Đề tài Thực trạng và một số giải pháp thực hiện công tác chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội ở Việt Nam hiện nay

Tài liệu Đề tài Thực trạng và một số giải pháp thực hiện công tác chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội ở Việt Nam hiện nay: Lời nói đầu Ban Mai báo hiệu những tia sáng ,cũng như hoàng hôn sẽ đưa đên bóng đêm,con người sinh ra rồi chết đi …vv Đó là tất cả những điều khách quan mà hành tinh nay ban tặng cho thế giới này. Theo vòng quay của đất trời, khi mùa đông qua đi là mùa xuân lại tới muôn loài lại thêm một tuổi. Con người cũng vậy, cái vòng Sinh-Lão-Bệnh-Tử dù muốn hay không cũng phải trải qua. Cũng vì vậy mà con người luôn luôn tồn tại và phát triển, có người sinh ra và cũng có người chết đi, không ai có thể xoá bỏ quy luật Sinh-Tử muôn đời của tự nhiên. Có thể nói: Bảo hiểm xã hội (BHXH) là người bạn ''tương trợ'' theo suốt cuộc đời (sinh, lão, bệnh, tử) của người lao động, từ lúc còn trong bụng mẹ được hưởng chế độ trợ cấp thai sản, đến khi trưởng thành là người lao động được hưởng trợ cấp khi ốm đau, tai nạn, thất nghiệp, lúc tuổi già được hưởng trợ cấp hưu trí và đến khi qua đời được BHXH lo toan chu đáo tiền mai táng phí, tiền tử tuất. BHXH- chính sách lớn của Đảng và Nhà nước với bản chất nhân v...

doc80 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1110 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Thực trạng và một số giải pháp thực hiện công tác chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Ban Mai báo hiệu những tia sáng ,cũng như hoàng hôn sẽ đưa đên bóng đêm,con người sinh ra rồi chết đi …vv Đó là tất cả những điều khách quan mà hành tinh nay ban tặng cho thế giới này. Theo vòng quay của đất trời, khi mùa đông qua đi là mùa xuân lại tới muôn loài lại thêm một tuổi. Con người cũng vậy, cái vòng Sinh-Lão-Bệnh-Tử dù muốn hay không cũng phải trải qua. Cũng vì vậy mà con người luôn luôn tồn tại và phát triển, có người sinh ra và cũng có người chết đi, không ai có thể xoá bỏ quy luật Sinh-Tử muôn đời của tự nhiên. Có thể nói: Bảo hiểm xã hội (BHXH) là người bạn ''tương trợ'' theo suốt cuộc đời (sinh, lão, bệnh, tử) của người lao động, từ lúc còn trong bụng mẹ được hưởng chế độ trợ cấp thai sản, đến khi trưởng thành là người lao động được hưởng trợ cấp khi ốm đau, tai nạn, thất nghiệp, lúc tuổi già được hưởng trợ cấp hưu trí và đến khi qua đời được BHXH lo toan chu đáo tiền mai táng phí, tiền tử tuất. BHXH- chính sách lớn của Đảng và Nhà nước với bản chất nhân văn sâu sắc vì cuộc sống an lành, ấm no, tự do và hạnh phúc của con người. Từ đó góp phần thực hiện mục đích phục vụ cuộc sống con người, vì dân sinh hạnh phúc, vì dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. ở Việt Nam, chính sách BHXH đã được thực hiện từ đầu những năm 60 của thế kỷ 20. Cùng với hệ thống chính sách xã hội và phúc lợi xã hội khác, chính sách BHXH đã góp phần rất to lớn vào việc ổn định đời sống người lao động và gia đình họ. Bước sang thời kỳ chuyển đổi nền kinh tế theo cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, một loạt các văn bản của BHXH được ban hành đặc biệt là Nghị định 12/CP (26/1/1995), Nghị định 45/CP (15/7/1995), Nghị định 19/CP (16/2/1995). Nước ta từ khi triển khai điều lệ BHXH theo Bộ luật lao động, được sự chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, hệ thống BHXH đã nhanh chóng xây dựng, tổ chức, bộ máy, thực hiện đúng các chế độ, chính sách đối với người tham gia và người được hưởng BHXH, tổ chức thu đạt kết quả cao, chi trả kịp thời cho các đối tượng và bước đầu đã hình thành được quỹ BHXH tập trung độc lập với Ngân sách Nhà nước. Do vậy việc nghiên cứu để hoàn thiện các chính sách về BHXH có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Công tác chi trả các chế độ có thể coi là một khâu trọng yếu trong việc thực hiện các chính sách BHXH. Công tác chi trả các chế độ BHXH nếu được thực hiện tốt sẽ gián tiếp tạo đà cho công tác thu BHXH, điều đó cũng có nghĩa là làm cho hoạt động BHXH phát triển, từ đó góp phần làm cho mục đích của chính sách BHXH phát huy tác dụng hơn nữa điều này trợ giúp một phần cho các nhà quản lý nhà nước ,quản lý kinh tế xã hội một cách hiệu quả hơn trong mục tiêu phát triển công nghiệp hoá ,hiện đại hoá đất nước . Vậy để thực hiện công tác chi trả được tốt hơn Em xin phép được nêu ra một số ý kiến của bản thân qua việc nghiên cứu đề tài: “thực trạng và một số giải pháp thực hiện công tác chi trả các chế độ BHXH ở Việt Nam hiện nay” Kết cấu của đề tài này bao gồm: Lời nói đầu Chương1: Lý luận chung về BHXH và công tác chi trả BHXH Chương2: Thực trạng công tác chi trả các chế độ BHXH ở Việt Nam hiện nay Chương3: Giải pháp hoàn thiện công tác chi trả các chế độ BHXH Kết luận. Chương 1 Lý luận chung về bảo hiểm xã hội và công tác chi trả BHXH 1.1Sự cần thiết khách quan của BHXH trong đời sống kinh tế xã hội. Con người muốn tồn tại và phát triển đòi hỏi phải được thoả mãn những nhu cầu ăn, mặc, ở... Những điều kiện trên không có sẵn trong tự nhiên mà để có được nó, người ta lao động tạo ra sản phẩm cần thiết. Và khi sản phẩm tạo ra càng nhiều thì đời sống con người ngày càng hoàn thiện và xã hội văn minh hơn. Nhưng trong thực tế, cuộc sống của con người không phải lúc nào cũng đủ sức khoẻ và cơ hội lao động để tạo ra thu nhập và có điều kiện sống bình thường vì rất nhiều trường hợp gặp phải hoàn cảnh khó khăn, bất lợi làm giảm hoặc mất nguồn thu nhập ảnh hưởng đến điều kiện sinh sống do bị bất ngờ ốm đau, tai nạn, mất khả năng lao động và khi về già không còn khả năng lao động. Trong khi đó con người luôn luôn cần phải có những nhu cầu sinh hoạt về mặt vật chất và tinh thần. Vì vậy, mỗi người lao động cần thiết phải có một nguồn lực tài chính dự trữ để kịp thời cung cấp đáp ứng nhu cầu về vật chất và tinh thần không những cho bản thân mình mà cho cả những người mình phải trực tiếp nuôi dưỡng và cho những người gặp phải những biến cố rủi ro (kể cả ngẫu nhiên và tất yếu) để bù đắp vào sự thiếu hụt thu nhập do khả năng lao động bị giảm sút, nhằm giảm bớt khó khăn trong cuộc sống, duy trì và ổn định cuộc sống cho chính họ và gia đình họ. Xã hội ngày càng phát triển, nhận thức của con người ngày càng được nâng cao thì cách giải quyết này càng được sửa đổi, bổ sung hợp lý và nó ngày càng phát triển theo không gian, nội dung cũng như phương thức thực hiện. Dần dần cách giải quyết chung nhất mà cho đến bây giờ vẫn được sử dụng, đó là BHXH như ta vẫn gọi ngày nay. Có rất nhiều khái niệm về BHXH nhưng về nội dung thì cơ bản là giống nhau. Ta có thể tiếp cận BHXH theo khái niệm sau: ''BHXH là sự đảm bảo đời sống vật chất cho người lao động và gia đình họ khi có nguy cơ mất an toàn về kinh tế do bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm thông qua sử dụng nguồn quỹ huy động từ người tham gia và sự tài trợ của Nhà nước'' BHXH không chỉ là nhu cầu của người lao động mà còn là chính sách lớn của mỗi quốc gia về thực hiện BHXH sẽ góp phần ổn định xã hội, tạo điều kiện cho kinh tế phát triển. Thực hiện BHXH sẽ hình thành nên quỹ tiền tệ tập trung có thể đầu tư một phần cho các hoạt động kinh tế để sinh lời, tăng thêm nguồn thu cho quỹ BHXH. Khoản đầu tư này góp phần phát triển sản xuất, bảo đảm an toàn cho quỹ BHXH khỏi bị mất giá để chi trả trợ cấp BHXH cho người lao động và gia đình họ. Như vậy có thể nói rằng, BHXH ra đời là một tất yếu khách quan nhằm đảm bảo cuộc sống cho người lao động và gia đình họ khi có khó khăn về kinh tế. Điều đó đã làm cho người lao động yên tâm trong quá trình sản xuất, nâng cao năng suất lao động góp phần vào việc phát triển và tăng trưởng nền kinh tế, đảm bảo công bằng xã hội. - Đối với người lao động: BHXH góp phần ổn định cuộc sống cho bản thân người lao động cũng như gia đình họ khi gặp khó khăn do bị mất hoặc giảm thu nhập, từ đó tạo ra tâm lý yên tâm ổn định trong cuộc sống cũng như trong lao động, góp phần nâng cao năng suất lao động cho xã hội. - Đối với người sử dụng lao động: BHXH góp phần ổn định sản xuất kinh doanh, giúp người sử dụng lao động đỡ phải bỏ ra một khoản tiền lớn, nhiều khi là rất lớn để thực hiện trách nhiệm của mình đối với người lao động khi họ gặp khó khăn trong cuộc sống, từ đó góp phần ổn định môi trường lao động, ổn định xã hội, nâng cao trách nhiệm của người lao động, nâng cao năng suất lao động. - Đối với Nhà nước: BHXH là công cụ quan trọng giúp Nhà nước thực hiện chức năng xã hội được tốt hơn nhằm đạt tới mục tiêu công bằng và tiến bộ xã hội: Thông qua các quy định về BHXH đối với người lao động và người sử dụng lao động, Nhà nước thực hiện việc điều tiết lợi ích, quyền lợi của các bên. Nói cách khác, Nhà nước sử dụng pháp luật để can thiệp vào mối quan hệ chủ- thợ, đảm bảo những quyền lợi xã hội cho người lao động tạo sự công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ của công dân, phân phối lại thu nhập, từ đó phát huy tốt nhân tố con người, kết hợp tốt giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội. BHXH không những trợ giúp đắc lực cho Nhà nước phân phối lại thu nhập, điều tiết lợi ích các bên, mà BHXH còn là kênh huy động vốn có hiệu quả cung cấp nguồn tiền tệ lớn cho việc đầu tư phát triển đối với nền kinh tế và cũng chính điều này là sự đảm bảo cho quỹ BHXH được bảo toàn và phát triển tránh sự trượt giá của đồng tiền theo thời gian. Chúng ta có thể chắc chắn một điều rằng: Sự tồn tại của BHXH là một tất yếu khách quan ở bất cứ quốc gia nào trên thế giới trong điều kiện kinh tế xã hội hiện nay. Điều này được pháp luật nhiều nước công nhận và đã trở thành một trong những quyền con người được ghi nhận trong tuyên ngôn nhân quyền ngày 10/12/1948: '' Tất cả mọi người với tư cách là thành viên của xã hội đều có quyền hưởng BHXH. Quyền đó được đặt trên cơ sở quyền về kinh tế, xã hội và văn hoá cần cho nhân cách và tự do phát triển của con người''. Đồng thời, ở cấp độ chung nhất, mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và BHXH đã được Đảng ta xác định:'' Tăng trưởng kinh tế tạo cơ sở và điều kiện thuận lợi cho phát triển xã hội; ngược lại, phát triển xã hội là động lực, là mục tiêu cuối cùng của phát triển kinh tế''; ''Mỗi chính sách kinh tế đều phải nhằm mục tiêu phát triển xã hội; Mỗi chính sách xã hội đều bao chứa nội dung và ý nghĩa kinh tế, dù trực tiếp hay gián tiếp, dù trước mắt hay lâu dài''. 1.2. Sự ra đời của BHXH. Trong quá trình phát triển công nghiệp, giai cấp công nhân ngày càng đông đảo, cơ chế giải quyết vấn đề giảm thu nhập cũ đã không còn phù hợp, sức ép về chính trị ngày càng lớn làm ảnh hưởng đến đời sống chính trị xã hội của các quốc gia, bởi lợi ích giữa các bên (người lao động và người sử dụng lao động) không thể điều hoà theo cơ chế cũ được nữa. Để ổn định lại trật tự môi trường xã hội và bảo vệ lợi ích các bên, Chính phủ các nước đặc biệt là các nước công nghiệp không thể không quan tâm đến tình cảnh của người lao động, do đó, Nhà nước đã phải can thiệp để tạo ra chế độ và hình thức thích hợp hơn nhằm tỏ ra chăm sóc tới người lao động. Và từ năm 1850 đến năm 1889, một hệ thống BHXH lớn đầu tiên đã ra đời với sự tham gia bắt buộc của những người làm công ăn lương, theo nguyên tắc những người được bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm xã hội và có sự hỗ trợ thêm của Nhà nước và trách nhiệm của người sử dụng lao động. Đồng thời cả 3 thành viên xã hội này là người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước đều có vị trí, trách nhiệm trong việc quản lý hệ thống BHXH. Năm 1950 dưới thời thủ tướng Bis-mác, nhiều bang của Đức đã giúp các địa phương thành lập quỹ bảo hiểm ốm đau. Chế độ ốm đau này được phổ cập trong toàn nước Đức vào năm 1883 do các hội tương tế lúc bấy giờ của công nhân quản lý. Năm 1884 xuất hiện tiếp chế độ bảo hiểm các rủi ro nghề nghiệp (tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp) do các hiệp hội chủ doanh nghiệp quản lý. Năm 1889 lại xuất hiện tiếp chế độ bảo hiểm tuổi già và bảo hiểm tàn tật do chính quyền các tỉnh quản lý. Tiếp theo Đức, năm 1981, Pháp thực hiện bảo hiểm xã hội phổ cập trong cả nước nhưng không thành công. Năm 1930, Pháp thông qua đạo luật thứ 2 về BHXH, áp dụng chủ yếu cho ngành công nghiệp và thương mại. Sau đó, bắt đầu những thập kỷ 30 thế kỷ XX, liên tiếp các nước Mỹ la tinh, Hoa kỳ, Canađa đều áp dụng. Từ sau thế chiến thứ 2, tầm quan trọng của BHXH tiếp tục được nhiều nước Châu Phi, Châu á và vùng Caribe công nhận và thi hành. Để bình ổn xã hội, giúp người lao động yên tâm sản xuất và đáp ứng những nguyện vọng sâu sắc nhất, chung nhất của nhân dân toàn thế giới. Ngày 28/6/1952 Hội nghị toàn thể của Tổ chức lao động Quốc tế (ILO) đã thông qua công ước số 102 về an toàn xã hội trong đó có BHXH là cơ chế chủ yếu, giúp các nước định hướng trong việc xây dựng hệ thống BHXH với 9 chế độ BHXH. BHXH, từ khi ra đời cho đến nay, nó luôn được hoàn thiện và