Đề tài Thực trạng và một vài giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng tại các cụm xã trọng điểm trên địa bàn tỉnh Sơn La

Tài liệu Đề tài Thực trạng và một vài giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng tại các cụm xã trọng điểm trên địa bàn tỉnh Sơn La: Lời mở đầu 1- Tính cấp thiết của đề tài: Cơ sở hạ tầng gắn liền với mọi hoạt động kinh tế xã hội, là nhân tố thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia, mỗi địa phương. Cho nên, để thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội của bất kỳ một vùng lãnh thổ nào thì điều kiện đầu tiên và trước hết phải bắt đầu từ phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng. Hiện nay, phát triển kinh tế - xã hội của các vùng dân tộc miền núi của 6 tỉnh miền núi phía bắc nói chung, các vùng dân tộc miền núi của tỉnh Sơn La nói riêng đang là vấn đề cấp bách đặt ra. Là một tỉnh vùng cao biên giới, với một địa bàn nông thôn rộng lớn, nghèo nàn lạc hậu, kinh tế phát triển chậm, đời sống vật chất, văn hoá tinh thần của đồng bào còn hết sức khó khăn, nhất là các xã vùng III. Điều đáng chú ý là một trong những điều kiện để phát triển kinh tế xã hội là hệ thống cơ sở hạ tầng, cả phục vụ sản xuất và dân sinh ở đây đều vô cùng yếu kém. Đây có thể coi là một nguyên nhân cơ bản gây cản trở rất nhiều đến phát triển kinh tế xã h...

doc126 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1089 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Thực trạng và một vài giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng tại các cụm xã trọng điểm trên địa bàn tỉnh Sơn La, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu 1- Tính cấp thiết của đề tài: Cơ sở hạ tầng gắn liền với mọi hoạt động kinh tế xã hội, là nhân tố thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia, mỗi địa phương. Cho nên, để thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội của bất kỳ một vùng lãnh thổ nào thì điều kiện đầu tiên và trước hết phải bắt đầu từ phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng. Hiện nay, phát triển kinh tế - xã hội của các vùng dân tộc miền núi của 6 tỉnh miền núi phía bắc nói chung, các vùng dân tộc miền núi của tỉnh Sơn La nói riêng đang là vấn đề cấp bách đặt ra. Là một tỉnh vùng cao biên giới, với một địa bàn nông thôn rộng lớn, nghèo nàn lạc hậu, kinh tế phát triển chậm, đời sống vật chất, văn hoá tinh thần của đồng bào còn hết sức khó khăn, nhất là các xã vùng III. Điều đáng chú ý là một trong những điều kiện để phát triển kinh tế xã hội là hệ thống cơ sở hạ tầng, cả phục vụ sản xuất và dân sinh ở đây đều vô cùng yếu kém. Đây có thể coi là một nguyên nhân cơ bản gây cản trở rất nhiều đến phát triển kinh tế xã hội ở vùng nông thôn miền núi nghèo nàn này. Thời gian qua, với chủ trương phát triển kinh tế xã hội vùng dân tộc miền núi theo các cụm xã và trung tâm cụm xã, điều kiện cho phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng có nhiều tiến bộ đáng ghi nhận. Song mặt khác tình trạng đầu tư cho phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng còn rất nhiều yếu kém: mức đầu tư thấp, cơ cấu đầu tư không hợp lý lại yếu kém về trình độ quản lý và khai thác. Nên vấn đề đặt ra cho tỉnh trong thời gian tới là cần phải nhanh chóng khắc phục những yếu kém còn tồn tại trong đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng để khai thông các điều kiện cho thúc đầy phát triển kinh tế xã hội ở địa bàn này. Trước thực tế đó, em quyết định chọn đề tài: “Thực trạng và một vài giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng tại các cụm xã trọng điểm trên địa bàn tỉnh Sơn La”. 2 - Đối tượng và giới hạn nghiên cứu của đề tài: Đề tài tập trung nghiên cứu chủ yếu về tình hình đầu tư cho phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng ở các cụm xã trọng điểm trên địa bàn tỉnh Sơn La. 3 - Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài: Mục đích chủ yếu được xác định là: Thông qua nghiên cứu đề tài góp phần đánh giá tình hình và tìm ra những phương hướng và giải pháp chủ yếu để đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng ở địa bàn cụm xã trọng điểm của tỉnh Sơn La có hiệu quả hơn. Với mục đích trên, đề tài cần phải giải quyết những nhiệm vụ sau: - Khái quát những nhận thức về cơ sở hạ tầng và vai trò của nó với phát triển kinh tế xã hội ở địa bàn nông thôn miền núi. - Làm rõ thực trạng về đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng ở địa bàn cụm xã trọng điểm nói riêng, tỉnh Sơn La nói chung. - Đề xuất những phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư vào phát triển cơ sở hạ tầng trên địa bàn những cụm xã trọng điểm này. 4. Kết cấu của đề tài: Với mục đích và nhiệm vụ đặt ra, ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, chuyên đề gồm 3 chương: Chương I: Một số vấn đề cơ bản về đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng tại các cụm xã trọng điểm ở khu vực miền núi vùng cao. Chương II: Thực trạng đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng tại các cụm xã trọng điểm trên địa bàn tỉnh Sơn La giai đoạn 1996-2001 Chương III: Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư vào phát triển cơ sở hạ tầng tại các cụm xã trọng điểm trên địa bàn tỉnh Sơn la. Chương I Một số vấn đề cơ bản về đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng tại các cụm xã trọng điểm ở khu vực miền núi vùng cao I- Lý luận chung về đầu tư : 1. Khái niệm và bản chất của đầu tư phát triển : Đầu tư là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Nguồn lực đó có thể là tiền , tài nguyên thiên nhiên, sức lao động và trí tuệ... Những kết quả đó có thể là sự tăng thêm tài sản tài chính ( tiền), tài sản vật chất (nhà máy,...), tài sản trí tuệ (trình độ văn hoá, chuyên môn) và nguồn nhân lực có đủ điều kiện để làm việc có năng suất trong nền kinh tế xã hội. Trong những kết quả này, những tài sản tài chính, tài sản vật chất, tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực tăng thêm đó có vai trò đặc biệt quan trọng nó đem lại lợi ích không chỉ cho cá nhân người đầu tư mà cho cả nền kinh tế. Trong nền kinh tế hoạt động đầu tư gồm 3 loại: - Đầu tư tài chính: đây là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra cho vay hoặc mua các chứng chỉ có giá để hưởng lãi xuất định trước hoặc lãi xuất tuỳ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh của công ty phát hành. Đặc điểm của đầu tư tài chính là không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế mà chỉ làm tăng giá trị tài sản tài chính của tổ chức cá nhân đầu tư. Vốn bỏ ra đầu tư được lưu chuyển dễ dàng khi cần có thể rút ra nhanh chóng điều này khuyến khích người có tiền bỏ ra đầu tư. Người đầu tư có thể đầu tư vào nhiều nơi và mỗi nơi có thể một ít tiền để phân tán rủi ro. - Đầu tư thương mại: là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ ra để mua hàng hoá và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận do chênh lệch giá khi mua và khi bán. Đặc điểm của loại đầu tư này làm tăng giá trị tài sản tài chính của người đầu tư trong quá trình mua đi bán lại. ở đây chỉ có sự chuyển giao quyền sở hữu hàng hóa giữa người bán với người đầu tư và người đầu tư với khách hàng của họ mà không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế. Thời gian thực hiện đầu tư và hoạt động của các kết quả đầu tư để thu hồi vốn đầu tư ngắn. Tính chất bất định trong đầu tư không cao đễ dự đoán và dự đoán dễ đạt độ chính xác cao. - Đầu tư phát triển : là quá trình chuyển hoá vốn bằng tiền thành vốn hiện vật, là quá trình chi dùng vốn nhằm tạo ra những yếu tố cơ bản của sản xuất kinh doanh, dịch vụ đời sống, tạo ra những tài sản mới và năng lực sản xuất mới cũng như việc duy trì những tiềm lực sẵn có của nền kinh tế. Xem xét lại 3 loại đầu tư trên thì chỉ có đầu tư phát triển là quan trọng nhất vì nó tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế và có thể duy trì tiềm lực hoạt động của những tài sản sẵn có của nền kinh tế. Do đó để phát triển và tăng trưởng kinh tế thì chỉ có hoạt động đầu tư phát triển còn 2 loại hoạt động đầu tư trên thì có tác dụng hỗ trợ cho đầu tư phát triển: hoạt động đầu tư thương mại có tác dụng thúc đẩy quá trình lưu thông của cải vật chất do đầu tư phát triển tạo ra, còn hoạt động đầu tư tài chính là nguồn cung cấp vốn quan trọng cho đầu tư phát triển. Như vậy, ta có thể định nghĩa về đầu tư phát triển như sau: Đầu tư phát triển là hoạt động sử dụng các nguồn lực tài chính, nguồn lực vật chất, nguồn lực lao động và trí tuệ để xây dựng sửa chữa nhà cửa và cấu trúc hạ tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ, bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện chi phí thường xuyên gắn liền với sự hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế - xã hội, tạo việc làm và nâng cao đời sống của mọi thành viên. Tóm lại, muốn một đất nước, một vùng, một địa phương tăng trưởng và phát triển thì cần phải quan tâm đẩy mạnh hoạt động đầu tư phát triển. Trong phạm vi đề tài này do vấn đề quan tâm là đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội các vùng cụm xã thuộc miền núi vùng cao. Cho nên ta chỉ xem xét đến phạm trù đầu tư phát triển. 2. Đặc điểm của hoạt động đầu tư phát triển: Hoạt động đầu tư phát triển có những đặc điểm cơ bản sau: - Trong đầu tư phát triển thì tiền vốn, vật tư lao động cần thiết cho các công trình đầu tư thường rất lớn và nằm khê đọng trong suốt quá trình thực hiện đầu tư. - Thời gian để tiến hành một công cuộc đầu tư cho đến khi các thành quả của nó phát huy tác dụng thường đòi hỏi nhiều năm tháng với nhiều biến động xảy ra . - Thời gian cần hoạt động có thể thu hồi vốn đã bỏ ra đối với các cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ sản xuất kinh doanh thường đòi hỏi nhiều năm tháng và do đó không tránh khỏi sự tác động hai mặt tích cực và tiêu cực của các yếu tố không ổn định về về tự nhiên, xã hội chính trị kinh tế... - Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển có giá trị sử dụng lâu dài nhiều năm, có khi hàng trăm năm, có khi tồn tại vĩnh viễn . Điều này nói lên giá trị lớn lao của các thành quả đầu tư phát triển. - Kết quả của hoạt động đầu tư phát triển là các công trình sẽ hoạt động ngay tại nơi nó được tạo dựng nên . Do đó các điều kiện địa hình tại đó có ảnh hưởng lớn đến quá trình thực hiện đầu tư cũng như tác dụng sau này của các kết quả đầu tư. - Mọi thành quả và hậu quả của quá trình thực hiện đầu tư chịu ảnh hưởng nhiều của yếu tố không ổn định theo thời gian và điều kiện địa lý của không gian. Với những đặc điểm cơ bản như vậy đặt ra cho quá trình quản lý hoạt động đầu tư phát triển phải chú ý quản lý về vốn, vật tư, lao động và thời gian như thế nào và cần phải làm gì để khắc phục một số rủi ro trong quá trình tiến hành hoạt động đầu tư. 3. Vai trò của hoạt động đầu tư với phát triển kinh tế - xã hội: Từ việc tìm hiểu bản chất của đầu tư phát triển ta thấy đầu tư phát triển là nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế, là chìa khoá cho sự tăng trưởng. Vai trò của nó tác động đến nhiều mặt của nền kinh tế xã hội nhưng trong khuôn khổ của đề tài này xin được đề cập đến vai trò của đầu tư phát triển đối với sự phát triển kinh tế của đất nước nói chung, của địa phương và vùng lãnh thổ nói riêng. Trước hết, đầu tư là yếu tố quyết định sự tăng trưởng của nền kinh tế. Bởi vì bản chất của đầu tư phát triển là tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế cho nên khi nó tham gia vào quá trình sản xuất thì tạo ra các sản phẩm. Nên đứng trên toàn bộ nền kinh tế thì đầu tư phát triển tác động trực tiếp và gián tiếp đến sản lượng của nền kinh tế. Mà sản lượng của nền kinh tế lại chính là thước đo của sự tăng trưởng. Do đó có thể nói: đầu tư phát triển là “cái hích ban đầu” tạo đà cho sự tăng trưởng và thúc đẩy phát triển kinh tế. Thứ hai, đầu tư có vai trò thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế (gồm cơ cấu ngành, cơ cấu lãnh thổ, cơ cấu kinh tế trung ương và địa phương, cơ cấu thành phần kinh tế... ). Trong vấn đề này, cơ cấu đầu tư làm ảnh hưởng đến cơ cấu kinh tế, nếu biết cách điều hoà các hoạt động đầu tư thì đây sẽ là một công cụ hữu hiệu thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với quy luật phát triển và chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong từng thời kỳ. + Trong cơ cấu ngành đầu tư ảnh hưởng đến số lượng ngành và tỷ trọng phát triển của ngành, góp phần phát huy nội lực của mỗi ngành, nên trên con đường tất yếu để có tốc độ tăng trưởng nhanh là bằng cách tăng cường đầu tư tạo sự phát triển nhanh ở khu vực công nghiệp và dịch vụ. Thứ ba, đầu tư góp phần tạo ra sự cân đối trên phạm vi toàn nền kinh tế giữa các ngành, các vùng lãnh thổ. Điều này thể hiện rõ nhất trong việc tạo lập sự phát triển cân đối giữa các vùng nông thôn và thành thị, những vùng kém phát triển và phát triển. Đầu tư vào những vùng kém phát triển sẽ giúp cho các vùng này thoát khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu, giúp phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, vị thế kinh tế , chính