Đề tài Thực trạng và những đề xuất về hoạt động hướng dẫn du lịch tại các điểm tham quan trên Vịnh Hạ Long

Tài liệu Đề tài Thực trạng và những đề xuất về hoạt động hướng dẫn du lịch tại các điểm tham quan trên Vịnh Hạ Long: Mở đầu “Đây bản thảo tạo vật còn nặn dở Núi, đảo, mây, đá cùng sóng ngổn ngang Đá thuở trước khổng lồ chơi ném thử Cây trên mình còn hương vị hồng hoang. … Mắt ngắm mãi. Lòng hãy còn kinh ngạc Tàu ta qua rồi đẹp vẫn mênh mông…” (Trích từ bài “Chào Hạ Long” – Xuân Diệu, 1959) Thật hiếm thấy một nơi nào trên trái đất này, tạo hoá đã làm nên một vùng thiên nhiên đặc biệt kỳ thú như Vịnh Hạ Long. Hạ Long – một vịnh biển êm ả với hàng ngàn đảo đá kỳ dị vươn cao trên mặt biển trong xanh. Trải qua bao thăng trầm biến cố trong hàng triệu năm, đá và biển nơi đây đã được bàn tay do vô tình và ngẫu hứng đẽo gọt nên hàng ngàn hình hài tráng lệ khiến cho chúng ta không khỏi ngỡ ngàng và cứ ngỡ như là “ phải chăng đây chính là cái công xưởng vĩ đại mà tạo hoá đã đục đẽo dở dang trong lúc làm ra bản phác thảo của thế giới ngày nay.” Nói như nhà thơ Tiêu Tam của Trung Quốc “chưa xem Vịnh Hạ Long, chưa phải đến Việt Nam ”. Bất cứ khách du lịch nào khi đến thăm Việt Nam cũng đều có mo...

doc46 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1433 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Thực trạng và những đề xuất về hoạt động hướng dẫn du lịch tại các điểm tham quan trên Vịnh Hạ Long, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu “Đây bản thảo tạo vật còn nặn dở Núi, đảo, mây, đá cùng sóng ngổn ngang Đá thuở trước khổng lồ chơi ném thử Cây trên mình còn hương vị hồng hoang. … Mắt ngắm mãi. Lòng hãy còn kinh ngạc Tàu ta qua rồi đẹp vẫn mênh mông…” (Trích từ bài “Chào Hạ Long” – Xuân Diệu, 1959) Thật hiếm thấy một nơi nào trên trái đất này, tạo hoá đã làm nên một vùng thiên nhiên đặc biệt kỳ thú như Vịnh Hạ Long. Hạ Long – một vịnh biển êm ả với hàng ngàn đảo đá kỳ dị vươn cao trên mặt biển trong xanh. Trải qua bao thăng trầm biến cố trong hàng triệu năm, đá và biển nơi đây đã được bàn tay do vô tình và ngẫu hứng đẽo gọt nên hàng ngàn hình hài tráng lệ khiến cho chúng ta không khỏi ngỡ ngàng và cứ ngỡ như là “ phải chăng đây chính là cái công xưởng vĩ đại mà tạo hoá đã đục đẽo dở dang trong lúc làm ra bản phác thảo của thế giới ngày nay.” Nói như nhà thơ Tiêu Tam của Trung Quốc “chưa xem Vịnh Hạ Long, chưa phải đến Việt Nam ”. Bất cứ khách du lịch nào khi đến thăm Việt Nam cũng đều có mong muốn là một lần được chiêm ngưỡng vẻ đẹp tuyệt mỹ của “Nàng tiên” Hạ Long. Không chỉ là báu vật vô giá của nước Việt Nam nói riêng mà Vịnh Hạ Long còn là tài sản chung của nhân loại. “Nàng tiên” cực kỳ xinh đẹp này đã được toàn thế giới biết đến khi hai lần khoác lên mình chiếc áo có đính danh hiêu “Di sản thiên nhiên thế giới” do tổ chức UNESCO trao tặng vào các năm 1994, 2000. Là một người con sinh ra và lớn lên trên mảnh đất nơi lưu giữ di sản quý giá này, tôi đã chọn Vịnh Hạ Long làm đề tài nghiên cứu khoá luận cho mình, với mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé vào hệ thống đề tài phong phú đã nghiên cứu về Vịnh Hạ Long . Mấy năm gần đây, đặc biệt khi Việt Nam gia nhập WTO, cùng với quá trình hội nhập của đất nước, ngành du lịch cũng được đẩy mạnh và phát triển. Vịnh Hạ Long là môt điểm đến không thể bỏ qua của cả khách du lịch trong nước và quốc tế. Chính vì vậy, hoạt động hướng dẫn du lịch sẽ là một trong các vấn đề được đặc biệt quan tâm tới. Tôi đã chọn cho mình tên đề tài khoá luận là “Thực trạng và những đề xuất về hoạt động hướng dẫn du lịch tại các điểm tham quan trên Vịnh Hạ Long ” nhằm bổ sung những hiểu biết về sự phát triển du lịch tại địa phương, cũng như mạnh dạn đưa ra một số giải pháp hy vọng sẽ cải thiện được một số hạn chế còn tồn tại để ngành du lịch Quảng Ninh sẽ toàn diện hơn nữa. Trong khóa luận này tôi đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cơ bản như sau: - Phương pháp thu thập và xử lý tài liệu. Nguồn tài liệu rất đa dạng bao gồm sách, báo, ấn phẩm do Ban quản lý Vịnh Hạ Long cung cấp; thêm nữa là các thông tin từ internet. Trên cơ sở đọc các tài liệu, lựa chọn những thông tin cần thiết để phục vụ làm dẫn chứng nhằm làm sáng tỏ những luận điểm của bài viết. - Phương pháp phân tích, so sánh. ở đây cần đặt hoạt động hướng dẫn du lịch trong hoạt động du lịch chung của Vịnh Hạ Long như: hoạt động bảo tồn hoạt động đầu tư, hoạt động quản lý… Mặt khác, cũng có những nhận định, đánh giá, so sánh trong nội bộ hoạt động hướng dẫn. - Phương pháp thực tế. Dựa trên các đợt thực tập trên biển của cá nhân, có ghi chép, tham khảo ý kiến của đội ngũ hướng dẫn viên và các cán bộ, nhân viên công tác tại Ban quản lý Vịnh Hạ Long đã giúp tôi tiếp cận và giải quyết các luận điểm của khoá luận. Trên cơ sở này, tôi chia bài viết thành 3 chương lớn, cụ thể là : Chương 1 : Vịnh Hạ Long và các điểm tham quan trên Vịnh Chương 2 : Thực trạng hoạt động hướng dẫn du lịch tại các điểm tham quan trên Vịnh Hạ Long. Chương 3 : Những đề xuất nhằm nâng cao chất lượng hoạt động hướng dẫn du lịch tại các điểm tham quan trên Vịnh Hạ Long . Nhân dịp hoàn thành khoá luận, tôi cũng xin bày tỏ lòng cảm ơn tới Ban quản lý Vịnh Hạ Long, Trung tâm Tuyên truyền hướng dẫn – cơ sở tôi trực tiếp thực tập đã cung cấp tài liệu và nguồn thông tin quý báu cho tôi. Tôi cũng xin bầy tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới người thầy hướng dẫn đã trực tiếp định hướng, chỉ dẫn tôi rất tận tình trong suốt quá trình tôi làm khoá luận. Xin chân thành cảm ơn tất cả ! Chương I Vịnh Hạ Long và các điểm tham quan trên Vịnh Giới thiệu chung về Vịnh Hạ Long Điều kiện tự nhiên : Vị trí địa lý Vịnh Hạ Long nằm ở Đông Bắc Việt Nam, thuộc địa phận tỉnh Quảng Ninh, cách thủ đô Hà Nội khoảng 165km. Đây là vùng biển đảo được xác định trong tọa độ 106056’ đến 107037’ kinh độ đông và 20043’ đến 21009’ vĩ độ bắc. Phía tây và tây bắc Vịnh Hạ Long kéo dài từ huyện Yên Hưng, qua thành phố Hạ Long, thị xã Cẩm Phả, đến hết phần biển đảo huyện Vân Đồn; phía đông nam và phía nam giáp bờ tây Vịnh Bắc Bộ; phía tây nam và phía tây giáp đảo Cát Bà (Hải Phòng). Năm 1962, Vịnh Hạ Long được Bộ Văn hoá - Thông tin xếp hạng là Di tích thắng cấp quốc gia với diện tích 1553km2 bao gồm 1969 hòn đảo, trong đó 980 hòn đảo đã được đặt tên. Năm 1994, Vịnh Hạ Long được UNESCO công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới bởi giá trị ngoại hạng, mang tính toàn cầu về cảnh quan. Năm 2000, một lần nữa, Hạ Long được UNESCO công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới với giá trị đặc biệt về địa chất, địa mạo. Khu vực di sản là nơi tập trung nhiều đảo đá, hang động, bãi tắm… được giới hạn bởi tam giác mà ba đỉnh của nó là: đảo Đầu Gỗ (phía tây), Hồ Ba Hầm (phía nam) và đảo Cống Tây (phía đông) với diện tích 434km2 gồm 775 hòn đảo, trong đó có 411 đảo được đặt tên. Vùng đệm là dải bao quanh khu vực bảo vệ tuyệt đối, theo hướng tây – tây bắc và bắc - đông bắc, được xác định bởi phía bờ vịnh dọc theo quốc lộ 18A, kể từ kho xăng dầu B12 (Cái Dăm) đến cây số 11 (phường Quang Hanh, thị xã Cẩm Phả). Chiều rộng khu đệm từ 5–7km tính từ đường bảo vệ tuyệt đối ra biển, phạm vi xê dịch từ 1-2km. Vùng phụ cận là vùng biển hoặc đất liền bao quanh khu đệm, kể cả vùng biển giáp ranh với vườn quốc gia Cát Bà. Với vị trí địa lý khá thuận lợi gần Hà Nội, Hải Phòng – hai trung tâm kinh tế, du lịch trọng điểm của miền bắc, Vịnh Hạ Long cũng có nhiều cơ hội để mở rộng giao lưu phát triển về mọi mặt. Từ thời Lý ở thế kỉ XII, vua Lý Anh Tông đã cho thành lập thương cảng Vân Đồn – là nơi thuyền bè qua lại giao dịch sầm uất và nổi tiếng một thời, nay vẫn còn lưu giữ nhiều dấu tích. Do vị trí quân sự chiến lược, nhiều lần giặc ngoại xâm đã sử dụng lực lượng hải quân đánh chiếm vùng biển đông bắc, trong đó có khu vực Vịnh Hạ Long nhằm làm bàn đạp thâu tóm nước ta. Ngày nay, khách du lịch trong và ngoài nước có thể đến vùng biển xinh đẹp này bằng đường bộ và đường biển đều rất thuận tiện. Địa hình, địa chất Nhà văn Nguyên Ngọc đã có một tác phẩm rất đặc sắc được mang tên “Đá và Nước” khi viết về Hạ Long. Một vùng biển nước trong xanh, phẳng lặng như một hồ thạch lớn được điểm xuyết bởi vô vàn những hòn đảo lớn nhỏ khi quần tụ, lúc rải rác với muôn hình, muôn vẻ. Ngắm nhìn Hạ Long, người ta như có cảm giác ngắm một “tác phẩm điêu khắc” chỉ với hai chất liệu đơn giản: đá và nước. Hệ thống đảo trên Vịnh Hạ Long chủ yếu là đảo đá vôi, tập trung ở khu vực phía đông nam và tây nam, một số đảo phiến thạch phân bố rải rác ở khu vực đông nam. Tổng diện tích các đảo trên Vịnh Hạ Long là 562 km2 với độ cao trung bình từ 50-200m. Những đảo đất như đảo Tuần Châu, Ngọc Vừng, Quan Lạn, Hòn Rều…đều có thảm thực vật trù phú, có người và động vật sinh sống, đây là những điểm thích hợp để phát triển du lịch sinh thái trên Vịnh Hạ Long. Nếu giá trị cảnh quan tự nhiên tuyệt vời dễ thấy đã tôn vinh khu di sản, phản ánh hình thể và màu sắc của một viên ngọc quí, thì giá trị địa chất cần được xem như là cấu trúc và chất lượng tạo nên viên ngọc ấy. Dải ven bờ và trong lòng Vịnh Hạ Long chứa đựng nhiều