Tài liệu Đề tài Thực trạng và một số giải pháp nhằm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam: Lời mở đầu
Tính cấp thiết của đề tài
Chiến lược mở cửa để dần đưa nền kinh tế nước ta hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới đã được Đảng và Nhà nước ta chủ chương thực hiện cách đây hơn 10 năm. Một trong nhiều nội dung quan trọng của chiến lược này là chủ chương thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài không chỉ nhằm mục tiêu giải quyết nạn khan hiếm về vốn cho đầu tư phát triển xã hội mà còn nhằm tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho người lao động, cung cấp cho nền kinh tế nước nhà những máy móc, quy trình công nghệ tiên tiến, sản xuất nhiều mặt hàng có chất lượng và hàm lượng kỹ thuật cao, góp phần thúc đẩy phát triển nội sinh nền kinh tế đất nước, tạo nên sức mạnh tổng phục vụ sự nghiệp CNH-HĐH đất nước.
Thực hiện chủ chương trên, tháng 12 năm 1987 nhà nước ta chính thức ban hành luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Qua gần 15 năm thực hiện, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đáp ứng được một số mục tiêu đề ra song cũng lại đặt...
46 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1052 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Thực trạng và một số giải pháp nhằm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Tính cấp thiết của đề tài
Chiến lược mở cửa để dần đưa nền kinh tế nước ta hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới đã được Đảng và Nhà nước ta chủ chương thực hiện cách đây hơn 10 năm. Một trong nhiều nội dung quan trọng của chiến lược này là chủ chương thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài không chỉ nhằm mục tiêu giải quyết nạn khan hiếm về vốn cho đầu tư phát triển xã hội mà còn nhằm tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho người lao động, cung cấp cho nền kinh tế nước nhà những máy móc, quy trình công nghệ tiên tiến, sản xuất nhiều mặt hàng có chất lượng và hàm lượng kỹ thuật cao, góp phần thúc đẩy phát triển nội sinh nền kinh tế đất nước, tạo nên sức mạnh tổng phục vụ sự nghiệp CNH-HĐH đất nước.
Thực hiện chủ chương trên, tháng 12 năm 1987 nhà nước ta chính thức ban hành luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Qua gần 15 năm thực hiện, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đáp ứng được một số mục tiêu đề ra song cũng lại đặt ra những vấn đề mới cần giải quyết,đặc biệt là trong những năm gần đây, trừ năm 2000 nguồn vốn này suy giảm liên tục. Do nhận thấy sự cần thiết phải đánh giá, nhìn nhận lại thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam để từ đó tìm ra các giải pháp nhằm thúc đẩy việc thu hút, em đã chọn đề tài cho bài viết của mình: “Thực trạng và một số giải pháp nhằm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam”.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, bài viết được chia làm 3 chương như sau:
Chương 1: Khái quát về đầu tư trực tiếp nước ngoài
Chương 2: Vài nét về thực trạng FDI tại Việt Nam
Chương 3: Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh việc thu hút FDI ở Việt Nam
(ở cuối mỗi chương đều có kết luận nhỏ)
Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu là nhằm đánh giá khái quát và phân tích một vài nét cơ bản của thực trạng xu hướng đầu tư trực tiếp nước ngoài nói chung tại Việt Nam để thấy được vị trí FDI đối với phát triển kinh tế của nước ta; thấy những mặt được và chưa được của hoạt động FDI, qua đó rút ra các giải pháp nhằm đẩy mạnh việc thu hút FDI tại Việt Nam.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của bài viết này là hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam kể từ khi ban hành luật đầu tư nước ngoài năm 1987 đến nay, năm 2000. Hoạt động này bao gồm từ tình hình cấp giấy phép, tình hình triển khai các dự án FDI, cho đến hoạt động kinh doanh XNK của các doanh nghiệp FDI khi các dự án đã đi vào thực hiện.
Phương pháp nghiên cứu
Trong bài viết, các phương pháp nghiên cứu sau được sử dụng:
-Phương pháp duy vật biện chứng
-Phương pháp thống kê
-Phương pháp phân tích tổng hợp
-Phương pháp đối chiếu so sánh
Chương 1
khái quát về đầu tư trực tiếp nước ngoài
Khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1.1 Khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài nói chung
Cùng với quá trình toàn cầu hoá, khu vực hoá đời sống kinh tế,đến nay đầu tư trực tiếp nước ngoài ( Foreign Direct Investment-FDI) không còn là vấn đề mới mẻ trên thế giới. Khái niệm về FDI này đều được ghi nhận trong luật đầu tư của các nước. Mặc dù không hoàn toàn giống nhau bởi có sự khác biệt về việc sử dụng câu từ hay ngữ pháp, song về mặt bản chất thì khái niệm về FDI ở luật của các nước khác nhau là như nhau do chúng đều xuất phát từ khái niệm đầu tư quốc tế.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một hình thức đầu tư quốc tế mà chủ đầu tư nước ngoài đầu tư toàn bộ hay một phần đủ lớn của các dự án nhằm giành quyền điêù hành hoặc tham gia điêù hành các doanh nghiệp sản xuất hoặc kinh doanh dịch vụ, thương mại.
Như vậy, FDI thực chất là một hình thức đầu tư quốc tế, là những phương thức đầu tư vốn, tài sản ở nước ngoài để tiến hành SXKD, dịch vụ với mục đích tìm kiếm lợi nhuận và/hoặc mục tiêu kinh tế-xã hội khác, với điều kiện là chủ đầu tư nước ngoài chính là người trực tiếp điều hành hoặc tham gia điều hành hoạt đọng đầu tư tại nước sở tại.
Mặt khác, xét trên khía cạnh cơ cấu vốn đầu tư quốc tế thì FDI chính là một hình thức đầu tư thuộc kênh tư nhân (xem sơ đồ 1). Do đó chủ đầu tư nước ngoài thường là các pháp nhân hoặc thể nhân và tiến hành hoạt động đầu tư theo mục đích lợi nhuận là chủ yếu.
Sơ đồ 1: Cơ cấu vốn đầu tư quốc tế
Vốn đầu tư quốc tế
Tài chính chính thức
Đầu tư của tư nhân
Hỗ trợ phát triển chính thức ODA
FDI
Đầu tư gián tiếp
Vay thương mại chính thức
Tín dụng thương mại
Nguồn: Giáo trình đầu tư nước ngoài, tác giả Vũ Chí Lộc,NXB.GD 1997
Để hiểu rõ hơn về FDI ta so sánh với đầu tư gián tiếp nước ngoài trên một số chỉ tiêu như sau:
Bảng 1: So sánh FDI và đầu tư gián tiếp nước ngoài
STT
Chỉ tiêu
FDI
Đầu tư gián tiếp nước ngoài
1
Chủ thể
chủ yếu là các pháp nhân và thể nhân
các quốc gia và các tổ chức
quốc tế
2
Người quản lý hoạt động đầu tư
chủ đầu tư nước ngoài : trực tiếp hoặc tham gia điều hành hoạt động đầu tư, tức trực tiếp quản lý và sử dụng vốn ; Tự chịu trách nhiệm về kết quả SXKD, dịch vụ
chủ đầu tư nước ngoài không trực tiếp tham gia quản lí; nước nhận đầu tư được tự ý quản lí và sư dụng vốn và tự chịu trách nhiệm về kết quả SXKD, dịch vụ
3
Mục đích đầu tư
quan hệ FDI là kinh doanh theo cơ chế thị trường nên lợi nhuận là mục tiêu cao nhất và cuối cùng
lợi nhuận không phải là mục
đích cao nhất, có thể là mục
đích chính trị, nhân đạo hoặc
mục đích khác
4
Tính chất đầu tư
vì quan hệ FDI có mục đích kinh doanh nên nó chịu sự chị phối của các quy luật kinh tế thị trường, ít chịu ảnh hưởng của cácquan hệ chính trị. Do đó FDI không thể biến nước tiếp nhận đầu tư thành con nợ của nước đầu tư
là quan hệ mang tính chất
chính trị chịu ảnh hưởng bởi
các quan hệ giữa các quốc gia, ít chịu chi phối của các qui luật kinh tế. Do đó nó không thể biến nước tiếp nhận đầu tư thành con nợ của nước xuất khẩu tư bản. Hơn nữa nước nhận đầu tư gián tiếp còn
5
Hình thức đầu tư
theo luật các nước, thường là: 100% vốn nước ngoài, liên doanh, hợp đồng hợp tác kinh doanh, BOT,BTO...
chủ yếu là: vay thương mại
chính thức, hỗ trợ phát triển chính thức ODA (gồm viện trợ cho không, vay ưu đãi chính thưc và không chính
thức)
Về mặt pháp lý, khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI đã trở nên phổ biến và, như
ở trên đã nói, được qui định trong các đạo luật của các nước và thường được nhìn nhận dưới góc độ của nước nhận đầu tư, như: luật khuyến khích đầu tư của Thái Lan (đầu tư nói chung), luật đầu tư nước ngoài của Liên bang Nga (đầu tư nước ngoài), luật khuyến khích đầu tư của Hàn Quốc (cho từng nghành), luật đầu tư nước ngoài của Inđônễia, luật đầu tư nước ngoài cuẩ Việt Nam (đầu tư trực tiếp)... Chẳng hạn như: theo luật đầu tư nước ngoài của Inđônễia, FDI là nhằm mục đích thực hiện kinh doanh tại Inđônễia, với điều kiện là người chủ sở hữu phải gánh chịu mọi rủi ro đầu tư; theo luật đầu tư nước ngoài của Liên bang Nga ngày 4/7/1991, đầu tư nước ngoài là tất cả những hình thức giá trị tài sản hay giá trị tinh thần của nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các đối tượng của hoạt động SXKD và các hoạt động khác với mục đích thu lợi nhuận.
Đối với nước xuất khẩu tư bản, FDI được xem như việc chuyển tư bản ra nước ngoài nhằm thiết lập ở đó những hoạt động kinh doanh nhằm thu lợi nhuận. Còn đối với nước tiếp nhận đầu tư, nó lại là việc tiếp nhận tư bản của nước ngoài để cho phép chủ đầu tư nước ngoài tổ chức các hoạt động kinh doanh theo nhữnước ngoài hình thức mà pháp luật qui định,nhằm phục vụ mục tiêu lợi nhuận hoặc/và mục tiêu KT-XH nhất định.
Như vậy dù nhìn dưới góc độ nào thì FDI cũng đều là hoạt động kinh doanh dựa trên cơ sở di chuyển tư bản giữa các quốc gia, chủ yếu do các pháp nhân và thể nhân thực hiện, theo những hình thức nhất định, trong đó chủ đầu tư FDI tham gia trực tiếp vào quá trình đầu tư.
1.1.2 Khái niệm về FDI theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được ban hành lần đầu vào ngày 26/12/1987, sửa đổi vào năm 1990,1992; sau đó được thay bằng "luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam " ban hành ngày 12/11/1996, đã được các nhà đầu tư thế giới và khu vực đánh giá là một luật hấp dẫn, thông thoáng trong khu vực. Ngày 9/6/2000 luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam lại được sửa đổi, bổ sung lần thứ 4 "để mở rộng hợp tác kinh tế với nước ngoài , phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH, phát triển kinh tế quốc dân trên cơ sở khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của đất nước."
Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 1996 qui định rõ: " đầu tư nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kì tài sản nào để tiến hành đầu tư theo qui định của luật này".
Theo điều 2 và điều 19 của luật này thì nhà đầu tư nước ngoài có thể đầu tư tại Việt Nam dưới các hình thức sau: hợp tác trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh, các dự án BOT, BOT và BT. Đây là các hình thức mà các chủ đầu tư nước ngoài trực tiếp tham gia vào việc quản lí và điêù hành hoạt động đầu tư.
Như vậy theo luật đầu tư khái niệm đầu tư nước ngoài được hiểu như sau:
- Là hình thức đầu tư trực tiếp.
- Là việc bên ngoài trực tiếp đưa vốn và tài sản khác vào đầu tư tại Việt Nam. Chủ đầu tư nước ngoài có thể là 1 tổ chức nhà nước, tổ chức tư nhân hay 1 tổ chức quốc tế hoặc tự nhiên nhân nước ngoài.
Vốn đầu tư ở đây không chỉ bao gồm tư bản mà còn bao gồm cả các bí quyết kĩ thuật, qui trìng công nghệ, dịch vụ kĩ thuật (điều 7 luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996). Qui định này là nhằm mục đích tranh thủ được vốn kĩ thuật hiện đại, kinh nghiệm
và phương pháp quản lí tiên tiến, đào tạo đội ngũ quản lí và công nhân có trình dộ cao, góp phần nâng cao đời sống kinh tế, đưa Việt Nam hoà nhập với khu vực và thế giới. Việc sử dụng vốn đầu tư nước ngoài vào 1 quốc gia thưòng dẫn đến việc thành lập ở nước tiếp nhận đầu tư 1 cơ sở sản xuất. Nhưng theo luật Việt Nam thì hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài không nhất thiết phải như vậy mà có thể tồn tại trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Như vậy, qui định về FDI như trên đã thể hiện được chủ trương của nhà nước Việt Nam là mở rộng việc thu hút vốn đầu tư cua các nước trên thế giới nhằm thúc đẩy sự phát triển nội sinh nền kinh tế đất nước.
1.2 Vai trò của FDI
1.2.1 Vai trò của FDI đối với nước nhận đầu tư (là nước đang phát triển )
Thực tiễn hoạt động đầu tư quốc tế cũng như ở Việt Nam cho thấy nguồn FDI có vai trò hết sức quan trọng đối với nước tiếp nhận đầu tư mà chủ yếu là các quốc gia đang phát triển như Việt Nam.
Một đặc điểm phổ biến của các nước đang phát triển là tỉ lệ tiết kiệm nội địa thấp và thiếu ngoại tệ. Do vậy, các nước này không thể chỉ trông chờ vào nguồn vốn trong nước để thực hiện CNH-HĐH mà buộc phải tìm kiếm sự bổ sung từ bên ngoài. FDI chính là 1 nguồn bổ sung quan trọng. Hàng năm FDI cung cấp 1 lượng vốn đáng kể cho các nước đang phát triển , đặc biệt là các nước đang phát triển ở Châu á. Chẳng hạn như: ở Trung Quốc, FDI đã cung cấp trung bình 5,8 tỉ USD/năm kể từ năm 1979 đến năm 1994, tỉ trọng FDI và tổng vốn đầu tư trong nước là khoảng 25%; ở Inđônêsia, sau khi ban hành luật đầu tư nước ngoài vào năm 1967, FDI đã cung cấp 1 lượng vốn trong 27 năm (1967-1994) trrung bình là 1,5 tỉ USD/ năm.