chứng tỏ sự phù hợp với xã hội đương thời thông qua sự vận động hài hoà các mối quan hệ giữa 3 bên: người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước. Qua thực tế và lý luận cho thấy BHXH có những tác dụng rất to lớn giúp giải quyết tốt mâu thuẫn giữa người lao động và người sử dụng lao động ổn định trật tự và trợ giúp phát triển xã hội. 1.3. Những nội dung cơ bản về BHXH. 1.3.1. Bản chất, chức năng và nhiệm vụ của BHXH. 1.3.1.1. Bản chất của BHXH. * Bản chất kinh tế của BHXH. Thông qua BHXH, người lao động chỉ cần đóng hàng tháng một tỷ lệ nhỏ phần trăm so với tiền lương của mình cùng với sự hỗ trợ của Ngân sách Nhà nước để tạo ra một quỹ BHXH, quỹ này là sự tập hợp của số đông người lao động tham gia BHXH để bù đắp cho số ít người tham gia bị rủi ro. Khi rủi ro xảy ra, bằng hình thức lấy số đông bù số ít người bị rủi ro sẽ giúp khắc phục những khó khăn trong đời sống cá nhân từng lao động do bị mất hoặc giảm thu nhập,BHXH không phải là dịch vụ sản xuất mà nó là dịch vụ tài chính nhằm phân phối lại những khoản thu nhập bị mất của người lao động khi gặp sự cố trong cuộc sống. * Bản chất xã hội của BHXH: Bản chất xã hội của BHXH là sự san sẻ rủi ro giữa tập thể người lao động. Qua đó cũng thể hiện rõ trách nhiệm xã hội giữa chủ sử dụng lao động với người lao động, của người lao động với nhau và sự quan tâm của Nhà nước tới sự cống hiến cho lợi ích xã hội của người lao động. * Bản chất pháp lý của BHXH: Mối quan hệ giữa các bên tham gia BHXH được quy định, điều chỉnh thông qua bộ luật BHXH hoặc các văn bản BHXH dưới luật hoặc phần quy định về BHXH ở một bộ luật khác (VD: ở Bộ Luật lao động), do đó nó ràng buộc rất chặt chẽ trách nhiệm và quyền lợi của các bên có liên quan và ở đây trách nhiệm lớn nhất của người lao động và của người sử dụng lao động là đóng phí BHXH cho các cơ quan BHXH, quyền lợi lớn nhất của người lao động là được chi trả BHXH khi có sự cố theo quy định của pháp luật. Thực chất, BHXH là bản cam kết giữa cơ quan BHXH, người sử dụng lao động và người lao động về trách nhiệm và quyền lợi của mỗi bên thông qua các quy định của pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ về BHXH. 1.3.1.2. Các chức năng và nhiệm vụ cơ bản của BHXH * Chức năng của BHXH: - Thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động tham gia bảo hiểm khi họ bị giảm hoặc bị mất thu nhập do mất khả năng lao động hoặc mất việc làm, từ đó đảm bảo ổn định đời sống- kinh tế cho người lao động và gia đình họ theo những điều kiện nhất định. Suy cho cùng, sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp này chắc chắn sẽ xảy ra vì: mất khả năng lao động sẽ đến với tất cả mọi người lao động khi hết tuổi lao động theo các điều kiện quy định của BHXH; Còn mất việc làm và mất khả năng lao động tạm thời làm giảm hoặc mất thu nhập, người lao động cũng sẽ được hưởng trợ cấp BHXH với mức hưởng phụ thuộc vào các điều kiện cần thiết, thời hạn và thời điểm được hưởng phải đúng qui định. Đây là chức năng cơ bản nhất của BHXH, nó quyết định nhiệm vụ tính chất và cả cơ chế tổ chức, hoạt động của BHXH. - Thực hiện phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những người lao động tham gia BHXH. Chức năng này được thể hiện rõ nét và được thực hiện thông qua quá trình lập và sử dụng quỹ BHXH. Quỹ BHXH do người lao động và người sử dụng lao động đóng góp cùng với sự hỗ trợ của Nhà nước với mục đích trang trải khó khăn cho người lao động. Về nguyên tắc, người lao động có quyền được hưởng trợ cấp BHXH, nhưng phải lưu ý đến những điểm sau: + Phân phối trong BHXH là phân phối không đều, nghĩa là không phải ai tham gia BHXH cũng được phân phối với số tiền giống nhau mà mức hưởng và thời hạn hưởng còn phải phụ thuộc vào những điều kiện khác nhau. + Phân phối trong BHXH vừa mang tính bồi hoàn vừa không mang tính bồi hoàn. Những biến cố xảy ra mang tính tất nhiên đối với con người là thai sản (đối với lao động nữ), tuổi già và chết, trong trường hợp này, BHXH phân phối mang tính bồi hoàn vì người lao động đóng BHXH chắc chắn được hưởng khoản trợ cấp đó. Còn trợ cấp do những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm, những rủi ro xảy ra trái ngược với ý muốn của con người như ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp... thì mới được hưởng khoản trợ cấp đó. Số lượng này thường chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong tổng số những người tham gia đóng góp. Như vậy, quỹ BHXH được lập do sự đóng góp của số đông người lao động, người sử dụng lao động và có thể có sự hỗ trợ của Nhà nước nhưng chỉ dùng để phân phối lại cho một số ít người lao động không may bị rủi ro, thiệt hại trong thu nhập. Theo quy luật số đông bù số ít, BHXH thực hiện phân phối lại thu nhập theo cả chiều ngang và chiều dọc, giữa những người có thu nhập cao và thấp hơn, giữa những người khoẻ mạnh đang làm việc với những người ốm yếu phải nghỉ việc... điều đó có nghĩa là BHXH góp phần thực hiện công bằng xã hội. - Góp phần kích thích, khuyến khích người lao động hăng hái lao động sản xuất nâng cao năng suất lao động cá nhân và năng suất lao động xã hội , đồng thời tạo điều kiện cho quá trình sản xuất diễn ra liên tục, đều đặn. Người lao động khi khoẻ mạnh tham gia lao động sản xuất được chủ sử dụng lao động trả tiền công; Khi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, tuổi già... đã có BHXH đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập bị mất, do đó, đời sống của bản thân và gia đình họ luôn được đảm bảo ổn định và có chỗ dựa. Chính điều đó sẽ làm cho họ gắn bó với công việc, với nơi làm việc. Từ đó, họ rất tích cực lao động sản xuất, góp phần tăng năng suất lao động cũng như tăng hiệu quả kinh tế. Đồng thời, nhờ những khoản trợ cấp BHXH, người lao động nhanh chóng được phục hồi cả về mặt thể xác cũng như mặt tinh thần, từ đó có thể tham gia tiếp tục vào quá trình sản xuất tạo điều kiện tốt diễn ra bình thường, ổn định. Chức năng này biểu hiện như một đòn bẩy kinh tế kích thích người lao động nâng cao năng suất lao động cá nhân và kéo theo là năng suất lao động xã hội. - Gắn bó lợi ích giữa những người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước. Trong thực tế lao động sản xuất, người lao động và người sử dụng lao động vốn có những mâu thuẫn nội tại, khách quan về tiền lương, tiền công, thời gian lao động... Khi nền kinh tế hàng hoá ngày càng phát triển, việc thuê mướn nhân công trở lên phổ biến. Lúc đầu người chủ chỉ cam kết trả công lao động, nhưng về sau dã phải cam kết cả việc bảo đảm cho người làm thuê có một số thu nhập nhất định để họ trang trải những nhu cầu thiết yếu khi không may bị ốm đau, tai nạn, thai sản... Cũng có khi các trường hợp trên không xảy ra và người chủ không phải chi một đồng nào; Nhưng cũng có khi xảy ra dồn dập, buộc họ phải bỏ ra một lúc một khoản tiền lớn mà họ không muốn. Vì thế mâu thuẫn chủ- thợ phát sinh, giới thợ liên kết đấu tranh buộc giới chủ phải thực hiện cam kết. Cuộc đấu tranh này diễn ra ngày càng rộng lớn và có tác động nhiều mặt đến đời sống kinh tế xã hội. Do đó, Nhà nước đã phải đứng ra can thiệp giải quyết và điều hoà những mâu thuẫn đó thông qua BHXH, và như thế cả hai bên đều cảm thấy mình có lợi và được bảo vệ, từ đó làm cho họ hiểu nhau hơn và gắn bó lợi ích được với nhau. Bằng phương thức dàn trải rủi ro thiệt hại theo cả thời gian và không gian, BHXH đã giảm tối thiểu thiệt hại cho số đông người trong xã hội, đồng thời làm tăng khả năng giải quyết rủi ro, khó khăn của những người lao động tham gia bảo hiểm với một tổng dự trữ ít nhất, nhưng vẫn giải quyết tốt nhất những rủi ro, khó khăn về đời sống và gia đình họ nhờ cả sự hỗ trợ thêm của Nhà nước và trách nhiệm của người sử dụng lao động. Với người sử dụng lao động, trách nhiệm của họ đối với người lao động cũng vì thế mà được giải quyết một cách thuận lợi nhất, có lợi cho cả hai bên. Với Nhà nước, quỹ BHXH là nguồn vốn lớn cung cấp cho đầu tư phát triển kinh tế đất nước, đồng thời qua đó cũng làm tăng thêm nguồn thu cho quỹ. Từ đó, nó giúp việc chi trả cho người lao động được dễ dàng hơn. Như vậy, lợi ích của 3 bên tham gia BHXH nhờ thông qua BHXH ngày càng trở nên gắn bó với nhau chặt chẽ hơn kể cả về lợi ích trước mắt và lâu dài. * Nhiệm vụ của bảo hiểm xã hội: Với chức năng quan trọng như vậy, BHXH cần phải thực hiện những nhiệm vụ sau đây: - Nghiên cứu và ban hành các chính sách, chế độ bảo hiểm xã hội phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội từng thời kỳ. Chính sách BHXH là định hướng quan trọng nhất cho hoạt động BHXH. Do đó, nghiên cứu và ban hành các chính sách, chế độ BHXH phù hợp là nhiệm vụ quan trọng nhất trong các nhiệm vụ của BHXH. Sự phù hợp của chính sách là cơ sở tồn tại của chính nó, một chính sách BHXH đúng đắn được áp dụng là điều kiện tốt nhất cho việc nâng cao, phát huy hiệu quả của hoạt động BHXH. Để có được điều kiện đó, việc hoạch định chính sách BHXH cần dựa trên cơ sở, điều kiện cụ thể về đặc điểm dân số, kinh tế, lao động và xã hội... từ đó mới có thể tạo ra sự tồn tại, sức sống thực tế của chính sách BHXH. - Thu hút đông đảo người lao động trong mọi thành phần kinh tế tham gia bảo hiểm xã hội. BHXH cũng như mọi lĩnh vực bảo hiểm khác- hoạt động trên nguyên tắc: ''lấy số đông bù số ít''. Số người tham gia BHXH sẽ là yếu tố quyết định đến thu của BHXH. Thu của BHXH ngày càng lớn thì khả năng chi, tức khả năng đáp ứng chế độ càng cao, đem lại sự đảm bảo về vật chất tốt hơn cho số ít người lao động gặp rủi ro được hưởng BHXH. Đồng thời, sự tham gia đông đảo của người lao động là điều quan trọng để BHXH đạt được mục tiêu xã hội của mình, đảm bảo công bằng, ổn định cho sự phát triển xã hội và điều đó cũng phù hợp với xu hướng xã hội hoá BHXH của thế giới. - Tổ chức tốt mọi hoạt động của hệ thống bảo hiểm xã hội. Để thực hiện nhiệm vụ này, BHXH cần thực hiện các công việc như: chỉ đạo, kiểm tra và giám sát việc thu chi quản lý quỹ; quyết định các biện pháp để bảo tồn và tăng trưởng quỹ BHXH; thẩm tra và quyết toán thông qua dự toán hàng năm; kiến nghị với Chính phủ và cơ quan Nhà nước có liên quan bổ sung, sửa đổi tạo sự phù hợp về chính sách BHXH; đề xuất, bổ nhiệm, miễn nhiệm cán bộ quản lý của các đơn vị BHXH các cấp. Ngoài ra, còn phải hướng dẫn, chỉ đạo thực hiện các chính sách, chế độ BHXH thống nhất trong toàn quốc, toàn bộ hệ thống BHXH. 1.3.2. Quỹ Bảo hiểm xã hội. 1.3.2.1. Nguồn hình thành quỹ BHXH: BHXH được thực hiện sẽ hình thành nên quỹ BHXH- là một quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài Ngân sách Nhà nước. Đây là một trong những yếu tố quan trọng bậc nhất trong toàn bộ quy trình thực hiện chính sách BHXH. Theo quy định của điều lệ BHXH ban hành theo Nghị định 12/CP ngày 26/1/1995 thì quỹ BHXH được hình thành từ các nguồn sau: * Sự đóng góp của người lao động và chủ sử dụng lao động: - Người sử dụng lao động đóng 15% so với tổng quỹ tiền lương của những người tham gia BHXH trong đơn vị, trong đó, 10% để chi các chế độ hưu trí, tử tuất và 5% để chi các chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. - Người lao động đóng bằng 5% tiền lương tháng để chi trả các chế độ hưu trí, tử tuất. * Nhà nước đóng và hỗ trợ: Để đảm bảo thực hiện các chế độ BHXH đối với người lao động, hàng tháng, Bộ Tài chính trích từ ngân sách Nhà nước số tiền bổ sung vào quỹ BHXH đủ chi trả các khoản thuộc về BHXH như sau: - Chi trả các chế độ hưu trí, trợ cấp mất sức lao động, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, tử tuất cho tất cả các đối tượng được thụ hưởng chế độ BHXH trước ngày thi hành ''Điều lệ BHXH'' được ban hành kèm theo Nghị định 12/CP ngày 26/1/1995 của Chính phủ. - Hỗ trợ thêm cho quỹ BHXH để đảm bảo thực hiện các chế độ BHXH đối với người lao động thuộc khu vực Nhà nước ban hành sau ngày ban hành ''Điều lệ BHXH'' - Đóng toàn bộ Bảo hiểm y tế cho các đối tượng đang được thụ hưởng chế độ BHXH. * Các nguồn thu khác: Bao gồm các nguồn thu chủ yếu sau đây: - Tiền lãi, tiền sinh lời từ việc thực hiện các phương án bảo tồn và phát triển quỹ BHXH. - Các nguồn tài trợ, viện trợ khác của cộng đồng quốc tế và trong nước, kể cả các tổ chức phi Chính phủ hoặc các cá nhân hảo tâm... Tuy nhiên, nguồn này không ổn định và không nhiều nhất là hoạt động BHXH của nước ta còn chưa phát triển. - Giá trị các tài sản cố định của BHXH được đánh giá lại theo quy định của Chính phủ. - Các nguồn thu khác: phạt tiền do nộp BHXH chậm so với thời gian quy định, tiền truy thu khi các đơn vị sử dụng lao động và người lao động đóng thiếu tiền BHXH hoặc nhận thừa so với chế độ BHXH được hưởng thụ... 1.3.2.2 Sử dụng nguồn quỹ BHXH: Quỹ BHXH được sử dụng chủ yếu cho 2 mục đích sau đây: a- Chi thực hiện các chế độ BHXH cho người tham gia BHXH: Khoản chi thực hiện các chế độ BHXH cho người tham gia BHXH là khoản chi chủ yếu, chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng chi của hệ thống BHXH. ở