trị... giúp vùng có khả năng phát triển. Tăng cường đầu tư cho những vùng khó khăn, những vùng nông thôn kém phát triển sẽ giúp đẩy nhanh quá trình đô thị hoá nông thôn, thu hút lao động tạo việc làm và nâng cao dần thu nhập cho nhân dân, giảm dần khoảng cách phát triển giữa nông thôn và thành thị, thúc đẩy kinh tế xã hội ở những vùng nghèo, ít lợi thế phát triển nhất. Ngoài ra, đầu tư phát triển còn góp phần ổn định kinh tế - văn hoá - xã hội cho nhân dân, đảm bảo cho kinh tế phát triển bền vững. Vậy đầu tư phát triển là nhân tố quan trọng hàng đầu quyết định tốc độ phát triển kinh tế của đất nước, của vùng, của địa phương. Đầu tư phát triển đúng hướng và có hiệu quả sẽ tạo ra năng lực mới làm chuyển dịch cơ cấu các thành phần kinh tế, các vùng, các lãnh thổ theo hướng CNH-HĐH đất nước. 4. Vốn và nguồn vốn đầu tư: Đầu tư phát triển có vai trò vô cùng quan trọng nhưng để tiến hành các hoạt động đầu tư thì cần thiết phải có vốn đầu tư. Theo nguồn hình thành và mục tiêu sử dụng thì: Vốn đầu tư là tiền tích luỹ của xã hội, của các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ, là tiết kiệm của dân và vốn huy động từ nước ngoài cũng như từ các nguồn khác được đưa vào sử dụngtrong quá trình tái sản xuất mở rộng của xã hội, nhằm duy trì tiềm lực sẵn có và tạo tiềm lực mới cho nền sản xuất xã hội. Nội dung của vốn đầu tư bao gồm: - Chi phí để tạo ra các tài sản cố định mới hoặc bảo dưỡng sự hoạt động của các tài sản cố định có sẵn. - Chí phí để tạo ra hoặc tăng thêm các tài sản lưu động - Nguồn vốn đầu tư bao gồm vốn huy động từ trong nước và vốn huy động từ nước ngoài. Hai nguồn này có vai trò quan trọng đối với thúc đẩy phát triển kinh tế của một đất nước, vốn trong nước là chủ yếu, vốn nước ngoài là quan trọng. Với một nước đang phát triển như nước ta thì giải quyết tốt mối quan hệ giữa hai nguồn vốn này là cần thiết. Nguồn vốn trong nước bảo đảm cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế một cách liên tục, bền vững và không phụ thuộc. Nguồn vốn nước ngoài là nguồn vốn quan trọng bù đắp và bổ sung cùng vốn trong nước để tạo bước đà phát triển mạnh.. * Nguồn vốn trong nước bao gồm: + Vốn ngân sách Nhà nước : hiện nay gồm có hai loại chính là vốn đầu tư trực tiếp từ ngân sách và vốn đầu tư qua tín dụng đầu tư của Nhà nước . Nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ ngân sách Nhà nước chủ yếu được sử dụng cho xây dựng các công trình văn hoá xã hội, các công trình công cộng không có khả năng hay chậm thu hồi vốn, được dùng để đầu tư cho những vùng lãnh thổ nghèo nàn khó khăn như vùng sâu, vùng xa, vùng cao biên giới. Nguồn này đặc biệt có vai trò quan trọng trong đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, cả hạ tầng kinh tế và hạ tầng xã hội. Còn vốn đầu tư của Nhà nước qua tín dụng được thực hiện cho các công trình sản xuất kinh doanh có khả năng thu hồi vốn. + Vốn của các doanh nghiệp: vốn này được trích từ lợi nhuận để lại, vốn khấu hao, vốn tự có của doanh nghiệp, vốn vay, vốn liên doanh liên kết với các tổ chức trong và ngoài nước,... Vốn này phục vụu cho sản xuất kinh doanh của chính doanh nghiệp đó. + Vốn huy động của dân cư: vốn này có thể là tiền gửi tiết kiệm qua ngân hàng hay tiền, sức người, nguyên vật liệu... được nhân dân đóng góp khi tham gia các dự án có lợi ích thiết thực cho nhân dân. Những khoản đóng góp này có vai trò khá quan trọng và cần thiết đối với các dự án xây dựng công trình phúc lợi công cộng, các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng nhất là ở địa bàn nông thôn, vốn này đặc biệt tỏ ra có hiệu quả khi mà người dân nhận thức được lợi ích kinh tế của họ gắn với các loại dự án đó. * Vốn huy động từ nước ngoài: gồm vốn đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp. + Vốn đầu tư gián tiếp: đây là nguồn vốn đầu tư dưới dạng viện trợ ( hoàn lại và không hoàn lại) hoặc cho vay ( cho vay ưu đãi và cho vay thông thường) của các Chính phủ, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ. Vốn đầu tư gián tiếp thường lớn nên có tác dụng mạnh và nhanh đối với việc giải quyết dứt điểm các nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội của các nước nhận đầu tư. Tiếp nhận đầu tư gián tiếp thường gắn với sự trả giá về mặt chímh trị và tình trạng nợ nần chồng chất nếu không thực hiện nghiêm ngặt chế độ trả nợ.Tuy nhiên, trong quá trình thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế ở các vùng nông thôn thì vốn này nhất là vốn ODA (viện trợ phát triển không chính thức của các nước công nghiệp phát triển) lại có vai trò khá quan trọng thông qua việc hỗ trợ đầu tư qua các dự án phát triển nông - lâm - ngư nghiệp và kinh tế nông thôn, các chương trình hỗ trợ cho các lĩnh vực xã hội. Đặc biệt là các khoản hỗ trợ hoàn lại trong ODA được sử dụng chủ yếu cho các chương trình và dự án xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội như: giao thông vận tải, thuỷ lợi, ytế, giáo dục đào tạo, cấp thoát nước... + Vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài: là vốn của các doanh nghiệp và cá nhân người nước ngoài đầu tư sang và họ trực tiếp tham gia quản lý quá trình sử dụng và thu hồi vốn. Với vốn đầu tư loại này nước nhận đầu tư có thể tiếp thu được kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, kinh nghiệm quản lý kinh doanh của nước ngoài, giúp khai thác có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, giúp sử dụng vốn có hiệu quả và nâng cao tốc độ phát triển kinh tế. Nhưng vốn đầu tư này thường không đủ lớn để giải quyết dứt điểm từng vấn đề kinh tế xã hội của đất nước lại tập trung mạnh ở các vùng đô thị, các vùng phát triển năng động còn các vùng nông thôn, vùng cao miền núi thì không đáng kể. 5. Dự án và chu kỳ dự án: Qua nghiên cứu khái niệm và đặc điểm của hoạt động đầu tư có thể khẳng định lại rằng hoạt động đầu tư phát triển là việc bỏ một lượng vốn rất lớn vào thực hiện một hoạt động nào đó trong một thời gian tương đối dài để kỳ vọng có được lợi ích lớn hơn, trong quá trình thực hiện nó chịu sự tác động của nhiều yếu tố từ môi trường bên ngoài. Mà hoạt động đầu tư lại là hoạt động cho tương lai, do đó bản thân hoạt động đầu tư này chứa đựng rất nhiều yếu tố bất định, đó là những yếu tố làm cho hoạt động đầu tư thất bại, làm xuất hiện rủi ro và không chắc chắn. Vì vậy, để tiến hành một công cuộc đầu tư phải có sự chuẩn bị đầy đủ trên nhiều khía cạnh khác nhau, phải phân tích một cách đầy đủ các thông tin về hoạt động sẽ được đầu tư, cả những thông tin về quá khứ, hiện tại cũng như dự kiến tương lai. Quá trình chuẩn bị này chính là việc soạn thảo dự án đầu tư , sự thành công hay thất bại của mỗi công cuộc đầu tư sẽ được quyết định từ việc phân tích này chính xác hay không. Cho nên, để đảm bảo sự thành công cao nhất thì mọi công cuộc đầu tư đều phải được thực hiện theo dự án. Dự án đầu tư có thể được xem xét từ nhiều góc độ khác nhau: Xét về mặt hìmh thức, dự án đầu tư là một tập hồ sơ tài liệu trình bày một cách chi tiết và có hệ thống các hoạt động và chi phí theo kế hoạch để đạt được những kết quả và thực hiện những mục tiêu nhất định trong tương lai. Trên góc độ quản lý, dự án đầu tư là một công cụ quản lý việc sử dụng vốn, vật tư, lao động để tạo ra các kết quả tài chính, kinh tế - xã hội trong một thời gian dài. Trên góc độ kế hoạch hoá, dự án đầu tư là công cụ thể hiện kế hoạch chi tiết của một công cuộc sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế xã hội, làm căn cứ cho việc ra các quyết định đầu tư và tài trợ. Dự án là một hoạt động kinh tế riêng biệt nhỏ nhất trong công tác kế hoạch hoá nền kinh tế nói chung. Về mặt nội dung, dự án đầu tư là một tập hợp các hoạt động cụ thể có liên quan với nhau được kế hoạch hoá nhằm đạt được những mục tiêu đã định bằng việc tạo ra các kết quả cụ thể trong một thời gian nhất định thông qua việc sử dụng các nguồn lực xác định. Dự án đầu tư là một công cụ để tiến hành các hoạt động đầu tư, do đó nó phải chứa đựng bên trong nó các yếu tố cơ bản của hoạt động đầu tư. Nó phải phản ánh các nhân tố cấu thành nên hoạt động đầu tư như: mục tiêu đầu tư là gì, nguồn lực và cách thức để đạt được mục tiêu đó, các kết quả cụ thể phải đạt được là gì. Để thực hiện tốt các công cuộc đầu tư thì khi lập dự án phải trả lời tốt các câu hỏi này. Chu kỳ dự án đầu tư: là các bước hoặc các giai đoạn mà một dự án phải trải qua bắt đầu từ khi dự án mới chỉ là ý đồ đến khi dự án hoàn thành chấm dứt hoạt động. Quá trình hình thành và thực hiện một dự án đầu tư thường trải qua 3 giai đoạn: chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư và vận hành các kết quả đầu tư. Nội dung các bước công việc ở mỗi giai đoạn của các dự án đầu tư không giống nhau tuỳ thuộc vào lĩnh vực đầu tư, vào tính chất tái sản xuất, đầu tư dài hạn hay ngắn hạn... Nhưng một dự án đầu tư đầy đủ phải có các bước như theo bảng 1. Các bước công việc, các nội dung nghiên cứu ở các giai đoạn được tiến hành tuần tự nhưng không biệt lập mà đan xen gôí đầu cho nhau, bổ sung cho nhau nhằm nâng cao dần mức độ chính xác của các kết quả nghiện cứu và tạo điều kiện tiến hành nghiên cứu ở các bước sau. Bảng 1: Các bước công việc của một dự án đầu tư Chuẩn bị đầu tư Thực hiện đầu tư Vận hành kết quả đầu tư Nghiên cứu phát hiện các cơ hội đầu tư Nghiên cứu tiền khả thi sơ bộ lựa chọn dự án Nghiên cứu khả thi (lập dự án, LCKT KT) Đánh giá và quyết định (thẩm định dự án) Hoàn tất các thủ tục để triển khai thực hiện đầu tư Thiết kế và lập dự toán thi công xây lắp công trình Thi công xây lắp công trình Chạy thử và nghiệm thu sử dụng Sử dụng chưa hết công suất Sử dụng công suất ở mức cao nhất Công suất giảm dần và thanh lý Trong 3 giai đoạn trên, giai đoạn chuẩn bị đầu tư tạo tiền đề và quyết định sự thành công hay thất bại ở 2 giai đoạn sau, đặc biệt là đối với giai đoạn vận hành các kết quả đầu tư. Cho nên công tác lập dự án là vô cùng quan trọng và phải thực hiện nghiêm túc. Trong giai đoạn 2, thì vấn đề thời gian là quan trọng nhất, tình trạng ứ đọng và tổn thất vốn có nguy cơ diễn ra mạnh trong giai đoạn này nên vấn đề quản lý quá trình thực hiện đầu tư này có vai trò đặc biệt quan trọng, làm tốt giai đoạn này là điều kiện cần thiết để giai đoạn 3 hoạt động phát huy hiệu quả. Để quá trình soạn thảo các dự án đầu tư được tiến hành nghiêm túc và có chất lượng, quá trình thực hiện dự án thuận lợi và có hiệu quả kinh tế xã hội cao. Đòi hỏi phải làm tốt công tác tổ chức, phân công, giám sát các bộ phận có liên quan trong quá trình thực hiện dự án, tức là phải làm tốt công tác quản lý dự án ở tất cả các mặt chất lượng, tiến độ, chi phí trong mỗi giai đoạn dự án. II- Cơ sơ hạ tầng và vấn đề phát triển kinh tế - xã hội miền núi vùng cao: 1. Vài nét về việc xây dựng các trung tâm cụm xã : 1.1. Khái niệm và sự cần thiết phải hình thành các trung tâm cụm xã: 1.1.1. Khái niệm: Trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, việc đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội ở các tỉnh miền núi vùng cao là một yêu cầu cấp bách. Nhưng miền núi nhất là những vùng cao vùng sâu vùng xa thì điều kiện phát triển lại vô cùng khó khăn. Do đó, tìm một hướng đi đúng đắn cho phát triển kinh tế miền núi không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế - xã hội mà còn có ý nghĩa về chính trị quốc phòng an ninh. * Miền núi: Đại bộ phận đất đai là núi cao dốc, có nơi rất dốcvà cao nguyên, địa hình đa dạng phức tạpcó nhiều sông suối tạo thành độ chia cắt lớn, là nơi sinh sống chủ yếu của đồng bào các dân tộc thiểu số. Tiêu thức xác định: - Hai phần ba( 2/3 ) diện tích đất đai có độ dốc 250 trở lên (là rừng và đất) - Kinh tế xã hội chậm phát triển so với đồng bằng - Đất đai sản xuất vừa có ruộngnước vừa sản xuất trên đất dốc - Đời sống có nhiều khó khăn , giao thông đi lại không thuận lợi như đồng bằng - Cư dân là dân tộc thiểu số và dân tộc đa số sống xen ghép hoặc chỉ các dân tộc thiểu số sống xen ghép hay sống riêng từng dân tộc trên địa bàn miền núi. * Vùng cao: Đất đai đại bộ phận thuộc độ cao trên dưới 600m trở lên so với mặt biển, cư dân sống trên đó chủ yếu là dân tộc thiểu số. Tiêu thức xác định: - Hai phần ba( 2/3 ) diện tích đất đai thuộc độ cao trên dưới 600m trở lên so với mặt biển - Kinh tế xã hội chậm phát triển so với vùng thấp. - Sản xuất chủ yếu trên đất dốc, có nơi còn du canh du cư, phá rừng làm nương rẫy. - Đời sống có nhiều khó khăn , đường giao thông chưa phát triển, đi lại có nhiều khó khăn so với vùng thấp, khí hậu khắc nghiệt, còn nhiều bệnh tật. - Cư dân chủ yếu là dân tộc thiểu số. Do yêu cầu khách quan về phát triển kinh tế xã hội tiểu vùng, khu vực và giao lưu văn hoá xã hội mà ở những khu vực miền núi, vùng cao này đã dần hình thành các tụ điểm thu hút dân cư. Sự xuất hiện các tụ điểm thu hút dân cư này đã vạch ra cho quá trình thúc đẩy kinh tế - chính trị -xã hội một hướng đi để phát triển bền vững và hiệu quả, đó là phát triển theo các cụm xã (gồm nhiều xã tập trung thành một cụm xã ). Nhưng do hình thành một cách tự nhiên nên các cụm xã này không hoàn chỉnh về mặt xây dựng kết cấu hạ tầng, các xã phát triển