Tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế cá thể tiểu chủ ở Việt Nam: LỜI NÓI ĐẦU
Thế kỷ XX ghi nhận trong lịch sử loài người những dấu ấn sâu sắc. Đây là thế kỷ của những cuộc cách mạng khoa học phát triển vượt bậc và nhanh chưa từng có, của những cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc , là thế kỷ của những chiến công và thắng lợi có ý nghĩa lich sử của thời đại. Việt Nam một dân tộc anh dũng đã bước qua cuộc đấu tranh giành độc lập tư do, thống nhất đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội dưới sự ngạc nhiên và một con mắt nhìn đầy khâm phục của bạn bè thế giới. Song song công cuộc xây dựng đất nước phát triển kinh tế -xã hội, với nền kinh tế mang nặng đường lối tập trung quan liêuu bao cấp đã làm cho nước ta tụt hậu xa về mọi mặt từ kinh tế - văn hóa - đời sống xã hội… so với các nước trong khu vực nói riêng và các nước trên toàn thế giới nói chung. Nền kinh tế đó đã tạo ra tình trạng lạm phát, sự khan hiếm hàng hoá, nạn tham nhũng, suy thoái về đạo đức của cán bộ Đảng viên, cùng hàng loạt những tiêu cực xây dựng khác. Đến công cuộc đổi mới sự giác ngộ cù...
31 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1349 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế cá thể tiểu chủ ở Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Thế kỷ XX ghi nhận trong lịch sử loài người những dấu ấn sâu sắc. Đây là thế kỷ của những cuộc cách mạng khoa học phát triển vượt bậc và nhanh chưa từng có, của những cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc , là thế kỷ của những chiến công và thắng lợi có ý nghĩa lich sử của thời đại. Việt Nam một dân tộc anh dũng đã bước qua cuộc đấu tranh giành độc lập tư do, thống nhất đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội dưới sự ngạc nhiên và một con mắt nhìn đầy khâm phục của bạn bè thế giới. Song song công cuộc xây dựng đất nước phát triển kinh tế -xã hội, với nền kinh tế mang nặng đường lối tập trung quan liêuu bao cấp đã làm cho nước ta tụt hậu xa về mọi mặt từ kinh tế - văn hóa - đời sống xã hội… so với các nước trong khu vực nói riêng và các nước trên toàn thế giới nói chung. Nền kinh tế đó đã tạo ra tình trạng lạm phát, sự khan hiếm hàng hoá, nạn tham nhũng, suy thoái về đạo đức của cán bộ Đảng viên, cùng hàng loạt những tiêu cực xây dựng khác. Đến công cuộc đổi mới sự giác ngộ cùng với những thời cơ mới; Đảng đã đề ra quan điểm phát triển kinh tế - xã hội là : Phải phát triển nhanh hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với việc thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội nhưng vẫn xác định phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm. Trong đó phải bố trí sao cho cơ cấu ngành, cơ cấu vùng, cơ cấu thành phần kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Về cơ cấu thành phần kinh tế thực hiện nhất quán chính sách nền kinh tế nhiều thành phần trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, phải chủ động sắp xếp lại tổ chức, đổi mới và nâng cao hiệu quả các doanh nghiệp Nhà nước, đầu tư chiều sâu, thay đổi trang thiết bị, cổ phần hóa một số doanh nghiệp. Chính những chính sách trên của Đảng đã làm cho nước ta thoát khỏi tình trạng nghèo đói, từ một nước nhập khẩu lương thực nay chúng ta đã trở thành một quốc gai xuất khẩu gạo đứng thứ 2 thế giới, nền kinh tế dần dần được khôi phục và phát triển, đời sống của nhân dân ngày càng được nâng cao. Nhưng nền kinh tế nhiều thành phần voí tư cách là cơ sở kinh tế cho sự tồn tại và phát triển kinh tế hàng hoá đã bị xóa bỏ, thay vào đó là co cấu kinh tế hầu như chỉ có kinh tế Nhà nước và kinh tế thập thể đã làm mất khả năng cạnh tranh và hợp tách trong kinh doanh. Trình độ cơ sở vật chất và kỹ thuật trong các doanh nghiệp còn thấp kém, lạc hậu, sản phẩm làm ra hầu như còn thiếu khả năng cạnh tranh. Kết cấu hạ tầng vật chất xã hội cả về kỹ thuật và mạng lưới giao thông vận tải, điện nước, thông tin lưu điện, thủy lợi… thấp kém không bảo đảm cho việc phát triển kinh tế hàng hoá trong nước cản trở việc triển khai luật đầu tư nước ngoài đối với nước ta. Những nhà doanh nghiệp khá giỏi thích nghi với cơ chế thị trường và kinh doanh theo pháp luật còn ít, người dân nhiều năm sống trong cơ chế bao cấp, mới bước đầu làm quen với cơ chế thị trường. Luật pháp kinh tế mới được hình thành nhưng chưa đồng bộ. Người dân chưa có tập quán hoạt động và kinh doanh theo pháp luật. Các cơ quan thuộc các ngành tư pháp "người cầm cần nảy mực còn chưa nghiêm chỉnh". Thu nhập bình quân đầu người năm 2000 là 300 USD. Thu nhập của những người làm công ăn lương và nông dân ở mức thấp, sức mua hàng hoá và dịch vụ chưa cao nên nhu cầu có khả năng thanh toán còn chậm; dung lượng thị trường trong nước không nhiều. Tình trạng thừa hàng hoá "giả tạo", suy thoái sản xuất kinh doanh và thất nghiệp là khó tránh khỏi.
Từ những thực trạng nói trên của nền kinh tế nước ta thì việc đưa ra một chính sách mới để cải thiện và phát triển nền kinh tế nhằm rút ngắn khoảng cách lạc hậu và nghèo khó với các nước trên thế giới là vô cùng cấp bách. Vì lý do trên mà hội nghị lần thứ V ban chấp hành TW Đảng (khoá IX) đã đưa ra nghị quyết về tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách, khuyến khích và phát triển kinh tế tư nhân. Khẳng định "kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế, công nghiệp hóa hiện đại hóa, nâng cao phần nội lực của đất nước trong hội nhập kinh tế quốc tế". Vì vậy em chọn đề tài "Thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế cá thể tiểu chủ ở Việt Nam" để viết đề án kinh tế chính trị.
NỘI DUNG
Kinh tế tư nhân bao gồm kinh tế cá thể tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân. Kinh tế cá thể tiểu chủ là thành phần kinh tế tư hữu nhỏ mà thu nhập hoàn toàn dựa vào lao động và vốn của bản thân gia đình. Kinh tế cá thể tiểu chủ cũng là hình thức tư hữu nhưng có thuê lao động, tuy nhiên thu nhập vẫn chủ yếu dựa vào sức lao động, tay nghề của từng gia đình, từng người lao động. Hiện nay thành phần kinh tế này phần lớn hoạt động dưới hình thức hộ gia đình là một bộ phận đông đảo, có tiềm năng to lớn, có vị trí quan trọng lâu dài. Do đó cần hướng dẫn thành phần kinh tế cá thể tiểu chủ vì lợi ích thiết thân và nhu cầu của sản xuất từng bước đi vào làm ăn hợp tác một cách tự nguyện, hoặc làm vệ tính cho doanh nghiệp Nhà nước hay hợp tác xã, có như vậy mới khắc phục được những hạn chế vốn có như tính tự phát, manh mún, hạn chế tiến bộ kỹ thuật.
Còn kinh tế tư bản tư nhân là thành phần kinh tế dựa trên cơ sở chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc lột lao động làm thuê. Thành phần kinh tế này tồn tại một cách khách quan. Trong điều kiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, thành phần kinh tế này có vai trò đáng kể xét về phương diện phát triển lực lượng xã hội, xã hội hóa sản xuất cũng như phương diện giải quyết vấn đề xã hội. Thành phần kinh tế này tồn tại trong những ngành có lợi cho quốc kế dân sinh mà pháp luật không cấm.
