Tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn: LỜI MỞ ĐẦU
-----------------------------------------------------------------------------------
Nhìn lại lịch sử phát triển của xã hội loài người, nông nghiệp luôn luôn giữ một vai trò quan trọng, là ngành sản xuất lương thực, thực phẩm cho xã hội, nhiều nguyên liệu cho công nghiệp, nhiều hàng cho xuất khẩu (khi ngoại thương phát triển). Bước vào thế kỷ XXI, với những thách thức về an ninh lương thực, dân số, môi trường sinh thái,… nông nghiệp được dự báo là vẫn tiếp tục giữ vai trò quan trọng ấy. Trong thế kỷ XX, nông nghiệp thế giới đã có những bước tiến vượt bậc, phát triển từ giai đoạn sản xuất nông nghiệp truyền thống sang giai đoạn hiện đại hoá nông nghiệp, nhờ vậy kinh tế nông thôn và đời sống của người dân nông thôn cũng có nhiều chuyển biến. Đặc biệt, trong vài thập kỷ trở lại đây, với sự tiến triển nhanh chóng của những xu thế lớn trên thế giới, như cách mạng khoa học và công nghệ, toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, kinh tế thị trường hiện đại, kinh tế tri thức,… nhận...
62 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1029 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
-----------------------------------------------------------------------------------
Nhìn lại lịch sử phát triển của xã hội loài người, nông nghiệp luôn luôn giữ một vai trò quan trọng, là ngành sản xuất lương thực, thực phẩm cho xã hội, nhiều nguyên liệu cho công nghiệp, nhiều hàng cho xuất khẩu (khi ngoại thương phát triển). Bước vào thế kỷ XXI, với những thách thức về an ninh lương thực, dân số, môi trường sinh thái,… nông nghiệp được dự báo là vẫn tiếp tục giữ vai trò quan trọng ấy. Trong thế kỷ XX, nông nghiệp thế giới đã có những bước tiến vượt bậc, phát triển từ giai đoạn sản xuất nông nghiệp truyền thống sang giai đoạn hiện đại hoá nông nghiệp, nhờ vậy kinh tế nông thôn và đời sống của người dân nông thôn cũng có nhiều chuyển biến. Đặc biệt, trong vài thập kỷ trở lại đây, với sự tiến triển nhanh chóng của những xu thế lớn trên thế giới, như cách mạng khoa học và công nghệ, toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, kinh tế thị trường hiện đại, kinh tế tri thức,… nhận thức về nông nghiệp, nông thôn và nông dân đã có những sự thay đổi.
Ở Việt Nam chúng ta, một đất nước còn nặng về nông nghiệp, những thành tựu của 20 năm đổi mới vừa qua, đặc biệt là công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, việc chủ động hội nhập kinh tế quốc tế,… đã góp phần làm thay đổi nhận thức về nông nghiệp, nông thôn và nông dân., Nghị quyết 5 của Trung ương khoá IX đã đặt giải pháp về công tác quy hoạch ở vị trí đầu tiên trong hệ thống giải pháp nhằm đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn trong thời kỳ 2001-
2010. Nghị quyết khẳng định: “Quy hoạch phát triển nông nghiệp, nông thôn phải đặt trong tổng thể quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội cả nước, trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, công nghệ và thị trường;… Chú trọng làm tốt quy hoạch những vùng sản xuất hàng hoá tập trung (cây, con, sản phẩm, ngành nghề…); quy hoạch xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế- xãhội; quy hoạch phát triển khu dân cư, xây dựng làng, xã, thị trấn; gắn kết chặt chẽ với an ninh- quốc phòng, phòng chống, hạn chế, giảm nhẹ thiên tai, bảo vệ môi trường và giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc".
Trong thời gian qua, dòng vốn đầu tư nước ngoài (ĐTNN) vào lĩnh vực nông lâm nghiệp và nông thôn (NLN&NT) còn hết sức hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng cũng như thế mạnh của Việt Nam và ngày càng có xu hướng giảm sút. Mặt khác, so với hoạt động ĐTNN trong các lĩnh vực khác, hiệu quả thực hiện các dự án trong lĩnh vực này còn rất hạn chế. Do vậy, em xin được chọn dề tài thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn. Trong quả trình nghiên cứu chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong thầy cô và các bạn góp ý. Em xin chân thành cảm ơn !
----------------------------------------------------------------------------------------------
CHƯƠNG I – NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG.
I.Khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài ( FDI ).
1. Khái niệm đầu tư nước ngoài.
Theo quỹ tiền tệ quốc tế, đầu tư trực tiếp nước ngoài là số vốn đầu tư được thực hiện nhằm thu lợi lâu dài trong một doanh nghiệp hoạt động ở một nền kinh tế khác với nền kinh tế của nhà đầu tư. Ngoài mục đích lợi nhuận, nhà đầu tư mong muốn tìm được chỗ đứng trong quản lý doanh nghiệp.
Về thực chất, khái niệm này đã khẳng định tính lâu dài trong hoạt động đầu tư và động cơ của các nhà đầu tư là tìm kiếm lợi nhuận và kiểm soát hoạt động của các doanh nghiệp và mở rộng thị trường.
Theo tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế, đầu tư trực tiếp nước ngoài phản ánh những lợi ích khách quan lâu dài mà một thực thế kinh tế tại một nước (nhà đầu tư ) đạt được thông qua một cơ sở kinh tế tại một nền kinh tế khác với nền kinh tế thuộc đất nước của nhà đầu tư (doanh nghiệp đầu tư trực tiếp). Lợi ích lâu dài bao gồm sự tồn tại của một mối quan hệ giữa nhà đầu tư và doanh nghiệp đầu tư cũng như nhà đầu tư giành được ảnh hưởng quan trọng và có hiệu quả trong việc quản lý doanh nghiệp đó. Đầu tư trực tiếp bao hàm sự giao dịch ngay từ đầu và tất cả những giao dịch vốn tiếp sau giữa hai thực thể và các doanh nghiệp liên kết một cách chặt chẽ.
Như vậy động cơ chủ yếu của đầu tư trực tiếp nước ngoài là phần vốn được sử dụng ở nước ngoài gắn liền với việc tạo ra ảnh hưởng trực tiếp hoặc phục vụ việc kiểm soát các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tiếp nhận phần vốn đó.
Theo Luật Đầu tư nước ngoài bổ sung năm 1996 và trong lần sửa đổi, bổ sung một số điều ngày 9/6/2000 (điều 2 khoản 1) của Việt Nam" FDI là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền mặt hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành đầu tư theo quy định của Luật này".
Theo Luật này, những tài sản và vốn sau đây mới được đưa vào sử dụng nhằm xây dựng những cơ sở mới hoặc đổi mới trang thiết bị kỹ thuật hiện có:
- Các loại thiết bị máy móc, dụng cụ (gồm cả những dụng cụ dùng để thí nghiệm), phương tiện vận tải, vật tư kỹ thuật.
- Quyền sở hữu công nghiệp, bằng sáng chế, phát minh, phương pháp công nghệ, bí mật kỹ thuật
- Vốn bằng ngoại tệ để chi lương cho nhân viên và công nhân làm việc ở các cơ sở hoặc tiến hành những dịch vụ theo quy định của Luật này.
Luật này cho thấy không phải bất kỳ sự vận động nào về vốn từ nước ngoài vào Việt Nam cũng đều là đầu tư nước ngoài. Những tài sản và vốn muốn đưa vào Việt Nam phải tuân theo quy định của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
2. Phân loại hoạt động FDI.
Phân loại theo tỷ lệ sở hữu vốn.
- Vốn hỗn hợp ( vốn trong nước và nước ngoài ).
Hợp đồng hợp tác kinh doanh : Hợp đồng hợp tác kinh doanh rất đa dạng, thường được áp dụng phổ biến trong các lĩnh vực thăm dò, khai thác dầu khí, công nghiệp gia công và dịch vụ. Các bên tham gia hợp đồng vẫn là những pháp nhân riêng, thời hạn hợp đồng thường ngắn. Do vậy loại hình này thích hợp với các nhà đầu tư nước ngoài có ít tiềm lực về vốn.
Doanh nghiệp liên doanh ( công ty liên doanh): Là hình thức tổ chức kinh doanh quốc tế do hai bên hoặc các bên nước ngoài cùng hợp tác với nước chủ nhà trên cơ sở góp vốn, cùng kinh doanh, cùng hưởng lợi nhuận và chia sẻ rủi ro theo tỷ lệ góp vốn. Doanh nghiệp liên doanh được thành lập theo hình thức công ty TNHH, có tư cách pháp nhân theo luật pháp của nước nhận đầu tư.
Doanh nghiệp liên doanh là loại hình thường được nước chủ nhà ưa chuộng vì hầu hết các doanh nghiệp liên doanh khi đầu tư, kinh doanh ở nước chủ nhà, họ thường phải mang theo các thiết bị khoa học kỹ thuật tiên tiến, kinh nghiệm quản lý hiện đại. Tuy nhiên loại hình đầu tư này thường được nước chủ nhà áp dụng chủ yếu đối với đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng. Nhưng để đạt được kết quả mong muốn thì việc áp dụng hình thức này đòi hỏi nước chủ nhà phải có khả năng góp vốn, các nhà quản lý doanh nghiệp phải có đủ trình độ và năng lực quản lý, tiếp thu và ứng dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến, hiện đại của nước ngoài.
Doanh nghiệp cổ phần FDI ( hay công ty cổ phần) là doanh nghiệp có các cổ đông nước ngoài và trong nước ( cổ đông có thể là các cá nhân hoặc tổ chức ) nhưng cổ đông nắm quyền chi phối có quốc tịch nước ngoài, đây là hình thức doanh nghiệp hiện đại. Tuy đều là doanh nghiệp có vốn hỗn hợp song doanh nghiệp cổ phần FDI có cơ cấu tổ chức và cách thức hoạt động rất khác so với doanh nghiệp liên doanh.