hệ tầng trầm tích thành phần cacbonat và lục nguyên với nhiều di tích cổ sinh vật dưới dạng hoá thạch, trong đó có các ngành động thực vật đã bị biến mất trên trái đất. Đó là những trang sử đá ghi lại những biến cố vĩ đại của quá trình địa chất và tiến hoá của sự sống. Lịch sử địa chất lâu dài của Vịnh Hạ Long được biết ít nhất trên 500 triệu năm với những hoàn cảnh cổ địa lý rất khác nhau, với nhiều lần tạo sơn – biển thoái, sụt chìm – biển tiến. Vịnh Hạ Long ngày nay mới được hình thành trong 7- 8 nghìn năm qua. Nhưng để có vịnh đã phải có một biển cổ tích tụ tầng đá vôi dày trên nghìn mét trong khoảng 340 – 240 triệu năm trước, một thời kì xâm thực karst kéo dài trên 20 triệu năm và phải có một biển tiến hành tinh liên quan tới trái đất ấm lên – băng tan trong hơn vạn năm qua. Vịnh Hạ Long còn là mẫu hình tuyệt vời về karst trưởng thành trong điều kiện nhiệt đới ẩm. Đánh giá của IUCN về giá trị địa chất Vịnh Hạ Long như sau: “Vịnh Hạ Long là một điển hình về biển gắn với cảnh quan tháp karst và là một trong những khu vực quan trọng nhất thế giới về karst fengcong và fengling. Mặc dù Di sản có những nét đặc trưng địa mạo giống với nhiều vùng khác nhưng rõ ràng, nó vẫn hơn hẳn so với bất kỳ khu vực nào trên thế giới…”. Trong quá trình hình thành phát triển của tự nhiên đã tạo nên hệ thống hang động rất phong phú, đa dạng thuộc về ba nhóm chính. Nhóm thứ nhất là di tích các hang ngầm cổ, tiêu biểu là hang Sửng Sốt - động Tam Cung, động Lâu Đài, động Thiên Cung, hang Đầu Gỗ, Thiên Long…Nhóm thứ hai là các hang nền karst tiêu biểu là Trinh Nữ, Bồ Nâu, Tiên Ông, Hang Trống…Nhóm thứ ba là những hang hàm ếch biển, tiêu biểu là ba hang thông ở khu Hồ Ba Hầm, hang Luồn… Khí hậu Cũng như ở các nơi khác ở miền bắc Việt Nam, Vịnh Hạ Long nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa và thời tiết chia làm bốn mùa rõ rệt. Nhiệt độ trung bình ở Hạ Long thay đổi như sau: Mùa Xuân Hạ Thu Đông Tháng 3 – 4 5 – 8 9 – 10 11 – 2 Nhiệt độ TB 14 – 220 25 – 300 20 – 250 12 – 190 Nhìn vào bảng trên ta thấy nhiệt độ dao động tương đối thấp, khí hậu nhìn chung thích hợp cho việc tham quan, nghỉ dưỡng, tắm biển. Về lượng mưa trung bình hằng năm lên đến 1680mm. Mưa nhiều thường xảy ra trong mùa hè và mùa thu từ tháng 5 đến tháng 10 (chiếm 80% - 90%), tháng 7 đến tháng 8 là tháng mưa nhiều. Trong mùa bão thường có mưa lớn, từ tháng 1 – 4 thường có mưa phùn, trung bình từ 7 đến 9 ngày trong tháng. Ngoài ra Vịnh Hạ Long còn chịu ảnh hưởng của gió từ đất liền thổi ra biển, ban ngày có gió từ ngoài biển thổi vào có tác dụng điều hoà khí hậu. Đa dạng sinh học Vịnh Hạ Long, vịnh Bái Tử Long cùng với quần đảo Cát Bà tạo thành một quần thể biển đảo có nhiều điều kiện sinh thái thuận lợi để hình thành một hệ thống đa dạng các Habitat(nơi sinh cư) biển và đảo – cơ sở của sự đa dạng sinh học cao. Đa dạng về nguồn gen quí hiếm, đa dạng về thành phần loài và các hệ sinh thaí đã làm cho vùng biển đảo này trở thành một địa phương độc đáo về các mặt kinh tế hải sản, du lịch, và khoa học. Có thể khẳng định rằng không nơi nào trong cả nước ta, với một diện tích nhỏ, Vịnh Hạ Long lại có nhiều tính đặc thù đa dạng như vậy. Nơi đây có hầu hết các dạng sinh thái từ rừng đến biển cả, từ rừng mưa nhiệt đới đến rừng ngập mặn, từ các rạn san hô đến nhứng bãi triều lầy. Về thực vật có ở trên rừng, dưới nước như cỏ biển, rong biển…Động vật trên cạn như: hươu, nai, cầy, voọc đến động vật dưới nước như bò biển, cá heo, phong phú các loài cá nước mặn nhưng cũng có các loài cá nước ngọt trên đảo Cát Bà. Nguồn gen quí hiếm được thể hiện ở nhiều sinh vật có giá trị khoa học (gồm có 23 loài thực vật và 28 loài động vật được ghi trong Sách Đỏ) và các giá trị đặc hữu, kinh tế, dược liệu. Nguồn gốc tên gọi Vịnh Hạ Long Nếu như thủ đô Hà Nội vẫn được biết đến với tên gọi Thăng Long, nghĩa là “rồng bay”, thì Hạ Long lại có nghĩa ngược lại “rồng xuống”. Tên gọi này chưa thấy được ghi chép trong các thư tịch cổ của nước ta từ trước thế kỉ XIX. Khi nói đến khu vực Vịnh Hạ Long ngày nay, sử sách xưa thường chép chung là biển Giao Châu, Lục Châu, Lục Thuỷ, Vân Đồn, Hải Đông, An Bang…mãi đến cuối thế kỉ XIX, tên Vịnh Hạ Long mới thấy xuất hiện trên bản đồ hàng hải vịnh Bắc Bộ của Pháp. Vậy tên Hạ Long bắt nguồn từ đâu và có từ bao giờ? Trong dân gian từ bao đời nay vẫn lưu truyền câu chuyện huyền thoại gắn liền với sự ra đời của Vịnh Hạ Long. Truyện kể rằng: “Ngày xưa, khi người Việt mới lập nước, trong một lần nước nước Việt bị giặc ngoại xâm, trời sai rồng mẹ mang theo đàn rồng con xuống giúp người Việt đánh giặc. Khi thuyền giặc từ biển cả ào ạt tấn công vào bờ thì đàn rồng cũng hạ giới. Đàn rồng lập tức phun ra vô số châu ngọc, những châu ngọc ấy thoắt biến thành muôn vàn đảo đá sừng sững, liên kết lại như bức tường thành vững chãi chặn bước tiến quân giặc. Sau khi giặc tan, rồng mẹ và rồng con không trở về trời mà ở lại hạ giới. Chỗ rồng mẹ xuống là Hạ Long, nơi rồng con xuống là Bái Tử Long. Đuôi của đàn rồng quẫy lên trắng xoá là Long Vĩ, tức bán đảo Trà Cổ ngày nay…” Ngày nay, trên vịnh biển này còn có hàng chục các hòn đảo, địa danh mang tên rồng như Cái Rồng, Xương Rồng, Ngọc Rồng, Hòn Rồng. Và đến bây giờ, người ta vẫn gọi vịnh biển xinh đẹp này bằng một cái tên mang đậm chất huyền thoại: “Hạ Long ” 1.1.2 Đặc điểm kinh tế – xã hội của địa phương: Lịch sử – văn hoá Quảng Ninh nói chung và Hạ Long nói riêng là nơi có một nền văn hoá lâu đời và liên tục. Đây là một nền văn hoá có những đặc trưng riêng, phân bố tập trung tại một khu vực độc lập nhưng không hề biệt lập, nó gắn liền với những nền văn hoá Hoà Bình - Bắc Sơn nổi tiếng của dân tộc ta. Theo Tiến sĩ Hà Hữu Nga – Viện khảo cổ học, cho đến nay chúng ta đã làm rõ được một lịch sử văn hoá từ ít nhất là 25 000 năm cách ngày nay ở Hạ Long, nền văn hoá Soi Nhụ, kế tiếp đó là nền văn hoá Cái Bèo – gạch nối giữa văn hoá Soi Nhụ và văn hoá Hạ Long. + Văn hoá Soi Nhụ (cách ngày nay 25 000 năm đến 7 000 năm), chủ yếu phân bố trong khu vực các đảo đá vôi thuộc Vịnh Hạ Long và vịnh Bái Tử Long, ngoài ra còn phân bố ở các hang động ven bờ. Các dấu tích loài hàu lớn tại các hang động thuộc nền văn hoá này cho phép khẳng định rằng: so với văn hoá Hoà Bình- Bắc Sơn cùng thời, người Soi Nhụ đã có một mô hình văn hoá đa dạng hơn, phong phú hơn, bởi vì trong phương thức kiếm sống của cư dân ở đây đã có thêm yếu tố biển. + Văn hoá Cái Bèo (cách ngày nay từ 7 000 năm đến 5 000 năm). Các di chỉ thuộc nền văn hoá này phân bố trên bờ các vũng vịnh kín gió tựa lưng vào núi, mà chủ yếu là các núi đá vôi. Phương thức sống của người Cái Bèo, trước hết là định hướng khai thác biển sau đó là các phương thức truyền thống như săn bắt, hái lượm trên cạn. Trình độ chế tác công cụ lao động cũng như đồ gốm còn đơn giản, thô sơ. Đặc biệt, người Cái Bèo đã khai thác biển bằng cả giao lưu trao đổi trên biển. + Văn hoá Hạ Long (cách ngày nay từ 4 500 năm đến 3 500 năm) được chia làm 2 giai đoạn: sớm và muộn. Giai đoạn sớm của văn hoá Hạ Long – giai đoạn Thoi Giếng là kết quả trực tiếp của đợt biển tiến. Trong giai đoạn này, cư dân sống trên bề mặt của đồng bằng cổ, cao khoảng 6m so với mực nước biển hiện tại. Phương thức sống của họ là săn bắt, hái lượm. Nghệ thuật chế tác công cụ lao động cũng như đồ gốm bắt đầu tinh xảo hơn. Giai đoạn muộn của văn hoá Hạ Long là kết quả của mực nước biển dâng cực đại rồi sau đó rú dần. Trong giai đoạn này, người Hạ Long cư trú trên những khu vực bị biển ngăn cách thành các đảo, họ đã hoàn toàn là cư dân của biển, kỹ thuật chế tác công cụ và đồ gốm đã trở thành đặc trưng của văn hoá Hạ Long. Giai đoạn muộn của nền văn hoá Hạ Long có một vị trí đặc biệt đối với nền văn minh Việt cổ. Không những có bề dày lịch sử, là một trong những cái nôi của người Việt cổ, Vịnh Hạ Long còn là nơi ghi dấu quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc. Thương cảng Vân Đồn đã là nơi trao đổi, buôn bán sầm uất suốt một thời gian lài từ thời Lý, Trần, Lê. Đồng thời, đó cũng là địa điểm giao lưu văn hoá rất phồn thịnh. Vịnh Hạ Long cũng là nhân chứng lịch sử chứng kiến ba trận thắng oanh liệt của quân và dân ta trên sông Bạch Đằng dưới sự chỉ huy của ba vị anh hùng dân tộc: Ngô Quyền (năm 938), Lê Hoàn (năm 981), và Trần Hưng Đạo (năm 1288). Chắc hẳn không bao giờ quên những chiến công vang dội của quân và dân ta Quảng Ninh qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ góp phần bảo vệ hoà bình cho Tổ quốc. Tất cả giá trị lịch sử - văn hoá trên là nguồn tài nguyên du lịch nhân văn vô cùng phong phú làm đa dạng loại hình du lịch của Vịnh Hạ Long nói riêng và tỉnh Quảng Ninh nói chung. Đặc điểm dân cư và mức sống của người dân địa phương Dân cư được chia làm 2 bộ phận căn cứ theo đặc điểm phân bố của họ: khu vực di sản và khu vực ven bờ. Trong khu vực di sản thế giới Vịnh Hạ Long hiện nay có một bộ phận cư dân sinh sống, chủ yếu tập trung ở bốn làng chài Cửa Vạn, Ba Hang, Cống Tàu, Vông Viêng với số khẩu trên 1600 người, trực thuộc phường Hùng Thắng. Đi trên biển Hạ Long ta thường thấy những chiêc thuyền nan nhỏ bé lặng lẽ khua mái chèo len lỏi giữa các vách đá dựng đứng