Tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp nhằm hoàn thiện công tác thu bảo hiểm xã hội bắt buộc tại bảo hiểm xã hội thị xã Hồng Lĩnh – Hà Tĩnh giai đoạn 2008-2010: LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành và lòng biết ơn sâu sắc, em xin trân trọng cảm ơn các thầy cô giáo Trường Đại học Lao động - Xã hội đã tận tình giảng dạy, rèn luyện, giúp đỡ em trong suốt 4 năm học vừa qua. Đặc biệt em xin trân trọng cảm ơn Th.s Phạm Đỗ Dũng đã trực tiếp hướng dẫn, tận tình chỉ bảo để em hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này.
Em cũng chân thành cảm ơn Ban Giám đốc, Phòng tổ chức- Hành chính, đặc biệt là Phòng thu của BHXH thị xã Hồng Lĩnh – Hà Tĩnh đã giúp đỡ, tạo điều kiện cung cấp tài liệu, số liệu để em hoàn thành khóa luận.
Dù cố gắng rất nhiều, song do thời gian và kiến thức có hạn nên khóa luận này chắc chắn không thể tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong nhận được sự góp ý của thày cô giáo, bạn bè và những người quan tâm đến đề tài này.
Em xin chân thành cảm ơn.
Hà Nội, ngày… tháng…. năm 2011
Sinh viên
Trương Thị Ngọc Linh
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi;
Các số liệu, kết quả nêu trong khóa luận là trung thực ...
62 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1105 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp nhằm hoàn thiện công tác thu bảo hiểm xã hội bắt buộc tại bảo hiểm xã hội thị xã Hồng Lĩnh – Hà Tĩnh giai đoạn 2008-2010, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành và lòng biết ơn sâu sắc, em xin trân trọng cảm ơn các thầy cô giáo Trường Đại học Lao động - Xã hội đã tận tình giảng dạy, rèn luyện, giúp đỡ em trong suốt 4 năm học vừa qua. Đặc biệt em xin trân trọng cảm ơn Th.s Phạm Đỗ Dũng đã trực tiếp hướng dẫn, tận tình chỉ bảo để em hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này.
Em cũng chân thành cảm ơn Ban Giám đốc, Phòng tổ chức- Hành chính, đặc biệt là Phòng thu của BHXH thị xã Hồng Lĩnh – Hà Tĩnh đã giúp đỡ, tạo điều kiện cung cấp tài liệu, số liệu để em hoàn thành khóa luận.
Dù cố gắng rất nhiều, song do thời gian và kiến thức có hạn nên khóa luận này chắc chắn không thể tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong nhận được sự góp ý của thày cô giáo, bạn bè và những người quan tâm đến đề tài này.
Em xin chân thành cảm ơn.
Hà Nội, ngày… tháng…. năm 2011
Sinh viên
Trương Thị Ngọc Linh
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi;
Các số liệu, kết quả nêu trong khóa luận là trung thực và xuất phát từ tình hình thực tế của đơn vị thực tập.
Sinh viên
Trương Thị Ngọc Linh
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Tên viết tắt Tên đầy đủ
ASXH: An sinh xã hội
BHXH: Bảo hiểm xã hội
BHYT: Bảo hiểm y tế
DN: Doanh nghiệp
HCSN: Hành chính sự nghiệp
HĐLĐ: Hợp đồng lao động
HĐND: Hội đồng nhân dân
HTX: Hợp tác xã
LĐTB &XH: Lao động thương binh và xã hội
NLĐ: Người lao động
NSNN: Ngân sách Nhà nước
NSDLĐ: Người sử dụng lao động
TL-TC: Tiền lương- Tiền công
TNLĐ- BNN: Tai nạn lao động- Bệnh nghề nghiệp
UBND: Ủy ban nhân dân
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Danh mục các bảng số liệu:
Bảng
Tên bảng
Trang
Bảng 1
Cơ cấu cán bộ công chức, viên chức BHXH thị xã Hồng Lĩnh
25
Bảng 2:
Số lượng đơn vị tham gia BHXH bắt buộc tại BHXH thị xã Hồng Lĩnh (2008-2010)
26
Bảng 3
Số lượng lao động tham gia BHXH bắt buộc tại BHXH thị xã Hồng Lĩnh (2008- 2010)
27
Bảng 4:
Cơ cấu số đơn vị SDLĐ tham gia BHXH theo khối tại BHXH Thị xã Hồng Lĩnh (2008-2010)
28
Bảng 5:
Cơ cấu số lao động tham gia BHXH theo khối tại BHXH Thị xã Hồng Lĩnh (2008-2010)
29
Bảng 6:
Tổng quỹ lương trích nộp BHXH của các đơn vị trên địa bàn Thị xã Hồng Lĩnh (2008-2010)
31
Bảng 7:
Tình hình thực hiện kế hoạch thu BHXH tại BHXH Thị xã Hồng Lĩnh (2008-2010)
32
Bảng 8:
Báo cáo thu BHXH bắt buộc khối DN Nhà nước tại BHXH Thị xã Hồng Lĩnh (2008-2010)
33
Bảng 9:
Báo cáo thu BHXH bắt buộc khối HCSN, Đảng, Đoàn thể tại BHXH Thị xã Hồng Lĩnh (2008-2010)
34
Bảng 10:
Báo cáo thu BHXH bắt buộc khối DN ngoài quốc doanh tại BHXH Thị xã Hồng Lĩnh(2008-2010)
35
Bảng 11:
Báo cáo thu BHXH bắt buộc của khối ngoài công lập; HTX; xã, phường, thị trấn; hộ kinh doanh cá thể
(2008-2010)
36
Bảng 12:
Số nợ BHXH xét theo khối tại BHXH Thị xã Hồng Lĩnh (2008-2009)
37
Bảng 13:
Biến động nợ BHXH Thị xã Hồng Lĩnh (2008-2010)
38
Danh mục sơ đồ, biểu đồ:
Biểu đồ
Tên biểu đồ
Trang
Sơ đồ 1:
Sơ đồ cơ cấu tổ chức bộ máy BHXH thị xã Hồng Lĩnh
24
Biểu đồ 1:
Thể hiện số đơn vị SDLĐ tham gia BHXH xét theo khối tại BHXH Thị xã Hồng Lĩnh năm 2010
29
Biểu đồ 2:
Thể hiện cơ cấu lao động tham gia BHXH theo khối của BHXH Thị xã Hồng Lĩnh năm 2010.
30
Biểu đồ 3
Thể hiện tình hình kế hoạch thu BHXH tại BHXH Thị xã Hồng Lĩnh (2008-1010)
32
LỜI MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Bảo hiểm xã hội (BHXH) ở Việt Nam là một trong những chính sách lớn của Đảng và Nhà nước đối với người lao động ( NLĐ). Lịch sử phát triển ngành BHXH được đánh dấu như một bước phát triển mới khi Luật BHXH được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 29 tháng 06 năm 2006 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2007. Trong những nội dung của BHXH thì thu BHXH là một trong những nội dung quan trọng nhất của quá trình thực hiện, bởi vì thu BHXH quyết định đến sự hình thành, quản lý và sử dụng quỹ BHXH, từ đó đảm bảo quyền lợi cho NLĐchế độ chính sách BHXH không ngừng được bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với từng thời kỳ phát triển của đất nước nhằm đảm bảo quyền lợi cho hàng triệu NLĐ.
Hệ thống tổ chức bộ máy BHXH Việt Nam được thực hiện thống nhất từ Trung ương đến địa phương. Trong đó, BHXH cấp huyện là một bộ phận quan trọng trong hệ thống quản lý BHXH Việt Nam, là cơ sở đầu tiên để thực hiện công tác BHXH. Thực hiện tốt hoạt động ở BHXH cấp huyện thì mới đảm bảo cho việc thực hiện tốt của cả hệ thống.
Nhận thức được điều này, trong thời gian qua BHXH Thị xã Hồng Lĩnh đã có nhiều cố gắng, nỗ lực và bước đầu đã thu được những kết quả đáng khích lệ. Trong đó nổi bật là công tác thu BHXH, là một nội dung quan trọng nhất trong hệ thống sự nghiệp BHXH. Chính vì vậy em đã lựa chọn đề tài: “ Thực trạng và giải pháp nhằm hoàn thiện công tác thu BHXH bắt buộc tại BHXH thị xã Hồng Lĩnh – Hà Tĩnh giai đoạn 2008-2010” làm khóa luận tốt nghiệp. Với hy vọng sẽ đánh giá được kết quả và thực trạng thu BHXH, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác thu BHXH tại BHXH Thị xã Hồng Lĩnh trong thời gian tới. Hiện nay theo quy định trong Luật BHXH thì thu BHXH có 2 loại: thu BHXH bắt buộc và thu BHXH tự nguyện. Trong phạm vi bài viết này thu BHXH được đề cập đến là thu BHXH bắt buộc (không đề cập đến vấn đề thu BHXH tự nguyện, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế).
2. Mục đích nghiên cứu
- Tìm hiểu thực trạng công tác thu BHXH bắt buộc tại cơ quan BHXH Thị xã Hồng Lĩnh giai đoạn 2008 - 2010.
- Đưa ra một số giải pháp, khuyến nghị nhằm hoàn thiện công tác thu BHXH Thị xã Hồng Lĩnh trong thời gian tới.
3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu vấn đề về thu, nộp quỹ BHXH của NLĐ, NSDLĐ tại BHXH Thị xã Hồng Lĩnh trong giai đoạn 2008 - 2010.
- Đối tượng nghiên cứu: Những quy định về công tác thu BHXH; Thực trạng công tác thu BHXH ở Thị xã Hồng Lĩnh giai đoạn 2008- 2010.
4. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu lý luận
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Các phương pháp nghiên cứu khác như: Phương pháp xử lý số liệu, phương pháp phân tích số liệu, phương pháp so sánh.
5. Những đóng góp của khóa luận
- Khóa luận đã tổng hợp và phân tích số liệu về thu BHXH bắt buộc tại BHXH Thị xã Hồng Lĩnh giai đoạn 2008 - 2010.
- Khóa luận đưa ra một số giải pháp, khuyến nghị nhằm hoàn thiện công tác thu BHXH trong thời gian tới.
6. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận thì kết cấu của khóa luận bao gồm 3 chương:
Chương 1: Một số lý luận chung về BHXH và công tác thu BHXH.
Chương 2: Thực trạng công tác thu BHXH bắt buộc tại BHXH Thị xã Hồng Lĩnh – Hà Tĩnh giai đoạn 2008-2010.
Chương 3: Một số giải pháp và khuyến nghị nhằm hoàn thiện công tác thu BHXH bắt buộc trong thời gian tới tại BHXH Thị xã Hồng Lĩnh.
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ CÔNG TÁC THU BẢO HIỂM XÃ HỘI
1.1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI
1.1.1. Khái niệm Bảo hiểm xã hội
Hiện nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều coi BHXH là bộ phận chính cấu thành hệ thống An sinh xã hội (ASXH), là chính sách xã hội quan trọng của mỗi nước. Tuy nhiên, rất khó có một khái niệm chung về BHXH được tất cả các quốc gia thống nhất sử dụng bởi quan niệm về vấn đề này như thế nào phụ thuộc vào nhận thức của người dân, của Nhà nước, của tập quán lựa chọn và khả năng quản lý của mỗi loại rủi ro... trong từng nước. Vì vậy, trên bình diện quốc tế, khái niệm chung của ILO về ASXH cũng được sử dụng trong lĩnh vực BHXH. Theo đó, BHXH có thể được hiểu khái quát là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình thông qua các biện pháp cộng đồng, nhằm chống lại các khó khăn về kinh tế, xã hội do bị ngừng hoặc giảm thu nhập, gây ra bởi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, thất nghiệp, thương tật, tuổi già và chết; đồng thời đảm bảo các chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình đông con. (theo Công ước 102, 1952)
Tuy nhiên, ở Việt Nam thuật ngữ BHXH thường được sử dụng với nội hàm hẹp hơn, chỉ bao gồm những trường hợp bảo hiểm thu nhập cho NLĐ. “ Bảo hiểm xã hội là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết..., trên cơ sở đóng góp và sử dụng một quỹ tài chính tập trung, nhằm đảm bảo ổn định đời sống cho họ và an toàn xã hội.” (Theo Luật BHXH số 71/2006/ QHH ngày 29 tháng 06 năm 2006 của Quốc hội nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam)
Như vậy, phát sinh từ nhu cầu của NLĐ, BHXH đã trở thành chính sách xã hội quan trọng của nước ta và hầu hết các nước trên thế giới. BHXH trở thành phương thức dự phòng để khắc phục hậu quả của các rủi ro xã hội, đảm bảo an toàn xã hội và tạo động lực hữu hiệu để phát triển kinh tế.
1.1.2. Vai trò của Bảo hiểm xã hội
- Đối với Người lao động:
Có thể nói BHXH có vai trò rất quan trọng trong việc góp phần đảm bảo ổn định cuộc sống cho NLĐ và gia đình họ khi gặp rủi ro trong cuộc sống như: ốm đau, thai sản, TNLĐ-BNN....Bởi lẽ, khi NLĐ gặp những rủi ro ảnh hưởng đến thu nhập, BHXH sẽ thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho NLĐ và gia đình họ với mức hưởng, thời điểm và thời gian hưởng theo đúng quy định của Luật BHXH. Chính do sự thay thế và bù đắp thu nhập này, chính sách BHXH đã làm cho NLĐ ngày càng yêu nghề hơn, gắn bó với công việc, sống có trách nhiệm với bản thân, gia đình, cộng đồng hơn; là sợi dây ràng buộc kích thích họ hăng say tham gia sản xuất, gắn kết NSDLĐ với NLĐ lại gần nhau hơn. Từ đó nâng cao năng suất lao động, tăng sản phẩm xã hội góp phần nâng cao chính cuộc sống của những người tham gia BHXH.
Ngoài ra, BHXH còn bảo vệ và tăng cường sức khỏe cho NLĐ, góp phần tái sản xuất sức lao động cho NLĐ nhanh chóng trở lại làm việc tạo ra sản phẩm mới cho DN nói riêng và cho toàn xã hội nói chung, đồng thời góp phần đảm bảo thu nhập cho bản thân họ.
- Đối với Người sử dụng lao động:
Thực tế trong lao động sản xuất, NLĐ và NSDLĐ vốn có những mâu thuẫn nhất định về TL-TC, thời hạn lao động.... Và khi rủi ro xảy ra, nếu không có sự giúp đỡ của BHXH thì dễ dẫn đến khả năng tranh chấp giữa NLĐ và NSDLĐ. Vì vậy, BHXH góp phần điều hòa, hạn chế các mâu thuẫn giữa giới chủ và giới thợ; tạo ra môi trường làm việc ổn định cho NLĐ; tạo sự ổn định cho chủ SDLĐ trong công tác quản lý. Từ đó góp phần nâng cao hiệu quả năng suất lao dộng của DN.
Hơn nữa, NSDLĐ muốn ổn định và phát triển sản xuất thì ngoài việc đầu tư máy móc, thiết bị, công nghệ còn phải chăm lo đến đời sống cho NLĐ mà mình thuê mướn, sử dụng. Bởi NSDLĐ khi đã tính đến việc thuê mướn lao động cũng có nghĩa là lúc đó họ rất cần có NLĐ làm việc cho mình liên tục trong quá trình sản xuất kinh doanh. Nhưng mong muốn của NSDLĐ không phải lúc nào cũng thực hiện được, bởi trong quá trình sản xuất cũng như trong đời sống của NLĐ có thể gặp rủi ro bất cứ lúc nào. Và lúc đó, sẽ dẫn đến gián đoạn quá trình sản xuất kinh doanh làm giảm năng suất lao động. Nhưng khi có sự trợ giúp của BHXH, NLĐ không may gặp rủi ro phần nào được khắc phục về mặt tài chính, nhanh chóng trở lại làm việc giúp NSDLĐ yên tâm, tích cực lao động sản xuất, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của DN.
- Đối với Nhà Nước:
Đúng như tên gọi đã phản ánh, BHXH luôn mang lại những vai trò xã hội to lớn. Vai trò đầu tiên đối với xã hội là việc tạo ra cơ chế chia sẻ rủi ro, nâng cao tính cộng đồng xã hội, củng cố truyền thống đoàn kết, gắn bó giữa các thành viên trong xã hội. BHXH là công cụ phân phối, sử dụng nguồn quỹ dự phòng hiệu quả nhất cho việc giảm thiểu hậu quả rủi ro, tạo động lực phát triển KT-XH.
Hiện nay khi đã trở thành một cấu phần cơ bản nhất trong hệ thống ASXH, BHXH là cơ sở để phát triển các bộ phận ASXH khác. Đây cũng là sự phản ánh trình độ phát triển KT- XH của một quốc gia.
