Đề tài Thực trạng và nguyên nhân nghèo đói, đề xuất những giải pháp chủ yếu xóa đói giảm nghèo trên địa bàn Quảng Trị

Tài liệu Đề tài Thực trạng và nguyên nhân nghèo đói, đề xuất những giải pháp chủ yếu xóa đói giảm nghèo trên địa bàn Quảng Trị: đúng thực trạng và nguyên nhân nghèo đói, đề xuất những giải pháp chủ yếu XĐGN trên địa bàn Quảng Trị MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Từ khi lịch sử phát triển của xã hội loài người có sự phân chia gia cấp, vấn đề phân biệt giàu nghèo đã xuất hiện và cho đến nay vẫn đang tồn tại như một thách thức lớn đối với sự phát triển bền vững của từng Quốc gia, từng khu vực và toàn bộ nền văn minh hiện đại của nhân loại. Mục tiêu xoá đói giảm nghèo (XĐGN) luôn được đặt ra trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội không chỉ ở nước ta mà còn ở nhiều nước trên thế giới. Vì vậy, những năm gần đây nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế rất quan tâm tìm các giải pháp hạn chế nghèo đói và giảm dần khoảng cách phân hoá giàu, nghèo trên phạm vi toàn thế giới. Ở nước ta, xóa đói giảm nghèo được coi là mục tiêu xuyên suốt trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Ngay từ khi mới ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định mục tiêu cơ bản trong hoạt động của mình là g...

pdf115 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1041 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Thực trạng và nguyên nhân nghèo đói, đề xuất những giải pháp chủ yếu xóa đói giảm nghèo trên địa bàn Quảng Trị, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đúng thực trạng và nguyên nhân nghèo đói, đề xuất những giải pháp chủ yếu XĐGN trên địa bàn Quảng Trị MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Từ khi lịch sử phát triển của xã hội loài người có sự phân chia gia cấp, vấn đề phân biệt giàu nghèo đã xuất hiện và cho đến nay vẫn đang tồn tại như một thách thức lớn đối với sự phát triển bền vững của từng Quốc gia, từng khu vực và toàn bộ nền văn minh hiện đại của nhân loại. Mục tiêu xoá đói giảm nghèo (XĐGN) luôn được đặt ra trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội không chỉ ở nước ta mà còn ở nhiều nước trên thế giới. Vì vậy, những năm gần đây nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế rất quan tâm tìm các giải pháp hạn chế nghèo đói và giảm dần khoảng cách phân hoá giàu, nghèo trên phạm vi toàn thế giới. Ở nước ta, xóa đói giảm nghèo được coi là mục tiêu xuyên suốt trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Ngay từ khi mới ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định mục tiêu cơ bản trong hoạt động của mình là giải phóng dân tộc, xây dựng chế độ mới để đem lại ấm no, hạnh phúc cho mọi người dân, mọi gia đình Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, Đảng và Nhà nước phải tạo điều kiện "Làm cho người nghèo đủ ăn. Người đủ ăn thì khá. Người khá, giàu thì giàu thêm" [13, tr 303]. Vấn đề xóa đói giảm nghèo đã được đưa vào mục tiêu, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm (1996-2000). Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (năm 1996) đã khẳng định:"Thực hiện tốt chương trình XĐGN, nhất là đối với vùng căn cứ quân sự cách mạng, vùng đồng bào dân tộc thiểu số". Đại hội IX (năm 2001) tiếp tục khẳng định hướng đi đó và nhấn mạnh: "Việc tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với xóa đói giảm nghèo ngay trong từng bước đi và trong suốt quá trình Công nghiệp hóa-Hiện đại hóa đất nước. Phấn đấu đến năm 2010, về cơ bản không còn hộ nghèo" [14]. Công cuộc đổi mới của đất nước đã đạt được những thành tựu vượt bậc về phát triển kinh tế-xã hội, đời sống của đa số dân cư được cải thiện, công tác XĐGN đã thu được thành tựu đáng kể. Song, mức sống của người dân vẫn còn thấp, phân hóa thu nhập có xu hướng tăng lên. Một bộ phận khá lớn dân cư còn sống nghèo đói, trong đó có nhiều gia đình có công với Cách mạng vẫn còn chịu nhiều thiệt thòi trong hòa nhập cộng đồng và không đủ sức tiếp nhận những thành quả do công cuộc đổi mới mang lại. Cuối năm 2005, cả nước vẫn còn khoảng 22% số hộ nghèo đói. Chương trình mục tiêu quốc gia XĐGN đã triển khai mạnh mẽ ở tất cả các tỉnh, thành trong cả nước, nhưng hiệu quả chưa cao. Nhiều hộ thoát nghèo vẫn chưa vững chắc, rất dễ tái nghèo khi gặp thiên tai hay rủi ro bất thường trong đời sống và sản xuất kinh doanh,. Quảng Trị là một trong những tỉnh nghèo nhất khu vực Miền Trung, trong những năm qua, Quảng Trị đã tích cực thực hiện Chương trình XĐGN và thu được một số kết quả đáng kể; từ 1996-2005 tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân hàng năm trên 2 %. Tuy nhiên tỷ lệ hộ nghèo của tỉnh còn rất cao 28,48% (theo chuẩn nghèo giai đoạn 2006-2010 của Bộ LĐ-TB&XH). Đây đang là vấn đề bức xúc đặt ra cho tỉnh Quảng Trị, bởi thực hiện XĐGN trên địa bàn tỉnh không chỉ có ý nghĩa thực hiện mục tiêu chung của Quốc gia mà còn có vai trò thúc đẩy kinh tế-xã hội của tỉnh phát triển, vươn lên tránh tụt hậu; đồng thời hội nhập với các vùng khác trong khu vực và cả nước. Vì vậy, việc nghiên cứu, lý giải một cách đầy đủ và có hệ thống vấn đề nghèo đói, xác định các giải pháp thực hiện vừa đảm bảo đúng nguyên lý chung vừa phù hợp với thực tiễn của địa phương Quảng Trị là yêu cầu cấp thiết. 2. Tình hình nghiên cứu Xung quanh vấn đề nghèo đói, phân hóa giàu nghèo, XĐGN là chủ đề được Đảng, Nhà nước Việt nam, nhiều cơ quan trong nước, tổ chức quốc tế, cán bộ nghiên cứu quan tâm và có rất nhiều công trình nghiên cứu ở các khía cạnh khác nhau. Nhưng đáng chú ý là một số công trình sau: - UNDP “Tiến kịp”, 1996. - Nguyễn Thị Hằng, “Vấn đề XĐGN ở nông thôn nước ta hiện nay”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997. - Dương Phú Hiệp, Vũ Văn Hòa, “Phân hóa giàu - nghèo ở một số Quốc gia khu vực Châu Á-Thái Bình Dương”, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1999. - Ngô Quang Minh, “Tác động kinh tế của nhà nước góp phần XĐGN trong quá trình Công nghiệp hóa-Hiện đại hóa ở Việt Nam”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999. - Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam tổ chức hội thảo "XĐGN vùng dân tộc thiểu số: Phương pháp tiếp cận", năm 2001. - Trần Thị Hằng, "Vấn đề giảm nghèo trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay", Nxb Thống kê, năm 2001. - Lê Xuân Bá, Chu Tiến Quang, “Nghèo đói và XĐGN ở Việt Nam”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001. - Hội thảo nghiên cứu giảm nghèo ở nông thôn từ cách tiếp cận vi mô. Chương trình nghiên cứu Việt Nam, Hà Lan (VNRP), Đà Nẵng năm 2002. - Ngân hàng Thế giới “Đói nghèo và bất bình đẳng ở Việt Nam” năm 2004... Nhìn chung, các công trình nghiên cứu đã đề cập đến nhiều khía cạnh của vấn đề XĐGN. Đây là những tư liệu khoa học quý sẽ được tiếp thu có chọn lọc trong quá trình viết Luận văn này. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích: Nghiên cứu, khảo sát để đánh giá đúng thực trạng và nguyên nhân nghèo đói, đề xuất những giải pháp chủ yếu XĐGN trên địa bàn Quảng Trị, làm cơ sở cho việc xây dựng, chỉ đạo điều hành kế hoạch phát triển KT-XH của tỉnh có hiệu quả. Nhiệm vụ: Để thực hiện mục đích trên, Luận văn có nhiệm vụ: + Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về nghèo đói và XĐGN. + Phân tích thực trạng nghèo đói và hoạt động XĐGN ở tỉnh hiện nay, chỉ rõ nguyên nhân chủ yếu dẫn đến nghèo đói và những vấn đề đặt ra cho công tác XĐGN trên địa bàn tỉnh Quảng Trị. + Xác định mục tiêu và một số giải pháp chủ yếu thực hiện XĐGN ở Quảng Trị trong thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng: Đề tài tập trung nghiên cứu các đối tượng là người nghèo, xã nghèo, vùng nghèo trong tỉnh. Phạm vi nghiên cứu: Quảng Trị có đặc điểm tương đối phức tạp về điều kiện sống, khí hậu, và địa hình,... có nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến nghèo đói cho từng vùng, từng hộ. Ở Quảng Trị, dân số nông thôn chiếm tỷ lệ cao, vì thế luận văn đi sâu nghiên cứu vấn đề nghèo đói và XĐGN ở vùng nông thôn. Mặt khác, để phục vụ cho yêu cầu chỉ đạo chương trình XĐGN phù hợp với đặc điểm của địa phương, luận văn phân tích 3 vùng kinh tế sinh thái của tỉnh là: Vùng ven biển, vùng đồng bằng trung du và vùng núi. Về thời gian luận văn phân tích chủ yếu từ năm 1996 đến nay, khi các hoạt động XĐGN trên địa bàn tỉnh được đưa vào Nghị quyết. Về mục tiêu chiến lược và giải pháp XĐGN, dự báo đến năm 2015; một số mục tiêu được định lượng cụ thể đến năm 2010 để phù hợp với định hướng phát triển KT-XH của tỉnh. 5. Cở sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Để xem xét vấn đề nghèo đói và XĐGN một cách khách quan, khoa học và sát thực tiễn, luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối và chính sách của Đảng và Nhà nước ta về nghèo đói và XĐGN, vấn đề dân tộc. Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và các phương pháp nghiên cứu cụ thể của kinh tế học và xã hội học như: Phương pháp thống kê, phân tích tổng hợp, so sánh, phương pháp đồ thị, mô hình, phân tổ, điều tra, tổng kết thực tiễn... để đánh giá và làm sáng tỏ các vấn đề nghiên cứu của đề tài. 6. Những điểm mới của luận văn Trong quá trình nghiên cứu, luận văn sẽ tiếp tục kế thừa kết quả của nhiều công trình khoa học liên quan đến vấn đề nghèo đói và XĐGN; luận văn có những điểm mới sau đây: - Chỉ ra diễn biến nghèo đói và hoạt động XĐGN ở tỉnh Quảng Trị và những vấn đề đặt ra cần phải giải quyết. - Đưa ra một số giải pháp cơ bản có tính khả thi nhằm từng bước XĐGN ở Quảng Trị trong thời gian tới. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn có 3 chương, 8 tiết. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGHÈO ĐÓI 1.1. QUAN NIỆM VỀ NGHÈO ĐÓI VÀ TIÊU CHÍ XÁC ĐỊNH CHUẨN NGHÈO 1.1.1. Quan niệm về nghèo đói Vấn đề nghèo đói đã được đề cập trong chính sách của nhiều quốc gia và trong một số thập kỷ qua ở nhiều nước đã có bước tăng trưởng đáng kể về kinh tế và đời sống. Do vậy, chống nghèo đói là một trong những chính sách ưu tiên của Liên Hợp Quốc nhằm cải thiện đời sống cho khoảng trên 1,2 tỷ người đang sống trong tình trạng nghèo đói tuyệt đối. Do vấn đề nghèo đói diễn ra trên quy mô lớn nên hậu quả của nó đã tác động xấu đến vấn đề sinh thái, môi trường và sự bất ổn về chính trị ở nhiều vùng trên thế giới. Nó có ảnh hưởng không chỉ đối với các quốc gia nghèo mà còn có nguy cơ lan rộng và tác động toàn cầu như tàn phá môi trường sinh thái, vấn đề di dân quốc tế ồ ạt, tiêu cực XH lan rộng vv...Vì vậy, sự nghiệp chống nghèo đói không chỉ đối với các nước nghèo mà cả đối với các nước phát triển. Tại khóa họp đặc biệt của Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc về phát triển XH, tháng 6 năm 2000 tại Genever - Thụy Sỹ, các thành viên đã thống nhất cam kết, phấn đấu giảm một nữa số người nghèo trên thế giới. Hội nghị kêu gọi cộng đồng quốc tế đẩy mạnh chiến dịch "Tấn công vào nghèo đói" và khuyến nghị các quốc gia cần có chiến lược toàn diện về XĐGN. Tại hội nghị thiên niên kỷ đầu tháng 9 năm 2000 của Liên Hợp Quốc tại Washington (Mỹ), một lần nữa khẳng định: Chống nghèo đói là một trong những mục tiêu ưu tiên hàng đầu của cộng đồng quốc tế trong thế kỷ 21 [18, tr.3]. Tuy nhiên quá trình thực hiện XĐGN ở mỗi quốc gia có cách làm và giải pháp khác nhau. Lý do cơ bản có những khác nhau đó là ở mỗi quốc gia khác nhau, có trình độ phát triển KT-XH, điều kiện địa lý tự nhiên, trình độ dân trí, văn hóa, chính trị khác nhau nên khả năng đáp ứng các nhu cầu hưởng thụ vật chất, tinh thần cho dân chúng có khác nhau. Ngay trong một quốc gia thì ở mỗi thời kỳ, giai đoạn lịch sử khác nhau thì khả năng đáp ứng các nhu cầu trên cho dân chúng cũng khác nhau. Điều đó dẫn đến quan niệm về đói nghèo của các quốc gia có sự khác nhau và các giải pháp XĐGN cũng có sự khác nhau. Để xây dựng các giải pháp XĐGN, cần thiết phải có quan niệm đúng về nghèo đói và có sự thống nhất chung cho các quốc gia về các khái niệm nghèo đói. Nếu có sự khác nhau giữa các quốc gia thì đó chỉ là sự khác nhau về cách tiếp cận, chứ không phải khác nhau về bản chất của nghèo đói. Trên thế giới vấn đề nghèo đói được xem xét ở nhiều gốc độ và khía cạnh khác nhau, trong đó có khía cạnh kinh tế- xã hội theo các nghĩa rộng, hẹp khác nhau, cụ thể là: Các nhà khoa học có nhiều định nghĩa về nghèo như: Nghèo về vật chất, nghèo về tri thức, nghèo về văn hóa, nghèo về điều kiện sinh hoạt vv... Còn đói là khái niệm dùng để phân biệt mức độ rất nghèo của một bộ phận dân cư. Do vậy, nghèo đói hay đói nghèo là khái niệm kép. Trong tư duy của người Việt nam, đói có 2 dạng là đói kinh niên và đói gay gắt; nghèo cũng có 2 dạng là nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối. Nhưng dù ở dạng nào thì đói nghèo cũng có