của các hòn núi đảo. Đó là gia đình các dân chài nghèo sống chủ yếu bàng việc đánh bắt rất thô sơ loanh quanh bên trong vịnh biển này. Rất nhiều người trong số họ không biết chữ và họ biết rất ít về đời sống xã hội trên bờ. Đa số không hề có đăng kí nhân khẩu và nhiều người từ các tỉnh xa trôi dạt về sống ở đây. Tuy vậy những thuyền chài ở đay sống rất hoà thuận, còn giữ được nhiều phong tục của quê xưa. Dăm bẩy tháng họ lại cử người về quê cũ trên đất liền để thăm mộ ông bà. Đám cưới của dân chài diễn ra vô cùng đặc sắc. Cô dâu chú rể ôm hoa, mặc trang phục cưới rất thời trang, đứng ở mũi thuyền. Theo sau là cả đoàn thuyền với cờ hoa rực rỡ. Khác hẳn với cuộc sống của những người dân chài,cư dân ở ven bờ Vịnh Hạ Long mà tập trung chủ yếu ở thành phố Hạ Long, thị xã Cẩm Phả, huyện đảo Vân Đồn và huyện đảo Cát Bà( Hải Phòng) có mức sống cao hơn hẳn. Họ được tiếp cận với các phương tiện truyền thông hiện đại có thu nhập khá từ ngành kinh tế mỏ và du lịch là hai thế mạnh của tỉnh Quảng Ninh. Tựu chung lại dù khác nhau về môi trường sống nhưng những cư dân thân yêu thuộc 22 nhóm dân tộc khác nhau với những phong tục tập quán đa dạng là di sản văn hoá phi vật thể vô cùng quý báu cùng góp phần làm tăng thêm giá trị Vịnh Hạ Long. Điều kiện phát triển kinh tế Hạ Long giàu và đẹp chứa đựng trong lòng nó là tiềm năng phát triển kinh tế. Thế mạnh phải kể đến đầu tiên là tiềm năng du lịch. Vịnh Hạ Long đã hội tụ những điều kiện vô cùng thuận lợi để phát triển ngành kinh tế du lịch. Hình thức loại hình du lịch ở Vịnh Hạ Long đa dạng. Đến đây du khach có thể tham gia các loại hình du lịch: thăm quan ngắm cảnh, tắm biển, nghiên cứ và nhiều loại hình khác. Hiện nay khách đến vịnh chủ yếu đi thăm quan ngắm cảnh, tắm biển, và bơi thuyền Kay-ăc. Trong những năm tới, ngành du lịch sẽ mở thêm nhiều tuyến điểm thăm quan và tăng thêm nhiều loại hình du lịch hấp dẫn. Dự kiến năm 2010 Quảng Ninh sẽ là một trong những điẻm du lịch lớn nhất cả nước. Thành phố trẻ Hạ Long đang trong quá trình đô thị hoá mạnh mẽ, phat triển nhanh về mọi mặt, là một tiền đề vững chắc đẻ phát triển du lịch. Hiện thành phố có 300 khách sạn từ 1- 5 sao với 4500 phòng nghỉ và nhiều khách sạn mini cơ bản đáp ứng được nhu cầu của khách du lịch. Sự tăng trưởng về số lượng khách ở Hạ Long được đánh giá là nhanh nhất ở Việt Nam trong những năm gần đây. Năm 1996, vhjl dón 236 lượt khách, thì năm 2003 Vịnh Hạ Long đón 1.306.919 lượt khách, đến nay trên dưới 1,5 tr và dự đoán năm 2010 Hạ Long sẽ là điẻm đón tiếp 5-6 triệu lượt khách. Về tiềm năng cảng biển và giao thông thuỷ: Vịnh Hạ Long là vùng vịnh kín nên ít sóng và gió, hệ thống luồng lạch tự nhiên dày đặc, cửa sông ít bị bồi lắng. Điều kiện thuận lợi này cho phép xây dựng hệ thống giao thông cảng biển lớn mạnh. Có cảng nước sâu Cái Lân ( Hạ Long ) và Cửa Ông ( Cẩm Phả ). Ngoài ra, Quảng Ninh còn có một hệ thống cảng phụ trợ như: Mũi Chùa, Vạn Gia, Nam Cầu Trắng…Đa ực biệt là cảng Cái Lân gần cầu Bãi Cháy là vùng nước sâu, kín gió, nằm liền kề quốc lộ 18A thuận lợi việc bốc rót chuyên trở hàng hoá. Mục tiêu đến năm 2010 sẽ xây dựng hoàn chỉnh cảng Cái Lân với 7 cầu cảng, công suất hơn 14tr tấn, cho phép tiếp nhận tàu trên 5 vạn tấn. Biển Quảng Ninh chứa đựng nhiều hệ sinh thái phong phú, có giá trị đa dạng sinh học cao tạo ra tiềm năng hải sản rất lớn. điều kiện tự nhiên thích hợp cho việc nuôi trồng và đánh bắt hải sản như: khí hậu, diện tích bãi triều lớn, nước trong, ngư trường ven bờ và ngoài khơi có trữ lượng hải sản cao và đa dạng với những loài cá song, cá giò, sò, tôm các loại. Tài nguyên du lịch tự nhiên được khai thác phục vụ các tuyến thăm quan trên vịnh Tạo hoá đã ban tặng cho “nàng tiên Hạ Long” một vẻ đẹp lộng lẫy được trang hoàng bởi gần 2000 hòn đảo đá lớn nhỏ với đủ mọi hình dáng kì lạ từ cổ chí kim, từ đông sang tây, từ bao giờ không biết nữa, cảnh đẹp Vịnh Hạ Long đã được lan truyền. Sách “ Những kì quan thế giới” của nhà xuất bản Hachette, Pari 1950 đã mệnh danh Vịnh Hạ Long là một trong những kì quan của thế giới. Rồi khi Vịnh Hạ Long chính thức đội vương miện toàn cầu bước lên đài vinh quang để đón nhận là Di sản thiên nhiên thế giới lần thứ nhất năm 1994. từ đó các nhà quản lý đã thiết lập các chương trình tham quan khám phá Vịnh Hạ Long. Không thể kể ra đây hết được số lượng núi đảo trên Vịnh Hạ Long, cũng như không thể diển tả hết vẻ đẹp tuyệt diệu của chúng, chỉ xin giới thiệu một số điểm thăm quan chính đã trở thành những địa danh quen thuộc đối với khách du lịch khi đến nơi này. Động Thiên Cung Động nằm ở phía Tây Nam Vịnh Hạ Long cách cảnh tàu du lịch 4km, trên đảo Đầu Gỗ ở độ cao 25m so với mực nước biển. Đường lên động Thiên Cung vách đá cheo leo, hai bên cây che phủ um tùm. Qua một khe cửa hẹp, lòng động đột ngột mở ra khoảng không bên trên một mặt bằng hình tứ giác với chiều dài hơn 130m. Càng vào trong ta càng ngỡ ngàng trước vẻ đẹp hết sức sinh động và lộng lẫy do thạch nhũ tạo nên. Trên vách động phía đông là một bức tranh hoành tráng đồ sộ, trong đó nổi bật lên những nhân vật trong chuyện cổ tích xưa, đường nét mềm mại uyển chuyển và vô cùng tinh tế sắc sảo tới từng chi tiết nhỏ, những khối điêu khắc dù là đồ sộ hay nhỏ bé đều được bàn tay tạo hoá trau chuốt tỉ mỉ. Đi giữa lòng động ta sẽ có cảm giác như đang đi trong “ bảo tàng mĩ thuật” vô cùng độc đáo, công phu, kì thú vượt khỏi tài trí và sức tưởng tượng của con người Động gắn liền với truyền thuyết về vua Rồng xưa. Chuyện kể rằng: “ sau khi vua Rồng giúp dân ta đánh tan giặc giã vua Rồng trở về động. Năm đó trời hạn hán dân tình mất mùa nên họ phải cầu cứu vua Rồng ra tay làm mưa. Bao nhiêu người ra đi mà không có ngày trở về. Không sợ nguy hiểm gian nan, có một đôi vở chồng trẻ quyết tâm cùng nhau đi tìm gặp vua Rồng. Người con gái của họ ra đời đặt tên là nàng Mây. nàng Mây lớn lên đã làm xao xuyến trái tim hoàng tử Rồng và tình yêu đã giúp họ tìm đến với nhau, đám cưới được tổ chức 7 ngày 7 đêm tại khu vực trung tâm động. Để chúc mừng đám cưới những chú rồng bay lượn lúc ẩn lúc hiện trong rừng mây nhũ đá, những chú voi công kênh nhau lên nhảy múa, những con mãng xà lớn trườn mình quấn quanh cây đa cổ thụ, hai chú sư tử đá nhảy múa bờm tóc tung bay, trên cao nhưng chú đại bàng rang rộng đôi cách khổng lồ. Một chú voi lớn được trang trí diêm dúa công phú đang nằm phủ phục chờ cô dâu chú rể bước xuống. Cảnh tượng vô cùng tưng bừng náo nhiệt.” Trung tâm động là bốn cột trụ to lớn lực lưỡng chống đỡ thiên đình. Từ chân cột tới đỉnh đều được “chạm nổi” nhiều hình thù kì lạ như chim cá, cảnh sinh hoạt của con người, hoa lá cành…trên vách động phía bắc là cảnh một bầy tiên nữ đang múa hát chúc mừng đám cưới. Dưới vòm động cao vút, từng chùm nhũ đá rủ xuống muôn màu tạo thành bức rèm đá tự nhiên lộng lẫy. Đâu đó có tiếng trống bập bùng như trong đêm hội làng xưa. Đó chính là tiếng gió thổi qua kẽ đá. Nhìn lên vòm động màu thạch nhũ xanh như dát ngọc ta ngỡ như đang đứng trong cảnh bồng lai vậy. Tới ngăn động cuối cùng những luồng ánh sáng trắng xanh đỏ, xen lẫn phối màu tạo nên khung cảnh hoa lệ. Một khe nước tự nhiên bốn mùa tuôn chảy róc rách, nơi đây có ba chiếc ao nước trong vắt. Theo truyền thuyết đây là nơi nàng Mây thường tắm cho 100 người con của mình và nuôi họ trưởng thành. Một con đường dẫn ra phía ngoài quanh co uốn khúc, đó chính là con đường mà nàng Mây cùng 50 người con cảu mình ra đi để khai phá vùng đất mới, 50 người con ở lại cùng với người cha xây dựng quê hương, di vật mà người mẹ để lại là bầu vú tiên tràn trề sức sống. Hang Đầu Gỗ Giữa non nước mây trời Hạ Long tuyệt mĩ, một cái hang mang tên rất mộc mạc dân dã: hang Đầu Gỗ. Hang nằm trên đảo Đầu Gỗ. Từ phía xa nhìn lại cửa hang có màu xanh lam hình một con sứa biển, qua 90 bậc đá xây ta tới cửa hang. Vòm hang cao khoảng 25 m, từ trên cao ấy hàng trăm nhũ đá rủ xuống như một dòng thác kỳ lạ. Hang được chia làm 3 ngăn chính. Ngăn phía ngoài có hình vòm cuốn tràn trề ánh sáng tự nhiên, trần hang là một bức “tranh sơn dầu” khổng lồ, mô tả phong cảnh thiên nhiên hoang sơ với những rừng măng đá, nhũ đá muôn màu tạo nên nhiều hình thù kỳ lạ tuỳ theo trí tưởng tượng phong phú của mỗi người: những đàn voi đang đi kiếm ăn, những chú hươu sao ngơ ngác, chú sư tử lim dim ngủ…phía dưới là một chú rùa đang bơi giữa bể nước mênh mông. Đứng dưới vòm hang ta có cảm giác như đang đứng giữa một toà lâu đài cổ kính, có lối kiến trúc đồ sộ và hùng vĩ. Vượt qua ngăn thứ nhất, qua một khe cửa hẹp, ta sẽ bước vào ngăn thứ hai của hang, ánh sáng chiếu vào đây mờ ảo, những bức tranh mới lạ hiện lên long lanh huyền bí. Những chùm hoa đá lúc ẩn lúc hiện, những hình ảnh vừa quen thuộc vừa xa lạ tạo cho con người vừa sợ sệt vừa tò mò. Tới ngăn thứ ba của hang, lòng hang đột ngột rộng mở. Tận cùng hang là giếng tiên bốn mùa nước ngọt trong vắt. Bất giác ta có nhìn lên phía trên trong ánh sáng mờ ảo, ta nhận ra bốn xung quanh là hình ảnh toà thành cổ, trên đó đang diễn ra một trận hỗn chiến của những chú voi, ngựa đang xung trận, người và ngựa chen chúc, gươm giáo tua tủa, tất cả như đang xông lên và bỗng dưng bị hoá đá. Theo truyền thuyết