Ngoài ra, BHXH giúp cho Nhà nước thực hiện được các công trình xây dựng trọng điểm của quốc gia, các chương trình phát triển KT - XH quốc gia bởi BHXH tập trung được nguồn quỹ lớn. Nguồn quỹ này thường dùng để chi trả cho các sự kiện BHXH xảy ra về sau. Chính vì vậy, nguồn quỹ này luôn có một thời gian nhàn rỗi nhất định, đặc biệt là quỹ dành cho các chế độ dài hạn. Trong khoảng thời gian nhàn rỗi ấy, quỹ BHXH tạo thành một nguồn vốn lớn đầu tư cho các chương trình phát triển KT- XH của quốc gia.
1.1.3. Quỹ Bảo hiểm xã hội
1.1.3.1. Khái niệm về quỹ Bảo hiểm xã hội
Trong đời sống KT-XH, người ta thường nói đến rất nhiều các loại quỹ khác nhau như: quỹ tiêu dùng, quỹ sản xuất, quỹ dự phòng, quỹ tiền lương, quỹ phúc lợi... Tất cả các loại quỹ này đều có một điểm chung là tập hợp các phương tiện tài chính hay vật chất khác cho những hoạt động nào đó theo mục tiêu định trước với những quy chế nhất định. Quỹ lớn hay nhỏ biểu thị khả năng về mặt phương tiện và vật chất để thực hiện mục tiêu đề ra.
Tất cả các loại quỹ đều không tồn tại với một khối lượng tĩnh tại một thời điểm mà luôn luôn biến động theo hướng tăng lên ở đầu vào với các nguồn thu và giảm đi ở đầu ra với các khoản chi như một dòng chảy liên tục. Có thể hình dung quỹ như một bể chứa nước, trong đó đầu vào có nước luôn chảy để nước trong bể ngày càng nhiều lên, còn đầu ra là quá trình sử dụng nước làm cho nước trong bể vơi dần đi. Để đảm bảo cho đầu ra ổn định, người ta thiết lập một lượng dự trữ. Đầu vào phải nhiều hơn đầu ra thì trong bể mới luôn luôn có nước. Bởi vậy, để quản lý và điều hành được một quỹ nào đó thì không phải chỉ quản lý được khối lượng tĩnh của nó tại một thời điểm, mà quan trọng hơn là phải quản lý được lưu lượng của nó trong một khoảng thời gian nhất định. Tương tự như vậy, quỹ BHXH cũng được hình thành từ các nguồn thu khác nhau và được sử dụng để chi trả các trợ cấp BHXH cho người thụ hưởng và các chi phí quản lý khác theo quy định của pháp luật. Vì vậy, quỹ BHXH phải được tính toán sao cho nguồn thu phải đủ lớn và phải chảy vào bể liên tục để đảm bảo các chi phí - đầu ra của BHXH không chỉ ở hiện tại mà cả trong tương lai. Khi mức chi ra ngày càng lớn, những người hoạch định phát triển BHXH phải tìm cách để tăng nhiều hơn mức thu vào. Khái niêm Quỹ BHXH được khái quát như sau:
Quỹ BHXH là một quỹ tiền tệ tập trung, được hình thành từ sự đóng góp của các bên tham gia BHXH và các nguồn thu khác; sử dụng để bù đắp hoặc thay thế một phần thu nhập cho người tham gia bảo hiểm khi họ gặp phải những biến cố rủi ro làm suy giảm sức khỏe, mất khả năng lao động, hoặc chết; nhằm ổn định đời sống cho họ và gia đình họ và chi phí cho các hoạt động nghiệp vụ BHXH, góp phần đảm bảo an toàn xã hội và phát triển kinh tế của đất nước.(Giáo trình BHXH-NXB Lao động-Xã hội)
Như vậy, quỹ BHXH là một quỹ tiêu dùng, đồng thời là một quỹ dự phòng; nó vừa mang tính kinh tế, vừa mang tính xã hội rất cao và là điều kiện, cơ sở vật chất quan trọng nhất đảm bảo cho toàn bộ hệ thống BHXH tồn tại và phát triển.
1.1.3.2 Đặc điểm quỹ Bảo hiểm xã hội
Sự ra đời, tồn tại và phát triển của quỹ BHXH là một tất yếu khách quan cùng với sự phát triển của xã hội. Quỹ BHXH được quản lý theo nguyên tắc kinh tế nhưng mục đích sử dụng quỹ BHXH lại mang tính xã hội sâu sắc. Quỹ BHXH là quỹ ngoài NSNN, hoạt động độc lập và tự cân đối thu- chi theo cơ chế quản lý tài chính được Chính phủ cho phép. Quỹ BHXH vận động thường xuyên do sự tác động của các hoạt động thu nộp BHXH và chi trả các chế độ BHXH đầy đủ, kịp thời góp phần thực hiện chính sách nhân đạo, công bằng, đảm bảo mục tiêu ổn định đời sống và chăm sóc sức khỏe cho nhân dân của Đảng, Nhà nước đối với NLĐ. Chính vì vậy, quỹ BHXH có những đặc điểm chủ yếu sau:
- Quỹ BHXH là một nguồn quỹ tiền tệ tập trung, giữ vị trí là khâu tài chính trung gian trong hệ thống tài chính quốc gia. Là tổ chức tài chính nằm giao thoa giữa NSNN với các tổ chức tài chính Nhà Nước, tài chính DN và sau đó là tài chính dân cư.
- Việc phân phối quỹ BHXH vừa mang tính bồi hoàn, vừa mang tính không bồi hoàn. Những biến cố mang tính tất nhiên đối với con người như thai sản đối với nữ, tuổi già và chết, BHXH mang tính bồi hoàn vì NLĐ đóng BHXH chắc chắn được hưởng các khoản trợ cấp đó. Còn trợ cấp do những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, những rủi ro trái với ý muốn của con người như: ốm đau, TNLĐ - BNN mang tính không bồi hoàn; có nghĩa là chỉ khi nào NLĐ gặp phải tổn thất do ốm đau, TNLĐ - BNN thì mới được hưởng khoản trợ cấp đó.
- Sự ra đời, tồn tại và phát triển quỹ BHXH gắn liền với chức năng vốn có của Nhà nước là vì quyền lợi của NLĐ chứ không vì mục đích sinh lời. Đồng thời quỹ BHXH cũng phụ thuộc vào trình độ phát triển KT- XH và điều kiện lịch sử trong từng thời kỳ của từng quốc gia. Khi nền kinh tế càng phát triển thì càng có nhiều chế độ BHXH được thực hiện, và bản thân từng chế độ cũng được áp dụng rộng rãi hơn, nhu cầu thỏa mãn về BHXH đối với NLĐ càng được nâng cao và họ càng có khả năng tham gia vào nhiều chế độ BHXH.
- Một mặt, quỹ BHXH mang tính tiêu dùng được thể hiện thông qua mục tiêu, mục đích của nó là chi trả cho các chế độ BHXH. Nhưng mặt khác nó mang tính dự trữ, vì thông thường khi NLĐ đóng góp vào quỹ BHXH thì họ không được quỹ này chi trả ngay khi gặp rủi ro mà phải có đủ thời gian tham gia BHXH nhất định theo quy định.
- Hoạt động của quỹ BHXH đặt ra yêu cầu và hình thành tất yếu chế độ tiết kiệm bắt buộc của xã hội và NLĐ dành cho ốm đau, tai nạn, hưu trí... Đó cũng là quá trình phân phối lại thu nhập của cá nhân và cộng đồng xã hội.
1.1.3.3 Nguồn hình thành quỹ BHXH
Quỹ BHXH là quỹ tiền tệ tập trung nằm ngoài NSNN, bởi vậy nó có tính độc lập rất cao. Quỹ BHXH được hình thành chủ yếu từ các nguồn sau đây:
- NLĐ đóng góp
- NSDLĐ đóng góp
- Nhà nước đóng góp và hỗ trợ.
Ngoài ra nó còn được hình thành bởi một số nguồn khác như: lãi từ hoạt động đầu tư quỹ nhàn rỗi; phần nộp phạt của những cá nhân, tổ chức vi phạm luật BHXH; sự hỗ trợ của các tổ chức từ thiện quốc tế. Tất cả các nguồn hình thành nói trên đều được tập trung trên cơ sở những quy định của Pháp luật.
Trong nền kinh tế thị trường, trách nhiệm tham gia đóng góp BHXH cho NLĐ được phân chia cho cả NLĐ và NSDLĐ trên cơ sở quan hệ lao động. Điều này không phải là sự phân chia rủi ro, mà là lợi ích giữa hai bên. Về phía NSDLĐ, sự đóng góp một phần BHXH cho NLĐ sẽ tránh được những thiệt hại kinh tế do phải chi ra một khoản tiền lớn khi có rủi ro xảy ra đối với NLĐ mà mình thuê mướn. Đồng thời nó góp phần giảm bớt tranh chấp, kiến tạo được mối quan hệ tốt đẹp giữa giới chủ và giới thợ. Về phía NLĐ, đóng góp một phần BHXH cho mình vừa thể hiện sự tự gánh chịu trực tiếp rủi ro của chính mình, vừa có ý nghĩa ràng buộc nghĩa vụ và quyền lợi một cách chặt chẽ. Có thể thấy mối quan hệ chủ- thợ trong BHXH thực chất là mối quan hệ lợi ích.
Cũng như nhiều lĩnh vực khác trong quan hệ lao động, BHXH không thể thiếu được sự tham gia đóng góp và hỗ trợ của Nhà nước. Thông thường, Nhà nước chỉ bù thiếu khi tình hình KT-XH có nhiều biến động lớn làm ảnh hưởng trực tiếp đến quỹ BHXH, hoặc khi nguồn quỹ bị thâm hụt lớn, tình hình dự báo không chính xác nên mức đóng góp của các bên quá thấp thu không đủ bù chi.
Phần lớn các nước trên thế giới hiện nay, quỹ BHXH đều được hình thành, tạo lập từ các nguồn nêu trên. Tuy nhiên, phương thức đóng góp và mức đóng góp của các bên tham gia BHXH có khác nhau, tùy từng điều kiện kinh tế, chính trị và xã hội của mỗi quốc gia.
1.1.3.4. Mục đích sử dụng quỹ BHXH
Quỹ BHXH được sử dụng chủ yếu cho 2 mục đích sau:
- chi trả trợ cấp cho các chế độ BHXH
- chi phí cho sự nghiệp quản lý
Theo khuyến nghị của Tổ chức lao động quốc tế (ILO), quỹ BHXH được sử dụng để trợ cấp cho các đối tượng tham gia BHXH, nhằm mục đích ổn định cuộc sống cho bản thân NLĐ và gia đình họ, khi NLĐ tham gia BHXH gặp rủi ro hoặc xảy ra các sự kiện BHXH. Mức trợ cấp phụ thuộc vào khả năng thanh toán chung của từng quỹ BHXH, mức sống chung của tầng lớp dân cư và NLĐ. Nhưng về nguyên tắc, mức trợ cấp này không cao hơn mức tiền lương, tiền công khi NLĐ đang làm việc và nó chỉ bằng một tỷ lệ phần trăm nhất định so với tiền lương, tiền công.
Ngoài việc chi trả trợ cấp theo các chế độ BHXH, quỹ BHXH còn được sử dụng cho chi phí quản lý sự nghiệp như: tiền lương chi trả cho cán bộ làm việc trong ngành BHXH; khấu hao tài sản cố định, cơ sở vật chất, văn phòng phẩm và một số chi phí khác… Đây là nguồn chi không lớn trong cơ cấu chi BHXH nhưng nó cũng là một khoản chi ngày càng tăng. Bởi vì các chế độ BHXH ngày càng được mở rộng để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của NLĐ cũng như sự phát triển của xã hội. Do đó đội ngũ cán bộ làm việc trong ngành BHXH ngày càng nhiều dẫn đến chi lương cán bộ ngày càng lớn. Mặt khác, xã hội ngày càng phát triển thì nhu cầu về điều kiện làm việc ngày càng tăng. Vì vậy chi phí cho việc xây dựng cơ bản, mua sắm máy móc, trang thiết bị văn phòng ngày càng tăng lên.
Bên cạnh đó, phần quỹ nhàn rỗi phải được đem đi đầu tư sinh lời. Mục đích đầu tư quỹ BHXH là nhằm bảo toàn và tăng trưởng nguồn quỹ. Quá trình đầu tư quỹ BHXH phải đảm bảo nguyên tắc: an toàn, hiệu quả, thuận tiện khi thu hồi vốn, phục vụ cho những lợi ích công cộng.
1.2 MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CÔNG TÁC THU BẢO HIỂM XÃ HỘI
1.2.1 Khái niệm thu BHXH
Khi tham gia BHXH, tất cả các đối tượng đều phải tuân thủ những quy định của Nhà nước về mức đóng, thời gian đóng và điều kiện được hưởng các chế độ BHXH. Thu BHXH luôn gắn với quyền lực của Nhà nước bằng hệ thống pháp luật. Vì vậy ta có thể hiểu:
Thu BHXH là việc Nhà nước dùng quyền lực của mình bắt buộc các đối tượng phải đóng BHXH theo mức phí quy định hoặc cho phép một số đối tượng được tự nguyện tham gia, lựa chọn mức đóng và phương thức đóng phù hợp với thu nhập của mình. Trên cơ sở đó hình thành một quỹ tiền tệ tập trung nhằm mục đích bảo đảm cho các hoạt động BHXH.(Giáo trình BHXH- NXBLĐ-XH)
Thu BHXH thực chất là quá trình phân phối lại một phần thu nhập của các đối tượng tham gia BHXH, phân phối và phân phối lại một phần của cải của xã hội dưới dạng giá trị, nhằm giải quyết hài hòa các mặt lợi ích kinh tế, góp phần đảm bảo sự công bằng xã hội.
1.2.2. Vai trò của công tác thu BHXH
Quỹ BHXH hiện đang được thực hiện nhằm đạt mục tiêu là một quỹ độc lập với NSNN, nhằm đảm bảo về tài chính để chi trả các chế độ BHXH cho NLĐ. Vì thế, công tác thu BHXH ngày càng trở thành khâu quan trọng và quyết định đến sự tồn tại và phát triển của việc thực hiện chính sách BHXH. Công tác thu BHXH có những vai trò chủ yếu sau:
- Công tác thu BHXH là hoạt động thường xuyên và đa dạng của ngành BHXH nhằm đảm bảo nguồn quỹ tài chính BHXH đạt được tập trung, thống nhất. Thu các khoản đóng góp BHXH là hoạt động của các cơ quan BHXH từ TW đến địa phương cùng với sự phối kết hợp của các ban ngành chức năng trên cơ sở quy định của pháp luật về thực hiện chính sách BHXH nhằm tạo ra nguồn tài chính tập trung từ việc đóng góp của các bên tham gia BHXH. Đồng thời tránh được tình trạng nợ đọng BHXH từ các cơ quan đơn vị, từ người tham gia BHXH. Qua đó, đảm bảo sự công bằng trong việc thực hiện và triển khai chính sách BHXH nói chung và giữa những người tham gia BHXH nói riêng.
- Công tác thu BHXH vừa đảm bảo cho quỹ được tập trung về một mối, vừa đóng vai trò như một công cụ thanh kiểm tra số lượng người tham gia BHXH biến đổi ở từng khối lao động, cơ quan, đơn vị ở từng địa phương hoặc trên phạm vi toàn quốc. Bởi vậy, công tác thu BHXH cũng đòi hỏi phải được tổ chức tập trung, thống nhất có sự ràng buộc chặt chẽ từ trên xuống dưới, đảm bảo an toàn tuyệt đối về tài chính, đảm bảo độ chính xác trong ghi chép kết quả đóng BHXH của từng cơ quan, đơn vị cũng như của từng NLĐ. Hơn nữa, hoạt động thu BHXH là hoạt động liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của NLĐ và có tính kế thừa, số thu BHXH một phần dựa trên số lượng người tham gia BHXH để tạo lập nên quỹ BHXH. Cho nên nghiệp vụ của công tác thu BHXH có một vai trò hết sức quan trọng và rất cần thiết trong việc thực hiện chính sách BHXH. Bởi đây là khâu đầu tiên giúp cho chính sách BHXH thực hiện được các chức năng của mình.
- Hoạt động của công tác thu BHXH ở hiện tại ảnh hưởng trực tiếp đến công tác chi và quá trình thực hiện chính sách BHXH trong tương lai. Do BHXH cũng như các loại hình bảo hiểm khác đều dựa trên cơ sở nguyên tắc có đóng, có hưởng đã đặt ra yêu cầu quy định đối với công tác thu nộp quỹ BHXH. Nếu không có thu BHXH thì quỹ không có nguồn để chi trả cho các chế độ BHXH cho NLĐ. Vậy hoạt động thu BHXH ảnh hưởng trực tiếp đến công tác chi và quá trình thực hiện chính sách BHXH. Do đó, thực hiện công tác thu BHXH đóng một vai trò quyết định, then chốt trong quá trình đảm bảo ổn định cuộc sống cho NLĐ cũng như các đơn vị, DN được hoạt động bình thường.