Mặt khác như ở phần trên đã đề cập FDI là 1 hình thức đầu tư thuộc kênh tư nhân, chủ đầu tư tự quyết định đầu tư và chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh nên khi tiếp nhận nguồn vốn này các nước sở tại không phải chịu gánh nặng nợ nần kinh tế, hơn nữa cũng không phải chịu những ràng buộc chính trị.
Cũng vì lí do đó mà FDI còn là 1 hình thức đầu tư có hiệu quả kinh tế cao, bởi trước khi đưa ra quyết định đầu tư thì hàng loạt các yếu tố liên quan đến tính khả thi hay khả năng sinhlời đã được tính toán kĩ. Một khi dự án FDI đi vào thực hiện, nó còn tạo ra sự cạnh tranh giữa doanh nghiệp có FDI với doanh nghiệp trong nước, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển nội sinh nền kinh tế đất nước.
Ngoài ra các dự án FDI góp phần bổ sung quan trọngcho ngân sách của cá quốc gia. Các nguồn thu này từ các lhoản cho thuê đất, mặt nước, mặt biển; từ các kloại thuế doanh thu, lợi tức, thuế xuất nhập khẩu. Tại Trung Quốc, các dự án FDI đã đóng góp 11,2% tổng thu từ thuế năm 1995 và tỉ lệ này đang có xu hướng gia tăng.
Một yếu tố quan trọng khác hấp dẫn các quốc gia đang phát triển là thông qua FDI, các nước này có thể tiếp nhận công nghệ tiên tiến, hiện đại. Điều này rất quan trọng đối với việc hiện đại hoá công nghệ của đất nước.
Thêm vào đó, Fdi góp phần phát triển nguồn nhân lực và tạo thêm nhiều việc làm mới cho các nước nhận đầu tư, nâng cao mức sống của người lao động. Các dự án FDI có yêu cầu cao về chất lượng nguồn lao động do đó sự phát triển FDI ở các nước sở tại đã đặt ra yêu cầu khách quan phải nâng cao trình độ của người lao động. Mặt khác chính các chủ đầu tư nước ngoài thường đã góp phần tích cực bồi dưỡng,đào tạo đội ngũ lao động nước sở tại. đó chính là đội ngũ nòng cốt trong việc học tập, tiếp thu kĩ thuật, công nghệ tiên tiến, năng lực quản lí điều hành tiên tiến của nước ngoài. Các dự án FDI cũng thu hút một lực lượng lớn lao động , góp phần giải quyết tình trạng thất nghiệp . Hơn nữa hình thức đầu tư này còn giúp các doanh nghiệp địa phương tiếp cận được vào thị trường thế giới thông qua liên doanh và mạng lưới thị trường rộng lớn của họ.
Như vậy, FDI có vai trò hết sức quan trọng dối với nước tiếp nhận đầu tư, đó là góp phần giải quyết dược những vấn đề quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế như nạn khan hiếm vốn( quan trọng nhất), lạc hậu về công nghệ, thiếu việc làm, góp phần đưa đất nước thoát ra khỏi đói nghèo lạc hậu.
Tuy vậy không phải là FDI chỉ mang lại những tác động tích cực như trên mà có thể nó còn ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế xã hội nước nhân đầu tư.
Một điều dễ dàng nhận thấy nhất là FDI thúc đẩy sự phát triển không đều giữa thành thị và nông thôn, đẩy nhanh quá trình phân hoá giàu nghèo trong xã hội. Thật vậy, phần lớn các dự án đầu tư nước ngoài đều tập trung ở khu vực phát triển kinh tế thuận lợi, có điêù kiện SCHT tốt, thường là thành thị. Thêm vào đó công ty có vốn đầu tư nước ngoài chỉ tuyển dụng lao động có tay nghề cao nên phần lớn lao động ở các nước đang phát triển không tìm được việc làm tại các công ty cóvốn đầu tư nước ngoài . do đó vấn đề giải quyết việc làm cũng bị hạn chế rát nhiều.
Mặc dù FDI bổ sung vốn cho các nước nhận đầu tư nhưng về lâu dài lại làm giảm tỷ lệ tiết kiệm nội địa. Bởi vì các chủ đầu tư nước ngoài thường có ưư thế về vốn , ccong nghệ và kinh nghiệm quản lí nên họ thường tăng tỷ trọng vào các nghành có tính cạnh tranh cao và dẫn tới độc quyền. điều này làm cho các công ty địa phương bị phá sản dẫn đến sự phụ thuộc ngày càng chặt chẽ của các chủ đầu tư trong nước vào các công ty nước ngoài.
Hơn nữa, vấn đề chuyển giao công nghệ qua FDI cũng là một vấn đề nổi cộm ở các nước đang phát triển. Các công ty nước ngoài thường chuyển giao những công nghệ-kỹ thuật lạc hậu hoặc máy móc thiết bị cũ váo nước nhận đầu tư với giá cao hơn trên thị trường quốc tế.Do đó, các nước đang phát triển phải hết sức tỉnh táo, tránh nguy cơ trở thành "bãi rác thải công nghiệp" của các nước phát triển.
Cuối cùng là vế phương diện chính trị, FDI là một mối lo ngại đối với chính phủ các nước đang phát triển. Bởi vì trong thực tế nhiều công ty nước ngoài, đặc biệt là các công ty đa quốc gia có tiềm lực kinh tế lớn can thiệp mạnh vào đường lối phát triển của nước sở tại dưới nhiều hình thức như hối lộ quan chức hoặc thậm chí lật đỏ chính phủ như trường hợp điển hình ở Chi Lê những năm 70.
Tóm lại, bản chất của FDI là các hoạt động đầu tư nước ngoài trên cơ sở khai thác các lợi thế so sánh trong phân công lao động quốc tế nhằm tìm kiếm lợi nhuận cao trên phạm vi toàn cầu. Do đó FDI là các hoạt động kinh tế và nó có tác động như con dao hai lưỡi đối với nước nhân đầu tư. Nếu nước chủ nhà có chính sách thu hút và khai thác FDI một cách hợp lý sẽ phát huy được các mặt tích cực, hạn chế tối đa mặt tiêu cực. Ngược lại, FDI sẽ là nhân tố gây trở ngại cho những chính phủ không làm chủ được đường lối phát triển của mình.
1.1.2 Những đóng góp cụ thể của FDI đối với Việt Nam
Hoạt động FDI ngày càng được nhiều nước thừa nhận là một nhân tố quan trọng đối với sự phát triển kinh tế đất nước. ở Việt Nam, kể từ khi luật đầu tư nước ngoài được ban hành và thực hiện, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài được Đảng và nhà nước ta khẩng định là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, góp phần thúc đẩy sự phát triển các nguồn lực trong nước. Ta xét đóng góp FDI đối với Việt Nam cụ thể trên một số mặt sau:
a. Đóng góp đối với tổng vốn đầu tư toàn xã hội
Cũng giống như nhiều quốc gia đang phát triển khác, để đạt được tốc độ tăng trưởng cao và ổn định, Việt Nam cần phải có một khối lượng vốn rất lớn. Theo tính toán của các nhà kinh tế,để đạt được tốc độ tăng trưởng GDP từ 5-6%/năm trong giai đoạn 2000-2001 thì cần khoảng 65-70 tỷ USD trong tổng vốn đầu tư xã hội. Dẫu rằng vốn trong nước là chính, có vai trò quyết định song khả năng huy đọng các nguồn vốn này rất khó khăn. Bởi vì, nguồn vốn ngân sách còn hạn chế; nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế cũng hạn chế do nhiều doanh nhgiệp đang bị thua lỗ, tích tuỹ thấp và cũng đang trông đợi vào vốn ngân sách cấp (doanh nghiệp quốc doanh) hoặac vốn đầu tư nước ngoài; nguồn vốn nhàn rỗi của dân cư rất khó xác định vì tâm lý người dân còn thiếu tin tưởng vào hệ thống tài chính ngân hàng, thiên về đầu tư tích trữ vàng,đôla, bất động sản. Như vậy để huy động được lượng vốn cần thiết, Việt Nam cần phải chú trọng thu hút các nguồn vốn nước ngoài.
Trong những năm vừa qua, các nguồn vốn nước ngoài ở Việt Nam chủ yếu gồm: FDI, ODA, tín dụng thương mại và các khoản vay nợ nước ngoài. Trong số đó, nguồn FDI là quan trọng nhất, tạo ra một khu vực kinh tế có trình độ thiết bị kỹ thuật công nghệ khá.
Tính đến tháng 12/2000, khu vực FDI đẫ cung cấp 17,6 tỷ USD cho đầu phát triển xã hội , chiếm 47,6% vốn đăng ký(37 tỷ USD). Tỷ trọng vốn FDI trên tổng vốn đầu xã hội tăng nhanh qua các năm, đạt mức bình quân từ khoảng gần 20% tổng vốn đầu xã hội thời kỳ 1986-1994 lên khoảng 25,7% thời kỳ 1995-2000 (bảng2).
Bảng 2: cơ cấu vốn đầu tư toàn xã hội (%)
*: sơ bộ
Năm
1995
1996
1997
1998
1999
2000*
vốn nhà nước
38,3
45,2
48,1
53,5
61,6
61,9
vốn ngoài
quốc doanh
29,4
26,2
20,6
21,3
20,2
19,5
vốn FDI
32,3
28,6
31,2
25,2
18,2
18,6
Tổng
100
100
100
100
100
100
Nguồn: Theo tính toán từ số liệu của ‘Niên giám thống kê 2000, NXB.TKê
Trong thời kỳ 1995-2000, tỷ trọng FDI/tổng vốn đầu xã hội đạt mức cao nhất là 32,3% năm vào năm 1995, sau đó giảm liên tục đến mức thấp nhất là 18,2% vào năm 1999, riêng năm 2000 tỷ trọng này có nhỉnh hơn chút ít.
Tỷ trọng này giảm sút do nhiều nguyên nhân, trong đó có tác động quan trọng từ bên ngoài là cuộc khủng hoảng tài chính châu á năm 1997. Tuy vậy,FDI vẫn là một nguồn đầu tư đáng kể cho phát triển kinh tế xã hội, góp phần nâng cao đời sống xã hội.
b. Đóng góp FDI đối với GDP, tạo việc làm
Tỷ lệ đóng góp của FDI trong GDP tăng liên tục qua các năm, đạt mức thấp nhất là 2% vào năm 1992, cao nhất là 13,25% vào năm2000. Điều đáng lưu ý ở đây là mặc dù vốn thực hiện FDI giảm mạnh kể từ năm 1998 nhưng mức đóng góp của khu vực FDI vẫn tăng. điều đó chứng tỏ là hoạt động FDI đang diễn ra ngày một hiệu quả hơn.
Thu ngân sách từ khu vực FDI cũng tăng liên tục, trừ năm 1999, chiếm bình quân 6-7% tổng thu ngân sách( nếu tính cả dầu khí là gần 20%), đạt từ 128 triệu $ vào năm 1994 đến 317 triệu $ vào năm 1998, tăng gấp gần 2,5 lần so với năm 1994. Điều này là phù hợp với mức đóng góp vào GDP ngày càng tăng trên, tạo khả năng giảm mức bội chi, chủ động hơn trong cân đối ngân sách (bảng 3).
Bảng 3: Đóng góp FDI đối với GDP, ngân sách, tạo việc làm
NS: ngân sách(triệu USD) VL: tạo việc làm(1000 người) *: sơ bộ
Năm
'92
'93
'94
'95
'96
'97
'98
'99
2000*
GDP
2%
3,6%
6,1%
6,3%
7,4%
9,07%
10,03%
12,24%
13,25%
NS
128
195
263
315
317
271
VL
250
270
296
300
Nguồn: Niên giám thống kê năm 2000 và tạp chí thương mại số 1 năm 2000
Các dự án FDI đi vào thực hiện cũng đã giải quyết được một phần nạn thất nghiệp ở nước ta: hàng năm, tạo việc làm thường xuyên cho từ 2,5( năm 1997) đến 3 vạn(năm 2000) lao động , chưa kể hàng vạn lao động gián tiếp trong xây dựng và dịch vụ, góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động và hình thành đội ngũ công nhân lành nghề có tác phong lao động công nghiệp.
Tóm lại, cùng với xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế đang diễn ra ngày càng sâu rộng, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã trở nên quen thuộc với hầu hết các quốc gia trên thế giới. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài này ngày càng chứng minh được tính ưu việt của mình so với các nguồn vốn đầu tư nước ngoài khác nên nhiều quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển, coi lầ chìa khoá cho tăng trưởng.
Tại Việt Nam nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần giải quyết được những vấn đề kinh tế xã hội, góp phần thúc đẩy phát triển triển các nguồn lực trong nước, thực hiện CNH-HĐH đất nước.
Tuy nhiên nói như vậy không có nghĩa là việc tiếp nhận FDI chỉ đồng nghĩa với việc đón nhận những lợi ích mà rất có thể FDI lại là không tốt đối với việc phát triển tổng thể KT-XH. Do vậy, các nước cần có một chính sách thu hút và sử dụng FDI hợp lý nhằm phát huy những mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của nó.
Chương 2
Vài nét về thực trạng FDI tại Việt Nam
2.1 Thực trạng cấp giấy phép FDI tại Việt Nam
2.1.1 Tình hình chung
Từ khi “Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam” có hiệu lực cho đến năm 2000 Nhà nước ta đã cấp giấy phép cho 3.170 dự án FDI với tổng số vốn đăng kí là 39.100 triệu USD. Tính bình quân mỗi năm chúng ta cấp giấy phép cho 240 dự án với mức 3.007,75 triệu USD vốn đăng kí.