Hơn 10 năm qua, thực hiện đường lối, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, được sự đồng tình hưởng ứng tích cực của nhân dân, kinh tế tư nhân gồm kinh tế cá thể tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân, hoạt động dưới hình thức hộ kinh doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp của tư nhân đã phát triển rộng khắp trong cả nước, đóng góp quan trọng vào sự tăng trưởng kinh tế. Trong lĩnh vực nông nghiệp kinh tế tư nhân đã đóng góp vào tổng giá trị sản lượng. Nông lâm ngư nghiệp là 95% điều này đã khẳng định kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng trong sản xuất nông nghiệp. Hơn nữa đối với nông nghiệp rói riêng, sản lượng lương thực bình quân mỗi năm là 1,1 triệu tấn đưa Việt Nam từ nước nhập khẩu lương thực trở thành nước xuất khẩu gạo thứ II thế giới. Với những vai trò đáng kể này thì khu vực kinh tế tư nhân sẽ là lực lượng cơ bản trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. So với vai trò chủ đạo của kinh tế tư nhân trong lĩnh vực nông nghiệp nói chung thì trong công nghiệp đóng góp của kinh tế tư nhân còn hạn chế, song những đóng góp của khu vực vào sự tăng trưởng của toàn ngành công nghiệp là không thể phủ nhận. Về dịch vụ phần lớn các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân là doanh nghiệp thương mại dịch vụ do các hoạt động này thường có quy mô nhỏ và thu hồi vốn nhanh, thích hợp với khả năng tài chính của các nhà đầu tư tư nhân. Mặt khác khu vực tư nhân còn tham gia vào một số lĩnh vực về: y tế, giáo dục đào tạo. Sự tham gia này vừa có tác dụng hỗ trợ cho Nhà nước nhằm đáp ứng nhu cầu của nhân dân, vừa tạo ra sự cạnh tranh đối với các cơ sở kinh tế của Nhà nước. Kinh tế tư nhân còn có vai trò cải thiện đời sống nhân dân bằng việc tạo ra nhiều việc làm và thu nhập ổn định cho người lao động. Theo ước tính của bộ lao động thương binh và xã hội, sau khi luật doanh nghiệp đi vào cuộc sống mỗi năm sẽ có 14.000 doanh nghiệp moí được thành lập đồng nghĩa với việc có thêm khoảng 50.000 chỗ làm mới mỗi năm. Sự hình thành của các doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần, công ty hợp danh mới sẽ góp phần tạo thêm việc làm cho người lao động, đồng thời nhờ sự phát triển mạnh mẽ của các doanh nghiệp này, mức sống của người lao động được cải thiện. Hiện nay thu nhập bình quân của người lao động ở khu vực ngoài quốc doanh là 800.000 - 1.000.000 đ/người/tháng ở thành thị, 500.000 - 600.000 đ/người/tháng ở nông thôn. Con số này cao hơn so với khu vực quốc doanh. Kinh tế tư nhân cũng góp phần đáng kể vào việc tăng Ngân sách Nhà nước. Ngân sách Nhà nước tăng lên cũng tạo điều kiện cho việc khắc phục những khuyết tật vốn có của kinh tế thị trường, tăng kinh phí để Nhà nước đầu tư, xây dựng cơ sở hạ tầng; tạo điều kiện cho sự ra đời và phát triển doanh nghiệp, ngân sách Nhà nước tăng lên cũng góp phần bình ổn giá cả thị trường và chống lạm phát, các công trình công cộng vui chơi giải trí phục vụ nhân dân được hình thành, các công trình đường xã cầu cống được Nhà nước đầu tư xây dựng hay thực hiện theo phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm". Sự phát triển của kinh tế tư nhân cũng góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội của đất nước góp phần phóng lực lượng sản xuất, thúc đẩy phân công lao động, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tăng thêm số lượng công nhân, lao động và doanh nhân Việt Nam, thực hiện chủ trương xã hội hóa y tế, văn hóa, giáo dục…
Tuy vậy kinh tế tư nhân nước ta hiện nay chưa được chú ý phát triển đúng mức phần lớn có qui mô nhỏ và kinh doanh chủ yếu trong lĩnh vực lưu thông. Vốn ít, công nghệ sản xuất lạc hậu; trình độ quản lý yếu kém, hiệu quả và sức cạnh tranh yếu, ít đầu tư vào lĩnh vực sản xuất; còn có nhiều khó khăn, vướng mắc về vốn, về mặt bằng sản xuất kinh doanh, về môi trường pháp lý và môi trường tâm lý xã hội; nhiều đơn vị kinh tế tư nhân chưc thực hiện tốt những quy định của pháp luật đối với người lao động; không ít đơn vị vi phạm pháp luật, trốn lậu thuế, gian lận thương mại, kinh doanh trái phép… Quan điểm của Đảng trên một số vấn đề cụ thể về phát triển kinh tế tư nhân chưa được làm rõ để tạo sự thống nhất. Một số cơ chế, chính sách của Nhà nước chưa phù hợp với đặc điểm của kinh tế tư nhân đại bộ phận có quy mô nhỏ và vừa; quảnlý có phần buông lỏng và có những sở hở, hạn chế việc thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển đúng hướng. Để khắc phục những nhược điểm trên của kinh tế tư nhân nhằm phát triển nền kinh tế Nghị quyết Đại hội IX của Đảng đã xác định : "Thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Các thànhphần kinh tế kinh doanh theo đúng pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh; trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân"; kinh tế cá thể tiểu chủ được Nhà nước tạo điều kiện và giúp đỡ phát triển "; "kinh tế tư bản tư nhân" được khuyến khích phát triển rộng rãi trong những ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm". Để thực hiện nghị quyết Đại hội IX của Đảng khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển, không ngừng nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh, tạo thêm việc làm, có mức tăng trưởng hàng năm cao hơn hiện nay, đầu tư nhiều hơn vào khu vực sản xuất, tham gia ngày càng nhiều các hoạt động công ích, hợp tác liên doanh với nhau, với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, trong những năm tới cần làm tốt những nhiệm vụ sau đây:
Thống nhất về các quan điểm chỉ đạo phát triển kinh tế tư nhân: Nhà nước tôn trọng và đảm bảo quyền tự do kinh doanh theo pháp luật, bảo hộ quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân; khuyến khích hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi và định hướng, quản lý sự phát triển của kinh tế tư nhân theo pháp luật, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Các hộ kinh doanh cá thể được Nhà nước tạo điều kiện và giúp đỡ để phát triển ở cả nông thôn và thành thị, khuyến khích các hộ liên kết hình thành các hình thức tổ chức hợp tác làm vệ sinh cho doanh nghiệp hoặc phát triển lớn hơn. Quá trình này đòi hỏi phải tuân theo những nguyên tắc cơ bản như tự nguyện không gò ép, cùng có lợi ích và phát triển từ thấp đến cao. Không nên hợp tác hoá là con duy nhất để đưa nền kinh tế tiểu nông lên chủ nghĩa xã hội. Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý và tâm lý xã hội để các doanh nghiệp của tư nhân phát triển rộng rãi trong những ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm, không hạn chế về qui mô, nhất là trên những định hướng ưu tiên của Nhà nước; khuyến khích chuyển thành doanh nghiệp cổ phần, bán cổ phần cho người lao động tạo điều kiện để mỗi người lao động đều có một phần tài sản, vốn liếng đóng góp cổ phần của mình vào các cơ sở sản xuất, dịch vụ để tạo điều kiện phát huy vai trò của họ trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội. Bảo vệ lợi ích hợp pháp chính đáng của người sử dụng lao động và người lao động, đảm bảo đời sống của người lao động từng bước được nâng cao, góp phần xoá đói giảm nghèo. Xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa người lao động và người sử dụng lao động trên cơ sở pháp luật và tinh thần đoàn kết tương thân tương ái. Chăm lo bồi dưỡng, giáo dục các chủ doanh nghiệp nâng cao lòng yêu nước, tự hào dân tộc, gắn bó với lợi ích của đất nước và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội và các hiệp hội doanh nghiệp đối với kinh tế tư nhân nói cung cũng như trong từng doanh nghiệp.
Tạo môi trường thuận lợi về thể chế và tâm lý xã hội cho sự phát triển của kinh tế tư nhân: Sửa đổi, bổ sung luật doanh nghiệp và một số quy định chưa thống nhất giữa các văn bản pháp luật đã ban hành về những vấn đề liên quan đến kinh tế tư nhân theo hướng xóa bỏ phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế; bảo đảm thể hiện đồng bộ, nhất quán các quan điểm của Đảng về phát triển kinh tế tư bản tư nhân, tính cụ thể, minh bạch và ổn định của pháp luật; tiếp tục tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trong luật pháp, thủ tục hành chính . Qui định rõ những ngành nghề, lĩnh vực kinh tế tư nhân không được phép kinh doanh hoặc kinh doanh có điều kiện; khi thay đổi các qui định cần có thời gian chuyển tiếp và chính sách bổ sung để doanh nghiệp thích ứng, giảm thiểu thiệt hại cho người kinh doanh. Xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan quản lý Nhà nước trong đăng ký kinh doanh và quản lý hoạt động của kinh tế tư nhân; sửa đổi, bổ sung một số quy định theo hướng vừa tạo thuận lợi, vừa chặt chẽ trong cấp đăng ký kinh doanh, theo yêu cầu "một cửa, một dấu"; nghiên cứu xây dựng hệ thống lý lịch tư pháp của công dân; ra soát lại, bài bỏ những giấy phép, chứng chỉ hành nghề không cần thiết, gây khó khăn cho đăng ký kinh doanh và hoạt động của doanh nghiệp, đồng thời quản lý chặt chẽ và có chế tài xỷ lý nghiêm minh những vi phạm của các đơn vị kinh tế tư nhân trong đăng ký kinh doanhvà hoạt động, cũng như những vi phạm của cơ quan cán bộ Nhà nước trong thi hành công vụ. Làm tốt công tác phổ biến, tuyên truyền quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với việc phát triển kinh tế tư bản tư nhân. Cổ vũ và biểu dương kịp thời những doanh nhân, đơn vị sản xuất, kinh doanh có hiệu quả, đúng pháp luật, có đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội đất nước, đảm bảo lợi ích người lao động, tạo điều kiện cho tổ chức Đảng, các đoàn thể nhân dân phát huy vai trò của mình trong doanh nghiệp. Bảo hộ sự phát triển, tạo môi trường tâm lý xã hội thuận lợi cho phát triển kinh tế tư nhân.