1.2.3. Nội dung của công tác thu BHXH bắt buộc
Theo quy định hiện hành thì công tác thu BHXH bắt buộc bao gồm những nội dung cơ bản sau:
1.2.3.1 Đối tượng thu BHXH bắt buộc
Việc xác định đối tượng tham gia BHXH là một trong những nhiệm vụ lớn và quan trọng nhất của công tác thu BHXH. Theo quy định của Luật BHXH Việt Nam đối tượng thu BHXH bao gồm
Người lao động tham gia BHXH bắt buộc: Được quy định cụ thể tại Điều 2- Nghị định số 152/2006/NĐ-CP ngày 22/12/2006 của Chính Phủ và Thông tư số 03/2007/TT-BLĐTBXH ngày 30/01/2007 của Bộ LĐTB & XH bao gồm:
1. Cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức.
2. Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 3 tháng trở lên theo quy định của pháp luật về lao động kể cả cán bộ quản lý, người lao động làm việc trong hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã hưởng tiền công theo hợp đồng lao động từ đủ 3 tháng trở lên.
3. Người lao động là công nhân quốc phòng, công nhân công an làm việc trong các doanh nghiệp thuộc lực lượng vũ trang.
4. Người lao động đã tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc mà chưa nhận bảo hiểm xã hội một lần trước khi đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo quy định của pháp luật về người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, bao gồm các loại hợp đồng sau đây:
a, Hợp đồng với tổ chức sự nghiệp, doanh nghiệp được phép hoạt động dịch vụ đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài, doanh nghiệp đưa lao động đi làm việc nước ngoài dưới hình thức thực tập, nâng cao tay nghề và doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài có đưa lao động đi làm việc nước ngoài;
b, Hợp đồng với doanh nghiệp Việt Nam trúng thầu, nhận thầu, công trình ở nước ngoài;
c, Hợp đồng cá nhân.
Người sử dụng lao động tham gia BHXH bắt buộc: Được quy định cụ thể tại Điều 3-Nghị định số 152/2006/NĐ-CP ngày 22/12/2006 của Chính phủ và Thông tư số 03/2007/TT-BLĐTBXH ngày 30/01/2007 của Bộ LĐTB & XH bao gồm:
1. Doanh nghiệp thành lập, hoạt động theo Luật Doanh nghiệp, kể cả các doanh nghiệp thuộc lực lượng vũ trang.
2. Cơ quan Nhà nước, đơn vị sự nghiệp của Nhà nước.
3. Tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội khác.
4. Tổ chức, đơn vị hoạt động theo quy định của pháp luật.
5. Hợp tác xã, Liên hiệp hợp tác xã thành lập, hoạt động theo Luật hợp tác xã.
6. Hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác, tổ chức khác và cá nhân có thuê mướn, sử dụng và trả công người lao động.
7. Cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam có sử dụng lao động là người Việt Nam, trừ trường hợp Điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác
1.2.3.2 Tiền lương- tiền công làm căn cứ đóng BHXH bắt buộc
- NLĐ thuộc đối tượng thực hiện theo chế độ tiền lương do Nhà nước quy định thì:
+ TL-TC tháng đóng BHXH là tiền lương theo ngạch bậc, cấp bậc quân hàm và các khoản phụ cấp chức vụ, phụ cấp thâm niên vượt khung, phụ cấp thâm niên nghề( nếu có).
+ TL-TC tháng đóng BHXH của NLĐ được tính theo mức lương tối thiểu chung tại thời điểm đóng.
- NLĐ đóng BHXH theo chế độ TL-TC do chủ SDLĐ quyết định thì:
+ TL-TC tháng đóng BHXH là mức TL-TC ghi trong HĐLĐ nhưng không được thấp hơn mức lương tối thiểu chung tại thời điểm đóng.
+ NLĐ làm việc theo HĐLĐ trong các công ty Nhà nước chuyển thành Công ty cổ phần, Công ty TNHH Nhà nước một thành viên trở lên áp dụng thang, bảng lương do Nhà nước quy định thì đóng BHXH trên cơ sở mức lương như đối với NLĐ làm việc theo chế độ do Nhà nước quy định.
NLĐ có mức TL-TC cao hơn 20 tháng lương tối thiểu chung tại thời điểm đóng thì mức TL-TC tháng đóng BHXH được tính bằng 20 tháng lương tối thiểu chung.
1.2.3.3 Mức thu và phương thức thu BHXH bắt buộc
a, Mức thu BHXH bắt buộc
Đối với người lao động tham gia BHXH bắt buộc: Được quy định cụ thể tại Điều 91- Luật BHXH được Quốc hội thông qua ngày 29/06/2006 và Điều 42- Nghị định số 152/2006/NĐ- CP ngày 22/12/2006 của Chính Phủ. Theo đó NLĐ đóng vào quỹ hưu trí và tử tuất. Cụ thể như sau:
Từ 01/2007 -12/2009: Mức đóng bằng 5% mức TL-TC tháng đóng BHXH;
Từ 01/2010 -12/2011: Mức đóng bằng 6% mức TL-TC tháng đóng BHXH;
Từ 01/2012 -12/2013: Mức đóng bằng 7% mức TL-TC tháng đóng BHXH;
Từ 01/ 2014 trở đi: Mức đóng bằng 8% mức TL-TC tháng đóng BHXH.
Đối với người sử dụng lao động tham gia BHXH bắt buộc: Được quy định cụ thể tại Điều 92- Luật BHXH được Quốc hội thông qua ngày 29/06/2006 và Điều 43- Nghị định số 152/2006/NĐ-CP ngày 22/12/2006 của Chính phủ. Theo đó, NSDLĐ đóng trên quỹ tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH của những NLĐ. Cụ thể như sau:
- Quỹ ốm đau, thai sản: Mức đóng 3%; trong đó NSDLĐ giữ lại 2% để chi trả kịp thời cho người lao động đủ điều kiện hưởng chế độ theo quy định.
- Quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp: Mức đóng 1%;
- Quỹ hưu trí và tử tuất: Mức đóng như sau:
Từ 01/2007 - 12/2009: Mức đóng bằng 11%;
Từ 01/2010 - 12/2011: Mức đóng bằng 12%;
Từ 01/2012 - 12/2013: Mức đóng bằng 13%;
Từ 2014 trở đi: Mức đóng bằng 14%.
b, Phương thức thu BHXH bắt buộc
Hiện nay, BHXH Việt Nam đang áp dụng hai hình thức thu BHXH:
- Thu qua tài khoản: Là hình thức các đơn vị SDLĐ hàng tháng nộp tiền BHXH vào tài khoản chuyên thu của cơ quan BHXH mở tại Ngân hàng hoặc Kho bạc Nhà nước. Đây là hình thức thu chủ yếu của BHXH Việt Nam.
- Thu bằng tiền mặt: Trường hợp NSDLĐ hoặc NLĐ đóng BHXH bằng tiền mặt thì cơ quan BHXH phải hướng dẫn thủ tục nộp tiền vào tài khoản chuyên thu của cơ quan BHXH. Nếu NSDLĐ hoặc NLĐ nộp tiền mặt trực tiếp tại cơ quan BHXH thì chậm nhất sau 03 ngày làm việc, cơ quan BHXH phải nộp tiền vào tài khoản chuyên thu mở tại Ngân hàng hoặc Kho bạc Nhà nước.
1.2.3.4. Quy trình thu- nộp BHXH bắt buộc
a, Quy trình thu- nộp
- Đối với đơn vị SDLĐ lần đầu tiên tham gia BHXH
+ Người lao động:
Kê khai 03 bản “ Tờ khai tham gia BHXH bắt buộc( Mẫu số 01-TBH) dựa trên hồ sơ gốc của mình để nộp cho NSDLĐ. Trường hợp đã được cấp sổ BHXH thì không phải kê khai mà chỉ phải nộp sổ BHXH.
+ Người sử dụng lao động:
- Kiểm tra đối chiếu tờ khai tham gia BHXH với hồ sơ gốc của từng NLĐ, tiến hành ký xác nhận và phải chịu trách nhiệm về những nội dung trên tờ khai của NLĐ.
- Lập 02 bản “ Danh sách lao động tham gia BHXH bắt buộc” (Mẫu số 2a-TBHH) và bản sao quyết định thành lập hoặc giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc giấy phép hoạt động; trường hợp NSDLĐ là cá nhân thì nộp bản HĐLĐ.
- Trong thời hạn không quá 30 ngày kể từ ngày ký HĐLĐ hoặc quyết định tuyển dụng, NSDLĐ phải nộp toàn bộ hồ sơ theo quy định đã nêu ở trên và sổ BHXH của NLĐ ( nếu có) cho cơ quan BHXH.
+ Cơ quan BHXH:
- Tiếp nhận hồ sơ, kiểm tra số lượng, tính hợp pháp của các loại giấy tờ, đối chiếu với hồ sơ của NLĐ, ghi mã số quản lý đơn vị và từng NLĐ trên danh sách và trên tờ khai tham gia BHXH.
- Ký, đóng dấu vào “Danh sách lao động tham gia BHXH bắt buộc” trong thời gian không quá 5 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ. Cơ quan trả lại đơn vị 01 bản để đơn vị đóng BHXH, cơ quan lưu 01 bản danh sách. Riêng 03 tờ khai của NLĐ sau khi cấp sổ hoàn chỉnh thì trả lại đơn vị 02 tờ khai cùng với sổ BHXH.
- Đối với đơn vị SDLĐ đang tham gia BHXH bắt buộc:
+ NSDLĐ lập 02 bản “Danh sách điều chỉnh lao động và mức đóng BHXH bắt buộc” ( Mẫu số 03-TBH) kèm theo hồ sơ như: Tờ khai, quyết định tuyển dụng, quyết định thôi việc; tăng, giảm lương...nộp cho cơ quan BHXH trước ngày 20 của tháng. Các trường hợp tăng, giảm từ ngày 16 của tháng trở đi thì lập danh sách và thực hiện vào đầu tháng kế tiếp.
+ Cơ quan BHXH tiếp nhận, kiểm tra, thẩm định hồ sơ, ký, đóng dấu vào danh sách lao động tham gia BHXH, các tờ khai ( nếu có) ; thông báo cho các đơn vị đóng BHXH, cấp sổ BHXH kịp thời cho NLĐ.
Hàng tháng hoặc tháng đầu của kỳ sau (đơn vị đóng theo kỳ), căn cứ hồ sơ đăng ký tham gia BHXH và hồ sơ bổ sung (nếu có), các chứng từ chuyển tiền đóng BHXH của đơn vị; giấy báo có của Ngân hàng hoặc Kho bạc Nhà nước trong tháng, trong kỳ để kiểm tra, đối chiếu và xác định số người tham gia BHXH, tổng quỹ lương, số tiền phải đóng, số tiền đã đóng, số tiền đóng thừa, thiếu, tiền lãi chậm đóng( nếu có). Lập 02 bản “ Thông báo kết quả đóng BHXH bắt buộc” ( Mẫu số 08-TBH) gửi 01 bản cho đơn vị SDLĐ trước ngày 10 tháng sau, 01 bản lưu tại cơ quan BHXH.
b, Phân cấp quản lý thu BHXH bắt buộc
- BHXH Việt Nam:
Chỉ đạo, hướng dẫn và kiểm tra tình hình thực hiện công tác quản lý thu, cấp sổ BHXH trong toàn ngành bao gồm cả BHXH Bộ quốc phòng, Bộ Công an và Ban Cơ yếu Chính phủ. Xác định mức lãi suất bình quân trong năm của hoạt động đầu tư quỹ BHXH và thông báo cho BHXH tỉnh.
- BHXH tỉnh:
+ Căn cứ tình hình thực tế của địa phương để phân cấp quản lý thu BHXH cho phù hợp với chức năng nhiệm vụ.
+ Xây dựng kế hoạch và hướng dẫn, kiểm tra tình hình thực hiện công tác thu, cấp sổ BHXH theo phân cấp quản lý và quyết toán số tiền thu BHXH đối với BHXH huyện theo định kỳ quý, 6 tháng, năm và lập “ Biên bản thẩm định số liệu thu BHXH bắt buộc”( Mẫu số 12-TBH).
- BHXH huyện:
Tổ chức, hướng dẫn thực hiện thu BHXH, cấp sổ BHXH đối với NSDLĐ và NLĐ theo phân cấp quản lý.
- BHXH Bộ Quốc phòng, Bộ Công an và Ban Cơ yếu Chính phủ:
Trực tiếp thu BHXH, cấp sổ BHXH đối với NLĐ do Bộ Quốc phòng, Bộ Công an và Ban Cơ yếu Chính phủ quản lý; xây dựng kế hoạch thu và báo cáo quyết toán thu BHXH, cấp sổ BHXH hàng năm cho cơ quan BHXH Việt Nam.
c, Lập và giao kế hoach thu BHXH hằng năm
- BHXH huyện:
Căn cứ tình hình thực hiện năm trước và khả năng mở rộng đối tượng tham gia BHXH trên địa bàn, lập 02 bản “ Kế hoạch thu BHXH bắt buộc” năm sau (Mẫu số 13-TBH) gửi 01 bản đến BHXH tỉnh trước ngày 05/11 hàng năm.
- BHXH tỉnh:
Lập 02 bản dự toán thu BHXH đối với NSDLĐ do tỉnh quản lý, đồng thời tổng hợp toàn tỉnh, lập 02 bản “ Kế hoach thu BHXH bắt buộc” năm sau (Mẫu số 13-TBH), gửi BHXH Việt Nam 01 bản trước ngày 15/11 hàng năm.
Căn cứ dự toán thu của BHXH Việt Nam giao, tiến hành phân bổ dự toán thu BHXH cho các đơn vị trực thuộc BHXH tỉnh và BHXH huyện trước ngày 20/01 hàng năm.
- BHXH Bộ Quốc phòng, Bộ Công an và Ban Cơ yếu Chính phủ:
Lập kế hoạch thu BHXH gửi BHXH Việt Nam trước ngày 15/11 hàng năm.
- BHXH Việt Nam:
Căn cứ tình hình thực hiện kế hoạch năm trước và khả năng phát triển đối tượng năm sau của các địa phương, tổng hợp, lập và giao dự toán thu BHXH cho BHXH tỉnh và BHXH Bộ Quốc phòng, Bộ Công an và Ban Cơ yếu Chính phủ trước ngày 10/ 01 hàng năm.
d, Quản lý tiền thu BHXH bắt buộc:
- BHXH tỉnh và huyện không được sử dụng tiền thu BHXH bắt buộc vào bất cứ mục đích gì ( trường hợp đặc biệt phải được Tổng giám đốc BHXH Việt Nam chấp thuận bằng văn bản).
- Hàng quý, BHXH tỉnh (Phòng Kế hoạch- Tài chính) và BHXH huyện có trách nhiệm quyết toán số tiền 2% đơn vị giữ lại, xác định số tiền chênh lệch, thừa, thiếu; đồng thời gửi thông báo quyết toán cho phòng thu hoặc bộ phận thu để thực hiện thu kịp thời số tiền NSDLĐ chưa chi hết vào tháng đầu quý sau.
- BHXH Việt Nam thẩm định số thu BHXH bắt buộc theo 06 tháng hoặc hằng năm đối với BHXH tỉnh, BHXH Bộ Quốc phòng, Bộ Công an và Ban Cơ yếu Chính phủ.
e, Thông tin, báo cáo:
- BHXH tỉnh, huyện mở Sổ chi tiết thu BHXH bắt buộc ( Mẫu số 07-TBH), thực hiện ghi Sổ theo hướng dẫn sử dụng mẫu biểu.
- BHXH tỉnh, huyện thực hiện chế độ báo cáo tình hình thu BHXH bắt buộc ( Mẫu số 09,10,11-TBH) định kỳ tháng, quý, năm như sau:
+ BHXH huyện: Báo cáo tháng trước 22 hàng tháng, báo cáo quý trước ngày 20 tháng đầu quý sau, báo cáo năm trước ngày 25 tháng 01 năm sau.
+ BHXH tỉnh: Báo cáo trước ngày 25 hàng tháng, báo cáo quý trước ngày cuối tháng đầu quý sau, báo cáo năm trước ngày 15 tháng 02 năm sau.
- BHXH Bộ Quốc phòng, Bộ Công an và Ban Cơ yếu Chính phủ: Thực hiện báo cáo thu BHXH 06 tháng đầu năm trước ngày 30 tháng 07 và báo cáo năm trước ngày 15 tháng 02 năm sau.
1.3. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI CÔNG TÁC THU BHXH.
Thứ nhất, đó là chính sách tiền lương:
Giữa chính sách tiền lương và chính sách BHXH nói chung và công tác thu BHXH nói riêng có mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau. Chính sách tiền lương là tiền đề và cơ sở cho việc thực hiện chính sách BHXH nhất là đối với khu vực Nhà nước quy định thang bảng lương vì khu vực này tiền lương phụ thuộc vào mức lương tối thiểu và hệ số lương. Nâng lương tối thiểu đồng nghĩa với việc tăng mức đóng BHXH và đương nhiên tăng số thu BHXH. Như vậy, mức lương tối thiểu đã tác động gián tiếp tới mức thu BHXH.