Việt nam thực hiện chi cho 5 chế độ: - Chế độ trợ cấp ốm đau - Chế độ trợ cấp thai sản: - Chế độ trợ cấp TNLĐ- BNN : - Chế độ hưu trí : Chế độ tử tuất b- Chi phí cho sự nghiệp quản lý BHXH Kinh phí chi hoạt động bộ máy của hệ thống BHXH Việt nam là khoản kinh phí dùng để chi cho toàn bộ hoạt động quản lý của hệ thống BHXH VN. Chi phí hoạt động quản lý của hệ thống BHXH VN gồm rất nhiều nội dung chi nhưng xét theo tính chất và chu kỳ chi phí, có thể chia thành 2 nhóm nội dung chi, đó là chi hoạt động quản lý thường xuyên và chi đầu tư cơ sở vật chất. * Chi hoạt động thường xuyên: Đó là những chi phí nhằm duy trì hoạt động quản lý thường xuyên của bộ máy quản lý BHXH. Công tác quản lý chi hoạt động thường xuyên của hệ thống BHXH Việt nam tập trung vào một số nội dung cụ thể, đó là: - Quản lý lao động (cán bộ, công chức, viên chức) và quỹ tiền lương đối với từng đơn vị dự toán cấp 2 và cấp 3. - Quản lý chi hoạt động nghiệp vụ: Chi phí cho công tác thu BHXH, chi cho công tác chi BHXH, hội nghị, tiếp khách, chi văn phòng phẩm, điện, nước, điện thoại, sửa chữa nhỏ, mua sắm tài sản... - Quản lý kinh phí đào tạo, đào tạo lại cán bộ, công chức, viên chức: đối tượng đi đào tạo lại, nội dung đào tạo, kinh phí chi cho từng đối tượng, từng lớp đào tạo... - Quản lý chi thông tin, tuyên truyền về chính sách, chế độ BHXH. - Quản lý chi đoàn ra, đoàn vào, hợp tác quốc tế. * Chi đầu tư cơ sở vật chất: Đó là những chi phí nhằm đảm bảo các điều kiện, phương tiện làm việc cho cán bộ, công chức, viên chức của hệ thống, gồm có: chi đầu tư xây dựng trụ sở làm việc, trang bị phương tiện làm việc như hệ thống máy vi tính (gồm cả chương trình phần mềm quản lý), ô tô, bàn ghế, tủ hồ sơ... Nội dung quản lý chi đầu tư xây dựng cơ sở vật chất của hệ thống BHXH VN tập trung vào một số nội dung cụ thể, đó là: - Về trụ sở làm việc: quy mô đầu tư (diện tích làm việc, cấp công trình), tổng mức đầu tư đối với từng dự án đầu tư xây dựng của từng cấp (TW, tỉnh, huyện), phù hợp với kiến trúc và tập quán sinh hoạt của từng địa phương. Chú trọng quản lý chất lượng và giá trị quyết toán công trình, đảm bảo đúng quy trình, quy phạm của Nhà nước quy định. - Về phương tiện làm việc: phải đảm bảo theo tiêu chuẩn kinh tế- kỹ thuật và định mức trang bị, sử dụng do Nhà nước quy định. 1.3.3. Vấn đề chi trả BHXH. 1.3.3.1. Các mô hình chi trả BHXH Chi trả trợ cấp BHXH là một trong những nhiệm vụ chủ yếu của các tỉnh, thành phố và của toàn ngành. Việc chi trả đầy đủ, đúng đối tượng hưởng BHXH không chỉ có ý nghĩa về mặt xã hội mà còn có ý nghĩa kinh tế và chính trị rất to lớn, nó không những đảm bảo cuộc sống hàng ngày của đối tượng mà còn góp phần tích cực vào việc đảm bảo trật tự an toàn xã hội. Công tác chi trả các chế độ BHXH liên quan đến đối tượng được coi là thước đo để đánh giá sự quan tâm chăm lo của ngành, của Nhà nước đối với đối tượng, là hệ quả của quá trình thực hiện các nhiệm vụ chính trị được giao. Để thực hiện nhiệm vụ chi trả và trợ cấp BHXH cho đối tượng hưởng các chế độ BHXH ở nước ta đã áp dụng 2 mô hình chủ yếu là: Mô hình chi trả gián tiếp và mô hình chi trả trực tiếp. a. Mô hình chi trả gián tiếp Mô hình chi trả gián tiếp là mô hình chi trả cho các đối tượng hưởng các chế độ BHXH được thực hiện bởi sự uỷ quyền của cơ quan BHXH các cấp cho các đơn vị sử dụng lao động hoặc các đại điện pháp nhân thuộc Uỷ ban nhân dân các phường, xã chi trả hộ (các đại lý chi trả). b. Mô hình chi trả trực tiếp Mô hình chi trả trực tiếp là là hình thức chi trả cho các đối tượng hưởng các chế độ BHXH được thực hiện trực tiếp do cán bộ, công chức, viên chức của hệ thống Bảo hiểm xã hội chi trả hay nói một cách khác: Mô hình chi trả trực tiếp là hình thức chi trả cho người được hưởng các chế độ BHXH không thông qua khâu trung gian. 1.3.3.2. Tổ chức thực hiện Về công tác tổ chức thực hiện các mô hình chi trả BHXH được thực hiện như sau: Mô hình chi trả gián tiếp thực hiện thông qua ký hợp đồng uỷ thác giữa cơ quan BHXH huyện với đại lý chi trả ở xã, thị trấn và chi trả cho các đối tượng ốm đau, thai sản thông qua đơn vị sử dụng lao động. Về cơ bản, hình thức chi trả này được thực hiện như sau: Cơ quan Bhxh cấp quận, huyện, thị xã ký hợp đồng trách nhiệm với một số cá nhân thuộc xã, phường, thị trấn để hình thành đại lý chi trả (những cá nhân này thường là những người đang hưởng chế độ BHXH, có trách nhiệm, có uy tín, ở địa phương và được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn giới thiệu). Hàng tháng đại lý chi trả nhận danh sách đối tượng và tiền từ cơ quan BHXH cấp quận, huyện, thị xã, hoặc nhận tay ba tại Kho bạc Nhà nước, để tiến hành chi trả, sau mỗi kỳ chi trả, đại lý chi trả có trách nhiệm thanh, quyết toán với cơ quan BHXH. Còn đối với các đơn vị sử dụng lao động, cơ quan BHXH chuyển khoản qua tài khoản của đơn vị hoặc đơn vị nhận tiền mặt trực tiếp tại cơ quan BHXH để chi trả cho người lao động. Mô hình chi trả trực tiếp xuất hiện từ khi có tổ chức BHXH Việt Nam. Về cơ bản mô hình này được thực hiện như sau: Mỗi cán bộ làm công tác chi trả của cơ quan BHXH chịu trách nhiệm chi trả cho đối tượng hưởng BHXH ở một số xã, phường và đơn vị sử dụng lao động có trong quận, huyện, thị xã); cán bộ làm công tác chi trả có trách nhiệm chuẩn bị mọi công việc có liên quan đến việc chi trả từ khâu nhận danh sách đối tượng do BHXH tỉnh chuyển xuống, lên kế hoạch và thông báo thời gian chi trả cho từng xã, phường được phân công phụ trách, chuẩn bị tiền chi trả đến khâu thanh, quyết toán sau khi chi trả. Mô hình này chủ yếu áp dụng cho các đối tượng hưởng các chế độ dài hạn. Tuy nhiên trong quá trình chi trả, cán bộ của cơ quan BHXH không làm việc độc lập mà vẫn phải có sự giúp đỡ của đại biểu các tổ chức hưu trí ở xã, phường, thị trấn. Việc áp dụng mô hình nào là tốt hơn hay kết hợp cả hai mô hình là tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng địa phương. Phải áp dụng phương thức quản lý và chi trả cho phù hợp với từng loại đối tượng và từng loại trợ cấp, sao cho đảm bảo được nguyên tắc chi trả: Đúng đối tượng Đúng chế độ Đầy đủ Kịp thời Chính xác An toàn Chương 2 Thực trạng công tác chi trả các chế độ BHXH ở Việt Nam hiện nay 2.1. Vài nét về chính sách BHXH ở Việt Nam 2.1.1. Trước năm 1995 BHXH theo nghĩa hiện đại xuất hiện từ những năm 1930, đó là các chế độ trợ cấp do chính quyền của thực dân Pháp thực hiện đối với công chức và quân nhân Việt nam hưởng lương phục vụ trong bộ máy hành chính và lực lượng vũ trang của Pháp ở Đông Dương bị ốm đau, tuổi già hoặc chết. Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, Đảng và Chính phủ đã sớm thông qua Sắc lệnh 54/SL ngày 1/11/1945 ấn định những điều kiện cho công chức để họ yên tâm với việc chăm sóc, cải thiện đời sống cho người lao động. Vì vậy, Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản pháp luật về BHXH như: - Sắc lệnh 105/SL ngày 14/6/1946 ấn định việc cấp hưu bổng cho công chức. - Sắc lệnh 76/SL ngày 20/5/1950 ấn định cụ thể về chế độ trợ cấp hưu trí, thai sản, chăm sóc y tế, thất nghiệp và tiền tuất đối với công chức. - Trong khu vực sản xuất lúc này chưa lập quỹ BHXH nhưng Sắc lệnh 29/SL ngày 12/3/1947 và Sắc lệnh 77/SL ngày 22/5/1950 đã ấn định cụ thể các chế độ trợ cấp ốm đau, thai sản, TNLĐ- BNN, mất sức lao động, hưu trí và tử tuất đối với công nhân. Tuy nhiên, tất cả các chế độ có tính chất BHXH đã ban hành và thực hiện trong thời gian này chưa được xây dựng trên nguyên tắc thống nhất. Sau hoà bình lập lại ở Miền Bắc, ngày 27/12/1961 Hội đồng Chính phủ đã ban hành “Điều lệ tạm thời thực hiện các chế độ BHXH đối với công nhân viên chức” kèm theo Nghị định 218/CP và được thi hành từ ngày 1/1/1962 bao gồm 6 loại trợ cấp : ốm đau, thai sản, TNLĐ- BNN, mất sức lao động, hưu trí và tử tuất. Trên cơ sở thực tế có thể coi đây là Văn bản pháp luật gốc quy định các chế độ BHXH ở Việt nam. Nghị định 218/CP có một số đặc điểm cơ bản sau: * Đối tượng tham gia BHXH - Công nhân viên chức Nhà nước. - Lực lượng vũ trang (quân đội, công an). - Người làm việc trong các tổ chức đoàn thể, tổ chức Xã hội thuộc hệ thống chính trị của Đảng và Nhà nước . - Người làm việc trong các xí nghiệp quốc doanh . Những người làm việc trong các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh chưa được áp dụng các chế độ BHXH. * Cơ chế hình thành quỹ BHXH: Quỹ BHXH được hình thành từ những nguồn chính sau đây: - Tiền do các cơ quan chính quyền và đoàn thể, các xí nghiệp, công trường, nông trường và lâm trường... của Nhà nước nộp hàng tháng vào quỹ BHXH là 4,7% quỹ tiền lương của CNVC Nhà nước. - Tiền trợ cấp hàng tháng của Nhà nước cho quỹ BHXH - Các khoản thu khác (tặng phẩm, tiền ủng hộ...) * Các chế độ BHXH Trong thời kỳ này, BHXH thực hiện 6 chế độ: 1/- Chế độ ốm đau 2/- Chế độ thai sản 3/- Chế độ tai nạn lao động(TNLĐ), bệnh nghề nghiệp (BNN) 4/- Chế độ mất sức lao động 5/- Chế độ hưu trí 6/- Chế độ tử tuất * Mục đích chi trả: Chi trả cho 6 chế độ và chi phí về công tác quản lý quỹ BHXH và quản lý sự nghiệp BHXH. Quỹ BHXH Nhà nước được Đảng và Chính phủ giao cho Tổng Công đoàn Việt nam quản lý cùng với trách nhiệm quản lý toàn bộ sự nghiệp BHXH. Quỹ BHXH Nhà nước không kết dư. Nếu quản lý tốt mà hàng năm còn thừa tiền thì được dùng số tiền thừa đó chi vào việc xây dựng thêm các sự nghiệp BHXH. - Trợ cấp khi công nhân viên chức Nhà nước ốm đau: CNVC Nhà nước khi ốm đau được khám bệnh, thuốc men và bồi dưỡng do Nhà nước đài thọ. - Trợ cấp khi CNVC Nhà nước sinh đẻ, sẩy thai, mất sữa: Nữ công nhân viên chức Nhà nước được hưởng quyền lợi khi khám thai ở các cơ sở y tế Nhà nước, được nghỉ trước và sau khi đẻ tất cả là 60 ngày (kể cả chủ nhật và ngày lễ). Nếu sinh đôi thì được nghỉ thêm 10 ngày, sinh 3 thì được nghỉ thêm 20 ngày. Nhà nước cũng quan tâm đặc biệt đến CNVC Nhà nước làm việc ở những điều kiện nặng nhọc, độc hại. - Trợ cấp khi CNVC Nhà nước bị TNLĐ- BNN: Nếu bị tai nạn là động thì sẽ được thanh toán các loại chi phí điều trị (kể cả thời gian nghỉ điều trị khi vết thương tái phát), nếu bị thương tật thì được hưởng trợ cấp thương tật với mức trợ cấp thương tật phụ thuộc vào tỷ lệ thương tật. Tỷ lệ này do Bộ Lao động và Bộ Nội vụ quy định cụ thể. - Trợ cấp khi CNVC Nhà nước mất sức lao động: Khi CNVC Nhà nước bị thôi việc vì ốm, vì tai nạn lao động không thuộc diện hưởng chế độ trợ cấp về tai nạn lao động, hoặc vì già yếu nhưng không đủ điều kiện hưởng chế độ trợ cấp hưu trí, khi đã công tác từ 5 năm trở lên thì được hưởng trợ cấp MSLĐ. - Chế độ trợ cấp hưu trí: Khi CNVC Nhà nước đến tuổi nghỉ hưu (năm đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi, năm thời gian công tác nói chung là 25 năm trong đó thời gian công tác liên tục 5 năm) thì được hưởng chế độ trợ cấp hưu trí, có mức trợ cấp ưu tiên cho những CNVC Nhà nước đã từng làm việc ở điều kiện nặng nhọc, độc hại. - Chế độ trợ cấp chôn cất và trợ cấp mất người chủ gia đình (trợ cấp tiền tuất): Khi CNVC Nhà nước chết thì thân nhân của họ được cấp một khoản tiền cấp tuất hàng tháng. Tuỳ vào điều kiện cụ thể mà thân nhân của họ sẽ được hưởng ở những mức khác nhau. * Bộ máy quản lý thực hiện chính sách BHXH. - Nhà nước giao Tổng Liên đoàn Lao động VN quản lý thực hiện các chế độ trợ cấp: + ốm đau + Thai sản + Tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp - Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội quản lý thực hiện các chế độ. + Hưu trí + Mất sức lao động. + Tử tuất - Bộ Tài chính cấp phát từ ngân sách cho Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội và Tổng Liên đoàn Lao động VN để chi BHXH. * Về tài chính để thực hiện BHXH. Do NSNN bao cấp nên các khoản chi BHXH luôn bị hạn chế và có lúc, có nơi chậm trả lương hưu 2-3 tháng và việc chi BHXH càng ngày càng tăng dẫn đến tình trạng khó khăn cho NSNN (bình quân mỗi năm khoảng 5000 tỷ). 