phân tán vụn vặt, kinh tế của vùng cụm xã chỉ có thể phát triển một cách manh mún nhỏ bé và lạc hậu. Nếu muốn thúc đẩy kinh tế ở đây thì cần phải có kế hoạch quy hoạch lại, nhất là việc xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh. Mà để các cụm xã này phát triển toàn diện thì cần phải có một khu động lực để thúc đẩy, tức là cần phải có một điểm kinh tế đóng vai trò là hạt nhân cho phát triển kinh tế vùng cụm - Khu động lực cần thiết này chính là khu trung tâm cụm xã. Đây sẽ là điểm khởi động kinh tế chính yếu của vùng cụm và có ảnh hưởng lan rộng đến các xã trong cụm cùng phát triển. Quyết định số 35/ TTg ngày 13 tháng 1 năm 1997của Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt về việc xây dựng các trung tâm cụm xã miền núi, vùng cao. Với mục tiêu: - Huy động mọi nguồn lực tại chỗ, phối hợp lồng ghép các chương trình trên địa bàn để xây dựng cơ sơ hạ tầng chủ yếu ở mỗi trung tâm cụm xã, nhằm tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc và miền núi, góp phần bảo vệ an ninh quốc phòng. - Thúc đẩy các hoạt động văn hoá xã hội trong tiểu vùng, tạo sự giao lưu giữa các bản làng và giữa các cụm xã với các đô thị để phát huy sức mạnh cộng đồng, quản lý mọi hoạt động kinh tế xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc, góp phần xây dựng nông thôn mới ở vùng dân tộc và miền núi. ( Trích : mục I - Quyết định 35/ TTg - ngày 13 tháng 1 năm 1997 ) Theo quyết định số 197/1999/QĐ- TTg ngày 13 táng 9 năm 1999 về quản lý chương trình xây dựng trung tâm cụm xã miền núi vùng cao thì: “ Trung tâm cụm xã miền núi vùng cao là điểm giao lưu kinh tế, sinh hoạt văn hoá của đồng bào các dân tộc trong vùng, là tiền đề phát triển thành các thị trấn, thị tứ khu vực miền núi,vùng đồng bào dân tộc.” Như vậy, chủ trương của Đảng và Nhà nước là trong một cụm xã dân cư sinh sống thì tiến hành xây dựng một khu trung tâm, khu này là hạt nhân phát triển chính của vùng cụm. Sự ra đời của các trung tâm cụm xã sẽ tạo điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội ở miền núi ; thu hút và phát triển các thành phần kinh tế nhằm đẩy nhanh sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tiểu vùng. Trung tâm cụm xã tạo tiền đề cho các đô thị (thị tứ) ra đời và phát triển thực hiện đường lối xây dựng nông thôn mới ở vùng dân tộc miền núi theo hướng CNH-HĐH, từng bứơc giảm dần sự chênh lệch quá lớn giữa thành thị và nông thôn. 1.1.2. Những căn cứ pháp lý để xây dựng các trung tâm cụm xã miền núi: Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chương trình xây dựng trung tâm cụm xã miền núi vùng cao tại quyết định số 35/TTg ngày13/01/1997. Mục tiêu của chương trình là xây dựng cơ sở hạ tầng chủ yếu ở trung tâm cụm xã để tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội ở vùng dân tộc và miền núi nhằm góp phần đảm bảo an ninh quốc phòng, thúc đẩy các hoạt động văn hoá , xã hội trong tiểu vùng . Để hỗ trợ cho chương trình, ngày 23 tháng 7 năm 1998 Thủ tướng chính phủ ra Quyết định số 133/1998/QĐ-TTg quy định về việc phê duyệt chương trình mục tiêu quốc gia về xoá đói giảm nghẻo trong giai đoạn 1998-2000. Ngày 31 tháng 7 năm 1998 ra Quyết định số 135/ 1998/QĐ- TTg về việc phê duyệt chương trình phát triển kinh tế xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi, vùng sâu, vùng xa. Ngày 30/09/1999 Thủ tướng Chính phủ có quyết định số 197/1999/QĐ-TTg về quản lý đầu tư và xây dựng trung tâm cụm xã theo cơ chế quản lý của chương trình 135 (Chương trình phát triển kinh tế xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi, vùng sâu, vùng xa). Đây thực chất là chương trình xây dựng trung tâm cụm xã được vận hành theo cơ chế quản lý của dự án xây dựng cơ sở hạ tầng. Theo quyết định 197/1999/QĐ-TTg trong điều 2 đã quy định: “Trước mắt ưu tiên xây dựng một số công trình như đường giao thông, trường học, phòng khám đa khoa, trạm khuyến nông, khuyến lâm, chợ, tạo điều kiện mặt bằng và tổ chức cho các thành phần dân cư đầu tư vốn xây dựng nhà ở, phát triển sản xuất, các ngành nghề dịch vụ .” Từ năm 2001, các chương trình phát triển kinh tế xã hội ở các xã vùng dân tộc miền núi được thực hiện theo Quyết định số 138/ 2000/ QĐ- TTg ngày 29 tháng 11 năm 2000 của Thủ tướng chính phủ về việc hợp nhất dự án định canh định cư, dự án hỗ trợ dân tộc đặc biệt khó khăn, chương trình xây dựng các trung tâm cụm xã miền núi. vùng cao vào chương trình phát triển kinh tế xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa. Như vậy, trong giai đoạn này chủ trương xây dựng và phát triển các trung tâm cụm xã miền núi đã được tập trung đẩy mạnh, được hướng dẫn và quản lý chặt chẽ. 1.2. Chức năng, nhiệm vụ của các trung tâm cụm xã: * Trung tâm cụm xã làm chức năng của một tụ điểm kinh tế, kỹ thuật, dịch vụ thương mại, văn hoá, y tế, giáo dục của tiểu vùng, là nơi dung nạp và thu hút các thành phần kinh tế trong và ngoài tiểu vùng đến với trung tâm. * Trung tâm cụm xã làm tiền đề cho việc đô thị hoá nông thôn, đưa khoa học, kỹ thuật và văn hoá đến với nông thôn, từng bước hình thành thị tứ, thị trấn ở các vùng nông thôn. * Trung tâm cụm xã không phải là đơn vị hành chính cấp trên của xã nhưng được vận hành dưới sự chỉ đạo của huyện, của các ngành về các chương trình kinh tế xã hội và an ninh quốc phòng . * Trung tâm cụm xã là nơi tổ chức hướng dẫn, tập huấn chuyển giao công nghệ khoa học kỹ thuật, khuyến nông-lâm-ngư, cung ứng vật tư nông nghiệp, tổ chức phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ, chỉ đạo nông dân phát triển sản xuất, bảo vệ rừng và môi trường... * Trung tâm cụm xã gắn liền với văn hoá, giáo dục, y tế, xã hội, nâng cao dân trí cho dân cư trong vùng, xây dựng các điểm dịch vụ y tế, khám chữa bệnh, trung tâm kế hoach hoá gia đình, văn hoá, thể thao, đào tạo giáo dục, phát thanh truyền hình, tổ chức lễ hội văn hoá vui chơi... 1.3. Cơ sở để hình thành các trung tâm cụm xã ở miền núi vùng cao : Với chức năng và nhiệm vụ như đã đề cập để đảm bảo cho các trung tâm cụm xã có thể phát huy tốt chức năng và nhiệm vụ của mình, khi xây dựng các trung tâm cụm xã phải lưu ý: + Tuỳ thuộc vào đặc điểm tự nhiên, dân sinh kinh tế , tập quán sản xuất, tâm lý xã hội ( chủ yếu là các dân tộc có mối quan hệ xã hội gần nhau) gần giống nhau gồm một số xã tiếp giáp nhau để hình thành cụm xã( từ 3-5 xã) tuỳ theo diện tích tự nhiên, số dân, đường xá thuận lợi cho giao lưu kinh tế, văn hoá, xã hội. + Trung tâm cụm xã được lựa chọn là một địa điểm thuận lợi nhất như đầu nút các điểm giao thông( ngã ba, ngã tư...) gần dân cư của một xã, khoảng cách từ trung tâm cụm xã này đến các xã trong tiểu vùng không quá xa, đảm bảo đi lại thuận lợi nhất. + Căn cứ vào các điều kiện cơ sở hạ tầng, nhất là giao thông thuận lợi không bị khống chế bởi phạm vi hành chính trong huyện hay ngoài huyện, miễn là thuận lợi, là điểm phát triển nhất so với các vùng khác trong phạm vị cụm xã. Xây dựng trung tâm cụm xã đặc biệt chú ý đến các mối quan hệ giữa trung tâm cụm xã với các xã trong cụm, đảm bảo sự phát triển kinh tế - xã hội trên toàn địa bàn. Trung tâm cụm xã là hạt nhân, là động lực thúc đẩy kinh tế - văn hoá đời sống của bản làng ở trong cụm phát triển, còn các bản làng trong cụm xã phát triển thúc đẩy mọi hoạt động của trung tâm diễn ra sôi nổi, nhộn nhịp phong phú, sầm uất và hấp dẫn làm cho trung tâm nhanh chóng trở thành thị tứ, thị trấn giữ được vai trò trung tâm kinh tế- văn hoá- xã hội của tiểu vùng. 1.4. Vai trò của việc xây dựng các trung tâm cụm xã : Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn ở nước ta là một đòi hỏi cấp bách song là một sự nghiệp hết sức khó khăn. Bởi lẽ, bên cạnh những đô thị sầm uất, phát triển nhanh mạnh nổi bật thì những vùng nông thôn của nước ta, nhất là nông thôn miền núi còn quá nghèo nàn và lạc hậu. Việc phát triển toàn diện nông thôn có ý nghĩa to lớn đối với phát triển kinh tế của cả nước. Kinh nghiệm thế giới cho thấy nếu không chú ý phát triển nông thôn thì không một nước nào có thể phát triển bền vững với tốc độ cao một cách lâu dài đựoc. Việc tập trung xây dựng phát triển các trung tâm cụm xã ở miền núi chính là một giải pháp cơ bản để phát triển toàn diện nông thôn miền núi nhằm thực hiện thành công sự nghiệp CNH- HĐH đất nước . Vậy tại sao có thể khẳng định như vậy? Đó là do trung tâm cụm xã có vai trò vô cùng quan trọng trong việc đẩy mạnh CNH- HĐH nông thôn nhất là ở địa bàn miền núi , tạo điều kiện cho sự nghiệp CNH-HĐH đi đến thành công. Cụ thể: Tạo điều kiện cho người dân tham gia vào đời sống kinh tế xã hội, tăng cường năng lực vươn lên thoát đói nghèo. Hãy thử tưởng tượng xem, các hộ gia đình ở các xã miền núi, vùng sâu, vùng xa ( chủ yếu là đồng bào các dân tộc thiểu số ) trình độ dân trí thấp, điều kiện kinh tế khó khăn, sống chủ yếu bằng nghề trồng trọt, chăn nuôi vớí phương thức canh tác truyền thống lạc hậu, cái họ làm ra không đủ đáp ứng bữa ăn hàng ngày. Tuy có trao đổi hàng hoá nhưng rất ít, rất hãn hữu, sự mua bán chỉ nhằm cải thiện những nhu cầu cần thiết trong sinh hoạt đời sống chứ không nhằm mục đích kinh doanh kiếm lời. Ví dụ: họ có thể bán con gà, đấu thóc ..., để mua lít dầu, mảnh vải, cân muối...Việc mua bán diễn ra đơn thuần ngay tại chợ làng. ốm đau bệnh tật thì cầu cứu thần linh không thì đành bất lực, tiến bộ hơn họ đi chữa bệnh thì trạm xá ở xa, không có hoặc có nhưng thiếu thốn phương tiện. Con cái họ sinh ra lại xa vào cái vòng luẩn quẩn của đói nghèo, dốt nát không có điều kiện về kinh tế và tài chính để đến trường hoặc có điều kiện nhưng lại ở xa trường lớp. Họ muốn một cuộc sống khá hơn? trung tâm cụm xã với đầy đủ cơ sở hạ tầng ( ít nhất là thiết yếu ) là điều kiện để họ tham gia vào đời sống kinh tế - xã hội , con cái họ được đi học và mở mang kiến thức, có các cơ sở khuyến nông - khuyến lâm giúp họ cải tạo điều kiện sản xuất, phương thức canh tác, tăng gia phát triển sản xuất vươn lên thoát đói nghèo. Tạo ra cụm kinh tế - xã hội - văn hoá để đồng bào các dân tộc thuộc tiểu vùng giao lưu trao đổi hàng hoá, từng bước xoá dần sự cách biệt giữa nông thôn và thành thị. Tác dụng tích cực này được phản ánh rõ nét qua sự hình thành các trung tâm cụm xã. Tức là, vì mục đích trao đổi hàng hoá mà trung tâm cụm xã ra đời với: điện , đường, trường, trạm ,.. được xây dựng tại các trung tâm cụm xã và nhờ thế kinh tế hàng hoá có điều kiện phát triển hơn , người dân ở đây có nhiều cơ hội để mở mang giao tiếp, trao đổi với thành thị và các vùng kinh tế khác không chỉ về kinh tế , kinh nghiệm, công nghệ mới cho sản xuất mà cả về văn hoá lối sống. Bởi vậy người dân dễ dàng hơn khi dứt bỏ cuộc sống, phong tục lạc hậu để tiếp cận hoà nhập với cuộc sống văn minh hiện đại, họ ý thức được vấn đề đẩy mạnh sản xuất, làm kinh tế buôn bán và trao đổi hàng hoá, kinh tế hàng hoá phát triển sẽ đưa kinh tế tiểu vùng phát triển và đời sống vật chất tinh thần của nhân dân được cải thiện, tiểu vùng có cơ hội khắc phục phần nào tình trạng tụt hậu ngày càng xa so với các vùng đô thị khác. Là hạt nhân thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở vùng dân tộc. Như đã đề cập trung tâm cụm xã suy cho cùng là một hình thức đô thị được xây dựng ở khu vực miền núi vùng cao, nên khi được xây dựng và phát triển nó trở thành một trọng điểm kinh tế có tác dụng tạo động lực lan toả cho phát triển kinh tế các xã lân cận. Trung tâm cụm xã chính là phương tiện để thực hiện đô thị hoá các vùng nông thôn miền núi, nhằm thúc đẩy kinh tế ở đây phát triển . Mà phát triển kinh tế có nghĩa là phải làm thay đổi được cơ cấu kinh tế. Cụ thể ở đây là thay đổi cơ cấu ngành sản xuất, cơ cấu vùng lãnh thổ ở những nông thôn nghèo nàn. Xây dựng một trung tâm cụm xã là xây dựng một đô thị mới có điều kiện đầy đủ nhất để phát triển sản xuất, xây dựng đời sống dân cư. Cho nên có thể nói trung tâm cụm xã làm thay đổi cơ cấu ngành từ sản xuất nông nghiệp thuần tuý nghèo nàn chuyển dần sang cân đối phát triển thêm ngành công nghiệp và dịch vụ, bước đầu là công nghiệp dịch vụ ở nông thôn, đưa dần các ứng dụng của công nghiệp vào phát triển nông nghiệp. Cung ứng thêm các hoạt động dịch vụ phục vụ cho nhân dân, nhằm nâng cao dân trí để họ tiếp cận dần với lối sống công nghiệp. Như vậy, dù với hình thức một đô thị sơ khai nhưng đó là cần thiết để bắt đầu một bước phát triển tiến bộ về kinh tế - văn hoá - xã hội ở những vùng nông thôn này. Xây dựng các trung tâm cụm xã còn phát huy được tiềm lực kinh tế tại chỗ, thu hút mọi tiềm lực sẵn có để mở mang phát triển các ngành nghề kinh tế . Tận dụng mọi nguồn lực sẵn có tại cụm xã, trung tậm cụm xã được xây dựng sẽ tạo điều kiện để các ngành nghề phát triển nhất là các ngành nghề truyền thống như : thêu thùa , dệt vải ...hay tận dụng được nguồn lao động. Thực hiện ổn định phát triển sản xuất, hạn chế tình trạng du canh du cư , phá rừng làm rẫy, huỷ hoại môi truờng sinh thái và tài nguyên. Thuận lợi cho việc phổ biến các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh và phát triển kinh tế (như kinh tế trang trai, kinh tế vườn rừng) kinh tế hàng hoá có điều kiện phát triển, góp phần tích cực vào quá trình