Bảng 4: Số dự án FDI được cấp giấy phép
(không kể các dự án của Vietsopetro)
Năm
Số dự án
VĐK
Triệu USD
Quy mô
triệu USD/1 D.án
Chỉ số phát triển qua năm
%
1988
37
371,8
10,0486486
VĐK
quy mô
1989
68
582,5
8,56617647
1.566702528
0.85247
1990
108
839,0
7.76851852
1.440343348
0.90688
1991
151
1322,3
8.75695364
1.576042908
1.12724
1992
197
2165,0
10.9898477
1.637298646
1.25499
1993
269
2900,0
10.7806691
1.339491917
0.98097
1994
343
3765,6
10.9784257
1.298482759
1.01834
1995
370
6530,8
17.6508108
1.734331846
1.60777
1996
325
8497,3
26.1455385
1.301111656
1.48127
1997
345
4649,1
13.4756522
0.547126734
0.51541
1998
275
3897,0
14.1709091
354.2727273
1.05159
1999
311
1568,0
5.04180064
0.40236079
0.35579
2000
371
2012,4
5.42425876
1.283418367
1.07586
Tổng
3170
39100,8
12.3346372
Nguồn : Niên giám thống kê 1998, 2000, NXB.Thống kê, Hà Nội
Bảng 1 cho thấy nhịp độ thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài có xu hướng tăng nhanh từ 1988 đến 1995 cả về số dự án cũng như vốn đăng kí. Riêng năm 1996 sở dĩ có lượng vốn đăng kí tăng vọt là do có 2 dự án đầu tư vào lĩnh vực phát triển đô thị ở Hà Nội và TP Hồ Chí Minh được phê duyệt với quy mô dự án lớn (hơn 3 tỷ USD/2 dự án). Như vậy, nếu xét trong suốt cả thời kì 1988-1999 thì năm 1995 có thẻ được xem là năm đỉnh cao về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam (cả về số dự án, vốn đăng ký, cũng nhu quy mô dự án)
Từ năm 1997 đầu tư trực tiếp nước ngoài vao Việt Nam có biểu hiện suy giảm, nhất là cho đến các năm 1998, 1999 thì xu hướng giảm đó càng rõ rệt hơn: nếu so với năm 1997 số dự án được dyuệt của năm 1998 chỉ bằng 79,71%; năm 1999 chỉ bằng 80,58%. Số liệu tương ứng của vốn đăng ký là 83,83% và 33,01%.
Nếu theo số lượng vốn đăng ký thì quy mô dự án bình quân của thời kỳ 1988-1999 là 13,4 USD/1 dự án. So với một số nước ở thời kỳ đầu thực hiện chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài thì quy mô dự án đầu tư vào nước ta bình quân ở thời kỳ này là không thấp. Nhưng, vấn đề đáng quan tâm là quy mô dự án theo vốn đăng kí bình quân của năm 1999 lại nhỏ đi một cách đột ngột và ở mức thấp nhất từ trước tới nay (5,52 triệu USD/1 dự án). Quy mô dự án theo vốn đăng kí bình quân của năm 1999 chỉ bằng 41,19% quy mô bình quân của thời kỳ 1988-1999, và chỉ bằng 31,27% quy mô dự án binh quân của năm của năm cao nhất (năm 1995; ta không so sánh với năm 1996 vì năm này có 2 dự án đặc biệt đã nêu trên).
2.1.2 Về các đối tác được cấp giấy phép đầu tư
Tính đến hết năm 1999 đã có hơn 700 công ty thuộc 66 nước và vùng lãnh thổ (dưới đây gọi là các nước) có dự án đầu tư trực tiếp tại Việt Nam. Trong số này, có 13 nước và vùng lãnh thổ có tổng số vốn đăng ký hơn 1 tỷ USD mỗi nước. Và, chỉ với 13 nước (bằng 19,7% số nước ) đã chiếm tới 85,65% tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam (Xingapore: 15,9%; Đài Loan: 12,3%; Hồng Kông: 9.8%; Nhật Bản: 9%; Hàn Quốc:8,5%; Pháp: 5,8%; Quần đảo Vigin:4,7%; Nga: 4,1%; Mỹ:3,5%; Anh: 3,1%; Malaixia: 3%; Ôxtrâylia: 3%; TháI Lan: 2,9%). Trong tổng số vốn đầu tư của 13 nước này thì có tới 71,66% (22.742,57 triệu USD) là thuộc các nước Châu á, điều này chứng tỏ môi trường đầu tư của Việt Nam hiện đang thu hút được sự quan tâm của các nhà đầu tư Châu á. Và, trình độ, điều kiện, khả năng của các nhà đầu tư Châu á cũng đang phù hợp cới điều kiện, yêu cầu phát triển của Việt Nam trong thời gian qua. Tuy vậy, cho đến nay trong số các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam thì sự có mặt của các nhà đầu tư thuộc các tập đoàn lớn chưa nhiều (mới có khoảng 50/500 tập đoàn kinh tế lớn của thế giới có dự án đầu tư tại Việt Nam). Còn trong số các nhà đầu tư Châu á nếu không kể các nhà đầu tư Nhật Bản và Hàn Quốc thì phần lớn là ngươì Hoa. Đây là đặc điểm rất cần được chú ý trong việc lựa chọn các đối tác đầu tư sắp tới nhằm làm cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài theo yêu cầu của công cuộc CNH, HĐH của ta đạt hiệu quả hơn.
2.2.3 Về địa bàn đầu tư
Với mong muốn hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần làm chuyển dịch cơ cấu giữa các vùng kinh tế nên chính phủ ta đã có những chính sách khuyến khích, ưu đãi đối với các dự án đầu tư vào “những vùng có điều kiện kinh tế-xã hội khó khăn; miền núi, vùng sâu, vùng xa”. Tuy vậy, cho đến nay vốn nước ngoài vẫn được đầu tư chủ yếu vào một số địa bàn có điều kiện thuận lợi về kết cấu hạ tầng và môi trường KT-XH. Vốn đầu tư vào các vùng (1988-1999) được xếp theo thứ tự sau:
Bảng 5: Cơ cấu đầu tư theo vùng(%)
1. Đông Nam Bộ
53,13
5. Đồng bằng sông Cửu Long
2,46
2. Đồng Bằng Nam
29,6
6. Bắc Trung Bộ
2,38
3. Duyên hải Nam Trung Bộ
7,64
7. Tây Nguyên
0,16
4. Đông Bắc
4,46
8. Tây Bắc
0,15
Nguồn : Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới 2(64) 2000
Cũng trong thời kỳ này, nếu như hai thành phố lớn là Hà Nội và TP Hồ Chí Minh đã chiếm tới hơn nửa (50,5%) tổng số vốn FDI của cả nước thì 10 địa phương có điều kiện thuận lợi cũng chiếm tới 87,8%. TP Hồ Chí Minh chiếm 28,3% tổng vốn đăng ký của cả nước; số liệu tương ứng của các địa phương tiếp theo như sau: Hà Nội:22%; Đồng Nai: 9,7%; Bà Rịa-Vũng Tàu: 7,1%; Bình Dương và Bình Phước (do số liệu thông kê chưa chia được): 4,8%; HảI Phòng: 4,3%; Quảng NgãI: 3,8%; Quảng Nam-Đà Nẵng: 2,9%; Quảng Ninh: 2,5%; Lâm Đồng:2,4%. Số liệu trên cũng phần nào nói lên rằng vấn đề thu hút FDI theo vùng lãnh thổ nhằm kết hợp với việc khai thác các tiềm năng trong nước đạt kết quả chưa cao. Do vậy, trong thời gian tới đây cũng là một trong những vấn đề cần được chú ý điều chỉnh.
2.2.4 Giấy phép đầu tư theo nghành kinh tế
Các dự án đầu tư vào nghành công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn nhất cả về số lượng dự án lẫn vốn đầu tư, tiếp đến là các lĩnh vực khách sạn, du lịch và dịch vụ. Các nhgành nông, lâm nghiệp có số dự án lớn nhưng vốn thấp hơn (chứng tỏ quy mô dự án ở lĩnh vực này tương đối nhỏ).
Bảng 6: Cơ cấu đầu tư FDI theo nghành 1988-2000
Nghành
Số dự án
Tỷ trọng về số D.A
%
Vốn đăng ký
Tr. USD
Tỷ trọng vốn đăng ký
%
1. Nông lâm nghiệp
321
10,13
1379,9
3,53
2.Thuỷ sản
96
3,03
355,1
0,91
3.Công nghiệp
1704
53,75
16077,5
41,11
4.Xây dựng
282
8,9
4616,6
11,81
5.Khách sạn
202
6,37
4834,8
12,36
6.Giao thông, vận tảI, bu điện
140
4,42
3424,9
8,76
7. Tài chính, ngân hàng
34
01,07
243,1
0,62
8. Văn hoá, y tế, giáo dục
98
3,09
523,7
1,34
9.Các nghành dịch vụ khác
293
9,24
7645,2
19,56
Tồng
3170
100
39100,8
100
Nguồn : Tính toán từ số liệu của ‘Niên giám thống kê 2000, NXB.TKê
Vốn đầu tư nước ngoài vào các nghành như trên đã biểu hiện phù hợp các chỉ số của cơ cấu kinh tế hiện đại, CNH: Công nghiệp-dịch vụ-nông nghiệp. Tuy vậy, trong điều kiện ở giai đoạn đầu tiến hành CNH-HĐH và với đặc trưng của nền kinh tế trong đó nông nghiệp nhiệt đới đang là một trong những thế mạnh thì tình hình thu hút FDI của Việt Nam vào lĩnh vực này như hiện nay là còn tương đối xa so với yêu cầu, mong muốn và mục tiêu mà chúng ta đặt ra. Sở dĩ như vậy là vì nông nghiệp là một trong những lĩnh vực đang có nhiều tiềm năng mà chúng ta chưa có điều kiện để khai thác. Và, từ đặc điểm phân bố dân cư, lao động, việc làm như hiện nay thì sự thành công trong việc phát triển nông thôn, nông nghiệp là một trong những chỉ tiêu cơ bản để đánh giá mức độ thành công của sự nghiệp CNH-HĐH. Thực hiện CNH, HĐH trong nông thôn, nông nghiệp cũng tức là tạo ra được việc làm và thu nhập cho số đông lao động cũng như tác động làm chuyển biến đáng kể đến sản xuất và đời sống của đa số người Việt Nam.
Về các hình thức đầu tư
Liên doanh hiện là hình thức phổ biến nhất của đầu tư FDI tại Việt Nam. Hình thức này đang chiếm tới khoảng 61% số dự án và 70% vốn đăng ký. Sở dĩ như vậy là do thời kỳ đầu, các thủ tục đê triển khai thực hiện dự án còn đòi hỏi nhiều giấy tờ, lại phải thông qua nhiều khâu, nhiều nấc, và rất phức tạp, trong khi đó người nước ngoài còn ít hiểu biết về các điều kiện KT-XH và pháp luật của Việt Nam; họ thường gặp khó khăn trong việc phải giao dịch, quan hệ cùng một lúc với khá nhiều cơ quan chức năng của ta để có được đầy đủ các điều kiện triển khai xây dựng cơ bản cũng như tổ chức thực hiện dự án đầu tư. Trong hoàn cảnh như vậy, đa số các nhà đầu tư thích lựa chọn hình thức liên doanh để bên Việt Nam đứng ra lo các thủ tục pháp lý nhằm đảm bảo hoạt động của doanh nghiêp có hiệu quả hơn.
Sau một thời gian hoạt động trong môi trường đầu tư ở Việt Nam, các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt các nhà đầu tư Châu á có điều kiện để hiểu biết hơn về pháp luật, chính sách, phong tục tập quán và cách thức hoạt động kinh doanh ở Việt Nam; lại có xuất hiện các tổ chức tư vấn giúp các nhà đầu tư thực hiện các thủ tục triển khai, tổ chức sản xuất nên nhu cầu có đối tác Việt Nam để tiến hành cácthủ tục đã giảm đi một cách đáng kể. Mặt khá, khi tham gia lien doanh bên Việt Nam thường yếu về vốn đóng góp lẫn trình đọ cán bộ quản lý trong khi các nhà đầu tư nước ngoài lại không muốn chia sẻ quyền lợi cũng như quyền điều hành nên họ thấy không cần thiết phải có đối tác Việt Nam. Do đó, số dự án FDI vào Việt Nam theo hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài đang ngày càng có xu hướng tăng lên cả tuyệt đối lẫn tương đối. Nếu thời kỳ đầu chỉ có gần 10% số dự án và vốn đăng ký hoạt động theo hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài thì đến nay con số đó đã lên tới 30% số dự án và 20% vốn đăng ký.
Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh đến nay chỉ chiếm 7,1% số dự án và 10% số vốn đầu tư, chủ yếu trong các lĩnh vực thăm dò và khai thác dầu khí và dịch vụ viễn thông.
Từ năm 1993, Việt Nam bắt đầu áp dụng hình thức “hợp đồng xây dựng-kinh doanh-chuyển giao” (BOT), và cho đến nay đã có 4 dự án FDI thực hiện theo hình thức này với số vốn đăng ký gần 900 triệu USD.
2.2 Tình hình thực hiện của các dự án FDI tại Việt Nam
2.2.1 Tiến độ thực hiện vốn FDI
- Có 785 dự án sau một thời gian triển khai đến nay có nhu cầu xin được tăng vốn, mở rộng sản xuất. Tổng số vốn đã được phê đuyệt tăng thêm là 5.171 triệu USD (bằng 14% tổng vốn đăng ký và bằng 28,4% dự án được cấp giấy phép).
- 127 dự án hết thời hạn thực hiện hợp đồng (bằng 4,6% số dự án được cấp giấy phép), 466 dự án đã bị rút giấy phép (chiếm 16,8%). Như vậy, tính đến 31/12/1999 trên lãnh thổ Việt Nam còn 2.173 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đang hoạt động, với tổng số vốn đăng ký của các dự án còn hiệu lực là 36.086 triệu USD.
