi bật nhất
hiện nay vẫn là sự thiếu chuyên nghiệp trong khâu tổ chức, sự lúng túng trong việc
thực hiện và rất nhiều những khó khăn, hạn chế mà các doanh nghiệp đang gặp phải
khi ứng dụng công nghệ mới trong hoạt động marketing hiện nay.
4. Nguyên nhân
4.1. Nguyên nhân thành công
Việc áp dụng marketing điện tử vào hoạt động kinh doanh của ngành du lịch
trong thời gian qua tuy chưa thực sự phổ biến nhưng cũng đã mang lại những thành
công bước đầu, để đạt được những thành tựu đó không thể không kể đến những
nguyên nhân sau đây:
Trước hết, ngành du lịch hiện nay đã và đang nhận được sự quan tâm, đầu tư
đáng kể từ phía nhà nước. Trả lời phỏng vấn phóng viên hãng Big Media Group
(vương quốc Bỉ) ngày 16 tháng 3 năm 2001, thủ tướng Phan Văn Khải cho biết:
“Chúng tôi luôn coi du lịch là một ngành có vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc
dân. Phát huy những thế mạnh của du lịch Việt Nam còn là một đòi hỏi bức thiết nhằm
góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đưa khu vực dịch vụ thành một khu vực chiếm tỷ
lệ ngày càng lớn trong nền kinh tế quốc dân”. Ngay từ năm 2000, Đảng và nhà nước
ta đã chú trọng xây dựng những chiến lược, thành lập những tổ chức chuyên ngành
nhằm phát triển du lịch Việt Nam. Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch, hay Tổng cục du
lịch Việt Nam được ra đời cũng vì lý do này. Bên cạnh đó, nhiều chương trình hành
47
động quốc gia về du lịch đã được triển khai như: “Chương trình quốc gia về du lịch
giai đoạn 2001-2005” với nội dung chính là triển khai 4 dự án: xúc tiến du lịch Việt
Nam; nâng cao chất lượng và đa dạng hóa các sản phẩm du lịch; đầu tư cơ sở vật chất
kỹ thuật cho ngành du lịch; xây dựng cơ chế chính sách và phát triển nguồn nhân lực
du lịch; hay “Chương trình hành động quốc gia về du lịch giai đoạn 2006 – 2010”
được Phó Thủ tướng Vũ Khoan phê duyệt ngày 29/5/2006 với những nội dung chính
như quảng bá, xúc tiến du lịch, thúc đẩy hội nhập quốc tế, nâng cao nhận thức của toàn
dân về phát triển du lịch, nâng cao hình ảnh của Việt Nam trên trường quốc tế, thu hút
các nguồn lực trong và ngoài nước đầu tư phát triển du lịch, đa dạng hoá các sản phẩm
du lịch, đào tạo nguồn nhân lực…
Bên cạnh sự quan tâm của nhà nước, Tổng cục du lịch Việt Nam cũng đã đề ra
các biện pháp nhằm nâng cấp cơ sở hạ tầng, cung cấp sự hỗ trợ tốt nhất cho ngành du
lịch. Năm 2008, khi nền kinh tế Việt Nam đang lao đao vì sự ảnh hưởng của cuộc
khủng hoảng kinh tế toàn cầu thì Chính phủ vẫn quyết định cấp cho Bộ Văn hóa - Thể
thao và Du lịch 30 tỉ đồng để thực hiện công tác quảng bá. Mặc dù nguồn vốn đầu tư
đó vẫn chưa thể so sánh được với nhiều nước Đông Nam Á khác như Singapore, Thái
Lan nhưng nó cũng chứng tỏ ngành kinh tế này đang rất được Nhà nước ta kỳ vọng và
đầu tư. Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch nhất trí quảng bá trên kênh truyền hình và
trang web BBC (Anh) và giao cho Cục Hợp tác quốc tế chủ trì, tìm hiểu và đàm phán
với một số kênh truyền hình, báo chí của Nhật, Mỹ, Trung Quốc, Nga…
Hiện nay, marketing điện tử đang ngày càng trở nên hữu hiệu trong việc quảng
bá cho ngành du lịch còn được lý giải bởi sự phát triển chóng mặt của công nghệ thông
tin và các ngành công nghệ hiện đại khác. Đây vừa là nguyên nhân vừa là tiền đề quan
trọng để marketing điện tử mở rộng lĩnh vực hoạt động của nó. Công nghệ thông tin
ngày nay đã đạt được những thành tựu vô cùng to lớn, rất nhiều phần mềm, công cụ
hữu dụng, tiện ích với chi phí mua bản quyền, lắp đặt ngày càng cạnh tranh, hỗ trợ rất
nhiều cho doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh của họ. Thêm vào đó, Internet
ngày càng trở nên phổ biến; số lượng người sử dụng Internet ngày càng tăng theo cấp
số nhân, tạo tiền đề cho các website, các công cụ tìm kiếm bằng Google, hay các email
marketing được tiếp nhận một cách dễ dàng hơn. Chính nhờ có khoa học công nghệ
mà các công cụ của marketing điện tử được ứng dụng rộng rãi hơn và hiệu quả hơn.