xây dựng nông thôn mới ở vùng miền núi dân tộc. Đảm bảo an ninh quốc phòng của đất nước, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc . - Phát triển trung tâm cụm xã góp phần đảm bảo an ninh quốc phòng các vùng biên giới của đất nước. Đa số địa bàn trung tâm cụm xã là vùng miền núi biên giới nhiều dân tộc, có vị trí sung yếu về an ninh quốc phòng nên đây là vùng mà kẻ thù thường hay lợi dụng để chống phá nhất. Do đó xây dựng thành các trung tâm cụm xã giúp đảm bảo đời sống vật chất văn hoá tinh thần cho đồng bào, giúp động bào ổn định sản xuất, nâng cao trình độ nhận thứcvà sự hiểu biết và tin vào Đảng vào chế độ, nhất là chú ý xây dựng trung tâm cụm xã ở các vùng tiếp giáp biên giới vững mạnh toàn diện, là cị trí kinh tế, chính trị làm cơ sở nền tảng cho bảo đảm an ninh, toàn vẹn lãnh thổ khu vực giáp danh biên giới. - Phát triển trung tâm cụm xã góp phần giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc. Xây dựng trung tâm cụm xã sẽ làm cho đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân vùng cụm xã có điều kiện tăng lên. Khi đời sống văn hoá tinh thần được cải thiện, mặt bằng dân trí và nguồn nhân lực được nâng lên một bước thì bản sắc văn hoá của các dân tộc sẽ có điều kiện được phát huy, điều kiện sống của mỗi dân tộc được cải thiện, bình đẳng giữa các dân tộc được thực hiện toàn diện hơn cả về chính trị kinh tế văn hoá; vị trí của từng dân tộc trong cộng đồng sẽ ngày được phát huy. Ngoài ra, xây dựng trung tâm cụm xã còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc chỉ đạo, quản lý của tỉnh huyện và trung ương với các vùng cụm xã sát sao kịp thời. Thuận lợi cho việc đầu tư xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng thiết yếu về kinh tế, xã hội do tập trung được nguồn vốn. Đưa nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật, các hoạt động thông tin về kinh tế - văn hoá - xã hội và chính trị đến gần nơi các dân tộc đang cư trú. Tạo điều kiện thực hiện đường lối CNH-HĐH của Đảng, nhằm củng cố và nâng cao lòng tin của đồng bào các dân tộc với chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước . Tăng cường đoàn kết các dân tộc anh em. 2. Cơ sở hạ tầng với phát triển kinh tế xã hội : 2.1.Khái niệm về cơ sở hạ tầng: Nền tảng kinh tế, bao gồm toàn bộ quan hệ sản xuất của xã hội phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất, trong quan hệ với kiến trúc thượng tầng chính trị, tư tưởng ,...xây dựng trên những nền tảng đó. Đây được gọi là hệ thống cơ sở hạ tầng. Vậy: Cơ sở hạ tầng là một hệ thống các công trình vật chất, kỹ thuật được tổ chức thành các đơn vị sản xuất và dịch vụ, các công trình sự nghiệp có chức năng đảm bảo các luồng thông tin, các luồng vật chất, nhằm phục vụ nhu cầu có tính xã hội của sản xuất và đời sống dân cư. Theo cách hiểu này, ta thấy cơ sở hạ tầng chính là tổng thể các điều kiện về cơ sở vật chất- kỹ thuật và kiến trúc được hình thành theomột kết cấu nhất định và đóng vai trò làm nền tảng cơ bản cho các hoạt động kinh tế, xã hội diễn ra trên đó một cách bình thường. Toàn bộ cơ sở hạ tầng được chia theo lĩnh vực như : - Cơ sở hạ tầng phục vụ kinh tế : giao thông , thông tin liên lạc... - Cơ sở hạ tầng phục vụ hoạt động xã hội: các cơ cở giáo dục, ytế, nghỉ ngơi... - Cơ sở hạ tầng phục vụ an ninh quốc phòng Việc phân loại như trên chỉ mang tính tương đối, trên thực tế ít có loại kết cấu hạ tầng nào hoàn toàn chỉ phục vụ hoạt động kinh tế mà không phục vụ hoạt động xã hội và ngược lại. Ngay hệ thống kết cấu hạ tầng phục vụ an ninh quốc phòng cũng vậy, trừ những công trình chuyên dụng cho an ninh quốc phòng, nhiều cơ sở vẫn có thể phục vụ các hoạt động kinh tế xã hội. Hay có thể phân chia hệ thống cơ sở hạ tầng theo các ngành của nền kinh tế như: - Kết cấu hạ tầng nông nghiệp - Kết cấu hạ tầng công nghiệp - Kết cấu hạ tầng giao thông vận tải - Kết cấu hạ tầng trong hoạt động ytế, giáo dục, văn hóa,xã hội - Kết cấu hạ tầng trong hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm _ .v.v.. Kết cấu hạ tầng mỗi ngành, bao gồm những công trình đặc trưng cho hoạt động của ngành và những công trình liên ngành đảm bảo sự hoạt động đồng bộ của toàn hệ thống. Chẳng hạn, kết cấu hạ tầng trong công nghiệp bao gồm toàn bộ nhà cửa vật kiến trúc phục vụ trong sản xuất công nghiệp (hệ thống điện, hệ thống cấp thoát nước, hệ thống vận tải...), kết cấu hạ tầng giao thông vận tải bao gồm hệ thống đường xá, cầu cống, thông tin tín hiệu đảm bảo giao thông, nhà ga, bến bãi... Tuy vậy có thể chia cơ sở hạ tầng thành hai nhóm chủ yếu sau, gồm cơ sở hạ tầng kỹ thuật và cơ sở hạ tầng xã hội * Cơ sở hạ tầng kỹ thuật: bao gồm các công trình và phương tiện là điều kiện vật chất cho sản xuất và sinh hoạt của xã hội . Đó là công trình và phương tiện của hệ thống giao thông vậntải, bưu chính viễn thông, cung cấp điện nước , chợ và các trung tâm buôn bán... * Cơ sở hạ tầng xã hội: bao gồm các công trình và phương tiện là điều kiện để duy trì và phát triển nguồn nhân lực một cách toàn diện và đảm bảo đời sống tinh thần cho các thành viên trong xã hội. Đó là các công trình và phương tiện của các cơ sở giáo dục đầo tạo, các cơ sở khám chữa bệnh, văn hoá văn nghệ, thể dục thể thao, các cơ sở đảm bảo an ninh xã hội... Các công trình cơ sở hạ tầng kỹ thuật là hệ thống cơ sở hạ tầng thiết yếu phục vụ cho sản xuất và đời sống. Đây là yếu tố mở đường, là động lực và là một bộ phận cấu thành của phát triển kinh tế xã hội. Còn các cơ sở hạ tầng xã hội là hệ thống cơ sở phục vụ dân sinh, phát triển văn hoá xã hội. Đây là yếu tố bổ sung cho phát triển kinh tế xã hội. 2.2 Vai trò của cơ sở hạ tầng trong phát triển kinh tế -xã hội : Cơ sở hạ tầng gắn liền với mọi hoạt động của nền kinh tế - xã hội , đây là yếu tố cơ bản cho sự phát triển của mỗi quốc gia. Nó vừa là nhân tố thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển vừa là nhân tố phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế xã hội của quốc gia đó . nên có thể nói rằng : cơ sở hạ tầng có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của bất kỳ quốc gia nào, nhất là các nước đang phát triển. Một là: Cơ sở hạ tầng là yếu tố đảm bảo các điều kiện về vật chất cho hoạt động sản xuất dịch vụ. Thực vậy bằng hệ thống các công trình vật chất kỹ thuật nó đảm bảo cho cơ sở sản xuất và dịch vụ hoạt động được và hoạt động có hiệu quả. + Giao thông : đây là hệ thống huyết mạch của nền kinh tế nó không những trực tiếp tham gia vào các quá trình kinh tế - xã hội mà còn có tác dụng mở đường, là khâu đột phá để thực hiện phân bố lại lực lượng sản xuất xã hội. Trong nền kinh tế thị trường, giao thông vừa tham gia tạo thị trường, vừa là nhân tố quyết định mở mang giao lưu hàng hoá giữa các vùng, thiếu giao thông kinh tế hàng hoá không có cơ hội phát triển được. + Điện: Sự phát triển của hệ thống điện cũng có ý nghĩa rất quan trọng. Bởi nó là cơ sở cho sự hình thành các xí nghiệp công nghiệp, nhất là trong quá trình CNH- HĐH nông thôn điều này càng khẳng định rõ: Điện vừa góp phần mở mang công nghiệp, tạo điều kiện để phát triển nông nghiệp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Điện còn thúc đẩy nhanh quá trình ứng dụng khoa học công nghệ kỹ thuật trong sản xuất, còn là cơ sở cho sự ra đời và phát triển nhanh chóng của nhiều ngành kinh tế xã hội khác như thông tin liên lạc, thương mại, du lịch văn hoá ...và góp phần cải thiện, nâng cao đời sống nhân dân. + Hệ thống thủy lợi : Nước là một trong bốn điều kiện cơ bản để năng cao năng suất và chất lượng cây trồng , vật nuôi. Phát triển hệ thống thủy lợi gắn liền với sản xuất nông nghiệp , nó luôn là biện pháp kỹ thuật hàng đầu và chi phối phần nhiều kết quả sản xuất nông nghiệp. Đối với sản xuất nông nghiệp hàng hoá, thủy lợi càng có vai trò quan trọng hơn. Nên phát triển thủy lợi là quan trọng và không thể thiếu nhất là phục vụ cho CNH- HĐH nông nghiệp và phát triển nông thôn. + Cơ sở hạ tầng thương mại như chợ trung tâm giao dịch buôn bán, hệ thống kho chứa, cửa hàng... và thông tin, liên lạc ngày càng có vai trò quan trọng đối với kinh tế hàng hoá. Nó là điều kiện cần để thực hiện trao đổi hàng hoá. Như vậy, chỉ cần một trục trặc trong một khâu nhất định của một loại hoạt động do sự yếu kém của hệ thống kết cấu hạ tầng gây ra như cung cấp năng lượng, cấp thoát nước, giao thông ... thì lập tức sẽ gây sự cố cho hoạt động của các cơ sở sản xuất và dịch vụ khác. Ngược lại, một hệ thống cơ sở hạ tầng đồng bộ sẽ tạo điều kiện rút ngắn chu kỳ sản xuất và lưu thông sản phẩm, giảm bớt chi phí sản xuất và góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm làm cho các sản phẩm hàng hoá mang tính cạnh tranh hơn. Hai là: Cơ sở hạ tầng quyết định sự tăng trưởng và phát triển nhanh của các ngành các lĩnh vực sản xuất kinh doanh và dịch vụ. Tăng trưởng kinh tế là kết quả của tất cả các hoạt động sản xuất và dịch vụ mà nền kinh tế tạo ra, còn cơ sở hạ tầng lại là điều kiện vật chất cho sản xuất tiến hành. Xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng đặc biệt là giao thông, thông tin liên lạc là tiền đề quan trọng để phát triển kinh tế. Lịch sử nhân loại đã cho thấy, vận tải hàng hoá và đi lại bằng hệ thống giao thông đường sắt xuyên quốc gia, liên lạc thông tin bằng điện thoại và vô tuyến điện đã đánh dấu một bước nhảy vọt về trình độ kinh tế từ xã hội phong kiến sang xã hội tư bản. Rõ ràng điều kiện về cơ sở hạ tầng càng tốt, tính hữu ích trong việc thúc đẩy sản xuất càng cao, các ngành sẽ phát triển càng nhanh. Ba là: Cơ sở hạ tầng tạo điều kiện thuận lợi cho sử dụng tốt tiềm năng của đất nước. Đất đai, lao động, tài nguyên khó có thể phát huy hết lợi ích của mình khi mà không có đầy đủ điều kiện để khai thác và sử dụng, cơ sở hạ tầng chính là chìa khoá để mở những tiềm năng đó. Chẳng hạn như nước ta có nhiều tài nguyên khoáng sản nhưng nhiều nơi ta chưa có điều kiện khai thác được do khó khăn về nguồn lực nhưng quan trọng đáng kể là vấn đề cơ sở hạ tầng của ta ở những vùng này còn quá yếu kém, giao thông không thuận lợi. Cơ sở hạ tầng nói chung, giao thông vận tải nói riêng mà yếu kém là trở ngại lớn đến việc khai thác tài nguyên thiên nhiên. Bốn là: Tạo điều kiện để phát triển kinh tế xã hội đồng đều giữa các vùng , sự phát triển rộng khắp theo vùng lãnh thổ làm giảm bớt sự khác biệt về dân trí, mức sống giữa các vùng. Điều này được thể hiện rõ nhất giữa nông thôn và thành thị, giữa đồng bằng và miền núi, sự cách biệt về thu nhập, mức sống trình độ hiểu biết của dân cư các vùng này là do điều kiện cơ sơ hạ tầng. Cơ sở hạ tầng được phát triển và hiện đại sẽ tạo điều kiện mở rộng giao lưu kinh tế, xã hội giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng với nhau, kích thích kinh tế hàng hoá phát triển đồng đều và phát triển ngay ở những vùng kém phát triển. Năm là: Cơ sở hạ tầng là một trong những yếu tố để thu hút vốn đầu tư . Các nhà đầu tư khi đầu tư vào một vùng nào đó thường quan tâm rất nhiều đến cơ sở hạ tầng. Đây là điều kiện cần thiết để hoạt động đầu tư của họ thực hiện có hiệu quả , nó chi phối phần lớn quá trình đầu tư và ảnh hưởng đến chi phí vốn đầu tư. Điều kiện cơ sở hạ tầng thấp kém không những gây khó khăn cho hoạt động đầu tư mà còn ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư. Sáu là: Tạo sự thay đổi cơ bản trong cơ cấu của nền kinh tế Cơ sở hạ tầng làm cho: + Cơ cấu ngành thay đổi theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, tỷ trọng phát triển nông nghiệp giảm dần. Chỉ số về tỷ lệ giữa các ngành công nghiệp , nông nghiệp , dịch vụ phản ánh trình độ phát triển kinh tế hàng hoá của một nước và cơ sở hạ tầng kỹ thuậtvà cơ sở hạ tầng xã hội là điều kiện cho phát triển kinh tế hàng hoá. + Cơ cấu vùng kinh tế: Do những đặc điểm kinh tế tự nhiên nên kinh tế giữa các vùng phát triển không đồng đều, ở đô thị và các tỉnh đồng bằng có phát triển kinh tế hàng hoá, nhưng ở các bản làng rẻo cao vẫn còn biểu hiện của kinh tế tự cấp, tự túc. Điều kiện về cơ sở hạ tầng được trang bị nhất là với vùng chậm phát triển sẽ giúp đẩy nhanh tốc độ đô thị hoá và đưa kinh tế hàng hoá phát triển. Làm thay đổi cơ cấu thành thị và nông thôn, tạo bước khởi đầu dần biến các vùng nông thôn thành vùng đô thị sầm uất. Như vậy, cơ sở hạ tầng có vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động của từng đơn vị kinh tế cũng như của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Sự phát triển của cơ sở hạ tầng sẽ là một trong những điều kiện vật chất quan trọng cho sự phát triển kinh tế và phúc lợi xã hội khác. Chính vì thế sự phát triển của cơ sở hạ tầng là một tiêu chuẩn quan trọng để đánh giá trình độ phát triển của một quốc gia. Việc xây dựng cơ sở hạ tầng đòi hỏi một khối lượng vốn đầu tư rất lớn của Nhà nước ,các nguồn khác có thể hỗ trợ thêm. Nên vấn đề vốn cho phát triển cơ sở hạ tầng rất nan giải, đây chính là trở ngại đáng kể ở các nước đang phát triển. Nhưng với nhận thức mới coi cơ sở hạ tầng không phải là nhân tố đi sau, hệ quả của phát triển kinh tế - xã hội, mà là yếu tố mở đường, là bộ phận cấu thành của phát triển kinh tế - xã hội. Cho nên, vấn đề đầu tư cho phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng sẽ được quan tâm sát sao hơn, không chỉ có sự quan tâm của Nhà nước mà có cả sự quan tâm của những người dân sinh sống trong cộng đồng, không chỉ quan tâm đến số lượng mà còn quan tâm đến cả chất lượng của các công trình. Có thể nói, không có một hệ thống cơ sở hạ tầng tốt sẽ không có phát triển kinh tế hàng hoá . 