Sửa đổi, bổ sung một số cơ chế, chính sách: Tập trung sửa đổi, bổ sung một số cơ chế, chính sách bảo đảm sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế về cơ hội và khả năng lựa chọn các điều kiện để phát triển ; tiếp tục tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc, sửa đổi những quy định chưa phù hợp với trình độ, quy mô kinh doanh để kinh tế tư nhân có thể thụ hưởng những chính sách ưu đãi của Nhà nước đối với các ngành, các vùng, các sản phẩm và dịch vụ cần ưu tiên hoặc khuyến khích phát triển không phân biệt và dân chủ giữa các thành phần kinh tế. Điều này được biểu hiện ở mối quan hệ giữa lợi ích và nghĩa vụ của các thành phần kinh tế với nhau và với Nhà nước. Ở đây không đề cập tới dân chủ về mặt chính trị, mà chỉ giới hạn trong kinh tế. Dân chủ trong kinh tế đó là quyền tự do kinh doanh, quyền sở hữu tài sản, quyền hưởng thụ kết quả kinh doanh và nghĩa vụ đóng góp đối với Nhà nước. Dân chủ không thể thực hiện được bằng mệnh lện mà phải được thể chế hoá bằng luật pháp, cơ chế và dân chủ phải đảm bảo tính tập trung. Nhà nước cần chú trọng tạo điều kiện thuận lợi cho những doanh nghiệp vừa và nhỏ đồng thời tài trợ cho một số lĩnh vực, mặt hàng sản phẩm khuyến khích hoặc đáp ứng yêu cầu thực hiện mục tiêu kinh tế xã hội. Việc tài trợ này không phân biệt thành phần kinh tế, thành phần nào làm được thì hưởng ưu đãi.
Chính sách đất đai: Sửa đổi bổ sung luật đất đai theo hướng : Đối với đất ở của tư nhân đã được cấp quyền sử dụng, đất đang được tư nhân dùng làm mặt bằng sản xuất, kinh doanh do được chuyển nhượng lại một cách hợp tác pháp quyền sử dụng hoặc được Nhà nước giao đã nộp trên sử dụng đất theo đúng quy định của pháp luật, thì tư nhân đso được tiếp tục sử dụng mà không phải nộp thêm tiền thuê đất cho Nhà nước khi dùng đất này vào sản xuất, kinh doanh. Nhà nước có chính sáhc xây dựng những khu công nghiệp với cơ sở hạ tầng cần thiết; có giá phù hợp để khuyến khích các doanh nghiệp trong đó có kinh tế tư nhân, thuê làm mặt bằng sản xuất kinh doanh. Có chính sách khuyến khích mạnh mẽ việc sử dụng ở các vùng còn nhiều đất chưa được sử dụng, đất trắng, đồi núi trọc. Doanh nghiệp tư nhân được dùng giá trị quyền sử dụng đất để thế chấp vay vốn ngân hàng hoặc góp cổ phần liên doanh với doanh nghiệp trong nước và nước ngoài. Đẩy mạnh việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở cho nhân dân. Trong khi chờ sửa đổi, bổ sung luật đất đai và các văn bản pháp luật có liên quan, thí điểm thực hiện các chủ trương trên.
Chính sách tài chính tính dụng: Thực hiện chính sách tài chính, tín dụng đối với kinh tế tư nhân bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác; đảm bảo để kinh tế tư nhân tiếp cận và được hưởng các ưu đãi của Nhà nước chokt hộ, doanh nghiệp nhỏ và vừa, cho đầu tư theo các mục tiêu được Nhà nước khuyến khích. Nhà nước hỗ trợ về xây dựng cơ sở hạ tầng chung (giao thông, điện, nước, thông tin liên lạc….), tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển. Sớm ban hành quy định của Nhà nước về cơ chế tài chính đối với doanh nghiệp của tư nhân. Tiếp tục đổi mới chế độ kê khai và nộp thếu phù hợp với đặc điểm của các hộ kinh doanh, doanh nghiệp nhỏ và vừa, vừa tạo thuận lợi cho người kinh doanh, vừa chống thất thu thuế. Có chính sách bảo hiểm rủi ro cho hoạt động của kinh tế tư nhân trong kinh tế thị trường, khuyến khích thành lập và tham gia quỹ bảo hiểm tương hỗ của các doanh nghiệp có sự hỗ trợ của Nhà nước. Ban hành quy định về đăng ký sở hữu tài sản, tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động kinh doanh. Kinh tế tư nhân dùng tài sản hình thành từ vốn vay để thế chấp vay vốn ngân hàng. Đơn giản hóa các thủ tục cho vay đi liền với tăng cường các dịch vụ thanh toán, bảo lãnh, tư vấn cho kinh tế tư nhân; bổ sung, sửa đổi một số quyết định để tạo thuận lợi cho việc xử lý tài sản thế chấp khi người vay không trả được nợ đến hạn. Sớm triển khai hoạt động các quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Sửa đổi bổ sung chế độ kế toán phù hợp với trình độ của doanh nghiệp nhỏ và vừa, tạo điều kiện cho doanh nghiệp của tư nhân sử dụng dịch vụ kiểm toán; thực hiện công khai tình hình tài chính người hàng năm.
Chính sách lao động tiền lương: Kinh tế tư nhân phải thực hiện đúng quy định của Bộ luật Lao động về việc ký kết hợp đồng lao động, tiền lương, tiền công, thời gian làm việc, đảm bảo các điều kiện vệ sinh an toàn lao động…, bổ sung chế tài cần thiết để xử lý vi phạm sớm ban hành đồng bộ các quy định về bảo hiểm xã hội để người lao động trong hộ kinh doanh cá thể và doanh nghiệp của tư nhân đều được tham gia. Tiến tới hình thành đa dạng về mô hình tổ chức thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội phù hợp với từng nhóm đối tượng, có nhiều mức đóng, mức hưởng khác nhau. Nghiên cứu ban hành chính sách bảo hiểm thất nghiệp theo hướng người sử dụng lao động và người lao động cùng đóng góp, có sự hỗ trợ một phần của Nhà nước.
Chính sách hỗ trợ về đào tạo, khoa học và công nghệ: Nhà nước trợ giúp đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ hiểu biết đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, trình độ chuyên môn kỹ thuật, năng lực kinh doanh cho chủ doanh nghiệp và người lao động. Đối vứoi chủ doanh nghiệp, cần quan tâm bồi dưỡng, giáo dục phát huy tinh thần yêu nước và trách nhiệm trước cộng đồng xã hội, có đạo đức kinh doanh, tôn trọng chữ tín, tự giác chấp hành chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; chăm lo đời sống và điều kiện làm việc cho người lao động tại doanh nghiệp. Phát triển các trung tâm day nghề của Nhà nước, đặc biệt là ở khu vực nông thôn, miền núi; khuyến khích, hỗ trợ các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước mở các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật cho doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế tư nhân và dạy nghề cho người lao động. Xây dựng hệ thống thông tin thị trường lao động. Mở rộng hệ thống dịch vụ tư vấn khoa học, công nghệ cho các hộ kinh doanh và doanh nghiệp. Nhà nước hỗ trợ mở các lớp ngắn hạn miễn phí bồi dưỡng kiến thức khoa học công nghệ cho các hộ kinh doanh, doanh nghiệp của tư nhân; hỗ trợ các doanh nghiệp ứng dụng công nghệ thông tin, thuê mua trả góp thiết bị đẻ đổi mới công nghệ; thực hiện tốt việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, khen thưởng các cá nhân và doanh nghiệp áp dụng có hiệu quả công nghệ tiên tiến, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm.