Thứ hai, là nguồn lực lao động:
Người lao động là đối tượng tham gia BHXH, đang trong độ tuổi lao động, trực tiếp tạo ra của cải cho xã hội. Như vậy, nếu một quốc gia có dân số “già” tức là số người trong độ tuổi lao động chiếm tỉ lệ thấp trong tổng dân số sẽ dẫn tới việc mất cân đối quỹ BHXH bởi vì số người tham gia đóng góp vào quỹ ngày càng ít trong khi số người hưởng các chế độ BHXH đặc biệt là chế độ hưu trí ngày càng tăng. Trong điều kiện của Việt Nam hiện nay, với dân số trẻ (Năm 2010, cả nước có 43,8 triệu người trong độ tuổi lao động đang làm việc, chiếm 51,1% dân số) đang có lợi thế về nguồn lực lao động tham gia tham gia đóng góp vào quỹ BHXH song đến hết năm 2010 mới chỉ có hơn 9 triệu người tham gia (chiếm khoảng 20,5% số người trong độ tuổi lao động). Con số này vẫn chưa tương xứng với tiềm năng nên ảnh hưởng rất lớn đến công tác thu.
Thứ ba, là tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế:
Tốc độ tăng trưởng kinh tế của một quốc gia phản ánh khả năng tiết kiệm, tiêu dùng và đầu tư của Nhà nước. Vì thế, nếu một quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định thì chắc chắn đời sống nhân dân sẽ được nâng cao dần lên, tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp cũng sẽ gặp nhiều thuận lợi và các doanh nghiệp cũng sẵn sàng tham gia BHXH cho người lao động. Bên cạnh đó, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và bền vững phản ánh nhiều người lao động có thu nhập cao thông qua quá trình lao động, đây là điều kiện tiền đề để người lao động có cơ hội tham gia BHXH. Thêm nữa, khi đời sống kinh tế cao thì nhận thức của người lao động cũng tăng lên. Ngoài việc ý thức đảm bảo cuộc sống hàng ngày cho bản thân và gia đình họ, họ mong muốn có khoản trợ giúp khi không may gặp các rủi ro xã hội như: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp, hưu trí, tử tuất, thất nghiệp khiến họ bị mất hoặc giảm thu nhập. Những yếu tố trên tác động tích cực làm tăng thu BHXH.
Thứ tư, mức độ chi trả các chế độ BHXH.
Mức độ chi trả các chế độ BHXH phụ thuộc vào: Số lượng các chế độ BHXH được áp dụng, số lượng người hưởng các chế độ BHXH, tỷ lệ hưởng BHXH. Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) khuyến nghị các quốc gia tham gia phê chuẩn Công ước số 102 về BHXH phải áp dụng tối thiểu 3 trong 9 chế độ BHXH, trong đó ít nhất phải áp dụng một trong các chế độ: trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp tuổi già, trợ cấp tai nạn lao động, trợ cấp tàn tật, trợ cấp nuôi dưỡng. Nếu một quốc gia càng triển khai và áp dụng nhiều các chế độ trong số 9 chế độ thì số thu BHXH ngày càng lớn, ở Việt Nam hiện nay đang áp dụng 5 chế độ đó là: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động bệnh nghề nghiệp, hưu trí, tử tuất. Tỷ lệ hưởng càng cao có nghĩa là số tiền chi trả cho các chế độ càng lớn, chính điều này đã đặt ra yêu cầu thu BHXH ngày càng cao hơn để tránh tình trạng mất cân đối quỹ BHXH. Thực tế tỷ lệ hưởng lương hưu của Việt Nam hiện nay là 75% thuộc vào một trong những nước có tỷ lệ hưởng lương hưu cao trên thế giới, thông thường các nước chỉ ở mức 60% - 65%. Song lương hưu ở Việt Nam lại thuộc vào những nước thấp trên thế giới, sở dĩ có nghịch lý này là do: Mức đóng BHXH của người tham gia BHXH vào quỹ BHXH rất thấp do căn cứ vào tiền lương theo thang bảng lương Nhà nước quy định hoặc lương ký trên hợp đồng, mà đây là những mức lương rất thấp. Khi tuổi nghỉ hưu càng được nâng lên thì mức thu càng tăng, giảm nguy cơ mất cân đối quỹ, ngược lại khi tuổi nghỉ hưu càng thấp thì nguy cơ mất cân đối quỹ càng sớm xuất hiện bởi vì khi nghỉ hưu sớm thì số thu được của quỹ không những ít mà quỹ phải chi nhiều hơn cho ngườì lao động khi về hưu.
Như vậy, để số huy động vào quỹ BHXH ngày càng cao nhằm đảm bảo cho quỹ BHXH được cân đối lâu dài, ổn định thì việc nâng cao hiệu quả thu BHXH là một trong những công việc được đặt ra hàng đầu, tuy nhiên để có thể nâng cao hiệu quả thu BHXH chúng ta cần phải giải quyết hài hoà và căn cứ vào các nhân tố tác động đến công tác thu, qua đó chúng ta tìm ra những nhân tố tác động tích cực để phát huy tiềm năng thế mạnh, tìm ra những nhân tố tác động tiêu cực để có biện pháp hạn chế và điều chỉnh kịp thời.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THU BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC TẠI BHXH THỊ XÃ HỒNG LĨNH.
2.1. VÀI NÉT GIỚI THIỆU VỀ THỊ XÃ HỒNG LĨNH VÀ CƠ QUAN BHXH THỊ XÃ HỒNG LĨNH.
2.1.1. Đặc điểm kinh tế xã hội Thị xã Hồng Lĩnh
Thị xã Hồng Lĩnh nằm ở tọa độ 105,45 kinh độ đông – 18.32 vĩ độ bắc, là nơi giao nhau của Quốc lộ 1A và 8A. Về vị trí địa lý phía Bắc giáp huyện Hưng Nguyên (Nghệ An), phía Đông giáp huyện Nghi Xuân, phía tây giáp huyện Đức Thọ, phía Nam giáp huyện Can Lộc. Trung tâm Thị xã cách Thành phố Vinh 15km về phía Bắc và Thành phố Hà Tĩnh 35 km về phía Nam, Cửa khẩu Quốc tế cầu treo 92km về phía Tây. Năm 2009, Thị xã Hồng Lĩnh có 5.855,23ha diện tích đất tự nhiên và 40.805 nhân khẩu. Thị xã Hồng Lĩnh có tất cả 5 phường 1 xã. Với vị trí địa lý và tự nhiện như thế, Hồng Lĩnh là trung tâm kinh tế, văn hóa – xã hội phía Bắc tỉnh Hà Tĩnh, tuy nhiên đây vẫn còn là một thị xã miền núi nghèo, vẫn còn rất nhiều khó khăn cần được quan tâm và phát triển hơn nữa.
2.1.2. Sơ lược vế cơ quan BHXH thị xã Hồng Lĩnh.
2.1.2.1. Lịch sử hình thành.
Bảo hiểm xã hội Thị xã Hồng lĩnh được thành lập vào ngày 11/07/1995 theo quyết định của BHXH tỉnh Hà Tĩnh và BHXH Việt Nam, cơ sở biên chế từ công đoàn Lao động và Phòng thương binh xã hội chuyển sang. BHXH thị xã Hồng Lĩnh là đơn vị có tư cách pháp nhân, có con dấu riêng và tài khoản riêng, là đơn vị hạch toán cấp 3 của hệ thống BHXH Việt Nam, chịu sự lãnh đạo và chỉ đạo trực tiếp của BHXH tỉnh Hà Tĩnh. BHXH thị xã Hồng Lĩnh có trụ sở đóng tại đường Suối Tiên, phường Bắc Hồng, Thị xã Hồng Lĩnh.
Từ lúc mới thành lập BHXH Thị xã Hồng Lĩnh đã gặp không ít khó khăn về cả nhân lực cũng như cơ sở vật chất. Nhưng đến nay, nhìn lại một chặng đường sau 16 năm hình thành và phát triển cùng với sự nỗ lực, cố gắng của các cán bộ, công nhân viên chức trong đơn vị và sự quan tâm giúp đỡ của các ngành địa phương BHXH Thị xã Hồng Lĩnh đã từng bước phát triển và luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ mà BHXH Việt Nam giao cho.
2.1.2.2. Chức năng, nhiệm vụ và của BHXH thị xã Hồng Lĩnh.
a. Chức năng:
Chức năng cơ bản của BHXH thị xã Hồng Lĩnh là giúp giám đốc BHXH tỉnh Hà Tĩnh tổ chức thực hiện các chế độ chính sách, chế độ BHXH và quản lý tài chính BHXH trên địa bàn thị xã Hồng Lĩnh.
BHXH Thị xã Hồng Lĩnh chịu sự quản lý trực tiếp, toàn diện của Giám đốc BHXH Tỉnh Hà Tĩnh, chịu sự quản lý hành chính trên địa bàn lãnh thổ của UBND Thị xã Hồng Lĩnh.
b. Nhiệm vụ và quyền hạn:
Xây dựng và trình giám đốc BHXH tỉnh Hà Tĩnh kế hoạch phát triển BHXH thị xã dài hạn, ngắn hạn, báo cáo công tác hàng năm, tổ chức thực hiện các chương trình, kế hoạch sau khi được phê duyệt.
Hướng dẫn người sử dụng lao động lập danh sách lao động đóng BHXH, đôn đốc, theo dõi việc thu nộp BHXH của người sử dụng lao động và người lao động trên địa bàn thị xã theo quy đinh của Luật lao động, Luật BHXH và quy trình của BHXH Việt Nam.
Tiếp nhận kinh phí, danh sách và trực tiếp chi trả hoặc thông qua mạng lưới đại lý chi trả cho đối tượng hưởng chế độ BHXH do tỉnh chuyển xuống, theo dõi việc thay đổi địa chỉ, danh sách tăng, giảm trong quá trình chi trả.
Tổ chức thực hiện việc chi trả các chế độ BHXH cho từng người được hưởng trên địa bàn theo phân cấp quản lý của Tổng giám đốc BHXH Việt Nam và của giám đốc BHXH tỉnh. Bao gồm:
Chế độ trợ cấp ốm đau, thai sản.
Chế độ trợ cấp tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp.
Chế độ trợ cấp dưỡng sức phục hồi sức khỏe.
Chế độ hưu trí.
Chế độ tử tuất.
Tổ chức ghi sổ, cấp sổ BHXH, thẻ BHYT cho người lao động thuộc các cơ quan, đơn vị sản xuất kinh doanh, đơn vị hành chính sự nghiệp trên địa bàn thị xã theo hướng dẫn của BHXH Việt Nam và phân cấp quản lý theo BHXH tỉnh giải quyết.
Tổ chức thu các khoản về BHXH, BHYT đối với các cá nhân, tổ chức tham gia BHXH, BHYT tự nguyện.
Hướng dẫn tiếp nhận hồ sơ, giải quyết các chế độ BHXH, BHYT theo phân cấp.
Từ chối việc đóng hoặc chi trả các chế độ BHXH, BHYT không đúng theo quy định.
Bồi thường mọi khoản thu, chi sai các quy định của Nhà nước về BHXH cho các đối tượng tham gia BHXH.
Tổ chức kí hợp đồng với các cơ sở khám chữa bệnh có đủ điều kiện, tiêu chuẩn chuyên môn kĩ thuật, giám sát việc thực hiện hợp đồng và việc cung cấp dịch vụ khám chữa bệnh đảm bảo quyền lợi cho người có thẻ BHYT, đồng thời chóng lạm dụng quỹ và trục lợi BHYT.
Tổ chức kí hợp đồng trách nhiệm và quản lý mạng lưới đại lý chi trả BHXH ở cấp xã.
Kiến nghị với chính phủ và cơ quan Nhà nước có liên quan về việc sửa đổi, bổ xung các chính sách, chế độ cho phù hợp với tình hình của đất nước và của địa phương trong từng giai đoạn.
Thực hiện chế độ kế toán thống kê và báo cáo định kì theo quy định của Nhà nước và hướng dẫn của BHXH Việt Nam, BHXH tỉnh.
Thực hiện thông tin tuyên truyền, giải thích các chế độ chính sách BHXH.
Kiểm tra giải quyết khiếu nại tố cáo về việc thực hiện chế độ chính sách HBHXH, BHYT theo đúng quy định của pháp luật.
Quản lý công chức, viên chức, tài chính, tài sản thuộc BHXH thị xã.
Thực hiện các nhiệm vụ khác do BHXH tỉnh giao.
2.1.2.3. Cơ cấu tổ chức bộ máy BHXH Thị xã Hồng Lĩnh
Là cơ quan BHXH cấp Thị xã, BHXH Thị xã Hồng Lĩnh có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng. Tổ chức bộ máy quản lý của cơ quan không chia thành các phòng ban mà được chia thành 5 bộ phận chính. Các bộ phận có quan hệ mật thiết với nhau, mang tính chất tương hỗ để cùng thực hiện mục tiêu chung do cơ quan đề ra.
Sơ đồ 1: Sơ đồ cơ cấu tổ chức bộ máy BHXH thị xã Hồng Lĩnh:
GĐ BHXH
Phó GĐ
BP một cửa
BP thu
BP sổ thẻ
BP giám định bhyt
BP kế toán
Mạng lưới chi trả BHXH cấp xã
Phó GĐ
BP một cửa
BP thu
BP sổ thẻ
BP giám định bhyt
Mạng lưới chi trả BHXH cấp xã
( Nguồn: BHXH thị xã Hồng Lĩnh)
2.1.2.4. Đội ngũ cán bộ của BHXH Thị xã Hồng Lĩnh.
Tính tới thời điểm ngày 31/12/2010 thì BHXH Thị xã Hồng lĩnh có tất cả 13 cán bộ, công chức, viên chức. Đây đều là những cán bộ trẻ năng động có chuyên môn, nghiệp vụ. Số lượng cán bộ công chức tại BHXH Thị xã Hồng Lĩnh được thể hiện dưới bảng sau:
Trong đó: Số có trình độ đại học, cao đẳng 10 người chiếm tỷ lệ 77%, trình độ Trung cấp 03 người chiếm tỷ lệ 23%. Đội ngũ cán bộ công chức – viên chức BHXH Hồng Lĩnh đa số còn trẻ (có tuổi đời bình quân 35 có 3 nam, 10 nữ), được đào tạo cơ bản, phẩm chất đạo đức tốt. Trên cơ sở trình độ chuyên môn và năng lực sở trường của từng cán bộ công chức viên chức, để bố trí công việc chức năng phù hợp nhằm đạt hiệu quả công tác chuyên môn nghiệp vụ cao nhất.
Bảng 1: Cơ cấu cán bộ công chức, viên chức BHXH thị xã Hồng Lĩnh
Chỉ tiêu
Số lượng (người)
Tỷ lệ (%)
Giới tính:
+ Nam
3
23,07
+ Nữ
10
77,0
Trình độ chuyên môn nghiệp vụ:
+ Đại học
10
77,0
+ Cao đẳng
0
0,0
+ Trung cấp
3
23,7
Trình độ lý luận:
+ Trung cấp
3
23,07
+ Sơ cấp
6
46,15
( Nguồn: BHXH Thị xã Hồng Lĩnh)
2.1.2.5. Cơ sở vật chất kỹ thuật của BHXH Thị xã Hồng Lĩnh.
Cơ quan BHXH Thị xã Hồng Lĩnh hiện nay đã có trụ sở riêng đóng tại địa bàn Phường Bắc Hồng, đường Suối Tiên, thị xã Hồng lĩnh với một tòa nhà kiên cố khang trang gồm 3 tầng. Mỗi phòng đều có hệ thống máy điều hòa. Mỗi cán bộ công chức viên chức ở đây đều được trang bị máy vi tính nối mạng internet, máy in để phục vụ rất thuận tiện cho việc tìm kiếm tài liệu, thông tin văn bản pháp luật một cách đầy đủ, kịp thời. Khi cần có thể liên lạc với BHXH tỉnh hoặc các cơ quan BHXH khác trên địa bàn thông qua hệ thống máy tính này. Hiện tại với 13 cán bộ trong đơn vị, BHXH huyện đã được trang bị 7 máy vi tính, 4 máy in và 4 điện thoại cố định phục vụ quá trình công tác. Cùng với đó là các trang thiết bị khác như bàn ghế,...
2.2.THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THU BHXH TẠI THỊ XÃ HỒNG LĨNH - HÀ TĨNH GIAI ĐOẠN 2008-2010.