2.1.2. Thời kỳ năm 1995 đến nay. Để phù hợp với tình hình đổi mới về kinh tế XH và khắc phục những tồn tại về BHXH, ngày 16/1/1995 Chính phủ ban hành Nghị định 12/CP và Điều lệ BHXH kèm theo đã làm cho BHXH Việt nam có sự thay đổi về chất. Mặt khác Nghị định 19/CP ngày 12/6/1995 đã ra đời với mục đích thành lập BHXH Việt nam để tạo ra một bước tiến tới hoàn thiện cơ cấu tổ chức và hệ thống hoạt động của BHXH VN. Điều lệ BHXH được Chính phủ ban hành kèm theo Nghị định số 12/CP ngày 26/1/1995 đã cụ thể hoá nội dung công tác BHXH được quy định trong Bộ luật Lao động, nội dung cơ bản của Nghị định này được quy định như sau: * Đối tượng tham gia: + Người lao động làm việc trong các cơ quan hành chính sự nghiệp thuộc khu vực Nhà nước. + Người lao động làm trong các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có sử dụng từ 10 lao động trở lên. + Người lao động làm trong các tổ chức Đảng, đoàn thể, các hội... hưởng kinh phí từ NSNN. + Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp, tổ chức thuộc lực lượng vũ trang. + Người làm việc trong các cơ quan Nhà nước, doanh nghiệp của các đoàn thể, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, khu chế xuất, khu công nghiệp... + Người giữ chức vụ dân cử, bầu cử làm việc trong các cơ quan hành chính sự nghiệp, người làm trong các cơ quan quản lý Nhà nước, Đảng, đoàn thể từ Trung ương đến cấp huyện. Các đối tượng trên đi học, thực tập, công tác, điều dưỡng trong và ngoài nước mà vẫn hưởng tiền lương hoặc tiền công thì cũng thuộc đối tượng thực hiện BHXH bắt buộc. Các đối tượng trên gọi chung là người lao động. Như vậy kể từ ngày 1/1/1995 trở đi không còn phân biệt giữa trong biên chế Nhà nước hay ngoài biên chế. Tất cả người lao động thuộc đối tượng qui định đều có quyền tham gia BHXH. Việc mở rộng các đối tượng tham gia BHXH đã động viên mọi người lao động yên tâm làm việc ở các thành phần kinh tế khác nhau, thúc đẩy thị trường lao động phát triển, đồng thời cũng tạo nên sự công bằng trong SXKD giữa các doanh nghiệp của các thành phần kinh tế. Do mở rộng đối tượng tham gia, nên số người đóng BHXH ngày càng tăng. * Các chế độ BHXH: Theo Nghị định 12/CP, BHXH nước ta hiện nay bao gồm 5 chế độ: Chế độ trợ cấp ốm đau, chế độ trợ cấp thai sản, chế độ tai nạn lao động (TNLĐ)- bệnh nghề nghiệp (BNN), chế độ hưu trí, chế độ tử tuất. + Chế độ trợ cấp ốm đau: Chế độ này giúp cho người lao động có được khoản trợ cấp thay thế thu nhập bị mất do không làm việc khi ốm đau. Để được hưởng chế độ này, phải có xác nhận của tổ chức y tế do Bộ y tế là họ phải được nghỉ việc vì ốm đau hay tai nạn rủi ro. Thời gian nghỉ tối đa phụ thuộc vào điều kiện làm việc và mức độ độc hại của môi trường làm việc. Ngoài ra, người lao động còn được hưởng trợ cấp ốm đau nếu họ phải nghỉ việc để chăm sóc con dưới 7 tuổi bị ốm đau (con thứ nhất, thứ hai kể cả con nuôi hợp pháp) theo yêu cầu của tổ chức y tế, nghỉ do thực hiện các biện pháp kế hoạch hoá dân số (có quy định riêng cho những trường hợp phải nghỉ để điều trị bệnh dài hạn). + Chế độ trợ cấp thai sản: Thực hiện đối với lao động nữ có thai, sinh con thứ nhất, thứ hai. Thời gian nghỉ và mức trợ cấp được quy định riêng cho điều kiện và môi trường làm việc khác nhau, trong thời gian có thai được nghỉ việc để khám thai 3 lần, mỗi lần một ngày. Nếu xa cơ sở y tế thì được nghỉ 2 ngày cho một lần khám thai. + Chế độ TNLĐ- BNN: Được thực hiện sau người bị tai nạn hoặc bệnh nghề nghiệp đã được người sử dụng lao động cho đi điều trị khỏi vết thương hoặc ổn định bệnh tật được Hội đồng y khoa xác định tỷ lệ % suy giảm khả năng lao động. Như vậy thời gian người lao động điều trị vết thương hoặc bệnh nghề nghiệp mọi chi phí điều trị và tiền lương người sử dụng lao động phải trả 100%. BHXH chỉ thực hiện trợ cấp theo mức quy định khi có kết luận của Hội đồng giám định y khoa về tỷ lệ % bị suy giảm khả năng lao động. Tóm lại, 3 chế độ trợ cấp ốm đau, thai sản, TNLĐ-BNN hưởng trong thời gian đang tham gia đóng BHXH (ngừng đóng là ngừng hưởng), riêng chế độ TNLĐ- BNN được hưởng sau khi có giám định của Hội đồng y khoa về tỷ lệ mất sức lao động do tai nạn lao động gây ra. + Chế độ hưu trí: Điều kiện hưởng hưu gồm có: · Thời gian đóng BHXH tối thiểu 15 năm; tuổi đời nam đủ 60, nữ đủ 55 tuổi; · Thời gian đóng BHXH từ 20 năm trở lên, tuổi đời về hưu có thể giảm mức hưởng 1% mỗi năm về trước (nếu có 15 năm làm nghề nặng nhọc, độc hại giảm 5% không phải trừ mức hưởng); hoặc có 30 năm đóng BHXH. Nam đủ 55 tuổi, nữ đủ 50 tuổi tự nguyện về hưu không phải trừ 1% mức hưởng BHXH(theo Nghị định 93/CP ngày 12/11/1998 của Thủ tướng Chính phủ). Nếu người lao động đủ năm đóng BHXH nhưng chưa đủ tuổi đời được chờ đến khi đủ tuổi hưởng hưu; đủ tuổi đời về hưu nhưng chưa đủ năm đóng BHXH hưởng trợ cấp một lần mỗi năm đóng BHXH hưởng 1 tháng lương bình quân 5 năm cuối. + Chế độ tử tuất: Thanh toán tiền mai táng phí và trợ cấp cho người còn sống nhằm giúp cho thân nhân người chết có được khoản trợ cấp bù đắp một phần thiếu hụt thu nhập của gia đình do người lao động đó bị chết. Theo quy định những thân nhân do người lao động trực tiếp nuôi dưỡng sau được hưởng tiền tuất hàng tháng: con chưa đủ 15 tuổi (nếu còn đi học thì được hưởng tiền tuất hàng tháng đến năm 18 tuổi); bố mẹ (cả bên vợ và chồng); vợ hoặc chồng; người nuôi dưỡng hợp pháp đã hết tuổi lao động (nam đủ 60 trở lên, nữ đủ 55 tuổi trở lên). Tuy nhiên, số thân nhân được hưởng tiền tuất hàng tháng không quá 4 người). * Quỹ BHXH: được hình thành từ 3 nguồn chủ yếu là: sự đóng góp của người lao động (đóng bằng 5% tiền lương tháng của mình); sự đóng góp của chủ sử dụng lao động (bằng 15% tổng quỹ lương của những người tham gia BHXH trong đơn vị); NSNN hỗ trợ thêm để bảo đảm thực hiện các chế độ BHXH đối với người lao động. Quỹ BHXH được quản lý tập trung thống nhất, trong toàn hệ thống BHXH Việt nam theo quy chế quản lý tài chính của Nhà nước, hạch toán độc lậpvới NSNN và được Nhà nước bảo hộ. Quỹ được thực hiện các biện pháp để bảo toàn và tăng trưởng theo quy định của Chính phủ. Việc hình thành quỹ BHXH thống nhất, tập trung và giao cho BHXH VN quản lý đánh dấu một bước ngoặt trong cải cách BHXH ở nước ta. Mặt khác, quỹ còn độc lập với NSNN được thực hiện theo cơ chế tự quản của 3 bên tham gia đóng góp (Nhà nước, chủ sử dụng lao động và người lao động) là phù hợp với tình hình thực tế của nước ta. Mô hình này cũng là mô hình chung của hầu hết các nước trên thế giới đang thực hiện. Đương nhiên, quỹ hạch toán độc lập vẫn được sự bảo hộ của Nhà nước trong các trường hợp bị mất cân đối không có khả năng thanh toán, để bảo vệ lợi ích của người lao động tham gia BHXH. Từ khi quỹ BHXH được quản lý thống nhất, hạch toán đôc lập số thu của quỹ ngày một tăng, năm sau tăng hơn năm trước, đồng thời cũng giảm dần từ nguồn chi của NSNN, số thu của quỹ trong 5 năm 1995-1998 đều lớn hơn số chi, phần quỹ BHXH tạm thời nhàn rỗi đã bước đầu thực hiện đầu tư có hiệu quả. Ngày 16/2/1995, nghi định số 19/CP ra đời quy định về việc thành lập BHXH Việt nam để phù hợp hơn với tình hình thực tế nước ta. 2.2. Mô hình tổ chức BHXH ở Việt nam hiện nay. Trước năm 1995, việc tổ chức quản lý thực hiện BHXH bị phân tán, quan liêu. Do đó để thực hiện chính sách BHXH mới có hiệu quả, Chính phủ có Nghị định 19/CP (16/2/1995) về việc thành lập BHXH Việt nam trên cơ sở thống nhất các tổ chức BHXH thuộc hệ thống Tổng LĐLĐ Việt nam và Bộ Lao động TB & XH để giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo công tác quản lý quỹ BHXH và thực hiện các chế độ, chính sách BHXH theo pháp luật của Nhà nước. Từ ngày 1/10/1995 toàn hệ thống BHXH VN chính thức đi vào hoạt động và đã nhanh chóng ổn định tổ chức, xây dưng cơ sở vật chất..., để thực hiện những nhiệm vụ được giao. Đến nay, hệ thống tổ chức của BHXH đã đi vào nề nếp hoạt động. Hệ thống BHXH được tổ chức theo ngành dọc bao gồm 3 cấp: - ở Trung ương là BHXH. - ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi chung là tỉnh) là BHXH tỉnh trực thuộc BHXH VN. - ở các quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là huyện) là BHXH huyện trực thuộc BHXH tỉnh. Sơ đồ tổ chức BHXH Việt nam Chính phủ Hội đồng quản lý BHXH Đại diện của BHXH ở cơ sở Phòng LĐTBXH quận, huyện BHXH quận, huyện Sở LĐTB và XH tỉnh, thành phố BHXH tỉnh, thành phố Bộ LĐTB và XH BHXH Việt Nam Quan hệ ngang Quan hệ dọc Hội đồng quản lý BHXH Việt nam, là cơ quan quản lý cao nhất của BHXH Việt nam. Các thành viên hội đồng quản lý là các đại diện có thẩm quyền của Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội, Bộ Tài chính và Tổng Liên đoàn Lao động Việt nam, Uỷ viên hội đồng quản lý BHXH Việt nam là Tổng Giám đốc BHXH Việt nam. Các thành viên của Hôi đồng quản lý do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm và miễn nhiệm theo đề nghị của Bộ trưởng, Trưởng ban tổ chức- Cán bộ Chính phủ. BHXH Việt nam là cơ quan điều hành trực tiếp cao nhất của hệ thống BHXH VN do Tổng giám đốc điều hành và các Phó Tổng giám đốc giúp việc. Nhìn chung, mô hình tổ chức thống nhất quản lý các chế độ BHXH về một đầu mối là phù hợp với tình hình thực tế ở nước ta, tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động tham gia BHXH. Đây cũng là một trong những nội dung thành công bước đầu trong công cuộc cải cách BHXH ở nước ta, được nhiều nước trên thế giới đánh giá là tốt, có hiệu quả. 2.3. Thực trạng công tác chi trả các chế độ BHXH ở Việt Nam 2.3.1. Khái quát chung về quỹ BHXH và hệ thống các chế độ BHXH ở nước ta hiện nay. 2.3.1.1. Quỹ BHXH Cơ chế hình thành, quản lý và sử dụng quỹ BHXH nước ta từ khi thành lập đến nay đã trải qua 2 thời kỳ: Thời kỳ trong cơ chế bao cấp theo kiểu tập trung và thời kỳ đổi mới theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. * Trước năm 1995 Trước năm 1995, Nhà nước thực hiện chính sách BHXH cho công nhân viên chức Nhà nước theo Nghị định 218/CP, ban hành Điều lệ BHXH tạm thời ngày 27/12/1961 và Nghị định 218/HĐBT ngày 18/9/1985 của Hội đồng Bộ trưởng.Trện cơ sở hình thành nguồn, mức đóng góp và sử dụng quỹ BHXH thực hiện như sau: + Về nguồn quỹ và mức đóng góp: Theo Nghị định số 218/CP thì nguồn để thực hiện các chế độ BHXH chủ yếu từ NSNN và một phần nhỏ từ sự đóng góp của các xí nghiệp Nhà nước. Đối với phần từ NSNN, hàng năm Quốc hội thông qua Ngân sách để thông qua cấp cho việc thực hiện chính sách BHXH đối với cán bộ công nhân viên thuộc khu vực Nhà nước. Còn phần đóng góp của các cơ quan doanh nghiệp được quy định trích nộp cho quỹ BHXH theo tỷ lệ phần trăm (%) so với quỹ tiền lương của công nhân viên chức xí nghiệp và được tính toán và hạch toán vào giá thành sản phẩm; của cơ quan hành chính sự nghiệp thì lấy từ dự toán quỹ chi của đơn vị. Mức đóng góp vào quỹ quy định cho các cơ quan, xí nghiệp là 4,7% so với quỹ tiền lương. Trong đó: · 3,7% giao cho Tổng công đoàn (nay là Tổng liên đoàn Lao động Việt nam) quản lý để chi cho 3 chế độ ngắn hạn là: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp · 1% giao cho Bộ Nội vụ (nay là Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội) quản lý để chi cho 3 chế độ dài hạn: mất sức lao động, hưu trí và tử tuất. Nghị định 236/HĐBT nâng mức đóng góp vào quỹ BHXH 13%, trong đó: · Tổng Liên đoàn Lao động Việt nam quản lý 5% để chi cho 3 chế độ ngắn hạn. · Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội quản lý 8% để chi cho 3 chế độ dài hạn. Bảng1:Tình hình thu chi BHXH trong những năm 1986-1993 Năm Thu (tỷ đồng) Chi (tỷ đồng) Nhà nước cấp bù (%) 1986 1990 1991 1992 1993 0.12 0.9 117 167 220 003 277 642 1138 1197 56,0 67,5 81,8 89,9 91,6 Nguồn: Vụ Hành sự nghiệp- Bộ Tài chính Theo số liệu của bảng trên thì tổng thu không đủ chi trả trong suốt từ 1986 đến 1993; và đến năm 1993 thì Nhà nước bù gần 92%. Nguyên nhân của thu không đủ chi có rất nhiều: Thứ nhất, việc hình thành quỹ BHXH chưa thiết lập được mối quan giữa trách nhiệm đóng góp và quyền lợi hưởng các chế độ BHXH của người lao động. Mặt khác, chính sách BHXH bị chi phối bởi nhiều chính sách khác như tinh giảm biên chế, ưu đãi người có công... đã làm cho cho nguồn quỹ BHXH xã hội thực tế và làm tăng thêm tính phức tạp khi phải khắc phục các tồn tại thiếu sót. Thứ hai, việc tổ chức, quản lý quỹ BHXH bị phân tán và thiếu chặt chẽ. Quỹ BHXH được phân cho hai cơ quan là Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội và Tổng Liên đoàn Lao động Việt nam quản lý mang tính chất hành chính rất cao, do đó làm cho việc quản lý lỏng lẻo. Tình trạng nộp chậm, thiếu ở giai đoạn này khá phổ biến đã làm cho quỹ BHXH ở giai đoạn này thất thu nghiêm trọng. Thứ ba, việc quy định điều kiện hưởng trợ cấp BHXH cho người lao động chưa có căn cứ khoa học và thực tiễn dẫn đến nhiều vướng mắc và bất hợp lý trong thực hiện chính sách. * Giai đoạn từ 1995 đến nay Từ năm 1995 đến nay, thi hành những quy định trong Bộ luật lao động về BHXH, Chính phủ đã ban hành Điều lệ BHXH kèm theo Nghị định 12/CP. Theo Nghị định này, cơ chế hình thành, quản lý và chi trả trợ cấp BHXH đã được đổi mới một cách căn bản so với thời kỳ trong cơ chế bao cấp trước đây, tập trung ở những điểm sau: · Quỹ BHXH được hình thành trên cơ sở sự đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động là chính, Nhà nước hỗ trợ cho nguồn quỹ chỉ là thứ yếu khi cần thiết. Mức đóng góp hàng tháng được quy định bắt buộc thuộc trách nhiệm của cả người lao động và người sử dụng lao động là 20%. Trong đó: người lao động đóng 15% so với tổng quỹ lương của đơn vị. Do việc quy định mức đóng rõ ràng đã làm cho người lao động và người sử dụng lao động thấy được quyền lợi và nghĩa vụ của mình trong việc đóng góp vào quỹ BHXH. · Quỹ BHXH được tách khỏi NSNN Nhà nước, hạch toán độc lập. Nguồn thu BHXH được thực hiện các biện pháp để bảo tồn và tăng trưởng quỹ. Quỹ bảo đảm thu đủ chi và có phần quỹ dự phòng bảo đảm cho việc thực hiện chính sách BHXH ổn định. Như vậy, kể từ năm 1995, chính sách BHXH đã gắn quyền lợi hưởng BHXH với hướng không lấy NSNN để chi trả trợ cấp BHXH cho người lao động như trước đây, tiến tới thực sự xã hội hoá nguồn quỹ BHXH. · Mức chi trả các chế độ trợ cấp BHXH như: hưu trí, ốm đau, thai sản, TNLĐ- BNN quy định cụ thể, hợp lý, phù hợp với mức đóng góp của người lao động. Đặc biệt mức hưởng lương hưu được quy định là 45% so với mức lương theo ngạch bậc cho người có 15 năm làm việc và đóng BHXH, sau đó cứ thêm 1 năm làm việc được thêm 2% và tối đa là 75% cho người có 30 năm làm việc. Ngoài ra, người lao động nếu có số năm làm việc từ năm thứ 31 trở đi thì một thêm được hưởng trợ cấp 1 lần bằng 1/2 tháng lương, từng bước thu hẹp chênh lệch thu và chi. · Thành lập BHXH để thực hiện các chức năng hoạt động BHXH theo luật lao động quy định, xoá bỏ tính hành chính trong hoạt động BHXH thông qua cơ quan lao động và các tổ chức công đoàn. Do có tổ chức thống nhất quản lý, sử dụng quỹ, bảo tồn phát triển quỹ và thực hiện việc chi trả cho các đối tượng được hưởng chính sách đúng quy định, khắc phục được các tồn tại trước đây. Tuy nhiên, qua một vài năm thực hiện cơ chế hình thành, quản lý và chi trả, trợ cấp BHXH mới theo quy định của Bộ Luật lao động, chúng ta thấy còn một số điểm tồn tại cần nghiên cứu hoàn thiện như: + Nhà nước quy định lao động làm việc trong các doanh nghiệp từ 10 lao động trở lên đều được tham gia BHXH, có nghĩa vụ đóng BHXH. Tuy nhiên, thực tế hiện nay tham gia BHXH chủ yếu vẫn chỉ là người làm việc trong các doanh nghiệp thuộc khu vực Nhà nước. Còn lao động ở khu vực ngoài quốc doanh hầu hết chưa tham gia BHXH. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn thu BHXH và quyền lợi hưởng BHXH của người lao động. Như chúng ta đã biết, một trong những yếu tố để tồn tại, đủ chi trả là số đông đóng để cho số ít hưởng. Việc tham gia BHXH ít sẽ làm ảnh hưởng đến nguồn quỹ, mức độ an toàn quỹ đảm bảo việc chi trả giảm. + Việc tính toán, cân đối nguồn thu và chi quỹ BHXH chưa thực gắn giữa đóng và hưởng, nên làm cho độ tin cậy về an toàn quỹ không chắc chắn. Các biện pháp để duy trì và làm tăng trưởng quỹ BHXH còn hạn chế, chủ yếu là do Nhà nước vay hoặc một số Ngân hàng quốc doanh vay. Do đó nguồn quỹ BHXH về lâu dài khó có thể cân đối giữa thu và chi được. Mặt khác vẫn phải dùng các chế độ BHXH vào việc giải quyết đối với người lao động trong các doanh nghiệp Nhà nước, sắp xếp tổ chức bộ máy cơ quan hành chính sự nghiệp nên nguồn quỹ BHXH trong các năm sau này sẽ gặp khó khăn lớn nếu không có sự hỗ trợ tích cực của NSNN Nhà nước. 2.3.1.2. Hệ thống các chế độ BHXH · Chế độ ốm đau: - Đối tượng: là mọi người lao động đang tham gia BHXH. - Trường hợp được hưởng: Do ốm đau, tai nạn rủi ro hoặc có con dưới 7 tuổi bị ốm, mẹ (bố) nghỉ trông con. Loại trừ các trường hợp tự huỷ hoại sức khoẻ, say rượu, ma tuý... - Điều kiện: đã đóng phí BHXH đủ 3 tháng trở lên. Có dấu xác nhận của cơ sở y tế có thẩm quyền do Bộ Y tế xác nhận . - Mức và thời hạn hưởng: Từ 85% đến 100% tiền lương làm căn cứ đóng BHXH tuỳ từng trường hợp và tuỳ vào nhóm đối tượng. Nếu ốm quá thời hạn quy định 180 ngày đối với các bệnh cần điều trị dài ngày thì được hưởng bằng mức tiền lương tối thiểu thời hạn hưởng phụ thuộc vào điều kiện làm việc, thời gian đóng phí BHXH và tình trạng bệnh tật từ 30 đến 60 ngày (trừ các bệnh dài ngày) ngoài ra, người lao động còn hưởng chế độ nghỉ ngơi dưỡng sức. · Chế độ thai sản: - Đối tượng: Lao động nữ trong độ tuổi sinh đẻ . - Trường hợp được hưởng: khám thai sinh con, nuôi con nuôi sơ sinh; thực hiện kế hoạch hóa gia đình. - Điều kiện hưởng: đã đóng phí BHXH 3 tháng . - Mức hưởng và thời hạn hưởng: + Mức trợ cấp thai sản bằng 100% tiền lương làm căn cứ đóng BHXH. Ngoài ra, khi sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi sơ sinh được trợ cấp một lần bằng 2 tháng tiền lương tối thiểu. + Thời hạn hưởng: Nghỉ khám thai tối đa 3 lần, mỗi lần từ một đến hai ngày tuỳ theo tình trạng thai; xảy thai được nghỉ từ 30 ngày nếu thai dưới 3 tháng 40 ngày nếu thai từ 3 tháng trở lên. Khi thực hiện các biện pháp kế hoạch hoá gia đình được nghỉ từ 7 ngày đến 30 ngày tuỳ theo từng trường hợp. Thời gian nghỉ thai sản từ 4 đến 6 tháng tuỳ theo điều kiện lao động. · Chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. - Đối tượng: là người lao động tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, không bao gồm quân nhân, công an hưởng sinh hoạt phí, cán bộ xã, phường. - Trường hợp được hưởng: bị tai nạn lao động ở nơi làm việc (cả trong và ngoài giờ theo yêu cầu của người sử dụng lao động); tai nạn lao động ngoài nơi làm việc theo yêu cầu của người sử dụng lao động; bị tai nạn rủi ro trên đường đi và về từ nơi ở đến nơi làm việc; bị bệnh nghề nghiệp theo quy định của Bộ Y tế. - Điều kiện: phải có giám định khả năng lao động. - Mức hưởng và thời gian hưởng: trợ cấp một lần được áp dụng cho các trường hợp suy giảm khả năng lao động từ 5% đến 30% với mức từ 4 đến 12 tháng tiền lương tối thiểu tuỳ theo tỷ lệ suy giảm khả năng lao động. Trợ cấp hàng tháng được áp dụng cho các trường hợp suy giảm khả năng lao động trợ cấp hàng tháng cho các trường hợp suy giảm khả năng lao động từ 31% trở lên với mức hưởng từ 0,6 đến 2,0 tháng tiền lương tối thiểu, tuy theo tỷ lệ suy giảm lao động. Ngoài ra còn tuỳ trường hợp người bị TNLĐ- BNN còn được phụ cấp phục vụ, trang cấp thiết bị trợ giúp sinh hoạt. Nếu người lao động bị chết do TNLĐ- BNN, kể cả trường hợp chết trong thời gian điều trị lần đầu, thì thân nhân được hưởng trợ cấp tuất một lần bằng 24 tháng tiền lương tối thiểu và được hưởng chế độ tử tuất. · Chế độ hưu trí : - Đối tượng: người lao động tham gia BHXH. - Trường hợp được hưởng: đạt đến độ tuổi và thời gian đóng BHXH theo quy định. - Điều kiện: để hưởng trợ cấp hàng tháng có hai điều kiện cơ bản là độ tuổi và thời gian đóng phí BHXH. Về tuổi đời nam đủ 60 tuổi nữ đủ 55 trong điều kiện lao động bình thường; có giảm tuổi đối với các đối tượng làm việc trong điều kiện nặng nhọc, độc hại và một số nhóm đặc thù. Về thời gian đóng BHXH: có 20 năm đóng BHXH trở lên. - Mức hưởng: + Trợ cấp hàng tháng từ 45 đến 75% mức tiền lương bình quân (tuỳ theo số năm đóng BHXH) 5 năm cuối cùng trước khi nghỉ hưu của các đối tượng hưởng lương hệ thống thang lương Nhà nước; bình quân gia quyền của các thời gian đóng BHXH theo từng mức lương khác nhau đối với các đối tượng khác. + Những người không đủ các điều kiện chuẩn thì cứ thiếu một tuổi đời trừ đi 1% theo mức chuẩn. + Đối với những người trên 30 năm đóng BHXH ngoài trợ cấp hàng tháng được trợ cấp một lần bắng 0,5 tháng lương bình quân. + Những người không đủ điều kiện trợ cấp hưu hàng tháng được trợ cấp một lần, cứ mỗi năm đóng BHXH được tính bằng 1,5 tháng mức lương bình quân. · Chế độ tử tuất: - Đối tượng: người đang lao động có tham gia BHXH, người nghỉ hưu chết. - Trường hợp được hưởng: thân nhân của người chết; bao gồm con, con nuôi hợp pháp chưa đủ 15 tuổi (hoặc đang đi học thì đủ 18 tuổi); bố mẹ đẻ, bố mẹ vợ (chồng) đã hết tuổi lao động, vợ chồng đã hết tuổi lao động. - Điều kiện: đã đóng phí BHXH đủ 15 năm trở lên; người bị TNLĐ- BNN, người đang hưởng trợ cấp BHXH hàng tháng... thì thân nhân được trợ cấp hàng tháng; nếu có dưới 15 năm đóng BHXH (trừ TNLĐ- BNN) thì chỉ nhận trợ cấp 1 lần. - Mức trợ cấp: trợ cấp hàng tháng, trợ cấp một lần cứ mỗi năm đóng BHXH được tính bằng 1,5 tháng mức tiền lương bình quân (cách tính như chế độ hưu). 2.3.2. Tình hình thực hiện chi trả các chế độ BHXH 2.3.2.1. Đôi nét về công tác thu BHXH BHXH Việt nam được thành lập theo Nghị định 19/CP trên cơ sở thống nhất các tổ chức BHXH ở Trung ương và địa phương thuộc hệ thống LĐ-TB & XH và TLĐL Việt nam, kèm theo đó là sự thay đổi trong quản lý đối tượng tham gia BHXH thông qua việc cấp sổ BHXH đã tạo ra những yếu tố rất thuận lợi cho công tác thu BHXH. Đến cuối quý IV- năm 1995, BHXH Việt nam có 2.276.000 người tham gia BHXH với số tiền thu được là 776,2 tỷ đồng. Sau một thời gian, hoạt động thu BHXH đã đạt được những kết quả ban đầu khả quan. Quá trình thực hiện thu BHXH đăc biệt từ khi có Chỉ thị 15/CT ngày 2/5/1997 của Bộ chính trị về tăng cường lãnh đạo thực hiện các chế độ BHXH đã có sự phối-kết hợp với các ngành LĐ-TB& XH, LĐLĐ trong hoạt động thanh tra, kiểm tra, có nơi, có lúc đã có sự hỗ trợ của cơ quan giám sát pháp luật như: Cảnh sát kinh tế, Viện Kiểm sát Nhân dân để yêu cầu đơn vị chấp hành đóng BHXH theo điều 141-149 Bộ Luật Lao động, vì vậy mà có nhiều chuyển biến tích cực, kết quả năm sau cao hơn năm trước, số đối tượng tham gia BHXH ngày càng tăng. Qua bảng 2 ta thấy rằng: Số đối tượng tham gia BHXH cùng với số thu BHXH luôn tăng năm sau cao hơn năm trước. Tốc độ tăng của số người tham gia BHXH qua các năm luôn thấp hơn tốc độ tăng thu BHXH chứng tỏ rằng đời sống của người dân lao động đang ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên tốc độ tăng không đều. Trong các năm có thống kê ở trên thì năm 1996 có sự biến động lớn nhất cả về số thu BHXH (tăng 231,06% so với năm 1995) và số người tham gia BHXH (tăng 23,96% so với năm 1995). Đây là năm thứ 2 thực hiện Nghị định 12/CP (Nghị định đánh dấu một bước ngoặt lớn của BHXH Việt nam). Tiếp theo, là năm 1997, tốc độ tăng thu BHXH là 38,34%, tốc độ tăng số người tham gia là 12,07%. Nguyên nhân chủ yếu của biến động này là do sự triển khai Chỉ thị 15/CT của Bộ Chính trị ngày 26/5/1997 về tăng cường lãnh đạo thực hiện các chế độ BHXH, Nghị định 06/CP ngày 21/1/1997 và Nghị định 28/CP ngày 28/03/1997 của Chính phủ tăng mức lương tối thiểu từ 120000đ lên tới 144000đ. Đến năm 1998, tốc độ tăng số người tham gia BHXH giảm xuống từ 12,7% (năm 1997) xuống chỉ còn 2,09%. Do đó kéo theo sự giảm xuống của tốc độ tăng thu BHXH từ 38,34% (năm 1997) xuống 7,57%. Một nguyên nhân nữa của sự giảm của tốc độ tăng thu BHXH là sự tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực làm cho quy mô sản xuất của các doanh nghiệp trong các khối kinh tế trong nước và cả của nước ngoài không thể mở rộng được (chưa nói đến nguy cơ thu hẹp sản xuất, phá sản). Năm 2000, tốc độ tăng thu BHXH tuy rất cao nhưng tốc độ tăng số người tham gia BHXH lại giảm so với năm 1999. Nguyên nhân cơ bản của hiện tượng tăng thu trong năm 2000 về BHXH là sự tăng lên của tổng quỹ lương ở mỗi cơ quan và sự điều chỉnh của Nghị định 175/CP tăng mức lương tối thiểu từ 144.000đ tới 180.000đ.và từ 180.000 năm 2002 đến 290.000 năm 2003 làm cho tốc tăng thu nhảy vọt từ 7,65% lên 37,87%. Nhờ thực hiện tốt công tác thu BHXH, số đơn vị cố ý không đóng BHXH giảm dần, và công tác truy thu BHXH đối với các doanh nghiệp,tổ chức còn nợ đọng cũng được triển khai một cách có hiệu quả. 2.3.2.2. Công tác chi trả (chi thực hiện 5 chế độ) Việc thành lập Quỹ BHXH đã tạo ra cho hệ thống BHXH Việt nam nguồn kinh phí để đảm bảo lâu dài cho hệ thống trợ cấp BHXH. Nhà nước quy định NSNN cấp phát cho tất cả các cán bộ công chức, quân nhân đã nghỉ việc trước năm 1995 đang hưởng lương hưu và các loại trợ cấp hàng tháng. Quỹ BHXH chi cho những người nghỉ việc từ năm 1995 trở đi. Vì vậy, các chế độ trợ cấp ốm đau, thai sản, TNLĐ- BNN từ năm 1995 đến nay đều do Quỹ BHXH chi trả. Trong những năm qua, BHXH Việt nam luôn coi trọng việc đổi mới quy trình và thủ tục hồ sơ xét hưởng chế độ BHXH. Công việc này là một trong những khâu cải cách hành chính nhằm đem lại sự phục vụ thuận lợi nhất cho đơn vị sử dụng lao động. Trước đây, việc giải quyết các chế độ ốm đau, tai nạn lao động, hưu trí thường kéo dài từ 1-3 tháng vì cần nhiều loại giấy tờ để làm căn cứ trả trợ cấp. Đến nay, toàn ngành thực hiện trong thời hạn từ 5-25 ngày, được hầu hết các đơn vị sử dụng lao động và người lao động hoan nghênh. Từ năm 1995 đến nay đã thực hiện chi trả cho các chế độ BHXH, trợ cấp hưu trí và các loại trợ cấp hàng tháng một cách nghiêm túc, thuận tiện, đảm bảo đến tay người hưởng kịp thời, an toàn và không để ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày của hàng triệu người, đó cũng là mục tiêu phấn đấu của BHXH Việt nam trong công tác chi trả. Bảng 3 cho ta biết cụ thể việc thực hiện chi trả các chính sách BHXH của BHXH Việt nam từ năm 1998-2003 và dự toán cho năm 2004. Ta nhận thấy rằng quỹ BHXH Việt nam chủ yếu chi cho trợ cấp hưu trí, còn chi cho các chế độ khác chiếm tỷ lệ ít hơn trong cơ cấu chi( cả về số đối tượng hưởng và số tiền chi trợ cấp). Bảng 4, trong tổng chi BHXH của BHXH Việt nam ngoài phần chi trợ cấp các chế độ BHXH trong bảng 4 còn có các khoản chi khác( như chi BHYT, lệ phí chi, chi công nhân cao su). Nhìn chung qua gần 9 năm 1995-2003 tốc độ tăng chi BHXH cho việc thực hiện các chế độ luôn dương. Nguyên nhân là do sự tăng lên luỹ kế trong mỗi năm của các đối tượng hưởng các chế độ trợ cấp hàng tháng. Đồng thời Bảng 4 cho thấy năm 1997 và năm 2000 có tốc độ tăng rất cao (18,25% năm 1997 và gần 28,1% năm 2000),năm 2002 và năm 2003 tốc độ tăng chi co sự biến động đột biến [6,49% năm 