- Đến nay số vốn đã thực hiện của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài bằng 42,4% của tổng số vốn đăng ký. Trong điều kiện của một nền kinh tế kém phát triển, kết cấu hạ tầng lạc hậu, các nguồn lực cũng như các chính sách đối với đầu tư nước ngoài còn nhiều biến động, thị trường phát triẻn chưa đầy đủ… thì tỷ lệ vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện được ở mức như vậy là không thấp. Tuy vậy, xuất phát từ đặc điểm các dự án sau khi được phê duyệt thường chưa đủ các điều kiện để triển khai ngay, do đó, số vốn thực hiện trong năm chủ yếu là của các dự án đã được phê duyệt từ các năm trước đó. Nếu so sánh số vốn thực hiện của từng năm với số vốn đăng ký còn lại (tổng vốn đăng ký từ trước trừ đi số vốn đã thực hiện) thì tỷ lệ vốn thực hiện diễn biến theo xu hướng thieuú ổn định. Tỷ lệ này tăng nhanh từ đầu đến năm 1995 (vốn thực hiện 1992/vốn đăng ký 1988-1991 còn lại =13,6%; số Tưong ứng 1993=23,5%; 1994=30,1%; 1995=32,2%) và sau đó giảm dần Từ năm 1996 đến nay (số liệu Tương ứng 1996=21,8%; 1997=18,1%; 1998=10,1% và 1999=7,1%). Điều này một phần cơ bản là do tác động của cuộc khủng hoảng tiền tệ trong khu vực-khi mà một số nhà đầu tư thuộc các quốc gia xảy ra khủng hoảng đang còn số vốn mà họ chưa thực hiện lại phải dùng để đối phó với tình trạng xấu xảy đến một cách đột ngột, buộc họ phải dừng hoặc chấm dứt không thể đầu tư được… Mặt khác, một số nhà đầu tư khi lập dự án dẫ tính toán chưa thật sát với thực tế nên khi triển khai dự án đã gặp phải một số vấn đề phát sinh vượt cả khả năng tài chính cũng như các yếu tố điều kiện cho doanh nghiệp vận hành. Thậm chí có một số nhà đầu tư nước ngoài, thực chất là yếu về năng lực tài chính nên mặc dù đã được cấp giấy phép đầu tư, nhưng do không huy động được vốn đúng như dự kiến, buộc họ phải triển khai thực hiện dự án chậm, có khi mất khả năng thực hiện.
2.2.2 Về vấn đề góp vốn của hai bên đối tác
Theo quy định của “Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam” thì đối tác nước ngoài có thể góp vốn vào liên doanh bằng tiền nước ngoài, tiền Việt Nam, thiết bị máy móc nhà xưởng…, giá trị quyền sở hữu công nghiệp, bí quyết kĩ thuật, quy trình công nghệ, dịch vụ kĩ thuật. Đến nay, tất cả các thiết bị và các quyền sở hữu của bên nước ngoài chuyển vào thực hiện tại Việt Nam đều được quy đổi thành tiền. Số tiền vốn thực hiện mà ta thống kê được như trên là bao gồm cả vốn thực hiện của các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và cả số tiền “khai vống giá trị tài sản” của đối tác nước ngoài khi đưa thiết bị vào thực hiện dự án đầu tư. Bên nước ngoài góp vốn chủ yếu bằng tiền mặt và trang thiết bị do đó trong giai đoạn đầu triển khai dự án, thực hiện các công việc xây dựng cơ bản bị phụ thuộc rất nhiều vào tiến độ góp vốn của bên nước ngoài. Trong giai đoạn xây dựng cơ bản, đối tác nước ngoài gần như nắm quyền điều hành toàn bộ các hoạt động của liên doanh. Do trình độ cán bộ, nên trong các liên doanh có rất ít cán bộ của đối tác Việt Nam giành được tiếng nói chi phối các hoạt động này. Đến nay, các đối tác nước ngoài đã đưa vốn vào thực hiện các dự án đầu tư tại Việt Nam là 13.341 triệu USD (gấp 6 lần số vốn của Việt Nam tham gia vào hoạt động này).
Cũng theo quy định của “Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam” thì bên Việt Nam có thể góp vốn tham gia liên doanh bằng tiền, giá trị quyền sử dụng đất, các nguồn nguyên, giá trị sử dụng mặt nước, mặt biển, thiết bị máy móc, nhà xưởng, giá trị quyền sở hữu công nghiệp bí quyết kỹ thuật, quy trình công nghệ, các dịch vụ... Thực tế, lâu nay Việt Nam góp vốn tham gia liên doanh chủ yếu bằng giá trị quyền sử dụng đất và giá trị thiết bị nhà xưởng hiện có. Tất cả những thứ này đều được chuyển một lần ngay vào thời điểm bứt đầu triển khai thực hiện dự án đầu tư, do đó nếu theo giấy phép đăng ký thì bên Việt Nam góp 21,9%, bên nước ngoài góp 78,1% nhưng trên thực tế góp vốn thực hiện trong liên doanh thời kỳ 1988-1997 bên Việt Nam đã góp tới 31,3%, bên nước ngoài là 68,7%. Số vốn góp của Việt Nam ở thời điểm này gồm 74% bằng giá trị quyền sử dụng đất ;15% bằng giá trị nhà xưởng , thiêts bị, và 11% là bằng tiền mặt, nguyên vật liệu và các dịch vụ. Số tiền của bên nước ngoài góp gồm: 76,6% bằng tiền mặt, 15,4% bằng giá trị thiết bị, máy móc, phần còn lại là các dịch vụ tư vấn, công nghệ…
2.3 Đầu tư nước ngoài vào một số lĩnh vực kinh tế tiêu biểu
-Lĩnh vực dầu khí: so với các nghành kinh tế Việt Nam thì đây là một trong rất nghành thu hút được các tập đoàn kinh tế lớn của thế giới đến tham gia đầu tư. Đến nay, ngoài xí nghiệp liên doanh dầu khí VietsoPetro chúng at đã cấp 33 giấy phép hoạt đọng cho các nhà đầu tư tương đối có tiềm lực về mọi mặt thuộc Bắc Mỹ, châu Âu, châu úc, châu á. Hình thức hoạt động chủ yếu của các nhà đầu tư này là hình thức hợp đồng phân chia sản phẩm.
-Lĩnh vực công nghiệp điện tử: là lĩnh vực mà các nhà đầu tư nước ngoài có mặt tương đối sớm, vốn thực hiệ chiếm tỷ lệ cao so với vốn đăng ký, có tiến độ thực hiện đúng với cam kết được ghi trong giấy phép đầu tư và đây là lĩnh vực rất sớm phát huy hiệu quả. Một trong những yếu tố hơn hẳn so với lĩnh vựuc đầu tư khác là các hà đầu tư thuộc lĩnh vực này phần lớn thuộc các công ty đa quốc gia và các hãng điện tử mạnh trên thế giơí như: SONY, JVC, TOSHIBA, PHILLIP, MATSUSHITA, FUJITSU, LG, SAMSUMNG, DAEWOO…
-Lĩnh vực công nghiệp ô tô và xe máy: đây cũng là một trong nhừng lĩnh vực thu hút được nhiều nhà đầu tư thuộc các hãng lớn mà sản phẩm của họ đã nổi tiéng và có lợi thế cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại trên thế giới, như TOYOTA, FORD, HONDA, SUZUKI…Đến 12/1999 chúng ta đã cấp giấy phép hoạt động cho 14 dự án đầu tư sản xuất ô tô và 4 dự án đầu tư sản xuất xe máy; số vốn thực hiện của các dự án đầu tư sản xuất ôtô đến 12/1999 là 376 triệu USD (bằng 43,12% vốn dăng ký), với số sản phẩm bình quân 140.000 xe ôtô/năm. một đặc điểm tương đối nổi bật của các dự án đầu tư sản xuất ôtô xe máy là bên cạnh các hoạt động cuả chính bản thân các dự án này có tác động đến việc hình thành các dự án sản xuất linh kiện, phụ tùng tương ứng. Các dự án vệ tinh này thường là những bạn hàng truyền thống của các nhà đầu tư hoặc các doanh nghiệp cơ khí sẵn có của Việt Nam, trong đó có cả các doanh nghiệp đang gặp khó khăn trong SXKD, thậm cí có nguy cơ phá sản
-Lĩnh vực viễn thông: đến nay đã có 14 dự ándt nước ngoài được cấp giấy phép với tổng số vốn đăng ký là 1.545 triệu USD, trong đó số vốn đã thực hiện là 388 triệu USD (bằng 25% vốn đăng ký). Trong số các dự án ở lĩnh vực này, có đến 94% số dự án đầu tư theo hình thức hợp đòng hợp tác kinh doanh về dịch vụ viễn thông, 6% theo hình thức liên doanh để sản xuất các thiết bị vật tư bưư điện. đặc biệt, đây là lĩnh vực không có dự án đầu tư theo hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
-Hoạt động kinhdoanh khách sạn, du lịch: là lĩnh vực ngay từ đầu đã biểu hiện còn nhiều tiềm năng chưa được khai thác nên ngay từ đầu đã thu hút được sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài. Mặc dù số dự án cũng như vốn đăng ký vào nghành này có tỷ trọng chưa cao trong tổng số dự án cũng như tổng vốn FDI tại Việt Nam, đến nay cũng đã có 202 dự án với 4.834,8 triệu USD đăng ký đầu tư xây dựng khách sạn, văn phòng,căn hộ cho thuê, pháy triển đô thị . đây cũng là tình trạng cung vượt quá cầu ở một số thành phố như TP. Hồ Chí Minh, Vũng Tàu, Đã Nẵng, Hải Phòng.
-Lĩnh vực công nghiệp hoá chất: đến nay đã thu hút được 89 dự án với tổng số vốn đăng ký 1.117 triệu USD (36 dự án 100% vốn nước ngoài,48 liên doanh, 5 hợp đồng hợp tác kinh doanh ) trong đó số vốn đã thực hiện là397,6 triệu USD( bằng35,6% tổng vốn đăng ký).
-Lĩnh vực dệt may giày dép: là nghành công nghiệp sử dụng nhiều lao động, suất đầu tư cho mỗi lao động thấp, triển khai SXKD nhanh;dặc điểm này rất thích hợp với điều kiện kinh tế và trình độ pháy triển thời kỳ đầu tiến hành CNH-HĐH của nước ta. đến nay đã có 250 dự án với tổng số vốn đăng ký 2.396 triệu USD; trong đó vốn thực hiện là 1.079 triệu USD. Đây là một trong những lĩnh vực có tỷ lệ vốn thực hiện đạt vào loại cao.
2.2.4 Tình hình xuất nhập khẩu của doanh ngiệp FDI
Theo số liệu thống kê của vụ Đầu Tư-Bộ Thương Mại, kết quả XNK của các doanh ngiệp FDI được chia ra các năm như sau(không tính dầu khí):
Bảng 7: Kim nghạch XNK của các doanh ngiệp FDI
Đơn vị :triệu USD
Năm
Xuất khẩu
Nhập khẩu
1989-1991
52
192
1992
112
230
1993
140
491
1994
165
750
1995
403
1653
1996
786
2232
1997
1497
2700
1998
1982
2900
1999
2590
3382
2000(quý 1)
66174
Nguồn : Vụ Đầu Tư-Bộ Thương Mại
Từ số liệu bảng 7 ta thấy:
-Về nhập khẩu: kim nghạch NK tăng mạnh qua các năm là do tiến độ triển khai xây dựng, sản xuất của các doanh ngiệp được thực hiện theo lịch trình đã xét duyệt. Hàng hoá nhập chủ yếu là máy móc,thiết bị phục vụ cho xây dựng cơ bản, hình thành doanh ngiệp và vật tư, nguyên liệu cho sản xuất. Tuy nhiên,việc NK tăng cũng chưa phản ánh hết tốc độ đầu tư. thực tế cho thấy, mặc dù kim nghạch NK có tăng nhưng trị giá thiết bị máy móc NK lại giảm (nhất là cuối năm 1996), chứng tỏ tốc độ đầu tư nước ngoài vào Việt Nam giảm.
-Về xuất khẩu: kết quả XK được phản ánh bằng sự tăng trưởng của kim nghạch XK của các doanh ngiệp FDI tăng mạnh qua các năm chứng tỏ doanh ngiệp FDI đã đóng góp đáng kể trong kim nghạch XK của cả nước , làm thay đổi cơ cấu hàng XK, tăng dần tỷ lệ XK hàng công nghiệp, hàng có kỹ thuật coa trong cơ cấu hàng XNK của Việt Nam.
-Tỷ trọng XK của các doanh ngiệp FDI:
Bảng 8: Tỷ trọng XK của các doanh ngiệp FDI
Năm
Doanh nghiệp FDI
Cả nước
Tỷ lệ
1996
786.000.000
6.868.000.000
11,4%
1997
1.479.653.000
8.758.900.413
17,09%
1998
1.982.638.000
9.323.648.397
21,25%
1999
2.365.000.000
11.520.600.002
22,5%
2000(quý 1)
665.000.000
650.800.000
26%
Nguồn : Vụ Đầu Tư-Bộ Thương Mại
Qua bảng 5 ta thấy XK của các doanh ngiệp FDI tăng ổn định qua các năm và chiếm tỷ trọng đáng kể trong kim ngạch XK của toàn bộ nền kinh tế ( trên 20%).
-Cơ cấu đầu tư và cơ cấu XK: theo số liệu của Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư, tổng kết tình hình đầu tư trong những năm qua( 1998 -3/2000) cơ cấu đầu tư và XK trong lĩnh vực như sau:
Bảng 9: Cơ cấu đầu tư và XK của các doanh ngiệp FDI
Lĩnh vực kinh tế
Số dự án
Trị giá vốn đầu tư
Tỷ lệ %
Doanh thu
1000 USD
Trị giá XK
1000 USD
1. Công nghiệp
1.203
12.642.542
35,2
11.659.257
5.021.565
Công nghiệp nặng
500
6.474.370
5.715.376
1.997.524
Công nghiệp nhẹ
577
3.774.759
3.389.864
2.656.922
Công nghiệp thực phẩm
126
2.393.383
7,2
2.554.017
367.119
2.Dỗu khí
23
2.558.268
5,7
1.391.764
3.Nông lâm thuỷ sản
294
3.030.477
371.529
Nông lâm nghiệp
245
1.874.827
1.227.743
309.714
Thuỷ sản
49
15.556.560
25,3
164.021
61.815
4. Du lịch-Dịch vụ KS
315
9.059.044
1.221.007
KS-DL-VP-Căn hộ
156
8.099.955
641.405
Văn hoá-Y tế-Giáo dục
76
433.107
208.45
Dịch vụ
119
525.982
11,7
121.152
5.Xây dựng
221
4.204.727
679.906
Xây dựng
208
3.401.187
601.322
XD Hạ Tầng KCX-KCN
13
803.45
7,8
58.284
6.GTVT-Bưu điện
97
2.804.627
1.822.965
7.Tài chính-Ngân hàng
48
542.25
1,5
261.409
Tổng cộng
2.339
35.786.144
17.197.429
11.248.000
Nguồn : Vụ Đầu Tư-Bộ Thương Mại
Từ số liệu trên ta thấy: cơ cấu đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp chiếm tỷ trọng đáng kể(32% trong tổng số vốn đầu tư ). Doanh thu, doanh số của các doanh ngiệp thuộc lĩnh vực này cũng chiếm tỷ trọng lớn. Tuy nhiên, cũng có những lĩnh vực chiếm giá trị lớn như du lịch,khách sạn lại không có khả năng XK và đạt doanh thu không cao.