2.2.1. Đối tượng thu và mức thu BHXH
2.2.1.1. Đối tượng thu BHXH.
a, Tình hình tham gia BHXH bắt buộc của đơn vị SDLĐ
Theo thống kê và rà soát các đơn vị SDLĐ trên địa bàn thị xã Hồng Lĩnh thì những biến động về số lượng đơn vị tham gia BHXH giai đoạn 2008-2010 được thống kê như sau:
Bảng 2: Số lượng đơn vị tham gia BHXH bắt buộc tại BHXH thị xã Hồng Lĩnh (2008-2010):
Chỉ tiêu
Năm
Đơn vị thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc
Đơn vị đã tham gia BHXH bắt buộc
Tỷ lệ đơn vị tham gia BHXH bắt buộc( %)
Số lượng
( đơn vị)
Tốc độ tăng
(%)
Số lượng
( đơn vị)
Tốc độ tăng
(%)
2008
156
-
142
-
91,02
2009
178
14,1
165
16,1
92,69
2010
197
10,6
177
7,27
89,84
( Nguồn: BHXH Thị xã Hồng Lĩnh )
Qua bảng số liệu trên ta thấy rằng, số lượng đơn vị thuộc diện tham gia cũng như số đơn vị đã tham gia BHXH bắt buộc đếu tăng dần qua các năm. Điều đó cho thấy tiềm năng phát triển kinh tế của Thị xã Hồng Lĩnh nhày càng cao, việc thực hiện công tác quản lý thu BHXH bắt buộc ngày càng được cải thiện và các đơn vị trên địa bàn thị xã đã có ý thức thực hiện Luật BHXH tốt hơn. Tuy nhiên qua bảng số liệu trên cho thấy mặc dù tốc độ tăng đơn vị đã tham gia BHXH so với tốc độ tăng của số đơn vị phải tham gia cao hơn song vẫn tồn tại nhiều đơn vị không thực hiện nghĩa vụ tham gia BHXH của mình. Năm 2008, 2009, 2010 số đơn vị không tham gia lần lượt là 14 đơn vị, 13 đơn vị, 20 đơn vị. Số đơn vị không tham gia vẫn tăng dần qua các năm. Nguyên nhân chủ yếu là do các đơn vị này chưa có ý thức tham gia BHXH cho NLĐ, thậm chí có đơn vị đã tham gia mặc dù đã được tuyên truyền, phổ biến chính sách pháp luật về BHXH, đa phần họ trốn tránh trách nhiệm đóng BHXH để đem số tiền đó đi sử dụng vào mục đích khác. Thêm vào đó là một số lượng đơn vị mới thành lập nên chậm tham gia BHXH.
b, Tình hình tham gia BHXH bắt buộc của NLĐ
Những thay dổi về đối tượng tham gia BHXH trên địa bàn thị xã Hồng lĩnh giai đoạn 2008-2010 được thể hiện dưới bảng số liệu sau:
Bảng 3: Số lượng lao động tham gia BHXH bắt buộc tại BHXH thị xã Hồng Lĩnh (2008- 2010)
Chỉ tiêu
Năm
LĐ thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc
LĐ đã tham gia BHXH bắt buộc
Tỷ lệ tham gia BHXH bắt buộc
(%)
Số lượng
(người)
Tốc độ tăng
(%)
Số lượng
(người)
Tốc độ tăng
(%)
2008
2.003
_
1.989
_
99,30
2009
2.584
29,0
2.451
23,22
94,85
2010
2.763
6,92
2.511
2,44
90,87
( Nguồn: BHXH Thị xã Hồng Lĩnh 2008-2010)
Ta có thể thấy cả số lượng NLĐ thuộc diện tham gia và đã tham gia BHXH đều tăng dần qua các năm. Qua 3 năm, số lao động thuộc diện tham gia tăng khá đều, tăng 137,94(%) tương ứng tăng 760 (người), lao động đã tham gia tăng 126,24(%) tương ứng tăng 522 (người). Đây là kết quả khả quan trong việc mở rộng đối tượng tham gia BHXH bắt buộc của thị xã Hồng lĩnh cho thấy tiềm năng phát triển của thị xã Hồng lĩnh cũng như khả năng thu hút đầu tư, thu hút lao động. Tuy nhiên, tỷ lệ tham gia BHXH qua các năm chưa năm nào đạt 100(%). Năm 2008 có tỷ lệ đạt cao nhất là 99,30 (%). Số lao động thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc theo quy định nhưng chưa tham gia hết vẫn còn tồn tại. Năm 2008 là 14 (người), năm 2009 là 133 (người), năm 2010 là 252 (người).
Như vậy là năm 2010 có số lao động không tham gia BHXH cao nhất trong 3 năm, lý giải điều này là do các nguyên nhân: thứ nhất là từ phía đơn vị SDLĐ không muốn đóng BHXH cho NLĐ nhằm tận dụng nguồn kinh phí này cho đầu tư sản xuất đồng thời giảm giá thành sản phẩm, tăng sức cạnh tranh trên thị trường, mang lại nhiều lợi nhuận hơn cho DN. Một số đơn vị thì lợi dụng sự kém hiểu biết của NLĐ về Luật BHXH mà trốn tránh không tham gia BHXH bắt buộc cho NLĐ như: khai giảm số lao động, hay lách luật bằng cách chỉ ký hợp đồng thời vụ 3 tháng dù NLĐ làm việc trên năm.
Thứ hai là từ phía NLĐ: do mức thu nhập hiện tại của họ quá thấp nên họ không cso đủ điều kiện tham gia BHXH, một số khác thì do không hiểu biết là BHXH, còn lại một số hiểu Luật BHXH thì lại có tâm lý sợ mất việc nên không dám đấu tranh đòi quyền lợi.
c, Số đơn vị SDLĐ và số lao động tham gia BHXH xét theo khối tại BHXH Thị xã Hồng Lĩnh.
Bảng 4: Cơ cấu số đơn vị SDLĐ tham gia BHXH theo khối tại BHXH Thị xã Hồng Lĩnh (2008-2010):
STT
Năm
Khối
Năm 2008
Năm 2009
Năm 2010
Số ĐV
(đơn vị)
Tỷ lệ (%)
Số ĐV
(đơn vị)
Tỷ lệ (%)
Số ĐV
(đơn vị)
Tỷ lệ (%)
1
DNNN
4
2
5
3
9
5
2
DN VĐTNN
0
0
0
0
0
0
3
DN NQD
45
32
60
36
66
37
4
HCSN, Đảng
56
39
63
38
63
36
5
Ngoài CL
3
2
3
2
3
2
6
HTX, phường, xã
34
24
34
21
34
20
7
Tổng
142
100
165
100
177
100
(Nguồn: Báo cáo thu BHXH Thị xã Hồng Lĩnh 2008-2010)
Biểu đồ 1: Thể hiện số đơn vị SDLĐ tham gia BHXH xét theo khối tại BHXH Thị xã Hồng Lĩnh năm 2010
( Nguồn: BHXH Thị xã Hồng Lĩnh )
Bảng 5: Cơ cấu số lao động tham gia BHXH theo khối tại BHXH Thị xã Hồng Lĩnh (2008-2010)
STT
Năm
Khối
Năm 2008
Năm 2009
Năm 2010
Số LĐ (người)
Tỷ lệ (%)
Số LĐ (người)
Tỷ lệ (%)
Số LĐ (người)
Tỷ lệ (%)
1
DNNN
34
2
59
2
86
3
2
DN VĐTNN
0
0
0
0
0
0
3
DN NQD
521
26
892
36
925
37
4
HCSN, Đảng
859
43
921
37
921
36
5
Ngoài CL
22
1
26
1
26
1
6
HTX, phường, xã
553
27
553
22
553
22
7
Tổng
1.989
100
2.451
100
2.511
100
( Nguồn: Báo cáo thu BHXH Thị xã Hồng Lĩnh 2008-2010)
Biểu đồ 2: Thể hiện cơ cấu lao động tham gia BHXH theo khối của BHXH Thị xã Hồng Lĩnh năm 2010.
( Nguồn: BHXH Thị xã Hồng Lĩnh )
Số đơn vị và số lao động tham gia BHXH tăng liên tục, năm sau cao hơn năm trước, hiện nay BHXH thị xã Hồng Lĩnh đang quản lý 177 đơn vị với 2.511 lao động. Gồm các đối tượng:
Khối DNNN: Gồm DNNN Trung ương, DNNN Tỉnh Hà tĩnh, DNNN Thị xã Hồng Lĩnh đóng trên địa bàn Thị xã. Số lao động ở khối này chiếm tỷ trọng tương đối (năm 2010 là 5%). Năm 2009 và 2010 khối này tăng là do xuất hiện thêm một số công ty như Công ty KTCT thủy lợi Hồng Lam, Công ty quản lý công trình đô thị…nói chung khối DNNN tăng không mạnh và khá đều.
Khối DN ngoài quốc doanh: Gồm các Công ty tư nhân và Công ty cổ phần. Trước đây khu vực DN ngoài quốc doanh chưa được quan tâm đúng mức, nhưng nay được Đảng và Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi nên phát triển. Vì vậy mà số DN ngoài quốc doanh ở Hồng Lĩnh cũng phát triển đáng kể, số đơn vị và số lao động tăng liên tục qua các năm, năm 2008 có 45 đơn vị thì đến năm 2009 là 60 đơn vị và năm 2010 là 66 đơn vị với 925 lao động, đấy là kết quả khả quan đối với việc tham gia BHXH của khối DN này.
Khối HCSN, Đảng, Đoàn thể: Gồm các đơn vị: Cơ quan Thị xã, trường trung cấp kỹ nghệ, phòng giáo dục đào tạo thị xã, trung học, tiểu học…Đây là khối có số dơn vị và số lao động đông nhất và ổn định nhất, luôn chiếm cơ cấu khoảng hơn 40%. Số đơn vị và số lao động của khối này đều tăng qua các năm, nhưng tỷ trọng lại giảm dần do sự gia tăng mạnh của khối DN, đặc biệt là khối DN ngoài quốc doanh.
Khối ngoài công lập, HTX, phường, xã: Số đơn vị và số lao động tham gia BHXH của các khối này tương đối ổn định. Số đơn vị và số lao động đều chiếm tỷ trọng khá lớn (khoảng giao động từ 21% đến 30%)
2.2.1.2. Mức thu BHXH
Chính sách tiền lương và cách xác định tổng quỹ lương chính là căn cứ đóng BHXH. Mức thu được tính bằng tỷ lệ % so với tiền lương của NLĐ và quỹ tiền lương của NSDLĐ. Chính vì vậy mà trách nhiệm của cơ quan BHXH là căn cứ vào các quy định nâng lương của các cấp có thẩm quyền để thu BHXH đúng quy định. Trong những năm qua, BHXH thị xã Hồng Lĩnh đã hoàn thành tốt công tác quản lý quỹ lương trích nộp BHXH được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 6: Tổng quỹ lương trích nộp BHXH của các đơn vị trên địa bàn Thị xã Hồng Lĩnh (2008-2010)
Năm
Tổng quỹ lương trích nộp BHXH (trđ)
Lượng tăng giảm tuyệt đối (trđ)
Tốc độ tăng (giảm) liên hoàn (%)
2008
58.569
-
-
2009
70.523
11.954
20,4
2010
86.643
16.120
22,86
( Nguồn: BHXH Thị xã Hồng Lĩnh 2008-2010)
Nhìn vào bảng số liệu ta có thể thấy quỹ lương có xu hướng tăng nhanh lên tục qua các năm. Nguyên nhân chính làm quỹ lương thay đổi là do mức lương trích nộp tăng thông qua các quyết định tăng lương của Chính phủ. Cụ thể trong 3 năm 2008-2010 đã có 3 đợt điều chỉnh tăng lương tối thiểu từ 540.000 đồng (01/2008- 05/2009), lên 650.000 đồng (05/2009-05/2010), và lên đến 730.000 từ tháng 5/2010.
2.2.2. Tình hình thực hiện kế hoạch thu
BHXH Thị xã Hồng Lĩnh thuộc Tỉnh Hà Tĩnh luôn là một trong những đơn vị hoàn thành sớm các chỉ tiêu về thu BHXH. Lãnh đạo BHXH luôn quan tâm chỉ đạo sát sao, mỗi cán bộ thu phải thực hiện thống kê theo dõi tiến độ thu, luôn đôn đốc thu và báo cáo với Ban giám đốc để có biện pháp thu kịp thời. Do có các biện pháp thu tích cực và bám sát thực tế nên kết quả thu thường hoàn thành và vượt mức kế hoạch được giao. Ta có bảng thống kê kết quả sau:
Bảng 7: Tình hình thực hiện kế hoạch thu BHXH tại BHXH Thị xã Hồng Lĩnh (2008-2010)
Năm
Kế hoạch TP giao
(trđ)
Kết quả thực hiện
( trđ)
Tỷ lệ hoàn thành (%)
2008
1.800
1.877
104,2
2009
2.139
2.238
104,6
2010
2.688
2.727
101,4
(Nguồn: Báo cáo hoạt động BHXH Thị xã Hồng Lĩnh 2008-2010)
Biểu đồ 3: Thể hiện tình hình kế hoạch thu BHXH tại BHXH Thị xã Hồng Lĩnh (2008-1010)
( Nguồn: BHXH Thị xã Hồng Lĩnh )
Qua bảng số liệu cho thấy BHXH Thị xã Hồng Lĩnh hoàn thành tốt kế hoạch và nhiệm vụ được giao. Số thu của các năm có chuyển biến tích cực, năm sau luôn cao hơn năm trước.. Để có được kết quả trên là do số đơn vị SDLĐ và NLĐ tham gia BHXH liên tục tăng, hơn nữa mức lương trích nộp BHXH cũng tăng do các quyết định tăng lương tối thiểu của Chính Phủ.
2.2.3. Kết quả công tác thu BHXH bắt buộc xét theo khối
2.2.3.1. Khối Doanh nghiệp Nhà nước.
Khối doanh nghiệp Nhà nước có những chuyển biến khà tích cực. Tình hình cụ thể qua bảng như sau:
Bảng8: Báo cáo thu BHXH bắt buộc khối DN Nhà nước tại BHXH Thị xã Hồng Lĩnh (2008-2010)
Đvt: đồng
Năm
Chỉ tiêu
Năm 2008
Năm 2009
Năm 2010
Số đơn vị
4
5
9
Số lao động
34
59
86
Tổng quỹ lương
4.772.631.000
5.019.327.890
9.642.974.774
Số tiền BHXH phải thu
1.007.567.447
1.457.442.909
2.146.990.652
Số tiền BHXH đã thu
988.097.341
1.384.752.331
2.137.315.086
Số tiền chuyển kỳ sau
19.470.106
72.690.578
9.675.566
(Nguồn: Báo cáo thu BHXH Thị xã Hồng Lĩnh 2008-2010)
Qua bảng số liệu cho thấy, số đơn vị tham gia BHXH bắt buộc và số lao động không biến động nhiều. Qua 3 năm chỉ tăng 5 đơn vị, tương đương số lao động cũng tăng rất ít và rất đều. Điều này dẫn tới tổng quỹ lương cũng tăng khá đều, điều này chứng minh rằng đời sống của người lao động cũng được đảm bảo nên mức lương trích nộp của NLĐ ngày càng tăng.
Qua 3 năm, số phải thu và số đã thu BHXH đều tăng. Số BHXH đã thu được tăng 1.149.217.745 (đồng), tăng gấp 2,16( lần) so với năm 2008, nguyên nhân chính là do số lao động tham gia tăng, tiền lương trích nộp của NLĐ cũng tăng. Tuy nhiên số BHXH đã thu được đều thấp hơn số BHXH phải thu, chứng tỏ vẫn tồn tại tình trạng nợ đọng BHXH. Năm 2009 có số thu BHXH tăng khá nhanh nhưng tình trạng nợ chuyển kỳ sau vẫn còn nhiều 72.690.578 (đồng), nên cần phải có những chế tài xử phạt nghiêm khắc.
2.2.3.2. Khối Hành chính sự nghiệp, Đảng, Đoàn thể
Khối HCSN, Đảng, Đoàn thể có điều kiện để tham gia BHXH, đó là do 100% NLĐ đều hưởng lương tử NSNN cấp, nên việc lập danh sách đăng ký lao động , quỹ tiền lương trích nộp BHXH đến việc thành lập danh sách tăng (giảm) lao động, đối chiếu trích nộp BHXH hàng tháng luôn đầy đủ, kịp thời, chính xác, đúng theo quy định của Nhà nước.
Qua bảng 8(trang bên): số liệu cho thấy, từ năm 2008 đến 2010 số lao động và số đơn vị đều tăng, nhưng tăng rất ít, chỉ tăng 4 đơn vị với số lao động từ 859 lên 921 (người), tương ứng với tăng 62 (người) do sự thành lập Trung tâm y tế dự phòng thị xã Hồng Lĩnh và Đoàn điều tra QH nông lâm cùng một số đơn vị khác. Tổng quỹ lương hàng tháng các đơn vị lấy làm căn cứ trích nộp BHXH cũng tăng lên rất lớn, qua 3 năm thì tổng quỹ lương tăng 4.664.137.090 (đồng), tương ứng tăng 16,7%, nguyên nhân chính là do số lao động tham gia BHXH tăng qua các năm, do lương tăng dẫn đến hệ số lương để trích nộp cũng tăng lên và mặt khác do việc điều chỉnh tăng lương của Chính phủ.