- Doanh nghiệp 100% vốn FDI : là doanh nghiệp do các nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại nước chủ nhà và họ tự quản lý, chịu trách nhiệm hoàn toàn về các kết quả sản xuất kinh doanh. Đây là hình thức đầu tư được các nhà đầu tư nước ngoài ưa chuộng bởi ngoài việc phải tuân thủ những quy định có tính pháp luật của nước chủ nhà thì bên phía nước ngoài toàn quyền trong việc điều hành và quản lý doanh nghiệp của mình, không mất nhiều thời gian tìm tiếng nói chung với những người cùng tham gia điều hành như hình thức liên doanh.
Một số dạng đặc biệt của hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài là :
Hợp đồng xây dựng – kinh doanh – chuyển giao ( building – operate - transfer) BOT.
Hợp đồng xây dựng – chuyển giao – kinh doanh ( building – transfer – operate ) BTO.
Hợp đồng xây dựng – chuyển giao ( building – transfer ) BT.
Phân loại theo mục tiêu.
FDI phụ thuộc vào mục tiêu của chủ đầu tư mà có thể chia ra làm đầu tư theo chiều rộng ( chiều ngang – HI ) và đầu tư theo chiều sâu ( chiều dọc – VI ).
HI là hình thức chủ đầu tư có lợi thế cạnh tranh trong việc sản xuất một sản phẩm nào đó ( công nghệ, kỹ năng quản lý...) và chuyển việc sản xuất sản phẩm này ra nước ngoài.
VI là hình thức mà chủ đầu tư chú ý đến việc khai thác nguồn nguyên liệu tự nhiên dồi dào và lao động rẻ ở nước ngoài để sản xuất các sản phẩm có thể nhập lại về nước mình hay xuất khẩu sang nước khác.
Phân loại theo phương thức thực hiện.
FDI có thể thực hiện theo 2 hướng là đầu tư mới ( greenfield ) hoặc sáp nhập và mua lại ( M&A – Merger and Acquisition ).
Đầu tư mới là việc chủ đầu tư thực hiện đầu tư ở bằng cách xây dựng các doanh nghiệp mới ở nước ngoài, đây là hướng đi truyền thống và thường được chủ đầu tư của các nước phát triển áp dụng ở nước đang phát triển.
Hướng thứ hai là sáp nhập hoặc mua lại các công ty của nước khác thường được tiến hành giữa các nước pt, các NICs và rất phổ biến trong những năm gần đây.
Các nước đang phát triển chủ yếu lựa chọn phương thức đầu tư mới do ở các nước này năng lực sản xuất còn thiếu và yếu. Đầu tư mới sẽ giúp hình thành nên hàng loạt cơ sở sản xuất kinh doanh, đặc biệt là trong những lĩnh vực mới mà nhà nước nhận đầu tư chưa từng có.
3. Vai trò của đầu tư nước ngoài.
Vai trò đối với nước đi đầu tư.
Dựa trên lý thuyết xuất khẩu tư bản của Lênin thì ĐTNN là yếu tố sóng còn của CNTB, do đó mục đích tiến hành đầu tư ra nước ngoài nhằm :
- Mục đích kinh tế : tìm kiếm lợi nhuận.
Kéo dài chu trình sống của công nghệ đã cũ, khi trong nước không còn điều kiện phát triển thì họ có thể mang đi đầu tư ở những nước có trình độ công nghệ thấp hơn kéo dài chu trình sống cho sản phẩm và công nghệ, nhờ vậy mà tạo thêm được lợi nhuận.
Tạo ra nguồn cung cấp nguyên vật liệu mới.
- Trong trường hợp các nước phát triển đầu tư sang nhau thì một mục đích rất rõ rệt là hợp tác và liên kết cùng với nhau để cùng phát triển, hạn chế bớt sự cạnh tranh không cần thiết.
Vai trò đối với nước chủ nhà.
- Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Vốn đầu tư là yếu tố quyết định đối với sự tăng trưởng kinh tế của mọi quốc gia. . Dạng đơn giản nhất của mô hình Harrod – Domar
Ý nghĩa của mô hình này là để đạt được mức tăng trưởng mong muốn, cần có một tỷ lệ đầu tư trên GDP xác định. Nếu thiếu đầu tư thì không thể đạt được tốc độ tăng trưởng dự định. Đầu tư có thể được tích tụ bằng cách tiết kiệm trong nước, song cũng có thể thu nhận từ nước ngoài.
- Tạo cơ hội mở rộng thị trường.
Các chính sách giảm thuế xuất nhập khẩu, bãi bỏ hàng rào thuế quan, phi thuế quan, chính sách tỷ giá hối đoái tự do đã làm cho hoạt động thương mại ở các nước tham gia vào toàn cầu hoá có điều kiện tăng số lượng và các chủng loại sản phẩm xuất khẩu. Điều này khiến cho mỗi nước phải khai thác tối đa lợi thế so sánh của nước mình để tận dụng cơ hội cho xuất khẩu, đồng thời tăng cường quan hệ song phương và đa phương với các nước khác.
Trong quá trình hội nhập, điều dễ nhận thấy nhất là thị trường vốn liên kết chặt chẽ với nhau hơn, nhiều nước đang phát triển hội nhập nhanh hơn, mạnh hơn với thị trường tài chính toàn cầu.
Việc các nước đang phát triển loại bỏ được kiểm soát dòng vốn qua biên giới, đặc biệt là các dòng vốn chảy vào và dỡ bỏ dần những hạn chế trong thanh toán và giao dịch thông qua tài khoản đã đẩy nhanh hơn tốc độ liên kết kinh tế quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư nước ngoài. Điều đó cũng có nghĩa là các nước có cơ hội để phát triển và mở rộng thị trường để tiêu thụ sản phẩm, có điều kiện thu hút vốn đầu tư từ các nhà đầu tư nước ngoài, các nguồn viện trợ phát triển của các nước và các định chế tài chính quốc tế như ngân hàng thế giới, Quỹ tiền tệ quốc tế, ngân hàng phát triển châu Á , có điều kiện tiếp nhận công nghệ tiên tiến thông qua các dự án đầu tư. Thông qua FDI, các công ty trong nước có điều kiện mở rộng thị trường xuất khẩu và nhập khẩu, tăng quy mô sản xuất cũng như khả năng tiếp cận đến mạng lưới tiếp thị quốc tế.
Tuy nhiên, mức độ khai thác các tiềm năng này phụ thuộc rất nhiều vào chính sách thu hút FDI của nước tiếp nhận đầu tư. Đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể là một động lực mạnh mẽ cho phát triển và tăng trưởng ở các nước đang phát triển, nhưng nó cũng có thể gây rối loạn cho quá trình phát triển nếu không được quản lý cẩn trọng. Các nguy cơ tiềm ẩn đối với đầu tư nước ngoài có thể là yêu cầu bảo vệ thị trường nội địa (qua đó làm méo mó thị trường); mất khả năng kiểm soát đối với các ngành thuộc sở hữu nước ngoài; chịu ảnh hưởng lớn hơn trước những cú sốc từ bên ngoài.
- Góp phần nâng cao trình độ kỹ thuật công nghệ.
Thông qua các doanh nghiệp có vốn FDI, những công nghệ tiên tiến, hiện đại trong các lĩnh vực như viễn thông, khai thác dầu khí, hoá chất, sẽ được du nhập vào đất nước, tạo sự phát triển một số ngành công nghiệp mũi nhọn. Các doanh nghiệp có có vốn đầu tư nước ngoài có trình độ công nghệ cao hơn sẽ có tác dụng thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước đổi mới công nghệ và nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường trong nước và quốc tế. - Góp phần giải quyết việc làm, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Ngày nay sự giàu có và khả năng cạnh tranh của một quốc gia không còn đơn thuần phụ thuộc vào nguồn tài nguyên thiên nhiên sẵn có mà phần lớn phụ thuộc vào chất lượng của nguồn nhân lực. Do vậy, một trong những cách tốt nhất để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là tham gia vào hội nhập kinh tế quốc tế bởi ở đó người lao động có điều kiện nâng cao trình độ, tay nghề và kỹ năng sản xuất. Hơn nữa môi trường cạnh tranh để tìm kiếm việc làm trong điều kiện hội nhập kinh tế thế giới, người lao động buộc phải tìm tòi, học hỏi và thường xuyên nâng cao trình độ chuyên môn, ngoại ngữ, ý thức kỷ luật...để đáp ứng nhu cầu tuyển dụng của các công ty, xí nghiệp trong và ngoài nước.
Một trong những biện pháp có thể nói là hữu hiệu nhất đối với các quốc gia trong việc giải quyết việc làm và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là việc tăng cường thu hút nguồn vốn FDI. Đối với các quốc gia đang phát triển , lực lượng lao động dồi dào nhưng trình độ lại không cao nên thời kỳ đầu thực hiện CNH, những nước này thường đưa ra những chính sách khuyến khích FDI vào các lĩnh vực, ngành nghề sử dụng nhiều lao động như: công nghiệp chế biến, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng để tận dụng lao động địa phương. Hơn nữa, nhiều nhà đầu tư khu vực châu Á cũng có xu hướng đầu tư vào những ngành này để khai thác lợi thế so sánh với mục đích tìm kiếm thị trường mới với giá lao động rẻ, lợi nhuận cao.
- Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Hiện nay nhìn chung ở các nước đang phát triển, những lĩnh vực dịch vụ thu hút nhiều đầu tư nước ngoài gồm có du lịch, ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, thương mại và viễn thông. Điều này đã góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phù hợp với quá trình thực hiện CNH, HĐH của các nước, nghĩa là tỷ trọng lao động và GDP của khu vực công nghiệp và dịch vụ tăng lên và khu vực nông nghiệp giảm xuống.
- Học tập kinh nghiệm quản lý hiện đại.