Chính sách hỗ trợ và thông tin, xúc tiến thương mại: có cơ chế và phương tiện đảm bảo cho khu vực kinh tế tư nhân nhận được những thông tin cần thiết về luật pháp, chính sách, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, của các ngành, các vùng; các thông tin dự báo trung, dài hạn về các ngành, các sản phẩm ở trong nước và trên thế giới, các dự án phát triển có nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước và các nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài. Nhà nước khuyến khích và hỗ trợ hộ kinh doanh, doanh nghiệp của tư nhân và các hiệp hội đẩy mạn hoạt động xúc tiến thương mại ở cả thị trường trong và ngoài nước.
Tiếp tục nghiên cứu, tổng kết thực tiễn để thấy rõ những đặc điểm mới của kinh tế tư nhân ở nước ta trong nền kinh tế thị trường định hướng xh chủ nghĩa, phân tích thực trạng, xu hướng phát triển để có quyết sách phù hợp đẩy mạnh phát triển kinh tế tư nhân theo chủ trương của Đảng.
Tiếp tục hoàn thiện và tăng cường quản lý Nhà nước : Chức năng quản lý Nhà nước đối với khu vực kinh tế tư nhân là xây dựng, hoàn thiện khung pháp lý và ban hành chính sách, cơ chế quản lý đối với các đơn vị sản xuất, kinh doanh; xây dựng, quy hoạch và trợ giúp đào tạo cán bộ quản lý cho doanh nghiệp; giám sát, thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật, chế độ, chính sách Nhà nước của doanh nghiệp, nắm chắt tình hình đăng ký kinh doanh và hoạt động của các hộ kinh doanh và doanh nghiệp. Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ và kiện toàn bộ máy quản lý Nhà nước đối với kinh tế tư nhân ở các bộ, các ngành và ủy ban nhân dân các tỉnh, Thành phố. Chính phủ giao cho một cơ quan làm đầu mối ở Trung ương, ủy ban Nhân dân các tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương, uỷ ban Nhân dân các tỉnh, Thành phố trực thuốc Trung ương giao cho một cơ quan làm đầu mối ở địa phương để phối hợp theo dõi, tổng hợp tình hình, phát hiện và đề xuất những biện pháp tháo gỡ khõ khăn và chủ động uốn nắn những sai phạm của kinh tế tư nhân. Các cơ quản bảo vệ pháp luật chỉ kiểm tra, thanh tra khi doanh nghiệp của tư nhân có dấu hiệu vi phạm pháp luật. Các cơ quan quản lý Nhà nước phải có chương trình thanh tra, kiểm tra định kỳ đối với doanh nghiệp, thông báo trước cho doanh nghiệp và chịu trách nhiệm trước pháp luật về các kết luận thanh tra, kiểm tra của mình. Thực hiện tốt quy định về báo cáo định kỳ của doanh nghiệp.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, nhân dân và các hiệp hội doanh nghiệp đối với việc phát triển kinh tế tư nhân. Xây dựng tổ chức cơ sở Đảng và các tổ chức Công đoàn, Đoàn thanh niên, Hội liên hiệp Thanh niên trong các doanh nghiệp của tư nhân có đủ điều kiện; quan tâm việc thực hiện này ngay khi doanh nghiệp bắt đầu hoạt động. Đổi mới phương thức lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng trong khu vực kinh tế tư nhân, tập trung vào việc nâng cao nhận thức chính trị, ý thức chấp hành pháp luật của cả người lao động và người chủ doanh nghiệp. Tổ chức, lãnh đạo phát huy vai trò của các đoàn thể nhân dân trong doanh nghiệp. Xây dựng mối quan hệ tốt đép giữa người sử dụng lao động và người lao động, phát huy lòng yêu nước, ý thức tôn trọng pháp luật quyết tâm làm giàu cho mình và cho đất nước. Những Đảng viên làm chủ doanh nghiệp tư nhân chấp hành tốt điều lệ Đảng và luật pháp, chính sách của Nhà nước thì vẫn là Đảng viên của Đảng. Ban tổ chức Trung ương chủ trì xây dựng đề án cụ thể về đổi mới phương thức lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng tại doanh nghiệp tư nhân phù hợp với yêu cầu và đặc điểm hoạt động trong điều kiện mới. Các cấp ủy và tổ chức Đảng quán triệt và phổ biến sâu rộng trong Đảng và nhân dân về quan điểm của Đảng đối với việc phát triển kinh tế tư nhân trong nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa, lãnh đạo triển khai thực hiện nghị quyết của các cấp, các ngành. Mặt trận Tổ quốc, Tổng liên đoàn Lao động, Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Hội Nông dân tổng kết, rút kinh nghiệm, có chương trình hành động thực hiện nghị quyết; phát huy vai trò đối với phát triển kinh tế tư nhân. Phát huy vai trò của Phòng thương mại và Công nghiệp Việt Nam và các hiệp hội doanh nghiệp. Có chương trình hỗ trợ nâng cao năng lực hoạt động của các hiệp hội; các hiệp hội mở rộng hoạt động trong một số lĩnh vực dịch vụ công. Tổng kết hoạt động của Hiệp hội Công thương thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Ban kinh tế Trung ưong phối hợp với các cơ quan có liên quan kiểm tra, theo dõi việc thực hiện nghị quyết và định kỳ báo cáo Ban chấp hành Trung ương, Bộ chính trị, Ban bí thư.
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP
NHẰM KHUYẾN KHÍCH SỰ PHÁT TRIỂN CỦA KINH TẾ CÁ THỂ TIỂU CHỦ Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN MỚI.
* Quan điểm, phương hướng để phát triển khu vực kinh tế cá thể tiểu chủ.
Một số quan điểm cơ bản về phát triển kinh tế tư nhân trong giai đoạn tới :
Để khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân mà vẫn giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa cần quán triệt một số quan điểm sau :
Một là, phát triển kinh tế tư nhân là chiến lược lâu dài trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nâng cao nội lực của đất nước trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Đồng thời chăm lo phát triển kinh tế Nhà nước, cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế
Hai là, Nhà nước định hướng hỗ trợ, dẫn dắt và bảo vệ sự phát triển của kinh tế tư nhân trong mối quan hệ bình đẳng với các khu vực kinh tế khác và quản lý, điều tiết sự phát triển đó bằng pháp luật.
Ba là, giải phóng và phát huy mọi lực lượng sản xuất, huy động tối đa mọi tiềm năng và nguồn lực còn tiềm ẩn vào sản xuất. Nhà nước khuyến khích giúp đỡ tạo điều kiện thuận lợi nhất cho mọi người, mọi gia đình, mọi doanh nghiệp đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh có hiệu quả và làm giàu chính đáng. Qua đó tạo thêm việc làm, tăng thêm thu nhập, cải thiện đời sống người lao động, góp phần phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Bốn là, bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính đáng của cả người lao động và người sử dụng lao động, xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa người lao động và người sử dụng lao động trên cơ sở pháp luật và tinh thần đoàn kết tương thân tương ái.
Năm là, khuyến khích kinh tế tư nhân liên kết, liên doanh với kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể, phát triển thành doanh nghiệp cổ phần có bán cổ phần cho người lao động ; tham gia mua cổ phần của doanh nghiệp Nhà nước thuộc diện cổ phần hoá và hợp tác xã mới :
Sáu là, chăm lo bồi dưỡng giáo dục các chủ doanh nghiệp nâng cao lòng yêu nước, tự hào dân tộc gắn bó lợi ích của đất nước, dân tộc vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, kinh doanh đúng pháp luật có hiệu quả ; tích cực đóng góp hợp lý vào hoạt động xã hội và ngân sách Nhà nước.
Bảy là, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị – xã hội ; các hiệp hội doanh nghiệp với kinh tế tư nhân nói chung cũng như từng doanh nghiệp cơ sở kinh tế cụ thể.
* Phương hướng phát triển kinh tế tư nhân :
Trong tương lai nếu được khuyến khích phát triển đúng mức, khu vực kinh tế tư nhân chắc chắn sẽ có năng suất lao động cao và đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước. Để có được triển vọng đó cần có một số phương hướng sau :
Thứ nhất, thúc đẩy kinh tế tư nhân (cả hộ kinh doanh và doanh nghiệp ) phát triển mạnh mẽ không ngừng nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh tạo thêm nhiều việc làm, có mức tăng trưởng bình quân cao hơn hiện nay;
Đầu tư nhiều hơn vào lĩnh vực sản xuất, xây dựng kết cấu hạ tầng cơ sở.
Tham gia ngày càng nhiều hơn vào hoạt động công ích và phúc lợi xã hội.
Sản xuất ngày càng nhiều các sản phẩm xuất khẩu có chất lượng cao như gạo, cà phê, một số mặt hàng thủ công mỹ nghệ, hàng chế biến lâm nông hải sản khác ... xúc tiến mở rộng thị trường quốc tế.