-Về cơ cấu hàng XK: Cơ cấu hàng XK trước tiên phụ thuộc vào cơ cấu đầu tư Do vậy, tỷ lệ đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp càng lớn thì tỷ lệ XK hàng công nghiệp càng cao(chiếm khoảng 44,6%),điều này càng khảng định chủ trương thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực SX hàng công nghiệp của Đảng và Nhà nước ta là một chủ trương đúng đắn, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH.
-Về cơ cấu thị trường XK: thị trường XK của các doanh ngiệp có vốn đầu tư nước ngoài phần lớn do các nhà đầu tư nước ngoài quyết định. Trong số các nước có quan hệ hợp tác đầu tư với Việt Nam thì các nước châu á đầu tư lớn nhất, như: Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore. Và cũng chính các nước này NK hàng hoá nhiều nhất từ các doanh nghiệp FDI Việt Nam. Theo số liệu thống kê của Tổng cục hải quan , năm1998, chỉ riêng thị trongường Nhật Bản và các nước ASEAN, trị giá kim nghạch XK của các doanh nghiệp FDI đạt 886,9 triệu USD, chiếm 44,7%. Các nước , các khu vự còn lại như EU đạt 456triệu USD,chiếm 30%, Hoa Kỳ đạt 107,4 triệu USD, chiếm 5,4%; Nga 4 triệu, các nước khác đạt 28,4 triệu,chiếm 26%.
-Tỷ trọng XK chung của cả nước thời kỳ 1992-1998 cho thấy Nhật Bản và ASEAN đóng vai trò quan trọng. Tuy nhiên, Nhật Bản chỉ giữ vai trò trong các năm 1991-1995(chiếm bình quân trên 30% tổng kim nghạch XK của các doanh nghiệp FDI). Sau đó giảm dần,năm 1998 chỉ còn 15,8% kim nghạch XK nhưng các nước ASEAN không có sự thay đổi lớn trong suốt thời kỳ 1991-1998(chiếm tỷ trọng bình quân là 21,5% kim nghạch XK).
-Tỷ trọng XK vào EU tăng khá đều trong các năm qua: Năm 1991, EU mới đạt 5,7% kim nghạch XK của ta, nhưng tới năm 1998 đã chiếm 22,5%. Riêng trong khối FDI, tỷ lệ XK cũng đạt 30% kim nghạch của cả khối.
Phân tích cơ cấu XK một số mặt hàng chính vào các thị trường chính trong các năm 1998,1999 ta thấy:
-XK vào thị trường ASEAN:
Bảng 10: XK của các doanh nghiệp FDI vào thị trường ESEAN năm 1998
Đơn vị: 1000 USD
Thị trường
Gạo
Hải sản
Cà phê
Cao su
Giầy dép
Dệt may
Điện tử
Hàng khác
Tổng
trị giá
Brunei
183
183
Campuchia
9
8.086
17.086
Indonéia
7.89
97
707
707
3
164
7.897
1693.79
Lào
225
1.419
226.419
Malãiia
250
262
342
288
601
29.232
1772.23
Mianma
8
1.026
9.026
Philippine
638
71
231.814
940.814
Singapore
2.828
1.499
259
82
1.881
7.67
3.827
57.494
416.199
Thái Lan
168
138
1.131
2.615
67
188.492
565.238
Tổng
10.968
1.667
494
344
4.752
10.655
4.884
525.642
1396.57
Nguồn : Vụ Đầu Tư-Bộ Thương Mại
-XK vào thị trường Nhật Bản, Hoa Kỳ, Nga
Bảng 11: XK vào thị trường Nhật Bản, Hoa Kỳ, Nga
Đơn vị: 1000 USD
Thị trường
Gạo
Hải sản
Cà phê
Cao su
Giầy dép
Dệt may
Điện tử
Hàng khác
Tổng
trị giá
Nhật Bản
3.553
19.600
4
-
6.049
90.809
3.452
193.942
428.282
Mỹ
411
553
703
-
82.956
16.204
479
6.071
127.892
Nga
-
-
-
-
1.106
549
-
2.388
7.112
Tổng
3.963
20.213
707
66
100.111
107.563
3.931
202.401
563.286
Nguồn : Vụ Đầu Tư-Bộ Thương Mại
-XK vào thị trường EU
Bảng 12: XK vào thị trường EU
Đơn vị: 1000 USD
Thị trường
Hải sản
Cà phê
Cao su
Giầy dép
Dệt may
Điện tử
Hàng khác
Tổng
trị giá
Anh
-
6.515
136
27.571
7.272
1.623
16.210
59.326
Aó
-
-
-
390
122
38
915
1.464
Bỉ
107
-
-
77.989
6.468
25
28.421
113.009
Bồ Đào Nha
-
-
-
206
41
28
803
1.007
Đan Mạnh
-
-
-
986
865
1.159
3.296
6.305
Đức
41
569
-
21.176
32.144
9.264
33.032
96.239
Hà Lan
199
-
27
13.302
8.196
4.143
11.008
36.875
Hy Lạp
1.289
-
-
1.188
183
-
1.085
2.585
Italia
459
-
-
18.637
5.312
1.746
10.470
36.637
Phần Lan
-
-
-
2.067
833
212
1.788
4.909
Tây Ban Nha
20
-
-
4.505
2.674
681
8.580
16.459
Thuỵ Điển
45
-
-
2.456
1.889
2.490
4.149
11.028
Thuỵ Sĩ
-
202
-
1.253
999
-
2.907
5.361
Cộng
999
7.285
176
183.393
88.263
21.765
154.021
455.915
Nguồn : Vụ Đầu Tư-Bộ Thương Mại
- Thị trường khác đạt 528.363.854 USD
Như vậy, XK của các doanh ngiệp FDI sang Nhật Bản các nước ASEAN
Kim nghạch tuy có tăng 10% so với năm 1997 (975 so với 886 triệu USD) và chiếm phần lớn kim nghạch của khối(37,6%) nhưng thị phần lại giảm (từ 44,7% xuống 37,6%). XK sang thị trường Nhật Bản vẫn không thay đổi về thị phần. Kim nghạch XK sang EU tăng cao gần 50%. XK sang thị trường Nga và Mỹ có tăng hơn năm trước nhưng chậm.
+ Năm 1999
-XK vào thị trường Mỹ, Nhật và Nga
Bảng 13: XK của các doanh nghiệp FDI vào thị trường Mỹ, Nhật và Nga năm 1999
Thị trường
Gạo
Hải sản
Cà phê
Cao su
Giầy dép
Dệt may
Điện tử
Hàng khác
Tổng trị giá
Nhật Bản
4.864
12.407
-
-
21.996
13.543
287.064
287.064
428.282
Hoa Kỳ
-
850
-
-
96.465
178
22.321
22.321
127.892
Nga
-
-
-
433
202
-
5.961
5.961
7.112
Cộng
4.864
13.257
-
433
118.663
13.721
306.346
306.346
563.286
Nguồn : Vụ Đầu Tư-Bộ Thương Mại
-XK sang thị trường ASEAN
Bảng 14: XK của các doanh ngiệp FDI vào thị trường ASEAN năm 1999
Thị trường
Gạo
Hải sản
Cà phê
Cao su
Giầy dép
Dệt may
Điện tử
Hàng khác
Tổng
trị giá
Brunei
-
-
-
-
-
-
-
116
116
Campuchia
-
93
1
-
44
9
-
5.546
5.684
Indonéia
519
-
-
-
951
-
164
9.903
11.726
Lào
-
-
-
-
-
101
225
245
346
Malãiia
7.751
651
-
357
3.019
601
25.430
72.807
Mianma
-
-
-
-
-
61
-
620
681
Philippine
145
-
-
-
403
262
-
9.767
229.940
Singapore
785
1.623
681
748
6.970
10.578
3.827
38.672
68.265
Thái Lan
128
201
-
-
356
2.615
10.130
17.410
157.075
Tổng
9.328
2.568
682
748
9.081
15.151
401.373
107.709
546.640
Nguồn : Vụ Đầu Tư-Bộ Thương Mại
Năm 1999, XK của các doanh nghiệp FDI vào thị trường EU
+ Mặt hàng : hải sản, cà phê, cao su, giầy dép, dệt may, điện tử và một số hàng khác
+Tổng kim nghạch: 684.425 triệu USD
Theo số liệu trong các bảng trên, cơ cấu thi trường XK của các doanh nghiêpppj cũng không có sự thay đổi lớn so với năm 1998, thị trường XK chủ yếu vẫn là các nước châu á và chiếm lớn nhất vẫn là thị trường Nhật Bản và các ASEAN: 75 triệu USD chiếm 37,6%.
Nhìn chung, hoạt động XK của các doanh nghiệp FDI ngày càng có xu hướng phát triển cả về số lượng lẫn tốc độ và ngày càng đóng vai trò to lớn trong hoạt động XK của đất nước, góp phần tăng trưởng kinh tế và bình ổn cán cân thương mại.
2.3 Một số nhận xét về thực trạng hoạt động FDI trong thời gian vừa qua
Hoạt động FDI trong thời gian vừa qua đã thực sự có tác động tích cực, có vị trí quan trọng, góp phần chuyển biến nền kinh tế Việt Nam theo hướng CNH-HĐH. ảnh hưởng của loại hình kinh tế này đang ngày càng rõ nét và lan rộng trên nhiều mặt trong đời sống KT-XH của đất nước ta.
Tuy vậy không phải ở bất cứ đâu, thời gian nào hoạt động này cũng đưa lại kết quả như mong muốn và so với mục tiêu nhà nước ta đã đề ra cho FDI htì không phải dự án nào cũng đạt được. Điều này là khó tránh khỏi đối với chúnh ta ở giai đoạn đầu. Tuy niên có thể nói rằng đây là một lĩnh vực còn khá mới mẻ đối với nước ta (chưa đầy 20 năm). Mặt khác nhu cầu thu hút vốn nước ngoài của Việt Nam còn lớn, cơ sở cho hoạt động đầu tu nước ngoài lại thiếu thốn nên Việt Nam chưa có điều kiện lựa chọn, do đó có những dự án chỉ đạt được một hoặc một số mục tiêu nhưng hoàn cảnh buộc chính phủ ta chấp nhận. Qúa trình thực hiện FDI trong thời gian qua bộc lộ một số vấn đề sau cần quan tâm giải quyết:
2.3.1 Vấn đề về một số quan hệ trong liên doanh
a. Quan hệ giữa phương thức góp vốn và lợi ích của các bên đối tác đầu tư
Thực tế về phương thức và việc thực hiện góp vốn là việc góp vốn của bên Việt Nam thường được thực hiện một lần ngay khi dự án bắt đầu triển khia xây dựng cơ bản, trong khi đó việc góp vốn của bên nước ngoài thường được thực hiện rải ra trong một thời gian dài. Như vậy, có những thời kỳ tỷ lệ góp vốn thực tế của Việt Nam cao hơn hẳn bên nước ngoài, nhưng theo quy định thì lợi ích mà hai bên được hưởng cũng như vị thế trong điều hành hoạt động của lien doanh lại theo tỷ lệ với phần vốn pháp định đã được ghi trong giấy phép đầu tư. điều này một mặt gây thua thiệt cho bên Việt Nam cả về kinh tế lẫn quyền điều hành liên doanh, mặt khác làm mất đi yếu tố kinh tế để ràng buộc và thúc đẩy bên nước ngoài thực hiện việc góp vốn đầy đủ và đúng tiến độ.
Việc góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất trong hoàn cảnh thiếu vốn và các nguồn lực khác là cách tạo thêm diều kiện để phía Việt Nam tham gia vào liên doanh, nhưng có nhược điểm là khi cần khuyến khích cần khuyến khích đầu tư chính phủ Việt Nam tiến hành giảmt giá thuê đất, điều này đồng nghỉa với việc chúng ta chấp nhận giảm xuông về quy mô gốp vốn của phía Việt Nam trong một liên doanh nào đó và việc này đã tồn tại ởm một số cơ quan, doanh nghiệp…Khi đang chiếm giữ được một diện tích đất đai nào đó, họ sẵn sàng mời chào, kêu gọi đầu tư nước ngoài, bất chấp những dự án mà họ thamgia đàm phán có liên quan đến chuyên môn, hiểu biết hay kinh nghiệm của cơ quan doanh nghiệp mình không. Kết quả là nếu dự án thành hiện thực thì không những hoạt động của liên doanh đó rất kém hiệu quả mà rất có thể làm tổn hại đến lợi ích chung của đất nước ta.Kết cục , nếu dự án đầu tư trở thành hiện thực, thì không những hoạt động của liên doanh đó rất kém hiệu quả mà cũng rất có thể làm tổn hại đến lợi ích chung của đất nước ta; hơn nữa số cán bộ của bên việtnam ổ dạng này, do không có chuyên môn và sự am hiểu nên không có khả năng tham gia điều hành liên doanh, đã trở thành những bên đối tác lệ thuộc và làm thuê cho chủ đầu tư nưức ngoài.