Kinh nghiệm quản lý hiện đại được tích luỹ thông qua quá trình chuyển giao công nghệ vì các nước nhận đầu tư không chỉ nhập khẩu công nghệ đơn thuần mà họ phải học hỏi để nắm vững kỹ năng vận hành, sửa chữa, thực hiện tốt các khâu để đạt hiệu quả cao hoặc thông qua triển khai dự án. Các nhà đầu tư nước ngoài không chỉ chuyển giao máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu mà còn chuyển giao cả những tri thức khoa học, bí quyết quản lý, kỹ năng tiếp cận thị trường...Điều này bắt buộc các doanh nghiệp trong nước phải nâng cao trình độ và kinh nghiệm của mình trong công tác quản lý
II. Những vấn đề lý luận chung về ĐTNN vào lĩnh vực nông nghiệp.
Có hàng loạt các yếu tố khác nhau có thể tác động tới môi trường đầu tư. Dựa trên nghiên cứu của P.Timmer & McCulloch, các chuyên gia của Ngân hàng
Thế giới tổng kết các yếu tố ảnh hưởng tới đầu tư vào khu vực nông thôn, nhất là tác động tới các doanh nghiệp nông thôn (Hình 1)
Hình 1: Các nhân tố ảnh hưởng tới đầu tư nông thôn
Thu nhập nông thôn phi nông nghiệp
Di cư Kinh tế vĩ mô
Nhu cầu “địa phương” Thu nhập từ nông
nghiệp
Cấp vốn
•Vị trí & khoảng cách
•Các nguồn lực sẵn có của địa
phương
•Lao đông sẵn có & tiền công [kỹ
năng và văn hóa]
Tiếp cận công nghệ
Tiền gửi về
Nhu cầu sản phẩm đầu ra của các doanh nghiệp nông thôn
DOANH NGHIỆP NÔNG THÔN
Sản xuất nội địa phi nông
nghiệp
Nhu cầu bên ngoài
Nhu cầu từ nước ngoài
Tỷ giá hối đoái
Khả năng
• Doanh nghiệp và kỹ năng quản lý
• Kiến thức về các cơ hội thị trường
Cạnh tranh
Sẵn sàng về Vốn & Chi phí
Chứng khoán
Ổn định sở hữu đất
Cơ sở hạ tầng
Thuế Quy định & cấp phép
Môi trường đầu tư nông thôn
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG ĐTNN TRONG LĨNH VỰC NÔNG LÂM NGHIỆP – NÔNG THÔN ( NLN - NT).
Luật đầu tư nước ngoài đã được ban hành ngày 26 tháng 12 năm 1987 và có hiệu lực từ ngày 1/1/1988 đến nay đã được sửa đổi, bổ sung vào các năm 1990, 1992, 1996, 2000 và 2005. Sau 20 năm, hoạt động đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực NLN – NT đã đạt được những thành tựu rất khả quan. Bên cạnh đó còn một số hạn chế. Trong chương này chúng ta sẽ xem xét những thành tựu, hạn chế trong hoạt động ĐTNN vào lĩnh vực nông nghiệp và những nguyên nhân gây ra những hạn chế đó.
I. NHỮNG THÀNH TỰU.
1. Đầu tư bổ sung nguồn vốn cho đầu tư lĩnh vực này, góp phần tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước.
Trong những năm kể từ sau “Đổi mới”, FDI vào Việt Nam có vai trò rất lớn trong việc tạo vốn đầu tư xã hội, góp phần không nhỏ vào các hoạt động kinh tế của cả nước. Trong suốt một thập kỷ qua, khu vực có vốn FDI chiếm tỷ trọng ngày càng tăng trong GDP. Năm 2003, khu vực FDI đóng góp 14% GDP so với tỷ lệ đóng góp 6,4% của khu vực này năm 1994. Bên cạnh đó, khu vực có vốn FDI luôn dẫn đầu về tốc độ tăng giá trị gia tăng so với các khu vực kinh tế khác và là khu vực phát triển năng động nhất.
Hình 2: FDI thực hiện so với tổng đầu tư toàn xã hội và so với GDP.
Nguồn: Nguyễn Thị Tuệ Anh et al, 2005.
Theo báo cáo của Nhóm cố vấn Hợp tác Quốc tế ( ISG – Bộ Nông nghiệp và PTNT), hàng năm, khu vực nông nghiệp nông thôn thu hút khoảng 50 dự án với giá trị khoảng 200 triệu USD. Phần lớn các dự án FDI trong nông nghiệp có quy mô nhỏ và trung bình, phân bố gần các vùng nguyên liệu. Những doanh nghiệp này đóng góp trên 17 triệu USD cho ngân sách và trên 500 triệu USD trong kim ngạch xuất khẩu...
Tính đến hết tháng 6 năm 2005, lĩnh vực nông, lâm nghiệp đã thu hút 782 dự án đầu tư nước ngoài ( ĐTNN ) với tổng vốn đầu tư đăng ký gần 4,1 tỉ USD, trong đó có 623 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư đăng ký khoảng 3,2 tỷ đô la Mỹ, chiếm khoảng 7% vốn đầu tư đăng ký của khu vực ĐTNN cả nước. Trong những năm đầu của thập kỷ 90, nguồn vốn ĐTNN tập trung chủ yếu vào các dự án chế biến gỗ và các loại lâm sản. Tuy nhiên từ năm 1995 cho đến nay, nguồn vốn này được thu hút khá đồng đều vào các dự án trồng trọt, chế biến lâm sản, sản xuất đường mía, sản xuất thức ăn chăn nuôi, chăn nuôi gia súc gia cầm, trồng rừng và sản xuất nguyên liệu giấy. Về đại thể, nguồn vốn Fdi đầu tư vào nông nghiệp tập trung ở một số lĩnh vực: trồng trọt, thủy sản, chăn nuôi, công nghệ chế biến. Thực tế cho thấy trong thời gian qua, một số lĩnh vực có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động khá hiệu quả, cùng với thành phần kinh tế khác tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp, giải quyết số lượng lao động nhàn rỗi lớn ở nông thôn, và lực lượng lao động Việt Nam có điều kiện tiếp cận kinh nghiệm quản lý, kỹ thuật hiện đại, từng bước làm chủ trong sản xuất khi tham gia hội nhập với kinh tế thế giới.
Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế hiện nay, một trong những ngành làm ăn khá tốt của các dự án đầu tư là sản xuất thức ăn gia súc. Ước tính năm 1995, cả nước sản xuất 632.000 tấn thức ăn gia súc, trong đó số doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 42,7% thì đến nay các doanh nghiệp thức ăn gia súc có vốn đầu tư nước ngoài chiếm tỷ lệ trên 70% trong sản lượng của cả nước là 3 triệu tấn.
Theo thống kê của cục Đầu tư nước ngoài ( Bộ kế hoạch và Đầu tư ) tính đến tháng 6/2007 có 7.490 dự án FDI còn hiệu lực, với tổng vốn đăng ký 67,3 tỷ USD, vốn thực hiện gần 30 tỷ USD. Trong đó, các dự án thuộc lĩnh vực nông, lâm nghiệp là 758 dự án, vốn đăng ký 3,78 tỷ USD, vốn thực hiện gần 1,9 tỷ USD. Tỷ trọng GDP trong ngành nông nghiệp chiếm 10,6% số dự án ( qua cơ cấu đầu tư giữa các ngành ) và chỉ chiếm 7,6% tổng vốn đầu tư trong đó ngành công nghiệp nặng chiếm tới 45,5% vốn đầu tư, công nghiệp nhẹ chiếm 32,7%. Chỉ tính riêng 6 tháng đầu năm 2007, FDI vào lĩnh vực nông nghiệp chiếm 2,46% tương đương với 107 triệu USD trên tổng sô 4,3 tỷ USD vốn FDI của cả nước. Vốn FDI thực hiện trong nông nghiệp nông thôn là 1,9 tỷ (chiếm 6,3%)
Hiện nay, nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp chủ yếu được thực hiện dưới hai hình thức là doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100 % vốn nước ngoài. Trong đó, hình thức 100% vốn nước ngoài chiếm tới 77,4%, liên doanh chiếm 22,1% và hợp đồng hợp tác kinh doanh chỉ chiếm 0,5% tổng vốn đầu tư.
Hình 3: FDI trong nông lâm nghiệp theo hình thức đầu tư (chỉ tính các dự án còn hiệu lực). Nguồn MARD.
2. Bước đầu chủ trương chuyển dịch cơ cấu nông lâm nghiệp – nông thôn.
Bảng 1 : Cơ cấu GDP theo ngành kinh tế, 2001-2005 (%)
2000
2001
2002
2003
2004
2005
GDP
100,00
100,00
100,00
100,00
100,00
100,00
Nông - lâm – thủy sản
Công nghiệp – xây dựng
Công nghiệp chế biến
Dịch vụ
24,53
36,73
18,56
38,73
23,24
38,13
19,78
38,63
23,03
38,49
20,58
38,48
22,54
39,47
20,45
37,99
21,81
40,21
20,34
37,98
20,70
40,80
20,70
38,50
Nguồn: TCTK và tính toán của Viện NCQLKTTƯ.
Trong khu vực nông lâm thủy sản, sự chuyển dịch cơ cấu chủ yếu theo sự chuyển dịch giữa hai nhóm ngành nông nghiệp và thủy sản, tỷ trọng của ngành thủy sản tăng từ 16,0% năm 2001 lên 18,5% năm 2005, nông nghiệp giảm từ 78,6% năm 2001 xuống 75,8%. Sự chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp chậm : tỷ trọng ngành trồng trọt chiếm 78,6% tổng giá trị sản xuất nông nghiệp năm 2005 so với 81,0% năm 2000 ( theo giá 1994). Kết quả lớn nhất trong chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp là chuyển dịch trong nội bộ ngành trồng trọt theo hướng giảm diện tích trông lúa sang trồng các loại cây khác có năng suất và giá trị kinh tế cao hơn.