48
Những nguyên nhân kể trên là những nguyên nhân cơ bản nhất dẫn tới sự thành
công của marketing điện tử và sự ứng dụng phổ biến của marketing điện tử trong
ngành du lịch nói riêng và mọi ngành kinh tế nói chung. Bên cạnh đó, còn có những sự
hỗ trợ khác, như vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhu cầu và thói quen tra cứu và
thanh toán qua mạng của dân cư ngày càng tăng, ... dẫn tới sự phát triển và lớn mạnh
của marketing điện tử. Trong thời gian tới, chúng ta cần tiếp tục phát huy những thế
mạnh này để tạo những bước tiến xa hơn nữa cho ngành du lịch Việt Nam.
4.2. Nguyên nhân của những khó khăn hạn chế
Bên cạnh những nguyên nhân đưa tới sự thành công, chúng ta còn nên quan tâm
tới lý do của những khó khăn hạn chế mà marketing điện tử gặp phải khi tiếp cận với
ngành du lịch ở Việt Nam. Trên thực tế, tồn tại rất nhiều nguyên nhân nhưng theo
nhóm tác giả, có 2 nhóm nguyên nhân chính, đó là nhóm nguyên nhân thuộc nội tại
của các doanh nghiệp Việt Nam và nhóm nguyên nhân thuộc môi trường kinh doanh.
4.2.1. Các nguyên nhân thuộc môi trƣờng nội tại của các doanh
nghiệp du lịch Việt Nam
Nguyên nhân đầu tiên, cũng là nguyên nhân quan trọng nhất, dù không mới
nhưng luôn luôn khiến rất nhiều các công ty du lịch Việt Nam đau đầu chính là vấn đề
về vốn. Với số vốn hạn chế, các doanh nghiệp Việt Nam muốn đầu tư nâng cao hệ
thống máy móc, mua các phần mềm hiện đại, đặt banner trên các trang web nổi tiếng
hay thuê các lập trình viên giỏi của nước ngoài để nâng cao chất lượng của website
công ty mình… cũng là một bài toán khó khăn. Từ đó việc các trang web du lịch Việt
Nam có khả năng quảng bá kém hiệu quả, không đủ sức cạnh tranh với các doanh
nghiệp du lịch nước ngoài.