Bảng 9: Báo cáo thu BHXH bắt buộc khối HCSN, Đảng, Đoàn thể tại BHXH Thị xã Hồng Lĩnh (2008-2010):
Đvt: đồng
Năm
Chỉ tiêu
Năm 2008
Năm 2009
Năm 2010
Số đơn vị
56
63
63
Số lao động
859
921
921
Tổng quỹ lương
27.891.950.256
30.335.907.221
32.556.087.348
Số tiền BHXH phải thu
8.798.885.090
8.999.022.642
9.246.987.009
Số tiền BHXH đã thu
8.786.989.999
8.996.045.777
9.232.965.118
Số tiền chuyển kỳ sau
11.895.091
2.976.865
14.021.891
(Nguồn: Báo cáo thu BHXH Thị xã Hồng Lĩnh 2008-2010)
2.2.3.3. Khối Doanh Nghiệp ngoài quốc doanh.
Khối DN ngoài quốc doanh là một trong những khối có sự chuyển biến khá mạnh mẽ so với các khối khác. Tình hình cụ thể được thể hiện ở bảng số liệu sau:
Bảng 10: Báo cáo thu BHXH bắt buộc khối DN ngoài quốc doanh tại BHXH Thị xã Hồng Lĩnh(2008-2010)
Đvt: Đồng
Năm
Chỉ tiêu
Năm 2008
Năm 2009
Năm 2010
Số đơn vị
45
60
66
Số lao động
521
892
925
Tổng quỹ lương
17.568.903.225
23.689.009.457
30.568.908.432
Số tiền BHXH phải thu
6.681.317.535
7.885.195.934
10.219.223.270
Số tiền BHXH đã thu
6.135.098.114
7.134.904.777
9.361.043.225
Số tiền chuyển kỳ sau
546.219.421
750.291.157
858.180.045
(Nguồn: Báo cáo thu BHXH Thị xã Hồng Lĩnh 2008-2010)
Qua 3 năm, khối DN ngoài quốc doanh có biến động tăng cả về số đơn vị tham gia cũng như số lượng NLĐ. Cụ thể từ năm 2008 đến 2010 thì số đơn vị tham gia BHXH tăng từ 45 lên 66 đơn vị (tăng 21 đơn vị ), và số lao động tăng từ 521(người) lên 925(người) (tăng 404 người). Nguyên nhân chủ yếu của sự tăng lên này là do xuất hiện một số Công ty cổ phần và DN tư nhân mới.
Tổng quỹ lương làm căn cứ đóng cũng tăng nhanh, từ 17.568.903.225 (đồng) năm 2008 lên tới 30.568.908.432 (đồng) năm 2010, tăng gấp 1,7 lần. Nguyên nhân chính là do số lao động tham gia BHXH bắt buộc tăng mạnh, cùng với sự thay đổi mức lương tối thiểu của Chính phủ.
Số BHXH phải thu và số BHXH đã thu đều tăng nhanh, số BHXH đã thu được của năm 2010 gấp 1,5 lần so với số BHXH đx thu được của năm 2008 ( tương ứng với tăng 3.180.945.111(đồng). Kéo theo đó là số nợ chuyển kỳ sau cũng tăng qua các năm, từ 552.312.645 (đồng) năm 2008 lên 867.179.799(đồng) năm 2010, tăng gấp 1,6 (lần). Nguyên nhân chính của tình trạng này một mặt, do tổng quỹ lương trích nộp BHXH của khối này tương đối lớn, các DN lợi dụng khoản tiền trích nộp này nhằm đem đi đầu tư phát triển sản xuất. Mặt khác, lợi dụng kẽ hở của Pháp luật, sự nhận thức hạn chế của NLĐ về các chính sách BHXH để thực hiện hành vi trốn tránh nghĩa vụ của mình. Tuy nhiên bên cạnh đó cũng có một số DN lớn làm ăn không hiệu quả dẫn đến tình trạng nợ đọng BHXH rất nhiều.
2.2.3.4. Các khối khác ( Khối ngoài công lập; HTX; Xã, phường, Thị trấn; Hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác)
Bảng 11: Báo cáo thu BHXH bắt buộc của khối ngoài công lập; HTX; xã, phường, thị trấn; hộ kinh doanh cá thể (2008-2010)
Đvt: Đồng
Năm
Chỉ tiêu
Năm 2008
Năm 2009
Năm 2010
Số đơn vị
37
37
37
Số lao động
575
575
575
Tổng quỹ lương
8.336.440.800
11.478.908.332
13.875.092.221
Số tiền BHXH phải thu
2.890.623.900
4.872.134.443
6.578.459.015
Số tiền BHXH đã thu
2.866.003.257
4.864.314.889
6.543.689.442
Số tiền chuyển kỳ sau
24.620.643
7.819.554
34.769.573
( Nguồn: Báo cáo thu BHXH thị xã Hồng Lĩnh 2008-2010)
Nói chung, nhìn vào bảng số liệu ta có thể thấy các khối này không có biến động nhiều về số đơn vị và số lao động tham gia BHXH bắt buộc, hầu như qua 3 năm không hề tăng. Tuy nhiên tổng quỹ lương vẫn tăng đều đặn vì có sự điều chỉnh tăng mức lương tối thiểu của Chính phủ qua các năm dẫn đến mức lương trích nộp BHXH của NLĐ tăng lên đáng kể. Số tiền BHXH đã thu được qua các năm đều tăng, qua 3 năm tăng 10.148.930 (đồng). Số nợ chuyển kỳ sau năm 2009 có biến động giảm nhưng đến năm 2010 thì đã tăng lên 34.769.573 (đồng). Tóm lại, tuy vẫn còn tình trạng nợ đọng BHXH nhưng có thể thấy tình hình thu nộp quỹ BHXH của khối này thực hiện khá nghiêm chỉnh.
2.2.4. Tình trạng nợ đọng BHXH tại Thị xã Hồng Lĩnh.
Bảng 12: Số nợ BHXH xét theo khối tại BHXH Thị xã Hồng Lĩnh
(2008-2009)
STT
Năm
Khối
Năm 2008
Năm 2009
Năm 2010
Số tiền
(trđ)
Tỷ lệ (%)
Số tiền
(trđ)
Tỷ lệ (%)
Số tiền
(trđ)
Tỷ lệ (%)
1
DNNN
19
3,16
72
8,66
9
1
2
DN VĐTNN
0
0
0
0
0
0
3
DN NQD
546
91
750
90,2
858
93,77
4
HCSN, Đảng
11
1,8
2
0,2
14
1,53
5
Ngoài CL
4
0,6
2
0,2
4
0,43
6
HTX, phường, xã
20
3,3
5
0,6
30
3,27
7
Tổng
600
100
831
100
915
100
(Nguồn: Báo cáo thu BHXH Thị xã Hồng Lĩnh 2008-2010)
Bảng 13: Biến động nợ BHXH Thị xã Hồng Lĩnh (2008-2010):
Năm
Tổng nợ
(trđ)
Lượng tăng( giảm) tuyệt đối (trđ)
Tốc độ tăng( giảm) liên hoàn(%)
2008
600
-
-
2009
831
231
38,5
2010
915
84
10,1
(Nguồn: Báo cáo thu BHXH Thị xã Hồng Lĩnh 2008-2010)
Nợ đọng BHXH là tình trạng thường xuyên diễn ra hiện nay. Nợ đọng BHXH có thể ảnh hưởng rất lớn đến công tác chi trả BHXH sau này, nó làm mất cân đối thu chi. Vì thế mà BHXH Thị xã Hồng Lĩnh đã triển khai nhiều biện pháp thu tích cực. Kết quả đạt được chưa cao, tình trạng nợ đọng vẫn còn và có xu hướng gia tăng cả về số đơn vị lẫn số tiền phải đóng.
Nhìn vào 2 bảng số liệu ta có thể phân tích được một số phấn đề sau:
Đối với khối DNNN: Số tiền nợ BHXH của khối này không mấy ổn định, đến năm 2009 thì tăng mạnh lên tới 72 triệu đồng. Tỷ trọng nợ của khối này so với toàn bộ tổng nợ BHXH khá cao (năm 2009 chiếm 8,66%) do nhiều nguyên nhân: ý thức cảu chủ SDLĐ, do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế…
Đối với khối DN ngoài quốc doanh: Số tiền nợ của khối này chiếm tỷ lệ cao nhất trong toàn bộ tổng nợ BHXH, năm 2009 chiếm 90,2% so với tổng nợ BHXH, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong toàn bộ các khối. Năm 2010 số nợ đã lên tới 858 triệu đồng, chiếm 78,5% tổng nợ BHXH. Điều này thể hiện ý thức chấp hành Luật BHXH của các chủ SDLĐ ở khối này rất kém.
Các khối còn lại: Vẫn tồn tại tình trạng nợ đọng nhưng số nợ và tỷ trọng nợ khá nhỏ, không đáng kể. Có thể thấy tình hình thực hiện thu BHXH ở khối này là khá tốt.
2.3. MỘT SỐ ĐÁNH GIÁ VỀ CÔNG TÁC THU BHXH BẮT BUỘC Ở THỊ XÃ HỒNG LĨNH GIAI ĐOẠN 2008-2010.
2.3.1. Những kết quả đạt được
- BHXH Thị xã Hồng Lĩnh luôn thực hiện tốt công tác thu BHXH là đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển lâu dài của quỹ BHXH cũng như của toàn ngành, số đơn vị, số lao động tham gia và số thu BHXH ngày càng tăng lên. Công tác tuyên truyền phổ biến chính sách BHXH và những văn bản quy định bắt buộc đối với người tham gia BHXH được kết hợp với các chế tài xử lý vi phạm BHXH được giao đến từng cơ quan, đơn vị, phường xã,... Nên số người tham gia BHXH đã tăng lên rất nhiều.
- Cán bộ BHXH thị xã Hồng Lĩnh nói chung, cán bộ thu nói riêng luôn trao dồi phẩm chất, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ý thức trách nhiệm và tinh thần vì người tham gia, thụ hưởng mà phục vụ. Cán bộ BHXH cũng dành phần lớn thời gian để tuyên truyền, giải thích, hướng dẫn và xử lý kịp thời những vướng mắc khó khăn trong việc thực hiện chính sách BHXH cho NLĐ.
- Đến cuối năm 2010, số thu BHXH của thị xã Hồng Lĩnh là 30.406 triệu đồng, đạt 94,1 % so với kế hoạch tỉnh giao. Trong 3 năm, từ năm 2008 đến 2010 số thu BHXH tăng 11.030 (trđ). Vì vậy mà đảm bảo được cân đối thu chi và giảm gánh nặng đáng kể đối với NSNN khi số thu tăng lên.
- Cơ quan BHXH Thị xã Hồng Lĩnh đã từng bước thực hiện cải cách thủ tục hành chính trong công tác quản lý thu BHXH và giải quyết chế độ chính sách cho NLĐ thông qua việc áp dụng công nghệ thông tin và cơ chế “Một cửa liên thông” đem lại hiệu quả tích cực. Các quy định, quy trình nghiệp vụ ngày càng phù hợp với thực tiễn, dễ hiểu, dễ thực hiện hơn; các thủ tục NSDLĐ và NLĐ phải làm ngày càng giảm; thời gian giải quyết được rút ngắn hơn; khiếu nại, tố cáo về những sai sót, phiền hà, chậm giải quyết chế độ, chính sách cho NLĐ đã giảm bớt đáng kể.
- BHXH Thị xã Hồng Lĩnh đã có sự phối hợp với các cơ sở ban ngành có liên quan, tổ chức các đoàn kiểm tra liên ngành để kiểm tra về an toàn lao động và thực hiện chính sách xã hội cho NLĐ trong các DN. Qua kiểm tra, cán bộ BHXH còn tuyên truyền cho chủ SDLĐ và NLĐ hiểu rõ thêm về quyền lợi và nghĩa vụ khi tham gia BHXH. Từ đó làm chuyển biến nhận thức của chủ SDLĐ và NLĐ về BHXH. Đồng thời kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền thực hiện xử phạt những đơn vị cố tình vi phạm Luật BHXH và cũng đề xuất khen thưởng những đơn vị, DN điển hình trong việc thực hiện tốt công tác BHXH.
2.3.2. Những hạn chế còn tồn tại
Song song với kết quả đạt được thì BHXH thị xã Hồng Lĩnh còn những tồn tại và hạn chế trong quá trình thu BHXH, đó là:
- Đội ngũ cán bộ tuy đã được đào tạo nhưng vẫn chưa đáp ứng đủ với điều kiện hiện nay, số cán bộ trong cơ quan BHXH Thị xã Hồng Lĩnh là 13 người, sơ với phạm vi ở thị xã Hồng Lĩnh là còn ít. Hơn nữa, các cán bộ có chuyên môn cao vẫn còn ít, năng lực vẫn còn hạn chế trong quá trình công tác. Đôi khi còn chưa linh hoạt và sáng tạo trong quá trong quá trình làm việc.
- Số nợ đọng vẫn tăng qua các năm mặc dù đã có những biện pháp tuyên truyền đến từng đơn vị, còn nhiều doanh nghiệp chưa tự giác tham gia BHXH cho NLĐ mà không bị xử lý theo Pháp luật, thực tế trên địa bàn thị xã Hồng Lĩnh còn tồn tại nhiều DN đi vào hoạt động, có SDLĐ nhưng lại chưa tham gia BHXH cho NLĐ: như Công ty TNHH vật liệu xây dựng Trung Nam, Công ty TNHH Vĩnh Phúc…Tình trạng nợ đọng còn diễn ra rất nhiều.
- Một trong những tồn tại lớn nhất trong việc thực hiện những quy định về BHXH hiện nay là công tác quản lý chưa đồng bộ, cơ quan BHXH thị xã Hồng Lĩnh cũng như các phòng ban ngành chức năng chưa nắm chắc hoạt động sản xuất kinh doanh, tình hình SDLĐ của các DN, cơ sở sản xuất, nhất là các DN ngoài quốc doanh. Có những DN có đăng ký thành lập trên địa bàn huyện nhưng không có trụ sở giao dịch, không hoạt động theo nội dung đăng ký, giải thể sau khi thành lập và hoạt động một thời gian ngắn, không đăng ký SDLĐ...Cũng không cơ quan nào quản lý, theo dõi và nắm được thông tin về những DN đã đăng ký kinh doanh, có mã số thuế nhưng không có trụ sở làm việc thực chất có hoạt động hay không, còn kinh doanh hay đã dừng hoặc thay đổi phạm vi hoạt động. Ngoài ra khu vực ngoài công lập còn có nhiều nhà trẻ mầm non tư thục không ký kết hợp đồng với NLĐ. Do vậy việc quản lý, theo dõi, yêu cầu NSDLĐ thực hiện chính sách BHXH cho NLĐ theo Luật định ở các đơn vị này thực sự là vấn đề không dễ.
- Có tồn tại nhiều DN kê khai đăng ký không chính xác số người tham gia lẫn mức lương trích nộp BHXH dưới nhiều hình thức như: chỉ ký HĐLĐ dưới 03 tháng hoặc không ký HĐLĐ; khai báo thấp hơn số lao động đang sử dụng; hoặc tham gia BHXH cho NLĐ với mức lương thấp, không thực hiện việc nâng bậc lương thường xuyên mà tăng các khoản chi trả ngoài lương để giảm bớt phần đóng BHXH cho NLĐ...
- Kinh phí hoạt động của ngành thấp, thiếu cơ sở vật chất phục vụ cho công việc. Tuy đã có phần mềm quản lý thu song công tác ứng dụng công nghệ thông tin vẫn còn nhiều hạn chế. Một số cán bộ công chức chưa sử dụng thành thạo máy tính nên việc cung cấp số liệu đôi khi còn chậm. Hệ thống máy tính phục vụ cho công việc còn thiếu, một số máy đã quá cũ, thường hay mắc lỗi, không đáp ứng được yêu cầu của công việc.
2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế.
Thứ nhất, lao động làm việc trong các doanh nghiệp phần lớn có trình độ văn hóa thấp, chủ yếu là lao động phổ thông chưa qua đào tạo, vì vậy khi họ tham gia BHXH thì sự hiểu biết của họ về quyền lợi của mình còn nhiều hạn chế, nên họ không chủ động yêu cầu các chủ SDLĐ đóng BHXH cho mình ngay khi ký kết hợp đồng. Mặt khác thu nhập hàng tháng của người lao động làm việc trong các DN còn thấp nên họ chỉ chú trọng vào tiền lương của mình hàng tháng để đảm bảo thu nhập và cuộc sống hiện tại, hơn nữa do áp lực công việc nên một bộ phần NLĐ không dám đấu tranh đòi quyền lợi cho mình, dẫn đến việc còn nhiều NLĐ không tham gia BHXH.