Tích cực hợp tác liên doanh liên kết với nhau, với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
Hai là, mở rộng ngành nghề sản xuất kinh doanh, nhất là những ngành, những lĩnh vực kinh tế tư nhân có nhiều lợi thế trên từng địa bàn cũng như trong phạm vi cả nước ; vừa phát triển theo chiều rộng tất cả các lĩnh vực, các ngành, vừa phát triển theo chiều sâu một số ngành then chốt, lĩnh vực trọng điểm.
Ba là, chú trọng khuyến khích, tạo điều kiện ưu đãi để phát triển kinh tế tư nhân ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn; những lĩnh vực thu hút nhiều lao động như dệt may, giầy da...Nhà nước cần đầu tư phát triển mạnh các ngành công nghiệp phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn như ngành công nghiệp chế biến, xay sát, chế biến lương thực, thực phẩm cơ khí ...
Bốn là, tăng cường số lượng doanh nghiệp mới ; mở rộng và phát triển những doanh nghiệp hiện có. Chú trọng đổi mới và cải tiến công nghệ hiện có; nâng cao trình độ tổ chức quản lý cho chủ doanh nghiệp và tăng cường đaò tạo nguồn nhân lực có kỹ thuật cao; nâng cao chất lượng sản phẩm; tăng sức cạnh tranh trong nước và quốc tế.
Năm là, tuỳ từng tập quán, trình độ công nghệ, tâm lý người kinh doanh mà có các biện pháp chiến lược phát triển kinh tế tư nhân dưới nhiều hình thức phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh cụ thể .
* Một số giải pháp nhằm thúc đẩy, khuyến khích sự phát triển kinh tế tư nhân trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay:
+ Đối với Nhà nước
Để khuyến khích kinh tế tư nhân đóng góp lớn hơn cho phát triển kinh tế xã hội của đất nước đòi hỏi Đảng, Nhà nước phải có đường lối chính sách chỉ đạo đúng đắn và có các giải pháp phát triển cụ thể đối với sự phát triển của kinh tế tư nhân.
+ Tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho sự phát triển kinh tế tư nhân
Tạo môi trường pháp lý thuận lợi để đảm bảo quyền tự do sản xuất kinh doanh theo pháp luật của các tổ chức và cá nhân Việt Nam :
Sửa đổi bổ sung Luật doanh nghiệp và một số quy định chưa thống nhất giữa các văn bản pháp luật đã ban hành. Rà soát và xoá bỏ các văn bản pháp quy, các điều kiện ràng buộc có nội dung trái với các điều khoản cũng như tinh thần của Luật doanh nghiệp. Triển khai và thực hiện nghiêm túc nghị định 30-2000/NĐ-CP (11-8-2000) của Chính phủ về việc bãi bỏ một số giấy phép và chuyển một số giấy phép thành điều kiện kinh doanh ... đơn giản hoá thủ tục thành lập doanh nghiệp tiến tới áp dụng thống nhất một Luật doanh nghiệp chung cho tất cả các loại hình doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế (trừ các doanh nghiệp hoạt động công ích ) theo tinh thần nghị định 64/NĐ-CP về việc chuyển các doanh nghiệp của các tổ chức chính quyền, Đảng, đoàn thể sang công ty trách nhiệm hữuhạn một thành viên.
Quy định rõ những ngành nghề, lĩnh vực mà các nhà đầu tư được quyền lựa chọn hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh mà pháp luật không cấm. Thành lập hội đồng khuyến khích doanh nghiệp vừa và nhỏ để giúp đỡ các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hộ nhóm kinh doanh giải quyết khó khăn về vốn, khoa học công nghệ, tiếp thị...
Giảm thiểu, tiến tới xoá bỏ sự phân biệt trong các quy định quản lý kinh tế dẫn đến sự bất bình đẳng trước pháp luật giữa các thành phần kinh tế , tạo lập một môi trường đầu tư sản xuất kinh doanh bình đẳng cho tất cả các thành phần kinh tế.
Xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan quản lý Nhà nước trong đăng ký kinh doanh và quản lý hoạt động của kinh tế tư nhân. Sớm ban hành nghị định sử phạt vi phạm Luật doanh nghiệp, sử lý nghiêm minh những vi phạm của pháp luật của các đơn vị kinh tế tư nhân cũng như những vi phạm của cơ quan, cán bộ đang thi hành công vụ.
+Kiện toàn quản lý Nhà nước đối với kinh tế tư nhân :
a/Hoàn thiện quy chế phân công, phân cấp và phối hợp của bộ máy Nhà nước đối với kinh tế tư nhân, thực hiện đồng thời ba bước :
Bước một : Tuyên truyền thu hút nhà đầu tư trong và ngoài nước, đầu tư vốn lập cơ sở sản xuất kinh doanh.
Bước hai : Cấp đăng ký kinh doanh theo nguyên tắc “một cửa, một dấu”. Sở kế hoạch và đầu tư cấp đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp ; UBND cấp huyện cấp đăng ký sản xuất kinh doanh cho các hộ cá thể, tiểu chủ.
Bước ba : Sau khi cấp đăng ký kinh doanh thì phân công trách nhiệm rõ ràng cho các cơ quan từ Trung ương đến địa phương. Bộ kế hoạch và đầu tư là cơ quan cao nhất trong chỉ đạo quản lý phát triển kinh tế tư nhân.
Các Sở kế hoạch và đầu tư chịu trách nhiệm tổng hợp các báo cáo và đề xuất kiến nghị của UBND các tỉnh về việc quản lý kinh tế tư nhân trên địa bàn và hàng tháng báo cáo cho Sở kế hoạch và đầu tư.
UBND xã, phường, thị trấn theo dõi hoạt động kinh tế tư nhân trên địa bàn về hành chính (trương bảng hiệu, kinh doanh đúng ngành nghề).
b/ Kiện toàn hệ thống cơ quan cấp đăng ký kinh doanh:
Các Sở kế hoạch và đầu tư là cơ quan cấp đăng ký kinh doanh còn UBND cấp huyện ( Phòng kế hoạch – thống kê huyện ) làm tham mưu.
Đào tạo và bố trí cán bộ chuyên trách đăng ký kinh doanh và quản lý kinh tế tư nhân ổn định, lâu dài thành hệ thống từ Trung ương xuống địa phương.
Công khai quy định cấp đăng ký kinh doanh và ưu đãi đầu tư trên báo đài Trung ương và địa phương. Xây dựng và nối mạng vi tính từ Bộ kế hoạch và đầu tư đến huyện để phục vụ yêu cầu quản lý Nhà nước đối với kinh tế tư nhân.
c/ Hoàn thiện quy chế thi đua, khen thưởng doanh nhân, doanh nghiệp hàng năm :
Các tiêu chí xét khen thưởng gồm :
Nộp ngân sách năm sau cao hơn năm trước do làm ăn chính đáng; có sản phẩm mới hiệu quả cao (cả nước chưa có ); chấp hành tốt chế độ, chính sách Nhà nước ; tích cực tham gia hoạt động xã hội (ví dụ như ủng hộ, làm các việc từ thiện...) . Các hình thức khen thưởng cả về vật chất và tinh thần để động viên doanh nhân.
d/ Về thanh tra, kiểm tra:
Các cơ quan bảo vệ pháp luật, chỉ thanh tra, kiểm tra khi doanh nghiệp của tư nhân vi phạm pháp luật. Các cơ quan quản lý Nhà nước có chương trình kiểm tra, thanh tra định kỳ đối với doanh nghiệp ; thông báo trước cho doanh nghiệp khi kiểm tra, chịu trách nhiệm trước pháp luật về kết quả thanh tra của mình. Cơ quan thuế là cơ quan quản lý trực tiếp đối với doanh nghiệp và các đơn vị kinh tế tư nhân ; có quyền kiểm soát sổ sách, kế toán của doanh nghiệp để biết kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh xem thu, chi, lợi nhuận...
Như vậy, để hoàn thiện về quản lý Nhà nước đối với kinh tế tư nhân thì phải củng cố hệ thống tổ giám sát hoạt động của doanh nghiệp liên quan đến ba cơ quan quản lý Nhà nước trước tiên là Bộ kế hoạch đầu tư, cơ quan thuế và ngân hàng.