3. Tiếp thu một số công nghệ mới.
Đối với lĩnh vực nông nghiệp, do có phạm vi rộng ( bao gồm cả lĩnh vực lâm nghiệp và ngư nghiệp, thủy lợi và công nghiệp chế biến nông, lâm, hải sản ), công nghệ được áp dụng trong nông nghiệp bao gồm nhiều loại như công nghệ sinh học được áp dụng tạo ra các giống cây, con có năng suất cao, công nghệ sản xuất và sau thu hoạch, công nghệ chế biến nông lâm hải sản, công nghệ phát triển và quản lý tài nguyên nước; công nghệ tưới cho cây lương thực, cây công nghiệp, cây ăn quả trên các vùng đất khác nhau; công nghệ quản lý công trình thủy lợi; xây dựng các giải pháp để chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, nâng cao hiệu quả của các hình thức tổ chức sản xuất, phát triển dịch vụ phục vụ sản xuất... cho nên quá trình CGCN trong nông nghiệp có những đặc điểm khá phức tạp và có tính chất đặc thù riêng.
Thực trạng chuyển giao công nghệ trong khu vực FDI như sau:
Trong hơn 10 năm thu hút vốn FDI, lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn đã thu hút được một lượng vốn đầu tư nhất định. Tuy nhiên, lượng vốn đầu tư trực tiếp cũng như các công nghệ chuyển giao chưa đáp ứng đủ nhu cầu thay đổi cơ bản về trình độ và năng lực công nghệ trong toàn ngành do công nghệ áp dụng trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn còn khá lạc hậu. Theo số liệu gần đây, Việt Nam là một nước nông nghiệp có nguồn nông sản nguyên liệu dồi dào nhưng thiết bị, công nghệ chế biến nông sản không đủ năng lực sản xuất hàng xuất khẩu. Có thể điểm qua các số liệu sau:
- 128 nhà máy xay xát gạo, tổng công suất 2,4 triệu tấn nhưng thiết bị từ những năm 60 (ở miền Bắc) và những năm 80 (ở miền Nam);
- 126 nhà máy chế biến thủy sản đông lạnh, 11 cơ sở chế biến bột cá, 84 doanh nghiệp chế biến nước mắm không đủ đáp ứng nhu cầu xuất khẩu và tiêu dùng nội địa;
- Ngành khai thác hải sản mới chủ yếu hoạt động gần bờ, chưa có nhiều phương tiện tàu và máy móc phục vụ đánh bắt xa bờ.
- 18 nhà máy chế biến rau quả chỉ đảm bảo chế biến được 5% sản lượng rau quả, chưa đáp ứng được chỉ tiêu chất lượng xuất khẩu;
- 30 nhà máy chế biến thịt của cả nước chỉ đạt tỷ lệ chế biến 1,5%;
- Các khu vực chế biến dầu thực vật, chè, cà phê, cao su cũng chưa được đầu tư thích đáng, thiết bị cũ, hiệu quả thấp;
- Công nghệ chế biến sữa đang ở tình trạng thiếu nguyên liệu tại chỗ.
Xét theo ngành, tỷ trọng vốn FDI vào lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn chiếm tỷ trọng nhỏ. Trong giai đoạn 1988 đến 2000, tỷ trọng vốn đầu tư vào công nghiệp là 53,1%, dịch vụ là 41,1%, trong khi đó nông, lâm nghiệp chỉ 5,8% tổng số vốn FDI, còn qui mô của các dự án cũng nhỏ hơn so với qui mô của các dự án trong các ngành khác. Về vốn thực hiện (lượng vốn thực sự đã được di chuyển vào trong các ngành) trong nông nghiệp chỉ bằng 1/5 tổng số vốn đầu tư trong lĩnh vực dịch vụ và bằng 1/11 tổng số vốn đầu tư trong lĩnh vực công nghiệp. Nhưng lực lượng lao động chủ yếu hiện nay của Việt Nam lại ở trong khu vực nông nghiệp. Điều này cho thấy sự bất cân xứng giữa vị trí, vai trò của lĩnh vực nông nghiệp và yêu cầu khai thác các nguồn lực phát triển của khu vực này với tình hình thực hiện trên thực tế. Các số liệu trên còn cho thấy lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn chưa thu hút có hiệu quả vốn FDI. Tuy nhiên, thực tế không hẳn như vậy. Trong lĩnh vực này, nhiều dây chuyền công nghệ mới đã được chuyển giao vào Việt Nam như dây chuyền sản xuất các loại rau quả hộp, nước trái cây, một số liên doanh đã được thành lập ở Việt Nam để xuất khẩu một phần hoặc toàn bộ sản phẩm như liên doanh sản xuất thịt lợn ở Bình Dương, bột mì cao cấp ở Bà Rịa - Vũng Tàu, liên doanh chế biến chè, hồ tiêu... Một số giống cây mới đã được đưa vào Việt Nam cho năng suất cao như giống dứa Cayen, giống mía ấn Độ Đài Loan, châu Mỹ La tinh. Nhiều loại thiết bị chế biến đã được đưa vào Việt Nam thuộc loại tiên tiến và hiện đại bậc nhất thế giới như dây chuyền xay xát gạo Satake của Nhật Bản, dây chuyền sản xuất bột mỳ của Xinhgapo, Inđônêxia, các dây chuyền chế biến rau quả của ý, Hà Lan, các dây chuyền chế biến thịt của úc, các dây chuyền chế biến thức ăn gia súc của Mỹ, Pháp, Hà Lan, các dây chuyền chế biến chè của Nhật, Bỉ, Đài Loan, các nhà máy đường của Anh, Pháp, ấn Độ, úc, Nhật, Đài Loan, liên doanh chế biến sữa và các sản phẩm sữa, liên doanh sản xuất bia, nước giải khát, liên doanh chế biến hải sản.... Các công nghệ mới này góp phần tạo ra một khối lượng hàng nông sản xuất khẩu lớn, chất lượng cao và giá thành hạ, có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới. Điều này đã được khẳng định rõ trong văn kiện đại hội IX Đảng cộng sản Việt Nam: “Trong nông nghiệp, đã ứng dụng một số thành tựu của công nghệ sinh học; đưa một số giống mới vào sản xuất đại trà trên cơ sở áp dụng các kết quả nghiên cứu, tuyển chọn, lai tạo giống cây trồng, vật nuôi bằng công nghệ mới và công nghệ cao”.
Về cơ chế khuyến khích hoạt động CGCN vào lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn, thời gian qua Chính phủ Việt Nam đã có những chính sách khá mạnh trong việc thu hút vốn FDI và công nghệ hiện đại vào lĩnh vực này. Chẳng hạn, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam qui định các dự án thuộc lĩnh vực nuôi trồng nông, lâm, thủy sản, ứng dụng công nghệ sinh học, chế biến nông sản, lâm sản (trừ gỗ), thủy sản từ nguồn nguyên liệu trong nước xuất khẩu 50% sản phẩm trở lên, sản xuất các loại giống mới có chất lượng và hiệu quả kinh tế cao thuộc danh mục dự án đặc biệt khuyến khích đầu tư và mức thuế thu nhập doanh nghiệp là 10% lợi nhuận thu được. Ngoài ra, việc ưu đãi thuế cho các mặt hàng xuất khẩu, chính sách trang trại đã phát huy tác dụng, chính sách thuế nông nghiệp đã làm yên tâm người nông dân, chính sách khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư đã giúp cho hàng triệu nông dân tiếp cận với công nghệ mới, đặc biệt là công nghệ sinh học.... Những chính sách này đang tạo ra một môi trường sản xuất và kinh doanh hàng nông sản sôi động, có chiều sâu và hiệu quả ngày càng tăng, làm tăng thêm tính hấp dẫn của môi trường đầu tư trong lĩnh vực này đối với hoạt động CGCN. Ngoài ra, thị trường xuất khẩu cũng đang ngày càng mở rộng cho hàng nông sản Việt Nam.
4. Nâng cao giá trị hàng nông sản xuất khẩu.
Đây là một thành tựu rất đáng khích lệ, nhất là trong tình hình Việt Nam đã tham gia tổ chức thương mại thế giới WTO. Việc mở cửa các thị trường là điều không tránh khỏi, vì thế nâng cao giá trị, chất lượng hàng nông sản xuất khẩu cũng là một biện pháp thị trường nông sản Việt Nam cạnh tranh với hàng nông sản của các nước có thế mạnh về hàng nông sản. Đối với nông nghiệp cam kết thuế nhập khẩu bình quân của các nông sản là 21% so với mức hiện hành 31,6%, giảm đi 16%. Cam kết áp dụng an toàn vệ sinh thực phẩm các sản phẩm nông nghiệp ( theo Bộ Thương m ại)
Bảng 2: Cơ cấu xuất khẩu phân theo thành phần kinh tế tham gia xuất khẩu
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
Tổng kim ngạch (tr. USD)
14.455
15.027
16.706
20.176
26.503
32.442
39.605
Tốc độ tăng trưởng (%)
25,3
4,0
11,2
20,8
31,5
22,4
22,1
DN 100% vốn trong nước
7.646
8.228
8.834
10.015
12.017
13.889
16.740
- Tỷ trọng
52,9
54,8
52,9
49,6
45,0
43,0
42,0
- Tăng trưởng (%)
11,5
7,6
7,4
13,4
20,3
15,6
20,5
DN có vốn ĐTNN
6.809
6.799
7.872
10.161
14.486
18.553
22.865
- Tỷ trọng
47,1
45.2
47,1
50,4
55,0
57,0
58,0
- Tăng trưởng (%)
45,4
-0,2
15,8
29,1
42,6
28,1
23,2
Nguồn: Số liệu của Tổng cục Thống kê và Bộ Thương mại .
Tổng doanh thu của các dự án đã đi vào sản xuất năm 2003 đạt 657,7 tỷ đồng; kim ngạch xuất khẩu đạt trên 13 triệu USD. Bình quân một lao động trong năm đạt 152,5 triệu đồng doanh thu, 3.000 USD giá trị xuất khẩu, 14,4 triệu đồng lợi nhuận và nộp ngân sách gần 2 triệu đồng.