2.3. Đặc điểm và nguyên tắc phát triển cơ sở hạ tầng : Tính hệ thống và đồng bộ: Là đặc trưng cơ bản của “nhánh” khác nhau trong quan hệ tổng thể. Nếu một khâu nào đó trong hệ thống không được thiết kế, xây dựng sẽ ảnh hưởng đến vận hành toàn bộ, thậm chí gây ách tắc. Nên khi phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng cần đảm bảo tính đồng bộ, hoàn chỉnh và thống nhất trong tất cả các khâu. Ví dụ: hệ thống công trình thuỷ lợi không thể vận hành hiệu quả nếu thiếu hệ thống kênh mương, cống đập dẫn nước đến các khu vực cần tưới nước hay hệ thống đường sắt không thể sử dụng tốt nếu thiếu đầu tư đồng bộ từ đường, tàu, ga, hệ thống thông tin điều khiển... Tính hệ thống và đồng bộ không những chi phối toàn diện đến thiết kế, quy hoạch, đầu tư thiết bị ... các công trình cụ thể, mà còn liên quan đến cách thức tổ chức quản lý, vận hành, kết hợp giữa quản lý theo ngành và theo lãnh thổ. Yêu cầu này thể hiện rõ ở các loại kết cấu hạ tầng mang tính hệ thống cao như hệ thống thuỷ lợi, bưu chính viễn thông... Tính đồng bộ còn được thể hiện trong từng khu vực để giải quyết toàn bộ các yêu cầu chính trị, kinh tế, xã hội và an ninh quốc phòng. Có nghĩa là, xây dựng cơ sở hạ tầng phải đồng bộ mới phát huy hiệu quả tối đa, phải đi trước một bước và đón trước tương lai phát triển của vùng. Trong một khu vực các danh mục công trình của hệ thống cơ sở hạ tầng cũng nên được chú ý xây dựng đồng bộ để đảm bảo cho các công trình phát huy được tối đa hiệu quả dây truyền của từng loại trong hệ thống. Xây dựng đường giao thông có thể được tập trung trước nhưng sau đó trường học, trạm ytế, điện, nước sinh hoạt... cũng phải lần lượt được xây dựng để có thể phục vụ mọi mặt cần thiết cho sinh sống và phát triển sản xuất của dân cư. Tính định hướng: Đặc trưng này xuất phát từ nhiều khía cạnh khác nhau của vị trí hệ thống kết cấu hạ tầng. Đầu tư cao, thời gian sử dụng lâu dài, mở đường cho các hoạt động kinh tế xã hội .... Đặc trưng này đòi hỏi, mỗi quốc gia phải có quy hoạch dài hạn, chiến lược phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng. Cách làm chắp vá, đến đâu hay đến đấy sẽ hạn chế hiệu quả của kết cấu hạ tầng, thậm chí gây ách tắc, cản trở phát triển kinh tế - xã hội. Ngoài ra, làm đi làm lại nhiều lần, thường xuyên cải tạo nâng cấp... làm cho vốn đầu tư phải bỏ ra nhiều nhưng hiệu quả sử dụng thấp. Nên đòi hỏi phải gắn quy hoạch phát triển cơ sở hạ tầng với quy hoạch phát triển lâu dài của từng vùng. Tuỳ vào mức độ phát triển và yêu cầu phát triển của từng vùng mà xây dựng những công trình hạ tầng phù hợp: + ở đô thị, cần ưu tiên xây dựng và phát triển các công trình đầu mối để tạo ra khung sườn cho đô thị phát triển cân đối toàn diện. Đối với các khu đô thị mới, trong các đô thị loại I và loại II, cần phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng theo hướng hiện đại, đạt trình độ kỹ thuật tiên tiến. Ngoài ra, với các đô thị, các khu trong đô thị còn lại tuỳ theo từng loại cơ sở hạ tầng có thể xây dựng đạt trình độ hiện đại hoặc trình độ thích hợp. Trong xây dựng cơ sở hạ tầng đô thị, thì cần chú trọng phát triển các mạng lưới các công trình cơ sở hạ tầng môi trường, phối hợp chặt chẽ quy hoạch hệ thống cảng, giao thông vận tải và mạng lưới điện giữa các tỉnh thành. + ở khu vực nông thôn, do trình độ phát triển còn kém nên các hạ tầng cơ sở được xây dựng chủ yếu là hạ tầng thiết yếu đáp ứng những nhu cầu cấp thiết nhất. Các công trình hạ tầng không đòi hỏi trình độ hiện đại cao và quy mô ở mức hợp lý. Tính chất dịch vụ và có tính cộng đồng cao: Hầu hết các sản phẩm của ngành cơ sở hạ tầng là sản phẩm trung gian cung cấp các dịch vụ để các ngành khác tạo ra sản phẩm cuối cùng. Vì vậy, đánh giá hiệu quả hoạt động của hệ thống cơ sở hạ tầng rất phức tạp. Hơn nữa, nhiều loại cơ sở hạ tầng tiến hành sản xuất và dịch vụ là những hàng hoá công cộng phục vụ chung cho nhiều ngành, nhiều người. Cho nên, cần phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa yêu cầu kinh doanh và phục vụ mang tính phúc lợi. Đồng thời, xác định hệ thống cơ cấu các chủ thể tham gia sử dụng cơ sở hạ tầng, hệ thống các chính sách và công cụ để xử lý quan hệ giữa hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Điều này đặc biệt quan trọng với những nước ( tỉnh, huyện, vùng lãnh thổ) đang phát triển, thu nhập dân cư thấp và ngân sách hạn hẹp. III- Sự cần thiết phải đầu tư vào phát triển cơ sở hạ tầng tại các cụm xã và trung tâm cụm xã ở các tỉnh miền núi vùng cao: 1. Tổng quan về đặc điểm tự nhiên, kinh tế , xã hội của các tỉnh miền núi, vùng cao: Trong giai đoạn đổi mới vừa qua, được sự quan tâm giúp đỡ của Đảng và Nhà nước , cùng sự cố gắng vượt bậc của các dân tộc, bộ mặt kinh tế - xã hội ở các tỉnh miền núi đã có những bước tiến bộ đáng kể. Song do nhiều nguyên nhân, đây vẫn là vùng lãnh thổ chậm phát triển nhất so với cả nước. Miền núi nước ta chiếm khoảng 2/3 diện tích tự nhiên của cả nước, với dân số gần 20 triệu người (chiếm 26 % dân số cả nước ). Trong đó, gần 10 triệu người là dân tộc thiểu số, chủ yếu sống phân tán ở các vùng núi. Trình độ dân trí thấp, điều kiện sống khó khăn. Là vùng có địa hình, chia cắt phức tạp nên điều kiện đi lại của đồng bào gặp nhiều khó khăn, địa bàn phát triển dân cư phân tán, khó tập trung. Là vùng có nhiều tài nguyên thiên nhiên, trữ lượng khá nhưng đa số ở những địa bàn khó khai thác hoặc có thể khai thác nhưng chưa có điều kiện về vốn, công nghệ, vật tư. Hiện nay do tình trạng du canh du cư, chặt phá rừng làm rẫy phổ biến làm cho đời sống không ổn định, tài nguyên thiên nhiên bị khai thác không có định hướng làm cạn kiệt, môi trường sinh thái bị phá vỡ có nơi bị huỷ hoại nghiêm trọng. Đa số các tỉnh đều có các huyện xã tiếp giáp biên giới nên đây là địa bàn giữ vị trí chiến lược cả về chính trị kinh tế và an ninh quốc phòng. Nền kinh tế ở đây phổ biến là sản xuất nhỏ, thiên về nông nghiệp, tự cung tự cấp mang nặng dấu ấn tự nhiên, với kỹ thuật canh tác còn lạc hậu. Trong những vùng thôn bản, vùng sâu, vùng xa phương thức sản xuất tự sản tự tiêu vẫn là chủ yếu. ở những vùng thấp, ven các trục giao thông, ven thị xã, thị trấn, kinh tế hàng hoá mới chỉ nhen nhúm ở bước khởi đầu. Tuy nhiên, trong những năm qua, kinh tế vùng đã được chú trọng phát triển cho nên kinh tế - xã hội bình quân toàn khu vực có bước phát triển khá và tăng trưởng bình quân giai đoạn 1991-1995 là 6-7 % (nông nghiệp 3-4%; công nghiệp 8-10%; dịch vụ 10-11% - Số liệu của Uỷ ban dân tộc và miền núi ). Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng nhưng còn chậm. Cơ sở hạ tầng tuy đã được chú ý đầu tư nhưng vẫn còn trong tình trạng thấp kém và phát triển chậm, phần lớn mới chỉ chú trọng đầu tư cho cơ sở hạ tầng ở những vùng đã phát triển. Theo số liệu của Uỷ ban dân tộc và miền núi, hiện nay cả nước có 1700 xã đặc biệt khó khăn, trong đó, 1160 xã (chiếm 11% trong tổng số 10545 xã hiện có cả nước) thiếu cơ sở hạ tầng như đường giao thông đến xã, điện thắp sáng, nước sinh hoạt, 760 xã chưa có chợ hoặc chợ liên xã. Tình trạng cơ sở hạ tầng thấp kém cũng là nguyên nhân cơ bản kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội của vùng. Tuy nhiên, trong nhiều năm qua nhờ tác động của các chủ trương chính sách, vùng đồng bào dân tộc đã có những bước tiến bộ đáng kể và đã hình thành 3 loại hình khu vực có trình độ phát triển khác nhau ngay trên địa bàn từng tỉnh, huyện, trong đó khu vực II và III cần được quan tâm thúc đẩy để có đủ khả năng phát triển kinh tế xã hội. Khu vực I- Khu vực bước đầu phát triển: Tại đây cơ sở hạ tầng như đường giao thông, hệ thống điện, trường học, bệnh xá, chợ...đã hình thành và đáp ứng nhu cầu cơ bản của đồng bào, đã hình thành định canh, định cư, đời sống tương đối ổn định, kinh tế hàng hoá bước đầu phát triển, có mức thu nhập bình quân đầu người bằng mức thu nhập bình quân cả nước. Khu vực II - Khu vực tạm ổn: Một bộ phận dân cư đã định canh định cư nhưng chưa vững chắc, sản xuất tự túc tự cấp là chủ yếu, sản xuất hàng hoá còn ít, các cơ sở hạ tầng chưa đồng bộ và chưa đồng bộ và chưa đáp ứng được nhu cầu thiết yếu của dân. Khu vực này cần nỗ lực thúc đẩy phát triển nếu không sẽ có nguy cơ tụt xuống khu vực III. Khu vực III- Khu vực khó khăn: nằm ở vùng sâu, vùng xa, vùng cao biên giới tập trung 90% đồng bào dân tộc thiểu số, có nhiều dân tộc ít người sinh sống. Khu vực này tài nguyên cạn kiệt, giao thông đi lại khó khăn, đời sống đói nghèo, dân trí thấp kém còn nhiều người mù chữ, sản xuất mang tính tự nhiên, đây là địa bàn du canh du cư chủ yếu và có số dân nghèo cao nhất cả nước. 2. Sự cần thiết phải đầu tư vào phát triển cơ sở hạ tầng tại các trung tâm cụm xã miền núi vùng cao : Qua phân tích tổng quan về tình hình điều kiện phát triển kinh tế - xã hội và nhất là nghiên cứu về vai trò của cơ sở hạ tầng. Ta thấy: * Vấn đề phải giải quyết khi phát triển kinh tế xã hội ở miền núi, vùng cao là tình trạng chênh lệch lớn về các mặt trong đời sống giữa miền núi và miền xuôi, giữa dân tộc thiểu số và đa số, giữa vùng cao và vùng đồng bằng. * Vấn đề đói nghèo cũng là vấn đề đáng chú ý ở miền núi, đây là cội nguồn của mọi vấn đề xã hội khác. Vì thế, cần phải tập trung nhanh chóng giải quyết vấn đề này. * Vấn đề phát triển kinh tế hàng hoá ở miền núi mới chỉ bắt đầu ở khu vực đô thị (thị tứ) còn các vùng sâu, vùng xa thì phương thức tự sản tự tiêu vẫn thống trị. Do đó cần phải tạo ra các yếu tố sản xuất để cho nền kinh tế hàng hoá phát triển. * Do chênh lệch về đời sống kinh tế, do nghèo đói, do lối sống du canh du cư nên tình trạng tranh chấp đất đai, chặt phá rừng bừa bãi, những va chạm về lợi ích sảy ra, gây mâu thuẫn và làm phức tạp thêm mối quan hệ giữa các dân tộc. Cho nên, giải quyết vấn đề dân tộc ở đây là cần thiết, cần phải nhanh chóng đưa các đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là đồng bào sinh sống ở vùng cao thoát khỏi cảnh nghèo nàn lạc hậu, thiếu đói thường xuyên và thiếu việc làm. Tóm lại, để giải quyết tất cả các vấn đề trên thì cần thiết phải bắt đầu từ phát triển cơ sở hạ tầng tại khu vực miền núi vùng cao mà cụ thể là tại các cụm xã và trung tâm cụm xã là trọng điểm đầu tư. Sự cần thiết phải đầu tư vào phát triển cơ sở hạ tầng đã được các văn bản của Nhà nước chỉ rõ: Trong Chiến lược phát triển kinh tế xã hội nông thôn và nông nghiệp Việt Nam, phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn là giải pháp cơ bản và quan trọng nhất. Nghị quyết hội nghị BCH trung ương Đảng (khoáVIII) đã ghi: “Đẩy mạnh việc xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, ưu tiên cho công trình trọng điểm phục vụ chung cho nền kinh tế ... xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu ở nông thôn miền núi, vùng sâu, vùng xa“ và “Tăng tỷ lệ đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn, xây dựng và nâng cao kết cấu hạ tầng”. Văn kiện Đại hội Đảng VIII của Đảng cũng có thể hiện rõ: “Phải phát triển đồng bộ và hiện đại hoá cơ sở hạ tầng, từng bước hình thành các trung tâm kinh tế ở các vùng lãnh thổ”. Thiết thực nhất là Quyết định số 35/ TTG ngày 13 tháng 01 năm 1997 với mục tiêu của Chương trình là xây dựng cơ sở hạ tầng chủ yếu ở trung tâm cụm xã để tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội ở vùng dân tộc và miền núi nhằm góp phần bảo đảm an ninh quốc phòng, thúc đẩy các hoạt động văn hoá - xã hội tiểu vùng. Theo Quyết định số 35/ TTg ngày 13 tháng 1 năm 1997 của Thủ tướng Chính phủ thì nội dung để đầu tư vào trung tâm cụm xã gồm: - Hệ thống giao thông trung tâm cụm xã - Điện phục vụ sản xuất và sinh hoạt - Cấp thoát nước cho trung tâm cụm xã - Phòng khám đa khoa, chữa bệnh và trường phổ thông cơ sở - Khu du lịch, thương mại: cửa hàng thương nghiệp, chợ, ngân hàng, bưu điện, bến xe - Khu thông tin văn hoá xã hội : trạm truyền thanh truyền hình. Như vậy, cần phải nhanh chóng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội ở địa bàn các tỉnh miền núi, vùng cao nhất là ở những xã, bản vùng sâu, vùng xa thuộc khu vực II, III. Mà trước hết là phải khắc phục tình trạng thấp kém về cơ sở hạ tầng. 3. Đặc điểm của hoạt động đầu tư vào phát triển cơ sở hạ tầng: Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cũng là một loại hình của đầu tư phát triển nếu phân chia theo lĩnh vực hoạt động trong xã hội của các kết quả đầu tư nên về cơ bản nó vẫn mang những đặc điểm của đầu tư phát triển nói chung. Nhưng để phục vụ cho công tác quản lý hoạt động đầu tư vào phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng một cách sát sao và có hiệu quả hơn cần xuất phát từ những đặc điểm cụ thể sau: Trong đầu tư phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng thì tiền, vốn, vật tư, lao động