Bên cạnh vốn, yêu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao của các công ty du
lịch Việt Nam cũng chưa được đáp ứng. Yếu kém về ngoại ngữ, ứng dụng tin học
trong marketing, cũng như thiếu kiến thức về các nền văn hóa trên thế giới là những
thiếu sót khá phổ biến của các hướng dẫn viên Việt Nam cũng như đội ngũ làm
marketing du lịch. Điều này được phản ánh rất rõ qua những lời phàn nàn của các du
khách nước ngoài về các trang web du lịch của Việt Nam. Ví dụ, nhiều trang web chỉ
có tiếng Việt mà không có một thứ tiếng nào khác, hoặc chỉ có tiếng Anh, tiếng
Pháp… mà ngay đến tiếng Việt lại không có, và bên cạnh đó, còn có rất nhiều lời chê
49
trách khác dành cho các trang web du lịch Việt Nam như chỉ dẫn thiếu cụ thể, thông
tin chưa chính xác,.. Đúng ra khi có trong tay một công cụ quảng bá xúc tiến hiệu quả,
tiết kiệm như marketing điện tử, các công ty du lịch nên đầu tư đồng bộ hơn để đồng
thời có một đội ngũ nhân viên marketing được trang bị đầy đủ kiến thức và kĩ năng
cần thiết.
Trong khi thiếu vốn và nhân lực là những yếu tố khiến marketing điện tử trong
ngành du lịch gặp khá nhiều khó khăn thì nguyên nhân lớn nhất lại nằm ở chính bản
thân những nhà quản lý của các công ty du lịch. Các nhà quản lý của các công ty du
lịch Việt Nam hiện nay vẫn chưa thực sự chú trọng và thấy được tầm quan trọng của
marketing điện tử đối với ngành này. Một phần vì lợi ích mà marketing điện tử mang
lại cần được xem xét trong một thời gian dài, chứ không phải một sớm một chiều, mặt
khác, họ vẫn quá quen với các hình thức marketing truyền thống và tâm lý ngại thay
đổi. Những điều đó dẫn tới việc các công ty du lịch thiếu những mục tiêu đầu tư cụ thể
và hiển nhiên là sẽ dễ dàng rơi vào tình trạng phân bổ nguồn vốn không hợp lý.
Marketing điện tử vẫn chưa được đầu tư thích đáng với tầm quan trọng của nó.
Trên đây là những nguyên nhân thuộc môi trường nội tại của mỗi công ty du
lịch. Các công ty du lịch cần có những thay đổi để khắc phục những thiếu sót này, để
marketing điện tử có thể phát huy hết tất cả những tác dụng tiềm ẩn của nó đối với
ngành du lịch Việt Nam.
4.2.2. Các nguyên nhân thuộc môi trƣờng kinh doanh
Nhìn chung hầu hết tất cả các công ty du lịch ở nước ta đã có sự chú trọng và
đầu tư nhất định đến việc quảng bá hình ảnh đất nước Việt Nam tươi đẹp và thân thiện
đối với du khách nước ngoài song trên thực tế, hiệu quả đạt được vẫn chưa cao. Lượng
khách quốc tế đến Việt Nam thăm quan, nghỉ dưỡng đều tăng qua hàng năm nhưng họ
lại giảm thời gian lưu trú và đặc biệt là tỷ lệ số người quay lại Việt Nam lần thứ 2 vô
cùng nhỏ. Có thể thấy, sự quan tâm đầu tư của các doanh nghiệp dành cho việc quảng
bá xúc tiến trong ngành du lịch là đáng kể nhưng kế hoạch và phân bổ đầu tư lại chưa
thực sự hợp lý. Mặt bằng chung các doanh nghiệp du lịch đều như vậy cho nên khó tạo
ra tính cạnh tranh cao hay sự bứt phá ở một vài doanh nghiệp, sự sáng tạo trong những
phương thức quảng bá mới…
50
Hơn nữa, đối với môi trường kinh doanh của Việt Nam nói chung và ngành
du lịch nói riêng, nguyên nhân rất lớn cản trở sự phát triển của một hình thức
marketing mới mẻ như marketing điện tử chính là hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện.
Do marketing điện tử mới chỉ xuất hiện ở Việt Nam chưa lâu nên các điều luật cho
hình thức quảng bá này còn thiếu chặt chẽ, vấn đề an ninh mạng chưa được đảm bảo,
cơ sở dữ liệu chưa thống nhất, còn nhiều kẽ hở tạo cơ hội cho nhiều doanh nghiệp bất
chính phạm luật và lách luật. Chính vì thế, các công ty du lịch Việt Nam vẫn còn ngần
ngại và chưa có sự đầu tư thích đáng vào các hoạt động ứng dụng marketing điện tử
của mình.