Có thể nói mặc dù cơ cấu xuất khẩu đã có sự thay đổi theo hướng tích cực trong thời gian qua, nhưng tốc độ chuyển dịch theo hướng đáp ứng yêu cầu biến đổi của thị trường và xu thế thế giới diễn ra còn chậm, tỷ trọng hàng thô, sơ chế vẫn còn cao. Tỷ trọng nhóm hàng chế biến công nghệ cao còn quá nhỏ bé. Những mặt hàng có tốc độ tăng trưởng nhanh và chiếm tỷ trọng lớn đều là những mặt hàng hoặc là hạn chế về các yếu tố cơ cấu như năng suất, diện tích, khả năng khai thác (nhóm nông, thuỷ sản và khoáng sản) hoặc là phụ thuộc quá nhiều vào công nghệ và nguyên liệu nhập từ bên ngoài, do đó giá trị gia tăng thấp (giày da và dệt may).
5. Đa dạng hoá sản phẩm.
Sau khi nhà nước bãi bỏ chính sách chỉ huy và sản xuất tập thể, ngày nay nông nghiệp Việt-Nam đã thực hiện được kế hoạch đa canh. Thay vì chỉ tập trung một một số hoa màu cổ truyền với nhiều rủi ro liên quan đến giá cả và thời tiết, nông dân được tự do trồng đủ loại hoa màu, cây ăn trái và kỹ nghệ với lợi tức cao hơn. Mức tăng trưởng hàng năm của khu vực nông nghiệp giữ ở mức 3.3% và 3.5% trong hai năm 2003 và 2004, năm 2005 là 2.2% và 2006 là 3.2%.
6. Tạo việc làm cho người lao động, nâng cao thu nhập dân cư, cải thiện đời sống kinh tế xã hội nhiều vùng nông nghiệp và nông thôn.
Bên cạnh hiệu quả kinh tế các dự án FDI trong nông, lâm nghiệp đã góp phần giải quyết một số vấn đề xã hội ở những vùng có dự án. 4.799 lao động nông thôn có việc làm mới, thu nhập cao hơn hẳn lao động của địa phương. Trình độ nghề nghiệp của lao động nông, lâm nghiệp được nâng cao qua thực tế sản xuất có tính hàng hóa cao của các dự án. Hệ thống cơ sở hạ tầng nông thôn vùng có dự án được xây dựng mới và nâng cấp so với trước, nhất là điện, thủy lợi, giao thông, cơ sở chế biến nông, lâm sản, trạm y-tế. Đối với các vùng miền núi,vùng đồng bào các dân tộc ít người như Sơn La, Cao Bằng, Quảng Ninh, Lâm Đồng, các dự án FDI trong nông, lâm nghiệp còn góp phần quan trọng xóa bỏ các hủ tục lạc hậu, xây dựng bản làng theo hướng văn minh phù hợp với nền sản xuất nông, lâm nghiệp hàng hóa.
Bảng 3. Phát triển nông nghiệp và nông thôn Việt Nam – Những thành tựu đã đạt được trong mục tiêu phát triển chính trong giai đoạn 1998 – 2002
CÁC MỤC TIÊU
CÁC CHI TIÊU
THÀNH TỰU ĐẠT
ĐƯỢC
2002
1998
Phát triển
Tốc độ phát triển GDP nông nghiệp, % năm
Đóng góp của nông nghiệp vào tổng GDP, %
Đóng góp của nông nghiệp vào tạo việc làm, %
4-4.5
(2010)
16-17
(2010)
23-24
(2010)
4.1 (98-2000)
23
67 (2001)
4.5 (1993-
97)
26
70
Mục tiêu 1. Giảm nghèo nông thôn
% dân số nông thôn sống dưới mức nghèo (chuẩn quốc tế)
% dân số nông thôn sống thiếu lương thực
24 (2010)
4 (2010)
35.6
13.6
45.5
18.6
Mục tiêu 2. Bảo vệ môi trường một cách bền vững
Độ che phủ rừng (%)
% dân số sống ở nông thôn tiếp cận nước sạch
38 (2005) –
43 (2010)
60 (2005) –
85 (2010)
36 (2000)
40
28
36 (1999)
Giảm tính dễ tổn thương
Tăng thu nhập trung bình trong nhóm nghèo nhất so với số
liệu năm 2000, %
90 (2010)
8.9 (98-02)
29 (93-98)
Cơ sở hạ tầng nông thôn
% xã nghèo nhất có 8 cơ sở hạ tầng nông thôn cơ bản
-% xã nghèo nhất có điện
- % xã nghèo nhất có đường giao thông đến trung tâm xã
- % công trình thủy lợi kiên cố/tạm thời
- % xã nghèo nhất có bưu điện
75 (2005) –
100 (2010)
77.6 (2010)
100 (2010)
80/50
(2010)
100 (2010)
56 (2003)
85 (2003)
94 (2003)
81 (2003)
76 (2003)
36.6 (2000)
80.9 (2000)
63 (2000).
Tạo việc làm
Sử dụng lao động nông thôn vào năm 2005 và 2010, %
80 (2005) –
85 (2010)
75
71
Nguồn: Từ các báo cáo CPRGS (2003), VDR 2004, Poverty Task Force (2001) Enhancing Access
Sách Thống Kê 2002-2003 (TCTK)
Ở Việt Nam, số lượng người làm việc trong khu vực FDI ngày càng tăng qua các năm.Thu nhập bình quân của lao động Việt Nam trong khu vực FDI nhìn chung cao hơn ở khu vực trong nước. Tuy nhiên, thu nhập của lao động trong khu vực FDI cũng tuỳ thuộc vào ngành nghề, trình độ học vấn và trình độ chuyên môn kỹ thuật, do vậy thu nhập của người lao động trong các doanh nghiệp này có có sự chênh lệch tương đối lớn. Người lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao có thu nhập cao gấp 3,5 lần so với lao động phổ thông và cao gấp 2,88 lần so với lao động có trình độ sơ cấp. Các vị trí quản lý cao cấp hiện có mức thu nhập bình quân 10,231 triệu đồng/người/tháng, gấp 9,86 lần so với mức thu nhập trung bình của lao động phổ thông và gấp 2,29 lần so với lao động quản lý bậc trung.
Mặc dù thu nhập của lao động trong khu vực FDI có sự chênh lệch nhưng đã góp phần đáng kể vào việc nâng cao đời sống của người lao động và làm tăng sức mua trên thị trường.
7. Những thay đổi chủ yếu trong chính sách thu hút FDI trong các thời kỳ sửa đổi Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt nam
Để thu hút đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, trong thời gian qua, hàng loạt các quy định chính sách đã ban hành nhằm đơn gian hoá thủ tục, ưu đãi đất đai, thuế, lới lỏng chính sách thương mại. Điều này cũng một phần thúc đẩy ĐTNN vào Việt Nam trong thời gian qua.
Bảng 4 : những thay đổi chủ yếu trong chính sách thu hút FDI qua các thời kỳ
Lĩnh vực
c/s
Luật sửa đổi năm 1992
đến 1995
Luật sửa đổi năm
1996 đến hết 1999
Luật sửa đổi năm
2000 đến nay
Trình tự đăng ký
+ Dự án FDI được nhận giấy phép đầu tư trong vòng 45 ngày;
+ Sau khi có giấy phép, DNFDI vẫn phải xin đăng ký
hoạt động.
+ DNFDI được tự lựa chọn loại hình đầu tư, tỷ
lệ góp vốn, địa điểm
đầu
tư, đối tác đầu tư.
+ DN xuất khẩu sản phẩm trên 80% được ưu tiên nhận giấy phép sớm;
+ Ban hành danh mục DNFDI
được đăng ký kinh doanh,
không cần xin giấy phép;
+ Bỏ chế độ thu phí
đăng ký đầu tư FDI
Phân cấp đăng ký/cấp phép Lĩnh vực
+ Khuyến khích các dự án liên doanh với doanh nghiệp
trong nước; hạn chế dự án
100% vốn nước ngoài;
+ Khuyến khích
DNFDI
đầu tư vào những lĩnh vực định hướng xuất khẩu, công nghệ cao.
+ Ban hành danh mục dự án kêu gọi đầu tư FDI cho giai đoạn 2001-2005
+ Mở rộng lĩnh vực cho phép FDI đầu tư xây dựng nhà ở;
+ Đa dạng hoá hình thức đầu tư; Được
mua cổ phần của các doanh nghiệp trong nước
Đất đai
+ Phía Việt nam chịu trách nhiệm đền bù giải phóng mặt
bằng cho các dự án có vốn
đầu tư nước ngoài;
+ Dự án có vốn FDI được thuê đất để hoạt động, nhưng
không được cho các doanh nghi nghiệp nghiệp nghiệp khác thuê lại.
+ UBND địa phương tạo
điều kiện mặt bằng kinh
doanh khi dự án được duyệt; DN thanh toán tiền
giải phóng mặt bằng cho
UBND
+ Được quyền cho thuê
lại đất đã thuê tại các khu CN, khu chế xuất;
+ Được thế chấp tài sản gắn
liền với đất và giá trị
quyền sử
dụng đất;
Quy định về vốn
+ Qui định vốn pháp định không được thấp hơn 30% tổng vốn đầu tư.
C/s
tỷ
giá, quy địnhvề ngoại tệ
+ Các dự án FDI đầu tư hạ tầng và thay thế nhập khẩu được nhà nước bảo đảm cân đối ngoại tệ;
+ Các DNFDI thuộc các lĩnh
vực khác phải tự lo cân
đối
ngoại tệ; nhà nước không chịu trách nhiệm về cân đối
ngoại tệ đối với các dự án này.
+ Tự bảo đảm cân đối nhu cầu về ngoại tệ cho
hoạt động của mình; + Áp dụng tỷ lệ kết hối ngoại tệ do tác động khủng hoảng tài chính khu vực (80%), sau đó nới dần tỷ lệ này.
+ DN có thể mua ngoại tệ
với sự cho phép của
Ngân
hàng nhà nước
+ Được mua ngoại tệ
tại
NHTM để đáp ứng nhu cầu
giao dịch theo luật định; + Bãi bỏ yêu cầu chuẩn y khi chuyển nhượng vốn; giảm mức phí chuyển lợi nhuận ra
nước ngoài.