quan hệ mật thiết với nhau, nó phản ánh cấp độ và mức độ khác nhau, "nghèo là một kiểu đói tiềm tàng và đói là một tình trạng hiển nhiên của nghèo"[20, tr 18]. Nếu nghèo kéo dài và không ra khỏi vòng luẩn quẩn của cảnh trì trệ, túng thiếu thì dễ lâm vào tình trạng đói rách, cùng quẫn. Abapiasen-chuyên gia hàng đầu của tổ chức Lao động quốc tế (ILO) cho rằng: nghèo đói là sự thiếu cơ hội lựa chọn tham gia vào sự phát triển cộng đồng [19, tr 20]. UNDP đã đưa ra những định nghĩa nghèo [3, tr 27], như sau: - Sự nghèo khổ của con người: Thiếu những quyền cơ bản của con người như biết đọc, biết viết và được nuôi dưỡng tạm đủ. - Sự nghèo khổ về tiền tệ: Thiếu thu nhập tối thiểu thích đáng và khả năng chi tiêu tối thiểu. - Sự nghèo khổ chung: Mức độ nghèo kém nghiêm trọng hơn được xác định như không có khả năng thỏa mãn những nhu cầu lương thực và phi lương thực chủ yếu, những nhu cầu này đôi khi được xác định khác nhau ở nước này hay nước khác. Hội nghị bàn về giảm nghèo đói trong khu vực Châu Á-Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức vào tháng 9/1993 tại Bangkok (Thái Lan), các quốc gia trong khu vực đã thống nhất cho rằng:"nghèo đói là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con người đã được XH thừa nhận, tùy theo trình độ phát triển KT-XH và phong tục tập quán của từng địa phương [2, tr 8]. Đây là khái niệm tương đối đầy đủ và bao quát, nên có thể coi đây là định nghĩa chung nhất và có tính hướng dẫn về phương pháp nhận diện nét chính yếu phổ biến về đói nghèo của các quốc gia. Tuy nhiên, các tiêu chí và chuẩn mực về mặt lượng hóa chưa được xác định vì còn phải tính đến sự khác biệt về mặt chênh lệch giữa các điều kiện tự nhiên, xã hội và trình độ phát triển của mỗi vùng, miền khác nhau. Ưu điểm của khái niệm này là: Làm rõ được bộ phận dân cư nghèo đói là: "Tùy theo trình độ phát triển KT-XH và phong tục tập quán từng địa phương"... Nghèo có 2 dạng: Nghèo tương đối và nghèo tuyệt đối. Nghèo tuyệt đối là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn nhu cầu cơ bản, tối thiểu để duy trì cuộc sống. Nhu cầu cơ bản, tối thiểu đó là mức bảo đảm tối thiểu về ăn, mặc, nhà ở, nước sinh hoạt, y tế, giáo dục và vệ sinh môi trường. Nghèo tương đối là tình trạng một bộ phận dân cư có mức sống dưới mức trung bình của cộng đồng ở một thời kỳ nhất định. Như vậy, nghèo đói là khái niệm mang tính chất tương đối cả về không gian và thời gian. Nghèo tuyệt đối biểu hiện chủ yếu thông qua tình trạng một bộ phận dân cư có thu nhập thấp, không cho phép thỏa mãn các nhu cầu tối thiểu; trước hết là ăn- gắn liền với dinh dưỡng. Nhu cầu này cũng có sự thay đổi, khác biệt từng quốc gia và cũng được mở rộng dần. Còn nghèo tương đối gắn liền với sự chênh lệch về mức sống của một bộ phận dân cư so với mức sống trung bình của địa phương ở một thời kỳ nhất định. Vì vậy, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng: Việc xóa dần nghèo tuyệt đối là việc có thể làm, còn nghèo tương đối là hiện tượng thường có trong xã hội và vấn đề cần quan tâm là rút ngắn khoảng cách chênh lệch giàu-nghèo. Khái niệm nghèo tuyệt đối được sử dụng để so sánh mức độ nghèo khổ giữa các quốc gia. Trên cơ sở đó người ta đưa ra khái niệm quốc gia nghèo là đất nước có thu nhập bình quân đầu người rất thấp, nguồn lực cực kỳ hạn hẹp, cơ sở hạ tầng và môi trường yếu kém, có vị trí không thuận lợi trong giao lưu với cộng đồng quốc tế. Còn trong đấu tranh chống nạn nghèo đói người ta dùng khái niệm nghèo tuyệt đối. Quan niệm nghèo đói của Việt Nam: Dựa trên các khái niệm của các tổ chức thế giới, Việt Nam đã đưa ra các khái niệm cụ thể hơn và được nghiên cứu ở các cấp độ: cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng. Chương trình mục tiêu quốc gia về XĐGN giai đoạn 1998-2000 của Việt Nam đã đưa ra các khái niệm: Nghèo, đói, hộ đói, hộ nghèo, vùng nghèo...và có các tiêu chí xác định cho từng loại cụ thể. Về khái niệm nghèo của Việt Nam thì cơ bản thống nhất với khái niệm nghèo đói của ESCAP. Đói là tình trạng của một bộ phận cư dân nghèo có mức sống dưới mức tối thiểu và thu nhập không đủ bảo đảm nhu cầu về vật chất để duy trì cuộc sống. Đó là những hộ dân cư hàng năm thiếu ăn, đứt bữa từ một đến hai tháng, thường vay mượn của cộng đồng và thiếu khả năng chi trả cho cộng đồng. Đói là nấc thang thấp nhất của nghèo, đây vốn thuần túy là đói ăn, nằm trọn trong phạm trù kinh tế vật chất và khác với đói thông tin, đói hưởng thụ văn hóa, thuộc phạm trù văn hóa tinh thần. Khái niệm đói cũng có hai dạng; đói kinh niên và đói cấp tính (đói gay gắt). - Đói kinh niên:Là bộ phận dân cư đói nhiều năm liền cho đến thời điểm đang xét. - Đói cấp tính: Là bộ phận dân cư rơi vào tình trạng đói đột xuất do nhiều nguyên nhân như gặp tai nạn, thiên tai, rủi ro khác tại thời điểm đang xét. - Hộ đói: Là hộ cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, con cái không được học hành đầy đủ, ốm đau không có tiền chữa bệnh, nhà cửa rách nát... - Hộ nghèo: Là hộ đói ăn nhưng không đứt bữa, mặc không đủ lành, không đủ ấm, không có khả năng phát triển sản xuất. - Xã nghèo: Là xã có tỷ lệ nghèo cao, không có hoặc rất thiếu những cơ sở hạ tầng thiết yếu như: điện, đường, trường, trạm, nước sạch vv...trình độ dân trí thấp, tỷ lệ mù chữ cao. - Vùng nghèo: Là địa bàn tương đối rộng, nằm ở những khu vực khó khăn hiểm trở, giao thông không thuận tiện, có tỷ lệ xã nghèo, hộ nghèo cao. Tóm lại, nghèo đói là một phạm trù lịch sử, có tính tương đối. Tính chất và đặc trưng của nghèo đói phụ thuộc vào điều kiện địa lý tự nhiên, nhân tố chính trị, văn hóa và trình độ phát triển kinh tế-xã hội của vùng, miền, quốc gia, khu vực. Đặc điểm này có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận lẫn thực tiễn, là cơ sở của việc tìm kiếm đồng bộ các giải pháp XĐGN ở nước ta, nhất là vùng dân cư nông nghiệp và nông thôn hiện nay. 1.1.2. Tiêu chí xác định chuẩn nghèo Theo từ điển tiếng Việt thì tiêu chí và chuẩn có các nghĩa sau đây: Tiêu chí có nghĩa là: tính chất, dấu hiệu làm căn cứ để nhận biết, xếp loại một sự vật, một khái niệm [21, tr.990]. Như vậy, tiêu chí mang tính định tính. Chuẩn có nghĩa là: Cái được chọn làm căn cứ để đối chiếu, để hướng theo đó mà làm cho đúng, vật được chọn làm mẫu để thể hiện một đơn vị đo lường; cái được công nhận là đúng theo quy định hoặc đúng theo thói quen trong xã hội [21, tr.181]. Như vậy, chuẩn mang tính định lượng. Từ đó ta có thể hiểu chuẩn nghĩa là mốc giới hạn do nhà nước hay tổ chức quốc tế quy định về mức thu nhập mà nếu ai có thu nhập thấp hơn mức này gọi là nghèo, còn ai vượt qua giới hạn đó thì họ không phải là người nghèo. Chuẩn là công cụ để phân biệt giữa người nghèo và người không nghèo. Giữa chuẩn nghèo và tỷ lệ hộ nghèo có quan hệ tỷ lệ thuận với nhau, nếu chuẩn nghèo cao thì tỷ lệ hộ nghèo cao và ngược lại a) Tiêu chí xác định chuẩn nghèo của thế giới: Để đánh giá nghèo đói, UNDP dùng cách tính dựa trên cơ sở phân phối thu nhập theo đầu người hay theo nhóm dân cư. Thước đo này tính phân phối thu nhập cho từng cá nhân hoặc hộ gia đình nhận được trong thời gian nhất định, nó không quan tâm đến nguồn mang lại thu nhập hay môi trường sống của dân cư mà chia đều cho mọi thành phần dân cư. Phương pháp tính là: Đem chia dân số của một nước, một châu lục hoặc toàn cầu ra làm 5 nhóm, mỗi nhóm có 20% dân số bao gồm: Rất giàu, giàu, trung bình, nghèo và rất nghèo. Theo cách tính này, vào những năm 1990 thì 20% dân số giàu nhất chiếm 82,7% thu nhập toàn thế giới, trong khi 20% nghèo nhất chỉ chiếm 1,4%. Như vậy nhóm giàu nhất gấp 59 lần nhóm nghèo nhất [22, tr.11]. Hiện nay, Ngân hàng thế giới (WB) đưa ra các chỉ tiêu đánh giá mức độ giàu, nghèo của các quốc gia dựa vào mức thu nhập quốc dân bình quân tính theo đầu người trong một năm với 2 cách tính đó là: Phương pháp Atlas tức là tính theo tỷ giá hối đoái và tính theo USD. Phương pháp PPP (purchasing power parity), là phương pháp tính theo sức mua tương đương và cũng tính bằng USD. Theo phương pháp Atlas, năm 1990 người ta chia mức bình quân của các nước trên toàn thế giới làm 6 loại: + Trên 25.000 USD/người/năm là nước cực giàu. + Từ 20.000 đến dưới 25.000 USD/người/năm là nước giàu. + Từ 10.000 đến dưới 20.000USD/người/năm là nước khá giàu. + Từ 2.500 đến dưới 10.000USD/người/năm là nước trung bình. + Từ 500 đến dưới 2.500USD/người/năm là nước nghèo. + Dưới 500USD/người/năm là nước cực nghèo. Theo phương pháp thứ hai, WB muốn tìm ra mức chuẩn nghèo đói chung cho toàn thế giới. Trên cơ sở điều tra thu nhập, chi tiêu của hộ gia đình và giá cả hàng hóa, thực hiện phương pháp tính "rỗ hàng hóa" sức mua tương đương để tính được mức thu nhập dân cư giữa các quốc gia có thể so sánh. WB đã tính mức năng lượng tối thiểu cần thiết cho một người để sống là 2.150calo/ngày. Với mức giá chung của thế giới để đảm bảo mức năng lượng đó cần khoảng 1USD/người/ngày. Từ đó, năm 1995 WB đã đưa ra chuẩn mực nghèo khổ chung của toàn cầu là thu nhập bình quân đầu người dưới 370USD/người/năm. Với mức trên WB ước tính có trên 1,2 tỷ người trên thế giới đang sống trong nghèo đói. Tuy nhiên, theo quan điểm chung của nhiều nước, hộ nghèo là hộ có thu nhập dưới 1/3 mức trung bình của xã hội. Do đặc điểm của nền kinh tế-xã hội và sức mua của đồng tiền khác nhau, chuẩn nghèo đói theo thu nhập (tính theo USD) cũng khác nhau ở từng quốc gia. Ở một số nước có thu nhập cao, chuẩn nghèo được xác định là 14USD/người/ngày. Trong khi đó chuẩn nghèo của Malaixia là 28USD/người/tháng. Srilanca là 17USD/người/tháng. Bangladet là 11USD/ người/ tháng... Ở Việt Nam, GDP bình quân đầu người hiện nay khoảng 600 USD/ người/ năm, nên trên bình diện chung của thế giới nước ta là nước nghèo khó, do đó không thể lấy mức nghèo đói của WB để xác định nghèo đói của Việt Nam. Chỉ tiêu thu nhập quốc dân tính theo đầu người là chỉ tiêu chính mà hiện nay nhiều nước và nhiều tổ chức quốc tế đang dùng để xác định giàu nghèo. Nhưng cũng cần thấy rằng nghèo đói còn chịu tác động của nhiều yếu tố khác như văn hóa, chính trị, xã hội. Trong thực tế nhiều nước phát triển có thu nhập bình quân theo đầu người cao nhưng vẫn chưa đạt được sự phát triển toàn diện; Tình trạng thất nghiệp, nghèo đói, thiếu việc làm, ô nhiễm môi trường và những bất công khác vẫn còn phổ biến, khoảng cách giàu nghèo ngày càng tăng lên, xu hướng này không chỉ xảy ra ở những nước nghèo mà còn ở những nước khá và giàu. Qua đó có thể thấy rằng: nghèo khổ trong xã hội không chỉ là hậu quả của mức thu nhập thấp hay cao mà còn là kết quả của phân phối thu nhập và thực hiện công bằng xã hội. Vì vậy, để đánh giá vấn đề nghèo đói, bên cạnh tiêu chí thu nhập quốc dân bình quân, UNDP còn đưa ra chỉ số con người (HDI) bao gồm hệ thống ba chỉ tiêu: tuổi thọ, tình trạng biết chữ của người lớn, thu nhập bình quân đầu người trong năm. Đây là chỉ tiêu cho phép đánh giá đầy đủ và toàn diện về sự phát triển và trình độ văn minh của mỗi quốc gia, nhìn nhận các nước giàu nghèo tương đối chính xác và khách quan. b) Xác định chuẩn nghèo của Việt Nam: Trong những năm qua nước ta tồn tại song song một số phương pháp xác định chuẩn nghèo phục vụ mục đính khác nhau. Đó là cách xác định chuẩn nghèo của Chính phủ do Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội công bố; chuẩn nghèo của Tổng cục thống kê và Ngân hàng thế giới đưa ra để đánh giá nghèo đói trên giác độ vĩ mô. * Phương pháp xác định đường đói nghèo của Tổng cục thống kê và Ngân hàng thế giới: Tổng cục thống kê với vai trò thu thập, công bố và đánh giá số liệu cấp quốc gia và có thể so sánh quốc tế đã cùng Ngân hàng thế giới áp dụng phương pháp xác định chuẩn nghèo theo phương pháp đo lường mức sống của Ngân hàng thế giới được thực hiện trong các cuộc khảo sát mức sống dân cư ở Việt Nam (các năm 1992 - 1993 và 1997 - 1998) để xây dựng đường đói nghèo. Đường đói nghèo ở mức thấp là đường đói nghèo về lương thực, thực phẩm, được xác định bởi chi phí cần thiết để mua rỗ lương thực, thực phẩm cung cấp đủ lượng calo tiêu dùng bình quân 1người/ngày (2.100 calo). Đường đói nghèo ở mức cao hơn gọi là đường đói nghèo chung (bao gồm các mặt hàng lương thực, thực phẩm và phi lương thực, thực phẩm). Trên cơ sở xây dựng đường đói nghèo thì Tổng cục thống kê và WB đưa ra chuẩn nghèo đói của Việt Nam như sau: - Chuẩn nghèo đói về lương thực, thực phẩm năm 1993 là 750 nghìn đồng/người/năm và năm 1998 là 1.287 nghìn/người/năm tương đương 92 USD. - Chuẩn nghèo đói chung năm 1993 là 1.160 nghìn/người/năm và năm 1998 là 1.788 nghìn/người/năm tương đương 128 USD. Tuy nhiên, phương pháp này có một số hạn chế sau: Phương pháp này sử dụng rỗ hàng hóa từ năm 1993 đến nay đã hơn 10 năm nên không thể phản ánh được thực tế tiêu dùng hiện tại của đại đa số người dân Việt Nam. Sử dụng một chuẩn nghèo duy nhất áp dụng cho cả khu vực thành thị, nông thôn và chỉ cho phép đánh giá thực trạng nghèo đói của cả nước, không thể xác định và lập danh sách hộ nghèo cụ thể cho từng địa phương. * Phương pháp xác định chuẩn nghèo đói theo tiêu chuẩn quốc gia. Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội là cơ quan thường trực của chương trình XĐGN đã tiến hành rà soát chuẩn nghèo qua các thời kỳ. Lúc đầu nghèo được xác định dựa vào nhu cầu chi tiêu, sau đó chuyển sang chỉ tiêu thu nhập, kết quả là đã 4 lần công bố chuẩn nghèo đói cho từng giai đoạn khác nhau (bảng 1.1). Bảng 1.1: Quy định về chuẩn nghèo đói (Theo chuẩn quốc gia) Chuẩn nghèo đói qua các giai đoạn Phân loại người nghèo đói Mức thu nhập BQ/người/tháng 1993-1995(Mức thu nhập qui ra gạo) Đói(KV nông thôn) Dưới 8Kg Đói(KV thành thị) Dưới 13Kg Nghèo(KV nông thôn) Dưới 15Kg Nghèo(KV thành thị) Dưới 20Kg 1996-2000(Mức thu nhập qui ra gạo tương đương với số tiền) Đói(Tính cho mọi khu vực) Dưới 13Kg (45.000 đồng) Nghèo(KV nông thôn miền núi, hải đảo) Dưới 15Kg (55.000 đồng) Nghèo(KV nông thôn, đồng bằng trung du) Dưới 20Kg (70.000 đồng) Nghèo(KV thành thị) Dưới 25Kg (90.000 đồng) 2001-2005(Mức thu nhập tính bằng tiền) Nghèo (KV nông thôn miền núi, hải đảo) Dưới 80.000 đồng Nghèo(KV nông thôn đồng bằng trung du) Dưới 100.000 đồng Nghèo(KV thành thị) Dưới 150.000 đồng 2006-2010(Mức thu nhập tính bằng tiền) Nghèo (KV nông thôn) Dưới 200.000 đồng Nghèo(KV thành thị) Dưới 260.000 đồng Nguồn: Bộ LĐ-TB và XH, chương trình mục tiêu quốc gia về XĐGN giai đoạn 1998-2000 và Quyết định số 170/2005/QĐ-TTg. Đầu năm 1998, cả nước có 2,65 triệu hộ (khoảng 14 triệu dân) nghèo đói, chiếm 17,7% dân số (theo chuẩn chung của quốc tế là 37%). Trong đó có 300.000 hộ thường xuyên nghèo đói; Có 1.498 xã có tỷ lệ hộ nghèo đói từ 40% trở lên và 1.168 xã thiếu hạ tầng cơ sở thiết yếu (điện, đường, trường, trạm xá, chợ, nước sạch), 2/3 số xã nghèo là các xã miền núi, khoảng 1,2 triệu người ở 978 xã cần được định canh định cư và 15 vạn đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn cần được hỗ trợ phát triển. Đến cuối năm năm 2000, tỷ lệ hộ nghèo ở thành thị còn 6% và nông thôn là 11,2 %. Đầu năm 2001 khi thay đổi chuẩn nghèo đói, nước ta còn khoảng 2,8 triệu hộ nghèo (chiếm 17,11%), đến cuối năm 2005 còn khoảng 1,6 triệu hộ nghèo, chiếm 9,5%. Ưu điểm của phương pháp này là: Đảm bảo từng bước thỏa mãn nhu cầu của con người (ăn, mặc, ở, y tế, giáo dục, văn hóa...). Chuẩn được điều chỉnh gắn với tăng trưởng kinh tế, mức độ cải thiện điều kiện sống của người dân, tình hình thay đổi cơ cấu chi tiêu, thu nhập của người dân. Mặt khác theo phương pháp này, tạo điều kiện cho cơ sở có thể triển khai được việc lập danh sách hộ nghèo và xác định các hỗ trợ cần thiết. Tuy nhiên, phương pháp tiếp cận này có hạn chế là chưa tính toán đầu đủ nhu cầu tiêu dùng (chỉ chú ý một số nhu cầu lương thực, thực phẩm và một số nhu cầu phi lương thực, thực phẩm). Độ tin cậy chưa cao do không có điều kiện điều tra diện rộng, thu thập thông tin về thu nhập của người dân nông thôn và miền núi rất khó chính xác. Mặc dù có một số hạn chế nhưng cách tính chuẩn nghèo của Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội là tương đối phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam hiện nay. * Về tiêu chí xác định xã nghèo: Năm 1998, ủy ban Dân tộc và Miền núi đã ban hành quy định xã đặc biệt khó khăn (thuộc chương trình 135) là xã có đủ 5 tiêu chí sau: - Các xã vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới cách thành phố, thị xã, khu công nghiệp, trung tâm thương mại, quốc lộ, tỉnh lộ trên 10 Km. - Không có đường ôtô vào xã; các công trình điện, thủy lợi, nước sạch, trường học, bệnh xá, các dịch vụ khác rất thấp kém hoặc không có. - Môi trường XH chưa phát triển, trình độ dân trí quá thấp, tỷ lệ mù chữ và thất học trên 50%, bệnh tật nhiều, hủ tục lạc hậu, không có thông tin. - Điều kiện sản xuất rất khó khăn, thiếu thốn; số hộ không có đất và thiếu đất sản xuất trên 20%, số hộ có người làm thuê trên 20%. - Số hộ nghèo đói trên 30%. Đời sống còn nhiều khó khăn, còn tình trạng đói giáp hạt. Năm 2002, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội có Quyết định số: 587/2002/QĐ-BLĐTBXH quy định xã nghèo (ngoài chương trình 135) là xã có đủ 2 tiêu chí sau: - Có tỷ lệ hộ nghèo từ 25% trở lên. - Chưa có đủ 3 trong 6 hạng mục cơ sở hạ tầng thiết yếu, cụ thể như sau: + Dưới 30% số hộ được sử dụng nước sạch. + Dưới 50% số hộ được sử dụng điện sinh hoạt. + Chưa có đường ôtô tới trung tâm xã, ôtô không đi lại được cả năm. + Số phòng học mới đáp ứng dưới 70% nhu cầu của học sinh hoặc phòng tạm bằng tranh, tre, nứa, lá. + Chưa có trạm y tế hoặc có nhưng nhà tạm. + Chưa có chợ hoặc chợ tạm thời. Theo tiêu chí nêu trên thì hiện nay nước ta có khoảng........xã đặc biệt khó khăn (ĐBKK), và.......xã nghèo. 1.1.3. Nội dung của xoá đói giảm nghèo a. Khái niềm về giảm nghèo hay XĐGN. Giảm nghèo là làm cho bộ phận dân cư nghèo nâng cao mức sống, từng bước thoát khỏi tình trạng nghèo. Biểu hiện ở tỷ lệ % và số lượng người nghèo giảm. Nói một cách khác, giảm nghèo là quá trình chuyển bộ phận dân cư nghèo lên một mức sống cao hơn. Ở khía cạnh khác, giảm nghèo là chuyển từ tình trạng có ít điều kiện lựa chọn sang tình trạng có đầy đủ điều kiện lựa chọn hơn để cải thiện đời sống mọi mặt của mỗi người [3, tr 39]. Nói giảm nghèo trong đó luôn bao hàm xóa đói và cũng giống như khái niệm nghèo, khái niệm giảm nghèo chỉ là tương đối. Bởi nghèo có thể tái sinh mỗi khi quan niệm nghèo và chuẩn nghèo thay đổi. Hoặc có những biến động khác tác động đến như: khủng hoảng, lạm phát, thiên tai vv...Vì vậy, việc đánh giá mức độ giảm nghèo cần được xem xét trong một không gian và thời gian nhất định. Do cách nhìn nhận và đánh giá nguồn gốc của nghèo đói khác nhau, nên cũng có nhiều quan niệm về giảm nghèo khác nhau. Nếu hiểu nghèo là dạng đình đốn của phương thức sản xuất đã bị lạc hậu nhưng vẫn còn tồn tại thì giảm nghèo là quá trình chuyển đổi sang phương thức sản xuất tiến bộ hơn. Nếu hiểu nghèo là do phân phối thặng dư trong XH một cách bất công đối với người lao động, do chế độ sở hữu tư bản chủ nghĩa thì giảm nghèo là quá trình xóa bỏ chế độ sở hữu và chế độ phân phối này. Nếu hiểu nghèo là do hậu quả của tình trạng Chủ nghĩa thực dân đế quốc kìm hãm sự phát triển ở các nước thuộc địa, phụ thuộc thì giảm nghèo là quá trình các nước thuộc địa, phụ thuộc giành lấy độc lập để trên cơ sở đó phát triển KT-XH. Nếu hiểu nghèo là do sự bùng nổ gia tăng dân số vượt quá tốc độ phát triển kinh tế thì phải tìm mọi cách để giảm gia tăng dân số lại một cách hợp lý. Còn nếu hiểu nghèo là do tình trạng thất nghiệp gia tăng hoặc rơi vào tình trạng khủng hoảng kinh tế thì giảm nghèo chính là tạo việc làm, tạo cho XH ổn định và phát triển. Ở Việt Nam hiện nay không phải do bốc lột như trước đây mà do nền kinh tế ta đang trong quá trình chuyển từ nền kinh tế lạc hậu, kém phát triển sang nền kinh tế hiện đại. Trong nền kinh tế này tồn tại và đan xen nhiều trình độ sản xuất khác nhau. Trình độ sản xuất cũ, lạc hậu vẫn còn, trong khi đó trình độ sản xuất mới, tiên tiến lại chưa đóng vai trò chủ đạo, thay thế trình độ sản xuất cũ. Do đó, dẫn đến có sự giàu- nghèo khác nhau trong các tầng lớp dân cư. Như vậy, XĐGN ở nước ta chính là từng bước thực hiện quá trình chuyển đổi các trình độ sản xuất cũ, lạc hậu còn tồn đọng trong xã hội sang trình độ sản xuất mới cao hơn. Ở góc độ người nghèo: Giảm nghèo là quá trình tạo điều kiện giúp đỡ người nghèo có khả năng tiếp cận các nguồn lực của sự phát triển một cách nhanh nhất, trên cơ sở đó họ có nhiều khả năng lựa chọn hơn giúp họ từng bước thoát ra khỏi tình trạng nghèo. b. Sự cần thiết XĐGN ở nước ta: Giảm nghèo và tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ biện chứng với nhau. Tăng trưởng kinh tế tạo ra cơ sở, điều kiện vật chất để giảm nghèo. Ngược lại, giảm nghèo là nhân tố đảm bảo cho sự tăng trưởng kinh tế bền vững. Tăng trưởng kinh tế chịu tác động của các quy luật kinh tế như: Quy luật giá trị, quy luật cung cầu, cạnh tranh, lợi nhuận, năng suất lao động...Còn giảm nghèo lại chịu tác động của quy luật phân hóa giàu-nghèo, vấn đề phân phối và thu nhập, vấn đề lao động và việc làm , các chính sách xã hội vv...Trong quá trình vận động các yếu tố, các quy luật tác động lên tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo theo nhiều hướng. Một khi các tác động trên là trái ngược nhau thì sẽ làm triệt tiêu các khả năng làm tăng trưởng kinh tế cũng như điều kiện để thực hiện XĐGN. Do vậy, để đảm bảo được tăng trưởng kinh tế và giảm được nghèo đòi hỏi Nhà nước phải có sự can thiệp sao cho sự tác động của các yếu tố, các quy luật có tính đồng thuận. Như vậy, XĐGN sẽ là một trong những yếu tố quan trọng để đảm bảo tăng trưởng kinh tế bền vững; nghĩa là XĐGN là một yêu cầu cần thiết khách quan. XĐGN còn là yêu cầu cần thiết ổn định chính trị, xã hội: Ở nước ta hiện nay có trên 90% số hộ nghèo tập trung ở vùng nông thôn, nhất là vùng trung du, miền núi; trong đó số hộ nghèo là vùng dân tộc ít người (còn gọi là dân tộc thiểu số (DTTS)) và những hộ thuộc diện chính sách phải ưu tiên chiếm tỷ lệ khá cao. Trong những năm gần đây một số vấn đề về chính trị, xã hội ở một số vùng miền núi và những nơi khó khăn diễn biến phức tạp. Tình trạng một số tổ chức phản động khôi phục, chống phá, truyền đạo bất hợp pháp và nạn mê tín gia tăng, nếu gắn với nghèo đói thường xuyên sẽ có nguy cơ tạo nên sự mất ổn định chính trị. Điều đó có nghĩa là XĐGN ở nước ta không đơn thuần là một chương trình kinh tế mà còn là chương trình mang ý nghĩa ổn định chính trị, xã hội, củng cố niềm tin của nhân dân vào chế độ. Tóm lại: XĐGN là sự cần thiết và là sự kết hợp thống nhất giữa các chính sách về kinh tế, chính sách về xã hội và giữ vững chính trị. Nghèo đói trước hết là vấn đề kinh tế, đồng thời cũng là vấn đề xã hội nhức nhối, có tác động sâu sắc đến quan hệ xã hội, làm phát sinh các tệ nạn, gây mất ổn định xã hội và có thể làm mất ổn định chính trị. Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, XĐGN là yếu tố cơ bản để đảm bảo công bằng xã hội và tăng trưởng kinh tế bền vững; ngược lại chỉ có tăng trưởng kinh tế cao và bền vững mới có sức mạnh vật chất để hỗ trợ và tạo cơ hội cho người nghèo vươn lên thoát khỏi đói nghèo. c. Nội dung của XĐGN: - Thứ nhất là tăng thu nhập cho người nghèo, vùng nghèo: Khi đánh giá vấn đề nghèo đói, các tổ chức quốc tế cũng như các nước khác nhau lựa chọn phương pháp và chỉ tiêu đánh giá cơ bản giống nhau. Song cách xác định và mức độ cụ thể có những khía cạnh khác nhau. Để làm căn cứ tính toán mức nghèo đói người ta đều thống nhất dựa vào hai loại chỉ tiêu sau: + Chỉ tiêu chính: Thu nhập bình quân người/tháng hoặc năm và được đo bằng chỉ tiêu giá trị hoặc hiện vật quy đổi. + Chỉ tiêu phụ: Dinh dưỡng bữa ăn, nhà ở, mặc, y tế, giáo dục và các điều kiện đi lại. Như vậy, tăng thu nhập cho đối tượng nghèo là nội dung cần được quan tâm nhất đối với công tác XĐGN. Phần lớn người nghèo ở các nước đang phát triển phụ thuộc vào thu nhập từ sức lao động, từ công việc trên mãnh đất của họ, từ tiền lương hay từ những hình thức lao động khác. Tình trạng thiếu việc làm và năng suất lao động thấp dẫn đến thu nhập của người lao động thấp là khá phổ biến đối với người nghèo. Vì vậy, để tăng thu nhập cho người nghèo phải có giải pháp chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu sản xuất...