Trên thực tế vừa qua, việc góp vốn bằng thiết bị, máy móc, nhà xưởng, giá trị quyền sở hữu công nghiệp, bí quyết kỹ thuật, quy trình công nghệ, dịch vụ kỹ thuật… bên Việt Nam chỉ mới có được một số nhà xưởng, công trình (cũ), số còn lại chủ yếu là của bên nưức ngoài. Thu hút máy móc, thiết bị, kỹ thuật, công nghệ… hiện đại từ các nhà đầu tư nước ngoài là mong muốn và là những điều đạt được đáng phấn khởi của Việt Nam trong thời gian qua. Tuy vậy, do thiếu chặt chẽ trong quản lý, yếu trong khả năng kiểm tra kiểm soát… của bên Việt Nam nên vẫn tồn tại bên nước ngoài đưa vào thực hiện những dự ná đầu tư những thiết bị kém chất lượng hơn dự kiến, không những thế một số trường hợp còn khai tăng giá so với giá trị thực của thiết bị; hoặc như trong việ chuyển giao công nghệ, ở một số trường hợp, mặc dù công nghệ đã loại phổ biến như bên Việt Nam bị ép buộc phải chấp nhận và chịu lệ phí chuyển giao công nghệ. Trong trường hợp này, ta thấy quy luật kinh tế vận động theo hướng thu lợi (hay thua thiệt) với cấp số nhân, tức là nếu việc tăng giá (hay chịu lệ phí chuyển giao công nghệ) thực hiên trong việc mua bán thiết bị (công nghệ) thì mức độ có lợi (thiệt hại) chỉ diễn ra một lần qua trao đổi, nhưng khi số giá trị này đưa vào trong việc góp vốn (và nếu liên doanh hoạt động có lãi) thì việc bên nước ngoài thu lợi còn bên Việt Nam chịu thiệt sẽ diễn ra trong cả qua trình hoạt đôngj sản xuất-kinh doanh của dự án và bên nước ngoài lợi bao nhiêu thì bên Việt Nam thiệt bấy nhiêu.
b. Về vấn đề con ngưòi trong mối quan hệ giữa thực lực với vị trí và một số tranh chấp của các bên đối tác trong liên doanh
Trong hầu hết các dự án được triển khai hoạt động vào thời kỳ đầu thì không chỉ riêng số cán bộ thuộc các cơ quan, doanh nghiệp tham gia liên doanhđơn thuần bằng quyền sử dụng đất mà nhìn chung số cán bộ của bên Việt Nam trong các liên doanh đều là những người xuất thân hoặc từ các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoặc từ các doanh nghiệp nhà nước ít năng động và yếu kém hay nói cách khác đó là những doanh nghiệp ít vốn, kỹ thuật công nghệ lạc hậu, chưa thích nghi được với cơ chế thị trường… Bản thân một số cán bộ trong diện này chưa được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về tổ chức, hoạt động của nền kinh tế hiện đại nên họ rất thiếu kiến thức trong giao dịch, thương lượng hợp đồng , tổ chức quản lý SXKD cũng như kiểm soát hoạt động của liên doanh. Sự chênh lệch về trình độ đã dẫn đến tình trạng hoặc bên Việt Nam mất quyền đièu hành chi phối và lệ thuộc vào cách điều hành liên doanh của bên nước ngoài hoặc làm nảy sinh những tramh chấp khó giải quyết. Khi những đại diện cho bên Việt Nam tham gia vào bộ máy của liên doanh chưa khẳng định được vị trí của mình thì theo logic, họ cũng dễ mất khả năng đứng ra bẩo vệ các quyền lợi chính đáng của công nhân Việt Nam. Trong khi đó,với mục đích thu lợi nhuận cao nên một số nhà đầu tư nước ngoài đã cố tình không thực hiện một số chế độ theo qui định như kéo dài thời gian lao động, trả lương thấp hơn mức tối thiểu, không thực hiện các chế đọ bảo hiểm,…không những thế họ còn có biểu hiện đối xử không tốt với người Việt Nam. Về phía người lao động Việt Nam thì còn có nhiều người thiếu về pháp luật, nhất là luật lao động nên có những đòi hỏi khôgn phù hợp với lợi ích của mình . những điều nêu trên là nguyên nhân cơ của đến mâu thuẫn giữa giới chủ với người lao động dẫn đến việc tranh chấp căng thẳng trong một số doanh nghiệp FDI.
c. Việc tiêu thụ sản phẩm
Trong liên doanh, do bên Việt Nam chưa có khả năng tạo ra những mẫu mã hàng hoá phù hợp với thị hiếu của khách hàng quốc tế và thiếu điều kiện để tiéep cận với thị trường quốc tế nên việc tiêu thụ ssản phẩm gần như ‘khoán trắng’ cho bên nước ngoài. Đây lại là cơ hội cho một số đối tác nước ngoài thực hiện giá bán sản phẩm thấp hơn thực tế để thu chênh lệch , gây thiệt hại cho phía Việt Nam. Một số doanh nghiệp tồn tại trên danh nghỉa là liên doanh nhưngvề thực chất lại là bên Việt Nam thực hiện gia công cho nước ngoài nên chỉ được hưởng lợi ích rất thấp. Trong một số liên doanh khác bên nước ngoài lại cản trở việc XK sản phẩm của doanh nghiệp sang một số thị trường vốn là bạn hàng truyền thống của Việt Nam nếu ở đó đã có liên doanh sản xuất sản phẩm cùng loại của họ, chẳng hạn trước đây Trung Quốc là thị trường tương đối lý tưởng của bột giặt Viso, Nga là thị trường của xà phòng thơm General thì khi tham gia liên doanh, các chủ đầu tư nước ngoài đã không cho thực hiện việc xuất khẩu này vì ở hai nước đó đã có dự án đầu tư cùng loại của họ.
2.3.2 Về cơ cấu đầu tư FDI
Cơ cấu FDI theo nghành và lãnh thổ chưa đạt được như nhà nước ta mong muốn, còn tương đối bất cập so với công cuộc CNH-HĐH cũng như sự phảt triển bền vững cúa dất nước.
Chúng ta đã có các chính sách ưu đãi để hướng dẫn, thu hút đầu tư nước ngoài theo chiến lược phát triển kinh tế nghành và vùng lãnh thổ. Thế nhưng, các cấp độ ưu đãi chưa tương ứng với mức độ chênh lệch về điều kiện giữa cá nghành, các vùng nên đầu tư trực tiếp nước ngoài vẫn tập trung chủ yếu vào những nghành có khả năng đạt hiệu quả cao, những đại bàn có điều kiện thuận lợi về kết cấu hạ tầng và môi truờng kinh tế-xã hội. Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực nông-lâm nghiệp đang có xu hướng chững lại và giảm dần vì đây là lĩnh vực chịu nhiều rủi ro, thời gian thu hồi vốn dài, trình độ quản lý dự án còn nhiều hạn chế. Đến cuối năm 1999 trong lĩnh vực này đã có tới 74 dự án đầu tư nước ngoài bị giải thể trước thời hạn với số vốn 287 triệu USD. Trong đó, 35 dự án thuộc lĩnh vực trồng trọt và chế biến nông sản, 39 dự án chế biến gỗ và chế biến lâm sản. Cũng trong lĩnh vực nông lâm nghiệp, các dự án nước ngoài lại tập trung chủ yếu vào các vùng Đông Nam Bộ, đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long. Riêng ba vùng này đã chiếm tới 63,5% tổng số dự án và 70% vốn đầu tư. Trong khi đó, có 15 tỉnh thuộc trung du và miền núi phía Bắc, tuy vẫn là những địa bàn có nhiều tiềm năng mở rộng và phát triển nông-lâm nghiệp và có nhu cầu lớn về thu hút đầu tư, nhưng do điều kiện khó khăn nên hầu như chưa có dự án đầu tư nước ngoài nào vào lĩnh vực nông-lâm nghiệp ở các vùng này. Đối với các lĩnh vực khác ta thấy số dự án đầu tư nước ngoài vẫn tập trung chủ yếu vào các điai phương có điều kiện thuận lợi – chỉ riêng 10/61 tỉnh, thành phố có điều kiện thuận lợi đã thu hút tới 87,8% so với tổng số đầu tư nước ngoài vào cả nước.
Về phía các nghành, các địa phương vẫn tồn tại hiện tượng cạnh tranh nhau giữa các nghành, các địa phương trong thu hút đầu ngoài trực tiếp nước ngoài. Một số công ty nước ngoài khi đến Việt Nam tìm hiểu các điều kiện để đầu tư nhưng qua tiếp xúc với một số địa bàn và lĩnh vực cụ thể, họ có thể thấy “cách mời chào” khác nhau mặc dù vấn đề đó có cùng một điều khoản trong luật đầu tư. Những hiện tượng “gây nhiễu” như vậy đôi lúc làm cho nhà đầu tư nước ngoài mất phương hướng, thậm chí làm cho họ giảm độ tin cậy vào sự nhất quán trong thực hiện một số điều khoản, quy định của Việt Nam. Tình trạng thiếu đồng nhất về quy hoạch cũng như cách kêu gọi vốn đầu tư giữa các nghành, các địa phương đã trở thành yếu tố tác động tiêu cực, cản trở chiến lược kêu gọi, hướng dẫn đầu tư nước ngoài theo nghành và vùng lãnh thổ của cả nước.
2. 3.3 Vấn đề thực hiện chiến lược CNH hướng về xuất khẩu ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã đạt được những kết quả tốt, những chuyển biến tích cực, ngày càng có vị trí cao, thực sự góp phần quan trọng làm tăng kim nghạch xuất khẩu của nước ta. Tuy vậy, hoạt động sản xuất-kinh doanh của các doanh nghiệp này hiện nay đang có những biểu hiện theo xu hướng sản xuất hàng thay thế nhập khẩu hơn là hướng về xuất khẩu. Một xu hướng không những có lợi mà có khi còn gây nên những tác động trong chiến lược CNH, HĐH của ta.
Qua phân tích tình hình thực tế hoạt dộng sản xuất-kinh doanh của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, ta có thể đánh giá được một số vấn đề (đã bộc lộ hoặc đang tiềm ẩn), những ý định, monh muốn của một số nhà đầu tư nước ngoài đối với những sản phẩm do doanh nghiệp của mình sản xuất ra. Có lẽ, nhiều nhà đầu tư nước ngoài khi nghiên cứu, tìm hiểu các điều kiện của nước ta để tính toán cho dự án đầu tư họ đều nhìn nhận ở Việt Nam như một thị trường nhiều tiềm năng: với số dân đông, sức mua hiện nay tuy còn ở mức thấp nhưng rất có triển vọng nâng cao trong tương lai… Họ cho rằng, thay vì việc sản xuất ở nước khác và muốn nhập khẩu hàng hoá vào Việt Nam thì phải thông qua nhiều điêù kiện khó khăn, thuế nhập khẩu cao, bị động trong nắm bắt thị trường tiêu thụ hàng hoá… bằng đầu tư trực tiếp để sản xuất hàng hoá tại Việt Nam. Điều này giúp họ vừa chiếm lĩnh được thị trường khi hàng hoá cùng loại chưa có doanh gnhiệp nào sản xuất, hoặc có doanh nghiệp Việt Nam ở trình độ thấp sản xuất với giá thành cao hiện nay, vừa giành được ưu thế cạnh tranh trong tương lai, khi sản phẩm của họ trở nên quen thuộc với người tiêu dùng Việt Nam. Xuất phát từ những tính toán như vậy nên khi theo yêu cầu của ta, nhiều nhà đầu tư nước ngoài sẵn sàng cam kết và đồng ý ghi trong giấy phép là xuất hàng hoá phục vụ chủ yếu cho xuất khẩu. Nhưng khi thực tế doanh nghiệp đi vào sản xuất-kinh doanh họ đã lấy lý do gặp khó khăn trong việc tìm kiếm thị trường, tác động của khủng hoảng cũng như một số điều kiện bất khả kháng từ bên ngoài… để hướng sản xuất của họ vào thị trường Việt Nam, cứ từng bước như vậy họ cố gắng làm giảm dần tính hiệu lực của một số điều khoản được ghi trong giấy phép đầu tư để rồi chuyển hướng từ sản xuất hướng về xuất khẩu sang sản xuất cho thay thế nhập khẩu. Các công ty nước ngoài, sau khi được cấp giấy phép đầu tư vào Việt Nam, xem đó là điều kiện hợp pháp để quảng cáo, tuyên truyền cho hàng hoá, nhãn hiệu, khuyếch đại năng lực của công ty mẹ, cũng như đưa hàng của công ty con sản xuất tại nước khác vào bán ở thị trường Việt Nam.
Tóm lại, phân tích thực trạng khối lượng cũng như tổng số vốn đầu tư FDI mà Việt Nam thu hút được trong thời gian qua cho thấy sau giai đoạn ‘ khởi động’ ( 1988-1990) với tổng vốn đầu tư của cả 3 năm mới chỉ đạt 1,5 tỷ USD là giai đoạn tăng trưởng nhanh, ‘sôi động” của hoạt động FDI (1991-1995), với đỉnh cao năm 1995 với lượng vốn đăng kký là 6,530 tỷ USD nhưng trong 4 năm tiếp theo (1996-1999) có sự suy giảm liên tục; năm 2000 đã có dấu hiệu của sự phục hồi, tuy nhiên còn là quá nhỏ bé so với nhu cầu thu hút.
Bên cạnh những thành tựu đạt được hoạt động FDI bộc lộ những mặt yếu kém, hạn chế, chẳng hạn như cơ cấu đầu tư về lãnh thổ hay nghành nghề còn nhiều bất hợp .
Chương 3
một số giải pháp nhằm thu hút FDI tại Việt Nam
Theo như phân tích ở chương 2 thì nguồn FDI tại Việt Nam từ năm 1997 liên tục giảm sút. Mặc dù năm 2000 nguồn vốn này đã bắt đầu phục hồi song lại chưa mạnh nếu không muốn nói là không đáng kể so với năm 1999. Vì vậy cần thiết phải tiếp tục có những biện pháp thúc đẩy việc thu hút thì mới mong đạt được mục tiêu tăng trưởng FDI liên tục, đạt được mức vốn thực hiện là 11 tỷ USD. Sau đây là một số giải pháp đề xuất:
3.1 Thống nhất quan điểm nhận thức chung về FDI
Khu vực FDI là bộ phận hữu cơ của nền kinh tế và ngày càng phát triển cùng với tiến trình hội nhập của Việt Nam vào nền kinh tế sthế giới. đó là đòi hỏi khách quan của sự nghiệp CNH-HĐH đất nước, của xu hế toàn cầu hoa , khu vực hoá, hoàn toàn không phải là giải pháp nhất thời để bù đắp tình trạng thiếu vốn hiện tại. Trên tinh thần đó, cần thống nhất quan điểmnhận thức chung về FDI, đặc biệt là sự cần thiết, vai trò của FDI đối với nền kinh tế Việt Nam,mối quan hệ giữa phát huy nội lực và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế,giữa thu hút FDI và bảo vệ độc lập, chủ quyền, an ninh xã hội, bảo hộ sản xuất trong nước… Chỉ trên cơ sở thống nhất các quan điểm cơ bản mới tạo nên sự ổn định, nhất quán trong xây dựng luật pháp, chính sách, chỉ đạo điều hành hoạt động FDI.
3.2 Xây dựng danh mục kêu gọi FDI
Hàng năm hay từng thời kỳ, Việt Nam cần phải công bố danh mục các dự án quốc gia kêu gọi FDI. đây chính là kim chỉ nam cho mọi hoạt động xúc tiến đầu tư đồng thời cũng là một gợi ý đầu tư cho các nhà đầu tư nước ngoài. Các dự án được lựa chọn vào danh mục này cần phải có sự thống nhất về chủ chương và quy hoạch và được bố trí vốn làm dự án tiền khả thi. Muốn vậy chúng ta cần phải xây dựng qui hoạch ngành và các sản phẩm chủ yếu để xác định rõ phạn vi hoạt động của FDI và của đầu tư trong nước, đặc biệt là các nghành như điện, điện tử, xi măng, sắt thép, rượu bia, nước giải khát, sữa, mía đường,chất tẩy rửa,…
Việt Nam cũng cần nghiên cứu đánh giá để có qui hoạch phát triển mang tính khả thi vé các khu công nghiệp, khu chế xuất, đặc khu kinh tế, phù hợp với quy hoạch phát triển KT-Xhcủa địa phương và vùng lãnh thổ và qui hoạch phát triển nghành kinh tế –kỹ thuật. Trước mắt cần tập chung các giải pháp xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế- kỹ thuật- xã hội và thu hút vốn đầu tư để lấp đầy các khu công nghiệp đã phê duyệt.