+ Giảm tỷ lệ kết hối ngoại tệ
từ 80% xuống 50%
đến 30% và 0%
C/s xuất nhập khẩu
+ DN phải bảo đảm tỷ lệ
XK
theo đã ghi trong giấy phép
đầu tư;
+ Sản phẩm của DNFDI không được bán ở thị trường
VN qua đại lý
+ DNFDI không được làm
đại
+ Bãi bỏ hoàn toàn việc
duyệt kế hoạch xuất khẩu
của doanh nghiệp FDI;
+ Cải tiến thủ tục xuất nhập khẩu hàng hoá đối
với xét xuất xứ hàng hoá
XNK
+ Thu hẹp lĩnh vực yêu cầu tỷ
lệ xuất khẩu 80% sản lượng;
+ DN FDI được tham gia dịch
vụ đại lý XNK
C/s thuế
lý XNK+ Áp dụng thuế ưu đãi cho các dự án FDI đầu tư vào các lĩnh vực đặc biệt ưu tiên với
mức thuế thu nhập 10%
trong
vòng 15 năm kể từ khi hoạt
động;
+ Mức thuế thu nhập của
DN
100% vốn nước ngoài không
bao gồm phần bù trừ lợi nhuận của năm sau để bù cho
lỗ của các năm trước;
+ DNFDI không được tính vào chi phí sản xuất một số
khoản chi nhất định;
+ thuế nhập khẩu được áp với
mức giá thấp trong khung giá
do Bộ Tài chính qui định;
+ Miễn thuế nhập khẩu đối với thiết bị, máy móc,
vận tải chuyên dùng, nguyên liệu vật tư .. phục
vụ sản xuất kinh doanh của DNFDI;
+Miễn thuế nhập khẩu đối với DN đầu tư vào những lĩnh vực ưu tiên,
địa bàn ưu tiên trong 5
năm đầu hoạt động;
+ DN xuất khẩu được miễn thuế nhập khẩu nguyên vật liệu để XK sản phẩm;
+ DN cung ứng sản phẩm
đầu vào cho DN Xkhẩu
cũng được miễn thuế nhập khẩu nguyên vật liệu trung gian với tỷ lệ
tương ứng;
+ Bãi bỏ qui định bắt buộc DNFDI trích quĩ dự phòng;
+ Tiếp tục cải cách hệ thống huế, từng bước thu hẹp khoảng cách về thuế giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước
ngoài
Nguồn: Trích trong Nguyễn Thị Tuệ Anh et al, 2005.
II. HẠN CHẾ.
Mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu về phát triển nông lâm nghiệp - nông thôn, trong những năm qua tồn tại rất nhiều hạn chế.
1. Tỷ trọng ĐTNN vào lĩnh vực này thấp, chiếm khoảng 7% và liên tục giảm qua các thời kỳ từ năm 1988 đến nay.
Bảng 5: Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo ngành 1988- 2006.
ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI THEO NGÀNH 1988-2006
(tính tới ngày 20/10/2006 - chỉ tính các dự án còn hiệu lực)
STT
Chuyên ngành
Số dự án
TVĐT
Vốn pháp định
Đầu t thực hiện
I
Công nghiệp
4,566
35,466,782,841
15,233,488,400
19,690,247,921
CN dầu khí
31
1,993,191,815
1,486,191,815
5,452,560,006
CN nhẹ
1920
9,632,985,205
4,297,007,537
3,411,833,441
CN nặng
1988
16,281,872,920
6,535,848,102
6,743,541,418
CN thực phẩm
275
3,252,531,916
1,395,521,219
1,947,234,568
Xây dựng
352
4,306,200,985
1,518,919,727
2,135,078,488
II
Nông, lâm nghiệp
832
3,873,835,578
1,782,145,464
1,921,406,176
Nông-Lâm nghiệp
717
3,544,961,398
1,636,808,083
1,755,554,292
Thủy sản
115
328,874,180
145,337,381
165,851,884
III
Dịch vụ
1,363
17,967,612,574
8,419,929,874
6,907,525,618
Dịch vụ
585
1,448,975,358
665,710,149
377,436,247
GTVT-Bu điện
181
3,349,026,235
2,424,248,925
720,973,796
Khách sạn-Du lịch
165
3,281,085,068
1,498,703,421
2,366,379,125
Tài chính-Ngân hàng
64
840,150,000
777,395,000
682,870,077
Văn hóa-Ytế-Giáo dục
224
978,529,862
428,633,794
351,676,490
XD Khu đô thị mới
5
2,865,799,000
794,920,500
51,294,598
XD Văn phòng-Căn hộ
119
4,183,447,505
1,452,648,488
1,828,838,895
XD hạ tầng KCX-KCN
20
1,020,599,546
377,669,597
528,056,390
Tổng số
6,761
57,308,230,993
25,435,563,738
28,519,179,715
Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Một vấn đề hạn chế trong thời gian qua là lượng FDI trong nông nghiệp còn rất nhỏ và có xu hướng tăng lên mạnh sau đổi mới nhưng lại giảm mạnh trong hơn 10 năm gần đây. Năm 1995, lượng vốn FDI đăng ký đạt khoảng 650 triệu USD tuy nhiên trong mấy năm gần đây lượng vốn FDI đăng ký hàng năm chỉ đạt 100 triệu USD.
Tính đến hết năm 2006, tỷ trọng đầu tư FDI trong nông - lâm - ngư nghiệp chiếm 6,65% trong số những dự án còn có hiệu lực. Cơ cấu phân theo ngành là: trồng trọt 8,2%; chế biến nông sản thực phẩm 49,2%, chăn nuôi và chế biến thức ăn gia súc 11,6%; trồng rừng và chế biến lâm sản 22,6%; nuôi trồng và chế biến thuỷ sản 8,4%. Đáng buồn hơn là những chỉ số về FDI trong lĩnh vực này đang có xu hướng giảm (chỉ thu hút được 11/196 dự án trong tháng 3/2007).
Vốn thực hiện so với vốn đăng ký còn chiếm tỷ trọng thấp và có xu hướng ngày càng giảm qua các năm gần đây.
ĐTNN vào lĩnh vực nông nghiệp có xu hướng giảm sút kể từ sau khủng hoảng tài chính châu Á và cho đến nay vẫn chưa có dấu hiện hồi phục do điều kiện đầu tư vào nông nghiệp của Việt Nam chưa thực sự hấp dẫn.
Số dự án bị giải thể trước thời gian ( 30%), chuyển đổi hình thức đầu tư cao hơn so với tỷ lệ bình quân chung cả nước là 16%. Có khá nhiều dự án ĐTNN đang trong tình trạng kinh doanh thua lỗ hoặc triển khai chậm.
2. Chuyển dịch cơ cấu trong nông nghiệp rất chậm.
Sự lạc hậu của cơ cấu kinh tế nông nghiệp nước ta thể hiện ở chỗ ngành trồng trọt vẫn chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng giá trị sản xuất của toàn ngành nông nghiệp, trong khi đó tỷ trọng ngành chăn nuôi tương đối thấp và tỷ trọng ngành dịch vụ không đáng kể. Hơn thế nữa, cơ cấu kinh tế nông nghiệp trong những năm qua chuyển dịch rất chậm chạp. Tỷ trọng các ngành biến động trồi sụt theo từng năm không theo xu hướng rõ ràng. Trong vòng 15 năm qua, tỷ trọng trồng trọt chỉ dao động trong khoảng 75,4-77,9%; tỷ trọng chăn nuôi dao động trong khoảng 17,8-22,4%; và tỷ trọng dịch vụ dao động trong khoảng 2,1-2,98%. Thực tế trên đây cho thấy rằng nông nghiệp nước ta vẫn là ngành sản xuất sản phẩm thô là chính, chăn nuôi và dịch vụ chưa phát triển. Đây thực sự là một khó khăn, thách thức lớn đối với việc đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn. Bởi vì cơ cấu nông nghiệp lạc hậu có thể gây cản trở đối với những động lực phát triển nội sinh của ngành; chẳng hạn, phần đông người lao động nông thôn hiện đang bị kìm hãm trong các hoạt động trồng trọt mang nặng tính thời vụ là một sự lãng phí lớn. Cơ cấu nông nghiệp lạc hậu cũng cho thấy sản xuất nông nghiệp chưa tiếp cận được với thị trường, với cơ cấu tiêu dùng, và phương thức sản xuất còn lạc hậu, chưa phù hợp với yêu cầu của nông nghiệp hàng hoá.
3. ĐTNN chưa phát huy được đầy đủ tiềm năng.
ĐTNN chưa phát huy được những tiềm năng, cụ thể như trong trồng trọt và chế biến nông sản, mới chỉ tập trung vào việc khai thác tiềm năng, nguồn lực sẵn có về đất đai và lao động... mà chưa có nhiều dự án tạo giống cây, giống con mới và nuôi, trồng, chế biến các loại rau, quả xuất khẩu có hàm lượng kỹ thuật cao, chất lượng tốt phù hợp với điều kiện Việt Nam. Các dự án chế biến lâm sản, chế biến gỗ mới chỉ dừng lại ở mức tập trung sử dụng nguồn nguyên liệu nhập khẩu. Việc khai thác, sử dụng đất đai của các dự án ĐTNN trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp chưa có hiệu quả. Nhiều dự án trồng rừng chiếm diện tích đất khá lớn, nhưng hiệu quả thực tế trên 1ha sử dụng đất còn rất thấp.
4. Phân bố nguồn vốn không đều giữa các địa phương.
Bên cạnh tỉ lệ vốn đầu tư của nước ngoài vào trong nông nghiệp chiếm tỷ trọng thấp và có xu hướng giảm xuống trong thời gian gần đây, phân bổ nguồn vốn đầu tư nước ngoài không đồng đều giữa các địa phương. Mặc dù, ngành nông nghiệp chỉ chiếm 10,6% tổng số các dự án FDI vào Việt Nam song việc phân bổ FDI chưa đồng đều giữa các vùng, miền. Nguồn vốn ĐTNN chủ yếu tập trung vào ĐBSCL với 13% vốn đầu tư và Đông Nam Bộ với 54%, các tỉnh miền Trung. Các vùng miền núi phía Bắc và ngay cả ĐBSH chiếm tỷ trọng thấp chỉ tương ứng 4% và 5%, và Tây Nguyên.