2002, 44,89% năm 2003 ] lý do cơ bản vẫn là do quyết định tăng mức lương tối thiểu của Chính phủ ở các năm này. Trong cơ cấu chi BHXH do NSNN đảm bảo có tốc độ tăng không cao, thậm chí có năm 1999 có tốc độ tăng là -2,12%,năm 2000 tốc độ tăng chi trong cơ cấu chi do ngân sách nhà nước đảm nhận la: 24% lý do la mức lương tối thiẻu tăng từ 144.000 lên 180.000, năm2003 tốc độ tăng chi 40,22% tốc tăng cao là vì sự tăng lên của mức lương tối thiểucủa chinch phủ từ 210.000 lên 290.000, chi BHXH do quỹ BHXH đảm bảo thì có tốc độ tăng rất cao, Điều này cho thấy rõ một triển vọng là BHXH Việt nam đã dần thoát khỏi sự bao cấp nặng nề của NSNN, bước đầu quỹ BHXH đã đảm bảo ổn định các loại trợ cấp và góp phần vào việc phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, tiến tới sự độc lập tương đối giữa quỹ BHXH với NSNN. Để hiểu rõ tình hình chi trả của giai đoạn này cần đi nghiên cứu tình thu chi của các chế độ thông qua một số bảng số liệu dưới đây: a) Chế độ trợ cấp ốm đau: Qua bảng 5, ta thấy: số lao động tham gia BHXH được hưởng chế độ trợ cấp ốm đau ngày càng tăng cả về số tuyệt đối lẫn số tương đối. Năm 1997 là 850.806 người được hưởng chế độ trợ cấp ốm đau; đến năm 2003 đã là 1009378 người. Tỷ lệ lao động bị ốm đau 1997 là 26.93%; năm 1998 là 22,17% năm 1999 là 26.6% đến năm 2000giãm xuống 20,32% đến năm 2004 tỷ lệ lao động ốm đau có xu hướng giảm và ổn định Số tiền chi trả bình quân/ người có xu hướng tăng nhưng tăng không đều đặn: năm 97 là 65108. đồng/ người; năm 98 là 101200 đồng/ người; năm 99 là 101199 đồng/ người; đến năm 2000 là 126500 đồng/ người.năm 2004 là :152733đồng/người . Điều đó chứng tỏ: mức độ nghiêm trọng của người lao động bị ốm đau có xu hướng tăng lên. Điều này mâu thuẫn với thực tế, khi mà đời sống của người dân ngày càng được nâng cao và công tác y tế, chăm sóc sức khoẻ có điều kiện hơn. Nguyên nhân của thực trạng trên là do: - Mức lương tối thiểu đối với cán bộ công nhân viên chức đã được thay đổi. Năm 1997 tiền lương tối thiểu tăng từ 120000đ tăng lên 180000đ. Và gần đây, đầu năm 2001, mức lương tối thiểu đã tăng lên 210000đ. - Thủ tục hồ sơ để thanh toán cho từng cá thể vẫn có đơn vị thanh toán tiền ốm đau không đúng thực tế. - Các chứng từ thanh toán chế độ ốm đau, các đơn vị BHXH chưa kiểm soát được các đơn vị y tế các cơ sở chưa làm đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn như trong Thông tư số 12/LB- Tổng Liên đoàn Lao động Việt nam ngày 3/6/1971 của Bộ Y tế và Tổng Liên đoàn Lao động Việt nam. - Các đơn vị y tế cơ sở thành lập theo Thông tư 41/ BHYT-Tổng Liên đoàn Lao động Việt nam ngày 6/11/1971 của Bộ y tế đến nay không đủ điều kiện thực hiện nhiệm vụ theo quy định của Nhà nước như khi mới thành lập, nhưng vẫn có hiệu lực cấp giấy cho người lao động nghỉ ốm dẫn đến nhiều trường hợp cấp giấy nghỉ ốm sai quy định. - Do có nhiều doanh nghiệp hiện nay vì ít việc làm, thu nhập thấp, nên nhiều trường hợp lợi dụng xin nghỉ ốm để trợ cấp của các chế độ BHXH. Chế độ thai sản: Nhìn vào bảng 6, ta thấy rằng: Số lao động nữ hưởng trợ cấp thai sản ngày càng tăng: Năm 1997 là 95202 người; đến năm 2004 là: 132589 người. Tỷ lệ lao động hưởng chế độ thai sản/ Tổng số lao ổn định qua các năm : Năm 1997 là 3.013 lần; Năm 2003, 2004 là 2,3 lần. Số tiền chi trả bình quân/ người năm 1997 là 1253535.041 đồng/ người,năm 2000 là 1974672 đồng /người năm2004 là 3812257 đồng/người , số tièn chi trả bình quân có xu hướng tăng lên điêu nay do cuọc sông ngày càng được cải thiện . c) Chế độ TNLĐ- BNN: Từ khi BHXH được thành lập, trên cơ sở quản lý cũ và có sự sửa đổi, bổ sung cơ chế quản lý mới và bộ Luật lao động quy định, do vậy việc chi trả trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp đã sửa đổi theo cơ chế phân cấp quản lý chi do BHXH Việt Nam quy định. Cụ thể như sau: Thanh toán trợ cấp chế độ 1 lần đối tượng được hưởng chế độ còn đang làm việc bị tai nạn lao động và nghề nghiệp bị chết thì do BHXH tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chi trả. Qua phân tích số liệu bảng trên cho thấy đối tượng hưởng tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp do quỹ BHXH và Ngân sách nhà nước tài trợ tăng lên hàng năm. Tuy nhiên xu hướng chung của đối tượng hưởng các chế độ được thanh toán từ Quỹ BHXH tăng nhanh hơn đối tượng hưởng từ NSNN chi trả. Thực tế chế độ chi trả chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp của quỹ BHXH tăng lên quá nhanh. Năm 1996 tổng chi từ ngân sách nhà nước gấp 3,6 lần tổng chi từ quỹ BHXH, đến năm 1999 chỉ còn 1,73 lần và đến năm 2003.1,02 lần điều nay chứng tỏ quỹ BHXH ngày càng đươccải thiện va phát . Theo bảng 7, ta có: Về số tuyệt đối: Số tiền chi trả trợ cấp TNLĐ- BNN từ quỹ BHXH tăng dần từ 2.829.23trđ năm 1996 lên 10539[trđ] năm 2000;và đến năm2004 số tiên tăng lên đến :32217 [trđ]Số tiền chi trả trợ cấp TNLĐ- BNN từ NSNN năm 1996 là 10.191trđ tăng dần đến năm 1998 là 12634trđ sau đó tăng dần đến năm 2000 là 16104trđ. Về số tương đối: Tốc độ tăng chi trả chế độ TNLĐ- BNN có xu hướng giảm dần: l Tốc độ tăng chi từ quỹ BHXH: năm 1997 là 73,76% đến năm 2004còn 32,33% l Tốc độ tăng chi từ NSNN: Năm 1997 là 25,7069% đến năm 1998 còn 1.7332%, thậm chí tốc độ tăng còn – 0,74% năm 1999, -0,46% năm 2004. Nguyên nhân có sự thay đổi nói trên, một phần do thay đổi cơ chế quản lý từ hệ thống Công đoàn quản lý, duyệt dự toán chi hàng năm cân đối chi trả TNLĐ- BNN trong 5% quỹ BHXH sang cơ chế quản lý mới dự toán chi hàng năm căn cứ vào kế hoạch xây dựng đầu năm và cấp nguồn chi theo phát sinh thực tế. Vậy có một số đối tượng hưởng trợ cấp do NSNN bảo đảm, nhưng đến sau năm 1995 mới bổ sung số đối tượng bị tai nạn lao động chuyển cho cơ quan BHXH. Mặt khác, người hưởng trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp tăng là do ngày 4 tháng 2 năm 1997, Nhà nước có Quyết định bổ sung thêm 5 bệnh nghề nghiệp vào danh mục các loại bệnh nghề nghiệp được BHXH đưa tổng số lên 21 bệnh nghề nghiệp được BHXH. Hơn nữa, hiện nay doanh nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trường, đẩy nhanh tốc độ tăng năng suất lao động, giảm giá thành sản phẩm để tăng lợi nhuận sản xuất. Nhưng thực tế công tác bảo hộ lao động thực hiện chưa nghiêm chỉnh, việc huấn luyện cho người lao động hiểu biết và nắm vững quy trình, quy phạm về ATLĐ, và đầu tư trang thiết bị để phòng BNN-TNLĐ của người sử dụng lao động vẫn còn hạn chế, chưa được quan tâm đúng mức nên TNLĐ thường xuyên xảy ra, do vậy số người được hưởng tăng lên gây khó khăn cho công tác quản lý và chi trả. Một vấn đề nữa là, công tác An toàn giao thông ở nước ta chưa cao nên nhiều trường hợp người lao động có nhu cầu rời khỏi nơi sản xuất để làm việc khác bị tai nạn đều thuộc đối tượng hưởng trợ cấp của BHXH. Muốn giảm TNLĐ- BNN là một vấn đề cấp bách phải được thực hiện đồng bộ giữa các ngành, các cấp. d) Chế độ hưu trí: Theo số liệu của bảng 8, số lượng đối tượng hưởng chế độ hưu trí có xu hướng tăng: Năm 1995 là 1187409 người; đến năm 2000 tăng lên 1230637 người.đến năm 2004 la 1345213 Số lượng đối tượng hưởng chế độ từ NSNN tương đối ổn định. Tuy nhiên, Số lượng đối tượng hưởng chế độ từ quỹ BHXH có xu hướng tăng rất nhanh, năm 1995 mới chỉ là 622 người đến năm 2004 đã tăng đến 294998 người. Bảng 9 cho ta thấy: Tổng chi cho chế độ hưu trí ngày càng tăng và tăng ngày càng nhanh. % NSNN trong tổng chi là chủ yếu trong việc bảo đảm chi trả các chế độ nhưng có xu hướng giảm và chuyển dần sang quỹ BHXH. Năm 1995 % NSNN trong tổng chi gần như hoàn toàn 96,19% trong khi quỹ BHXH đảm nhiệm 3,81%; đến năm 2004 % NSNN trong tổng chi giảm còn 74.95% và còn tiếp tục giảm mạnh trong những năm tiếp theo, quỹ BHXH đảm nhận là 25,05 và còn tiếp tục tăng. Tốc độ tăng số tiền chi trả từ NSNN năm 1996 là 9.582% đến năm 2004 giảm còn -.1.86%; tốc độ tăng số tiền chi trảquỹ BHXH năm 1996 là 106.684% đến năm2004 giảm còn 17,321%. Theo số liệu của bảng 8 và 9, ta thấy lượng người nghỉ hưu hưởng chế độ ngày càng tăng. Sự gia tăng này làm cho công tác quản lý và chi trả ngày càng phức tạp hơn dẫn đến yêu cầu công tác và phục vụ ngày càng được hoàn thiện hơn. Hơn nữa qua bảng ta thấy: mặc dù NSNN chi cho chế độ hưu trí vẫn là chủ yếu nhưng xu hướng chi này đã giảm dần. Như vậy, Quỹ BHXH phải gánh nhận đối tượng nhiều hơn, do đó đòi hỏi phả i thực hiện tốt công tác quản lý chi trả vì khối lượng tiền nhiều hơn. . Chế độ tử tuất Bảng 10 cho ta thấy: cơ cấu chi của BHXH cho trợ cấp tử tuất theo thời gian và theo nguồn chi đã có sự giảm dần về tỷ trọng chi từ NSNN trong cơ cấu chi BHXH cho trợ cấp tuất. Từ 96,79% năm 1995 xuống còn 75,84% năm 2004. Đây là một dấu hiệu rất đáng mừng của BHXH Việt Nam. Tuy nhiên, sự giảm xuống này biến động không đều qua các năm vì bệnh tật, ốm đau và rủi ro chết là những điều không thể biết trước được. Trong cơ cấu tổng chi BHXH thì tỷ trọng chi BHXH cho trợ cấp tuất và mai táng phí chiếm con số rất nhỏ,nhưng có xu hướng tăng dầnnăm 1997 tỷ trog trong cơ cấu chi là 1,035 % nhưng đến năn 2004 tỷ trong trong cơ cấu chi là 24,165% 2.3.3. Đánh giá chung về công tác chi trả các chế độ BHXH 2.3.3.1. Những kết quả đạt được: Việc giải quyết chính sách và chi BHXH do thay đổi lại phương thức quản lý: người lao động chỉ lập hồ sơ, chứng từ ban đầu đề nghị cho người lao động được hưởng các chế độ BHXH. Cơ quan BHXH phải kiểm tra hồ sơ chứng từ, xác định mức hưởng và tổ chức thẩm định trước khi ra quyết định cho đối tượng được hưởng các chế độ BHXH. Do đó, việc giải quyết các chế độ, chính sách BHXH được chặt chẽ, đúng đối tượng, đúng chế độ. Việc chi trả lương hưu và trợ cấp BHXH đảm bảo đúng kỳ, đủ số, tận tay, không phiền hà cho người được hưởng. Riêng năm 2003đã giải quyết 1009378 lượt người nghỉ ốm, với số tiền chi trả là 155,5 tỷ đồng; số người hưởng chế độ thai sản 116416 người, với số tiền chi trả là 443.8 tỷ đồng. Tính đến cuối năm 2003, tổng số người hưởng các chế độ: hưu, TNLĐ- BNN, thai sản, mất sức lao động và tuất hàng tháng là 2.763.485 người. Tổng số tiền chi BHXH trong năm 2003là 13937,2 tỷ đồng. Nói chung, công tác chi trả các chế độ BHXH của BHXH Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể, cụ thể là: a) Chế độ trợ cấp ốm đau: Chế độ trợ cấp ốm đau có chức năng trả trợ cấp thay lương trong những ngày người lao động nghỉ ốm hoặc nghỉ chăm sóc con dưới 7 tuổi bị ốm. - Hàng năm BHXH Việt Nam đã thực hiện chế độ trợ cấp ốm đau đã góp phần ổn định cuộc sống cho những người lao động và gia đình họ khi gặp rủi ro ốm đau, tạo điều kiện để người lao động nhanh chóng phục hồi sức khoẻ, tiếp tục tham gia lao động sản xuất - Mức trợ cấp 75% tiền lương đã gắn với mức đóng góp, đồng thời thể hiện rõ tính cộng đồng chia sẻ rủi ro, người không ốm đau thì không hưởng trợ cấp để bù đắp cho những người ốm đau. - Việc quy định thời gian nghỉ ốm đau được hưởng trợ cấp từ 30 đến 60 ngày tuỳ theo số năm đóng BHXH và điều kiện lao động đã thể hiện sự công bằng và quan tâm của Nhà nước đối với lao động nặng nhọc, độc hại. b) Chế độ thai sản: áp dụng đối với lao động nữ sinh con thứ nhất và thứ hai, khi sinh con được nghỉ hưởng nguyên lương từ 4 đến 6 tháng tuỳ theo điều kiện lao động (khi bị xảy thai hoặc sau khi sinh mà con bị chết cũng được hưởng trợ cấp). Mức trợ cấp thai sản bằng 100% tiền lương đóng BHXH, ngoài ra còn được trợ cấp một lần với mức 1 tháng tiền lương. - Chế độ trợ cấp thai sản đối với lao động nữ đã thể hiện tính trách nhiệm của toàn xã hội trong việc bảo vệ sức khoẻ của phụ nữ và trẻ em, được thể hiện thông qua việc quy định người sử dụng lao động phải đóng BHXH để tạo nguồn quỹ trợ cấp cho phụ nữ khi sinh con. Số liệu thống kê cho thấy: năm 1997 đã trợ cấp cho 95202 chị em với số tiền là 119.3 tỷ đồng; năm 1998 đã trợ cấp cho 89049 chị em với số tiền là 140,6 tỷ đồng; năm 1999 đã trợ cấp cho 100066 chị em với số tiền là 158 tỷ đồng;…. và năm 2003 đã trợ cấp cho 116416 chị em với số tiền là 443,8 tỷ đồng. - Do thời gian nghỉ sinh con được hưởng trợ cấp bằng 100% lương kéo dài từ 4 đến 6 tháng tuỳ theo điều kiện lao động mà phụ nữ đã mau chóng phục hồi sức khoẻ và có điều kiện chăm sóc trẻ mới sơ sinh tốt hơn, giảm tỷ lệ bệnh tật và tử vong ở trẻ em, ổn định cuộc sống gia đình trong thời kỳ thai sản. c) Chế độ trợ cấp TNLĐ- BNN Điều lệ BHXH quy định rõ trách nhiệm chi trả các khoản chi phí điều trị, tiền lương... của người sử dụng lao động đối với người lao động bị tai nạn từ khi sơ cứ phải cấp cứu đến điều trị thương tật ổn định. Ngoài ra, người sử dụng còn phải bồi thường cho người bị tai nạn lao động bị chết hoặc mất sức lao động từ 81% trở lên. Sau khi thương tật ổn định được đi giám định y khoa được hưởng trợ cấp một lần nếu tỷ lệ thương tật từ 5 đến 30% hoặc trợ cấp hàng tháng nếu tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên. - Chế độ TNLĐ- BNN đã đảm bảo ổn định cuộc sống người lao động và gia đình trong trường