3.3 Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách về FDI
a. Việt Nam cần phải tiếp tục xây dựng, điều chỉnh, hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến đấu tư trực tiếp nước ngoài, tạo diều kiện thuận lợi cho hoạt động FDI phát triển theo đúng địng hướng phát triển kinh tế-xã hội và phù hợp với yêu cầu chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Việc xây dựng, hoàn thiện này cần theo hướng : thiết lập mặt bằng pháp lý chung cho cả đầu tư trông nước và đầu tư nước ngoài nhằm tạo lập môi trường ổn định, bình đẳng cho sản xuất và kinh doanh, tiến tới xoá bỏ dần sự phân biệt về chính sách đầu tư có liên quan đến quyền , nghĩa vụ giữa các nhà đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Trước mắt, rà soát lại tất cả các loại giá cả hàng hoá, dịch vụ, lệ phí do nhà nước qui định… để cóo sự điều chỉnh hợp lý, thu hẹp và tiến tớí áp dụng mặt bằng giá thống nhất đối với nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài.
b. cần phải đa dạng hoá các hình thức đầu tư trực tiếp nước nước ngoài để khai thác thêm các kênh thu hút đầu tư mới ; nghiên cứu và thực hiện thí điểm các hình thức đầu tư mới như công ty hợp danh, công ty quản lý vốn; sửa đổi bổ sung Nghị định số 103/199/NĐ-CP ngày 10 tháng 9 năm 1999 của chính phủ về giao, bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp nhà nước, theo hướng cho phép nhà đầu tư FDI mua, nhận khoán kinh doanh, quản lý, thuê các doanh nghiệp trong nước ; Việt Nam cũng cần học tập nước ngoài như Trung Quốc là nghiên cứu xây dựng mô hình kinh tế mở.
Nhằm tạo điều kiện cho các nhà đầu tư FDI nói riêng và đầu tư nước ngoài nói chung có được một ‘sân chơi’ rộng lớn hơn, cần phải mở rộng lĩnh vực thu hút FDI phù hợp với cam kết trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Từng bước mở cửa thị trường bất động sản cho ngưòi Việt Nam định cư ở nước ngoài và các nhà đầu tư FDI tham gia đầu tư tại Việt Nam; xây dựng cơ chế để doanh nghiệp FDI được xây dựng và kinh doanh nhà ở, phát triển khu đô thị mới; đồng thời để nhanh chóng bắt kịp với trình độ khoa học kỹ thuật , tiếp cận sâu rộng hơn với khu vực và thế giới, nhà nước ta cần khuyến khích đầu tư trong các lĩnh vực dịch vụ khoa học công nghệ, dịch vụ thông tin, chuyển giao công nghệ hiện đại, kể cả công nghệ nguồn, phát triển nguồn nhân lực; từng bước mở rộng khả năng hợp tác đầu tư trông lĩnh vực thương mại, dịch vụ, du lịch- những lĩnh vực còn nhiều tiềm năng.
c. Tiếp tục thực hiện lộ trình giảm chi phí đầu tư và tiến tới chế độ một giá áp dụng thống nhất cho đầu tư trong nước và đầu tư FDI theo quyết định số 53/1999/QĐ-TTg ngày 26 tháng 3 năm 1999 của thủ tướng chính phủ.
d. Đổi mới và hoàn thiện chính sách tiền tệ liên quan đến hoạt động FDI theo hướng tiếp tục giảm dần, tiến tới việc xoá bỏ kết hối ngoại tệ khi có đủ điều kiện. Sử dụng linh hoạt, có hiệu quả các công cụ, chính sách tiền tệ như tỷ giá, lẫi suất theo nguyêntức thị trưòng có sự quản lý vĩ mô của nhà nước.
e. Tiếp tục cải cách hệ thống thuế phù hợp với tình hình phát triển KT-XH của đất nước và cam kết quốc tế theo hướng đơn giản hóa các sắc thuế, từng bước áp dụng hệ thống thuế chung cho cả đầu tư trong nước và đầu tư FDI. Xây dựng chính sách thuế khuyến khích đầu tư FDI sản xuất phụ tùng, linh kiện, nâng cao tỷ lệ nội địa hoá sản phâm cho phép các dự án sản xuất nguyên liệu phụ trợ hàng XK được hưởng ưu đãi tương tự như các dự án đầu tư sản xuất hàng XK.
Việc bảo hộ phải có thời hạn hợp lý có hiệu quả, và chỉ đối với một số sản phẩm quan trọng. Việc bảo hộ sản xuất trong nước phải được đặt trong bối cảnh Việt Nam tham gia ASEAN, AFTA và chuẩn bị gia nhập WTO, nghĩa là sẽ phải chấp nhận cạnh tranh ác liệt do xu thế tự do hoá đầu tư và thương mại mang đến. Do đó bảo hộ sản xuất không chỉ là riêng cho doanh nghiệp Việt Nam mà cả doanh nghiệp FDI trên đất Việt Nam vì nó là bộ phận hữu cơ của nền kinh tế Việt Nam, là pháp nhân Việt Nam. Bảo hộ sản xuất phải có điều kiện và phải có thời gian hợp lý để doanh nghiệp có dx đopỏi mới công nghệ, thiết bị nhằm tạo ra các sản phẩm có chất lượng cao, giá rẻ hơn giá nhập khẩu; kiên quyết không bảo hộ những cung cách làm ăn không có hiệu quả, làc hậu, cản bước tiến cuẩ CNH-HĐH.
f. Giải quyết kịp thời những khó khăn vướng mắc về đất đai, giải phóng mặt bằng để đẩy nhanh tiến độ triển khai dự án. Thí điểm cho phép các tư nhân trong nước đã được cấp quyền sử dụng đất lâu dài được cho các nhà đầu tư FDI thuê lại đất trrong thời hạn cấp quyền sử dụng đất.
Nghiên cứu cách giải quyết yêu cầu của doanh nghiệp nước ngoài đầu tư thực hiện dự án lớn ở Việt Nam cần thế chấp giá trị quyền sử dụng đất đã được giao hoặc cho thuê dài hạn để vay vốn của các tổ chức tín dụng hoạt động ở nước ngoài trong trường hợp các tổ chức tín dụng ở Việt Nam không có khả năng đáp ứng nhu cầu vốn.
3.4 Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động FDI
a.Nâng cao trách nhiệm của các bộ, các nghành, uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trong việc quản lý các doanh nghiệp FDI theo luật định, bảo đảm hiệu quả hoạt động của các trung tâm xử lý ‘nóng’; định kỳ tiếp xúc với các doanh nghiệp, đối thoại với các nhà đầu tư FDI để tìm hiểu những vưóng mắc của họ.
Cần mạnh dạn hơn nữa trong việc phân cấp, uỷ quyền hơn nữa cho các địa phương trong việc quản lý hoạt động của các doanh nghiệp có vốn FDI trên đại bàn để đơn giản hơn nữa thủ tục, xử lý kịp thời các vấn đề phát sinh. Việc phân cấp này phải trên cơ sở đảm bảo bảo nguyên tắc tập trung, thống nhất quản lý về qui hoạch, cơ cấu, chính sách và cơ chế; trong đó chú trọng phân cấp quản lý Nhà nước đốivới hoạt động sau giấy phép của các dự án FDI; tăng cường sự hướng dẫn, kiểm tra của các Bộ, nghành trung ương. Có cơ chế xử lý nghiêm khắc các trường hợp vi phạm luật pháp, chính sách, quy hoạch trong việc thực hiện chủ chưong phân cấp quản lý nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài, kể cả việc phải chấm dứt hiệu lực của các giấy phép đầu tư cấp sai qui định.
Các cơ quan cấp giấy phép đầu tư phải thường xuyên rà soát, phân loại các dự án FDI đã được cấp giấy phép đầu tư để có những biện pháp thích hợp, kịp thời tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp FDI.
Đối với doanh nghiệp đã đi vào sản xuất, kinh doanh, các Bộ ,nghành và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, trong phạm vi thẩm quyền của mình, cần động viien khen thưởng kịp thời để khuyến khích các doanh nghiệp hoạt động tốt tiếp tục phát triển, đồng thời cần có những biện pháp thích hợp để tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp, nhất là vấn đề thị trường tiêu thụ sản phẩm, các nghĩa vụ thuế.
Đối với các dự án đang triển khao thực hiện, các Bộ ,nghành và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh cần tích cực doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn, nhất là trong khâu đền bù, giải phóng mặt bằng để nhanh chóng hoàn thành xây dựng cơ bản, đưa doanh nghiệp vào sản xuất kinh doanh.
Đối với các dự án chưa triển khai, song xét thấy có khả năng thực hiện, cần thúc đẩy viêc triển khai trong một thời gian và giải quyết các vướng mắc, kể cả việc điều chỉnh mục tiêu và quy mô hoạt động của dự án.
Đối với các dự án chưa triển khai và không có triển vọng thực hiện, cần kiên quyết thu hồi giấy phép đầu tư, dành địa điểm cho nhà đầu tư khác.
b. Kiểm soát chặt chẽ việc thành lập mới các khu công nghiệp (KCN) và đánh giá tình hình triển khai các KCN đã có quyết định thành lập; bổ sung các mô hình về KCN nhỏ phục vụ cho việc phát triển nghành nghề ở nông thôn và chỉnh trang đô thị; điều chỉnh cơ chế chúnh sách đầu tư phát triển hạ tầng trong và ngoài hàng rào; tách việc cho thuê đất nguyên thổ và kinh doanh hạ tầng.
3.5 Cải tiến các thủ tục hành chính
Đẩy mạnh cải cách hành chính liên quan đến hoạt động đầu tư FDI. Nghiên cứu xây dựng cơ chế quản lý và tổ chức quản lý theo hướng một cửa, một đầu mối trung ương và ở địa phương để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư FDI.
Để tạo bước căn bản về thủ tục hành chính, cần thực hiện các giải pháp sau:
-Tăng cường phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý nhà nước ở trung ương và đại phương trong quản lý hoạt động đầu tư FDI; phân định rõ quyền hạn, trách nhiệm của từng cơ quan trrong việc giải quyết các vấn đề phát sinh; duy trì thường xuyên việc tiếp xúc của cơ quan quản lý Nhà nước với các nhà đầu tư FDI.
-Cải tiến các thủ tục hành chính liên quan đến các hoạt động đầu tư FDI theo hướng tiếp tục đơn giản hoá các thủ tục cấp phép đầu tư , mở rộng phạm vi các dự án thuộc diện đăng ký cấp phép đầu tư; rà soát có hệ thống tất cả các loại giấy phép,các qui định liên quan đến hoạt động FDI, trên cơ sở đó bãi bỏ những loại giấy phép, qui định không cần thiết đối với hoạt động FDI.
-Các Bộ , các nghành và địa phương phải qui định rõ ràng , công khai các thủ tục hành chính, đơn giản hoá và giảm bớt các thủ tục không cần thiết; kiên quyết xử lý nghiêm khắc các trường hợp sách nhiễu, cửa quyền, tiêu cực và vô trách nhiệm cuả cán bộ công quyền.
3.6 Đẩy mạnh công tác vận động, xúc tiến đầu tư
Khi mà hoạt động đầu tư nước ngoài ở Việt Nam ở giai doạn đầu thì các chủ đầu tư nước ngoài còn đang tiếp cận, thăm dò và lựa chọn thì hoạt động xúc tiến đầu tư như ‘bà mối’ giúp các chủ đầu tư nước ngoài và trong nước rút ngắn thời gian tìm hiểu, tạo điều kiện để họ nhanh chóng đi đến làm ăn với nhau. Có thể nói xúc tiến đầu tư tác động trực tiếp tới FDI, là công cụ đeer chuyển những yếu tố thuận lợi của môi trường đầu tư thông qua các cơ chế hữu hiệu cuả hệ thống các khuyến khích tac động đến các nhà đầu tư tiềm tàng ở nước ngoài. đồng thời caanf phải xúc tiến đầu tư vì có quá nhiều cơ hoọi đầu tư trên thế giới, sự lựa chọn của nhà đầu tư là phải trên lượng thông tin kịp thời vad chính xảctên ccơ sở so sánh mức độ sinh lợi và rủi ro. Cạnh tranh thu hút FDI cũng là cạnh tranh trong lĩnh vực xúc tiến, vận động đầu tư. Chúng ta cần phải có những biện pháp xúc tiến sau:
Đổi mới phương thức vận động, xúc tiến đầu tư
-Đẩy mạnh vận động đầu tư một cách chủ động theo các chương trình, dự án trọng điểm ; xúc tiến đầu tư theo nghành, lĩnh vực, địa bàn với các dự án và đối tác cụ thể, hưóng vào các đối tác nước ngoài có tiềm lực về tài chính và công nghệ nguồn như: Châu Âu, Bắc Âu, Bắc Mỹ, Nga…tiếp tục vận động nhà đầu tư Nhật Bản, Đài Loan, Singapore có tiềm lực, thế mạnh ở những lĩnh vực ta có nhu cầu; có kế hoạch vận động trực tiếp các tập đoàn có tiềm lực về vốn, công nghệ, thị trường tiêu thụ…
-Phối hợp chặt chẽ giữa Bộ Ngoại Giao, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Thương Mại trong việc nghiên cứu thị trường đầu tư thế giới và khu vực, ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính…,phối hợp trao đổi thông tin: tiến hành các hoạt động xúc tiến đầu tư và thương mại từ bên ngoài thông qua các cơ quan đại diện ngoại giao và thương mại nước ngoài của Việt Nam ở các nước và địa bàn trọng điểm để nâng cao hiệu quả và đảm bảo tiết kiệm. Tranh thủ sự hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau với các tổ chức xúc tiến đầu tư nước ngoài quốc tế; trước hết lầ trong khuôn khổ của ASEAN, APEC, hợp tác ASEAN-ÂU, hợp tác với các cơ quan xúc tiến đầu tư của Nhật, Mỹ, các nước EU và các tổ chức quốc khác…
Tạo điều kiện thuận lợi cho việc thành lập hiệp hội hoặc câu lạc bộ các doanh nghiệp có vốn FDI tại Việt Nam; Tăng cường phối hợp chặt chẽ với csc cơ quan xúc tiến thương mại của các nước ở Việt Nam để giới thiệu luật pháp, chính sách , quảng bá các chương trình, dự án đầu tư; Tổ chức định kỳ các cuộc gặp cộng đồng đầu tư nước ngoài tại Việt Nam để tìm hiểu tình hình, tháo gỡ khó khăn và hỗ trợ cho các doanh nghiệp FDI đang đầu tư đầu tư tại Việt Nam.