để hỗ trợ tăng năng suất lao động và tạo việc làm cho người nghèo là cơ bản nhất. - Thứ hai là tăng khả năng tiếp cận các nguồn lực phát triển đối với người nghèo, vùng nghèo. + Phần lớn người nghèo tập trung chủ yếu ở vùng nông thôn, nhất là vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa. Những nơi này thường là xa các trung tâm kinh tế và dịch vụ xã hội. Hệ thống cơ sở hạ tầng thiếu và yếu hơn so với những vùng khác. Phổ biến là tình trạng thiếu điện, thiếu nước tưới, nước sinh hoạt, thiếu thông tin, thiếu chợ đầu mối, giao thông đi lại khó khăn vv...Do đó, năng suất lao động thấp, trong khi đó giá cả của sản phẩm do người sản xuất bán lại rẻ do vận chuyển khó khăn. Cơ hội tự vươn lên của người nghèo ở những vùng này lại càng khó khăn hơn. Điều đó cho thấy rằng: Nhà nước phải tích cực đầu tư cơ sở hạ tầng cho vùng nghèo, người nghèo, tạo điều kiện cho người nghèo được tiếp cận hệ thống cơ sở hạ tầng tốt hơn là một nội dung quan trọng trong công tác XĐGN, nhất là ở nước ta hiện nay. + Nghèo thường gắn liền với dân trí thấp; do nghèo mà không có điều kiện đầu tư cho con cái học hành để nâng cao trình độ hiểu biết. Dân trí thấp thì không có khả năng để tiếp thu tiến bộ của khoa học kỹ thuật để áp dụng vào sản xuất và không có khả năng tiếp cận với những tiến bộ văn minh của nhân loại nên dẫn đến nghèo về mọi mặt (kinh tế và tinh thần, chính trị). Vì vậy, để giảm nghèo phải nâng cao trình độ dân trí, nâng cao sự hiểu biết cho người nghèo là giải pháp có tính chiến lược lâu dài. + Một nội dung quan trọng nữa của công tác XĐGN là phải tạo điều kiện để giúp người nghèo tiếp cận có hiệu quả với các dịch vụ y tế, dịch vụ tài chính, tín dụng và tiến bộ của khoa học, kỹ thuật, công nghệ.vv... Hỗ trợ người nghèo về y tế để họ có điều kiện chăm sóc sức khỏe tốt hơn, hạn chế được bệnh tật, từ đó có điều kiện tái sản xuất sức lao động, đây là yếu tố quan trọng để tăng trưởng và phát triển. Người nghèo là những người có thu nhập thấp nên những lao động nghèo thường thiếu vốn để kinh doanh, thiếu kinh nghiệm sản xuất, thiếu thông tin thị trường và thiếu kiến thức về khoa học công nghệ. Do vậy, hoạt động XĐGN phải hỗ trợ cho người nghèo có được sự tiếp cận tốt hơn những yếu tố trên. - Thứ ba là XĐGN trước hết phải ưu tiên các đối tượng chính sách, vùng cách mạng. Ở nước ta, trong những năm đổi mới nền kinh tế đã có bước phát triển vượt bậc, đời sống của đa số dân cư được cải thiện; công tác XĐGN đã thu được những thành tựu đáng kể. Tuy vậy, mức sống của người dân vẫn còn thấp, phân hóa thu nhập có xu hướng tăng lên, một bộ phận khá lớn dân cư vẫn còn sống nghèo đói. Trong đó có một số vùng cách mạng, vùng dân tộc ít người và nhiều hộ gia đình có nhiều đóng góp cho cách mạng vẫn chịu nhiều thiệt thòi trong hòa nhập cộng đồng và không đủ sức tiếp nhận những thành quả do công cuộc đổi mới mang lại. Những giải pháp XĐGN tập trung cho đối tượng này vừa là yêu cầu cấp thiết đối với mục tiêu phát triển bền vững, vừa mang tính nhân văn sâu sắc. - Thứ tư là XĐGN phải mang tính bền vững: Trong thực tiễn XĐGN có tình trạng khá phổ biến là có rất nhiều hộ giá đình sau khi thoát nghèo một thời gian do nhiều nguyên nhân khác nhau như: gặp rủi ro trong kinh doanh, ốm đau, do tác động của phân hóa giàu - nghèo của quá trình phát triển v.v.. lại trở thành những hộ nghèo. Vì vậy, nhiệm vụ của công tác XĐGN không chỉ hỗ trợ để người nghèo sinh tồn và vượt qua ngưỡng cửa nghèo một cách thụ động mà phải có giải pháp tích cực để bản thân người nghèo chủ động tự vươn lên thoát nghèo vững chắc tiến tới trở thành hộ khá, hộ giàu. d. Lực lượng tham gia xóa đói giảm nghèo. Xóa đói giảm nghèo trước hết là bổn phận của chính người nghèo phải tự vươn lên và thoát nghèo. Trách nhiệm của Chính phủ và cộng đồng là trợ giúp để người nghèo tự vươn lên thoát nghèo; hiệu quả XĐNG sẽ đạt thấp, nếu bản thân người nghèo không tích cực và nỗ lực phấn đấu vươn lên để có mức sống cao hơn. Vì vậy, XĐGN phải được coi là sự nghiệp của bản thân người nghèo, cộng đồng nghèo, bởi vì sự nỗ lực tự vươn lên để thoát nghèo chính là động lực, là điều kiện cần cho sự thành công của mục tiêu chống nghèo đói ở các nước. Nhà nước thực hiện nhiệm vụ trợ giúp người nghèo biết cách thoát nghèo và tránh tái nghèo khi gặp rủi ro. Bên cạnh thực hiện một số chính sách hỗ trợ cụ thể về xây dựng cơ sở hạ tầng, hỗ trợ phát triển sản xuất, trợ cấp khi cần thiết thì tạo việc làm cho người nghèo bằng cách hướng dẫn người nghèo sản xuất, kinh doanh phát triển kinh tế theo điều kiện cụ thể của chính họ là điều kiện để thực hiện XĐGN thành công nhanh và bền vững. Các tổ chức hội, đoàn thể là những người tham gia tuyên truyền, vận động để truyền bá những chủ trương, chính sách của Nhà nước, hướng dẫn những kinh nghiệm và kiến thức về XĐGN; tham gia giám sát việc tổ chức thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ chương trình XĐGN của quốc gia, của địa phương. Cộng đồng dân cư và các đơn vị kinh tế, các tổ chức tài trợ hưởng ứng và tham gia thực hiện các cuộc vận động về hỗ trợ người nghèo. Như vậy, lực lượng tham gia XĐGN bao gồm: Nhà nước (Trung ương và địa phương), các tổ chức hôi, đoàn thể kinh tế-xã hội, cộng đồng dân cư, các nhà tài trợ trong và ngoài nước và cá nhân người nghèo là nhân tố cơ bản. 1.2. NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO Có nhiều nhân tố tác động đến nghèo đói và hoạt động XĐGN khác nhau. Tác động của những nhân tố này có thể làm cho môi trường phát triển thuận lợi hoặc khó khăn. Nếu môi trường phát triển khó khăn thì ở đó tình trạng tỷ lệ nghèo đói sẽ cao và diễn biến phức tạp, hoạt động XĐGN trở nên khó khăn hơn. Ngược lại nếu môi trường phát triển thuận lợi thì ở đó tỷ lệ nghèo đói có thể sẽ thấp và hoạt động XĐGN cũng có phần thuận lợi hơn. Khi nghiên cứu tác động của các nhân tố đến vấn đề nghèo đói người ta có thể chia thành những nhóm nhân tố cụ thể khác nhau. Một trong những cách chia đó là phân chia thành: Nhóm nhân tố thuộc về điều kiện tự nhiên; nhóm nhân tố thuộc về kinh tế; nhóm nhân tố xã hội; nhóm nhân tố thuộc về quan điểm chính sách xã hội. Do mục tiêu của đề tài là nghiên cứu các giải pháp thực hiện XĐGN nên trong đề tài này chủ yếu nghiên cứu mặt tác động không thuận lợi đến môi trường phát triển của các nhân tố trên để tìm giải pháp khắc phục là vấn đề cơ bản nhất của đề tài. 1.2.1. Những nhân tố thuộc điều kiện tự nhiên không thuận lợi cho môi trường phát triển bao gồm - Vị trí địa lý không thuận lợi, những nơi xa xôi, hẻo lánh giao thông đi lại khó khăn. Đây là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tỷ lệ nghèo đói cao ở các vùng, địa phương ở vào vị trí địa lý này. Do điều kiện địa lý như vậy, họ dễ rơi vào thế cô lập với bên ngoài, khó tiếp cận được với các nguồn lực của phát triển như: tín dụng, KHKT, công nghệ, thị trường vv... nên việc phát triển cơ sở hạ tầng, nhất là phát triển hệ thống giao thông có ý nghĩa to lớn đối với việc XĐGN. - Đất canh tác ít, đất cằn cỗi, khó canh tác, năng suất cây trồng, vật nuôi đều thấp. Đây là nguyên nhân dẫn đến sản xuất trong nông nghiệp gặp nhiều khó khăn, nhất là đối với những vùng thuần nông. Thiếu đất sản xuất ảnh hưởng đến khả năng bảo đảm lương thực của người nghèo và khả năng đa dạng hóa sản xuất để hướng tới những loại cây trồng có giá trị kinh tế cao, dẫn đến thu nhập của người nông dân thấp, việc tích lũy và tái sản xuất mở rộng bị hạn chế hoặc không có. Bởi thế người nghèo lại tiếp tục nghèo. - Địa hình phức tạp, bị chia cắt nhiều bởi sông suối và núi đá, đất dốc... Những vùng có địa hình như vậy việc tổ chức sản xuất sẽ gặp nhiều khó khăn, đất bị xói mòn, dễ bị khô hạn, chi phí sản xuất cao, hiệu quả sản xuất rất thấp. Hay ở những khu vực ven biển bãi ngang của miền Trung thường chủ yếu cồn cát và bãi cát trắng, tổ chức sản xuất rất khó khăn, đời sống của người dân đa phần là khổ cực, hoạt động XĐGN cũng gặp nhiều trở ngại. - Điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, hay gặp thiên tai như: hạn hán, lũ lụt, mưa bão, nạn cát bay, cát lấp vv... Những vùng có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, thiên tai thường xuyên xảy ra như khu vực miền Trung, một số tỉnh miền núi phía Bắc, làm cho việc XĐGN thiếu cơ sở bền vững. Nhiều vùng đang trù phú nhưng chỉ sau một trận thiên tai lũ lụt, bão thì hàng triệu người rơi vào cảnh thiếu đói, nhiều công trình hạ tầng công cộng và cơ sở sản xuất bị phá hỏng. Điển hình như cơn bão số 6 xảy ra đầu tháng 10 năm 2006 đổ bộ vào Thành phố Đà Nẵng và 4 tỉnh miền Trung gây thiệt hại to lớn về người và tài sản; ước thiệt hại về tài sản lên đến hàng chục ngàn tỷ đồng và rất nhiều hộ gia đình lâm vào cảnh màn trời chiếu đất. Thực tiễn đó đòi hỏi việc tìm kiếm những giải pháp giảm nhẹ thiệt hại thiên tai là một phần quan trọng của quá trình XĐGN. 1.2.2. Nhóm nhân tố thuộc về kinh tế không thuận lợi Ảnh hưởng không thuận lợi của những nhân tố thuộc về kinh tế đối với XĐGN bao gồm: Quy mô của nền kinh tế nhỏ bé, cơ cấu kinh tế lạc hậu, tốc độ tăng trưởng chậm, thu nhập của dân cư thấp, khả năng huy động nguồn lực vật chất cho XĐGN khó khăn, thị trường bị bó hẹp...; ưu tiên đầu tư nhiều vào vùng động lực phát triển kinh tế sẽ làm giảm nguồn lực cho đầu tư các vùng nghèo, hỗ trợ người nghèo. - Quy mô và tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế là yếu tố cơ bản để nhà nước tăng các nguồn thu và tích lũy tạo sức mạnh vật chất để hình thành và triển khai các chương trình hỗ trợ vật chất, tài chính và cho các xã khó khăn phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội. Người nghèo và cộng đồng nghèo nhờ đó có sự vươn lên thoát khỏi nghèo đói. Vì vậy, quy mô nền kinh tế lớn và tăng trưởng kinh tế cao, bền vững là điều kiện quan trọng để thực hiện XĐGN trên quy mô diện rộng. Ngược lại nếu quy mô nền kinh tế nhỏ bé thì lượng tuyệt đối về tích lũy sẽ nhỏ; tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm thì khả năng tăng quy mô tích lũy sẽ gặp trở ngại, nguồn lực dành cho XĐGN sẽ khó khăn. Bên cạnh đó lực lượng sản xuất ở trình độ thấp, cơ cấu kinh tế chậm tiến bộ, sản xuất nông nghiệp là chủ yếu với trình độ canh tác lạc hậu; cơ cấu sản xuất trong nội bộ các ngành kinh tế chậm đổi mới, hàm lượng khoa học - kỹ thuật trong sản phẩm thấp thì giá trị gia tăng trong giá trị sản phẩm sẽ nhỏ, khó cạnh tranh thị trường... dẫn đến năng suất lao động thấp, tốc độ tăng trưởng kém, khả năng tích lũy cho tái sản xuất mở rộng và huy động nguồn lực cho XĐGN sẽ hạn chế. Điều đó muốn nói lên rằng, quá trình XĐGN phải tìm kiếm giải pháp để nhanh chóng chuyển dịch cơ cấu của nền kinh tế theo hướng tiến bộ, chuyển đổi cơ cấu sản xuất trong nội bộ ngành để tạo ra nhiều sản phẩm có chất lượng và giá trị cao, cạnh tranh thị trường tốt vv... đảm bảo tăng tốc độ tăng trưởng và mở rộng quy mô của nền kinh tế; từ đó tăng nguồn lực để thực hiện các mục tiêu XĐGN. Chính kết quả XĐGN tốt sẽ tạo thêm một lực lượng sản xuất mới dồi dào hơn, đảm bảo sự ổn định và phát triển cho giai đoạn tiếp theo. - Thu nhập dân cư thấp và sự phân hóa thu nhập lớn là một bất lợi đối với người nghèo và công tác XĐGN. Rất nhiều cuộc điều tra mức sống dân cư cho thấy chênh lệch giàu - nghèo, thu nhập giữa các nhóm dân cư có xu hướng gia tăng. Năm 1993 ở vùng thành thị chiếm 24% dân số nhưng tạo ra trên 60% GDP với mức tăng trưởng trên 10% /năm. Ở nông thôn chiếm 76% dân số chỉ tạo ra 40% GDP với mức tăng trưởng chậm (gần 5% /năm) [2, tr 37]. Trong thực tế những năm qua tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước ta cơ bản đúng như nhận định trên. Theo tính toán thì năm 2000, dân số thành thị chiếm khoản 25% và tạo ra 68% GDP. Còn 75% dân số nông thôn chỉ tạo ra khoản 32% GDP. Chênh lệch về thu nhập giữa 20% nhóm giàu nhất và 20% nhóm nghèo nhất từ 4,3 lần năm 1993 tăng lên 8,14 lần năm 2002; khoảng chênh lệch giữa 10% nhóm giàu nhất và 10% nhóm nghèo nhất từ 12,5 lần năm 2002 tăng lên 13,5 lần năm 2004. Thu nhập bình quân của 20% nhóm nghèo nhất năm 2001 là 107.000đ/người/tháng. So sánh mức chi tiêu bình quân đầu người của 20% nhóm giàu nhất và 20% nhóm nghèo nhất thì năm 1992 - 1993 nhóm giàu nhất gấp 4,58 lần năm 1997 - 1998 gấp 5,49 lần và năm 2001 - 2002 gấp 6,15 lần [2, tr 11]. Hầu hết các hộ nghèo đều ở nông thôn, năm 2002 chiếm 90,5% tổng số hộ nghèo của cả nước. Do nguồn thu nhập thấp và bấp bênh, khả năng tích lũy kém nên các hộ nghèo ít có khả năng tái đầu tư sản xuất mở rộng và chống chọi với những biến cố xảy ra như: mất mùa, mất việc làm, mất sức khỏe vv... mặt khác rủi ro trong sản xuất kinh doanh đối với người nghèo cũng rất cao, nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường, do họ thiếu kinh nghiệm làm ăn, trình độ tay nghề thấp, thiếu thông tin v.v.. Vì vậy, thu nhập của người nghèo đã thấp rồi nhưng khả năng để tăng thu nhập của họ cũng rất khó khăn. Đây là một trở ngại lớn đối với XĐGN. Theo chuẩn nghèo giai đoạn 2006-2010 của nước ta (khu vực thành thị 260.000đ/người/tháng, khu vực nông thôn 200.00đ/người/tháng) thì cuối năm 2005 cả nước có khoảng 3,9 triệu hộ nghèo chiếm 22% số hộ toàn quốc. Vùng có tỷ lệ nghèo cao nhất là vùng Tây Bắc (42%); Tây nguyên (38%); Bắc Trung Bộ (35%). Như vậy, những vùng có điều kiện tự nhiên, kinh tế khó khăn tiếp tục có tỷ lệ hộ nghèo cao. Khả năng huy động nguồn lực vật chất, tài chính là yếu tố rất quan trọng quyết định sự thành công hay thất bại khi thực hiện các mục tiêu XĐGN. Để thực hiện các mục tiêu XĐGN trên quy mô diện rộng và đạt được kết quả nhanh thì nhà nước và bản thân các hộ nghèo đều phải có nguồn lực. Nhà nước có nguồn lực đủ mạnh để hình thành và thực hiện các chương trình hỗ trợ như: Xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu cho xã nghèo, vùng nghèo; hỗ trợ cho các doanh nghiệp để thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng CNH, HĐH từ đó tạo nhiều việc làm cho người lao