hợp gặp tai nạn thông qua việc điều tiết chia sẻ rủi ro giữa những người lao động cùng tham gia BHXH. Nhờ có chế độ này mà hàng ngàn người lao động bị TNLĐ, không còn khả năng làm việc nhưng vẫn có nguồn sống ổn định thông qua trợ cấp của quỹ BHXH. Năm 1996 quỹ trợ cấp cho 11315 người;; năm 1998 là 17123 người; năm 1999 là 19805 người ….,và năm 2003 khoảng 24723 người. Việc quy định người sử dụng lao động phải chịu mọi chi phí từ khi bị tai nan lao động đến khi điều trị ổn định, đã nâng cao trách nhiệm của người sử dụng người lao động trong việc đầu tư trang thiết bị an toàn lao động, trong việc phổ biến, tuyên truyền về an toàn lao động cho người lao động, từ đó hạn chế TNLĐ xảy ra. - Ngoài trợ cấp TNLĐ người bị TNLĐ vẫn hưởng chế độ hưu trí, tử tuất nếu đủ điều kiện. d) Chế độ hưu trí: Điều lệ BHXH quy định điều kiện để hưởng chế độ hưu trí của người lao động khi có đủ 60 tuổi (đối với nam), 55 tuổi (đối với nữ) và có 20 năm đóng BHXH trở lên. Đồng thời điều lệ BHXH cũng quy định giảm 5 năm tuổi đời để nghỉ hưu đối với lao động làm nghề nặng nhọc, độc hại hoặc nơi có phụ cấp có hệ số 0,7 trở lên. Mức lương hưu đối với người có đủ 15 năm đóng BHXH là 45 % mức tiền lương bình quân 5 năm cuối đóng BHXH, sau đó cứ thêm một năm đóng BHXH được tính thêm 2% lương hưu, cao nhất không quá 75%. Trong những năm qua, chế độ hưu trí đã bảo đảm ổn định cuộc sống của hàng triệu người lao động khi hết tuổi lao động hoặc mất sức lao động, thông qua đó góp phần ổn định xã hội và công bằng xã hội. Số liệu báo cáo các năm qua cho thấy, số người hưởng trợ cấp hưu trí hàng năm dao động trong khoảng 1,18-1,20 triệu người, mức lương hưu bình quân khoảng 320000 đồng/ tháng (không kể lực lượng vũ trang). Với mức lương hưu như vậy, cuộc sống của người về hưu tương đối ổn định. - Mức trợ cấp hưu trí mới đã khắc phục được tính bình quân, bao cấp. Mức hưởng của mỗi người phụ thuộc vào mức đóng và thời gian đóng của người đó, cùng với việc chuyển hệ số quy đổi thời gian công tác kháng chiến sang hưởng chính sách người có công tạo ra công bằng trong chế độ hưu trí, tránh được giải quyết chế độ trùng lặp. - Việc quy định tuổi nghỉ hưu phù hợp với từng nhóm điều kiện lao động khác nhau đã thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với mọi người lao động làm những nghề nặng nhọc, độc hại. e) Chế độ tử tuất: Chế độ tử tuất quy định người lao động tham gia BHXH chết được nhận tiền mai táng phí bằng 8 tháng tiền lương tối thiểu và có đủ 15 năm đóng BHXH trở lên còn có thân nhân (con dưới 15 tuổi hoặc bố mẹ già hết tuổi lao động) thì được hưởng trợ cấp hàng tháng bằng 40% mức tiền lương tối thiểu. Trường hợp người được hưởng trợ cấp không có nguồn thu nhập khác và không còn người trực tiếp nuôi dưỡng thì mức trợ cấp bằng 70% lương tối thiểu. Chế độ tuất đã góp phần ổn định cuộc sống của thân nhân người lao động bị chết. Trong những năm qua, chế độ tuất đã trợ cấp cho hàng trăm ngàn con và bố mẹ già của họ. Năm 1996 trợ cấp 178.970 người;tương ứng 135, tỷ, năm 1997 trợ cấp 175.709 người;vơi143,7 tỷ năm 1998 trợ cấp 161787 người170,6 tỷ…, và năm 2003 trợ cấp 188974 người.ứng với 371,8 tỷ đồng 2.3.3.2. Những tồn tại. BHXH Việt nam trong những năm qua đã thực hiện theo quy trình lập, kiểm tra và thẩm định hồ sơ các chế độ BHXH. Việc quy định cụ thể trách nhiệm của đơn vị sử dụng lao động, của BHXH tỉnh, BHXH huyện và của BHXH VN, đã chấm dứt tình trang làm hồ sơ giả, khai khống thời gian nghỉ ốm để hưởng các chế độ BHXH. Theo quy định thì “Các cơ sở khám chữa bệnh của Nhà nước, cơ sở khám chữa bệnh của các lực lượng vũ trang (gọi chung là các cơ sở khám chữa bệnh Nhà nước); cơ sở khám chữa bệnh của tập thể và tư nhân, cơ sở khám chữa bệnh có vốn đầu tư nước ngoài (gọi chung là cơ sở khám, chữa bệnh tư nhân) có ký hợp đồng với Bảo hiểm Y tế Việt Nam để khám chữa bệnh và cấp giấy chứng nhận nghỉ ốm được hưởng BHXH cho người lao động tham gia BHXH” (Thông tư liên tịch số 11/ 1999/ TTLT - BYT- BHXH ngày 22/6/ 1999 giữa Bộ Y tế và BHXH VN hướng dẫn các cơ sở khám chữa bệnh cấp giấy chứng nhận nghỉ việc cho người bệnh tham gia BHXH). Tại điều 2.1, 2.2 mục II của Thông tư số 11/1999/TTLT-BYT-BHXH của Bộ Y tế và BHXH Việt nam do không quy định rõ cho nghỉ tối đa mấy lần nên nhiều cơ sở y tế cứ cấp giấy cho người lao động nghỉ nhiều đợt, còn đơn vị sử dụng lao động khăng khăng yêu cầu cơ quan BHXH phải thanh toán cho người lao động với số ngày nghỉ tối đa là 27 ngày. Đây là một khó khăn nữa cho cơ quan BHXH. Một số cơ sở Y tế đã không thực hiện nghiêm túc trong việc cấp giấy chứng nhận nghỉ việc cho người bệnh, đã chứng nhận khống cho người lao động để làm hồ sơ hưởng các chế độ BHXH. Hiện tượng trên xảy ra nhiều ở các đơn vị làm ăn thua lỗ, thiếu việc làm cho người lao động, phải dùng hình thức này để lấy tiền của quỹ BHXH làm thu nhập. Có một số doanh nghiệp lại có “ Sáng kiến ” cho người lao động thay nhau “ nghỉ ốm giả ” để rút tiền của quỹ BHXH chia nhau. Về chủ quan, trong những năm qua, đã xảy ra tình trạng cán bộ công chức viên chức của ngành cố tình vi phạm chế độ quản lý để mưu lợi cá nhân, dùng tiền chi BHXH để chiếm đoạt (BHXH Đăk Lăk, BHXH Ninh Bình) và đã bị pháp luật trừng trị. Công tác quản lý tiền mặt chưa đảm bảo an toàn, vẫn còn một số Đại lý chi trả ở phường, xã (ở BHXH TP. Hồ Chí Minh, Hà Tĩnh, Thái Nguyên) để mất trong quá trình vận chuyển, và cất giữ tại nhà (mặc dù số tiền đó đã thu được hoặc Đại lý phải bồi hoàn). cho nghỉ vẫn ký giấy nghỉ. Chương 3 giải pháp hoàn thiện công tác chi trả các chế độ BHXH ở việt nam hiện nay 3.1. Những thuận lợi và khó khăn trong công tác chi trả 3.1.1. Những thuận lợi - Từ khi thành lập tổ chức BHXH Việt nam, các hoạt động BHXH đã được tập trung vào một đầu mối. Đây là một thuận lợi rất cơ bản, tạo điều kiện để BHXH Việt nam thống nhất các tỉnh, thành phố về tổ chức và nghiệp vụ trong các hoạt động của ngành. Trên cơ quan BHXH, Ban quản lý chi BHXH được hình thành với chức năng, nhiệm vụ giúp Tổng giám đốc thực hiện quản lý và chỉ đạo công tác chi trả các chế độ BHXH ở các tỉnh, thành phố. Trải qua hơn 30 năm hoạt động quản lý và thực hiện chính sách BHXH cho người lao động, Tổng Liên đoàn đã có một cơ chế quản lý hướng dẫn bổ sung sửa đổi tương đối hoàn chỉnh và được thực hiện phù hợp với từng giai đoạn nhất định. - Việc thực hiện các chế độ, chính sách BHXH theo cơ chế mới dựa trên nguyên tắc có đóng BHXH mới được hưởng quyền lợi về BHXH đã trở thành yếu tố quyết định cho việc hình thành quỹ BHXH tập trung và hạch toán độc lập với NSNN, tạo điều kiện để cơ quan BHXH chủ động nguồn kinh phí trong công tác chi trả cho đối tượng hưởng BHXH. - Ngay từ khi đi vào hoạt động, BHXH các tỉnh, thành phố đã khẩn trương tiếp nhận số đối tượng tham gia và hưởng BHXH do ngành Lao động Thương binh và Xã hội và Liên đoàn lao động bàn giao. Đây là một cố gắng rất lớn của BHXH các tỉnh, thành phố và cũng chính là một trong những thuận lợi cơ bản để cơ quan BHXH chi trả lương hưu và trợ cấp BHXH cho các đối tượng hưởng BHXH không bị gián đoạn trong thời gian mới thành lập của ngành. - Công tác chi trả lương hưu và trợ cấp BHXH liên quan trực tiếp đến đời sống hàng ngày của hàng triệu đối tương, vì vậy, cơ quan BHXH luôn nhận được sự quan tâm chỉ đạo và giúp đỡ của các cấp Uỷ Đảng và Chính quyền từ Trung ương đến địa phương, của các Ban, Ngành chức năng liên quan cũng như sự cộng tác chặt chẽ của các đại lý chi trả ở xã, phường, thị trấn của các đơn vị sử dụng lao động và của đối tượng hưởng BHXH. Mặt khác, công việc cải cách hành chính trong lĩnh vực BHXH đã có nhiều tiến bộ, đã giảm thiểu được phần nào sự công bằng phức tạp để cho người lao động dễ dàng tham gia hơn cũng như tạo thuận lợi hơn trong công tác chi tiêu. Hiện nay, đối tượng tham gia BHXH ngày càng mở rộng, điều đó có nghĩa là làm quỹ BHXH tăng lên từ đó tạo thuận lợi cho công tác chi trả. Hiện nay, mức sống của người dân cũng như trình độ của họ được nâng lên, vì thế, yêu cầu về bảo hiểm cũng tăng lên. Khi họ tham gia kí kết hợp đồng với chủ sử dụng lao động, họ rất quan tâm đến vấn đề bảo hiểm. Như thế, trách nhiệm của chủ sử dụng lao động với người lao động cũng tăng lên. Điều này sẽ làm giảm tình trạng nợ đọng BHXH tạo thuận lợi cho công tác chi trả. 3.1. 2. Những khó khăn. Mặc dù các hoạt động BHXH đã được tập trung vào một đầu mối là BHXH Việt nam, nhưng về tổ chức chi trả trong toàn ngành lại chưa có sự thống nhất, thời kỳ đầu chỉ có 13 tỉnh, thành phố có quyết định thành lập phòng Quản lý chi BHXH (Quảng nam- Đà nẵng, Hà tĩnh, Hà tây, Hải Phòng, Nam Hà, Thanh hoá, Hải Hưng, Thái Bình, Vĩnh Phú, Nghệ An, TP. HCM, Hà Bắc và Quảng Ninh) số tỉnh còn lại chưa được thành lập. Đến 6/12/1996 BHXH Việt nam có Công văn số 2127 BHXH/TCCB quyết định hợp nhất csác phòng Quản lý chi BHXH ở các tỉnh, thành phố đã nhập với phòng Kế hoạch tài chính thành phòng Kế hoạch tài chính. Từ thời gian này, trên cơ quan BHXH Việt nam có Ban quản lý chi BHXH nhưng dưới địa phương không có phòng Quản lý chi BHXH, phòng KHTC cùng một lúc chịu sự chỉ đạo về nghiệp vụ của 2 Ban, điều này đã gây không ít khó khăn cho việc chỉ đạo của Ban quản lý chi BHXH cũng như các công việc có liên quan đến nghiệp vụ chi trả của BHXH các tỉnh, thành phố. - Cán bộ làm công tác chi trả của BHXH các tỉnh, thành phố phần lớn chưa được đào tạo cơ bản về nghiệp vụ BHXH và quản lý tài chính, mặt khác, lại đang hoạt động trong một cơ chế bao cấp, cơ chế mà trong đó nhiệm vụ chi trả được thực hiện độc lập với các hoạt động BHXH khác, nay chuyển sang hoạt động trong một cơ chế mới trong đó có quyền lợi về BHXH luôn gắn với nghĩa vụ đóng BHXH của người lao động và đơn vị sử dụng lao động. Vì vậy, đòi hỏi cán bộ làm công tác chi trả ngoài việc phải có ý thức trách nhiệm cao trong việc phục vụ đối tượng, còn phải có nghiệp vụ về BHXH, về quản lý tài chính để phân tách và đánh giá hiệu quả của công tác chi trả các chế độ BHXH. Đây thực sự là một chuyển đổi khó khăn cả về nhận thức và trình độ chuyên môn mà không phải cán bộ nào cũng có khả năng thích ứng ngay được. - Đối tượng hưởng các chế độ BHXH đông (riêng số nhận bàn giao từ ngành Lao động Thương binh & Xã hội là: 1781858 người, ngoài ra trong 3 năm qua cơ quan BHXH đã xét duyệt trên 74.000 người hưởng các chế độ BHXH thường xuyên và hàng năm khoảng 1 triệu lượt người nghỉ hưởng chế độ ốm đau, thai sản, TNLĐ- BNN). Mặt khác lại phân bổ không đều ở các tỉnh, thành phố, ở các quận, huyện, thị xã và ở các xã phường, thị trấn trong phạm vi toàn quốc, đối tượng tập trung chủ yếu ở trung tâm các tỉnh, thành phố và các khu công nghiệp lớn, trong khi đó ở các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa lại rất ít. Điều này đòi hỏi BHXH các tỉnh, thành phố phải rất linh hoạt khi áp dụng các biện pháp trong công tác chi trả, nếu không sẽ ảnh hưởng đến thời gian nhận tiền của đối tượng. - Phương tiện đi lại và đảm bảo an toàn tiền mặt trong qúa trình chi trả hầu như chưa được trang bị, trong khi đó hàng tháng BHXH các tỉnh, thành phố vãn phải đảm bảo chi trả gần 500 tỷ đồng tiền mặt, vì vậy BHXH các tỉnh, thành phố mà trước hết là các cán bộ làm công tác chi trả đã gặp nhiều khó khăn trong quá trình thực hiện nhiệm vụ nhất là ở các tỉnh miền núi. - Lệ phí chi trả thấp, chưa khuyến khích được cán bộ làm công tác chi trả ở các đại lý chi trả, nhất là ở các xã có ít đối tượng và các xã vùng sâu , vùng xa. Vì vậy, trên thực tế ở nhiều xã thuộc các tỉnh miền núi không thành lập được các đại lý chi trả. - Từ 1/1/1995 hoạt động BHXH được thực hiện theo cơ chế mới, nhưng việc chuẩn bị hồ sơ và chứng từ khi xét duyệt, thanh toán các chế độ BHXH của nhiều đơn vị sử dụng lao động vẫn theo như ở thời kỳ bao cấp, nhất là trong việc xét duyệt và chi trả các chế độ ốm đau, thai sản, TNLĐ- BNN. Đây thực sự là một trở ngại lớn cho cơ quan BHXH và cũng là một trong những nguyên nhân chính để có những ý kiến cho rằng cơ quan BHXH gây phiền hà cho người lao động. - Do đặc thù của đối tượng hưởng BHXH và yêu cầu quản lý quỹ BHXH nên cùng một lúc cơ quan BHXH phải sử dụng 2 nguồn kinh phí để chi trả. Nguồn từ NSNN chi trả cho các đối tượng về nghỉ hưởng BHXH trước ngày 1/1/1995 và nguồn từ quỹ BHXH chi trả cho đối tượng nghỉ BHXH từ ngày 1/1/1995 trở đi. Với cơ chế sử dụng nguồn kinh phí chi trả như trên, cơ quan BHXH chỉ có thể chủ động được nguồn kinh phí chi trả từ quỹ BHXH, nguồn do NSNN cấp đôi khi còn bị chậm và chưa được cấp bổ sung kịp thời mỗi khi có những chế độ, chính sách liên quan đến quyền lợi của người được hưởng các chế độ BHXH. Ngoài ra, hai nguồn kinh phí này, hàng năm, phải được hạch toán riêng biệt, do vậy cũng tạo nên những khó khăn nhất định cho công tác chi trả và quản lý của ngành. Hơn nữa, nhiều chính sách về BHXH do nhà nước ban hành chưa đồng bộ, còn nhiều điều chưa hợp lý, đồng thời trong quá trình thực hiện chế