cần thiết để xây dựng các công trình hạ tầng thường rất lớn nên khi tiến hành xây dựng công trình, quá trình huy động vốn, vật tư, lao động gặp rất nhiều khó khăn. Các công trình hạ tầng đa số có quy mô đầu tư và xây dựng lớn lại có vị trí quan trọng đối với nhiều mặt của đời sống kinh tế xã hội Lợi ích mà các công trình hạ tầng đem lại chủ yếu là lợi ích xã hội như hệ thống giao thông phục vụ cho đi lại và vận chuyển hàng hoá, hệ thống điện phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt, hạ tầng giáo dục phục vụ cho phát triển và đào tạo nguồn nhân lực... Cho nên, đầu tư vào đây không thu hút sự quan tâm của các thành phần kinh tế, hiện nay chủ yếu vẫn là do Nhà nước đứng ra đầu tư. Có thể nói, đây là lĩnh vực đầu tư kém sôi động, nhiều bức xúc, thiên về xây dựng cơ bản lại là vốn Nhà nước , thất thoát và lãng phí trong quá trình thực hiện khá phổ biến. Nên trong khi tiến hành đầu tư vào phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng thì hiệu quả của hoạt động đầu tư phải được đặt lên hàng đầu, phải quan tâm chú ý tới cả quá trình huy động và sử dụng vốn. Đầu tư cần tập trung trọng điểm, đúng mục đích, đúng tiến độ, cần tăng cường khuyến khích sự hỗ trợ vốn của các thành phần kinh tế khác, phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm là mấu chốt quan trọng để xây dựng có hiệu quả các công trình hạ tầng. Đây là hoạt động đầu tư mang tính chất lâu dài thể hiện ở thời gian đầu tư dài, kết quả của hoạt động đầu tư có giá trị sử dụng lâu dài và có ý nghĩa lớn đối với cộng đồng dân cư (đem lại lợi ích chung, lợi ích xã hội). Nên khi xem xét giai đoạn chuẩn bị đầu tư các dự án đầu tư xây dựng phải được chú ý, nghiêm túc và có chất lượng cao, đảm bảo cho công trình khi xây dựng xong phát huy hiệu quả cao và đảm bảo sử dụng lâu dài. Việc tính toán hiệu quả của các hoạt động đầu tư rất khó khăn. Do các công trình đầu tư hạ tầng chủ yếu không thu hồi vốn trực tiếp, chất lượng hoạt động của các công trình hạ tầng lại rất khó lượng hoá. Lợi ích của các dự án đầu tư được đặt trong tổng thể lợi ích kinh tế xã hội chung của cả vùng, của cả nền kinh tế, phục vụ cho nhiều ngành cùng hoạt động. Với đặc điểm này gây rất nhiều khó khăn cho công tác quản lý xây dựng, nan giải cho vấn đề tìm ra và thực thi các giải pháp hữu hiệu để có thể nâng cao lợi ích của dự án đầu tư. 4. Đánh giá hiệu quả đầu tư vào phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng: Hiệu quả của hoạt động đầu tư phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng, nếu xét về mặt định lượng thì nó là mối tương quan giữa kết quả thu được và chi phí bỏ ra để thực hiện hoạt động đầu tư. Kết quả thu được càng cao, chi phí bỏ ra càng nhỏ, hiệu quả kinh tế thu được càng lớn. Trong đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng , hiệu quả không thể tính toán cụ thể được, việc so sánh giữa kết quả và chi phí rất phức tạp và khó thực hiện, các chi phí bỏ ra để thực hiện các hoạt động đầu tư có thể định lượng và tính toán dễ dàng nhưng kết quả mà hoạt động đầu tư đem lại thì khó định lượng và tính toán chính xác. Bởi vì, kết quả của hoạt động đầu tư phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng là các công trình không thu hồi vốn trực tiếp, các công trình này phục vụ cho hoạt động đầu tư của các ngành khác để các ngành khác tạo ra kết quả như doanh thu,lợi nhuận... Dĩ nhiên, sự đóng góp của hệ thống cơ sở hạ tầng trong việc tạo ra kết quả này là không nhỏ nhưng để xác định là bao nhiêu thì không thể tách bạch được. Rõ ràng, nếu đầu tư vào xây dựng một con đường, khi con đường này đi vào hoạt động ta không thể tính toán chính xác con đường đã tạo ra bao nhiêu tài sản mới cho nền kinh tế mà chỉ có thể nhận thấy nó tạo điều kiện cho sản xuất phát triển thông qua việc vận chuyển vật liệu, hàng hóa... Dù hiệu quả kinh tế của các công trình không thể tính toán được. Song khi lập dự án đầu tư, hiệu quả để xem xét có nên thực hiện hoạt động đầu tư hay không là dựa vào tính toán hiệu quả kinh tế xã hội của dự án. Đây là chênh lệch giữa lợi ích mà nền kinh tế xã hội thu được so với các đóng góp mà nền kinh tế xã hội bỏ ra khi thực hiện đầu tư. Những lợi ích mà xã hội thu được là sự đáp ứng của các mục tiêu chung của xã hội, của nền kinh tế. Những sự đáp ứng này, có thể được xem xét mang tính định tính như nâng cao mức sống của dân cư, tăng năng suất lao động xã hội, thúc đẩy sản xuất phát triển... hoặc đo lường bằng các tính toán định lượng như mức tăng thu cho ngân sách, số người có việc làm, tăng tổng sản phẩm xã hội... Như vậy, hiệu quả của hoạt động đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng được thể hiện qua lợi ích kinh tế xã hội mà công trình hạ tầng đem lại. lợi ích này được thể hiện qua một số chỉ tiêu như: + ảnh hưởng của công trình đến sự phát triển của vùng có công trình, kết quả này thể hiện rõ rệt nhất ở các địa phương nghèo dặc biệt là ở các vùng nông thôn, miền núi ( mức sống và trình độ dân trí thấp). Sự xuất hiện của các công trình hạ tầng sẽ phản ánh rõ sự phát triển tiến bộ của vùng. + Tác động dây truyền của dự án đến các ngành khác mà cụ thể là tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển của các ngành khác. + Tác động của dự án đến môi trường sinh thái như cải thiện điều kiện sống sinh hoạt cho dân cư địa phương, làm đẹp cảnh quan môi trường... + Các tác động cụ thể khác. Nhiệm vụ của công tác quản lý kinh tế là tính toán hiệu quả đầu tư của các dự án hạ tầng để tìm biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động đầu tư, việc nâng cao hiệu quả đầu tư này có ý nghĩa quan trọng, hiệu quả càng cao càng tốt. Do hiệu quả là mối tương quan giữa kết quả và chi phí nên để nâng cao hiệu quả đầu tư thì: + Thứ nhất, tối thiểu lượng chi phí bỏ ra: trong đầu tư phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng thì tối thiểu chi phí bỏ ra để thực hiện hoạt động đầu tư này thể hiện ở việc tiết kiệm chi phí trong các giai đoạn của quá trình đầu tư. Nếu quản lý khắc phục được thất thoát và lãng phí vốn thì tức là hiệu quả đầu tư đã tăng lên, nguồn lực của xã hội sử dụng có kết quả cao. + Thứ hai, tối đa kết quả thu được: trong đầu tư phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng thì tối đa kết quả thu được thể hiện ở việc đưa công trình vào vận hành sử dụng đạt kết quả tốt, phát huy tối đa công suất hoạt động theo thiết kế. Quản lý sử dụng tốt công trình nghĩa là đã làm tăng hiệu quả đầu tư. Về mặt chất lượng, việc đạt được kết quả cao phản ánh năng lực và trình độ quản lý, đồng thời cũng đòi hỏi sự gắn bó giữa việc đạt được mục tiêu kinh tế với việc đạt được mục tiêu xã hội. Như vậy, ngay trong từng khâu, từng bước của hoạt động đầu tư đều phải chú ý xem xét và tính toán để nâng cao hiệu quả đầu tư, quản lý tốt việc thực hiện các giai đạon của hoạt động đầu tư chính là nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư. IV- Xây dựng cụm xã - trung tâm cụm xã và tính tất yếu của việc đầu tư xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng ở tỉnh sơn la: 1. Một số đặc điểm tự nhiên kinh tế xã hội tỉnh Sơn La: 1.1.Đặc điểm tự nhiên: Sơn La là một tỉnh miền núi cao phía Tây Bắc, có diện tích tự nhiên là 14.005 km2 ( chiếm 4,27% diện tích cả nước ), trong đó 80% diện tích là đất dốc, diện tích rừng chiếm 20,5%. Sơn La nằm ở 20,390 - 22.050 vĩ bắc và 103,150 -105,150 kinh đông. Có chung đường biên giới Việt Lào dài 250 km, nằm trên trục quốc lộ 6 Hà Nội - Sơn La - Điện Biên, cách Hà Nội 320 km. Độ cao phổ biến từ 600 m đến 1000 m so với mặt biển, địa hình bị chia cắt nhiều khoảnh bởi núi cao và suối sâu, phần lớn là núi đá vôi, 97% diện tích là tự nhiên thuộc lưu vực sông Đà, sông Mã. Có 2 cao nguyên là Mộc Châu và Sơn La - Nà Sản, địa hình tương đối bằng phẳng. Sơn La vừa là một tỉnh nằm sâu trong nội địa, vừa là tỉnh có biên giới với nước bạn Lào, nằm án ngữ ở phía Tây Bắc của thủ đô Hà Nội, vì vậy có ý nghĩa về kinh tế - xã hội và an ninh quốc phòng. Việc thông thương ra nước ngoài và đến các tỉnh khác phải nhờ hệ thống đường bộ (chất lượng đường còn xấu ) và đường sông (còn nhiều khó khăn), có đường không nhưng mới chỉ để vận chuyển hành khách. Diện tích tự nhiên toàn tỉnh là 1.405.500 ha, trong đó đất đang sử dụng là 455.385 ha (chiếm 32,4% diện tích đất tự nhiêncủa tỉnh). Là tỉnh vùng cao, quỹ đất nông nghiệp hạn chế, hiện sử dụng bình quân đầu người là 0.18 ha. Địa hình bị chia cắt sâu và mạnh, hình thành nhiều tiểu vùng. Sơn La có khí hậu nhiệt đới gió mùa vùng núi, có mùa đông lạnh khô, mùa hè nóng ẩm mưa nhiều. Khí hậu cho phép phát triển một nền nông-lâm nghiệp phong phú. Thời tiết khí hậu của Sơn La cũng có những bất thuận như khô hạn kéo dài trong mùa khô nên khó tăng vụ trên diện tích đất canh tác; cộng với gió Tây khô nóng vào những tháng cuối mùa khô, đầu mùa mưa (tháng 3,4) đã gây không ít khó khăn cho sản xuất và đời sống của một số vùng trong tỉnh. Sương muối, mưa đá, lũ quét cũng là những nhân tố gây bất lợi cho sản xuất và đời sống. Sơn La có hệ thống sông suối khá dầy nhưng phân bố không đều, mặt nứơc thấp hơn mặt nước canh tác. Vì vậy, biện pháp giải quyết nước là phải làm hồ chứa, đập dâng cắt lũ mùa mưa, chứa nước mùa khô, ống dẫn bơm điện khai thác nước ngầm và tăng tỷ lệ che phủ của rừng để ổn định nguồn sinh thủy...song với địa hình khó khăn hiểm trở, phức tạp đòi hỏi vốn đầu tư xây dựng cao. Sơn La là một trong những tỉnh có diện tích đất lâm nghiệp lớn chiếm tới 73%diện tích tự nhiên, đất đai phù hợp với nhiều loại cây, thuận lợi cho phát triển cây công nghiệp dài ngày. Sơn La có nhiều loại khoáng sản khác nhau, nhưng phần lớn có quy mô nhỏ, trữ lượng không lớn lại phân tán và điều kiện khai thác không thuận lợi gồm: than (đủ loại) ; đá vôi và sắt (trữ lượng khá lớn); niken đồng( có 25 điểm quặng và mỏ); vàng ( có 4 sa khoáng và 3 điểm vàng gốc nhưng thuộc mỏ nhỏ)... 1.2. Kinh tế xã hội : * Dân số toàn tỉnh có 881.383 người ( vào thời điểm 1/4/1999) dân số nông thôn 768.842 người chiếm 87,24% tổng số dântoàn tỉnh. Sơn La có 12 dân tộc cùng sinh sống, trong đó 54%là dân tộc Thái; 18% dân tộc Kinh; 12% dân tộc H’Mông; 8,5% dân tộc Mường; còn lại 7,5% thuộc 8 dân tộc anh em khác. Đại bộ phận nhân dân các dân tộc Sơn La sống ở nông thôn và sống bằng nghề nông là chủ yếu, vốn là người lao động cần mẫn song trình độ dân trí thấp, số người không biết đọc, biết viết là 217.748 người chiếm tỷ lệ 28,9% dân số từ 6 tuổi trở lên, trong đó có tới 84.058 người trong độ tuổi từ 16- 35 tuổi không biết đọc biết viết. Tốc độ tăng dân số vẫn ở mức cao: 2,5%/năm (giai đoạn 1991- 2000) so cả nước là 1.95%. Tuy nhiên, số lao động có tri thức của tỉnh cũng ngày càng phát triển đã và đang tiếp cận với điều kiện mới của nền kinh tế thị trường, có những đóng góp đáng kể cho sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. * Về kinh tế, Sơn La có tốc độ tăng trưởng tương đối khá và ổn định: tốc độ tăng trưởng bình quân 8,5%/ năm ( thời kỳ 1996-2000). Trong đó công nghiệp và xây dựng tăng 11,5%; nông lâm nghiệp và thủy sản tăng 4,25% ; khối dịch vụ :19,45%. Cơ cấu kinh tế đã có sự chuyển dịch bước đầu từ kinh tế thuần nông tự cấp tự túc sang sản xuất hàng hoá gắn với thị trường, nhưng chậm. Chủ yếu vẫn là sản xuất nông-lâm-nghiệp, tỷ trọng của công nghiệp còn rất nhỏ bé, khối dịch vụ tăng chậm. Nhưng dù thế, những điều kiện cho phát triển nông-lâm nghiệp cũng rất thiếu, hệ thống thủy lợi, khuyến nông không đồng bộ và thấp kém. Bảng 2: Cơ cấu kinh tế tỉnh Sơn La thời kỳ 1996- 2000 theo giá thực tế Chỉ tiêu 1996 1997 1998 1999 2000 I-Giátrị sản xuất (tr.