Công bố danh mục dự án gọi vốn FDI ; soạn thảo in tài liệu,sách phổ biến luật pháp,
chính sách về FDI bằng các thứ tiếng thôngdụng như Anh, Pháp, Nhật, Trung Quốc…
Đồng thời, các bộ các nghành , Uỷ ban nhân dân tỉnh thành phố phải chủ động và có trách nhiệm hướnh dẫn, chỉ đạo đàm phán, ký kết hợp đồng các dự án FDI.
b. Chú trọng cả xúc tiến đầu tư để thu hút các dự án FDI mới và các hoạt động hỗ trợ các nhà đầu tư để triển khai hiệu quả các dự án FDI đang hoạt động. Giải quyết kịp thời các khó khăn, vướng mắc để cácdn đầu tư FDI hoạt động thuận lợi. Biểu dương, khen thưởng kịp thời các doanh nghiệp, nhà FDI có thành tích xuất sắc trong kinh doanh, có đóng góp thiết thực vào xây dựng đất nước. Đồng thời phê phán, xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm pháp luật Việt Nam.
-Đa dạng hoá các hoạt động xúc tiến đầu tư thông qua các hoạt động đối ngoại của lãnh đạo Đảng và Nhà nước, các diễn đàn quốc tế, các hoạt động hợp tác xúc tiến đầu tư trong khuôn khổ tác AIA, ASEAN, APEC, ASEM, các cuộc hội thảo về đầu tư ở trong và ngoài nước; sử dụng tổng hợp các phương tiện xúc tiến đầu tư qua truyền thông đại chúng, mạng Internet, tiếp xúc trực tiếp…
-Đẩy mạnh việc tuyên truyền giới thiệu về hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài để tạo dựng hình ảnh mới về Việt Nam; tạo sự đánh giá thống nhất về đầu tư trực tiếp nước ngoài trong dư luận xã hội.
-Các cơ quan đại diện ngoại giao-thương mại Việt Nam có trách nhiệm làm tốt việc vận động xúc tiến đầu tư vào Việt Nam, bố trí cán bộ làm công tác xúc tiến đầu tư ở một số địa bàn trọng diểm. Tăng cường cán bộ làm công tác xúc tiến đầu tư ở các Bộ, ngành, địa phương.
-Bố trí nguồn tài chính cho hoạt động xúc tiến đầu tư trong kinh phí ngân sách chi thường xuyên hàng năm của các Bộ, ngành, địa phương.
-Tăng cường công tác nghiên cứu tình hình kinh tế, thị trường đầu tư, chính sách đấù tư ra nước ngoài của cá nước, các tập doàn và công ty lớn để có chính sách thu hút đầu tư phù hợp; nghiên cứu luậl pháp, chính sách, biện pháp thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nước trong khu vực để kịp thời có đối sách thích hợp.
-Xây dựng, hoàn thiện hệ thống thông tin về đầu tư trực tiếp nước ngoài làm cơ sở cho việc hoạch định chính sách, quản lý hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, mở rộng tuyên truyền đối ngoại trên cơ sở sử dụng thông tin hiện đại. X ây dựng và đưa vào trang Web về đầu tư trực tiếp nước nước ngoài để phục vụ việc cung cấp thông tin cập nhật vèe chủ chương, chính sách pháp luật về đầu tư, giới thiệu các dự án kêu gọi đầu tư, biểu dương những dự án thành công.
3.7 Xây dựng một đội ngũ cán bộ có năng lực, công nhân kỹ thuật có trình độ cao trong khu vực FDI
Vấn đề tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và công nhân lành nghề luôn là nhiệm vụ hàng đầu của công tác quản lý Nhà nước. Trước hết, trong liên doanh các cán bộ bên Việt Nam là người đại diện cho quyền lợi phía Việt Nam nên họ phải là những người có đủ năng lực chuyên môn, trình độ ngoại ngữ . Có như vậy, họ mới đảm bảo được lợi ích cho doanh nghiệp Việt Nam, cho người lao động Việt Nam khi cần, tránh tình trạng bị ‘lép vế’ trước bên nước ngoài. Tiếp đến, đối với những công nhân làm việc trong doanh nghiệp có vốn FDI, bao gồm cả liên doanh hoặc 100% vốn nước ngoài, nghĩa là bao gồm cả hình thức có lãnh đạo doanh nghiệp FDI là người Việt Nam hay không, thì ngoài trình độ tay nghề cũng phải có một hiểu biết nhất định về luật pháp, chẳng hạn như luật lao động, thì mới biết abỏ vệ những lợi ích hợp lý của mình. Muốn vậy, cần phải;
-Tổ chức bồi dưỡng, năng cao trình độ về luật pháp, chính sách, chuyên môn, ngoại ngữ đối với đội ngũ cán bộ làm hợp tác với nước ngoài.
Thí điểm hình thức thi tuyển hoặc có cơ chế bổ nhiệm hợp lý các chức vụ quan trọng trong liên doanh. Rà soát, sàng lọc để năng cao chất lượng cán bộ, chấm dứt tình trạng hễ có đất góp vốn thì mặc nhiên được cử người của mình tham gia vào Hội Đồng Quản Trị và Ban Giám Đốc.
Phối hợp với Bộ lao động, Thương binh và xã hội và các doanh nghiệp nước ngoài tổ chức tốt việc nâng cao tay nghề cho người lao động.
* *
*
Tóm lại, để thu hút có hiệu quả FDI, cần thiết phải tiến hành đồng bộ các giải pháp khác nhau nhưng lại gắn bó rất chặt chẽ với nhau nêu trên . Một mặt, Việt Nam cần tạo dựng môi trường đầu tư hấp dẫn, mặt khác cần tạo dựng lòng tin và sự hiểu biết về đầu tư tại Việt Nam cho các nhà đầu tư nước ngoài. Phải biết kết hợp lợi ích của cả hai bên, tức là trong khi theo đuổi mục tiêu tổng thể kinh tế- xã hội mà Việt Nam đã đề ra thì chính phủ Việt Nam cũng phải cần quan tâm đến lợi ích của nhà đầu tư nước ngoài; trong trường hợp có sự mâu thuẫn về mục đích gây ảnh hưởng tới bên này hoặc bên kia, thì hai bên cần có sự thảo thuận để có thể tối đa hoá các điều kiện và lợi ích của nhau, bởi về nguyên tắc FDI chỉ phát huy tốt nhất khi thoả mãn tốt nhất mục đích, quyền lợi hai bên.
Nhưng có lẽ thuyết phục hơn cả đối với các nhà đầu tư FDI vẫn là việc Việt Nam cần phải giải quyết nhanh chóng, dứt điểm các vụ việc đang được các nhà đầu tư quan tâm trên cơ sở quan điểm nhận thức mới nhằm khôi phục lòng tin của họ đối với hoạt động FDI ở nước ta và duy trì mở rộng hoạt động của các ‘đường dây nóng” không để “ nguội “đi mmọt cách nhanh chóng . chính nhưũng biểu hiện cụ thể này kết hợp với đường lối chính sách mới sẽ tỏ rõ thiện chí và quyết tâm của Đảng và Nhà nước ta trong việc tăng cường thu hút FDI.
Nếu làm nhất định ta sẽ thấy hiệu quả của những quết tâm và thiện chí đó.
Kết luận
Những thành tựu thu được trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài trong những năm đổi mới vừa qua đã chứng tỏ sự hấp dẫn của môi trường đầu tư Việt Nam, sự thông thoáng của luật đầu tư nước ngoài, đồng thời cho thấy rõ việc thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là một chủ trương đúng đắn, kịp thời của Đảng và Nhà nước ta, góp phần quan trọng vào việc thực hiện mục tiêu KT-XH, vào thắng lợi của đường lối đổi mới, vào việc củng cố và tăng cường sức mạnh kinh tế và vị thế của Việt Nam tại khu vực và trên trường quốc tế.
Tuy nhiên, hoạt động FDI trong những năm qua cũng bộc lộ một số hạn chế. Cơ cấu đầu tư còn bất hợp lý và hiệu quả tổng thể KT-XH của hoạt động đầu tư trực tiếp còn chưa cao; môi trường pháp lý còn đang trong quá trình hoàn thiện; thủ tục hành chính vẫn còn rườm rà…; đặc biệt từ năm 1997, do nhiều nguyên nhân, nhịp độ tăng trưởng của hoạt động này liên tục giảm sút, tuy năm 2000 đã có dấu hiệu phục hồi nhưng chưa vững chắc. Vì vậy, việc cải thiện toàn diện môi trường FDI tại Việt Nam là vấn đề tất yếu trong giai đoạn hiện nay và hy vọng rằng các giải pháp nêu ra trong bài viết này sẽ đóng góp được phần nhỏ bé trong nỗ lực thu hút FDI tại Việt Nam.
Bước vào thế kỷ 21, Việt Nam đang có nhiều cơ hội đồng thời lại phải đối mặt với nhiều thách thức to lớn, đặc biệt là phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt về xuất khẩu, về thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài từ các nước trong khu vực. Nhưng sự ổn định về chính trị cùng với chính sách nhất quán và lâu dài ‘Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước’, những lợi thế vốn có về tài nguyên, con người sẽ vẫn là những thế mạnh của môi trường đầu tư Việt Nam. Cùng với những nỗ lực và quyết tâm thu hút FDI của chính phủ, Việt Nam chắc vẫn sẽ là một địa chỉ hấp dẫn đối với các nhà đầu tư trong khu vực và trên toàn thế giới.
tài liệu tham khảo
1. Vũ Chí Lộc(1997), giáo trình đầu tư nước ngoài , NXB GD
2. Bài " các nguồn vốn nước ngoài ở Việt Nam : thực trạng và những khuyến nghị chính sách", tạp chí "những vấn đề kinh tế thế giới" số2(70) 2001
3. Bài "đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thời kỳ 1988-1999", tạp chí "những vấn đề kinh tế thế giới" số2(64) 2000
4. Bài "vấn đề việc làm ở Việt Nam", Nghiên cứu kinh tế số 260 1/2000
5. Bài "một số vấn đề về quản lý kinh doanh ở các liên doanh với nước ngoài", tài chính, tháng 12/1998
6. Bài "Giải pháp gì cho sự giảm sút đầu tư FDI vào Việt Nam" những vấn đề kinh tế ngoại thương số 1/1998"
7. Bài "đầu tư FDI vào Việt Nam trước cuộc khủng hoảng tiền tệ ở châu á", nghiên cứu kinh tế 5/1998
8. Bài "tổng quan đầu tư FDI tại Việt Nam", Thương Mại, số 3+4 năm 1999
9. Bài "cơ cấu vốn đầu tư toàn xã hội", thời báo kinh tế Việt Nam, 6/2000
10. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996 .
11. Luật đầu tư nước ngoài sửa đổi, bổ sung năm 2000
12. Nghị quyết của chính phủ về tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài thời kỳ 2001-2005 số 09/2001/NQ-CP
13. Chỉ thị của Thủ tướng chính phủ về việc tổ chức thực hiện nghị quyết09/2001/NQ-CP
14. Nghị định 10/CP ngày 18/2/1998 về một số biện pháp khuyến khích bảo đảm đầu tư
15. Nghị định 24/CP ngày 31/7/2000 về qui định chi tiết thi hành luật sửa đổi, bổ sung năm 2000
16. Tài liệu tham khảo phục vụ sửa đổi luật ĐTNG năm 2000
17. Tập tài liệu của Vụ Đầu Tư - Bộ Thương Mại
18. Niên giám thống kê năm 1999,2000
Mục lục
Trang
Lời mở đầu 1
Chương 1: khái quát về đầu tư trực tiếp nước ngoài 3
1.1 Khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài 3
1.1.1 Khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài nói chung 3
1.1.2 Khái niệm về FDI theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 5
1.2 Vai trò của FDI 7
1.2.1 Vai trò của FDI đối với nước nhận đầu tư (là nước đang phát triển) 7
1.2.2 Những đóng góp cụ thể của FDI đối với Việt Nam 9
Chương 2: Vài nét về thực trạng FDI tại Việt Nam 13
2.1 Thực trạng cấp giấy phép FDI tại Việt Nam 13
2.1.1 Tình hình chung 13
2.1.2 Về các đối tác được cấp giấy phép đầu tư 14
2.1.3 Về địa bàn đầu tư 15
2.1.4 Giấy phép đầu tư theo nghành kinh tế 16
2.1.5 Về các hình thức đầu tư 17
2.2 Tình hình thực hiện của các dự án FDI tại Việt Nam 18
2.2.1 Tiến độ thực hiện vốn FDI 18
2.2.2 Về vấn đề góp vốn của hai bên đối tác 19
2.2.3 Đầu tư nước ngoài vào một số lĩnh vực kinh tế tiêu biểu 20
2.2.4 Tình hình xuất nhập khẩu của doanh ngiệp FDI 21
2.3 Một số nhận xét về thực trạng hoạt động FDI trong thời gian vừa qua 28
2.3.1 Vấn đề về một số quan hệ trong liên doanh 28
2.3.2 Về cơ cấu đầu tư FDI 31
2.3.3 Vấn đề thực hiện chiến lược CNH hướng về xuất khẩu ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 32
Chương 3: một số giải pháp nhằm thu hút FDI tại Việt Nam 34
3.1 Thống nhất quan điểm nhận thức chung về FDI 34
3.2 Xây dựng danh mục kêu gọi FDI 34
3.3 Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách về FDI 35
3.4 Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách về FDI 37
3.5 Cải tiến các thủ tục hành chính 38
3.6 Đẩy mạnh công tác vận động, xúc tiến đầu tư 39
3.7 Xây dựng một đội ngũ cán bộ có năng lực, công nhân kỹ thuật có trình độ cao trong khu vực FDI 41
kết luận 44
Tài liệu tham khảo 45
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 12150.DOC