xưa kể rằng: trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông, Trần Hưng Đạo đã cho chuẩn bị nhiều cọc gỗ lim ở đây để cẵm xuống lòng sông Bạch Đằng, tạo nên một trận thuỷ chiến vang dội trong lịch sử. Sau đó còn rất nhiều mẩu gỗ sót lại, vì vậy hang mang tên Đầu Gỗ, hay hang Giấu Gỗ. Nếu động Thiên Cung hoành tráng tinh tế, hiện đại thì hang Đầu Gỗ trầm mặc, uy nghi, đồ sộ. Cuốn “Kỳ quan thế giới” của Pháp xuất bản năm 1938 đã gọi hang Đầu Gỗ là động của các kì quan. Năm 1917, vua Khải Định lên thăm hang Đầu Gỗ, ngỡ ngàng trước vẻ đẹp thần tiên của tạo hoá, ông đã cho khắc một tấm văn bia với nội dung ca ngợi cảnh đẹp của non nước Hạ Long và hang Đầu Gỗ. Hiện nay tấm bia đá vẫn còn ở phía bên phải cửa hang. Đảo Ti Tốp Đảo Ti Tốp cách cảng tàu du lịch Bãi Cháy khoảng 7-8km về phía đông nam. Trên đảo có bãi tắm hình vầng trăng lưỡi liềm ôm trọn lấy đảo. Bãi cát tuy nhỏ, nhưng rất thoáng đãng và yên tĩnh, bốn mùa nước sạch và trong xanh, đặc biệt phong cảnh trời mây, non nước ở đây tuyệt đẹp. Ngày 22/11/1962 hòn đảo nhỏ này được đón Hồ chủ tịch và nhà du hành vũ trụ Giec Man Ti Tốp. Để ghi dấu kỷ niệm chuyến đi đó, Hồ chủ tịch đã đặt tên cho đảo là Ti Tốp. Nơi đây đã trở thành điểm du lịch tắm biển hấp dẫn. Các dịch vụ thuê áo tắm, phao bơi, nước ngọt luôn sẵn sàng phục vụ khách. Hang Sửng Sốt Nằm ở khu vực trung tâm của Di sản thế giới Vịnh Hạ Long, hang Sửng Sốt thuộc đảo Bồ Hòn. Đây là một hang rộng và đẹp vào bậc nhất của Vịnh Hạ Long và đây cũng là nơi tập trung nhiều đảo đá có hình dạng đặc sắc không nơi nào có được. Đường lên hang Sửng Sốt luồn dưới những tán lá rừng, những bậc đá ghép cheo leo, du khách vừa có được cái thú của người leo núi, vừa có cái háo hức như đang đi lên trời. Hang được chia làm hai ngăn chính, toàn bộ ngăn đầu như một nhà hát lớn rộng thênh thang. Trần hang được phủ bằng một lớp “thảm nhung” óng mượt, vô số những “chùm đèn” treo bằng nhũ đá rực sáng long lanh, những tượng đá, voi đá, hải cẩu, mâm xôi, hoa lá…tất cả dường như đang rung rinh xao động giữa cõi thực và mơ. Chưa hết ngỡ ngàng trước vẻ đẹp thần kì ở ngăn đầu, ta bước vào ngăn thứ hai bằng một con đường nhỏ. Một luồng ánh sáng ùa vào rực rỡ, hang mở ra một khung cảnh hoàn toàn khác lạ, ngăn hang rộng mênh mông có thể chứa được hàng ngàn người. Đi vào trong cảnh trí còn lắm điều kì lạ, như cây đa cổ thụ tán lá sum suê, chú gấu biển, khủng long…Tới đỉnh cao nhất của hang, bất ngờ một khu vườn thượng uyển mở ra trước mắt ta, có hồ nước trong vắt, phong cảnh sơn thuỷ hữu tình, muôn loài cây cỏ cùng nhiều loài chim muông sinh sống. Từng đàn khỉ vẫn thường kéo nhau xuống đây tìm hoa quả làm náo động cả vùng. Hang rộng khoảng 10 000m2 đây là một trong những hang động karst điển hình, có giá trị khoa học cao. Ngay cạnh lối ra vào là nhũ đá có hình con ngựa và một thanh gươm dài. Truyền thuyết xưa kể rằng: sau khi đánh tan giặc Ân, Thánh Gióng đã giúp dân chúng ở đây đánh đuổi yêu ma, khi dẹp xong loạn, Thánh Gióng bay về trời, để lại thanh gươm và con ngựa quý để trấn an dân chúng, xua đuổi yêu quái. Hiện nay trong lòng hang còn nhiều hình ảnh tự nhiên dường như là những dấu tích của trận chiến ác liệt đó, vết chân ngựa Gióng trở thành những ao hồ nhỏ xinh xinh cùng nhiều tảng đá to lớn vỡ vụn… Làng chài Cửa Vạn Làng chài Cửa Vạn (thôn Cửa Vạn) là làng chài lớn nhất trong cộng đồng dân chài ở trên Vịnh Hạ Long. Hiện nay đã xây dựng Trung tâm văn hoá nổi Cửa Vạn – là một dự án nhỏ trong khuôn khổ dự án Bảo tàng sinh thái Hạ Long. Đây là nơi trưng bày, giới thiệu và thuyết minh các di sản văn hoá vật thể và phi vật thể độc đáo của cộng đồng dân chài sống trên vịnh. Tại đây du khách cũng sẽ có những trải ngiệm đích thực về cuộc sống của người dân chài bằng cách tham gia vào các hoạt động đánh bắt hải sản theo phương thức truyền thống, đan lưới, chế biến các món ăn từ đặc sản biển, thưởng thức văn nghệ cùng với người dân địa phương. Mặt khác, trung tâm văn hoá nổi Cửa Vạn cũng góp phần cải thiện tích cực đời sống kinh tế của cộng đồng dân chài, giúp họ nhận thức được trách nhiệm của mình trong việc giữ gìn môi trường Vịnh Hạ Long cũng chính là bảo vệ lợi ích của mình. Chương II Thực trạng hoạt động hướng dẫn du lịch tại các điểm thăm quan trên Vịnh Hạ Long Trong những năm gần đây, đặc biệt sau Năm du lịch Hạ Long 2003, lượng khách du lịch cả trong và ngoài nước từ khắp nơi ồ ạt đổ về Hạ Long. Sự tăng nhanh về số lượng khách là kết quả của công tác tuyên truyền quảng bá du lịch mà góp phần không nhỏ vào đó là nhờ những nỗ lực, cố gắng của hoạt dộng hướng dẫn du lịch do ban quản lý Vịnh Hạ Long trực tiếp chỉ đạo và quản lý. Đây là một cơ quan chuyên môn có trách nhiệm giúp UBND tỉnh Quảng Ninh bảo tồn và phát huy giá trị của Vịnh Hạ Long, mà trọng tâm là khu vực Di Sản. Khách du lịch khi đến thăm quan Vịnh Hạ Long ngoài mong muốn chiêm ngưỡng kì quan vô giá, họ còn hy vọng sẽ nhận được thông tin hấp dẫn về địa điểm nơi họ đến và sự phục vụ nhiệt tình chu đáo từ các dịch vụ du lịch. Chính vì vậy, việc xem xét thực trạng hoạt động hướng dẫn du lịch phải trên cả hai khía cạnh: con người và cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ cho hoạt động hướng dẫn. 2.1 Đội ngũ hưỡng dẫn viên Trong phạm vi đề tài nhỏ hẹp chỉ xét đến hướng dẫn viên công tác tại Trung tâm tuyên truyền hướng dẫn của Ban quản lý Vịnh Hạ Long. 2.1.1 Số lượng hướng dẫn viên Hiện tại, Trung tâm tuyên truyền hướng dẫn gồm có tất cả 50 hướng dẫn viên công tác ở 5 địa điểm chính là: Cảng tàu du lịch Bãi Cháy, Động Thiên Cung, hang Đầu Gỗ, hang Sửng Sốt và làng chài Cửa Vạn. Cơ cấu độ tuổi Thời điểm:tháng 4/2007 Độ tuổi Số lượng (người) Tỷ lệ (%) 20 – 25 21 42 26 - 30 20 40 31 - 35 8 16 36 - 40 0 0 Trên 40 1 2 Tổng cộng 50 100 Bảng 1 : Cơ cấu độ tuổi hướng dẫn viên (Nguồn: Trung tâm tuyên truyền hướng dẫn) Nhìn vào bảng số liệu trên, ta nhận thấy số lượng hướng dẫn viên phần lớn ở độ tuổi còn trẻ, trong độ tuổi 20 - 30, chiếm tới 82% tổng số lượng hướng dẫn viên. Điều này phản ánh sự phù hợp với xu thế phát triển chung của ngành du lịch - một ngành kinh tế năng động, đòi hỏi một đội ngũ lao động trẻ, có sức khoẻ.Do tính chất công việc của hoạt động hướng dẫn phải luân phiên giữa các địa điểm khác nhau, khoảng một tháng cơ quan sắp xếp lại nơi công tác cho hướng dẫn viên, vì thế đội hình trẻ sẽ dễ dàng thích nghi hơn với điều kiện nơi làm việc liên tục thay đổi. Số lượng hướng dẫn viên ở độ tuổi trung bình chiếm 18% tỷ lệ này là khá cao. Đây cũng là một yếu tố thuận lợi tạo ra môi trường làm việc có sự cạnh tranh và sự tiếp thu học hỏi giữa đội ngũ hướng dẫn viên trẻ và đội ngũ hướng dẫn viên có kinh nghiệm hơn. Tuy nhiên đội ngũ này được trọng dụng và đảm nhiệm nhiều công việc quan trọng. Vì thế cơ hội phát triển của đội ngũ hướng dẫn viên trẻ bị hạn chế. Cơ cấu giới tính: Giới tính Số lượng (người) Tỷ lệ (%) Nữ 43 86 Nam 7 14 Tổng cộng 50 100 Bảng 2: Cơ cấu tỷ lệ giới tính hướng dẫn viên (Nguồn: Trung tâm tuyên truyền hướng dẫn) Do chính sách ưu tiên đối tượng là nữ của Ban quản lý Vịnh Hạ Long, nên ta thấy tỷ lệ nữ giới vượt trội hơn so với nam giới (86% và 14%). Hầu hết hướng dẫn viên tại điểm chiếm đa số nên hướng dẫn viên nữ sẽ chiếm ưu thế hơn hướng dẫn viên nam, do không có những đòi hỏi về sự dẻo dai, sức chịu đựng hướng dẫn viên chuyên tuyến. Mặc dù vậy, với tỷ lệ nữ giới chiếm phần lớn, có những hạn chế phải đảm đương công việc gia đình và giai đoạn nghỉ trong thời kỳ sinh nở dẫn đến tình trạng mất cân đối và ảnh hưởng đến hiệu quả công việc. 2.1.2 Chất lượng hướng dẫn viên: Trình độ đào tạo: Cấp bậc: Trình độ Số lượng (người) Tỷ lệ (%) Đại học 28 56 Cao đẳng 3 6 Trung cấp 15 30 Bảng 3: Trình độ hướng dẫn viên (Nguồn số liệu thu thập từ Trung tâm tuyên truyền hướng dẫn) Dựa vào bảng số liệu trên ta nhận thấy trình độ đào tạo của hướng dẫn viên ở mức khá cao, tỷ lệ đại học chiếm tới 56%, trong đó phần lớn là cử nhân và có duy nhất một thạc sĩ văn hoá. Xét mối tương quan về trình độ của hướng dẫn viên từ cao xuống thấp, ta có: Đại học (56%), Trung cấp (30%), Tại chức (8%), Cao đẳng (6%). Các tỷ lệ khá chênh lệch, điều này phản ánh trình độ không đồng đều trong đội ngũ hướng dẫn viên. Tuy nhiên, Trung tâm tuyên truyền hướng dẫn của Ban quản lý Vịnh Hạ Long vẫn thường xuyên tổ chức đợt kiểm tra định kỳ đối với hướng dẫn viên, trong đó chủ yếu là kiểm tra về mặt kiến thức. Hoạt động này giúp cho hướng dẫn viên hệ thống hoá tri thức, bên cạnh việc duy trì vốn tri thức sẵn có còn bổ sung thêm tri thức mới. Ngoài ra nó giúp cân đối về mặt bằng kiến thức chung của hướng dẫn viên, những hướng dẫn viên đủ năng lực trình độ sẽ tiếp tục phát huy, những hướng dẫn viên yếu kém hơn sẽ phải trau dồi lại kiến thức, hoặc có thể bị loại bỏ. Cuộc thi “ Hướng dẫn viên giỏi tỉnh 2007” do UBND tỉnh Quảng Ninh phát động đã thu hút được đông đảo sự tham gia của các hướng dẫn viên công tác tại các cơ quan, công ty du lịch trên địa bàn tỉnh. Và hoà cùng không khí đó, các hướng dẫn viên của Ban quản lý Vịnh Hạ Long cũng đang chuẩn bị chu đáo để dự thi. Đó cũng là cơ hội tốt để hướng dẫn viên có dịp đánh giá lại năng lực