đồng) 1.294.991 1.386.560 1.553.137 1.616.022 1.747.720 Nông-Lâm-Thủysản 940.874 968.535 1.022.320 1.023.806 1.031.080 Công nghiệp-Xây dựng 117.610 132.625 151.086 162.341 176.890 Dịch vụ 236.507 285.400 379.731 427.825 515.690 II-Cơ cấu kinh tế (%) 100 100 100 100 100 Nông-Lâm-Thủysản 72.66 69.85 65.82 63.48 60.37 Công nghiệp-Xây dựng 9.08 9.57 9.73 10.04 10.12 Dịch vụ 18.26 20.58 24.45 26.48 29.51 Nguồn: Cục thống kê Sơn La Tổng kim nghạch xuất khẩu trên địa bàn tỉnh Sơn La hầu như trong tình trạng nhập siêu, mức độ kinh tế mở của tỉnh ra thị trường thế giới còn rất yếu. Mặt hàng xuất khẩu còn nghèo, chủ yếu là thu gom, chưa thực sự bền vững, với cái gốc là đi từ sản xuất để xuất khẩu. Một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của tỉnh là chè đen, tơ tằm, cà phê nhân, chè xanh Đài loan. Đa số các mặt hàng trên là sơ chế. Bảng 3: Giá trị xuất nhập khẩu của tỉnh Sơn La qua các năm Đơn vị: 1000 USD Chỉ tiêu 1996 1997 1998 1999 2000 2001 Xuất khẩu 373 441 2082 261 448 654 Nhập khẩu 3947 1708 1793 5407 1670 1520 Nguồn : Cục thống kê Sơn La Thu ngân sách trên địa bàn tỉnh qua các năm đều tăng khá kể cả phần thu từ kinh tế địa phương và kinh tế trung ương trên địa bàn tỉnh. Chi ngân sách cũng tăng: năm 1999 tổng chi tăng lên 0,6 lần. trong đó chi cho sự nghiệp giáo dục đào tạo, năm 1999 tăng gấp 1,2 lần, chiếm 27,3% tổng chi ngân sách. Qua số liệu thu chi cho thấy, Sơn La còn là một tỉnh nghèo, số lượng thu chi không lớn, chi thường vượt thu. Từ năm 2000 thu đã đủ chi, không có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế, hàng năm Trung ương vẫn phải trợ cấp nhiều. Bảng 4: Thu chi ngân sách trên địa bàn tỉnh qua các năm Đơn vị : triệu đồng Chỉ tiêu 1996 1997 1998 1999 2000 2001 Tổng chi 345.037 355.301 401.632 520.548 541.439 732.784 Tổng thu 302.472 347.567 381.490 501.974 544.439 738.260 Nguồn: Cục thống kê Sơn La * Về lao động: Toàn tỉnh có 456.495 người trong độ tuổi lao động, tỷ lệ lao động không có việc làm là 4,7% (theo cách tính của tỉnh). Với chất lượng lao động được đào tạo như sau: + số lao động có trình độ đại học trở lên: 4.336 người + số lao động có trình độ cao đẳng: 2.426 người + số công nhân kỹ thuật nhân viên nghiệp vụ:10.405 người +số có trình độ trung học chuyên nghiệp:18.127 người * Về điều kiện cơ sở hạ tầng: Mạng lưới giao thông không ngừng phát triển, nhiều tuyến đường giao thông, đường quốc lộ, đường ô tô đến các huyện, thị xã đã được xây dựng, bước đầu phá thế cô lập về vị trí địa lý ở nhiều vùng. Nhưng nhìn chung, giao thông phát triển chậm và chắp vá. Đa số đường quốc lộ, tỉnh lộ, huyện lộ còn nằm trong tình trạng thấp kém, chiều rộng và độ phẳng mặt dưới mức tiêu chuẩn, nhiều xã đường ô tô chưa tới nơi, nếu có thì không đảm bảo thông suốt, lưu thông một mùa. Toàn tỉnh có 5.276km đường bộ. Trong đó: đường nhựa và đường bê tông 296 km ( chiếm 5,6 % ), đường đá và đường cấp phối 723 km ( chiếm 13,7%); đường đất 4257 km ( chiếm 80,7%). Mở mới được 113 km đường ô tô, nâng cấp 291 km đường đô thị và quốc lộ, mở mới 887 km đường nông thôn liên xã, liên bản góp phần phục vụ đắc lực cho nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội . Điện: Nguồn điện lưới quốc gia đã đến được các trung tâm tỉnh, huyện, điểm nổi bật là hệ thống thủy điện nhỏ đã khai thác có hiệu quả. Tuy nhiên, năng lượng điện vẫn chưa đủ cung cấp cho toàn vùng (nguồn điện thương phẩm bình quân đầu người bằng 15 % bình quân chung cả nước ). Hệ thống cung cấp điện thiếu và chắp vá. Hệ thống cơ sở phục vụ sản xuất nông nghiệp chưa đáp ứng được nhu cầu sản xuất. Bước đầu đưa tiến bộ khoa học vào sản xuất nông nghiệp, với hệ thống khuyến nông, khuyến lâm nhưng đây mới chỉ thực hiện được ở các vùng phát triển. Thủy lợi thiếu đồng bộ và thấp kém. Mạng lưới y tế: Số cơ sở ytế tăng nhanh qua các năm, cơ sở phục vụ khám chữa bệnh ngày càng được xây dựng và phát triển rộng hơn(tất cả các xã đều có trạm xá), đã chú trọng tuyến ytế huyện, xã, bản, đội ytế lưu động. Nhưng vẫn còn thiếu rất nhiều, những trạm ytế cũ trang thiết bị cũ kỹ và không đảm bảo được yêu cầu. Hệ thống cơ sở phục vụ giáo dục đã đựơc củng cố xây dựng mới nhiều, bước đầu đáp ứng được yêu cầu, nhưng vẫn còn thiếu. Chất lượng giáo dục đào tạo phát triển khá toàn diện ở các cấp học, ngành học với nhiều loại hình. Mạng lưới và quy mô giáo dục phát triển mạnh, chất lượng giáo dục được nâng cao và củng cố một bước. Các hoạt động văn hoá văn nghệ, thể dục thể thao, phát thanh truyền hình phát triển cả về chất lượng lẫn số lượng góp phần nângcao mức hưởng thụ cho nhân dân. Bản sắc văn hoá dân tộc được giữ gìn khai thác và phát huy. * Cơ cấu đầu tư vào các ngành lĩnh vực : - Vốn đầu tư cho khu vực sản xuất nông lâm nghiệp :457,35tỷ chiếm 21% tổng vốn đầu tư xã hội. chủ yếu đầu tư đập, hồ thủy lợi, kêng mương nội đồng... - Vốn đầu tư cho ngành công nghiệp và xây dựng : 620,73 tỷ, chiếm 28,5%. Chủ yếu đầu tư cho điện, đường giao thông, xây dựng mới một số nhà máy. - Vốn đầu tư cho ngành dịch vụ và các lĩnh vực khác: 1100 tỷ chiếm 50,5%. Tập trung đầu tư cho giáo dục, ytế, văn hoá, xã hội, an ninh quốc phòng Tóm lại mặc dù có nhiều cố gắng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, nhưng Sơn La vẫn là một tỉnh miền núi đặc biệt khó khăn. Cơ sở hạ tầng vẫn còn thiếu và nhiều mặt còn thấp kém, có chú trọng đầu tư nhưng mới chỉ cho cơ sở hạ tầng ở những vùng đô thị, vùng ở thấp, ven trục giao thông, ven xã, thị trấn còn những vùng vùng sâu, vùng xa, vùng sát biên giới thì vẫn trong tình trạng thiếu và xuống cấp nghiêm trọng. Chuyển hướng sản xuất từ tự túc tự cấp sang sản xuất hàng hoá chưa đồng đều giữa các vùng, hiệu quả thấp. Điểm xuất phát của nền kinh tế vốn đã thấp lại bị thiên tai liên tiếp gây ra hậu quả nặng nề, trình độ quản lý nền kinh tế lại hạn chế. Văn hoá, xã hội còn tồn tại nhiều vấn đề bức xúc, diện đói nghèo lớn, tình trạng du canh du cư tự do, tái trồng cây thuốc phiện, tệ nạn xã hội ... vẫn diễn biến phức tạp, nhất là ở các địa bàn nông thôn miền núi, đây là những nhân tố cản trở phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội của tỉnh mà yêu cầu đòi hỏi cần phải có những biện pháp hữu hiệu để thúc đẩy các chương trình phát triển kinh tế xã hội phát huy hiệu quả. 2. Vấn đề xây dựng cụm xã và trung tâm cụm xã trọng điểm trên địa bàn tỉnh Sơn La 2.1. Những căn cứ pháp lý về xây dựng và phát triển các trung tâm cụm xã : Dựa vào căn cứ của TW về phát triển kinh tế xã hội miền núi và dân tộc, tỉnh Sơn La đã chủ trương triển khai chương trình xây dựng và quản lý các trung tâm cụm xã trên địa bàn tỉnh qua các văn bản sau: - Thông báo số 245/ TB-TU ngày 10 tháng 01 năm 1995 của ban thường vụ Tỉnh uỷ về chương trình xây dựng các cụm xã và trung tâm cụm xã tỉnh Sơn La giai đoạn 1996-2000. - Quyết định số 902/ QĐ-UB ngày 27 tháng 6 năm 1997 phê duyệt xây dựng 53 trung tâm cụm xã trên địa bàn tỉnh Sơn La. - Quyết định số 27/QĐ-UB ngày 8 tháng 01 năm 2000 của UBND tỉnh Sơn La. Về việc phê duyệt trung tâm cụm xã và trung tâm cụm xã trọng điểm. - Quyết định số 522/QĐ-UB ngày 23 tháng 03 năm 2000 của UBND tỉnh Sơn La. Về việc giao nhiệm vụ quy hoạch phát triển kinh tế xã hội trung tâm cụm xã và trung tâm cụm xã trọng điểm. - Quyết định số 780/QĐ-UB ngày 20 tháng 01 năm 2001 của UBND tỉnh Sơn La. Về việc phê duyệt đề cương quy hoạch phát triển kinh tế xã hội an ninh quốc phòng 13 trung tâm cụm xã trọng điểm giai đoạn 2001- 2010. Xuất phát từ thực tiễn và những vấn đề bức xúc đặt ra cho phát triển kinh tế vùng nông thôn, cho nên chương trình xây dựng các trung tâm cụm xã được đẩy mạnh trên toàn tỉnh. 2.2. Xây dựng trung tâm cụm xã trên địa bàn tỉnh Sơn La: Tỉnh Sơn La triển khai chương trình xây dựng trung tâm cụm xã trên địa bàn tỉnh với mục đích: - Tổ chức lại mô hình sản xuất liên hoàn toàn diện theo địa bàn cụm xã, có hạt nhân là trung tâm cụm xã. - Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng cụm xã theo hướng CNH- HĐH, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế hàng hoá. - Tạo ra khu kinh tế năng động, có khả năng kích thích sự phát triển của các cụm xã lân cận. - Khai thác mọi tiềm năng thế mạnh về đất đai, tài nguyên, lao động hiện có của tiểu vùng. - Phục vụ tốt cho việc xây dựng thủy điện Sơn La, tạo khả năng tiếp nhận một bộ phận dân cư vùng ngập nước đến tái định cư và ổn định đời sống. - Bố trí lại đất đai và sử dụng hợp lý; phân công lại lao động địa bàn nông thôn. - Tạo động lực phát triển kinh tế văn hoá xã hội vùng cụm xã một cách toàn diện. - Đảm bảo an ninh quốc phòng vùng dân tộc, biên giới. Việc xây dựng cụm xã trung tâm cụm xã có nhiệm vụ đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội một cách toàn diện, phát huy mạnh các lợi thế so sánh, hình thành cơ cấu kinh tế sát hơn với điều kiện kinh tế từng nơi và phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế của toàn tỉnh. Mặt khác, phải hình thành "điểm sáng" về việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng ngay trong từng bước phát triển. Trước năm 2000, Sơn La có 53 trung tâm cụm xã. Trong đó có: 19 trung tâm cụm xã thuộc khu vực III ( khu vực khó khăn) 22 trung tâm cụm xã thuộc khu vực II (khu vực tạm ổn) 12 trung tâm cụm xã thuộc khu vực I (khu vực bước đầu phát triển) Sau quá trình triển khai thực hiện thấy một số vùng còn bất hợp lý, UBND tỉnh đã tiến hành điều chỉnh lại hiện có 46 trung tâm cụm xã trong đó có 13 trung tâm cụm xã trọng điểm được chọn ra để ưu tiên đầu tư trước. Nội dung chủ yếu được ưu tiên đầu tư là : Chương trình nhựa hoá các tuyến đường ôtô đến trung tâm cụm xã và trung tâm cụm xã trọng điểm. Xây dựng hệ thống trường THCS 2 tầng tại các xã. Xây dựng đồng bộ trung tâm phục vụ sản xuất , đời sống và tiêu thụ nông sản trên địa bànthuộc cụm xã như: ngân hàng cấp 4, chợ,bưu điện, văn hoá xã, sân vậnđộng... ( Trích điều 3. QĐ số 27/ QĐ-UB ngày 18 tháng 01 năm 2001 ) 2.3. Tính tất yếu của việc xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng tại các trung tâm cụm xã của tỉnh Sơn La: Tỉnh Sơn La tuy có nhiều tiến bộ đáng kể trong phát triển kinh tế xã hội song về cơ bản đây vẫn là một tỉnh miền núi còn nghèo so với cả nước. Thực trạng đời sống dân cư và phát triển kinh tế xã hội ở địa bàn nông thôn của tỉnh còn nghèo nàn và yếu kém. Nguyên nhân yếu kém thì có nhiều nhưng đáng kể là do hệ thống cơ sở hạ tầng - một trong những điều kiện vật chất cho phát triển kinh tế xã hội - ở các vùng này còn quá lạc hậu và thiếu thốn. Cho nên, tình trạng phát triển kinh tế xã hội ở đây chỉ có thể khắc phục dần bắt đầu từ việc tập trung vào đầu tư cho phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng mà trước mắt là hệ thống cơ sở hạ tầng thiết yếu. Đây là vấn đề tất yếu bắt buộc nếu muốn thúc đẩy phát triển kinh tế ở những vùng nông thôn nghèo nàn này. Hệ thống cơ sở hạ tầng như đã đề cập nó có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi vùng lãnh thổ, nó tác động đến mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội, nó quyết định sự tăng trưởng và phát triển nhanh của các ngành, các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, dịch vụ, tạo sự thay đổi cơ bản trong cơ cấu kinh tế ... Bởi vậy nó là điều kiện tiền đề cho sự phát triển, là yếu tố cơ bản để thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội của mỗi vùng lãnh thổ. Thế nhưng, tại các cụm xã trên địa bàn tỉnh Sơn La, dặc biệt là ở các xã vùng sâu, vùng xa, vùng cao biên giới kinh tế xã hội phát triển chậm chạp lạc hậu, đời sống dân sinh thấp kém, Nhưng điều kiện phát triển kinh tế xã hội là hệ thống cơ sở hạ tầng tại đây lại vô cùng yếu kém và không đồng bộ. Giao thông : hệ thống giao thông quá ít, quá xấu hầu như mới chỉ phát triển ở những vùng thấp (vùng phát triển khá hơn) còn lại các đường giao thông ở các bản xã vùng xã, vùng cao thì chủ yếu là đường đất, đường dải cấp phối không nhiều, điều kiện đi lại của đồng bào rất khó khăn nhất là vào mùa mưa lũ, tình trạng sạt lở ách tắc diễn ra phổ biến. Thuỷ lợi: hệ thống kênh mương ở tình trạng thiếu và xướng cấp nghiêm trọng chủ yếu vẫn là kênh mương bờ đất do dân tự đắp, các phai đập kiên cố còn ít. Nước sinh hoạt: chưa đáp ứng đủ nhu cầu sinh hoạt và phân bố không đều, dân cư trong vùng vẫn chủ yếu sống bằng nước tự nhiên từ sông suối, mó nước điều kiện vệ sinh không đảm bảo. Điện: nhiều vùng chưa được dùng điện, các xã dùng điện lưới quốc gia chưa nhiều, thuỷ điện nhỏ có phát triển nhưng đa số phát triển ở các xã vùng ven suối, còn các xã vùng cao biên giới thì điện vẫn chưa đưa tới nơi. Hệ thống hạ tầng giáo dục: thiếu và chắp vá, đa số là nhà tạm, nhà bằng tre nứa, nhà cấp 4, các trường học kiên cố chưa nhiều, nhà bán trú cho học sinh, nhà ở giáo viên thiếu trầm trọng. Trạm ytế xã: cũ kỹ xuống cấp lại thiếu nên không đáp ứng đủ nhu cầu khám chữa bệnh cho đồng bào. Các cơ sở hạ tầng khác như chợ, cửa hàng , bưu điện, trung tâm khuyến nông khuyến lâm... hầu như ở tình trạng thiếu và không đồng bộ. Trước thực trạng đó, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội ở những địa bàn này khó có thể có hiệu quả nếu như hệ thống cơ sở hạ tầng không được đầu tư đúng mức. Cho nên, trong thời gian tới dù muốn hay không, trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội ở các bản, xã vùng sâu, vùng xã của tỉnh thì phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng phải được đạt lên hàng đầu. Đầu tư vào xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng ở các xã và trung tâm cụm xã là sự cần thiết và tất yếu. Chương II thực trạng đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng tại các cụm xã trọng điểm trên địa bàn tỉnh Sơn La giai đoạn 1996-2001 I - Thực trạng đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng: 1. Vốn và nguồn vốn qua các năm: 1.1. Huy động vốn : Qua một thời gian triển khai chương trình xây dựng các trung tâm cụm xã, tỉnh đã có nhiều nỗ lực trong việc tập trung đầu tư cho phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng, thu hút được sự tham gia của nhiều nguồn vốn, bước đầu triển khai có hiệu quả các biện pháp huy động. Vốn đầu tư cho chương trình xây dựng trung tâm cụm xã giai đoạn 1996-1998 chủ yếu được cân đối từ vốn ngân sách, năm 1999-2000 bố trí vốn đầu tư cho chương trình bằng 2 nguồn: ngân sách địa phương và ngân sáchTW, trong đó ngân sách TW chủ yếu cấp qua các chương trình mục tiêu quốc gia như chương trình xoá đói giảm nghèo, chương trình phát triển kinh tế các xã đặc biệt khó khăn miền núi vùng sâu, vùng xa... Kết quả trong 5 năm (1996- 2000) đã thực hiện xây dựng