Theo ông Nguyễn Trí Ngọc, Cục trưởng Cục Trồng trọt, Bộ NN &PTNT, những năm đầu của thập kỷ 90, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) cho nông lâm nghiệp Việt Nam chủ yếu là các dự án chế biến gỗ và các loại lâm sản. Nhưng kể từ năm 1995 đến nay, nguồn vốn này được thu hút khá đồng đều vào các dự án trồng trọt, chế biến lâm sản, sản xuất mía đường, sản xuất thức ăn chăn nuôi, chăn nuôi gia súc gia cầm, trồng rừng và sản xuất nguyên liệu giấy. Các dự án tập trung ở các vùng nguyên liệu truyền thống, thuận lợi về thổ nhưỡng và khí hậu để phát triển nguồn nguyên liệu cung cấp cho các nhà máy.
Từ năm 2003 đã mở rộng ra nhiều tỉnh ở cả 3 miền Bắc Trung Nam. Lĩnh vực hoạt động của các dự án cũng phong phú hơn các năm trước. Trong nông nghiệp phổ biến nhất vẫn là chăn nuôi gia súc, gia cầm và chế biến thức ăn chăn nuôi (Tp. Hồ Chí Minh, Bình Dương), trồng và chế biến cao su (Tây Ninh; Bình Dương) trồng và chế biến chè (Lâm Đồng), trồng rau sạch, hạt rau giống, (Tây Ninh, Lâm Đồng), trồng nấm linh chi xuất khẩu (Cao Bằng), trồng cây ăn quả chất lượng cao (Hà Tây; Tây Ninh) sản xuất, kinh doanh lúa giống, ngô giống lai (Hà Nội), trồng hoa phong lan (Tp. Hồ Chí Minh)... Trong lâm nghiệp chủ yếu đầu tư vào trồng rừng và chế biến lâm sản xuất khẩu.
5. Đối tác nước ngoài còn thiếu tính đa dạng.
Đối tác nước ngoài trong lĩnh vực nông lâm nghiệp còn thiếu tính đa dạng. Hiện có 38 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư còn hiệu lực, trong đó các đối tác đầu tư lớn nhất là Đài Loan, quốc đảo Virgin, Anh, Thái Lan, Pháp... Các quốc gia đầu tư vào trong khu vực nông nghiệp nhưng chủ yếu là các quốc gia Châu á, các nước lớn đầu tư vào Việt Nam còn rất hạn chế. Trong các nước đầu tư vào Việt Nam, đứng đầu là Đài Loan với 27% tổng vốn FDI trong nông nghiệp, tiếp theo là Thái Lan (13%), Anh (11%), Pháp (8% )và Singapore (5%)...Lượng vốn đăng ký của Mỹ mới chỉ đạt 232 triệu USD, Đức là 17 triệu USD, Hà Lan 105 triệu USD, Nhật là 121 triệu USD. Việc đầu tư vào nông nghiệp là một lĩnh vực không dễ tuy nhiên với lượng đầu tư nước ngoài còn rất khiêm tốn cho thấy cần có những điều chỉnh có thể tạo môi trường đầu tư hấp dẫn hơn nữa thu hút hơn lượng đầu tư nước ngoài trong khu vực nông nghiệp bên cạnh sự thu hút đầu tư trong nước.
Các doanh nghiệp chủ yếu tập trung vào các dự án thu hồi vốn nhanh như sản xuất thức ăn chăn nuôi chiếm 76%, chế biến nông lâm sản chiếm 24% thay vì triển khai các dự án phát triển công nghệ sinh học trong nông nghiệp, lai tạo giống cây trồng, vật nuôi mới, trồng chế biến các loại rau, quả xuất khẩu bằng công nghệ kỹ thuật cao; Một số dự án trồng rừng nguyên liệu, chế biến nông sản đạt hiệu quả thấp; Nhiều dự án tác động nghiêm trọng đến cảnh quan, môi trường tự nhiên…
III. NHỮNG NGUYÊN NHÂN CHÍNH TẠO NÊN HẠN CHẾ.
Hoạt động Nông nghiệp nói chung và thu hút đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực này gặp nhiều rủi ro hơn lĩnh vực Nông nghiệp. Các điều kiện đất đai, thổ nhưỡng, địa hình, cơ sở hạ tầng vùng triển khai các dự án FDI trong nông, lâm nghiệp, đều không thuận lợi so với các điều kiện chung của cả nước, mà ngược lại có phần khó khăn hơn, vì phần lớn các dự án tập trung ở những vùng đất mới khai phá, nằm ở các vùng miền núi, trung du, các công trình thủy lợi chưa hoàn chỉnh. Việt Nam vẫn đang trong giai đoạn chủ yếu dựa vào sản phẩm nguyên liệu thô, thời gian đầu tư và thu hồi vốn dài, chịu ảnh hưởng trực tiếp của thời tiết và thiên tai, đặc biệt là giá nguyên liệu thô trên thị trường thế giới luôn biến động bất lợi. Trong khi đó các nông sản có chất lượng tiêu dùng cao, nhãn hiệu nổi tiếng và hàm lượng giá trị gia tăng cao chưa được tạo dựng;
1. Thiếu bảo đảm về điều kiện hạ tầng
Mặc dù đã được tăng cường đầu tư, nhưng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội nông thôn như giao thông, điện, nước, thông tin liên lạc, trường học, bệnh viện, nhà văn hoá,... còn kém phát triển.
Hệ thống dịch vụ phục vụ sản xuất như cung ứng giống, thú y, bảo vệ thực vật, sửa chữa cơ khí, điện, tín dụng,… và phục vụ đời sống như giáo dục, y tế, tư pháp, văn hoá, thể thao,… còn rất thiếu và yếu. Hệ thống kết cấu hạ tầng thương mại cũng chưa phát triển, cả nước vẫn còn khoảng 4.000 xã chưa có chợ, chưa hình thành được các trung tâm thương mại, thiếu hệ thống kho lạnh, xe lạnh, cầu cảng, bến bãi, thông tin thị trường,...
Theo nghiên cứu mới đây của Ngân hàng thế giới, các doanh nghiệp FDI nói riêng và các doanh nghiệp khác nói chung cho biết việc xây dựng đường xá (xuyên quốc gia, tỉnh), điện là những ưu tiên quan trọng nhất nên phát triển. Tiếp theo là các dịch vụ liên quan đến viễn thông, đây cũng là các ưu tiên đối với việc cải thiện môi trường kinh doanh.
Hình 4 : Các ưu tiên về cơ sở hạ tầng
Nguồn : WB, 2005
2. Thiếu đảm bảo về đất đai.
Trong nông nghiệp, đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt. Theo Tổng cục Địa chính, đến năm 1998, Việt Nam mới sử dụng khoảng 67.57% diện tích đất tự nhiên, bình quân đầu người là khoảng 2790 m2. Còn khoảng 10.6 triệu ha đất chưa được sử dụng (32.4%), nhưng phần lớn là đồi dốc, thiếu nước, lại bị sói mòn, thoái hoá, diện tích đất bằng có thể dùng cho trồng trọt hầu hết là đất mặn, phèn ngập úng, muốn khai thác phải có nhiều vốn. Với dân số và NNL ngày càng tăng ở nông thôn, làm cho quỹ đất của VN tính bình quân đầu người vốn đã vào loại thấp nhất thế giới lại càng ít hơn, khó khăn nhiều hơn cho việc tạo công ăn việc làm ở nông thôn. Trong thực tế, tổng diện tích đất nông nghiệp của nước ta lại dành tới 70 % để trồng lúa, nhưng hiện việc thâm canh cây lúa đã đến giới hạn trong việc thu hút thêm lao động so với các cây trổng khác, làm cho hiệu quả sử dụng không cao. Ngoài ra, hiện nay hệ số sử dụng đất bình quân cả nước là 1,4; Miền Bắc là 1,2. Hiện có 445 ngàn hộ nông dân không có đất.
Một ví dụ nhỏ dưới đây sẽ cho ta thấy tình hình thiếu đất trong nông nghiệp với nhà đầu tư nước ngoài.
Ông Kuniaki Baba, Giám đốc Công ty TNHH trồng rừng Quy Nhơn, kể rằng, công ty ông cần mở rộng diện tích đất trồng rừng nguyên liệu để cung cấp cho nhà máy chế biến giấy tại Nhật. Song, đã nhiều ngày qua, dự án của công ty "án binh bất động" vì không thuê được đất. Không chỉ riêng ông Kuniaki Baba, nhiều vị lãnh đạo DN đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong nông nghiệp cũng đang kêu cứu về tình trạng thiếu đất sản xuất, hoặc không thể có đất để tạo vùng nguyên liệu. Ở một Bộ chuyên về sản xuất nông nghiệp, việc thiếu đất nghe như chuyện đùa, nhưng lại hoàn toàn là sự thật.
3. Thiếu bảo đảm về nguồn nhân lực.
Hiện nay, lao động nông thôn có khoảng hơn 30 triệu người, trong đó có tới hơn 80% không có chuyên môn kỹ thuật và hơn 20% không có hoặc thiếu việc làm. Tình trạng “thừa lao động, thiếu chất xám, trí thức không muốn về nông thôn làm việc” đang là một áp lực lớn đối với kinh tế nông thôn. Chất lượng thấp của nguồn nhân lực ở khu vực nông thôn thể hiện qua tỷ lệ không biết chữ là 4,79%, tốt nghiệp trung học phổ thông cơ sở là 34,59% và tốt nghiệp trung học phổ thông là 11,18%. Nếu đánh giá trình độ văn hoá bình quân theo giới tính có thể thấy số năm đi học văn hoá trung bình của khu vực nông thôn thấp hơn thành thị, của phụ nữ thấp hơn nam giới. Theo các nhà nghiên cứu, năng suất lao động sẽ tăng nếu người nông dân có trình độ học vấn ở mức độ nào đó, và nếu tốt nghiệp phổ thông, mức tăng này là 11%. Ngoài ra trình độ học vấn còn cho người lao động khả năng lĩnh hội những kiến thức, kinh nghiệm sản xuất kinh doanh. Với chất lượng của NNL nông thôn Việt Nam như vậy sẽ hạn chế họ trong sản xuất và kinh doanh, đặc biệt là tự tạo việc làm.