51
CHƢƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỀ XUẤT ĐỂ NÂNG CAO NĂNG LỰC
ỨNG DỤNG MARKETING ĐIỆN TỬ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP DU LỊCH VIỆT NAM
1. Phƣơng hƣớng phát triển ngành công nghiệp dịch vụ du lịch Việt Nam
Trong những năm gần đây, ngành du lịch luôn được đánh giá là một trong số
những ngành kinh tế mũi nhọn của nền kinh tế Việt Nam. Phát triển ngành du lịch,
nâng cao chất lượng dịch vụ của ngành du lịch Việt Nam được coi là bài toán quan
trọng đặt ra trong thời điểm này. Để giải quyết bài toán này, chúng ta cần có những
phương hướng gồm những mục tiêu chung, mục tiêu cụ thể, và những định hướng phát
triển cho ngành du lịch trong giai đoạn sắp tới.
1.1. Mục tiêu chung
Phát triển du lịch trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn trên cơ sở khai thác có
hiệu quả lợi thế về điều kiện tự nhiên, sinh thái, truyền thống văn hoá lịch sử, huy
động tối đa nguồn lực trong nước và tranh thủ sự hợp tác, hỗ trợ quốc tế, góp phần
thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Từng bước đưa nước ta trở thành
một trung tâm du lịch có tầm cỡ của khu vực, phấn đấu đạt đến năm 2012 ngành du
lịch sẽ đạt và vượt các chỉ tiêu đã đề ra trong “Chiến lược Phát triển Du lịch Việt Nam
giai đoạn 2001-2010”.
1.2. Mục tiêu cụ thể
Về đón khách quốc tế: phấn đấu đến năm 2010, Du lịch Việt Nam sẽ đón được
5,5-6,0 triệu lượt khách quốc tế với nhịp độ tăng trưởng trung bình đạt 11,4%, 25 triệu
lượt khách du lịch nội địa.
Về thu nhập du lịch: phấn đấu năm 2010, doanh thu du lịch đạt 4,0 - 4,5 tỷ
USD, đưa tổng sản phẩm du lịch (GDP) năm 2010 đạt 5,3% tổng GDP của cả nước với
tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đạt 11,0 – 11,5%/năm.
Về phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch: điều tra, lập quy hoạch và đầu
tư xây dựng và hoàn thiện 4 khu du lịch tổng hợp quốc gia và 16 khu du lịch chuyên
đề quốc gia; nâng cấp các tuyến điểm du lịch quốc gia và quốc tế, các khu du lịch có ý
nghĩa vùng và địa phương; đầu tư xây mới và nâng cấp hệ thống khách sạn, phấn đấu
đến năm 2010 có trên 250.000 phòng khách sạn, đáp ứng nhu cầu lưu trú của khách.
52
Về tạo việc làm cho xã hội: đến năm 2010 Du lịch tạo 1,4 triệu việc làm cho
xã hội, trong đó có 350.000 việc làm trực tiếp.
Phấn đấu đến năm 2020 đưa Việt Nam trở thành một trong những nước có
ngành du lịch phát triển hàng đầu trong khu vực.