+ Đổi mới và tiếp tục hoàn thiện các chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước để khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển :
Để khuyến khích mọi thành phần kinh tế đặc biệt là kinh tế tư nhân đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh trong tất cả các lĩnh vực mà Nhà nước không cấm ,nhằm khai thác và sử dụng có hiệu quả,các tiềm năng ,nguồn lực của đất nước thì nhà nước cần tiếp tục đổi mới và bổ sung một số chính sách sau:
a/Chính sách đất đai :
Đổi mới và tiếp tục hoàn thiện chính sách đất đai theo hướng hình thành thị trường bất động sản ,nhằm tạo môi trường bình đẳng trong tiếp cận và sử dụng có hiệu quả nguồn lực đất đai ,tài sẩn lớn của quốc gia giữa các thánh phần kinh tế . Hiện nay vẫn còn tồn tại nhiều bất bình đẳng và bất hợp lý về quyền sử dụng đất giữa các doanh nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác .Do lịch sử để lại mà các doanh nghiệp nhà nước đang quản lý và sử dụng một quỹ đất khá lớn , không ít doanh nghiệp Nhà nước đang sử dụng rất lãng phí nguồn lực này ( không trả tiền thuê đất hoặc doanh nghiệp cho thuê thì tiền để ngoài ngân sách, lập các quỹ đen ...) Trên thực tế không ít doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân phải thuê lại đất của doanh nghiệp Nhà nước theo giá tự do của thị trường. Chính vì thế, Nhà nước cần ban hành nhiều văn bản liên quan đến chính sách đất đai nhằm tiến tới sự công bằng cho mọi loại hình kinh tế.
Nhà nước sửa các quy định về quản lý đất đai nhằm tạo cơ hôi cho các doanh nghiệp được tự do chuyển đổi, chuyển nhượng và thế chấp quyền sử dụng đất để hợp tác sản xuất kinh doanh.
Nhà nước có chính sách khuyến khích mạnh mẽ việc sử dụng đất ở các vùng còn nhiều đất chưa được sử dụng như nương, rẫy, đất trống, đồi núi trọc ở các tỉnh vùng cao, vùng xa.
Nhà nước cho phép UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương được điều chỉnh linh hoạt giá đất để vực định giá phù hợp hơn với thực tế từng vùng, từng địa phương.
Các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân khi gặp khó khăn trong việc triển khai dự án phải tạm ngừng hoạt động được giảm hoặc miễn tiền thuê đất tương ứng với thời gian đó.
b/ Chính sách thuế :
Thực hiện khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân bằng việc miễn giảm thuế cho các hộ nông nghiệp, các cơ sở kinh doanh nhỏ ở thành thị ; miễn giảm thuế cho các ngành công nghiệp mới yêu cầu kỹ thuật cao, những ngành công nghiệp thu hút nhiều lao động ...
Đối với những doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc khu vực kinh tế tư nhân thì ngoài những quy định của luật thuế hiện hành cho mọi doanh nghiệp thì cần thực hiện :
-Hạn chế việc miễn giảm thuế đối với thuế giảm thu để bảo vệ môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp.
-Đối với thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao ( thuế thu nhập cá nhân ) vẫn tiếp tục thực hiện.
- Sửa đổi đề án xây dựng luật thuế thu nhập cá nhân.
- Giảm mức thuế xuất nhập khẩu tối đa xuống 50% ( ngoại trừ 6 nhóm mặt hàng như xe máy, xăng dầu...)
- Áp dụng thuế giá trị gia tăng VAT một cách đúng đắn, nghiêm minh, trong sáng, lành mạnh.
c/Chính sách tài chính, tín dụng :
Đổi mới chính sách tín dụng theo hướng hình thành một thị trường tài chính tiền tệ thống nhất, nhằm tạo thuận lợi cho khu vực kinh tế tư nhân tiếp cận dễ dàng với các nguồn vốn. Chẳng hạn : thực hiện cơ chế, nếu doanh nghiệp tư nhân làm ăn thua lỗ do các nguyên nhân khách quan thì cũng có thể được xem xét xoá nợ, khoanh nợ, dãn nợ như các doanh nghiệp Nhà nước.
Tạo cơ hôi để các doanh nghiệp, cơ sở kinh tế thuộc khu vực kinh tế tư nhân cũng chia sẻ quỹ phòng ngừa rủi ro với các ngân hàng khi cho vay vốn.
Mở rộng tín dụng cho các hộ nông dân, các trang trại ở đồng bằng, trung du, miền núi, ngư dân đánh bắt hải sản xa bờ...có chính sách ưu đãi tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ thông qua việc cấp tín dụng chung và dài hạn.
Đơn giản hoá các thủ tục cho vay; để cơ sở kinh tế tư nhân được tiếp cận với nguồn vốn ODA, tín dụng thương mại và tín dụng ưu đãi. Kinh tế tư nhân được dùng giá trị quyền sử dụng đất để thế chấp, khi vay vốn của các tổ chức tài chính, tín dụng...
Sửa đổi bổ sung chế độ kế toán, tài chính hiện hành, các chuẩn mực kế toán, kiểm toán sát với thông lệ quốc tế.
d/Chính sách hỗ trợ thông tin, xúc tiến thương mại và đào tạo nguồn nhân lực cho kinh tế tư nhân :
Hiện nay, tuyệt đại đa số các doanh nghiệp tư nhân thuộc lọai hình doanh nghiệp vừa và nhỏ, thậm chí có doanh nghiệp rất nhỏ, nên khả năng tiếp cận nắm bắt và sử lý thông tin thị trường còn rất hạn chế. Bởi vậy Nhà nước nên có chính sách hỗ trợ thông tin như chính sách thiết lập có chế hoạt động của các trung tâm thông tin doanh nghiệp, nhằm cung cấp những thông tin về luật pháp, chính sách kế hoạch về phát triển kinh tế xã hội của đất nước cho doanh nghiệp.
Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư nhân đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại cả trong và ngoài nước, hỗ trợ một phần kinh phí cho các cơ sở kinh tế tư nhân trọng điểm thực hiện hoạt động xúc tiến thương mại ở nước ngoài (đối với sản phẩm mới thị trường mới ...) ; hỗ trợ mở rộng thị trường thông qua việc hỗ trợ cho doanh nghiệp tham gia các hội chợ, triển lãm Quốc tế.
Nhà nước phải có chính sách đào tạo, nâng cao trình độ tay nghề cho nguồn nhân lực thuộc kinh tế tư nhân để họ ngày càng có đóng góp tích cực vào sự phát triển của doanh nghiệp.
e/Ngoài ra, việc đổi mới và hoàn thiện chính sách còn có chính sách khác như sửa đổi chính sách lao động – tiền lương; chính sách thị trường xuất khẩu...
Như vậy việc đổi mới và hoàn thiện một số chính sách của Nhà nước về phát triển kinh tế tư nhân là rất quan trọng đối với yêu cầu, đòi hỏi của xu thế hội nhập kinh tế Quốc tế và khu vực hiện nay.
+ Tạo môi trường tâm lý xã hội cho phát triển kinh tế tư nhân :
Nhà nước cần có sự giải phóng tư tưởng thực sự ở trong và ngoài Đảng đối với các thành phần kinh tế nói chung, không hiểu sai ý nghĩa của kinh tế tư nhân nói riêng. Cấp Uỷ, Công đoàn, Đoàn thanh niên phải tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục đường lối chính sách của Nhà nước về khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân trong toàn dân nhất là người lao động thông qua tổ chức quần chúng, phổ biến trên báo, đài phát thanh truyền hình ... để người lao động yên tâm làm việc, toàn tâm toàn ý góp sức với chủ cơ sở hoàn thiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh.
Tiếp tục tuyên truyền phổ biến pháp luật, Luật doanh nghiệp, các nghị định... giúp nhà đầu tư, cán bộ quản lý, công chức Nhà nước hiểu sâu hơn, đầy đủ hơn nội dung và tinh thần của Luật doanh nghiệp. Từ đó làm cho doanh nghiệp hiểu, ý thức được ý nghĩa và tầm quan trọng của việc kiểm tra nội bộ và tự bảo vệ lấy lợi ích chính đáng của họ ; đồng thời hỗ trợ doanh nghiệp cải tiến quản lý nội bộ, đáp ứng các yêu cầu công khai, minh bạch, dân chủ, sáng tạo trong công tác quản lý nội bộ.
Tôn vinh, cổ vũ, biểu dương kịp thời những doanh nhân, đơn vị sản xuất kinh doanh giỏi, có đóng góp suất sắc vào sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội đất nước, phong tặng cho họ các danh hiệu lao động tiên tiến, anh hùng lao động, đơn vị lao động tiên tiến...
+ Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của tổ chức đoàn thể chính trị xã hội và các đoàn thể nhân dân, hiệp hội doanh nghiệp đối với sự phát triển kinh tế tư nhân :
Tuyên truyền giáo dục, làm cho chủ cơ sở nhận thức sâu sắc và đầy đủ vai trò lãnh đạo của Đảng. Tiếp tục tăng cường các biện pháp phát triển Đảng viên và thành lập tổ chức cơ sở Đảng trong tất cả các cơ sở kinh tế tư nhân ; trước mắt tập trung vào các cơ sở trọng điểm và có điều kiện thuận lơi.