Thứ hai, các DN hoạt động trên địa bàn Thị xã Hồng Lĩnh hầu như là các DN nhỏ, nên chỉ chú trọng vào hoạt động sản xuất kinh doanh mà chưa chú trọng vào hoạt động tham gia BHXH, các DN này chưa thấy rõ trách nhiệm của mình đối với NLĐ nên xảy ra tình trạng trốn đóng, nợ đọng BHXH. Một số DN thì chỉ vì lợi nhuận nên chủ SDLĐ có thể bỏ qua các quy định của Pháp luật, chiếm dụng tiền BHXH để kinh doanh hoặc sử dụng vào mục đích khác, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc thực hiện chính sách ASXH của Đảng và Nhà nước.
Thứ ba, về cán bộ thu BHXH còn quá ít, chỉ có 15 đến 18 người nên tình trạng không đủ cán bộ để theo dõi, quản lý, đôn đốc, hướng dẫn thu BHXH đối với các đơn vị lớn. Mặt khác cán bộ thu còn chưa kiên quyết đối với các trường hợp chậm nộp, các cán bộ thu BHXH có lúc còn ngại va chạm khi đôn đốc thúc nộp BHXH. Cán bộ làm công tác thu chưa thường xuyên xuống tận các đơn vị để thu thập nắm bắt từng tình hình hoạt động của đơn vị, tình hình biến động về quỹ lương trích nộp BHXH nên còn nhiều chậm trễ trong việc nắm bắt thông tin. Đấy cũng là một lý do khiến kết quả thu BHXH thị xã Hồng Lĩnh không được khả quan.
Thứ tư, về công tác thông tin tuyên truyền và phổ biến chính sách còn chưa sâu rộng, chưa được đầu tư chú ý, còn mang nặng tính hành chính, hình thức. Trình độ và phương pháp của cán bộ tuyên truyền chưa cao khiến cho NLĐ, NSDLĐ chưa hiểu sâu sắc về sự cần thiết và tính nhân văn của chính sách BHXH.
Thứ năm, về các văn bản chính sách pháp luật: Các chế độ BHXH thường xuyên được bổ sung sửa đổi, điều chỉnh cho phù hợp với thực tế phát sinh của tình hình KT-XH và chính sách tiền lương, do đó số lượng văn bản quá nhiều, và nhiều văn bản sửa đổi bổ sung, dẫn đến các cơ quan quản lý khó thực hiện, NSDLĐ và NLĐ khó nắm vững chế độ chính sách. Đây là nguyên nhân khiến chính sách BHXH triển khai thực hiện không đúng quy định, khó theo dõi và đánh giá tình hình và kế hoạch triển khai của các đơn vị thu BHXH. Và đôi khi chính các quy định pháp luật tạo kẽ hở để các DN tìm cách lách luật để trốn đóng hoặc chậm nộp tiền BHXH. Cơ chế xử lý vi phạm như hiện nay là không kịp thời. Cơ quan BHXH nắm chắc tình hình thu nộp BHXH của đơn vị nhưng không có thẩm quyền xử phạt mà chỉ có thể kiến nghị, khi các cơ quan chức năng nghiên cứu xử phạt thì có thể đơn vị đã không tồn tại. Đây là khó khăn rất lớn trong công tác thu, xử lý vi phạm pháp luật về BHXH, vì vậy cần phải có những chế tài nghiêm khắc để hạn chế tình trạng trên.
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KHUYẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC THU BHXH BẮT BUỘC TẠI THỊ XÃ HỒNG LĨNH - HÀ TĨNH.
3.1. ĐỊNH HƯỚNG VỀ CÔNG TÁC THU BHXH TRONG NHỮNG NĂM TỚI CỦA BHXH THỊ XÃ HỒNG LĨNH.
3.1.1.Định hướng về công tác BHXH
Thường xuyên nâng cao năng lực và trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức cơ quan BHXH thị xã Hồng Lĩnh nhằm từng bước chuyển từ tác phong làm việc hành chính sang phục vụ đối tượng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong công cuộc đổi mới đất nước. Tiếp tục phát huy những thành quả đã đạt được, khắc phục những hạn chế, khó khăn, xây dựng phương pháp làm việc sát đúng, hiệu quả và cố gắng vươn lên giành nhiều thắng lợi trên tất cả các mặt công tác. Nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý phục vụ đáp ứng yêu cầu của NLĐ.
Mặt khác cần tranh thủ sự lãnh đạo, chỉ đạo của Thường trực, Thường trực HĐND-UBND thị xã để thường xuyên phối hợp chặt chẽ với các cấp, các ngành liên quan như: Liên Đoàn Lao Động Thị xã, Phòng LĐTB&XH thị xã, Phòng Tài Chính thị xã, Thanh tra giám sát chặt chẽ mọi hoạt động của đơn vị, tạo sự chuyển biến mới về ý thức, trách nhiệm; thực hiện nghiêm các chế độ chính sách theo quy định của Luật BHXH và các văn bản dưới Luật liên quan đến chế độ chính sách về BHXH.
3.1.2. Định hướng về công tác thu BHXH
Phấn đấu thu vượt chỉ tiêu, kế hoạch năm 2011, tiếp tục truy thu số nợ năm 2010. Tăng cường mở rộng đối tượng và phạm vi thu BHXH ở khối sản xuất NQD.
Xây dựng chương trình kế hoạch chỉ đạo, phối hợp chặt chẽ với các ngành chức năng có liên quan như phòng LĐ-TBXH, kế hoạch tài chính, Giáo dục và đào tạo, Liên đoàn lao động, Ban kinh tế xã hội của hội đồng nhân dân, Kho bạc nhà nước, ngân hàng để thu đạt và vượt kế hoạch BHXH Tĩnh giao hàng quý, năm.
Chủ động xây dựng kế hoạch thu từ đầu năm, coi công tác thu là nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu, bố trí cán bộ có năng lực, phối kết hợp với các đơn vị sử dụng lao động, nắm chắc biên chế, quỹ lương đẻ phục vụ cho việc thu đúng, thu đủ. Chuyển tiền thu Bảo hiểm xã hội lên Tỉnh kịp thời đúng quy định.
Gắn thu nộp BHXH với việc xét duyệt các chế độ BHXH. Thực hiện nghiêm túc chế độ báo cáo kết quả thu BHXH đúng theo quy định. Thực hiện theo nguyên tắc “nộp đến đâu giải quyết chế độ chính sách đến đó”.
Thông qua công tác đối chiếu, quản lý thu BHXH tại đơn vị để kiểm tra diễn biến tiền lương, chuyển ngạch lương, nâng lương, thay đổi chức danh nghề, phụ cấp để đối chiếu ghi vào sổ BHXH được chính xác. Tiếp tục mở rộng các đơn vị DN ngoài quốc doanh, DN có vốn đầu tư nước ngoài tham gia BHXH theo quy định của Luật BHXH nhằm mục đích đảm bảo quyền lợi tham gia và thụ hưởng BHXH cho NLĐ.
3.2.MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM THỰC HIỆN TỐT CÔNG TÁC THU BHXH BẮT BUỘC TẠI CƠ QUAN BHXH THỊ XÃ HỒNG LĨNH – HÀ TĨNH.
3.2.1. Nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ BHXH
Muốn làm tốt công tác thu đúng, thu đủ, thu kịp thời BHXH thì mỗi cán bộ thu phải am hiểu chính sách chế độ, nhiệt tình, sẵn sàng hướng dẫn tuyên truyền cho NLĐ, NSDLĐ ở mọi lúc và mọi nơi làm sao cho họ hiểu và sẽ sẵn sàng tham gia đóng BHXH.
Mặt khác, cũng phải tạo thái độ, tác phong làm việc hiệu quả, chuyên nghiệp nhưng không nên quá cứng nhắc mà cần phải khéo léo, mềm mỏng trong những trường hợp cần thiết. Chính vì thế mà hoàn thiện công tác xây dựng đội ngũ cán bộ là một trong những biện pháp khả quan và tối ưu với mục đích chính là nhằm mở rộng đối tượng tham gia BHXH và cao hơn nữa là để phát triển hệ thống BHXH nước Việt Nam. Hiện nay, BHXH Thị xã Hồng Lĩnh cần thực hiện song song các chương trình sau:
Một là, BHXH thị xã Hồng Lĩnh cần phải sắp xếp tổ chức cán bộ theo hướng chuyên sâu, cần phân định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của từng bộ phận, từng cá nhân và phải chịu trách nhiệm trực tiếp với Giám đốc cơ quan BHXH. Tuyển dụng những nhân sự chuyên ngành được đào tạo bài bản góp phần chuyên nghiệp hóa trong công tác BHXH. Trong quá trình tổ chức thực hiện công tác quản lý cán bộ BHXH thị xã cần thực hiện đúng theo phân cấp quản lý nhất là trong việc xét tuyển hợp đồng lao động đảm bảo dân chủ, công khai, công tác bổ nhiệm cán bộ quản lý đúng quy trình tiêu chuẩn. Việc bố trí, sử dụng, bổ nhiệm và điều động cán bộ đều căn cứ vào tình hình đội ngũ của cán bộ hiện có ở cơ sở để bố trí, sử dụng cho phù hợp.
Hiện nay số cán bộ công chức, viên chức trong cơ quan BHXH Thị xã Hồng Lĩnh nhìn chung còn mỏng so với số người tham gia BHXH ở trong Thị xã. Mỗi người lại phụ trách một khối công việc khá lớn nên phải có kế hoạch thực hiện cụ thể và khoa học, trong công tác thu thì cán bộ phòng thu cần tăng cường hơn nữa công tác thu này ngay từ đầu tháng, đầu quý. Nên đảm bảo thu đủ, thu đúng, thu kịp thời.
Hai là, BHXH Thị xã Hồng Lĩnh cần xây dựng cơ chế phối hợp với các ban ngành, đoàn thể của thị xã để thực hiện tốt chính sách BHXH đối với NLĐ. Chủ động đôn đốc kiểm tra, giám sát việc thu nộp BHXH nhất là những đơn vị cố tình vi phạm thì phải xử lý kịp thời nâng cao hiệu quả công tác quản lý và thu BHXH. Địa bàn của Thị xã Hồng Lĩnh cũng không quá rộng nên việc phối hợp giữa các ban ngành rất khả quan, không những dễ quản lý trên sổ sách mà trên thực tế nếu biết tận dụng tối đa biện pháp này thì việc quản lý theo cách này được tiến hành tốt hơn.
Ba là, chương trình đào tạo nâng cao năng lực cán bộ công chức, viên chức đang đương nhiệm. Hiện nay, cơ quan BHXH Thị xã Hồng Lĩnh có 13 cán bộ, trong đó có 10 người có trình độ đại học, 03 người có trình độ trung cấp. Tuy nhiên, đa phần cán bộ tốt nghiệp hệ đại học tại chức hoặc học các chuyên ngành không liên quan đến BHXH như: Quản trị kinh doanh, Kế toán. Nhìn chung, cán bộ cơ quan BHXH thị xã Hồng Lĩnh chưa được đào tạo một cách cơ bản về chuyên ngành BHXH. Do đó trong quá trình thực hiện nhiệm vụ còn gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, cần thường xuyên mở các lớp tập huấn, bổ túc chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ công nhân viên cơ quan BHXH. Tạo điều kiện cho các cán bộ trong cơ quan theo học các lớp đào tạo chuyên sâu như theo học các lớp đào tạo đại học cho các cán bộ đã có trình độ cao đẳng, trung cấp và theo học thạc sỹ đối với các cán bộ đã có trình độ đại học…nhằm nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ công nhân viên. Ngoài việc tham gia các lớp học có tổ chức, cán bộ công nhân viên cần có ý thức trong việc tự học hỏi, tìm hiểu thêm về các chế độ chính sách được ban hành để có thể hoàn thành công việc một cách tốt nhất. Có nghiệp vụ tinh thông thôi chưa đủ, mỗi cán bộ làm công tác BHXH cần nêu cao tinh thần trách nhiệm, lòng nhiệt tình yêu nghề. Một đặc điểm của ngành BHXH là không làm ra sản phẩm cụ thể cho xã hội như các ngành nghề khác, tuy nhiên mỗi việc làm của cán bộ công chức ngành BHXH cho người tham gia BHXH hoặc cán bộ nghỉ hưu đều kết tinh, thẫm đẫm tính nhân văn, nhân đạo cao cả, góp phần ổn định ASXH cho mỗi địa phương.
Mặt khác, phải đặt vị trí của mình vào vị trí của người đại diện cho cơ quan đơn vị hoặc đối tượng đến giải quyết công việc với cơ quan BHXH, có như thế mới thông cảm cho đối tượng , trên cơ sở đó mới thấy được những vướng mắc cần tháo gỡ, những thủ tục hành chính còn rườm rà, không cần thiết, gây phiền hà cho khách hàng cần phải loại bỏ. Đối với cán bộ chuyên thu thì cần phải chủ động mở rộng đối tượng tham gia BHXH, trọng tâm là khu vực kinh tế ngoài Nhà nước. Xây dựng cơ chế phối hợp với các ban ngành, đoàn thể của Thị xã để thực hiện tốt chính sách BHXH đối với NLĐ. Chủ động đôn đốc, kiểm tra, giám sát việc thu nộp BHXH nhất là những đơn vị cố tình vi phạm xử lý kịp thời nâng cao hiệu quả công tác quản lý thu BHXH.
3.2.2. Đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền.
Để thực hiện tốt việc mở rộng đối tượng tham gia BHXH của BHXH thị xã Hồng Lĩnh kể cả BHXH bắt buộc lẫn BHXH tự nguyện thì một trong những biện pháp vô cùng quan trọng mà không thể thiếu được đó là công tác dân vận, công tác thông tin tuyên truyền. BHXH là một lĩnh vực xã hội liên quan đến rất nhiều người trên một phạm vi rộng nên việc phổ biến thông tin tuyên truyền BHXH là vô cùng vần thiết. Hoạt động tuyên truyền hiệu quả cao sẽ giúp cho NLĐ, NSDLĐ nhận thức được tầm quan trọng của BHXH để tự giác tham gia, đồng thời qua đó mở rộng được đối tượng tham gia BHXH, tăng nguồn thu cho quỹ BHXH.
Theo danh sách rà soát các doanh nghiệp trên địa bàn của BHXH thị xã Hồng Lĩnh , tính đến năm 2010 còn 20 đơn vị với 252 lao động thuộc diện nhưng chưa tham gia BHXH. Lý giải điều này là do các nguyên nhân : thứ nhất là từ phía đơn vị SDLĐ không muốn đóng BHXH cho NLĐ nhằm tận dụng nguồn kinh phí này cho đầu tư sản xuất đồng thời giảm giá thành sản phẩm, tăng sức cạnh tranh trên thị trường, mang lại nhiều lợi nhuận hơn cho DN. Một số đơn vị thì lợi dụng sự kém hiểu biết của NLĐ về Luật BHXH mà trốn tránh không tham gia BHXH bắt buộc cho NLĐ như: khai giảm số lao động, hay lách luật bằng cách chỉ ký hợp đồng thời vụ 3 tháng dù NLĐ làm việc trên năm. Vì vậy công tác thông tin tuyên truyền chính sách BHXH lại càng trở nên cần thiết.
Để thực hiện được công tác thông tin tuyên truyền tốt thì BHXH Thị xã Hồng Lĩnh cần phối hợp tốt nhiều hình thức tuyên truyền khác nhau, sau đây là một số hình thức em xin đưa ra:
Tuyên truyền miệng, vấn đáp ba bên: Hệ thống chế độ chính sách BHXH rất phức tạp, thêm nữa lại liên quan đến nhiều đối tượng trong xã hội nên việc thực hiện chính sách BHXH không hề dễ dàng. Bên cạnh đó, trình độ hiểu biết của các đối tượng là không đồng nhất, khi thực hiện chính sách BHXH sẽ xuất hiện nhiều phát sinh, thắc mắc từ phía các đối tượng tham gia.Vì vậy hình thức tuyên truyền miệng, giải đáp ngay mọi thắc mắc về BHXH cho các đối tượng là vô cùng cần thiết.
Qua thăm dò tại các DN trên địa bàn thị xã cho thấy số công nhân lao động nắm được các chế độ chính sách nói chung, chế độ chính sách BHXH nói riêng còn rất hạn chế. Các văn bản, chính sách pháp luật chỉ dừng ở cấp lãnh đạo cơ sở, NLĐ ít có điều kiện tiếp xúc với chính sách Pháp luật. Do đó công tác tuyên truyền các chế độ chính sách BHXH phải được thực hiện nhiều lần, dưới nhiều hình thức, nhất là phương pháp tuyên truyền bằng miệng. Cán bộ BHXH phải trực tiếp đến tận các cơ sở, vận động giải thích cho NLĐ hiểu rõ quyền lợi và trách nhiệm trong việc tham gia BHXH. Ngoài ra cần phải phối hợp với tổ chức Công đoàn trong việc tuyên truyền chính sách BHXH. Bởi NLĐ là chủ thể tham gia BHXH mà tổ chức công đoàn là đại diện duy nhất hợp pháp cho quyền lợi chính đáng của NLĐ, công đoàn thực sự là tổ chức gần gũi nhất với NLĐ. Vì vậy, để thực hiện chức năng của mình tổ chức công đoàn cần phối hợp với cơ quan BHXH trong việc tuyên truyền phổ biến các chính sách BHXH thông qua các hoạt động tư vấn về BHXH, qua các ấn phẩm, tài liệu. Công đoàn nên thường xuyên tổ chức các buổi nói chuyện trao đổi trực tiếp để phổ biến hướng dẫn chính sách chế độ BHXH mới. Thực tế đã chứng minh đơn vị nào, DN nào có tổ chức công đoàn phát triển mạnh thì quyền lợi của NLĐ được đảm bảo tốt, trong đó có quyền tham gia và thụ hưởng BHXH.