động; hỗ trợ trực tiếp cho hộ nghèo về đời sống khi gặp rủi ro, thiên tai và hỗ trợ phát triển sản xuất thông qua các chương trình khuyến nông, đào tạo... Nguồn lực của nhà nước phụ thuộc vào quy mô và tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, tỷ lệ tích lũy và chính sách chi tiêu của chính phủ, khả năng vay nợ của nước ngoài... Về phía hộ gia đình nghèo, để phấn đấu thoát nghèo, họ cũng cần có nguồn lực để tự mình phấn đấu vươn lên thoát nghèo. Nguồn lực họ có thể có được là từ các nguồn hỗ trợ của nhà nước, của cộng đồng dân cư, vốn vay tín dụng và khả năng tích lũy của bản thân họ. Một bài học chung cho cả Nhà nước và cá nhân của các hộ nghèo, cộng đồng nghèo là phải dựa vào nguồn tích lũy của chính mình, hạn chế đến mức tối thiểu vốn vay thì mới có thể phát triển và XĐGN bền vững. Kinh nghiệm của các nước công nghiệp mới đã thành công trong việc chuyển từ nền kinh tế lạc hậu sang nền kinh tế phát triển, giảm được tỷ lệ hộ nghèo đói là đã duy trì tích lũy trên 30% GNP. Trong quá trình phát triển Nhật, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore sử dụng nguồn tích lũy trong nước là chính, tránh lệ thuộc vào vay nợ nước ngoài quá nhiều nên phần nào ít bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng tài chính ở Châu Á trong những năm giữa thập niên 90. Trong khi đó, Inđônêxia, Thái Lan, Hàn Quốc, Philipin lại bị sai lầm, khi lệ thuộc vào tư bản nước ngoài trong quá trình phát triển, để lại những món nợ lớn. Tính đến cuối năm 1997 Inđônêxia nợ lên tới 67% GNP, Thái Lan 62% GNP, Philipin 63% GNP, Hàn Quốc 31% GNP [3, tr 63]. Đây là những nước chịu hậu quả nặng nề nhất của cuộc khủng hoảng tài chính nói trên ở các mức độ khác nhau. Giai đoạn 1997- 1998 tỷ lệ nghèo ở Inđônêxia tăng lên 20% dân số, Thái Lan tăng lên 6,7 triệu người, Hàn Quốc tăng từ 3% năm 1997 lên 7,8% năm 1998, Malaixia tăng từ 6,8% năm 1997 lên 8% năm 1998 vv... Ở Việt Nam tốc độ tăng trưởng kinh tế trong những năm vừa qua đạt khá cao, GDP tăng bình quân hàng năm giai đoạn 2001 - 2005 là 7,5%/năm. GDP năm 2005 đạt khoảng 815 nghìn tỷ đồng(tương đương 51,5 tỷ USD); tỷ lệ tích lũy năm 2005 đạt khoảng 29,4% GDP và tăng bình quân hàng năm trên 10%/năm; tổng quỹ tiêu dùng tăng bình quân hàng năm khoảng 7,6%/năm; tỷ lệ huy động vào ngân sách Nhà nước bình quân hàng năm đạt 23,5% GDP; bội chi Nhà nước không quá 5% GDP [24, tr ]. Nhờ đảm bảo được tỷ lệ tích lũy và tỷ lệ tích lũy vào đầu tư khá cao nên năng lực mới huy động vào nền kinh tế được tăng nhanh và cũng nhờ đó mà thành tựu đạt được trong XĐGN khá tốt. Tổng nguồn vốn huy động để hỗ trợ thực hiện các mục tiêu XĐGN trong 5 năm 2001-2005 của cả nước đạt khoảng 41 nghìn tỷ đồng (không kể vốn tự có của hộ nghèo và tín dụng ngân hàng thương mại), trong đó, huy động từ cộng đồng 1.500 tỷ đồng (chiếm 3,7%); vốn tín dụng ưu đãi 12.000 tỷ đồng (chiếm 29,3%) còn lại là vốn ngân sách Nhà nước và các dự án tài trợ là 27,5 nghìn tỷ đồng (chiếm 67%) (Nguồn: Bộ lao động - Thương binh xã hội - Báo cáo chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo giai đoạn 2006 - 2010). Bên cạnh đầu tư hỗ trợ trực tiếp cho các đối tượng nghèo, thì thành quả về đầu tư để chuyển dịch cơ cấu kinh tế của đất nước, thông qua các chương trình đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, chương trình công nghiệp hóa, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn v.v.. đã tạo ra nhiều việc làm mới, nâng cao năng suất lao động, tăng thu nhập cho người lao động đã góp phần tích cực cho công cuộc XĐGN đạt kết quả tốt. Một vấn đề được quan tâm nữa trong huy động nguồn lực là tự tạo nguồn lực tại chỗ là chính với sự hỗ trợ một phần của nhà nước, cộng đồng, khơi dậy tiềm năng trong dân theo hướng vươn lên ”tự cứu”. Thực tiễn trong những năm qua, XĐGN luôn gắn với việc khuyến khích làm giàu chính đáng từ đó mà tạo được nhiều công ăn việc làm. Chính những hộ dân có vốn, có kinh nghiệm làm ăn là nơi giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho dân cư theo phương ngôn ”lá lành đùm lá rách” v.v.. Những kết quả tổng hợp từ hai phía Nhà nước và nhân dân đã đem đến những thành tựu quan trọng về XĐGN. Bình quân mỗi năm giai đoạn 2001-2005 tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm 2%/năm, tính vững chắc trong kết quả XĐGN cũng được nâng lên. Trong báo cáo phát triển Việt Nam năm 2004, quốc tế đã đánh giá “những thành tựu XĐGN của Việt Nam là một trong những câu chuyện thành công nhất trong phát triển kinh tế”. - Vấn đề thị trường cũng là một trong những nhân tố tác động đến XĐGN theo hai hướng thuận lợi và khó khăn. Thị trường và cơ chế thị trường đã đòi hỏi và làm bộc lộ những yêu cầu liên quan tới sự phát triển kinh tế, xã hội mà mỗi chủ thể sản xuất kinh doanh phải đáp ứng. Chính trong sự đáp ứng đó với những mức độ chênh lệch khác nhau về nhiều mặt giữa các chủ thể trong hoạt động sản xuất kinh doanh đã diễn ra và được phản ánh trong kết cục của nó là hiện tượng phân hóa giàu-nghèo. Trong kinh tế thị trường, người ta buộc phải tính toán bằng giá trị và tính đủ giá trị cho mọi kết quả lao động, do đó lợi ích được chú trọng, trước hết là lợi ích cá nhân. Nghĩa là nó nâng cao một cách đáng kể vai trò của năng lực cá nhân, thúc đẩy tính tự giác và ý thức trách nhiệm đối với công việc và sản phẩm lao động. Giá trị lợi ích đã thúc đẩy cạnh tranh, làm nảy nở tài năng kích thích con người về tính chủ động, óc sáng kiến, tính linh hoạt trong các phản ứng và hành vi đáp ứng. Cạnh tranh cũng thường xuyên đặt con người vào thử thách năng lực nghề nghiệp, buộc con người phải tự khẳng định, phải thường xuyên tự đổi mới, phát triển để vượt qua sự đào thải, thậm chí phải chấp nhận sự đào thải. Mặt trái của kinh tế thị trường là do chạy theo lợi nhuận vì lợi ích cá nhân, tăng trưởng kinh tế bằng mọi giá đã làm cho tình trạng nghèo đói của một bộ phận dân cư không được chú ý giải quyết triệt để, dẫn đến phân hóa giàu-nghèo càng thêm sâu sắc, dễ xảy ra xung đột giai cấp và xã hội. Trong thực tế thì người nghèo, vùng nghèo là những người luôn bị thua thiệt trong cạnh tranh về sản xuất, kinh doanh. Họ không có điều kiện sản xuất kinh doanh thuận lợi do thiếu cơ sở hạ tầng, thiếu vốn, xa trung tâm kinh tế nên giá thành sản phẩm cao. Mặt khác họ là những người thiếu kinh nghiệm làm ăn, ít hiểu biết, tay nghề thấp, không có sức khỏe, thiếu vốn sản xuất vv....năng suất lao động thấp, sản phẩm khó cạnh tranh trên thị trường. Do vậy, nguy cơ tụt hậu của họ so với xã hội càng trầm trọng hơn. Đòi hỏi nhà Nước phải có giải pháp hỗ trợ họ khắc phục những khuyết tật của cơ chế thị trường là một yêu cầu trong XĐGN. Mặc dù vậy, mặt tích cực của cơ chế thị trường cho thấy rằng nếu có sự điều tiết kịp thời và hiệu quả thì những người vươn lên thoát nghèo trong điều kiện kinh tế thị trường là sự trưởng thành làm cho lực lượng sản xuất phát triển không chỉ về số lượng mà cả về mặt chất lượng. Do đó có thể nói: Nghèo đói trong kinh tế thị trường là nghèo đói trong tiến trình của sự phát triển. XĐGN trong kinh tế thị trường là phải hướng vào phát huy lực nội sinh trong bản thân người nghèo, vùng nghèo. 1.2.3. Nhóm nhân tố thuộc về xã hội - Những nhân tố xã hội tác động đến nghèo đói và hoạt động XĐGN bao gồm: Dân số và lao động, trình độ dân trí, đầu tư cho giáo dục, chăm sóc sức khỏe, phong tục, tập quán, vấn đề cán bộ và tổ chức bộ máy quản lý, điều hành. Tình trạng nghèo đói liên quan chặt chẽ với sự gia tăng dân số và cơ cấu dân cư. Theo điều tra, bình quân nhân khẩu phải nuôi trên một lao động chính của các hộ nghèo thường cao hơn các hộ giàu. Như vậy, phải chăng nghèo đói, dân trí thấp dẫn đến sinh đẻ nhiều và đến lượt nó, sinh đẻ nhiều lại càng làm cho đời sống khó khăn hơn. Do sinh đẻ nhiều, thời gian lao động và thu nhập của hộ gia đình sẽ giảm. Ngược lại nhân khẩu trong gia đình tăng nên mức thu nhập bình quân đầu người của hộ giảm. Sức khỏe của người mẹ đẻ nhiều cũng suy giảm và tác động đến sức khỏe của những đứa con sau khi sinh làm cho sức lao động giảm dần, nguy cơ nghèo đói sẽ tăng cao. Trên góc độ quốc gia, dân số tăng nhanh thì mức gia tăng thu nhập bình quân đầu người sẽ giảm. Với một nguồn lực hạn chế phải cân đối cho một lượng dân cư lớn hơn thì sẽ khó khăn cho việc huy động nguồn lực để hỗ trợ thực hiện các mục tiêu XĐGN. Nếu cơ cấu dân số trẻ nhiều thì áp lực đầu tư cho giáo dục sẽ lớn, đầu tư cho phát triển sản xuất sẽ giảm dẫn đến tăng trưởng chậm. Một vấn đề khác nữa là, nếu tỷ lệ dân cư phân bổ ở những vùng nghèo tiềm lực và không theo quy hoạch của Nhà nước mà cao thì nguy cơ xuống cấp môi trường và tình trạng nghèo đói sẽ lớn (do tình trạng phát nương làm rẫy, khai phá tài nguyên bừa bãi, làm xói mòn đất...). - Xét yếu tố lao động: Nếu cơ cấu dân cư có tỷ lệ lao động thấp. Một lao động chính phải nuôi nhiều người ăn theo, cùng với cơ cấu lao động phân bổ chủ yếu về sản xuất nông nghiệp, tỷ lệ lao động công nghiệp và dịch vụ ít, thì đó là một bất lợi lớn cho việc tăng nhanh mức thu nhập bình quân đầu người, tỷ lệ tích lũy sẽ thấp. Do vậy, khó khăn cho việc xây dựng và phát triển các quỹ XĐGN. Bảng 1.2: Thống kê dân số, lao động, GDP và GDP bình quân đầu người của Việt Nam. Chỉ tiêu Năm 1997 Năm 1999 Năm 2001 Tổng dân số (nghìn người) 74.057 76.597 78.686 Tổng lao động có việc làm(1.000 người) 34.493 35.976 37.676 Tỷ lệ lao động có việc làm/dân số(%) 46,58 46,96 47,88 Lao động có việc làm theo ngành (%) 100 100 100 + Nông lâm- Ngư- Nghiệp (%) 70,15 68,91 67,16 + Công nghiệp và xây dựng (%) 11,65 11,95 12,5 + Dịch vụ (%) 18,2 19,14 20,34 Tổng sản phẩm quốc nội (tỷ đồng) 313.623 399.942 481.295 +Nông lâm ngư nghiệp 80.826 101.723 111.858 +Công nghiệp -Xây dựng 100.594 137.959 183.515 +Dịch vụ 132.203 160.260 185.922 *GDP/lao động (Triệu đồng) - - - + Tính chung cả nước 9,1 11,17 12,77 + Tính riêng ngành nông, lâm, ngư, nghiệp 3,34 4,1 4,42 + Tính riêng ngành CN - Xây dựng 25,02 32,08 38,95 + Tính riêng ngành dịch vụ 21,06 23,28 24,27 Nguồn: Báo cáo phát triển Việt Nam 2004: Nghèo; báo cáo chung của các nhà tài trợ tại Hội nghị Tư vấn các nhà tài trợ Việt Nam tại Hà Nội tháng 12/2003. Từ kết quả so sánh ở bảng trên cho thấy tình hình ở Việt Nam, lao động tập trung chủ yếu ở ngành nông-lâm-ngư nghiệp, chiếm trên 70% tổng số lao động xã hội nhưng tạo ra giá trị GDP /lao động là rất thấp, chỉ bằng 1/8 ngành công nghiệp - xây dựng và bằng 1/7 ngành dịch vụ. Vấn đề đặt ra cho công tác XĐGN là tìm giải pháp để chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng giảm lao động trong ngành nông nghiệp và tăng lao động trong ngành công nghiệp và dịch vụ. Chính ngành CN và DV là ngành mở ra khả năng tiềm tàng để tạo nhiều việc làm mới có thu nhập cao. Chất lượng nguồn lao động (trình độ tay nghề, sức khỏe, thái độ lao động của người lao động) là một yếu tố rất đáng được quan tâm đối với quá trình phát triển nói chung và XĐGN nói riêng. Chất lượng nguồn lao động sẽ tác động trực tiếp tới khả năng áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới. Phát triển nhiều ngành nghề mới đòi hỏi áp dụng khoa học, kỹ thuật và công nghệ cao sẽ tăng năng suất, thu nhập cho người lao động. Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, quá trình tự do hóa thương mại (như cam kết hội nhập khu vực thương mại tự do AFTA; gia nhập WTO) không chỉ tạo điều kiện thuận lợi tiếp cận đầu vào, máy móc thiết bị, công nghệ mới, mở rộng thị trường hàng hóa, đẩy nhanh quá trình cải cách khu vực doanh nghiệp Nhà nước, hạn chế buôn lậu vv...mà còn gây tác động tiêu cực đến những ngành có sức cạnh tranh thấp của Việt Nam. Tự do hóa thương mại có thể làm tăng nhu cầu sử dụng lao động, mang lại cơ hội việc làm và thu nhập cao hơn cho một bộ phận đáng kể người lao động trong các khu vực có lợi thế so sánh (như nông, lâm và thủy sản, dệt may, xây dựng và xuất khẩu); nhưng cũng đòi hỏi cao hơn về chất lượng lao động, làm nảy sinh nguy cơ thất nghiệp, giảm thu nhập và không đảm bảo các điều kiện an toàn lao động đối với một bộ phận lao động khác. Lao động rẻ của Việt Nam sẽ không còn là một lợi thế cạnh tranh. Đa số người nghèo Việt nam có trình độ chuyên môn thấp, sống chủ yếu ở các vùng nông thôn và làm việc trong các khu kinh tế phi chính thức thì rất khó hưởng thụ thành quả kinh tế trong quá trình hội nhập. Chất lượng nguồn lao động gắn liền với việc nâng cao trình độ dân trí và chiến lược phát triển giáo dục. Tài sản chủ yếu của người nghèo là thời gian lao động; Giáo dục góp phần tăng năng suất của tài sản này. Kết quả với từng cá nhân là có thu nhập cao hơn [26, tr 74]. Người học cao thì biết chăm lo sức khỏe cho mình nên mạnh khỏe hơn. Người học cao thì ít sinh đẻ nhiều vv...