của bản thân mình, từ đó có kế hoạch rèn luyện để nâng cao về kiến thức chuyên môn. Chuyên ngành: Số lượng hướng dẫn viên có chuyên ngành du lịch chiếm tỷ lệ cao (gần 70%), đó là một lợi thế vì đội ngũ này sẽ có được phong cách chuyên nghiệp của người làm du lịch, hiểu nghề hơn và làm việc có hiệu quả hơn. Bộ phận còn lại, họ lại có ưu thế khác về ngoại ngữ, về năng lực thuyết trình... Chính vì vậy, cơ quan vẫn tổ chức lớp đào tạo nghiệp vụ cho các hướng dẫn viên, các hướng dẫn viên không có chuyên ngành du lịch sẽ có cơ hội để học hỏi thêm về trình độ nghiệp vụ, các hướng dẫn viên có chuyên ngành du lịch được bổ sung thêm nghiệp vụ hướng dẫn. Trình độ ngoại ngữ: Tiếng Anh Tiếng pháp TiếngTrung Tiếng Nhật Tổng cộng A B C S ố lượng (ngư ời) 3 15 19 3 9 1 50 Tỷ lệ (%) 6 30 38 6 18 2 100 Bảng 4: Trình độ ngoại ngữ của hướng dẫn viên (Nguồn số liệu thu thập từ trung tâm tuyên truyền hướng dẫn) Số lượng hướng dẫn viên có trình độ ngoại ngữ là tiếng Anh chiếm đa số (74%) và ở mức độ khá chiếm tới 38%. Tiếp theo là đến số lượng hướng dẫn viên biết ngoại ngữ là tiếng Trung (18%), một tỷ lệ nhỏ thuộc về hướng dẫn viên biết tiếng Pháp và tiếng Nhật chỉ có một người ở mức trình độ trung bình. Tỷ lệ này cũng phản ánh xu hướng chung của ngành du lịch, sử dụng tiếng Anh là phổ biến vì nó được coi là ngôn ngữ giao tiếp quốc tế. Tuy nhiên, đối với lượng khách du lịch là người Trung Quốc chiếm tỷ lệ cao trong danh sách khách du lịch cũng gây ra những hạn chế do thiếu hướng dẫn viên phục vụ khách. Trình độ ngoại ngữ của hướng dẫn viên biết hai ngoại ngữ trở lên chiếm tỷ lệ rất nhỏ (6%), chủ yếu tập trung ở tiếng Anh, thiếu vắng hẳn một số ngoại ngữ rất cần thiết khác như: tiếng Nhật, tiếng Hàn Quốc, tiếng Thái Lan. Nhưng phải nhìn nhận một thực tế là khách nước ngoài khi đến tham quan vịnh Hạ Long, họ thường đi theo lộ trình của công ty du lịch do việc đặt Tour trước. Vì vậy chắc chắn đã có hướng dẫn viên của công ty du lịch đi kèm và đảm đương luôn nhiệm vụ cung cấp thông tin về địa điểm tham quan trong suốt cuộc hành trình. Đối với đoàn khách nước ngoài không có hướng dẫn viên suốt tuyến đi kèm hoặc khách nước ngoài đi du lịch lẻ, hướng dẫn viên của Ban quản lý Vịnh Hạ Long sẽ đón tiếp và phục họ từ Cảng tàu du lịch Bãi Cháy đi theo tuyến tham quan mà du khách đã lựa chọn. Đội ngũ hướng dẫn viên có ngoại ngữ khá sẽ được cử đi dẫn khách đại biểu của Tỉnh, góp phần phục vụ công tác ngoại giao của Tỉnh nhà. Còn tại các điểm tham quan cố định, hầu hết hướng dẫn viên chỉ phục vụ cho đoàn khách tham quan là người Việt, ngoại ngữ được sử dụng khi giới thiệu các ấn phẩm, sách báo, băng đĩa, hình ảnh về du lịch Hạ Long cho khách du lịch là người nước ngoài. Hiện nay, cơ quan vẫn tạo điều kiện để các hướng dẫn viên tham gia lớp Đại học tại chức ngoại ngữ nhằm nâng cao trình độ ngoại ngữ cho hướng dẫn viên. Về thâm niên công tác Thời gian công tác Số lượng (người) Tỷ lệ (%) Dưới 5 năm 31 62 Từ 5 - 9 năm 12 24 Trên 10 năm 7 14 Tổng cộng 50 100 Bảng 6: Thời gian công tác của hướng dẫn viên (Nguồn số liệu thu thập từ trung tâm tuyên truyền hướng dẫn) Số lượng hướng dẫn viên dày dạn kinh nghiệm chiếm tỷ lệ nhỏ (14%), một bộ phận làm công tác quản lý ở văn phòng, một bộ phận đảm trách nhiệm vụ hướng dẫn đoàn khách quan trọng. Theo bảng số liệu 1: Cơ cấu độ tuổi của hướng dẫn viên, số lượng hướng dẫn viên dưới 30 tuổi chiếm tới 82%, phù hợp tỷ lệ hướng dẫn viên có thời gian công tác dưới 10 năm chiếm tới 86%. Số lượng này ít cả về tuổi đời và tuổi nghề nhưng lại khá đông đảo. Tuy nhiên điều này phù hợp với xu thế chung của ngành du lịch, đặc biệt đối với nghề hướng dẫn, những người trẻ tuổi sẽ có ưu thế hơn mặc dù kinh nghiệm của họ không bằng thế hệ trước. Sự chênh lệch về trải nghiệm nghề nghiệp cũng tạo ra môi trường học tập, trao đổi, giúp đỡ lẫn nhau trong quá trình công tác. Cơ quan vẫn tổ chức những đợt tập huấn cho hướng dẫn viên, đi khảo sát thực tế và học hỏi kinh nghiệm tại các điểm tham quan nổi tiếng ở địa phương khác như Nghệ An, Huế, Phong Nha - Kẻ Bảng... Đó là cơ hội để hướng dẫn viên cọ sát và tích luỹ kinh nghiệm cho bản thân mình trên cơ sở sửa chữa những hạn chế và tiếp thu những ưu điểm của hướng dẫn viên ở địa phương ban. Phẩm chất nghề nghiệp: Cũng giống như ngành nghề khác, hướng dẫn viên cũng có những yêu cầu công việc riêng biệt. Ngoài yêu cầu về mặt kiến thức, hướng dẫn viên phải có nghiệp vụ hướng dẫn, điều này được thể hiện như sau: Về mặt tư thế, tác phong: Hầu hết hướng dẫn viên đều ở độ tuổi còn trẻ và được tuyển chọn nên có ưu thế ngoại hình ưa nhìn, cân đối, sức khoẻ ổn định, năng động. Lượng khách du lịch đến thăm quan vịnh Hạ Long thường là khá đông. Sự tập trung lượng khách lớn trong một không gian nhỏ hẹp tại các điểm du lịch như : Động Thiên Cung, hang Đầu Gỗ thường xuyên diễn ra, đặc biệt trong tháng cao điểm (tháng 6,7). Tuy nhiên các hướng dẫn viên vẫn đảm trách công việc hướng dẫn khách một cách nhanh nhẹn, linh hoạt, hạn chế tốt nhất sự chồng chéo nhau do khách du lịch tập trung ồ ạt. Trong quá trình dẫn khách, hướng dẫn viên dừng lại ở những nơi có phong cảnh đẹp, truyền đạt thông tin cần thiết cho khách, và dành thời gian cho khách tự do tham quan, ngắm cảnh, chụp hình lưu niệm. Hướng dẫn viên phải mặc đồng phục theo quy định của cơ quan, đeo thẻ hướng dẫn do Ban quản lý vịnh Hạ Long cấp, vì thế đã tạo nên một đội ngũ đồng đều, phong cách thoải mái, tự tin khi đứng trước khách du lịch. Về phong cách giao tiếp: các hướng dẫn viên đều được đào tạo bài bản và hầu hết đều có ý thức cao đã tạo nên phong cách giao tiếp văn minh, lịch sự. Số lượng hướng dẫn viên nữ nhiều có ưu thế tạo ra sự tinh tế, mềm mại và uyển chuyển hơn trong giao tiếp với khách du lịch. Tuy nhiên khi tiếp xúc với khách, các hướng dẫn viên còn thiếu những nụ cười nên đôi khi không tạo nên sự thân thiện và hiếu khách, đặc biệt đối với khách du lịch nước ngoài mà sự bất đồng ngôn ngữ đã là một hạn chế. Về thái độ phục vụ khách: Đối với đoàn khách có hướng dẫn viên đi cùng theo lộ trình tham quan, thời gian tiếp xúc của hướng dẫn viên với khách dài hơn, đối với đoàn khách yêu cầu hướng dẫn tại điểm, thời gian tiếp xúc ngắn hơn, do đó tính chất phục vụ cũng khác nhau. Đối với đoàn khách đi theo tuyến, hướng dẫn viên có điều kiện hỏi han, quan tâm tới khách, từ đó nắm bắt được tâm lý, mong muốn của khách và phục vụ đầy đủ, cẩn thận, tỉ mỉ hơn. Đối với đoàn khách tham quan tại điểm, hướng dẫn viên chủ yếu làm nhiệm vụ giới thiệu, cung cấp thông tin về điểm tham quan cho khách. Nhưng nhìn chung, đối với đoàn khách tuyến hay tại điểm, hướng dẫn viên đều giữ thái độ nghiêm túc, niềm nở và ân cần. Tuy nhiên, hướng dẫn viên của Ban quản lý vịnh Hạ Long còn thiếu chủ động trong việc đón tiếp, chào đón khách. Đối với những đoàn khách đã có hướng dẫn viên của công ty du lịch đi kèm, thường công việc hướng dẫn được giao cho họ kể cả ở những điểm tham quan trên tuyến, hướng dẫn viên của Ban quản lý chỉ phục vụ khi đoàn khách có nhu cầu và do hướng dẫn viên của công ty du lịch yêu cầu. Mặt khác, khi Vịnh Hạ Long vao mùa du lịch (mùa hè) xảy ra tình trạng thiếu hướng dẫn viên, có khi phải ghép các đoàn khách khác nhau vì nhu cầu của khách du lịch lớn, mà số lượng hướng dẫn viên không đủ để đáp ứng, điều này cũng ảnh hưởng đến tính chất phục vụ của hướng dẫn viên đối với du khách vì hướng dẫn viên không thể làm hài lòng được các đối tượng khách du lịch đa dạng này. Về lòng yêu nghề: Mỗi một nghề nghiệp, muốn gắn bó lâu dài đòi hỏi phải có niềm say mê ham thích, nói khác đi đó là lòng yêu nghề. Nó được thể hiện ở mỗi cá nhân là khác nhau. Có những hướng dẫn viên theo nghiệp hướng dẫn để phù hợp với chuyên ngành mà mình đã theo học. Có những hướng dẫn viên do có năng lực hướng dẫn mà đã chọn nghề này để phát huy bản thân mình. Lại có một bộ phận khác, dù không theo học chuyên ngành du lịch, nhưng do yêu thích công việc đã chuyển sang làm nghề hướng dẫn viên. Mục đích và hoàn cảnh lựa chọn công việc hướng dẫn đều rất đa dạng, chính điều này đã tác động đến mức độ nhiệt tình, tâm huyết của mỗi người trong công việc. Nếu không yêu nghề, hướng dẫn viên không thể cuốn hút người nghe. Cũng giống như nếu không yêu mến và trân trọng vẻ đẹp thẩm mỹ của vịnh Hạ Long, hướng dẫn viên không thể thổi hồn vào lời thuyết minh của mình làm nó trở nên sống động và làm say đắm lòng du khách khi ngắm nhìn kỳ quan vô giá do tạo hoá ban tặng. Hướng dẫn viên nếu sống với nghề và yêu nghề sẽ truyền tải được sự nồng nhiệt của mình tới du khách, để lại ấn tượng tốt đẹp và thu hút du khách lần sau quay trở lại. Hơn nữa, sự thay đổi địa điểm công tác cũng giúp hướng dẫn viên tích luỹ kinh nghiệm khác nhau đối với nghề nghiệp của mình. Bản chất của công việc hướng dẫn cũng phải thường xuyên thay đổi, điều này giúp hướng dẫn viên tăng cường khả năng thích nghi, ứng biến trong những trường hợp , hoàn cảnh khác nhau và kiến thức cũng như nghiệp vụ không bị mai một. Về sự nhiệt tình, tâm huyết: công việc hướng dẫn đòi hỏi hướng dẫn viên phải thường xuyên trau dồi cả về ngoại ngữ và nghiệp vụ. Những hướng dẫn viên trẻ rất chú trọng tới việc