Tiếp tục đẩy mạnh việc phát triển đoàn viên, hội viên và các tổ chức đoàn thể chính trị – xã hội tại cơ sở tư nhân như : Công đoàn, Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Hội nông dân ngay từ khi cơ sở đi vào hoạt động .
Đổi mới phương thức hoạt động của cấp Uỷ và các đoàn thể tại cơ sở kinh tế tư nhân theo hướng nâng cao nhận thức chính trị, ý thức chấp hành luật của chủ cơ sở và người lao động vì mục tiêu chung : phát triển cơ sở, đem lại sự thịnh vượng cho xã hội, có đóng góp cho Nhà nước, làm giàu chính đáng cho giới chủ và nâng cao đời sống cho người lao động.
Phát huy vai trò của Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam; các hiệp hội doanh nghiệp. Phòng thương mại cần giúp đỡ về nhu cầu tư vấn đối với doanh nghiệp ; mở rộng hoạt động trong một số lĩnh vực dịch vụ công...
Tóm lại, để tạo môi trường kinh doanh thông thoáng, bình đẳng trong khu vực kinh tế tư nhân trước mắt đang còn nhiều việc phải làm đòi hỏi phải có sự quyết tâm, phối hợp đồng bộ giữa các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương.
+Đối với các đơn vị kinh tế (doanh nghiệp ) thuộc khu vực kinh tế tư nhân :
Để kinh tế tư nhân phát triển, bên cạnh những giải pháp đối với Nhà nước cần phải làm thì đối với các doanh nghiệp và các đơn vị kinh tế tư nhân cũng cần có những giải pháp cụ thể để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh , sự phát triển của mỗi đơn vị mình và toàn khu vực kinh tế tư nhân nói chung :
+ Các doanh nghiệp và đơn vị kinh tế tư nhân phải tuân thủ đúng pháp luật, kỷ cương, phép nước cũng như mọi quy định của hoạt động sản xuất kinh doanh :
Các doanh nghiệp tư nhân cũng cần tìm hiểu và nắm rõ hệ thống pháp luật để có thể bảo vệ được các quyền lợi chính đáng của mình, trên cơ sở đó giám sát việc thực thi của các cơ quan Nhà nước. Đồng thời, tự mình chủ động thực hiện các chế tài mà Luật doanh nghiệp đã ban hành ; không nên nhầm lẫn việc bỏ một số giấy phép kinh doanh với việc bỏ cả quy định về điều kiện sản xuất kinh doanh.
Đặc biệt là việc tự đổi mới và hoàn thiện quy chế quản lý nội bộ để đạt hiệu quả sản xuất kinh doanh cao nhất và không ngừng nâng cao các khả năng cạnh tranh, nghiêm chỉnh chấp hành luật sẵn sàng tham gia vào quá trình hội nhập khu vực và Quốc tế.
Hiện nay còn không ít các đơn vị kinh tế và doanh nghiệp tư nhân làm ăn không đúng đắn, hiện tượng “ lách” luật còn nhiều (như trốn lậu thuế; trốn giấy phép kinh doanh ...) trước hết là những doanh nghiệp lợi dụng sự thông thoáng của việc đăng ký kinh doanh mà hoạt động trái pháp luật không thực hiện những quy định về đăng ký kinh doanh ; thay đổi hoặc bổ sung ngành nghề, thay đổi địa chỉ mà không khai báo kịp thời, cho nên những năm gần đây Nhà nước đã sử không ít những vụ án lớn vi phạm pháp luật của những chủ doanh nghiệp, giám đốc công ty. Chính điều đó thì các doanh nghiệp, đơn vị kinh tế tư nhân cần đặc biệt quan tâm phải thực hiện đúng luật pháp. Một xã hội mạnh, một đất nước phát triển là một đất nước mà mỗi người dân, mỗi doanh nghiệp, mỗi đơn vị kinh tế luôn tôn trọng pháp luật trong đời sống cũng như trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh.
+ Phải xây dựng được chiến lược sản xuất kinh doanh hợp lý :
Để chiến lược sản xuất kinh doanh mang tính khả thi cao thì các đơn vị kinh tế thuộc khu vực kinh tế tư nhân cần nghiên cứu kỹ các căn cứ : mục tiêu kinh tế – xã hội của đất nước ; chiến lược phát triển ngành ; kết quả phân tích hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị mình trên thực tế những thất bại trong sản xuất kinh doanh hầu hết là do chưa có chiến lược hoặc chiến lược sai lầm hoặc hạn chế trong việc triển khai một số chiến lược sản xuất đúng đắn nhằm phát triển và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh các đơn vị kinh tế thuộc khu vực kinh tế tư nhân cần quan tâm đến một số chiến lược sau :
Chiến lược sản phẩm mặt hàng :
Sản phẩm ở đây có thể là hàng hoá hay dịch vụ. Công tác nghiên cứu thị trường phải được tiến hành một cách nghiêm túc, đặc biệt phải chú ý đến sự cân đối các sản phẩm cùng ngành, cùng nghề để tránh năng lực sản xuất sản phẩm dư thừa; tập trung khai thác các khoảng trống thị trường. Những mặt hàng nào trên thị trường mà cung ít hơn cầu thì doanh nghiệp nên tập trung sản xuất và ngược lại. Nói chung, doanh nghiệp và các đơn vị kinh tế tư nhân phải hết sức nhạy bén trong việc nghiên cứu thị trường.
Chiến lược phân phối sản phẩm :
Sản phẩm có thể được phân phối theo hai kênh : Kênh gián tiếp hoặc trực tiếp ( bán buôn hoặc bán lẻ) ; có thể phân phối trong nước hoặc ngoài nước. Đơn vị kinh doanh sản xuất có thể sử dụng đồng thời cả hai kênh phân phối sản phẩm, song về tỷ lệ kênh nào nhiều hơn, kênh nào ít hơn thì tuỳ thuộc vào sự cân nhắc do chi phí và mức độ thâm nhập thị trường. Kênh gián tiếp giúp cho doanh nghiệp nhanh chóng triển khai sản phẩm ở nhiều nơi, chi phí ban đầu không lớn, có hiệu quả ngay, nhưng sử dụng kênh này có nhược điểm : doanh nghiệp không hoàn toàn kiểm soát được giá bán, hàng giả có thể xâm nhập được, thông tin phản hồi từ phía khách hàng không đầy đủ và không chính xác. Vì vậy cùng với sự phát triển đơn vị kinh tế tư nhân và doanh nghiệp tư nhân cần triển khai từng bước, tìm hiểu kỹ các điểm phân phối sản phẩm của bản thân đơn vị mình.
Chiến lược giá bán :
Giá bán liên quan trực tiếp đến chất lượng sản phẩm, mẫu mã, kiểu dáng, thị hiếu. Chính vì thế mà doanh nghiệp cần chủ động đề ra chiến lược giá bán thích hợp với từng thời gian, từng thời kỳ, từng địa điểm, mặt hàng. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cần xây dựng một chiến lược đa dạng về giá; giá ưu đãi ; giá khuyến mại, giá trả chậm, giá trả góp... phù hợp với từng khách hàng.
Chiến lược đầu tư :
Chiến lược đầu tư xây dựng dựa trên các dự báo, kế hoạch phát triển chung của nền kinh tế, sức mua của khách hàng, thị hiếu, sự phát triển của khoa học công nghệ, chiến lược không chỉ bó hẹp trong một phương án mà phải có 2,3 phương án khác nhau chú ý đến diều kiện sản xuất kinh doanh có thể xảy ra. Mặt khác, trước xu thế cạnh tranh quyết liệt để đảm bảo đứng vững và giành ưu thế trên thị trường thì các doanh nghiệp phải luôn chú trọng đổi mới khoa học công nghệ, nâng cao trình độ lý luận, thực tiễn... để sản xuất các sản phẩm có hàm lượng giá trị cao đủ sức cạnh tranh trụ vững trên thương trường.
Chiến lược tài chính :
Một chiến lược tài chính có độ chính xác cao sẽ giúp doanh nghiệp chủ động trong việc huy động vốn kinh doanh, đặc biệt vốn lưu động. Khả năng thanh toán kịp thời các chi phí phản ánh sự lành mạnh về tài chính của doanh nghiệp. Kế hoạch thu chi đầy đủ đúng quy định là một phần quan trọng không thể thiếu trong chiến lược tài chính.
Chiến lược tổ chức, nhân sự :
Hoạch định tổ chức giải đáp cho các câu hỏi thực tế đặt ra như quyền quyết định nên tập trung ở mức độ nào, loại mô hình nào là thích hợp nhất, lợi nhuận cuả doanh nghiệp ra sao... cơ cấu tổ chức sẽ phải dàn xếp hợp lý giúp cho doanh nghiệp hoàn thành các mục tiêu nhiệm vụ phát triển của sản xuất kinh doanh.