độ chính sách đối với người lao động còn nhiều bất cập gây khó khăn cho cơ quan BHXH trong việc thực hiện xét duyệt và chi trả BHXH cho người lao động. Do điều kiện thanh toán BHXH cho các chế độ BHXH chưa chặt chẽ nên có kẽ hở cho người lao động và chủ sử dụng lao động vận dụng gây thiệt hại đến quỹ BHXH. Trong điều kiện kinh tế thị trường hàng loạt các doanh nghiệp Nhà nước đang bươn trải và cố gắng duy trì để sản xuất và tồn tại. Nhiều đơn vị làm ăn thua lỗ hoặc thay đổi cơ chế quản lí đã không thể hoặc không có tiền nộp BHXH cho người lao động theo qui định trước đây. Đây chính là vấn đề khó khăn đối với cơ quan BHXH trong việc giải quyết nợ đọng quỹ BHXH,thực hiện chế độ chính sách cho người lao động, BHXH không có khả năng kiểm tra, kiểm soát hết được, nhất là các ngành công nghiệp phụ thuộc vào sản xuất nông nghiệp như các công ty chè, xí nghiệp chế biến nông sản và các nông trường, lâm trường Trong khi đó việc thanh toán trợ cấp BHXH nhất là các chế độ ngắn hạn chưa gắn được trách nhiệm của chủ sử dụng lao động với việc thực hiện đúng chính sách BHXH. Đặc biệt có những chủ sử dụng lao động còn tạo điều kiện khuyến khích cho công nhân viên chức của mình làm đủ thủ tục để thanh toán hết quyền lợi của người lao động theo cách hiểu là được hưởng bình quân 1năm theo chế độ Nhà nước đã qui định. Tiếp nữa là điều kiện phân cấp quản lí: Việc thay đổi về cơ chế quản lí trước đây cho công đoàn quản lí ba chế độ trên cơ sở cân đối thu chi và cố gắng giành lại một phần cho nghỉ ngơi dưỡng sức đã gắn liền trách nhiệm của chủ sử dụng lao động, cơ sở y tế, công đoàn trong việc phối hợp quản lí quỹ BHXH. Trên đây là những thuận lợi cũng như những khó khăn của công tác chi trả BHXH, vậy chúng ta phát huy những thuận lợi và khắc phục khó khăn như thế nào? Đó là một câu hỏi mà chúng ta cần quan tâm. 3.2. Các giải pháp nhằm đảm bảo thực hiện tốt công tác chi trả Có thể nói : chi trả là kết quả của quá trình thực hiện chính sách BHXH, là khâu cuối cùng của công tác giả quyết các chính sách BHXH liên quan đối với người lao động bị suy giảm sức lao động của mình- chế độ TNLĐ- BNN, chế độ ốm đau, thai sản... cho đối tượng hưởng lương hưu và các loại trợ cấp BHXH khi đã hoàn thành nghĩa vụ. Để đảm bảo tốt công tác chi trả BHXH, tôi xin đưa ra một số giải pháp cụ thể như sau: 3.2.1. Tiếp tục củng cố và hoàn thiện các mô hình chi trả đang được thực hiện. Hiện nay, có hai mô hình chi trả chủ yếu đang được áp dụng ở các điạ phương trong cả nước. Tuy nhiên, cho dù áp dụng mô hình chi trả nào cũng phải đáp ứng hai yêu cầu: - Quản lý chặt chẽ đối tượng - Chi trả kịp thời, chính xác cho đối tượng và phù hợp với điều kiện của mỗi địa phương Qua nghiên cứu thực tế các loại hình mà các địa phương trong toàn quốc đang áp dụng, thấy rằng mỗi loại hình chi trả đều có những ưu điểm và hạn chế của nó, vì vậy, cần linh hoạt trong việc phối hợp giữa các hình thức chi trả. Đối với những địa bàn tập trung nên thực hiện hình thức chi trả trực tiếp, nên phải có sự giám sát của chính quyền cơ sở trong quá trình tổ chức điều chỉnh tăng, giảm đối tượng hàng tháng do đại lý chi trả thực hiện song mức phụ cấp trách nhiệm có thể thấp hơn so với đại lý đảm nhận hình thức chi trả gián tiếp. Đối với những địa bàn có số lượng, đối tượng rải rác, có địa hình phức tạp cần hợp đồng với đại lý là cán bộ xã, phường, vừa đảm nhận công tác chính quyền cơ sở, vừa tham gia làm đại lý. Có như vậy mới phát huy được trách nhiệm của đại lý, nâng cao vai trò của chính quyền cơ sở, nơi trực tiếp quản lý đối tượng sinh sống. Đồng thời với việc sử dụng linh hoạt các hình thức chi trả, việc quy định trách nhiệm của các bên liên quan cũng phải được định ra một cách cụ thể, rõ ràng trong các hợp đồng ký kết. * Đối với đại lý: thực hiện chi trả toàn bộ tiền lượng hưu và trợ cấp hàng tháng đầy đủ, kịp thời, tận tay người hưởng, không được chi trả chậm hoặc chiếm dụng tiền làm ảnh hưởng đến đời sống của người hưởng. Khi có vướng mắc liên quan đến chế độ, chính sách mà đại lý không thể giải quyết được theo chức năng của mình thì báo cáo hoặc kiến nghị với BHXH huyện, thị xã để giải quyết thường xuyên nắm chắc tình hình diễn biến của đối tượng, lý do tăng giảm để báo cáo kịp thời với cơ quan BHXH( nếu có). Mở sổ sách đầy đủ để ghi chép theo và kiểm tra việc chi trả cho đối tượng. * Đối với BHXH huyện thị xã: Thường xuyên tổ chức kiểm tra, rà soát chặt chẽ, cụ thể từng trường hợp ở danh sách chi trả và phiếu nhận tiền, nếu phát hiện chưa đầy đủ chữ ký của đối tượng thì kiên quyết không chấp nhận hồ sơ quyết toán của đại lý. Đồng thời, báo cáo kịp thời cho UBND xã, phường cùng xử lý. Các trường hợp chi trả không đúng đối tượng thì BHXH huyện, thì xã phải thu hồi hoặc trừ lại tiền khi cấp ứng cho các đại lý. Trường hợp đại lý không chấp hành thủ tục hồ sơ, chứng từ thì không giải quyết thanh toán các khoản lệ phí chi trả và có biện pháp xử lý kịp thời theo quy định và hợp đồng đã ký kết. Thông qua kiểm tra, nắm bắt tâm tư nguyện vọng của đối tượng nhằm giải thích kịp thời những vướng mắc về chế độ chính sách BHXH cho đối tượng hiểu và cùng thực hiện, đồng thời báo cáo lên cơ quan cấp trên về những trường hợp không thuộc quyền xử lý (Nếu có). * Đối với BHXH tỉnh: Tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện củng cố và kết hợp hài hoà giữa hai hình thức chi trả, thường xuyên tổ chức kiểm tra công tác chi trả ở huyện, thị xã và đại lý xã, phường để sửa chữa, khắc phục những thiếu sót và tăng cường các biện pháp quản lý đối tượng, quản lý chi trả, quản lý tiền mặt đảm bảo an toàn, thuận lợi góp phần thực hiện tốt công tác chi trả tại các địa phương và cơ sở trong toàn tỉnh. Mặt khác, nghiên cứu phân bổ hợp lý lệ phí chi trả, có ưu tiên vùng sâu, vùng xa nhằm góp phần bù đắp một phần chi phí sức lao động và động viên đại lý chi trả hoàn thành nhiệm vụ. Chi trả lương hưu và trợ cấp BHXH là nhiệm vụ trung tâm, là khâu cuối cùng của việc giải quyết chính sách cho đối tượng. Vì vậy, công tác chi trả BHXH phải tranh thủ được sự giúp đỡ của các cấp và các ngành trên địa bàn tỉnh. Như vậy, cần tiếp tục củng cố và hoàn thiện các mô hình chi trả đang thực hiện ở địa phương để công tác chi trả BHXH ở địa phương ngày càng hoàn thiện hơn, với phương châm đảm bảo thuận lợi nhất cho đối tượng cũng như việc đảm bảo các yêu cầu quản lý tài chính của ngành. 3.2.2. Đào tạo, nâng cao tinh thần trách nhiệm và trình độ chuyên môn cán bộ làm công tác quản lý chi trả. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII) nêu rõ: “ Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của Cách mạng gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng”. ở bất kỳ lĩnh vực hay ngành nghề nào, trình độ chuyên môn và phẩm chất đạo đức của người cán bộ là một yêu cầu vô cùng quan trọng. Đối với BHXH cũng vậy nhất là trong khâu chi trả phục vụ người lao động thì tinh thần trách nhiệm, sự tâm huyết với nghề nghiệp cũng như trình độ chuyên môn của người cán bộ bảo hiểm là hết sức cần thiết để đảm bảo nguyên tắc “ chi đúng, chi đủ, chính xác, kịp thời, an toàn”. Ta hãy đánh giá sơ bộ thực trạng đội ngũ cán bộ công chức của ngành BHXH nói chung cũng như cán bộ làm công tác chi trả BHXH nói riêng từ khi thành lập đến nay; đội ngũ cán bộ công chức có những mặt mạnh và hạn chế sau: * Mặt mạnh: - Được giáo dục rèn luyện, kinh qua thực tiễn công tác thể hiện bản lĩnh vững vàng, cán bộ công chức ngành BHXH đã kế thừa những kinh nghiệm sẵn có, nắm vững chính sách, pháp luật BHXH trước đây, nhanh chóng nghiên cứu nắm bắt những chíng sách BHXH đổi mới, chuyển đổi thích ứng với nhiệm vụ trong một tổ chức thống nhất, hoạt động theo cơ chế mới. - Thực hiện đầy đủ, kịp thời, đúng pháp luật các chế độ BHXH đối với các đối tượng tham gia BHXH. - Trước yêu cầu của công cuộc đổi mới, của công tác quản lý BHXH theo cơ chế mới, nhiều cán bộ cao cấp đã cố gắng vươn lên, chủ động học tập, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, tiếp thu những kiến thức mới về quản lý, về khoa học và công nghệ, tin học, ngoại ngữ,... để hoàn thành nhiệm vụ được giao. - Đội ngũ cán bộ công chức có độ tuổi trung bình trẻ, năng động, đoàn kết. Số công chức mới tuyển dụng phần đông được đào tạo cơ bản, dễ tiếp thu, thích ứng với cơ chế mới, thông qua chế độ thi tuyển chặt chẽ tạo thành lực lượng nòng cốt của ngành trong tương lai. - Đội ngũ cán bộ công chức được hình thành sớm và tiếp tục được tăng cường bổ sung, về cơ bản bảo đảm được những tiêu chuẩn quy định về phẩm chất chính trị, đạo đức, trình độ chuyên môn, năng lực quản lý... đáp ứng nhiệm vụ chính trị giao. * Hạn chế Bên cạnh những mặt mạnh, đội ngũ cán bộ công chức cũng bộc lộ những tồn tại, bất cập với nhiệm vụ, tập trung ở những điểm chính dưới đây: - Đội ngũ cán bộ công chức tập hợp chủ yếu do bàn giao từ hệ lao động thương binh và xã hội và Tổng LĐLĐ Việt Nam và tiếp nhận bổ sung từ nhiều nguồn khác nhau về ngành, không đồng đều về trình độ chuyên môn và năng lực; một số hẫng hụt về trình độ, năng lực, kiến thức quản lý... Phần lớn CBCC chưa được đào tạo có hệ thống, trưởng thành do tích luỹ kinh nghiệm lâu năm trong ngành, quen với cách làm việc theo cơ chế tập trung, bao cấp. - Đội ngũ CBCC nhìn chung trình độ học vấn chưa cao (tỷ lệ học đại học chỉ chiếm 30%); số có trình độ sơ cấp chiếm tỷ lệ đáng kể, thiếu số CBCC hiểu biết sâu về chế độ chính sách, lao động tiền lương, tài chính. - Đội ngũ cán bộ chủ chốt chưa đầy đủ đã phải dàn trải để đảm đương nhiệm vụ trong bối cảnh chuyển đổi cơ chế, chuyển đổi tổ chức, không có thời gian chuẩn bị đội ngũ, nhưng phải bảo đảm hoạt động liên tục, không ách tắc trong việc thực hiện chế độ, chính sách BHXH đối với đối tượng tham gia BHXH. Một số cán bộ quản lý bộc lộ trình độ chuyên môn, năng lực quản lý bất cập với nhiệm vụ. Cho đến nay, các chức danh cán bộ quản lý ở cả ba cấp chưa đầy đủ, còn thiếu ở hầu hết các đơn vị. - Chế độ tiền lương, chính sách đãi ngộ của ngành chưa thoả đáng nên không tuyển chọn được CBCC giỏi về công tác tại ngành và chưa động viên được tinh thần làm việc, ý thức trách nhiệm, gắn bó với ngành và khuyến khích việc học tập nâng cao trình độ.... Số công chức mới tuyển dụng thì thâm niên, năng lực quản lý chưa đáp ứng được để đưa vào dự nguồn. Ngành đang bị hẫng hụt một thế hệ chuyển tiếp giữa thế hệ dày dạn kinh nghiệm và thế hệ trẻ trong công tác cán bộ. Vì vậy, đào tạo đội ngũ cán bộ bảo hiểm nói chung và cán bộ bảo hiểm làm công tác chi trả nói riêng có phẩm chất và năng lực, có bản lĩnh chính trị vững vàng trên cơ sở lập trường giai cấp công nhân, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đảm bảo sự chuyển tiếp liên tục và vững vàng giữa các thế hệ cán bộ nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị được giao là một vấn đề cấp thiết. Biện pháp: * Xây dựng giáo trình chuyên ngành về BHXH * Đưa chương trình giảng dạy BHXH vào các trường đại học, cao đẳng, trung học thuộc khối kinh tế * Cần tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức hệ thống BHXH từ khâu quy hoạch, thi tuyển, đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá sử dụng, quản lý đến việc xây dựng tiêu chuẩn nghiệp vụ, chế độ chính sách đặc thù, cải thiện thu nhập... theo hướng dưới đây: - Rà soát lại các văn bản cán bộ, công chức của ngành, nghiên cứu điều chỉnh, bổ sung để hoàn thiện phù hợp với các văn bản pháp quy của Nhà nước mới ban hành và phù hợp với thực tế quản lý điều hành của ngành. - Căn cứ vào chiến lược phát triển của ngành để xây dựng quy hoạch cán bộ, đặc biệt là cán bộ từ TW đến địa phương nhằm đào tạo đội ngũ cán bộ đủ về số lượng, dồi dào về năng lực chuyên môn, năng lực quản lý, đáp ứng yêu cầu phát triển ngành trong giai đoạn mới. - Xuất phát từ tính chất đặc thù của ngành, cần xúc tiến việc nghiên cứu xây dựng và đề nghị với cơ quan chức năng Nhà nước ban hành hệ thống tiêu chuẩn nghiệp vụ đầy đủ riêng cho công chức nghành BHXH làm căn cứ pháp lý để tuyển dụng, bố trí công chức làm đúng ngành nghề, đúng việc, đúng nhu cầu của ngành và quản lý đội ngũ cán bộ, công chức của ngành. - Chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cả nội dung chương trình lẫn phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, hướng trọng tâm vào các kiến thức cơ bản chuyên ngành BHXH, nâng cao chất lượng lý luận chính trị, quản lý hành chính Nhà nước, quản lý ngành trong cơ chế mới, pháp luật, tin học, ngoại ngữ và các kỹ năng hành chính nghiệp vụ khác. Sớm xây dựng giáo trình đào tạo chuyên ngành BHXH. - Triển khai thực hiện đề án khoán chi phí hoạt động bộ máy, quỹ lương và biên chế khi được Chính phủ phê duyệt nhằm tạo động lực, đổi mới hoạt động của ngành theo cơ chế mới. - Xây dựng trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt chế độ, chính sách đặc thù đối với công chứ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBC1002.DOC
Tài liệu liên quan