nâng cao trình độ bản thân mình để có thể theo đuổi nghề hướng dẫn lâu dài. Thời gian rảnh rỗi họ học tập và trao đổi kinh nghiệm với nhau. Trong điều kiện làm việc vất vả ở trên biển, có những điểm liên hệ hướng dẫn không đầy đủ tịên nghi nhưng có nhiều hướng dẫn viên vẫn gắn bó với nghề. Có hướng dẫn viên mặc dù sinh ra ở địa phương khác nhưng đã chọn Quảng Ninh làm quê hương thứ hai của mình và “sống với nghề” tại nơi này. Tuy nhiên, công việc của hướng dẫn viên tại điểm mang tính chất lặp lại, dễ gây nhàm chán nên hướng dẫn viên cungc bị hạn chế trong việc phát huy năng lực sáng tạo, tính năng động, cũng giảm dần mức độ tâm huyết với nghề nghiệp. Thu nhập,phúc lợi của hướng dẫn viên: Mức thu nhập trung bình của hướng dẫn viên là từ 1,5 - 2 triệu/tháng. Đối với hướng dẫn viên có trình độ Đại học được hưởng bậc lương cao hơn so với hướng dẫn viên có trình độ Cao đẳng và Trung cấp. Với mức lương bình quân như vậy cũng ảnh hưởng đến công việc hướng dẫn của hướng dẫn viên. Một số người đã chuyển qua công việc khác do không thích nghi được hoặc tìm được công việc có thu nhập cao hơn. Một bộ phận hướng dẫn viên phải dựa vào sự giúp đỡ từ phía gia đình, cùng làm kinh tế với gia đình để có tăng thêm nguồn thu nhập. Một bộ phận khác làm cộng tác viên hướng dẫn cho công ty du lịch, thường tập trung ở hướng dẫn viên có trình độ ngoại ngữ cao, chiếm tỷ lệ rất nhỏ (khoảng 12%). Như vậy, ngoài công việc chính thức là hướng dẫn viên của Ban quản lý, mỗi người có những cách khác nhau để tìm kiếm thêm thu nhập cho mình. Cơ quan cũng tạo điều kiện cho hướng dẫn viên làm thêm công việc phụ vào những ngày nghỉ bù và có những ưu tiên trong trường hợp nhất định. Ngoài tiền thưởng của cơ quan, hướng dẫn viên còn được nhận tiền bồi dưỡng từ khách du lịch. Đây là khoản tiền phát sinh tuỳ thuộc vào từng đoàn khách. Khoản tiền này tuy nhỏ nhưng lại là nguồn động viên, khuyến khích, giúp hướng dẫn viên có thêm nhiệt tình tiếp tục theo đuổi công việc mình lựa chọn. Mặc dù vậy, hầu hết hướng dẫn viên của Ban quản lý đều trúng tuyển viên chức nhà nước và được hưởng mức lương theo quy định, điều này không tạo ra động lực để hướng dẫn viên cố gắng. Những hướng dẫn viên làm việc hiệu quả sẽ không nhận được sự khen thưởng xứng đáng và không tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh trong nội bộ cơ quan. Hướng dẫn viên được hưởng những chế độ ưu đãi nhất định: được nghỉ 8 ngày/1 tháng, được hưởng nguyên lương, nhưng ngày nghỉ này có thể không nhất thiết phải là ngày thứ 7, chủ nhật như chế độ của công nhân viên chức và các ngành khác. Đối với hướng dẫn viên nữ trong thời kì sinh nở được nghỉ 4 tháng và hưởng tiền lương theo mức qui định. 2.2 Chất lượng hoạt động hướng dẫn Yếu tố con người mà cụ thể là đội ngũ hướng dẫn viên đóng vai trò quyết định, do tính chất trực tiếp hướng dẫn khách du lịch. Tuy nhiên để làm nên thành công trọn vẹn cho hoạt động hướng dẫn cần có sự đóng góp của cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động hướng dẫn, bao gồm : chất lượng bài thuyết minh, lộ trình tham quan và một phần nhỏ ở cả phương tiện tham quan. 2.2.1 Chất lượng bài thuyết minh: Tất cả các bài thuyết minh trên tuyến và tại các điểm tham quan trên Vịnh Hạ Long đều do hướng dẫn viên chủ động biên soạn, dựa trên nguồn thông tin từ các tài liệu, sách báo, ấn phẩm của Trung tâm tuyên truyền hướng dẫn. Mỗi người có những cách thức của riêng mình để dẫn dắt, thuyết trình sao cho truyền tải được thông tin có giá trị đến với du khách. Đánh giá chất lượng bài thuyết minh căn cứ vào một số tiêu chí như sau: Lượng thông tin truyền đạt Vịnh Hạ Long là một điểm tham quan có diện tích rộng và có rất nhiều thông tin có thể giới thiệu cho du khách như : giá trị thẩm mĩ, giá trị địa chất địa mạo, giá trị sinh học và giá trị văn hoá. Nhưng trong khoảng thời gian tham quan có hạn, hướng dẫn viên không thể cung cấp hết tất cả thông tin có liên quan đến Vịnh Hạ Long mà chỉ tập trung vào thông tin chính cần thiết và phù hợp với nhiều đối tượng tham quan. Những thông tin đó bao gồm giới thiệu tổng quan về Vịnh Hạ Long và vẻ đẹp hấp dẫn tại các điểm tham quan hang động. Xem xét nội dung bài thuyết minh, ta thấy lượng thông tin mang tính chất giới thiệu cảnh đẹp nhiêu hơn lượng thông tin mang tính chất khoa học, tỉ lệ chênh lệch là 70% và 30%. Điều này có thể giải thích do số lượng khách du lịch có mục đích tham quan ngắm cảnh chiếm đa số nên thông tin có tính chất giới thiệu phù hợp với phần đông du khách. Bên cạnh đó, đối với khách muốn nghiên cứu, tìm hiểu thì cần nhiều đến thông tin khoa học. Mặt khác còn tuỳ thuộc vào thời gian của khách mà hướng dẫn viên sẽ lựa chọn những thông tin để giới thiệu. Nếu thời gian tham quan dài, lượng thông tin sẽ đầy đủ và chi tiết, và ngược lại thời gian tham quan ngắn sẽ tập trung vào thông tin quan trọng. Thông tin đưa ra đều nhằm mục đích giúp du khách dễ nhớ để lại ấn tượng và phát huy trí tưởng tượng phong phú. Độ chính xác Những thông tin hướng dẫn viên đưa ra đều dựa trên cơ sở các tài liệu cơ quan cung cấp, đã được phát hành rộng rãi thành các ấn phẩm phổ biến. Chính vì vậy các bài thuyết minh tuy khác nhau về hình thức thể hiển nhưng đều thống nhất nhau về thông tin cơ bản, không xảy ra tình trạng trước một đối tượng thăm quan lại có những lời giới thiệu khác nhau. Độ chính xác tuy không phải là tuyệt đối được thể hiện ở việc đưa ra các con số nguồn gốc của các sự kiện lịch sử… đối với các thông tin chưa được xác định rõ ràng, hướng dẫn viên lựa chọn cách cung cấp thông tin và không đi sâu vào vấn đề. Những kì kiểm tra định kỳ của cơ quan giúp hướng dẫn viên kiểm tra lại nội dung bài thuyết minh, có sửa chữa và bổ sung để tránh việc chỉ truyền đạt những thông tin đã cũ mà thiếu vắng những thông tin hấp dẫn mới cập nhập. Đối với những thông tin mang tính chất khoa học đòi hỏi độ chính xác và sự tin cậy cao hơn, ví dụ như khi giới thiệu về quá trình hình thành hang động, măng đá, nhũ đá, cột đá… còn khi giới thiệu về các câu chuyện huyền thoại lưu truyền về Vịnh Hạ Long từ xa xưa, mỗi hướng dẫn viên có cách lựa chọn và lí giải của riêng mình để tăng thêm sự sinh động cho lời thuyết minh. Mức độ thuyết phục Một bài thuyết minh tại điểm tham quan hang động mất 40-45 phút. Vậy trong khoảng thời gian đó hướng dẫn viên phải làm gì để thu hút sự chú ý của khách? Điều này tuỳ thuộc vào sự khéo léo của từng hướng dẫn viên. Có rất nhiều lời ngợi ca, câu thơ đẹp, bài hát hay và nhiều hướng dẫn viên đã sử dụng chúng để dẫn dắt, giới thiệu và tạo sự truyền cảm đến du khách. Khi thuyết minh hầu hết các hướng dẫn viên đều sử dụng loa để tạo hiệu quả âm thanh. Đặc biệt trong hang động có diện tích quá lớn lời thuyết minh quá nhỏ sẽ không chú ý được du khách. Nhưng trong thời điểm khách du lịch đông, việc sử dụng loa với âm lượng to lại gây phản ứng ngược lại, dễ dẫn đến sụ phân tán của khách sang đoàn khác. Các điểm tham quan hang động thường được chia ra thành các điểm tham quan nhỏ hơn, do sự chia tách thành các ngăn nhỏ, để tạo sự liên tục cho lời thuyết minh khỏi bị ngắt quãng và kích thích tò mò của du khách hướng dẫn viên thường đưa ra lời trào mời và chi tiết thú vị để thu hút du khách. Vịnh Hạ Long là đối tượng tham quan tự nhiên nên khi thuyết minh hướng dẫn viên phải lựa chọn vị trí thích hợp để du khách vừa có thể nhìn bao quát và quan sát được kỹ càng, dùng kết hợp cả phương tiện kĩ thuật khác như tia laze giúp du khách có thể hình dung tốt hơn sự kì lạ của măng đá, nhũ đá trong hang động. Mức độ hấp dẫn Mỗi điểm tham quan đều có điểm hấp dẫn riêng, vì vậy nó cũng có quy định sức hấp dẫn của từng bài thuyết minh. Vịnh Hạ Long gồm nhiều hang động đẹp nổi tiếng cùng với hệ thông măng đá, nhũ đá muôn vàn hình thù kì ảo đã làm ngỡ ngàng biết bao du khách khi lần đầu tiên đặt chân đến nơi đây. Hiểu được vẻ đẹp tự nhiên kỳ thú, hướng dẫn viên đã vận dụng trí tưởng tượng làm sống dậy những hình ảnh vô tri đã bị hoá đá trở nên hết sức sinh động và rung động lòng du khách. Nhưng ở mỗi điểm tham quan lại có những “điểm nhấn” khác nhau. Nếu du khách đang đắm chìm trong câu chuyện huyền thoại về cung điện của vua Rồng ở động Thiên Cung thì đến với hang Đầu Gỗ lại càng ngạc nhiên bởi yếu tố lịch sử về cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm đang tái diễn tại đây, sang đến hang Sửng Sốt là khung cảnh kì lạ của một nhà hát Opera với cả một câu chuyện dài về truyền thuyết Vua thủy tề. 2.2.2 Lộ trình tham quan Lộ trình tham quan (hay tuyến tham quan) cũng là một yếu tố tham gia vào hoạt động hướng dẫn,nó tác động đến du khách cũng như hoạt động của hướng dẫn viên. Tuyến tham quan quyết định thời gian tham quan, ảnh hưởng đến sức khoẻ, tâm lí của du khách, từ đó hướng dẫn viên cũng cần có những điều chỉnh để tổ chức hoạt động hướng dẫn cho phù hợp. Trong phạm vi của khoá luận chỉ xét đến các tuyến tham quan chính trên Vịnh Hạ Long : Tuyến tham quan: động Thiên Cung – hang Đầu Gỗ – hòn Gà Chọi : 4 giờ. Đây là tuyến tham quan phổ biến nhất và được nhiều du khách lựa chọn. Trong hành trình tham quan 4 giờ, du khách mất 1 giờ đi trên tàu, thời gian đến tham quan là 