Cơ quan BHXH thị xã Hồng Lĩnh cần chú trọng hơn nữa trong công tác thông tin tuyên truyền tới các đơn vị SDLĐ và DN trên địa bàn thị xã, đặc biệt đối với các đơn vị còn yếu kém bằng việc mớ các lớp tập huấn, đợt vận động cho chủ SDLĐ và các cán bộ chuyên trách về chính sách BHXH. Cần tích cực cử cán bộ BHXH làm công tác tuyên truyền để giúp họ hiểu hơn về việc tham gia đóng BHXH. Đó cũng là một cách để đề phòng rủi ro hiệu quả tốt. Mặt khác, cán bộ làm công tác BHXH cần tổ chức các buổi nói chuyện, vấn đáp giữa ba bên về lĩnh vực BHXH khi đó NLĐ sẽ có nhiều cơ hội được hỏi, được trao đổi một cách trực tiếp về các nội dung, chế độ BHXH mà mình quan tâm. Thực tiễn chứng minh đây là một hình thức tuyên truyền mang lại hiệu quả cao mà không tồn kém nhiều chi phí. Vì vậy, BHXH Thị xã Hồng Lĩnh cần đặc biệt chú trọng triển khai thực hiện triệt để.
In sổ tay BHXH: Sổ tay BHXH là tài liệu rất bổ ích, với nội dung rất cụ thể, rõ ràng về chính sách BHXH rất cần thiết để NLĐ, NSDLĐ đọc và hiểu rõ hơn về quyền và trách nhiệm của mình khi tham gia BHXH. Chính vì vậy, BHXH thị xã Hồng Lĩnh cần phối hợp với BHXH thành phố Hà tĩnh in sổ tay BHXH phát miễn phí hoặc bán với giá thấp để NLĐ, NSDLĐ có điều kiện tìm hiểu và thực hiện tốt hơn chính sách BHXH.
Ngoài ra, BHXH Thị xã Hồng Lĩnh cần tuyên truyền thông qua các phong trào văn hóa, văn nghệ tạo khí thế sôi nổi, vui vẻ vừa động viên được mọi cán bộ công chức, viên chức hăng hái thi đua công tác tốt, vừa truyền tải được nội dung chủ trương, chính sách BHXH đến với các đối tượng tham gia BHXH. Dù là Pháp luật nhưng vẫn phải làm tốt công tác tuyên truyền vận động, công tác tư tưởng để họ tự nguyện, tự giác đồng tình thực hiện, tránh gò ép, áp đặt dẫn đến sự bất bình không đáng có. Bên cạnh đó, BHXH thị xã Hồng Lĩnh cần tăng cường phối hợp triển khai công tác cổ động trực quan, xây dựng các tấm biển pa-nô, ap-phích cỡ lớn, đăng tải các nội dung, khẩu hiệu về BHXH đặt tại các trục đường giao thông chính, tại các khu công cộng đông người, tại các DN…in và phát các tài liệu, tờ rơi để truyền tải nội dung về BHXH đến được với đông đảo các đối tượng trong toàn huyện.
3.2.3. Quản lý chặt chẽ đối tượng tham gia BHXH.
Việc quản lý chặt chẽ đối tượng tham gia BHXH có vai trò hết sức quan trọng. Là cơ sở cho việc tổ chức hoạt động thu đúng đối tượng, đủ số lượng theo đúng quy định của Pháp luật về BHXH và đúng thời gian quy định. Ngoài ra,còn là điều kiện bảo đảm thực hiện quyền tham gia và thụ hưởng BHXH của NLĐ; góp phần tích cực vào việc phòng ngừa, hạn chế những hành vi vi phạm pháp luật về BHXH.Vì vậy, BHXH Thị xã Hồng Lĩnh cần tăng cường hơn nữa công tác quản lý đối tượng tham gia.
Tính đến nay Thị xã Hồng Lĩnh có khoảng 19.453 lao động nhưng BHXH Thị xã Hồng Lĩnh mới thực hiện được công tác thu BHXH đối với 3.931 lao động. Còn có rất nhiều lao động trên địa bàn Thị xã trong các doanh nghiệp sử dụng lao động dưới 10 lao động, lao động nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay Nhà nước đang có xu hướng cổ phần hoá các doanh nghiệp, phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa nên trên địa bàn Thị xã hiện nay có nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các doanh nghiệp liên doanh…do đó cần phải mở rộng số người tham gia BHXH trong các thành phần kinh tế này thì mới gia tăng số người tham gia BHXH.
Trong công tác quản lý đóng BHXH khi NSDLĐ kết thúc đóng góp BHXH theo quy định thì cơ quan BHXH vẫn phải quản lý hồ sơ dưới những hình thức đơn giản nhất và thông tin cơ bản nhất để đảm bảo quyền lợi cho NLĐ khi làm việc ở đó. Đối với những người tạm thời dừng đóng BHXH, cơ quan quản lý cần đẩy mạnh các hoạt động để khuyến khích các đối tượng tiếp tục tham gia đồng thời phải lưu giữ và bảo quản hồ sơ để đảm bảo quyền tiếp tục tham gia BHXH cho NLĐ.
Cơ quan BHXH thị xã Hồng Lĩnh cần phối kết hợp với các cơ quan, các ban ngành để tăng cường quản lý chặt chẽ các đối tượng tham gia BHXH, để có thể đưa ra các biện pháp nhằm thúc đẩy, quản lý, cổ vũ và vận động các đối tượng tham gia BHXH một cách tự nguyện, tránh tình trạng cưỡng ép. Mặt khác, phối hợp với các cơ quan ban ngành khác nhau để có thể nắm rõ hơn số lượng các DN, các đơn vị và số Lao động, tình trạng nợ đọng để quản lý tốt hơn việc tham gia BHXH.
3.2.4. Tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị
Với cơ quan nào cũng thế, muốn nâng cao hiệu quả của công việc thì cần phải tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, trang thiết bị để phục vụ cho công việc. Hiện tại, cơ quan BHXH thị xã Hồng Lĩnh vẫn còn chưa hoàn thiện đầy đủ trang thiết bị phục vụ cho công việc. Do vậy tăng cường cơ sở vật chất theo hướng hiện đại hóa là yêu cầu cấp thiết hiện nay nhằm nâng cao hiệu quả quản lý đảm bảo thông tin được cập nhật kịp thời, chính xác.
BHXH thị xã Hồng lĩnh có 9 máy tính để bàn, 1 laptop nhưng đa số các máy này đều đã quá cũ, cấu hình thấp, thường hay mắc lỗi, không đáp ứng đủ công việc ngày càng gia tăng. Vì vậy mà phải trang bị thêm nhiều cơ sở vật chất như máy tính tốt hơn, máy in màu để in các tờ rơi, pano, áp phích…; trang bị hệ thống bán ghế, thiết bị văn phòng đầy đủ; đặc biệt cần thay thế các tủ lưu trữ hồ sơ, tài liệu đã quá cũ để đảm bảo công tác lưu trữ.
3.3. MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ
3.3.1. Khuyến nghị với cơ quan BHXH Tỉnh Hà Tĩnh.
- BHXH tỉnh Hà Tĩnh là đơn vị trực tiếp có trách nhiệm chỉ đạo hướng dẫn và giám sát công tác thực hiện chính sách BHXH, nên BHXH Tỉnh Hà tĩnh cần tích cực ban hành hệ thống văn bản hướng dẫn thực hiện các chế độ, chính sách đối với NLĐ, tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho hoạt động thu BHXH đồng thời tạo sự tin tưởng cho NLĐ vào chính sách BHXH.
- BHXH Tỉnh Hà Tĩnh cần có kế hoạch phân bổ các cán bộ ngành BHXH về làm việc tại cơ quan BHXH cấp huyện thị một cách hợp lý, hàng năm cần có những khoản kinh phí riêng dùng để khen thưởng cho các cán bộ công nhân viên của ngành BHXH, đặc biệt là các cán bộ có thành tích cao, có nhiều sáng kiến trong công việc. Đồng thời có biện pháp khiển trách, nhắc nhở và có những hình thức xử phạt thích đáng đối với những cá nhân mắc khuyết điểm, có hành vi sai trái trong công việc.
- Ngoài ra BHXH tỉnh Hà Tĩnh cần có kế hoạch phân bổ đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị cho cơ quan BHXH thị xã Hồng Lĩnh như: cần bổ sung thêm hệ thống máy tính hiện đại, máy in, và các thiết bị khác nhằm đáp ứng tốt nhu cầu của công việc.
- BHXH tỉnh Hà Tĩnh cần đẩy mạnh công tác tổ chức tuyên truyền sâu rộng về chính sách BHXH tới cả NLĐ và NSDLĐ nhằm nâng cao sự hiểu biết về pháp luật BHXH cho toàn thể nhân dân.
- Phối hợp với Liên đoàn lao động thị xã, phòng Thanh tra lao động thuộc Sở LĐTB & XH tổ chức thành lập các đoàn thanh tra, kiểm tra giám sát chặt chẽ tình hình tham gia BHXH cho các đối tượng theo Luật định. Đặc biệt quản lý chặt chẽ đối tượng tham gia, tình hình thu nộp của khối DN ngoài quốc doanh vì hiện nay khối này chiếm một tỷ trọng lớn trong số thu và tình trạng nợ đọng BHXH còn phổ biến.
3.3.2. Khuyến nghị với Sở Lao Động Thương Binh và Xã Hội.
- Sở Lao Động Thương Binh và Xã Hội cần tăng cường hơn nữa việc kiểm tra thanh tra, tổ chức đôn đốc, giám sát tình hình tham gia và thực hiện chế độ BHXH của NSDLĐ trên địa bàn thị xã. Đối với các đơn vị nợ đọng lớn, kéo dài cần kiên quyết xử lý các hành vị vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH.
- Cần đưa ra các chế tài xử phạt và áp dụng Luật BHXH một cách nghiêm túc vào việc thu BHXH và quản lý các đối tượng tham gia BHXH để NLĐ và chủ SDLĐ có thể thấy rõ hơn, để từ đó thực hiện và tham gia tốt và tránh được tình trạng trốn đóng BHXH. Cần xem xét lại mức xử phạt và cơ chế xử phạt: Các hành vi vi phạm Luật BHXH diễn ra ngày càng phổ biến, tình hình nợ đọng ngày càng tăng do mức xử phạt và cơ chế xử lý vi phạm pháp luật BHXH như hiện nay còn quá nhẹ, chưa đủ sức răn đe đối với những hành vi trốn đóng, nợ đọng BHXH. Các vi phạm lại chủ yếu diễn ra ở các đơn vị lớn nhưng mức xử phạt tối đa lại không quá 20 triệu đồng là quá ít, trong khi cơ chế xử lý vi phạm như hiện nay là không kịp thời. Cơ quan BHXH nắm chắc tình hình thu nộp BHXH của các đơn vị nhưng không có thẩm quyền xử phạt mà chỉ có thể kiến nghị, khi các cơ quan chức năng nghiên cứu xử phạt thì có thể đơn vị đã không tồn tại. Đây là khó khăn rất lớn trong công tác thu, xử lý vi phạm pháp luật về BHXH, vì vậy cần phải xem xét và đưa ra những chế tài nghiêm khắc hơn để hạn chế tình trạng trên.
- Thanh tra lao động cần thường xuyên tổ chức các đợt thanh tra đột xuất tại các DN thực hiện chính sách BHXH còn yếu kém để phát hiện ra sai phạm và kịp thời xử lý về các vấn đề như kiểm tra bảng lương, tình hình sử dụng lao động và biến động tiền lương của NLĐ trong các đơn vị có SDLĐ để đối chiếu với danh sách nộp cho BHXH do đơn vị lập chuyển cho cơ quan BHXH để nắm bắt được tình hình thực tế, nếu có vi phạm thì lập biên bản xử lý kịp thời nhằm đảm bảo quyền lợi cho NLĐ. Cần xem lại cơ chế xử phạt và mức xử phạt.
KẾT LUẬN.
BHXH từ lâu đã trở thành một bộ phận quan trọng trong hệ thống các chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước. Ngày nay, BHXH càng có ý nghĩa quan trọng và liên quan trực tiếp đến việc ổn định đời sống của hàng triệu NLĐ và gia đình họ trong các trường hợp ốm đau, thai sản, chế độ hưu, TNLĐ cũng như sự ổn định và phát triển kinh tế đất nước.
Trải qua gần 16 năm hình thành và phát triển cho đến nay BHXH thị xã Hồng Lĩnh đã tạo được sự an tâm, niềm tin vững chắc cho mọi tầng lớp lao động trên địa bàn thị xã, là lá cờ đầu của ngành BHXH tỉnh. Với việc nghiên cứu đề tài“ Thực trạng và giải pháp nhằm hoàn thiện công tác thu BHXH bắt buộc tại BHXH thị xã Hồng Lĩnh – Hà Tĩnh giai đoạn 2008-2010” đã khẳng định tầm quan trọng của công tác thu BHXH ở BHXH thị xã Hồng Lĩnh nói riêng và các cơ quan BHXH trong cả nước nói chung. Để công tác thu BHXH đạt kết quả cao hơn nữa, đề tài đã đưa ra một số biện pháp và khuyến nghị đối với chính sách BHXH nói chung và công tác thu nộp BHXH nói riêng tại thị xã Hồng Lĩnh góp phần ổn định đời sống nhân dân, giảm chi cho ngân sách Nhà nước thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh”.
Trên đây là toàn bộ kết quả nghiên cứu của em về đề tài mà en đã thực tập tại BHXH thị xã Hồng Lĩnh tỉnh Hà Tĩnh, với mục tiêu đưa BHXH trở thành hạt nhân của hệ thống an sinh xã hội của nước ta. Do hạn chế về thời gian và trình độ nhận thức nên bài viết không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý bổ sung của các thầy cô giáo trong bộ môn để bài viết được hoàn thiện hơn. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn thầy giáo - thạc sỹ: Phạm Đỗ Dũng cùng các cô chú, anh chị trong cơ quan BHXH thị xã Hồng Lĩnh đã nhiệt tình hướng dẫn em hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này.
Em xin chân thành cảm ơn
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo cáo tổng kết công tác BHXH của BHXH thị xã Hồng Lĩnh năm 2008,2009,2010
2. BHXH Việt Nam (2007), Quyết định số 902/QĐ-BHXH ngày 29/06/2007 ban hành quy định về quản lý thu BHXH, BHYT bắt buộc
3. Chính Phủ (2006), Nghị định số 152/2006/NĐ- CP ngày 22/12/2006 hướng dẫn một số điều của Luật BHXH về BHXH bắt buộc.
4. Hệ thống các văn bản về BHXH và những văn bản có liên quan đến BHXH qua các năm.
5. Luật BHXH số 71/2006/QH 11 ngày 29/06/2006 của Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam.
6. Giáo trình kinh tế bảo hiểm trường Đại học Lao Động Xã Hội
7. Tạp chí BHXH.
8. Trang Wed: http:// www.tapchibaohiemxahoi.org.vn
http:// www.bhxh.org.vn
http:// www.bhxhhn.org.vn.
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
Họ và tên người nhận xét:Th.S. Phạm Đỗ Dũng
Chức vụ:
Nhận xét báo cáo thực tập tốt nghiệp của:
- Sinh viên thực tập:Trương Thị Ngọc Linh
- Trường: Đại học Lao động - Xã hội
- Lớp:Đ3BH4 - Khóa học: 2007 - 2011
Đề tài: “Thực trạng và giải pháp nhằm hoàn thiện công tác thu BHXH bắt buộc tại BHXH thị xã Hồng Lĩnh – Hà Tĩnh giai đoạn 2008-2010”
Nội dung nhận xét:
Hà Nội, ngày.....tháng.....năm 2011
Người nhận xét:
NHẬN XÉT CỦA NGƯỜI PHẢN BIỆN
Họ và tên người phản biện khóa luận:
Chức vụ:
Nhận xét báo cáo thực tập tốt nghiệp của:
- Sinh viên thực tập:Trương Thị Ngọc Linh
- Trường: Đại học Lao động - Xã hội
- Lớp:Đ3BH4 - Khóa học: 2007 - 2011
Đề tài: “Thực trạng và giải pháp nhằm hoàn thiện công tác thu BHXH bắt buộc tại BHXH thị xã Hồng Lĩnh – Hà Tĩnh giai đoạn 2008-2010”
Hà Nội, ngày…..tháng….năm 2011.
Người nhận xét
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tr432417ng th7883 ng7885c linh.doc