1.3. Những định hƣớng phát triển cho ngành du lịch
1.3.1. Phát triển một số lĩnh vực
Về thị trƣờng: Ngành du lịch cần biết tận dụng khai thác khách từ các thị
trường quốc tế ở khu vực Đông Á - Thái Bình Dương, Tây Âu, Bắc Mỹ, chú trọng các
thị trường ASEAN, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ, Pháp, Đức, Anh, kết hợp
khai thác các thị trường ở Bắc Á, Bắc Âu, Úc, New Zealand, các nước SNG và Đông
Âu. Bên cạnh đó, ngành du lịch cũng cần phải chú trọng phát triển và khai thác thị
trường du lịch nội địa, phát huy tốt nhất lợi thế phát triển du lịch từng địa phương, góp
phần nâng cao dân trí, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
Về đầu tƣ phát triển du lịch: Đầu tư phát triển du lịch phải kết hợp tốt việc sử
dụng nguồn đầu tư từ ngân sách nhà nước với việc khai thác, sử dụng nguồn vốn nước
ngoài và huy động nguồn lực trong dân theo phương châm xã hội hoá phát triển du
lịch. Kết hợp đầu tư nâng cấp, phát triển các điểm tham quan du lịch với đầu tư cho
tuyên truyền, quảng bá và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực du lịch để tạo ra các sản
phẩm du lịch hấp dẫn, mang tính đặc thù cho từng vùng du lịch và cả nước. Ngành du
lịch cũng cần đầu tư mạnh và có hiệu quả tại các vùng du lịch trên cả nước.
Về phát triển nguồn nhân lực du lịch và nghiên cứu ứng dụng khoa học,
công nghệ: Biện pháp hữu hiệu nhất để phát triển nguồn nhân lực du lịch chính là xây
dựng hệ thống cơ sở đào tạo nguồn nhân lực du lịch, đổi mới chương trình, nội dung
và phương pháp đào tạo theo chuẩn hoá quốc gia cho ngành du lịch; gắn lý thuyết với
thực hành; đẩy mạnh công tác nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng khoa học
công nghệ du lịch tiên tiến phục vụ phát triển du lịch và ứng dụng các thành quả khoa
học và công nghệ vào hoạt động quản lý và kinh doanh du lịch.
Về xúc tiến, tuyên truyền quảng bá du lịch: Ngành du lịch cần đẩy mạnh xúc
tiến, tuyên truyền, quảng bá du lịch với các hình thức linh hoạt; phối hợp chặt chẽ giữa
các cấp, các ngành; tranh thủ hợp tác quốc tế trong hoạt động xúc tiến du lịch ở trong
53
và ngoài nước, từng bước tạo dựng và nâng cao hình ảnh du lịch Việt Nam trên trường
quốc tế.
Về hội nhập, hợp tác quốc tế về du lịch: Việt Nam cần tăng cường củng cố và
mở rộng hợp tác song phương và hợp tác đa phương với các tổ chức quốc tế, các nước
có khả năng và kinh nghiệm phát triển du lịch để thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài vào các khu du lịch, các dự án tạo sản phẩm du lịch đặc thù, chất lượng cao.
1.3.2. Phát triển các vùng du lịch
Các vùng du lịch Việt Nam chia ra lảm ba vùng chính: vùng du lịch Bắc Bộ
(gồm các tỉnh từ Hà Giang đến Hà Tĩnh, Hà Nội là trung tâm của vùng), Vùng du lịch
Bắc Trung Bộ (gồm các tỉnh, thành phố từ Quảng Bình đến Quảng Ngãi, Huế và Đà
Nẵng là trung tâm của vùng), Vùng du lịch Nam Trung Bộ và Nam Bộ (gồm các tỉnh
từ Kon Tum đến Cà Mau, thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm của vùng).
Phát triển du lịch ở các vùng, các địa bàn trọng điểm du lịch, cần phải xuất
phát từ điều kiện, đặc điểm phát triển kinh tế - xã hội của mỗi địa phương và lợi thế về
du lịch của từng vùng nhằm khai thác tốt nhất tiềm năng của cả nước để phát triển du
lịch.
1.3.3. Xã hội hóa phát triển du lịch
Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật chuyên ngành du lịch; tổ
chức tốt việc thực hiện Pháp lệnh Du lịch, đồng thời chuẩn bị các điều kiện cần thiết
để xây dựng Luật Du lịch, tạo môi trường pháp lý cho việc quản lý hoạt động du lịch,
thu hút mọi nguồn lực trong và ngoài nước cho đầu tư phát triển du lịch phù hợp với
tiến trình phát triển và hội nhập kinh tế của cả nước.