Công tác nhân sự đề cập đến các lĩnh vực như phát triển nguồn nhân lực, đào tạo , đánh giá, lựa chọn, thuê mướn lao động, các mối quan hệ cần phải xây dựng chức năng nhiệm vụ cho từng cương vị, từ đó đặt ra yêu cầu và trình độ đào tạo kinh nghiệm giới tính độ tuổi ... công tác đào tạo nâng cao trình độ , nghiệp vụ để phù hợp với từng giai đoạn phát triển của doanh nghiệp cần được đầu tư thoả đáng .
Chiến lược đối ngoại:
Đó là mối quan hệ giữa doanh nghiệp, đơn vị tư nhân với các cơ quan chính phủ, các tổ chức chính quyền, các đơn vị kinh tế khác. Đây không phải là công tác quan hệ hành chính đơn thuần, làm tốt công tác này sẽ giúp doanh nghiệp phối hợp chặt chẽ với bạn hàng vì lợi ích chung, nhanh chóng phản ánh các vướng mắc về cơ chế, chính sách với các cơ quan có thẩm quyền.
+ Hoàn thiện bộ máy tổ chức nội bộ để nâng cao hiệu quả hoạt động của đơn vị mình
Thứ nhất, hoàn thiện bộ máy quản lý, cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp : cơ cấu tổ chức phải vừa đảm bảo sự ổn định lâu dài, vừa đảm bảo tính năng động, điều chỉnh cho phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh trong từng thời kỳ. .Đối với cán bộ chủ chốt cần áp dụng chế độ khuyến khích đặc biệt ,gắn liền với hiệu quả sản xuất,kinh doanh .Đó là các yếu tố về lương thưởng ,bảo hiểm ,phúc lợi xã hội,điều kiện làm việc ...Các yếu tố vật chất này phải được xem xét thường xuyên ,có sự so sánh với các đơn vị kinh tế khác ... việc chuyển đổi cán bộ thành lập mới, nhập, tách hay giải tán các bộ phận đều phải xuất phát từ bài toàn tối ưu “hiệu quả kinh tế” có tính đến khả năng trình độ của cán bộ và phải thực hiện ngay.
Thứ hai, quan tâm xây dựng và đào tạo nguồn nhân lực giỏi về sản xuất kinh doanh, vững vàng về bản chất chính trị : đặc biệt là nâng cao trình độ của cán bộ, cần có kiến thức, năng động quyết đoán, dám chịu trách nhiệm.
Hiện nay, phần lớn các nhà quản lý kinh tế tư nhân hoạt động thiếu bài bản, dựa vào kinh nghiệm, chạy theo thị hiếu thị trường. Trình độ văn hoá thấp nên không ít cơ sở kinh tế tư nhân làm ăn thua lỗ, không có hiệu quả thậm chí dẫn đến phá sản. Vì vậy cần phải chú trọng nâng cao trình độ cho các nhà quản lý đặc biệt là về quản trị kinh doanh và nghiệp vụ chuyên môn kỹ thuật. Đồng thời, cần có chính sách đào tạo nhân tài vừa hồng vừa chuyên; cần tiếp tục nâng cao trình độ tay nghề của người lao động, giáo dục ý thức và trách nhiệm lao động, có chính sách đãi ngộ phù hợp và thích đáng; có chính sách ràng buộc chặt chẽ giữa lợi ích và trách nhiệm của người lao động; sử lý nghiêm minh những cán bộ làm thất thoát tài sản của doanh nghiệp.
+Đẩy mạnh các hoạt động marketing nhằm thâm nhập, cạnh tranh và chiếm lĩnh thị trường :
Từ thực tế hoạt động của doanh nghiệp, cơ sở kinh tế thuộc khu vực kinh tế tư nhân trong những năm vừa qua cho thấy : nhiều nhà doanh nghiệp chưa nhận thức đầy đủ và coi hệ thống lý thuyết marketing như một công cụ để thích nghi với môi trường kinh doanh mới. Vì vậy, các doanh nghiệp này thường lúng túng bị động trước những thay đổi của thị trường khách hàng. Để nâng cao hiệu quả hoạt động của đơn vị mình trong thời gian tới thì các cơ sở kinh tế thuộc khu vực kinh tế tư nhân cần xây dựng và tổ chức thực hiện tốt các chiến lược marketing chiến lược hướng tới khách hàng ; chiến lược cạnh tranh ;chiến lược thích nghi thông qua các tiến bộ khoa học – công nghệ. Ngoài ra, để phát triển thì các đơn vị kinh tế tư nhân phải hình thành được chiến lược mang đến cho đơn vị mình lợi thế cao nhất sơ với đối phương.
Chiến lược marketing cần được xây dựng để dẫn dắt người quản lý trong việc đưa được các sản phẩm và dịch vụ đến với khách hàng và khích lệ khách hàng mua sản phẩm của đơn vị mình.
+ Thực hiện các biện pháp giảm thiểu rủi ro trong sản xuất, kinh doanh.
Trong sản xuất, kinh doanh có thể dẫn đến nhiều rủi ro, do những nguyên nhân chủ quan và khách quan. Vì thế để hạn chế đến mức tối đa những rủi ro thì các đơn vị kinh tế tư nhân cần thực hiện các biện pháp sau :
Thâm nhập từng bước vào thị trường, tìm hiểu thị trường nhằm đánh giá được phản ứng của thị trường đối với sản phẩm của mình để từ đó điều chỉnh cho phù hợp.
Đa dạng hoá sản phẩm, mẫu mã ngành sản xuất kinh doanh để hỗ trợ lẫn nhau. Quá nhiều loại sản phẩm sẽ khó có chất lượng cao, giá thành hạ để cạnh tranh song cũng cần có một số loại sản phẩm chính có khả năng thu lãi cho doanh nghiệp để giảm thiểu rủi ro xảy ra. Đồng thời có thể áp dụng phương pháp “lấy ngắn nuôi dài”, lấy phụ để hỗ trợ chính nhằm giữ cân bằng thu, chi, hướng tới kinh doanh lâu dài.
Liên doanh, liên kết trong cung cấp vật tư, thiết bị sản xuất và tiêu thụ với các đơn vị liên quan cùng ngành hoặc khác ngành, với các loại doanh nghiệp khác (doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ... ) nhằm sử dụng thế mạnh của nhau, hạn chế rủi ro.
Hình thành dự trữ các nguồn lực (vật chất, tiền vốn, lao động...) dự trữ các nguồn lực phải ở mức hợp lý để phòng ngừa rủi ro song không bị đọng vốn lớn để tăng hiệu quả sản xuất, kinh doanh .
Cần thiết lập hệ thống thu nhập thông tin, cơ chế truyền tin, các công cụ và phương pháp xử lý thông tin hữu hiệu để từ đó phát hiện kịp thời các cơ hội và rủi ro có thể phát sinh để từ đó đưa ra những quyết định sản xuất kinh doanh phù hợp.
Ngoài ra còn có các biện pháp khác như : thực hiện mua bảo hiểm, tham gia hiệp hội chuyên ngành để cùng hợp tác, trao đổi kinh nghiệm ...
Tóm lại, để tồn tại và phát triển trong quá trình hội nhập khu vực và quốc tế, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước bên cạnh sự chỉ đạo, giúp đỡ của Nhà nước thì các đơn vị kinh tế tư nhân cần phải năng động sáng tạo chủ động vươn lên sản xuất kinh doanh theo đúng pháp luật của Nhà nước, đồng thời phải tự thân đổi mới để có phương pháp quản lý hiện đại, với đội ngũ lao động sẵn có lòng yêu nước, ngày càng vững về chuyên môn nghiệp vụ ...
KẾT LUẬN
Kinh tế tư nhân là thành phần kinh tế đã đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế. So với các thành phần kinh tế khác, kinh tế tư nhân được coi là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân cùng với những vai trò to lớn của mình thì kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay còn nhiều hạn chế yếu kem cần được khắc phục. Do nhận thức rõ tầm quan trọng của thành phần kinh tế này mà Đại hội Đảng khóa IX đã đưa ra nghị quyết Hội nghị lần thứ năm ban chấp hành trung ương Đảng về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách nhằm tạo điều kiện và phát triển kinh tế tư nhân. Hy vọng rằng những chính sách mới này của Đảng khi được ban hành và sử dụng sẽ khắc phục được những hạn chế của kinh tế tư nhân để thành phần kinh tế này phát triển nhăm nâng cao được vai trò của nó trong nền kinh tế quốc dân. Và góp phần hoàn thành nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nâng cao nội lực của đất nước trong hội nhập quốc tế.
Em xin chân thành cảm ơn thầy!
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- kinh te chinh tri 09.docx