Đa số những người nghèo, vùng nghèo của Việt Nam là những nơi có trình độ dân trí thấp. Cùng với tác động của thu nhập thấp nên việc đầu tư chăm lo cho con cái học hành của các hộ gia đình nghèo và vùng nghèo ít được quan tâm hơn, ít được học vấn, ít được đào tạo nghề nên ít có cơ hội tìm kiếm việc làm có thu nhập cao. Kết quả tỷ lệ đi học trong độ tuổi ở các vùng này sẽ thấp và như vậy, nguy cơ nghèo về tri thức dẫn đến nghèo đói về mọi mặt sẽ gia tăng. Kết quả bảng dưới đây cho thấy tỷ lệ người đi học của nhóm nghèo thấp hơn nhóm giàu: Bảng 1.3: Tỷ lệ đi học đúng tuổi của Việt Nam. Đơn vị tính: % Theo phần trăm (%) Tiểu học Trung học cơ sở Trung học phổ thông 1993 1998 2002 1993 1998 2002 1993 1998 2002 Cả nước 86,7 91 90,1 30,1 61,7 72,1 7,2 28,6 41,8 Nhóm nghèo nhất 72 81,9 84,5 12,1 33,6 53,8 1,1 4,5 17,1 Nhóm gần nghèo nhất 87 93,2 90,3 16,6 53 71,3 1,6 13,3 34,1 Nhóm trung bình 90,8 94,6 91,9 28,8 65,5 77,6 2,6 20,7 42,6 Nhóm gần giàu nhất 93,5 96 93,7 38,4 71,8 78,8 7,7 36,4 53 Nhóm giàu nhất 95,9 96,4 95,3 55 85,5 85,8 20,9 64,3 67,2 Người kinh và hoa 90,6 93,3 92,1 33,6 66,2 75,9 7,9 31,4 45,2 Các dân tộc thiểu số 63,8 82,2 80 6,6 36,5 48 2,1 8,1 19,3 Thành thị 96,6 95,5 94,1 48,5 80,3 80,8 17,3 54,5 59,2 Nông thôn 84,8 90,6 89,2 26,3 57,9 69,9 4,7 22,6 37,7 Nguồn: Báo cáo Việt Nam năm 2004. Cũng theo báo cáo phát triển Việt Nam năm 2004 thì chi phí cá nhân cho giáo dục (cho một học sinh) của nhóm giàu nhất gấp trên 5 lần của nhóm nghèo nhất. - Về y tế: người nghèo có thu nhập thấp và thường tập trung ở vùng khó khăn nên ít có điều kiện để chăm lo sức khỏe, bệnh tật phát sinh, sức lao động suy giảm ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập và chi tiêu của họ. Họ phải gánh chịu hai gánh nặng: một là mất đi thu nhập từ lao động, hai là gánh chịu chi phí cao cho khám chữa bệnh. Kết quả là họ phải vay mượn, cầm cố tài sản để có tiền trang trải chi phí, dẫn đến tình trạng càng có ít cơ hội cho người nghèo thoát khỏi nghèo đói. Trong thời kỳ 1993 - 1997 tình trạng ốm đau của người giàu giảm 30% nhưng tình trạng của nhóm nghèo vẫn giữ nguyên và theo báo cáo phát triển Việt Nam năm 2004 thì năm 2002 tỷ lệ người bị ốm đau không lao động được của nhóm nghèo nhất gấp 2 lần nhóm giàu nhất; tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng cũng cao gấp 3 lần nhóm giàu nhất [5, tr.66]. - Nghèo đói về kinh tế sẽ ảnh hưởng đến các mặt xã hội và chính trị. Các tệ nạn xã hội phát sinh như: trộm cắp, cướp giật, ma túy, mại dâm, mê tín và sự trỗi dậy của các tập tục lạc hậu, tôn giáo phát triển v.v.. Đạo đức sẽ suy đồi, an ninh xã hội không được đảm bảo đến mức nhất định có thể dẫn đến rối loạn xã hội. Tập tục lạc hậu và mê tín luôn đối lập với văn minh tiến bộ. Nó cản trở quá trình tiếp thu tri thức mới, tiến bộ khoa học, kỹ thuật vv... nên càng tụt hậu xa hơn. Nếu người nghèo không được chú ý giải quyết, tỷ lệ và cấp độ của nghèo đói vượt qua giới hạn an toàn sẽ dẫn đến hậu quả về mặt chính trị như mất ổn định chính trị, ở mức cao hơn là khủng hoảng chính trị, đặc biệt là nguy cơ diễn biến hòa bình và chiến tranh biên giới mềm sẽ xảy ra. Nghèo về kinh tế luôn dẫn tới những sức ép căng thẳng về xã hội và chính trị. Trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường và mở cửa hội nhập của nước ta hiện nay thì sự lệ thuộc của người nghèo vào người giàu, vùng nghèo vào vùng giàu, nước nghèo vào nước giàu là điều khó tránh khỏi. Bắt đầu từ kinh tế rồi xâm nhập vào văn hóa, hệ tư tưởng, chính trị. Có thể nói, nghèo đói và lạc hậu đi đôi với nhau, là xiềng xích trói buộc những người nghèo, vùng nghèo, nước nghèo là một lực cản lớn trong quá trình thực hiện các chương trình phát triển, XĐGN của quốc gia và các địa phương. - Một vấn đề khác không kém phần quan trọng ảnh hưởng đến thành quả thực hiện các mục tiêu XĐGN là vấn đề cán bộ, tổ chức bộ máy quản lý, điều hành gắn với cải cách hành chính công. Để hỗ trợ cho người dân nói chung và người nghèo nói riêng tiếp cận tốt với các dịch vụ hỗ trợ của nhà nước, chuyển tải những chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước đến tận người dân, tổ chức triển khai thực hiện việc chuyển giao tiến bộ khoa học, kỹ thuật, các chương trình, dự án đầu tư cho nông thôn, cho người nghèo... Cần có một đội ngũ cán bộ đủ năng lực (đủ số lượng, có chuyên môn, có tinh thần trách nhiệm, có đạo đức) để thực thi nhiệm vụ trên. Thực tế cho thấy, những vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa, vùng miền núi... Trình độ cán bộ cơ sở xã, thôn rất thấp, nhiều vùng cán bộ xã chưa học hết cấp 2; đọc viết chưa thành thạo, lực lượng cán bộ khuyến nông, lâm của tỉnh, huyện tăng cường tham gia giúp xã thường không đủ mạnh. Bên cạnh số lượng cán bộ thiếu về số lượng, trình độ chuyên môn hạn chế, chế độ lương thấp vv...Trong lúc lại phải công tác ở vùng khó khăn nên lòng nhiệt tình, hăng hái không cao vv... do đó kết quả các hỗ trợ của nhà nước và của cộng đồng đến với người nghèo bị hạn chế. Bên cạnh tăng cường lực lượng cán bộ cho XĐGN thì vấn đề tổ chức bộ máy quản lý, điều hành thực thi nhiệm vụ XĐGN từ TW đến tỉnh, huyện và cơ sở cũng cần được quan tâm. Trong thời gian qua, Nhà nước đã rất cố gắng cho nông dân nói chung và người nghèo nói riêng vay vốn với lãi suất ưu đãi, điều kiện vay, thủ tục vay ngày càng thông thoáng, nhưng thực tế chưa hẳn các hộ nghèo được hưởng đúng lãi suất ưu đãi của Nhà nước. Nhà nước giảm lãi suất vay vốn Ngân hàng, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp cho nông dân nhưng đồng thời tổ chức không tốt việc xã hội hóa, nhiều hoạt động kinh tế - xã hội ở nông thôn nên sự đóng góp của dân cư ở nông thôn rất cao. Điều tra ở Thái Bình và nhiều tỉnh khác cho thấy các hộ nông dân thường phải đóng 20 - 30 khoản “phụ thu lạm bổ” trong một năm; thậm chí có hộ đóng góp một năm giá trị tương đương 600 kg thóc [27, tr 17]. Thêm nữa, ở một số địa phương các khoản đóng góp này bị tham nhũng, bị thất thoát do chính sự yếu kém của cán bộ trong bộ máy Nhà nước. Như vậy, do tổ chức bộ máy quản lý, điều hành không tốt vô tình Nhà nước mà trực tiếp là đội ngũ cán bộ thực thi ưu ái, hỗ trợ nông dân ở mặt này thì lại lấy đi của họ ở mặt khác. Từ thực tiễn cho thấy việc XĐGN phải được xem xét xử lý một cách tổng thể, nhất là trong tổ chức quản lý và điều hành thực hiện làm sao mọi sự hỗ trợ của Nhà nước, các tổ chức Quốc tế, của cộng đồng đến đúng, đủ tới những hộ nghèo. Đáp ứng yêu cầu này chính là tăng cường lực lượng cán bộ XĐGN cùng với nâng cao năng lực bộ máy quản lý, điều hành tổ chức thực hiện XĐGN. - Một nhân tố nữa làm tăng đói nghèo, tính phức tạp cho XĐGN đó là hậu quả chiến tranh tàn khốc như ở Việt Nam, làm hàng triệu người hy sinh hoặc tàn phế, một số vùng tài nguyên, môi trường bị hủy diệt gây ra những hậu quả nặng nề và lâu dài như chất độc màu da cam, tai nạn chiến tranh, đồng ruộng bị hoang hóa, bom mìn... 1.3.4. Những tác động thuộc về quan điểm, chính sách XĐGN của Đảng và Nhà nước Quan điểm, chủ trương và cơ chế, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế, xã hội là một nguồn lực quan trọng và thực sự của sự phát triển. Một ví dụ điển hình ở nước ta cho thấy rõ điều đó là: Thực hiện chủ trương khoán 10 trong nông nghiệp và thực hiện một số cải cách về sản xuất nông nghiệp trong những năm vừa qua đã đưa nước ta từ một nước thiếu lương thực trở thành một nước xuất khẩu lương thực đứng thứ hai trên thế giới. Hay thực hiện quan điểm phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN và một loạt chính sách mở cửa trong kinh tế, ngoại giao... Trong những năm vừa qua Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn về tăng trưởng kinh tế, ổn định chính trị, xã hội và XĐGN. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm 1996 - 2005 từ 7-8%/năm. Một khi quan điểm, đường lối của Đảng, cùng với hệ thống cơ chế chính sách của Nhà nước theo đúng quy luật khách quan và phù hợp với thực tiễn thì nó trở thành động lực quan trọng để thực hiện các mục tiêu phát triển. Ngược lại, quan điểm đúng mà cơ chế, chính sách không phù hợp, không đồng bộ hoặc cả quan điểm lẫn hệ thống cơ chế, chính sách không phù hợp sẽ kìm hãm quá trình phát triển, thậm chí gây bất ổn chính trị, xã hội. Tại Đại hội VII (6/1991), Đảng ta đã đề ra chủ trương: Cùng với quá trình đổi mới, tăng trưởng kinh tế, phải tiến hành XĐGN, thực hiện công bằng xã hội, đáp ứng tốt hơn các nhu cầu thiết yếu và ngày càng đa dạng của các tầng lớp dân cư; đảm bảo vững chắc nhu cầu lương thực, khắc phục tình trạng thiếu đói thường xuyên và nạn đói giáp hạt ở một số vùng [28, tr.73]. Đến Đại hội VIII (1996), Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh: vấn đề nghèo khổ không được giải quyết thì không một mục tiêu nào mà cộng đồng quốc tế cũng như quốc gia đặt ra như tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống, hòa bình ổn định, bảo đảm các quyền con người được thực hiện [29]. Cho đến nay, quan điểm tăng trưởng đi đôi với XĐGN luôn được Đảng ta quan tâm nhấn mạnh. Đó là cơ sở, tiền đề định hướng cho các chính sách, những giải pháp tập trung XĐGN có hiệu quả. Nhà nước có vai trò xây dựng chiến lược, kế hoạch, ban hành chính sách và tổ chức thực hiện XĐGN. Những chính sách nhằm tăng trưởng đi đôi với XĐGN đạt kết quả, cần có những chính sách tạo cơ hội cho người nghèo là cho phép họ tham gia nhiều hơn vào sự phát triển. Những chính sách đó phải kết hợp được 3 nhiệm vụ lớn sau: Thứ nhất, các chính sách cho từng vùng và cả nền kinh tế phải khuyến khích phát triển mạnh nông thôn và tạo ra nhiều công ăn việc làm ở thành thị. Nội dung của chính sách này là: đánh thuế nông nghiệp vừa phải, giải quyết tốt thị trường nông sản (trợ giá sản phẩm, trợ cước vận chuyển cho những vùng khó, mở rộng thị trường...); cung cấp cơ sở hạ tầng và tạo môi trường để người nông dân và người nghèo thành thị tiếp cận với những tiến bộ kỹ thuật. Thứ hai, cần có những chính sách cụ thể nhằm khuyến khích người nghèo tham gia vào sự phát triển bằng cách cải thiện khả năng tiếp cận của họ tới đất đai, tín dụng, cơ sở hạ tầng và dịch vụ công cộng (y tế, giáo dục, văn hóa...). Thứ ba, những vùng thiếu nguồn lực, mà tình trạng đói nghèo và sự xuống cấp môi trường có quan hệ với nhau, đòi hỏi phải có những biện pháp khác. Vì tiềm năng phát triển của vùng bị hạn hẹp và dân số gia tăng, nên cần có kế hoạch, quy hoạch bố trí dân cư, thực hiện di dãn dân phù hợp, nhà nước vẫn phải tăng đầu tư để đáp ứng nhu cầu cơ bản, duy trì hoặc tăng sản lượng và bảo tồn các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và XĐGN của quốc gia đã xác định. Công tác XĐGN phải được quan tâm ngay từ khi xây dựng chủ trương, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội dài hạn, trung hạn và hàng năm, coi đó là một nhiệm vụ trọng tâm của kế hoạch phát triển KT-XH của Nhà nước đối với công tác XĐGN. Thông qua kế hoạch phát triển KT-XH, Nhà nước chủ động điều tiết hợp lý các nguồn lực của toàn xã hội vào mục tiêu và hoạt động XĐGN quốc gia. Nhà nước xây dựng các biện pháp thiết yếu như: Đầu tư hỗ trợ sản xuất, xây dựng cơ sở hạ tầng, lập các quỹ hỗ trợ xã hội... để giúp đỡ, bảo đảm cho người nghèo. Nói tóm lại, để cụ thể hóa quan điểm của Đảng, Nhà nước phải có chính sách thích hợp và kế hoạch cụ thể nhằm phát triển kinh tế nhanh, bền vững gắn với công bằng xã hội và XĐGN đạt kết quả cao. 1.3. MỘT SỐ KINH NGHIỆM XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO Ở VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ TỈNH, BÀI HỌC RÚT RA CHO TỈNH QUẢNG TRỊ 1.3.1. Một số kinh nghiệm bước đầu của Việt Nam về xoá đói giảm nghèo Theo nhận định của nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới cho rằng: “Những thành tựu của Việt Nam trong lĩnh vực XĐGN là một trong những câu chuyện thành công nhất trong quá trình phát triển”[5, tr 11]. Phong trào XĐGN ở Việt Nam được bắt đầu khởi xướng ở Thành phố Hồ Chí Minh năm 1991. Từ năm 1992, XĐGN đã trở thành phong trào ở tất cả các tỉnh, thành phố. Đến cuối năm 1997, tổng nguồn lực huy động của các cấp, các ngành cho xóa đói giảm nghèo đã lên tới 3 nghìn tỷ đồng. Nhiều mô hình XĐGN thành công đã xuất hiện và được nhân rộng. Đến năm 1998 XĐGN đã chính thức trở thành chương trình mục tiêu quốc gia. Qua hơn 13 năm thực hiện, chương trình XĐGN đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Đặc biệt là từ năm 1998 đến nay, ngoài cơ chế chính sách và nguồn lực đầu tư trực tiếp của nhà nước, sự hỗ trợ của cộng đồng, các địa phương, các ngành đã có nhiều sáng kiến thiết thực, góp phần giải quyết được những nhu cầu bức xúc nhất định của hộ nghèo, xã nghèo, thực hiện mục tiêu XĐGN đạt hiệu quả và bền vững. Bước đầu hình thành một số mô hình XĐGN hộ gia đình, thôn, bản, xã, huyện