3 tiếng, rất thoải mái khi tham quan hai hang động rất đẹp và nổi tiếng bậc nhất của Vịnh Hạ Long. Với mức thời gian vừa phải du khách sẽ không cảm thấy mệt mỏi, tâm trạng hứng thú khi nghe bài thuyết minh của hướng dẫn viên. Thời gian đi trên phương tiện ngắn giúp cho du khách có sức khoẻ khi tham quan hang động, do địa hình phải leo núi nhiều.Và nếu may mắn, du khách có thể đặt trước bữa ăn trưa trên tàu, trên đường quay trở về điểm xuất phát, vừa ngoạn cảnh vừa thưởng thức những món ăn biển tươi ngon. Tuyến tham quan: Mê Cung – Sửng Sốt – Ti Tốp: 6 giờ. Đây là hành trình thăm quan hang động và tắm biển, được nhiều người yêu thích vì khoảng thời gian 6 tiếng không quá lâu, có thể đi qua nhiều cảnh đẹp. Du khách mất khoảng 3 giờ đồng hồ trên phương tiện cả đi lẫn về. Điểm dừng chân lâu nhất là đảo Ti Tốp, khoảng 1 giờ 30 phút, du khách sẽ được đắm mình trong làn nước trong xanh của Vịnh Hạ Long. Bên cạnh việc giới thiệu cảnh đẹp trên Vịnh Hạ Long để hấp dẫn khách du lịch, ngoài hang động đẹp còn có vô vàn đảo đá hình dánh đặc sắc: hòn Đầu Người, hòn Con Rùa…với những lời giới thiệu ngắn gọn để khách có thể thư giãn. Hướng dẫn viên cũng phải dành nhiều thời gian để du khách tự suy nghĩ và cảm nhận. Điều đí giúp họ cảm thấy thoải mái, được nghỉ trước khi đến mỗi điểm tham quan cũng như tại các điểm tham quan. Tuyến tham quan: Mê Cung - lang chài Cửa Vạn – Hồ Ba Hầm: 8 giờ Hành trình này khá dài và phải di chuyển đến các điểm tham quan ở xa nhau nên có thể làm du khách cảm thấy mệt. Tuy nhiên việc khám phá làng chài Cửa Vạn cũng đem lại cho du khách rất nhiều điều hấp dẫn: bộ sưu tầm biển, giới thiệu về cuộc sống trên sông nước. Du khách sẽ ở trên phương tiện khoảng 4 giờ, nhưng bù lại được ngắm nhìn rất nhiều dãy đảo đẹp trên mặt Vịnh Hạ Long. Thời gian tham quan ở mỗi điểm là không nhiều, vì thế hướng dẫn viên chú ý cung cấp những thông tin chính và thú vị để du khách không cảm thấy quá căng thẳng trong suốt tuyến tham quan trên biển. Tuyến: Bái Tử Long – Ngọc Vừng – Quan Lạn: 2 ngày 1 đêm. Hành trình này mất nhiều thời gian và dành cho du khách ưa thích khám phá, mạo hiểm. Du khách sẽ đến tham quan những địa điểm thú vị khác nằm ngoài xa Vịnh Hạ Long, nơi hứa hẹn mang đến nhiều điều mới mẻ hấp dẫn không kém gì khu vực di sản. Lộ trình tham quan này có thể làm du khách rất mệt mỏi, tốn nhiều sức do hành trình trên tàu kéo dài, ra ngoài khơi sóng lớn do sự tập trung hệ thống đảo đá ở đây đã thưa dần. Nhưng bù lại khách du lịch sẽ cảm thấy sảng khoái trước khung cảnh trời biển bao la với những làn gió thiên nhiên của vịnh Bái Tử Long – một vẻ đẹp tuyệt mĩ sánh ngang với nàng tiên kiều diễm Vịnh Hạ Long. Nghỉ đêm trên đảo Quan Lạn và đón bình minh trên bãi tắm Ngọc Vừng sẽ để lại những ấn tượng khó phai trong lòng du khách. Hướng dẫn viên không tham gia hành trình cùng du khách. Nên lựa chọn tuyến tham quan này, khách du lịch phải có sự thoả thuận trước với hướng dẫn viên hoặc nhờ đến sự hướng dẫn của hướng dẫn viên khác tại các điểm tham quan trên. 2.2.3 Phương tiện tham quan: Số lượng Tàu du lịch trên vịnh ngày căng tăng, tính đến 7/2006 có số tàu là 449, trong đó có hơn 80 tàu được cấp giấy phép lưu trú qua đêm. Về kích thước các tàu chia thành các loại như sau: - Tàu gỗ 10 – 15 chỗ: tàu nhỏ, 1 tầng, chạy chậm khoảng 8 đến 13km/h. Đi tàu này vào các ngày sóng to có thể bị lắc mạnh. Tuy nhiên nhóm ít người thích thuê tài này vì không phải đi chung với người khác. Nhiều nhóm 3,4 người cũng thuê cả tàu. - Tàu gỗ 10 -15 chỗ: tàu nhỏ, 1 tâng, chạy chậm khoảng 8 đến 13 km/h. Đi tàu này vào các ngày sóng to có thể bị lắc mạnh. Tuy nhiên nhóm ít người thích thuê tàu này vì không phải đi chung với người khác. Nhiều nhóm 3,4 người cũng thuê cả tàu. - Tàu gỗ 15- 25 chỗ: tàu có rộng hơn và có thể leo lên mui tàu ngồi ngắm cảnh. - Tàu gỗ 25 - 35 chỗ: tàu trung bình, có chỗ ngồi bên trên mui và có một số giường nhỏ bên dưới hầm tàu. - Tàu gỗ 35 - 60 chỗ: ngay bên trong tàu có buồng có cửa kính cho khách tránh khỏi gió mưa. Dưới hầm tàu có giường có nhân. Tốc độ trung bình 12 đến 15 km/h. Trên mui tàu có mái che, ghế ngồi. - Tàu có thép 60 - 70 chỗ: đây là loạ ràu chuyên dụng được sửa lai làm tàu du lịch, phục vụ chở nhân viên của cơ quan, và một số ít để chở khách du lịch. - Ca nô cao tốc: loại tàu nhỏ có 10 – 15 chỗ, chạy tốc độ cao khoảng 40km/h có thể thuê tàu này tại Bến Đoan, Hoàn Gai hoặc khu du lịch Hoàng Gia với giá từ 300.000 đ đến 500.000 đ cho một giờ tàu chạy, không tính thời gian tàu đỗ tại các đảo. Với số lượng tàu kể trên có công suất phục vụ khoảng 6000 người. Giá thuê tàu được tính theo giờ hoặc tính theo qui mô chất lượng của từng hạng tàu. Loại tàu Hành trình 4 giờ Hành trình 6 giờ Hành trình 8 giờ Cả tàu 1 người Cả tàu 1 người Cả tàu 1 người 10–15 người 15-25 người 25-35 người 35-60 người 60-70 người 280 000 360 000 400 000 450 000 800 000 30 000 20 000 16 000 15 000 15 000 380 000 500 000 550 000 600 000 1.100.000 42 000 28 000 22 000 19 000 19 000 490 000 630 000 700 000 750 000 1.400 000 54 000 35 000 28 000 24 000 24 000 Bảng 6: Bảng cước giá vận chuyển khách du lịch (Nguồn từ Cảng tàu du lịch Bãi Cháy) Khách du lịch có thể tham khảo bảng giá trên để lựa chọn phương tiện tham quan phù hợp với nhu cầu và khả năng tài chính. Tuy nhiên gí thuê tàu mùa hè cao hơn mùa đông, vào nhừng ngày nghỉ, giá có thể cao hơn những ngày bình thường. Chất lượng Đánh giá chung về tàu tham quan trên Vịnh Hạ Long tạm chia ra làm hai loại: tàu loại 1 (chuyên chở khách du lịch tham quan hang động) và tàu loại 2 (tàu nghỉ đêm, có xếp sao, cao nhất là 3 sao).Nhìn chung đội tàu du lịch khá hiện đại, chất lượng cao với những nhân viên được đào tạo tốt, có kinh nghiệm và kỷ luật. Du khách sẽ được phục vụ một cách tận tình, chu đáo và tạo cảm giác thoải mái khi di chuyển trên phương tiện. Nhìn lại kết quả quản lý đón tiếp khách tham quan Vịnh Hạ Long năm 2006, ta có bảng số liệu dưới đây: Nội dung Kết quả thực hiện năm 2005 Kết quả thực hiện năm 2006 So cùng kỳ 2005 Tổng lượt khách tham quan Vịnh Hạ Long +khách Việt Nam +khách nước ngoài Trong đó: Số khách lưu trú trên vịnh Số tàu lưu trú trên vịnh Số lượt tàu cập cảng Số lượt tàu biển du lịch thăm vịnh 1 418 136 608 775 809 361 / / 128 552 15 1 462 100 734 084 728 016 96 673 8 175 125 487 67 103% 120,5% 89,9% Từ 7-2006 97,61% 446% Nguồn: Thông tin di sản Vịnh Hạ Long [3,20] Hoạt động của các phương tiện tham quan trên Vịnh Hạ Long còn có sự tham gia của bộ phận tàu biển từ nước ngoài hoặc từ các vùng biển xa vào. Sự gia tăng mạnh của số lượt tàu biển đã làm giảm khả năng vận tải của tàu du lịch trên vịnh. Tuy nhiên vào mùa du lịch (từ tháng 5 trở đi), Ban quản lý Vịnh Hạ Long cấm tàu biển cập hang động để tránh tình trạng quá tải và gây nguy hiểm cho các phương tiện di chuyển trên vịnh. Điều đó giúp tăng cường sự ổn định và hoạt động có hiệu quả của hệ thống tàu tham quan Vịnh Hạ Long. Ngoài ra, đối với sự tham gi hoạt động du lịch của tàu tham quan còn tồn tại nhược điểm. Vì lợi ích kinh tế, chủ tàu đã giảm thời gian tham quan của du khách, có thể bằng cách đi nhanh hơn để tiết kiệm thời gian và tăng số lượt đón khách. Điều này sẽ ảnh hưởng đến hành trình tham quan của du khách cũng như bài thuyết minh của hướng dẫn viên trở nên sơ sài, kém hấp dẫn. 2.2.4 Các cơ sở vật chất kĩ thuật khác: Ngoài những nhân tố quan trọng tham gia vào hoạt động hướng dẫn du lịch như ở trên đã trình bày, còn có sự tham gia của nhiều bộ phận khác, không giữ vai trò chủ đạo nhưng góp phần vàp việc hoàn chỉnh hoạt động này. Ngoài tham quan là mục đích chính của khách du lịch, họ còn tiêu dùng các dịch vụ du lịch khác như: quà lưu niệm, dịch vụ đổi tiền, đặt vá máy bay, dịch vụ lưu trú…Tại cảng tàu du lịch Bãi Cháy, du khách sẽ được đáp ứng những nhu cầu này. Còn tại các điểm tham quan chỉ có dịch vụ bán hàng lưu niệm, khách du lịch nước ngoài có thể trả bằng tiền của nước họ. Phòng bán vé tham quan cùng với nhân viên kiểm soát vé. Khách du lịch có thể mua vé tại điểm xuất phát hoặc ngay tại các điểm tham quan. Nhân viên bảo vệ, thợ chụp ảnh cùng đóng góp công sức nhỏ bé của mình để phục vụ khách du lịch. Tổ công tác bảo vệ môi trường vẫn hằng ngày giữ gìn vẻ đẹp xanh tươi trên mặt biển Hạ Long. Chương III những đề xuất nhằm nâng cao chất lượng hoạt động hướng dẫn du lịch tại các điểm tham quan trên Vịnh Hạ Long 3.1 Những thành công cơ bản: Ban quản lý Vịnh Hạ Long đã có những cố gắng tích cực chủ động phối hợp với các ngành liên quan và cộng đồng địa phương tham gia vào công tác quản lý và đẩy mạnh hoạt động hướng dẫn du lịch tại các điểm tham quan trên Vịnh Hạ Long. Trên cơ sở những cố gắng này đã đạt những thành tựu đáng khích lệ. 3.1.1 Cách thức tổ chức đội ngũ lao động: - Công tác tuyển dụng đối với hướng dẫn viên - đội ngũ đóng vai trò quan trọng nhất trong hoạt động hướng dẫn du lịch. Không chỉ lựa chọn về trình độ mà còn lựa chọn cả về mặt hình thức, tác phong. Nhờ vậy, Ban quản lý đã có một đội hình hướng dẫn viên có trình độ, hình thức khá và tương đối đồng đều nhau. - Bố trí công việc: sự sắp xếp công việc giữa các tổ công tác hợp lý nhằm mang