trung tâm cụm xã với tổng vốn đã huy động để đầu tư được là 99,115 tỷ đồng cho 46 trung tâm cụm xã (53 trung tâm cụm xã cũ) của toàn tỉnh. Trong giai đoạn này do chưa chủ trương tập trung cho 13 trung tâm cụm xã trọng điểm nên vốn đầu tư được phân đều cho tất cả các trung tâm cụm xã hiện có của tỉnh. Đến năm 2001 vốn mới được tập trung nhiều cho 13 trung tâm cụm xã trọng điểm. Nhưng nhìn chung, qua các năm lượng vốn đều có xu hướng tăng lên. Cụ thể: Bảng 5: Vốn đầu tư cho các trung tâm cụm xã qua các năm đơn vị: tỷ đồng Chỉ tiêu Thời kỳ 1996 - 2000 2001 Tổng số 1996 1997 1998 1999 2000 Vốn cho các trung tâm cụm xã 99,115 10,495 19,717 19,838 21,957 27,072 40,2 Tốc độ tăng liên hoàn (%) 23,54 - 87,9 0,614 10,7 23,3 47,75 Nguồn : Sở KH&ĐT Sơn La Năm 1996 chương trình xây dựng trung tâm cụm xã chưa triênt khai mạnh nên vốn đầu tư cho các trung tâm cụm xã còn thấp ( có 10,495 tỷ) sang năm1997 bắt đầu đầu tư mạnh cho các trung tâm cụm xã nên lượng vốn qua các năm có tăng lên trông thấy,nổi bật là năm 2000 với lượng vốn huy động được là 27,072 tỷ trước mắt triển khai xây dựng được một số công trình thiết yếu tại các cụm xã Bắt đầu sang năm 2000, tỉnh chủ trương chọn ra 13 trung tâm cụm xã để làm trọng điểm tập trung đầu tư. Nhưng năm 2000, do chủ chương mới phát động nên cần có thời gian chuẩn bị, đầu tư cho các cụm xã trọng điểm chưa tập trung được mạnh. Sang năm 2001mới tập trung toàn diện, cho nên lượng vốn cho phát triển cơ sở hạ tầng năm 2001 cũng tăng lên rõ rệt so với thời gian trước mà cụ thể là so với năm 2000, lượng vốn đầu tư cho 13 trung tâm cụm xã được bổ xung nhiều hơn, tăng cả về số tương đối và số tuyệt đối. Nếu vốn đầu tư năm 2000 cho các trung tâm cụm xã cho phát triển cơ sở hạ tầng là 27,072 tỷ đồng, trong đó đầu tư cho 13 trung tâm cụm xã trọng điểm là 19,744 tỷ đồng (chiếm 72,9%), thì đến năm 2001 tổng vốn đầu tư cho các trung tâm cụm xã là 40,2 tỷ đồng, trong đó: đầu tư cho các cụm xã trọng điểm là 31,758 tỷ ( chiếm 79%). Vốn đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng được huy động từ nhiều nguồn. Vốn của các chương trình này chủ yếu được khai thác từ các nguồn: xây dựng cơ bản tập trung, vốn các chương trình mục tiêu quốc gia, vốn hỗ trợ của bộ, ngành trung ương , vốn dân góp, vốn từ ngân sách. - Nguồn vốn Nhà nước cấp (ngân sách TW và ngân sách địa phương) được đầu tư vào các công trình: giao thông, chợ, điện và trạm biến thế, bưu điện ...trong cụm xã. Nguồn vốn tự có và nguồn vốn vay được đầu tư vào sản xuất kinh doanh (vào cơ sở hạ tầng không đáng kể nên không xét đến). Vốn ngân sách được đầu tư nhiều qua các chương trình phát triển kinh tế miền núi và chương trình mục tiêu ( của TW và của tỉnh), trực tiếp qua ngân sách không nhiều chủ yếu là dưới dạng hỗ trợ ( vật tư, máy móc, kỹ thuật,...) - Nguồn lực huy động của đồng bào trên địa bàn cũng đóng góp chiếm tỷ lệ khá (nhất là trong việc xây dựng giao thông, thuỷ lợi và hệ thống trường học), nhưng chủ yếu góp bằng ngày công lao động, tham gia sản xuất, xây dựng công trình, giải phóng mặt bằng... Uớc khoảng 35%. Đây là kết quả khả quan vì đa số dân cư trong vùng cụm xã đều thuộc diện nghèo khó khăn. - Ngoài ra, do điều kiện địa hình, việc vận chuyển nguyên vật liệu cũng rất khó khăn, nhiều cụm xã đã mạnh dạn nghiên cứu sản xuất, khai thác nguyên liệu tại chỗ như vôi, gạch, đá,...để xây dựng công trình. - Các doanh nghiệp Nhà nước và tư nhân trên địa bàn cụm xã đóng góp một phần nguồn lực giúp địa phương xây dựng trung tâm cụm xã qua việc đầu tư vốn, vật tư, máy móc, công lao động điển hình là tại cụm xã Sốp Cộp, Bộ đội biên phòng đóng trên địa bàn cụm xã đã đầu tư xây dựng cho 2 xã của cụm các công trình hạ tầng kết hợp gồm trường học - trạm ytế - thuỷ điện. Đây là một đóng góp đáng kể. - Vốn cho xây dựng cơ sở hạ tầng tại các cụm xã trọng điểm còn được tận dụng từ nguồn thu từ thuế sử dụng đất nông nghiệp như đầu tư các công trình thuỷ lợi . Riêng năm 2001 tổng vốn thu từ thuế sử dụng đất nông nghiệp được dùng cho kiên cố hoá kênh mương ở các cụm xã là 7,0573 tỷ trong đó đầu tư cho các công trình thuộc cụm xã trọng điểm là 1,321 tỷ đồng gồm 3 công trình sau: Kênh Bản Xa-Mường Giôn 100 triệu; kênh bản Cáp Ca - Mường Và 1.021 triệu; kênh thuỷ lợi Cổng Bản - Chiềng Cang 200 triệu. Trong điều kiện của tỉnh còn nghèo, nguồn vốn đầu tư từ ngân sách có hạn, thu ngân sách thì không nhiều nên Nhà nước chủ trương thực hiện phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm, cùng đầu tư” để xây dựng cơ sở hạ tầng. Nhìn chung, phong trào này phát huy có hiệu quả. Với lượng vốn huy động như vậy, hầu hết các cụm xã đều có công trình được đầu tư bước đầu sử dụng có hiệu quả, nhân dân huyện, xã đều tích cự thạm gia xây dựng góp phần đảm bảo cung cấp đủ vốn cho công trình khởi công và hoàn thiện. 1.2. Sử dụng vốn: Sau khi chủ trương tập trung đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng tại các cụm xã trọng điểm, nhiều công trình đã được xây dựng, cải tạo, nâng cấp đi vào hoạt động và phát huy hiệu quả, kết quả này đã đóng góp rất lớn vào nâng cao đời sống nhân dân và phát triển kinh tế hàng hoá trên địa bàn xã và các xã lân cận. Bên cạnh nhiệm vụ huy động vốn, nhiệm vụ quản lý và sử dụng vốn cũng đã được quan tâm và cải thiện, đã có sự đổi mới trong quản lý điều hành, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đầu tư xây dựng, những hiện tượng tiêu cực trong công tác xây dựng cơ bản được khắc phục dần, chất lượng công trình cũng được tăng lên một bước. Cụ thể : *Xây dựng trung tâm cụm xã được thực hịên bởi nhiều nguồn, các nguồn này được sử dụng lồng ghép với nhau cùng hỗ trợ để đầu tư, đảm bảo cân đối đủ vốn theo kế hoạch đề ra, tập trung được nguồn vốn, tạo hiệu quả đầu tư được đồng bộ, dứt điểm các hạng mục, công trình. Nguồn vốn cho đầu tư xây dựng các trung tâm cụm xã, trung tâm cụm xã trọng điểm được cân đối vốn trên cơ sở lồng ghép các chương trình, dự án, các nguồn vốn đầu tư của Nhà nước, nguồn huy động trong dân và các thành phần kinh tế, nguồn chương trình mục tiêu, vốn xây dựng cơ bản tập trung, đóng góp của dân,... Vốn được sử dụng “lồng ghép” nghĩa là những cụm xã khi xây dựng phải đáp ứng nhiều nhiệm vụ khác nhau thì có nhiều chương trình dự án cùng được triển khai như: chương trình xây dựng trung tâm cụm xã miền núi vùng cao; chương trình 135 -chương trình phát triển kinh tế xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi, vùng sâu, vùng xa; dự án định canh định cư; chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường; chương trình 747- dự án di dân tái định cư thuỷ điện Sông Đà; chương trình 925- chương trình nước - môi trường - đường giao thông nông thôn... Do đó trên địa bàn cụm xã sẽ có nhiều nguồn vốn của các chương trình cùng đầu tư, trong một công trình cũng được đầu tư từ nhiều nguồn. Các nguồn vốn này cùng phối hợp với nhau để đầu tư xây dựng các công trình dứt điểm, mỗi cụm xã lại có điều kiện được đầu tư hoàn chỉnh, toàn diện. Cụ thể, vốn đầu tư cho giai đoạn 1996- 2000 được lồng ghép như sau: Bảng 6: Nguồn vốn Lồng ghép cho xây dựng trung tâm cụm xã giai đoạn 1996-2000 đơn vị : tỷ đồng Chỉ tiêu Tổng vốn ngân sách cấp Xây dựng cơ bản tập trung Chương trình mục tiêu Chương trình 135 Khác Vốn cho xây dựng trung tâm cụm xã 99,115 12,142 30,517 21,326 25,94 9,22 Tỷ trọng (%) 100 12,25 30,79 21,5 26,16 9,3 Nguồn : Sở Kế hoạch & Đầu tư tỉnh Sơn La Riêng năm 2001, 13 trung tâm cụm xã được tập trung đầu tư mạnh, cơ cấu lồng ghép các nguồn vốn đầu tư tại địa bàn có nhiều khả quan, cụ thể là nếu so với năm 2000 thì cơ cấu lồng ghép có nhiều điểm hợp lý hơn vốn đầu tư trực tiếp từ ngân sách Nhà nước có giảm xuống, vốn từ các chương trình mục tiêu, chương trình135 có tăng lên. Bảng 7: Kết quả lồng ghép vốn đầu tư cho xây dựng trung tâm cụm xã trọng điểm năm 2000và 2001 Đơn vị: tỷ đồng Năm Chỉ tiêu Xây dựng cơ bản tập trung Chương trình 135 Chương trình mục tiêu Ngân sách tỉnh Khác Tổng số 2000 Vốn đầu tư 4,936 7,937 3,00 1,737 2,132 19,744 Tỷ trọng(%) 25 40,2 15,2 8,8 10,8 100 2001 Vốn đầu tư 4,764 14,323 5,272 2,35 4,097 31,758 Tỷ trọng(%) 15 45,1 16,6 7,4 12,9 100 Nguồn :Kho bạc Nhà nước tỉnh Sơn la Kết quả lồng ghép vốn cho xây dựng các cụm xã đã giải quyết được nhiều công trình có hiệu quả như: + Đường Mường La – Ngọc Chiến tổng vốn năm 2000 là 700 triệu trong đó xây dựng cơ bản tập trung là 500 triệu ( với 20km ) và vốn chương trình 135 là 200 triệu (với 14 km) + Đường giao thông nông thôn Chiềng En – Pú Pẩu vốn tổng số năm 2000 là 750 triệu trông đó vốn chương trình 135 là 400 triệu ; vốn chương trình mục tiêu khác là 350 triệu + Đường Mường Bám Phúng Lao- huyện Thuận châu tổng vốn là 2088 triệu trong đó vốn chương trình 135 là 750 triệu, xây dựng cơ bản tập trung 338 triệu, chương trình mục tiêu 1000 triệu. *Cơ cấu vốn đầu tư đã được đổi mới hợp lý hơn, chú trọng đầu tư đồng bộ kết cấu hạ tầng cả hạ tầng kinh tế và xã hội cho các vùng, địa bàn trọng điểm, những ngành, những lĩnh vực quan trọng: + Lượng vốn huy động cho trung tâm cụm xã được tập trung vào xây dựng và hoàn thiện đồng bộ hệ thống cơ sở hạ tầng thiết yếu ở các cụm xã trọng điểm mà địa bàn tập trung chính là tại các trung tâm cụm xã và các trung tâm xã. Bao gồm: hệ thống giao thông, thuỷ lợi, nước sạch, trường học, bệnh viện, trạm xã, hệ thống điện, các cơ sở khuyến nông khuyến lâm, chợ, mạng lưới thông tin liên lạc và các trụ sở làm việc. Hiện đang cố gắng đầu tư để thiết lập mỗi cụm xã có một hệ thống cơ sở hạ tầng đồng bộ và có chất lượng theo quy hoạch chi tiết đã lập. Với mục tiêu phát huy mọi nguồn lực, sử dụng mọi nguồn vốn có thể huy động được và phương châm ''Nhà nước và nhân dân cùng làm, cùng đầu tư". Nên trong thời gian qua nhất là từ năm 2000 vốn đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng các cụm xã trọng điểm đã tăng lên và chiếm tỷ trọng khá so với toàn tỉnh. Cơ cấu vốn đầu tư cho các lĩnh vực cũng đã được cân đối cụ thể theo tầm quan trọng của từng loại. Bảng 8: Cơ cấu vốn đầu tư cho các lĩnh vực hạ tầng giai đoạn 1996 - 2000 Đơn vị:Tỷ đồng STT Chỉ tiêu Tổng số Giao thông Thuỷ lợi Giáo dục Ytế Nước sinh hoạt Khác 1 Lượng VĐT 99,115 38,457 15,4 16,998 5,749 8,573 13,685 2 Tỷtrọng (%) 100 38,8 15,54 17,15 5,8 8,65 13,8 Nguồn: Sở KH&ĐT Sơn La + Sang năm 2001, với chủ trương đẩy mạnh đầu tư vào 13 trung tâm cụm xã trọng điểm nên một loạt các chương trình dự án đầu tư cho phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng tại các trung tâm xã và trung tâm cụm xã trọng điểm được đẩy mạnh, các công trình hạ tầng nhìn chung được đầu tư đồng bộ. Trong số hạ tầng cơ sở này lượng vốn lại được tập trung vào hoàn thiện hệ thống đường giao thông gồm đường giữa các cụm xã với đường tỉnh lộ, huyện lộ; đường từ trung tâm cụm xã đến các xã; đường liên bản liên xã. Tiêu biểu là tỉnh đang dồn sức cho hai chương trình nhựa hoá đường đến 13 trung tâm cụm xã trọng điểm và xây dựng đường đến các xã chưa có đường. Bảng 9: Cơ cấu vốn đầu tư cho các cụm xã trọng điểm theo lĩnh vực hạ tầng năm 2001: Đơn vị:Tỷ đồng STT Chỉ tiêu Tổng số Giao thông Thuỷ lợi Trường học Y tế Nước sinh hoạt Khác 1 Lượng VĐT 31,758 18,99 4,922 4,541 1,112 0,857 1,334 2 So với tổng số (%) 100 59,8 15,5 14,3 3,5 2,7 4,2 Nguồn: Sở kế hoạch và đầu tư Sơn la Để đạt được kết quả này là do các huyện, xã đã biết khai thác tốt các nguồn lực hiện có trên địa bàn. Phương châm '' Nhà nước và nhân dân cùng làm" đã tỏ ra có hiệu quả. Tuy nhiên, lượng vốn đầu tư của Nhà nước vẫn chiếm tỷ lệ cao thông qua việc đầu tư vào các chương trình dự án phát triển hệ thống kinh tế xã trên địa bàn cụm xã. Còn vốn của nhân dân cụm xã đóng góp chủ yếu dưới hình thức ngày công lao động, giải phóng mặt bằng, xây dựng công trình, tập kết vật tư,... và một số vốn bằng tiền, lao động, máy móc, công vận chuyển của các cơ quan đoàn thể, tổ chức sản xuất kinh doanh, đơn vị lực lượng vũ trang địa phương đóng trên địa bàn. + Vốn đầu tư cho các ngành cũng đã được điều chỉnh cân đối cho xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng như : - Trong vốn đầu tư cho sản xuất nông lâm nghiệp vốn dành cho phát triển cơ sở hạ tầng chủ yếu là đầu tư vào đập, hồ thuỷ lợi, kênh mương nội đồng. - Trong vốn đầu tư cho công nghiệp và xây dựng vốn dành cho phát triển cơ sở hạ tầng chủ yếu đầu tư cho điện, đường giao thông - Trong vốn đầu tư cho ngành dịch vụ và các lĩnh vực khác tập trung vào hệ thống trường học trạm y tế, nhà văn hoá, bưu điện... 2. Hoạt động đầu tư xét theo các lĩnh vực của kết cấu hạ tầng: Hệ thống cơ sở hạ tầng bao gồm rất nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, mỗi ngành, mỗi lĩnh vực đều có một vai trò quan trọng nhất định trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Do đó, quan điểm về phát triển cơ sở hạ tầng là phải phát triển đồng bộ và toàn diện. Trong thời gian qua đầu tư phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng ở các cụm xã trọng điểm cũng đã được đẩy mạnh. Tuy nhiên, do nguồn vốn đầu tư

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLuan van tot nghiep.doc