có hiệu quả như sau: Mô hình phát triển cộng đồng gắn với XĐGN với nội dung tăng cường thể chế và tạo điều kiện thuận lợi để hộ nghèo được tham gia vào tiến trình thực hiện kế hoạch XĐGN của thôn, xã; mô hình tiết kiệm của hội liên hiệp phụ nữ trên cơ sở giúp hội viên với tổ, nhóm hỗ trợ về hướng dẫn cách làm ăn, tín dụng tiết kiệm; mô hình hỗ trợ thanh niên nông thôn XĐGN và đã hình thành phong trào thanh niên lập nghiệp, mô hình trang trại trẻ, doanh nghiệp trẻ, thanh niên tình nguyện đến vùng sâu, vùng xa v.v.. và rất nhiều mô hình hiệu quả khác. Với kết quả tổng hợp của các cơ chế, chính sách, mô hình XĐGN... Hằng năm tỷ lệ hộ nghèo giảm trên 2%/năm; đời sống của nhiều vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa được cải thiện đáng kể. Từ những thành quả bước đầu của Việt Nam về XĐGN có thể rút ra những kinh nghiệm sau: - Một là, phải có sự nhận thức đúng đắn và sâu sắc quan điểm của Đảng, chủ trương và chính sách của Nhà nước về XĐGN. Công tác XĐGN phải được xem là một bộ phận của chiến lược phát triển Kinh tế - Xã hội của đất nước và từng địa phương. Từ đó, có định hướng phù hợp trong chỉ đạo thực hiện, huy động sự đóng góp của cộng đồng và khuyến khích người nghèo phát huy tính chủ động, năng động, sáng tạo tự vươn lên thoát khỏi nghèo đói. Các mục tiêu XĐGN và hệ thống cơ chế chính sách phải đồng bộ, toàn diện và mang tính chiến lược; Không chỉ tập trung nâng cao mức sống mà còn bao gồm cả tạo cơ hội và hành lang pháp lý để nâng cao dân trí, ý thức pháp luật v.v.. Cơ chế chính sách không chỉ dừng lại ở chống đói nghèo mà còn ngăn chặn tái đói nghèo. - Hai là, XĐGN phải dựa trên cơ sở tăng trưởng và phải được thống nhất với các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của TW và địa phương, cơ sở. Tăng trưởng kinh tế cao và ổn định là tiền đề giúp XĐGN nhanh, toàn diện. Thực hiện XĐGN bền vững cần phải đảm bảo các điều kiện cho người nghèo có thể thụ hưởng các thành tựu của phát triển. Do vậy, phải biết phối hợp đồng bộ giữa chương trình XĐGN với các chương trình phát triển Kinh tế - Xã hội khác, tạo môi trường cho phát triển bền vững là giải pháp hữu hiệu để tăng trưởng và XĐGN. - Ba là, có giải pháp thích hợp để đa dạng hóa việc huy động nguồn lực, trước hết là chủ động phát huy nguồn lực tại chỗ, huy động nguồn lực của cộng đồng (các Tổng công ty, các địa phương, các tầng lớp dân cư v.v..), kết hợp với sự hỗ trợ đầu tư của nhà nước; mở rộng hợp tác đầu tư quốc tế về kinh nghiệm, kỹ thuật, tài chính cho XĐGN. Khuyến khích người dân làm giàu chính đáng để giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho dân cư theo hướng “lá lành đùm lá rách”. - Bốn là, phải thiết lập các mô hình tổ chức bộ máy và cán bộ XĐGN, cơ chế hoạt động và phối hợp đồng bộ giữa các Bộ ngành ở TW. Các quy chế về huy động, quản lý và sử dụng các nguồn lực XĐGN phù hợp và hiệu quả. - Năm là, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức hội, đoàn thể quần chúng triển khai thực hiện chương trình. Thông qua các tổ chức đó để tuyên truyền, vận động làm chuyển biến nhận thức và hành động đến từng hội viên và nhân dân. Huy động nguồn lực, chuyển giao khoa học công nghệ, trao đổi kinh nghiệm, bảo lãnh tín chấp để người nghèo được vay vốn làm ăn, thực hiện chương trình XĐGN. 1.3.2. Kinh nghiệm của một số tỉnh về xóa đói giảm nghèo * Kinh nghiệm của Hà Tĩnh: Về xây dựng các mô hình, chỉ đạo điểm ở cấp xã để rút kinh nghiệm triển khai cho các huyện và toàn tỉnh. Từ nhận thức; nguyên nhân cụ thể về đói nghèo của từng hộ, từng xã, từng vùng rất đa dạng, nên những biện pháp cụ thể về XĐGN cho từng hộ, từng xã cũng khác nhau. Trên cơ sở phân loại theo vùng sinh thái, các giải pháp XĐGN phải được triển khai làm thí điểm, xây dựng mô hình để rút ra bài học, cách làm để nhân rộng. Để nghiên cứu các giải pháp XĐGN, Hà Tỉnh đã phân chia và đi sâu nghiên cứu đặc điểm của từng vùng sinh thái khác nhau. Chẳng hạn, huyện Thạch Hà chỉ có 44 ngàn ha đất tự nhiên nhưng được chia làm 5 vùng kinh tế-sinh thái rất rõ rệt. - Các xã vùng 1 (vùng biển bãi ngang): Có 10 xã thì 5 xã nghèo, đông dân nhưng ít đất, hầu như không có công trình thủy lợi. - Các xã vùng Bắc Hà: Thủy lợi khó khăn, đất đai khô cằn, ngành nghề, dịch vụ chưa phát triển. - Các xã vùng cửa biển: Tuy không có công trình thủy lợi, dân đông, đất cát, đất bạc màu nhưng làm nghề biển và phát triển được các ngành nghề dịch vụ nên kinh tế và mức sống khá hơn hai vùng đã nêu trên. - Các xã vùng núi phía Tây huyện: Đất nông nghiệp nhiều nhưng là những xã mới hình thành nên thiếu thốn về kết cấu hạ tầng KT-XH. Tỷ lệ nghèo cao, có 02 xã tỷ lệ hộ nghèo đói chiếm trên 40% số hộ. - Các xã vùng trung tâm huyện: Có truyền thống thâm canh lúa nước, thuận tiện về giao thông, thủy lợi nhưng bình quân đất nông nghiệp cho một nhân khẩu thấp lại độc canh nên cũng gặp không ít khó khăn trong XĐGN. Qua việc nghiên cứu nghèo đói ở những vùng sinh thái khác nhau, Hà tỉnh nhận ra rằng: Nghèo đói vừa có điểm chung, vừa có tính đặc thù riêng của từng địa bàn cụ thể. Do vậy, trong chỉ đạo phải sâu sát, vận dụng cơ chế chính sách chung và điều kiện cụ thể một cách năng động. Từ nhận thức đó, các huyện đều có chỉ đạo điểm hoặc xây dựng các mô hình điểm. Một điển hình tiêu biểu là xã Kỳ Thọ (Kỳ Anh) đã xây dựng được mô hình tốt về XĐGN. Xã Kỳ Thọ là xã thuần nông nhưng đất đai bị nhiễm mặn nên đời sống nhân dân rất khó khăn. Đến năm 1997 vẫn còn 43% số hộ trong xã thuộc diện hộ nghèo. Trước hết, xã tập trung đầu tư nâng cấp những điều kiện sản xuất chung, tạo môi trường thuận lợi cho các hộ: Xây dựng đê ngăn mặn, xây dựng trạm biến thế điện 200 KVA, nâng cấp hệ thống kênh mương thủy lợi, làm đường trục chính... Đồng thời, các cấp chính quyền và đoàn thể quần chúng đi sâu nắm rõ hoàn cảnh cụ thể từng hộ-nhất là hộ nghèo đói. Hình thành tổ chức chỉ đạo XĐGN trên cơ sở lồng ghép các chương trình đầu tư và kết hợp sức mạnh của cả cộng đồng v.v.. Nhờ đó, chỉ trong 2 năm (1997-1999) lương thực bình quân đầu người từ 408 kg lên 477 kg, tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 43 % xuống còn 22,2%, số hộ khá, hộ giàu từ 129 hộ tăng lên 242 hộ v.v.. Mô hình Kỳ Thọ đã có tác dụng tích cực đối với một số xã trong vùng, trong huyện và có tác dụng tích cực trong phạm vi cả tỉnh. 1.3.3. Những bài học rút ra đối với Quảng Trị trong xoá đói giảm nghèo hiện nay Qua phân tích lý luận trên và một số kinh nghiệm, chính sách, mô hình giải quyết vấn đề nghèo đói của cả nước và một số tỉnh có thể rút ra cho Quảng Trị những bài học sau: - Thứ nhất, phải tiến hành điều tra chu đáo, cặn kẽ để xây dựng được một cơ sở dữ liệu đầy đủ, chính xác, với những phân tích có căn cứ khoa học, thực tiễn của những vùng khác nhau. Từ đó có kết luận chính xác về quy mô, tính chất, mức độ nghèo đói, nguyên nhân nghèo đói của từng vùng khác nhau. Đây là cơ sở để có những chính sách, biện pháp giải quyết cụ thể, vừa là cơ sở để "đo đếm " đánh giá kết quả đạt được, định ra phương hướng, giải pháp hành động trong tiến trình thực hiện XĐGN. - Thứ hai, XĐGN phải luôn được coi là mục tiêu xuyên suốt trong chiến lược phát triển, là một bộ phận quan trọng trong kế hoạch kinh tế-xã hội hàng năm, 5 năm của tỉnh. Nhà nước ngoài nhiệm vụ đầu tư phát triển chung, tích cực hỗ trợ đầu tư XĐGN, phải có cơ chế, chính sách XĐGN rõ ràng, cụ thể và có tính khả thi đối với từng vùng, phù hợp với các nhóm đối tượng (Chẳng hạn, nhóm hộ nghèo do thiếu vốn sản xuất thì phải có chính sách hỗ trợ tín dụng thích hợp, nhóm thiếu kinh nghiệm và tay nghề lao động thì phải hỗ trợ đào tạo nghề, hỗ trợ giáo dục v.v..) theo nguyên tắc "cho cần câu hơn cho xâu cá" và phân cấp mạnh cho cơ sở. - Thứ ba, phải tuyên truyền, quán triệt, nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành và người dân về XĐGN. Sao cho công cuộc XĐGN phải huy động được tất cả các cấp, các ngành, toàn xã hội tham gia, không ai là người ngoài cuộc, trong đó ý chí và quyết tâm của chính các hộ nghèo là nhân tố quyết định. Những hộ nghèo đói thường hay gặp nhiều khó khăn, ít hiểu biết, không nắm được thông tin, ít được tham gia vào quá trình phát triển, ít có cơ hội tiếp cận với các dịch vụ công vv...Bản thân họ dễ bị mặc cảm, tự ti. Do vậy, để phát huy đầy đủ nội lực trong công cuộc XĐGN, trước hết phải làm cho các hộ nghèo vượt qua được những mặc cảm, tự ti vốn có của họ; bảo đảm cho họ được tham gia vào mọi hoạt động của chương trình XĐGN từ việc xác định đối tượng thụ hưởng đến lập kế hoạch, triển khai thực hiện ở thôn, bản, xã, quản lý nguồn lực, giám sát, đánh giá v.v.. - Thứ tư, phải thấy rõ vấn đề XĐGN là một nhiệm vụ khó khăn, phức tạp và lâu dài. Nó liên quan đến nhiều mục tiêu cả kinh tế lẫn xã hội, liên quan đến hoạt động của nhiều ngành và các cấp chính quyền khác nhau. Vì vậy, để đạt được hiệu quả XĐGN phải có sự phối hợp tích cực và đồng bộ của các cấp, các ngành chức năng, các tổ chức hội, đoàn thể quần chúng; đồng thời phải có sự lồng ghép tất cả các hoạt động, các chương trình, dự án đầu tư XĐGN. - Thứ năm, phải làm tốt công tác tổ chức, cán bộ, củng cố, kiện toàn Ban chỉ đạo các cấp, nhất là cấp xã là một trong những yếu tố thành công trong quá trình thực hiện. Kinh nghiệm thực tế đã cho thấy, ở đâu có Ban XĐGN xã mạnh thì ở đó hoạt động XĐGN đạt kết quả tốt. Chương 2 THỰC TRẠNG XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO TRÊN ĐỊA BÀN QUẢNG TRỊ 2.1. KHÁI QUÁT ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA TỈNH QUẢNG TRỊ 2.1.1. Đặc điểm tự nhiên *Vị trí địa lý, địa hình, khí hậu: Quảng Trị có tổng diện tích tự nhiên 4.744,15 km2 với 3/4 diện tích là đồi núi, có 10 đơn vị hành chính: 2 thị xã và 8 huyện với 138 xã, phường thị trấn. Đông Hà là thị xã tỉnh lỵ. Quảng Trị nằm trong vùng Bắc Trung Bộ của Việt Nam có toạ độ địa lý ở vào vị trí 16o18' - 17o10' vĩ độ Bắc và 106o32' - 107o24' Kinh độ Đông. Phía Bắc Quảng Trị giáp với tỉnh Quảng Bình, phía Nam giáp tỉnh Thừa Thiên-Huế, phía Đông giáp biển Đông với bờ biển dài 75km, phía Tây giáp 2 tỉnh Savanakhet và Sanavane của nước Lào với đường biên giới dài 206km gắn với 2 cửa khẩu là cửa khẩu quốc tế Lao Bảo và cửa khẩu quốc gia La Lay. Quảng Trị cách thủ đô Hà Nội 588km về phía Bắc, cách thành phố Huế 75km và thành phố Hồ Chí Minh 1.121km về phía Nam. Tuy diện tích không rộng nhưng ở vị trí nối liền hai miền đất nước; Quảng Trị nằm trên các trục đường giao thông quan trọng cả về đường bộ, đường sắt cũng như đường thuỷ; có đường 9 xuyên Đông Dương qua cửa khẩu quốc tế Lao Bảo thông ra biển Đông. Vì vậy, Quảng Trị đang giữ vai trò trọng yếu trong bảo vệ và khai thác biển Đông, bảo đảm giao thông thông suốt giữa hai miền Bắc - Nam của đất nước và với các nước trong khu vực Đông Nam Á như: Lào, Thái Lan, Myanma... mở ra thời cơ hội nhập với các nước trong khu vực và thế giới. - Địa hình Quảng Trị rất phức tạp và bị chia cắt mạnh bởi mạng lưới nhiều sông, suối, đồi núi, bãi cát, cồn cát, xen kẽ nhau; đồng thời có độ cao nghiêng dần từ Tây sang Đông, được chia thành 04 vùng rõ rệt: Vùng núi, vùng trung du, đồng bằng và vùng ven biển. Mỗi vùng có những đặc điểm về địa hình, khí hậu, thời tiết khác nhau. Tuy nhiên, sự khác biệt này thể hiện rõ nét nhất ở giữa vùng núi, đồng bằng và trung du với vùng ven biển qua các chỉ tiêu mật độ phân bố sông ngòi, khe suối: ở vùng núi, trung du là 1km/km2, vùng đồng bằng và ven biển là 0,45-0,5 km/km2. Trong nghiên cứu kinh tế - xã hội người ta có thể chia thành 3 vùng chính: Vùng núi phía Tây của tỉnh có 47 xã, thị trấn chiếm 65,8% diện tích tự nhiên; Vùng bãi cát, cồn cát ở ven biển phía Đông kéo dài dọc theo chiều dài của tỉnh có 12 xã và chiếm 75% diện tích tự nhiên; Vùng đồng bằng ở giữa và trung du có 79 xã và chiếm 26,7% tổng diện tích tự nhiên (trong đó riêng vùng đồng bằng là 11,5%). - Khí hậu thời tiết: Việt Nam nói chung và Quảng Trị nói riêng là nơi chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa. Nhưng Quảng Trị ảnh hưởng rõ nét và có tính đặc thù hơn so với các tỉnh khác trong toàn quốc, được thể hiện qua hai mùa gió chính. Thứ nhất là gió Tây Nam khô nóng bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 9, lượng ánh nắng trong mùa này chiếm 60-70% trong năm, độ ẩm trung bình thấp nhất có lúc xuống tới 30%, nhiệt độ cao nhất lên tới 42oC, vận tốc gió có lúc lên tới 17-18m/s và lượng mưa trong mùa này chỉ chiếm khoảng 20-30% tổng lượng mưa trong năm. Thứ hai là gió mùa Đông Bắc bắt đầu từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau. Đặc điểm nổi bật của mùa này là gió kèm theo mưa lớn, hầu hết các cơn bão đều diễn ra vào mùa này và gây nên lũ lụt, ngập úng làm ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất nông nghiệp, ngư