lại hiệu quả cao. Đối với điểm tham quan tập trung nhiều khách du lịch, ưu tiên hướng dẫn viên trẻ, có năng lực (tổ công tác Cảng tàu, Thiên Cung, Đầu Gỗ). Tuy nhiên, công việc hướng dẫn đòi hỏi sự đổi mới và năng động nên cứ khoảng hai tháng cơ quan lại có sự phân chia lại nhân lực giữa các tổ công tác, cũng là để hướng dẫn viên trau dồi lại kiến thức và nghiệp vụ bản thân mình. - Công tác đào tạo: cơ quan rất chú trọng việc đào tạo để nhằm nâng cao chất lượng của hướng dẫn viên. Đào tạo về kiến thức: cơ quan thường xuyên tổ chức đợt kiểm tra định kỳ đối với hướng dẫn viên, với các chủ đề khác nhau. Ngoài những kiến thức về Hạ Long là quan trọng và chủ yếu, hướng dẫn viên còn phải tự bổ sung các kiến thức văn hoá - lịch sử - xã hội khác. Điều này giúp cho hướng dẫn viên có được kiến thức toàn diện, cung cấp thông tin và giải đáp thắc mắc cho khách du lịch tốt hơn. Đào tạo về trình độ: đối với những hướng dẫn viên có nhu cầu nâng cao trình độ ngoại ngữ, trình độ đào tạo, cơ quan đều tạo điều kiện cho họ tham gia các lớp đại học tại chức. Đào tạo về nghiệp vụ: hằng năm Ban quản lý vẫn tổ chức những chuyến công tác tới các địa phương khác trong cả nước nhằm học hỏi tiếp thu kinh nghiệm. - Động viên về mặt vật chất, tinh thần: Cơ quan có những hình thức kỷ luật, khen thưởng rất khắt khe. Ngoài tiền lương cứng, nhân viên sẽ được hưởng tiền thưởng. Số tiền thưởng của mỗi người khác nhau căn cứ vào ý thức, tinh thần, trách nhiệm và hiệu quả lao động của từng người. Cơ quan quản lý công việc của nhân viên theo từng ngày, tổng kết lại sau một tháng và cuối cùng là một năm. Trong cơ quan để đánh giá sự cố gắng của từng nhân viên theo xếp hạng A,B,C từ cao xuống thấp. Nếu cả 12 tháng A, cuối năm sẽ được loại A và có khen thưởng xứng đáng. Nếu vi phạm qui chế tối thiểu chỉ cần một tháng thì cuối năm sẽ bị cắt thưởng. Qui định làm việc chặt chẽ nên đã tạo ra sự ổn định và môi trường làm việc nghiêm túc trong cơ quan. 3.1.2 Công tác kiểm tra, đánh giá: Ngoài các công tác tổ chức về đội ngũ hướng dẫn viên, cơ quan cũng chú trọng công tác kiểm tra các bài thuyết minh của hướng dẫn viên dưới cả hai hình thức: trực tiếp và gián tiếp. Đội kiểm tra vẫn thường xuyên có những đợt giám sát đột xuất tại các điểm tham quan và có nhắc nhở, phê bình cũng như động viên kịp thời. Tại cơ quan, hướng dẫn viên vẫn phải tham gia các kỳ kiểm tra thuyết trình bằng việc bốc thăm câu hỏi và trả lời miệng. Công tác kiểm tra đánh giá đã phát huy được năng lực thuyết minh của hướng dẫn viên, yêu cầu họ phải có sự chuẩn bị kĩ càng về bài hướng dẫn khi dẫn khách tham quan trên Vịnh Hạ Long. 3.2 Một số vấn đề còn tồn tại: - Trình độ hướng dẫn viên không đồng đều nhau, thể hiện ở cả trình độ đào tạo, chuyên ngành và ngoại ngữ. Đặc biệt nhiều hướng dẫn viên có ngoại ngữ khá nhưng không có nhiều cơ hội được sử dụng.Số lượng hướng dẫn viên đông nhưng việc dẫn các đoàn khách nước ngoài chỉ được giao cho một số hướng dẫn viên dày dặn kinh nghiệm. Vì thế đội ngũ trẻ ít có cơ hội để cọ sát thực tế chủ yếu đóng vai trò hướng dẫn viên đi kèm. - Điều kiện làm việc ở xa bờ khó khăn cho việc kiểm tra giám sát nên công tác quản lý còn hạn chế. Nhiều khi đội ngũ hướng dẫn viên còn tỏ ra thiếu nhiệt tình trong công việc, đôi khi còn tỏ thái độ thờ ơ, từ chối yêu cầu của khách. - Hướng dẫn viên còn chưa chấp hành nghiêm túc việc mặc đồng phục, tác phong còn thiếu nhanh nhẹn. Có một số hướng dẫn viên còn nói ngọng, khả năng thuyết trình còn thiếu truyền cảm. - Thu nhập thấp, chế độ khen thưởng ít không khuyến khích được nhân viên nỗ lực cố gắng, ảnh hưởng đến hiệu quả của hoạt động hướng dẫn. Nhiều hướng dẫn viên đã chuyển qua công việc khác. - Chất lượng bài thuyết minh phần lớn thiếu sáng tạo, còn sơ sài và mang tính dập khuôn. Vì thế không hấp dẫn được khách du lịch. Sự lặp lại thông tin dễ dẫn đến sự nhàm chán và không tạo được ấn tượng trong lòng du khách. Vì vậy tuy số lượng khách du lịch đến với Vịnh Hạ Long rất lớn nhưng tỷ lệ khách quay trở lại lần hai lại vô cùng nhỏ bé so với con số này. 3.3 Một số đề xuất: - Tăng cường hơn nữa công tác tuyển dụng và đào tạo để xây dựng một đội ngũ hướng dẫn viên đồng đều nhau về mọi mặt. - Chú trọng công tác kiểm tra giám sát để đội ngũ nhân viên có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc. - Nâng cao trình độ ngoại ngữ cho hướng dẫn viên bằng cách tổ chức cuộc thi thuyết trình bằng tiếng nước ngoài, rèn luyện ngoại ngữ trong giới thiệu và hướng dẫn khách du lịch. - Tạo điều kiện cho hướng dẫn viên tăng thêm thu nhập và tiếp tục theo đuổi công việc hướng dẫn, ví dụ: có khoản bồi dưỡng nếu phải làm thêm giờ hay vào mùa du lịch. Lúc đó cường độ lao động lớn nên có hình thức động viên kịp thời để không làm mất đi nhiệt huyết đối với công việc của hướng dẫn viên. - Tổ chức cuộc họp trong nội bộ Trung tâm để đưa ra giải pháp nhằm cải thiện chất lượng bài thuyết minh, tổng hợp những điều bổ ích, thú vị của mỗi hướng dẫn viên làm cho bài nói hấp dẫn, cuốn hút hơn. - Đẩy mạnh hơn nữa phong trào thi đua trong đội ngũ nhân viên để khuyến khích tinh thần làm việc hăng say và có hiệu quả, tạo ra môi trường làm việc năng động và chuyên nghiệp hơn. Kết luận Vịnh Hạ Long vốn đã đẹp nhưng để nó đẹp hơn nữa trong mắt bạn bè quốc tế, điều đó một phần phụ thuộc vào chất lượng của hoạt động hướng dẫn du lịch. Để khách du lịch đến với Hạ Long ngày càng nhiều và níu chân họ lần sau quay trở lại cần phải cải thiện hoạt động hướng dẫn du lịch toàn diện hơn. Bên cạnh những thành công vượt trội đáng khích lệ so với các địa phương trong cả nước, là nguồn lực để tiếp tục phấn đấu thì hoạt động hướng dẫn tại các điểm tham quan trên Vịnh Hạ Long vẫn còn tồn tại những nhược điểm khó tránh khỏi. Yêu cầu đối với các nhà quản lý phải có những biện pháp, chính sách kết hợp hoạt động hướng dẫn du lịch với các hoạt động khác để tạo ấn tượng và hiệu quả cho du lịch Quảng Ninh nói chung và du lịch Vịnh Hạ Long nói riêng. ở Việt Nam hiện nay có 7 di sản được thế giới công nhận, bao gồm cả di sản vật thể và phi vật thể, trong đó chỉ có Vịnh Hạ Long hai lần được công nhận. Trong tương lai, cần phải đẩy mạnh hoạt động du lịch để tôn vinh hơn nữa vẻ đẹp Vịnh Hạ Long – báu vật vô giá không chỉ của riêng Việt Nam mà còn của toàn nhân loại. “Nói gì đến những con trai con điệp Đáy biển đêm thao thức nhả ngọc lành Quà trang sức biển dành cho Tổ quốc Sẽ tha hồ khảm đất nước long lanh.” ( “Quà biển Hạ Long” – Hoàng Minh Châu,1964) Tài liệu tham khảo [1] Hạ Long – những lời đánh giá và ngợi ca, Ban quản lý Vịnh Hạ Long, tháng 1 – 2003. [2] Non nước Hạ Long, Hội Khoa học lịch sử Quảng Ninh 2003. [3] Thông tin di sản Vịnh Hạ Long, Ban quản lý Vịnh Hạ Long, số 18 – 01/20007. [4] Vịnh Hạ Long – Di sản thiên nhiên thế giới, Ban quản lý Vịnh Hạ Long, Tháng 1 – 2003. [5] Hà Hữu Nga, Hạ Long lịch sử, Ban quản lý Vịnh Hạ Long. [6] Hà Hữu Nga và Nguyễn Văn Hảo, Hạ Long thời tiền sử, Ban quản lý Vịnh Hạ Long 2002. [7] TS Nguyễn Khắc Hường, Đa dạng sinh học Hạ Long và vùng phụ cận, Ban quản lý Vịnh Hạ Long. [8] Nguyễn Tiến Hiệp và Ruth Kiew, Thực vật tự nhiên ở Vịnh Hạ Long, NXB Thanh Niên. [9] Phạm Hoàng Hải, Cẩm nang du lịch Vịnh Hạ Long, NXB Thế giới – Ban quản lý Vịnh Hạ Long 2000. www.halong-quangninh.com www.halong.org.vn www.halongbay.net.vnn.vn Mục lục Trang Mở đầu 1 Chương 1: Vịnh Hạ Long và các điểm thăm quan trên vịnh 4 1.1 Giới thiệu chung về Vịnh Hạ Long 4 1.1.1 Điều kiện tự nhiên 4 Vị trí địa lý 4 Địa hình, địa chất 5 Khí hậu 6 Đa dạng sinh học 7 Nguồn gốc tên gọi Vịnh Hạ Long 8 1.1.2 Điều kiện kinh tế – xã hội của địa phương 8 Lịch sử – văn hoá 8 Đặc điểm dân cư và mức sống của người dân địa phương 10 Điều kiện phát triển kinh tế 11 1.2 Tài nguyên du lịch tự nhiên được khai thác phục vụ các tuyến thăm quan trên vịnh 12 1.2.1 Động Thiên Cung 13 1.2.2 Hang Đầu Gỗ 14 1.2.3 Hang Sửng Sốt 15 1.2.4 Đảo Ti Tốp 15 1.2.5 Làng chài Cửa Vạn 16 Chương 2: Thực trạng hoạt động hướng dẫn du lịch tại các điểm thăm quan trên Vịnh Hạ Long 18 2.1 Đội ngũ hướng dẫn viên 18 2.1.1 Số lượng hướng dẫn viên Cơ cấu độ tuổi 19 Cơ cấu giới tính 20 2.1.2 Chất lượng hướng dẫn viên 20 Trình độ đào tạo 20 Phẩm chất nghề nghiệp 24 Thu nhập, phúc lợi của hướng dẫn viên 26 2.2 Chất lượng hoạt động hướng dẫn 27 2.2.1 Chất lượng bài thuyết minh 28 Lượng thông tin truyền đạt 28 Độ chính xác 29 Mức độ thuyết phục 29 Mức độ hấp dẫn 30 2.2.2 Tuyến tham quan 30 Động Thiên Cung – hang Đầu Gỗ – hòn Gà Chọi: 4 giờ 31 Mê Cung – Sửng Sốt – Ti Tốp: 6 giờ 31 Mê Cung – làng chài Cửa Vạn – Hồ Ba Hầm: 8 giờ 31 Bái Tử Long – Ngọc Vừng – Quan Lạn: 2 ngày 1 đêm 32 2.2.3 Phương tiện tham quan 32 Số lượng 32 Chất lượng 33 2.2.4 Các cơ sở vật chất kỹ thuật khác 35 Chương 3: Những đề xuất nhằm nâng cao chất lượng hoạt động hướng dẫn du lịch tại các điểm tham quan trên Vịnh Hạ Long 36 3.1 Những thành công cơ bản 36 3.1.1 Cách thức tổ chức đội ngũ lao động 36 3.1.2 Công tác kiểm tra, đánh giá 38 3.2 Một số vấn đề còn tồn tại 38 3.3 Một số đề xuất 39 Kết luận 40 Tài liệu tham khảo 41 Phụ lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docDL 135.doc
Tài liệu liên quan