Ngoài ra, nhà nước cũng cần chú trọng đầu tư để phát triển kết cấu hạ tầng tại
các địa bàn trọng điểm du lịch, các khu du lịch quốc gia, các điểm du lịch có tiềm năng
phát triển du lịch ở miền núi, vùng sâu, vùng xa... trên cơ sở khai thác các tiềm năng
và thế mạnh của từng vùng, từng lĩnh vực, từng địa phương; kết hợp có hiệu quả việc
sử dụng các nguồn lực của Nhà nước và các nguồn lực từ các thành phần kinh tế vào
đầu tư phát triển du lịch theo chủ trương xã hội hoá phát triển du lịch.
Ngành du lịch cũng cần sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước hoạt động
trong lĩnh vực du lịch, thực hiện chủ trương cổ phần hoá, cho thuê, bán, khoán... doanh
nghiệp nhà nước.
54
Nhà nước cùng với nhân dân cần đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng khoa học và
công nghệ phục vụ phát triển du lịch; chú trọng đúng mức việc ứng dụng và phát triển
công nghệ thông tin du lịch, xây lập hệ thống cơ sở dữ liệu chuyên ngành du lịch đáp
ứng được yêu cầu của sự nghiệp phát triển kinh tế. Thêm vào đó, nhà nước cần có
những biện pháp khuyến khích, tạo điều kiện để các tổ chức, cá nhân tham gia nghiên
cứu và ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào hoạt động kinh doanh du lịch, tăng
cường hợp tác với các tổ chức, cơ quan khoa học trong và ngoài nước để tranh thủ sự
hỗ trợ kỹ thuật, kinh nghiệm, tiếp cận với những thành tựu mới, tiên tiến về khoa học
công nghệ du lịch quốc tế để áp dụng cho du lịch Việt Nam.
Nhà nước cần tăng cường vai trò và hiệu lực quản lý của mình về quản lý môi
trường, tài nguyên du lịch, đặc biệt ở những khu du lịch quốc gia, các điểm du lịch có
sức hấp dẫn cao, các khu du lịch sinh thái; khuyến khích và tạo điều kiện để huy động
sự tham gia và đóng góp của các tổ chức và cá nhân vào việc bảo vệ tài nguyên, môi
trường du lịch, đảm bảo phát triển bền vững của du lịch Việt Nam. Đồng thời, Bộ giáo
dục cần thay đổi, chỉnh sửa, lồng ghép đào tạo và giáo dục về tài nguyên và môi
trường du lịch trong chương trình giảng dạy của hệ thống đào tạo các cấp về du lịch;
nâng cao nhận thức về việc bảo vệ tài nguyên, môi trường du lịch cho cộng đồng dân
cư thông qua chương trình học, các phương tiện thông tin đại chúng. Thực hiện chính
sách xã hội hóa, nhà nước, các bộ ngành và nhân dân cùng làm chính là cách tốt nhất,
nhanh nhất để phát triển du lịch ở Việt Nam.
2. Giải pháp và đề xuất cụ thể về việc nâng cao năng lực ứng dụng marketing
điện tử vào hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp du lịch Việt Nam
Với những mục tiêu và định hướng phát triển ngành du lịch cụ thể như trên,
nhóm tác giả xin đưa ra hệ thống giải pháp, bao gồm các giải pháp về phía Nhà nước
và các cơ quan bộ ngành trung ương, các giải pháp dành cho doanh nghiệp hoạt động
trong lĩnh vực du lịch, và những ý kiến đề xuất cụ thể, vạch ra những việc doanh
nghiệp du lịch cần thực hiện trong từng giai đoạn phát triển để từng bước nâng cao khả
năng ứng dụng và phát huy thế mạnh của marketing điện tử trong hoạt động kinh
doanh của mình.