nghiệp và đời sống của đại bộ phận dân cư nông ngư nghiệp vốn đã khó khăn lại càng khó khăn hơn. Nhiệt độ thấp nhất vào mùa này là 9-11oC; độ ẩm thấp nhất 91%, lượng mưa chiếm tới trên 70% lượng mưa của cả năm. Với chế độ khí hậu nói trên đã đưa nền sản xuất nông nghiệp Quảng Trị vào tình trạng bấp bênh, khi thì quá khô hạn làm thiếu nước cho sinh hoạt và cây trồng, khi thì mưa nhiều gây ngập úng ảnh hưởng đến năng suất của cây trồng trong mùa thu hoạch. Trong lúc đó các giải pháp đảm bảo điều hoà nguồn nước chưa hoàn thiện, đặc biệt là hệ thống thuỷ lợi, các công trình hồ đập chứa nước do không đủ vốn đầu tư nên còn thiếu, không đồng bộ và bị xuống cấp. *Các nguồn lực về tài nguyên thiên nhiên: - Tài nguyên đất: Theo số liệu thống kê đất 1/1/2000 thì tổng diện tích đất tự nhiên của tỉnh là 474.415ha trong đó: + Đất nông nghiệp: 68.928 ha (chiếm 14,5%) + Đất lâm nghiệp có rừng: 149.812 ha (chiếm 31,6%) + Đất chuyên dùng: 18.255 ha (chiếm 3,9%) + Đất ở (Nông thôn và đô thị): 3.590 ha (chiếm 0,77%) + Đất chưa sử dụng: 233.830 ha (chiếm 49,23%) Trong đó đất bằng có khả năng trồng cây nông nghiệp 22.800 ha (chiếm 7,95% đất chưa sử dụng); Đất có khả năng trồng cây lâm nghiệp 193.485 ha (chiếm 82,9%). Đây là tiềm năng cho phân bố lại dân cư ngày càng hợp lý để khai thác tiềm năng đất đai chưa sử dụng. Tuy nhiên, phần lớn các loại đất này là cồn cát, bãi cát, đất chua mặn, đất đồi có tầng dày mỏng, nghèo chất dinh dưỡng, phân bố rải rác. Do đó để khai thác đưa vào sử dụng phải đầu tư nhiều vốn, kỹ thuật và thuỷ lợi... [35, tr.32]. - Tài nguyên nước: Quảng Trị có nguồn nước khá dồi dào nhưng khả năng khai thác còn hạn chế. Toàn tỉnh có 12 con sông tập trung thành 3 hệ thống chính và phân bố khá đều trên địa bàn tỉnh cụ thể là: Hệ thống sông Bến Hải tổng chiều dài 59km, hệ thống sông Mỹ Chánh tổng chiều dài 246km; hệ thống sông Thạch Hãn tổng chiều dài 150km. Hầu hết các sông đều bắt nguồn từ dãy Trường Sơn chảy ra biển Đông qua hai cửa biển là cửa Việt và cửa Tùng, riêng sông Mỹ Chánh chảy vào Thừa Thiên Huế. Nhìn chung các sông không dài, lòng sông hẹp và dốc tạo ra nhiều ghềnh thác có khả năng phát triển thuỷ điện trong đó lớn nhất là sông Rào Quán đang được xây dựng công trình thuỷ điện với công suất 100Mw. Do tốc độ dòng chảy lớn nên phù sa lắng động ít. Mùa mưa do cửa sông chảy ra biển hẹp nên thoát nước chậm dễ gây úng lụt. Ngược lại về mùa khô lượng nước ở các sông thấp nên ở hạ lưu thuỷ triều xâm lấn gây nhiễm mặn. Do đặc điểm địa hình dốc và bị chia cắt mạnh nên kiến tạo nên nhiều ao hồ, thung lũng tự nhiên có thể xây dựng các công trình hồ đập thuỷ lợi phục vụ sản xuất; điển hình là: Bàu Thuỷ Ứ, Bàu Dú, Mỏ Vịt, Trà Trì, Trà Lộc, Đập dâng Thạch Hãn, Hồ Đá Mài, Hồ Trúc Kinh, Hồ Bảo Đài, Hồ Hà Thượng v.v.. tạo cho tỉnh một tiềm năng lớn về nước sinh hoạt và phục vụ sản xuất. - Tài nguyên du lịch và tài nguyên biển được xem là một trong những yếu tố nổi trội cần phát huy. Với bờ biển dài 75km và vùng lãnh hải rộng lớn khá giàu hải sản có giá trị kinh tế cao, gắn liền với hai cửa lệch là cửa Việt và cửa Tùng; Cửa Việt có thể xây dựng thành cảng biển hàng hoá. Ven biển có nhiều bãi cát cảnh quan đẹp và có thể phát triển du lịch. Ngoài khơi có đảo Cồn Cỏ có vị trí quan trọng về kinh tế và quốc phòng, hiện đang được xây dựng cảng cá và khu dịch vụ hậu cần nghề cá cho cả vùng. Vùng ven biển có khoảng 1.000 ha mặt nước và đất nhiễm mặn chưa được khai thác, có thể được sử dụng để nuôi trồng thuỷ sản. - Tài nguyên rừng: Quảng Trị có diện tích đất lâm nghiêp 149.812 ha (chiếm 31,6% diện tích lãnh thổ); trong đó rừng tự nhiên 101.467 ha, rừng trồng 48.345 ha. Do hậu quả của chiến tranh và tác động của con người nên rừng Quảng Trị hiện nay chủ yếu là rừng nghèo và rừng trung bình (rừng giàu chỉ chiếm 12%); diện tích cần trồng rừng để phủ xanh đất trống đồi núi trọc là rất lớn, trên 190 ngàn ha. - Tài nguyên khoáng sản: Khoáng sản ở Quảng Trị tương đối đa dạng nhưng trữ lượng không lớn và chưa được điều tra đầy đủ. Một số khoáng sản chủ yếu có thể khai thác được ngay phục vụ cho phát triển kinh tế gồm: Quặng sắt đã được phát hiện ở một số điểm, trữ lượng 1,06 triệu tấn; Titan phân bố dọc theo dãi cát ven biển dưới dạng sa khoáng (đang được khai thác); Bô Xít ở dốc Miếu; Vàng ở SaLung (Vĩnh Linh), AVao (Đakrông); Đá vôi ở Tân Lâm (Cam Lộ), Tà Rùng (Hướng Hoá) trữ lượng khá lớn thuận lợi cho phát triển nhà máy sản xuất xi măng có công suất lớn; Đất sét sản xuất gạch ngói và sỏi sạn, cát xây dựng có ở nhiều nơi... Những đặc điểm về điều kiện địa lý, địa hình, khí hậu và sự phân bố tài nguyên nêu trên có tác động đến việc phân bố dân cư và trình độ phát triển kinh tế không đồng đều giữa các vùng trong tỉnh. 2.1.2. Đặc điểm kinh tế, xã hội a) Đặc điểm xã hội: - Dân số: Năm 2005, dân số của tỉnh Quảng Trị là 628.954 người với các dân tộc: Kinh, Vân Kiều và Pacô, trong đó nam chiếm 49,5%, nữ chiếm 50,5% tỷ lệ tăng dân số tự nhiên giai đoạn 2001-2005 từ 1,3-1,4%/năm. Dân số thành thị năm 2000 là 23,51% tăng lên 24,53% năm 2005; dân số nông thôn giảm từ 76,49% năm 2000 xuống 75,47% năm 2005 [34]. Điểm đáng chú ý là dân tộc ít người (DTIN) gồm dân tộc Pacô, Vân Kiều chỉ chiếm 9,6% dân số, còn lại là người Kinh, sự phân bố dân cư các vùng trong tỉnh chênh lệch khá lớn: Mật độ dân số trung bình cả tỉnh khoảng 133 người/km2. Dân cư tập trung ở hai thị xã và vùng đồng bằng, ven biển là chính; Thị xã Đông Hà 1.125người/km2; Vùng miền núi dân cư thưa thớt (Hướng Hoá 58người/km2, ĐaKrông 30người/km2). Việc phân bố dân cư không đồng đều làm hạn chế khả năng khai thác tài nguyên đất đai vùng gò đồi, miền núi. - Lao động: Lao động trong độ tuổi toàn tỉnh đến ngày 31/12/2005 là 316.475 người (chiếm 50% dân cư). Tham gia làm việc thường xuyên trong nền kinh tế 281.937 người (chiếm 90,8% số người trong độ tuổi lao động) Trong đó: Lao động nông lâm nghiệp 169.208 người (chiếm 60%); thuỷ sản 11.535 người (chiếm 4,1%); công nghiệp - xây dựng 29.599 người (chiếm 10,5%) còn lại các ngành dịch vụ là 71.595 người (chiếm 25,4%) [34]. Với tốc độ gia tăng khoảng trên 2%/năm, tiềm năng lao động của tỉnh còn rất dồi dào, nhưng tỷ lệ lao động qua đào tạo rất thấp (cuối năm 2005, tỷ lệ lao động qua đào tạo là 24%, trong đó đào tạo nghề là 16,8%); còn hơn 20% quỹ thời gian lao động nhàn rỗi của nông thôn chưa được sử dụng. Do vậy, nhu cầu tạo việc làm và đào tạo nghề để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đang là vấn đề bức xúc của tỉnh hiện nay [32, tr.11]. - Về giáo dục đào tạo: Quảng Trị có số học sinh trong độ tuổi đi học tiểu học 98,5%, trung học cơ sở 95,1%, trung học phổ thông 71,8%; tỷ lệ tốt nghiệp tiểu học đạt 98-99%, trung học cơ sở 94,8%, THPT 91,5%; đã hoàn thành và được công nhận đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở từ năm 2005 [36, tr 37]. Tuy nhiên, chất lượng giáo dục không đồng đều, vùng miền núi rất thấp, tình trạng bỏ học nhiều. Mạng lưới trường lớp phân bố khá đều trên khắp địa bàn, đáp ứng đủ điều kiện cho tất cả học sinh trong độ tuổi có thể đến trường. Tuy nhiên, chất lượng phòng học còn thấp, thiết bị phục vụ dạy học còn thiếu nhiều, hiện nay mới chỉ có 65% số trường được cao tầng, kiên cố hoá. Ngoài hệ thống trường phổ thông trên địa bàn tỉnh Quảng Trị còn có hệ thống các trường phổ thông chuyên nghiệp như: Trường Cao đẳng Sư phạm Quảng Trị, trường Trung học nông nghiệp, trường Trung học y tế và trường dạy nghề tổng hợp tỉnh đào tạo nghề cho lao động hiện đang trong quá trình mới hình thành, đang từng bước xây dựng và phát triển. - Lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ: Hiện nay 100% số xã, phường, thị trấn có trạm y tế. Năm 2005 tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng giảm xuống còn 25%; 98% trẻ em được tiêm chủng mở rộng; 66,7 số xã có bác sỹ [31]. Tỷ suất sinh giảm từ 20,54% năm 2001 xuống 17,04% năm 2005. Tỷ lệ tử vong của bà mẹ và trẻ sơ sinh... - Văn hoá thông tin: Do đặc điểm Quảng Trị luôn là nơi nóng bỏng của các cuộc chiến tranh từ thời Trịnh - Nguyễn phân tranh cho đến chống Pháp, chống Mỹ đã tạo cho nền văn hoá Quảng Trị luôn gắn liền với các phong trào yêu nước của dân tộc, tính gắn kết cộng đồng rất cao, có lòng tin khá bền vững với cách mạng, các hủ tục lạc hậu được loại bỏ nhanh. Đến cuối năm 2005 có 53,7 hộ gia đình và trên 60% làng, bản, đơn vị được công nhận là đơn vị văn hoá, 90% diện phủ sóng phát thanh và 70% phủ sóng truyền hình trên địa bàn dân cư. Toàn tỉnh đã có trên 350 nhà văn hoá cộng đồng thôn, bản. Các hoạt động văn hoá, thông tin, báo chí, thể dục, thể thao phát triển cả về quy mô và có nhiều đổi mới về nội dung. Rất nhiều lễ hội lớn mang tầm quốc gia và quốc tế được tổ chức như: Lễ hội "Thống nhất non sông", "Nhịp cầu xuyên Á" có nhiều nước trong khu vực tham gia. - Hậu quả chiến tranh: Hậu quả cuộc chiến tranh của Mỹ đã để lại cho Quảng Trị khá nặng nề. Theo điều tra của Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội thì trong cuộc chiến tranh chống Mỹ ở Quảng Trị cứ 5 người dân thì có 1 người chết hoặc bị thương và đến năm 2000 vẫn còn 2 vạn người lớn khuyết tật, trên 6.000 cháu nhỏ bị tật nguyền, 615 cháu mồ côi cả cha lẫn mẹ, hơn 2000 người già không nơi nương tựa và trong tổng số hộ nghèo đói có 4.259 chủ hộ là phụ nữ [38]. Bên cạnh đó chiến tranh đã phá huỷ tàn khốc cơ sở hạ tầng, phá huỷ môi trường đất, rừng, nguồn nước bị ô nhiễm, còn nhiều bom đạn trong lòng đất v.v.. Tất cả những điều đó làm cho Quảng Trị khó khăn lại càng khó khăn hơn, lực lượng lao động bị giảm sút, giải quyết chính sách xã hội càng là một gánh nặng. b) Đặc điểm về kinh tế: Cùng với sự phát triển kinh tế của cả nước, kinh tế Quảng Trị trong những năm vừa qua đã có sự tăng trưởng khá ổn định. Tốc độ tăng GDP bình quân hàng năm giai đoạn 2001 - 2005 là 8,7%/năm (giai đoạn 1996 - 2000 là 8,5%). Cơ cấu kinh tế đã bắt đầu chuyển dịch theo hướng CNH-HĐH. Trong cơ cấu GDP tỷ trọng ngành Công nghịêp xây dựng tăng từ 11,1% (năm 1996) lên 15,1% (năm 2000) và 23,7% (năm 2005); Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản giảm từ 50,4% (năm 1996) xuống 44,9% (năm 2000) và 36,8% (năm 2005). Dịch vụ tương đối ổn định, năm 1996 chiếm 38,5% tăng lên 39,5% (năm 2005). Năm 2005 tổng thu ngân sách trên địa bàn 368 tỷ đồng (tăng bình quân hàng năm giai đoạn 2001 -2005 là 7,05%). Chi ngân sách địa phương là 978,5 tỷ đồng (tăng 8,3% năm). Giá trị xuất nhập khẩu đạt gần 12,7% triệu USD, nhập khẩu 27,7 triệu USD. Tổng vốn đầu tư phát triển trên địa bàn trong 5 năm (2001 - 2005) đạt 5.600 tỷ đồng (tăng gần 3 lần giai đoạn 1996 - 2000), trong đó vốn đầu tư nước ngoài chiếm 17% (chủ yếu viện trợ ODA), trong nước 83%. Đã có một số nhà đầu tư trong và ngoài nước đến đầu tư trên địa bàn (trong đó tập trung nhiều ở khu kinh tế thương mại Lao Bảo (tổng vốn đã đăng ký luỹ kế đến đầu năm 2006 là 60 dự án với 2.300 tỷ đồng, trong đó 4 dự án FDI là 14,7 triệu USD.GDP bình quân đầu người tăng nhanh, năm 2005 đạt 516 triệu đồng, tương đương 310 USD, gấp 1,77 lần so với năm 2000. Tốc độ giảm tỷ lệ hộ đói nghèo bình quân giai đoạn 1996 -2005 là trên 2%. Năm 2005 tỷ lệ hộ đói nghèo còn 9,8% (theo chuẩn cũ của Bộ Lao động thương binh và xã hội) và 28,5% (theo chuẩn mới). Hệ thống cơ sở hạ tầng đã được cải thiện: 100% số xã có điện thoại, 95% số xã được sử dụng điện lưới quốc gia; nhiều công trình thuỷ lợi lớn đã và đang được đầu tư có khả năng tưới chủ động 3.000 ha lúa 2 vụ (đạt khoảng 80% vùng đồng bằng) [31], [32]. Mặc dù đạt được những thành tựu đáng kể và khá hơn trước về kinh tế và xã hội, đời sống của nhân dân được cải thiện, nhưng vẫn còn thấp hơn nhiều so với mặt bằng chung của cả nước. Đến nay, Quảng Trị vẫn là một trong những tỉnh nghèo nhất của cả nước. GDP bình quân đầu người mới chỉ bằng khoảng 52% bình quân chung của cả nước. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp, dịch vụ chưa mạnh đến năm 2005 công nghiệp, xây dựng chưa đạt 1/4 GDP của tỉnh. Nguồn sống chính của đại bộ phận dân cư vẫn dựa vào sản xuất nông nghiệp, năng suất lao động thấp (60% lao động nông, lâm nghiệp, thuỷ sản chỉ tạo ra 36,8% GDP, và 1 lao động phải nuôi nhiều người ăn theo hơn các nghành khác). Nhiều vấn đề bức xúc của xã hội chưa được giải quyết như: Tạo việc làm mới cho người lao động, vấn đề truyền đạo trái phép của các tôn giáo gia tăng, tệ nạn xã hội và tội phạm diễn biến phức tạp... Do vậy, đổi mới phương pháp và các giải pháp thực hiện các chính sách xã hội, bảo đảm cho phát triển bền vững ngay trong các chươn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLuận văn-Thực trạng và nguyên nhân nghèo đói, đề xuất những giải pháp chủ yếu XĐGN trên địa bàn Quảng Trị.pdf
Tài liệu liên quan