2.1. Giải pháp
2.1.1. Nhóm giải pháp về phía Nhà nƣớc
55
Song song thực hiện việc hoàn thiện hệ thống pháp luật chuyên ngành du lịch
cũng như các văn bản luật về thương mại điện tử, đưa ra những quy định chặt
chẽ về việc sử dụng các phương tiện điện tử làm công cụ để quảng bá du lịch.
Tổ chức tốt việc thực hiện Pháp lệnh Du lịch, đồng thời chuẩn bị các điều kiện
cần thiết để xây dựng Luật Du lịch, tạo môi trường pháp lý minh bạch, chặt chẽ
để quản lý việc phát triển ngành du lịch hiệu quả và đúng định hướng.
Phối hợp đồng bộ việc nâng cao chất lượng phục vụ, mở rộng việc khai thác
cũng như đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng ngành du lịch với việc xúc tiến và
quảng bá các khu du lịch giàu tiềm năng nhưng chưa được nhiều người biết đến
như miền núi, vùng sâu, vùng xa…tới du khách trong nước cũng như ra nước
ngoài, qua việc sử dụng các công cụ mới như Internet, mạng di động... Đặc biệt
chú trọng vào việc nâng cao vị thế và hình ảnh của đất nước, con người Việt
Nam qua ngành du lịch.
Sắp xếp và cơ cấu lại các doanh nghiệp du lịch nhà nước, tiến hành cổ phần
hóa, cho thuê, bán khoán…để tăng tính năng động và tăng vốn đầu tư đối với
các doanh nghiệp làm ăn chưa thực sự hiệu quả.
Cải cách hành chính, thay đổi tư duy của bộ máy lãnh đạo, đề cao vai trò của
Internet và các công cụ phương tiện điện tử khác trong hoạt động quảng bá, xúc
tiến du lịch.
Có các chiến lược đầu tư hợp lý để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đào
tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực trẻ, năng động, thích ứng nhanh và cập nhật
liên tục với những xu hướng mới, nâng cao khả năng ứng dụng công nghệ
thông tin vào hoạt động quản lý doanh nghiệp cũng như marketing, quảng
bá…Đi đôi với việc này, Nhà nước cần đưa ra những chính sách đãi ngộ hợp lý
để thu hút nhân tài và giữ chân những kĩ sư, lập trình viên giỏi ở lại với các
doanh nghiệp trong nước.
2.1.2. Nhóm giải pháp về phía Bộ văn hóa – Thể thao – Du lịch, Tổng
cục Du lịch, Hiệp hội Du lịch Việt Nam
Bộ văn hóa – thể thao – du lịch (Website: là cơ
quan trực tiếp dưới quyền Chính phủ, quản lý đồng thời ba mảng: Văn hóa, Thể thao
56
và Du lịch. Du lịch, với vai trò là một trong 3 ba mảng đó, cũng đã nhận được sự quan
tâm và đầu tư đáng kể, thể hiện qua những kế hoạch do Bộ đề xuất nhằm thực hiện
Chương trình hành động của chính phủ sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương
mại Thế giới (WTO) giai đoạn 2007 – 2012 và hàng loạt những kế hoạch trước đó.
Tổng cục Du lịch (Website: là cơ quan đầu ngành của
ngành du lịch, ra đời từ năm 1945, trước đây trực thuộc Bộ Văn hóa – thông tin rồi Bộ
thương mại, nay trở thành Cơ quan trực thuộc Chính phủ, qua gần 50 năm trưởng
thành và phát triển, Tổng cục Du lịch đã có những đóng góp đáng kể, đưa ngành du
lịch của nước ta thành một trong những ngành kinh tế chủ chốt, chiếm tỉ trọng không
nhỏ trong GDP hàng năm của Việt Nam.
Hiệp hội Du lịch Việt Nam (Website: là một t
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ĐỀ TÀI-THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỀ XUẤT ĐỂ NÂNG CAO NĂNG LỰC ỨNG DỤNG MARKETING ĐIỆN TỬ TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC DOANH NGHIỆP DU LỊCH VIỆT NAM.pdf