Những năm qua trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động nông thôn thay đổi không đáng kể, tình trạng thu nhập thấp và thiếu việc làm ở nông thôn, trong lúc đó thu nhập cao hơn ở các đô thị đã tăng sự dịch chuyển lao động, nhất là những lao động kỹ thuật từ nông thôn tới các thành thị, và làm cho tỷ lệ lao động đã qua đào tạo giảm từ 6,91% xuống còn 5,94%. Trong số 8 vùng nông thôn, những vùng có trình độ học vấn thấp cũng chính là những vùng có tỷ lệ lao động đã qua đào tạo chuyên môn thấp, vùng Tây Bắc chỉ có 2,3%, Tây Nguyên là 3,41%.
Cơ cấu của lao động ở nông thôn Việt Nam thể hiện tính thuần nông. Trong tổng số 13,2 triệu hộ dân ở khu vực nông thôn năm 2001 thì có tới 81% làm việc trong lĩnh vực nông-lâm- thuỷ sản, chỉ có 16,1% làm việc ở khu vực phi nông nghiệp. So với năm 1994, sau 7 năm cơ cấu ngành nghề của các hộ và lao động nông thôn chuyển dịch rất chậm, số hộ trong khu vực nông lâm thuỷ sản giảm 0,65%, bình quân 0,092% /năm. Cơ cấu lao động nông thôn chênh lệch giữa các vùng. Trong 8 vùng của cả nước ngoại trừ vùng Đông Nam Bộ có cơ cấu ngành nghề của các hộ nông thôn khá tiến bộ: 64,2 % nông nghiệp và 35,8% còn lại là phi nông nghiệp. Các vùng Tây Nguyên và vùng núi phía Bắc cơ cấu ngành nghề của các hộ mang tính thuần nông nặng và chuyển dịch rất chậm. Tỷ lệ giữa nông nghiệp và phi nông nghiệp của Tây Nguyên là 91,1% và 7,1%, vùng Đông Bắc là 88,4% và 8,6%, Tây Bắc là 93% và 5,97%. Ngay cả hai vùng trọng điểm nông nghiệp hàng hoá là đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long tuy có lợi thế gần các trung tâm công nghiệp và dịch vụ lớn, nhưng xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động cũng rất chậm và không đều. Vì vậy, lao động dư thừa lại tập trung trong ngành nông nghiệp và khả năng tạo thêm việc làm từ đây là rất khó, vì thế chuyển dịch cơ cấu sẽ là yêu cầu cấp bách trong thời gian tới.
NSLĐ trong nông nghiệp là chỉ tiêu chất lượng phản ánh trình độ sử dụng lao động trong lĩnh vực này, gia tăng NSLĐ là điều kiện cho phép thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động nông nghiệp, nông thôn.
NSLĐ nông nghiệp thấp còn vì lao động ở đây chủ yếu vẫn là lao động thủ công. Khâu làm đất là khâu nặng nhọc nhất thì quá trình cơ giới hoá (CGH) diễn ra chậm, nếu năm 1990 tỷ lệ cơ giới hoá là 21%, năm 1995 là 26% và năm 2002 là khoảng 30%. Một số khâu khác như vận chuyển, ra hạt, bơm tát nước tỷ lệ CGH có sự cải thiện, như khâu ra hạt hiện đã được CGH 80%. Tuy nhiên, việc CGH trong nông nghiệp gặp những khó khăn nhất định, thứ nhất, quy mô ruộng đất vốn nhỏ lẻ, với bình quân ruộng đất ở đồng bằng sông Hồng chỉ có 544m2, và miền Trung là 611m2, lại manh mún tạo việc sử dụng máy móc cơ khí khó khăn và chi phí cao. Thứ hai, do chăn nuôi gia súc như trâu bò nhiều lên làm cho nhu cầu sức kéo giảm. Thứ ba, yêu cầu hiện đại hoá mâu thuẫn với tình trạng lao động dư thừa, nếu 1 ha đất làm thủ công cần 300 ngày công lao động sống, khi là máy chỉ còn sử dụng 50 ngày công.
Các cuộc điều tra lao động đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đều cho thấy đa số các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt nam phải đào tạo lại hoặc đào tạo thêm cho các lao động để họ biết sử dụng các thiết bị, vận hành dây chuyền sản xuất..” Năm 2004 trình độ lao động trong các khu công nghiệp bao gồm: 4,5% số lao động có trình độ đại học; 4,5% có trình độ kỹ thuật viên, 31% có trình độ đã qua đào tạo, 60% có trình độ lao động giản đơn”. Như vậy lao động giản đơn vẫn còn rất phổ biến trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Tổ chức Nghiên cứu rủi ro Môi trường Kinh doanh (BERI) đánh giá chất lượng lao động Việt nam chỉ đạt 32/100 điểm và xếp vào nhóm yếu kém, tay nghề nằm dưới mức về kỹ thuật. Hơn nữa, những nền kinh tế được đánh giá có chất lượng dưới 35 điểm có nguy cơ đánh mất khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới. Như vậy, lao động rẻ nước ta sẽ không còn là yếu tố cạnh tranh trong nền kinh tế mới.
Nguyên nhân của tình trạng này là do nhiều trường dạy nghề của Việt Nam chưa đảm bảo chất lượng, học sinh, sinh viên thiếu điều kiện tiếp xúc với thực hành công nghệ mới và công nghệ cao. Hơn nữa số trường đào tạo nghề cũng không nhiều, chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu về cung ứng lao động cả về chất lượng cũng như số lượng.
5. Nông nghiệp Việt Nam mang nặng tính sản xuất nhỏ, tự cung tự cấp, phân tán thiếu chuyên môn.
Một trong những cản trở lớn đối với CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn nước ta trong nhiều năm qua là tính chất nhỏ lẻ, phân tán của sản xuất hàng hoá. Mặc dù nước ta đã bước đầu hình thành một số vùng sản xuất hàng hoá tập trung quy mô lớn, nhưng chúng chưa thể tạo ra được sự thay đổi căn bản về tính chất sản xuất của cả nền nông nghiệp. Hiện nay, chỉ có các vùng chuyên canh lúa, cao su, cà phê và chè là tương đối ổn định, trong khi đó các vùng chuyên canh khác mới đang trong quá trình hình thành, ít về số lượng, nhỏ về quy mô và chưa ổn định. Các vùng cây ăn quả, chăn nuôi gia súc, gia cầm chủ yếu phát triển dựa trên cơ sở các vùng truyền thống, thiếu sự tác động tích cực của khoa học và công nghệ, trình độ cơ giới hoá thấp, và luôn gặp khó khăn về thị trường. Trong khi đó, công tác quy hoạch phát triển các vùng sản xuất nông nghiệp tập trung lại rất yếu kém. Hàng loạt các quy hoạch sai về sản xuất mía đường, cà phê, nuôi cá lồng bè,… đã gây ra những hậu quả tiêu cực không nhỏ.
Tính chất nhỏ lẻ cũng thể hiện rõ ở quy mô của các chủ thể sản xuất, kinh doanh trong nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Mặc dù các loại hình tổ chức sản xuất, kinh doanh ngày càng được đa dạng hoá do tác động của chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, song số chủ thể là các hộ nông dân vẫn chiếm đa số.
6. Hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách thu hút FDI còn nhiều bất cập, chưa thật sự hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
Hiện nay, các chính sách thu hút đầu tư trong nông nghiệp của Việt Nam còn chưa thực sự hấp dẫn được các nhà kinh doanh từ các quốc gia khác. Một sự so sánh về một số quy định, chính sách giữa các quốc gia có thể cho thấy minh chứng rõ hơn về vấn đề này.
Bảng 6: Chính sách thu hút FDI của một số quốc gia
Tên nước
Loại hình công ty và lĩnh vực hoạt động
Qui định về cấp phép đầu tư
Tiếp cận về đất đai
Chính sách tỉ giá hối đoái và quản lý ngoại tệ
Việt Nam
Mở rộng quyền cho DN tự lựa chọn hình thức đầu tư, cho phép doanh nghiệp 100% vốn FDI, trừ một số lĩnh vực quan trọng và nhạy cảm; doanh nghiệp FDI được chuyển đổi sang công ty cổ phần, được tự do lựa chọn đối tác đầu tư.
Một số lĩnh vực chỉ cần đăng ký đầu tư,còn lại vẫn phải xin phép đầu tư. phân cấp cho địa phương, khu công nghiệp cấp phép đói với dự án vừa và nhỏ
DN không được sở hữu đất, được thuê đất trong khu CN hay thuê mặt bằng kinh doanh theo qui hoạch, được chuyển nhượng, thế chấp vay vốn
Kiểm soát tài khoản vãng lai, áp dụng phí/thuế chuyển tiền ra nước ngoài; yêu cầu xin phép khi chuyển tiền ra nứơc ngoài.
Trung Quốc
DN 100% vốn FDI phải xin phép chỉ ở trong lĩnh vực định hướng xuất khẩu, một số lĩnh vực qui định mức % đầu tư tối thiểu trong nước, DN FDI được chuyển đổi hình thức đầu tư, nhà đầu tư tự do lựa chọn hình thức đầu tư
Yêu cầu có giấy phép đầu tư, phân cấp cho địa phương xét dự án quy mô nhỏ và vừa
không cho phép sở hữu đất, nhà đầu tư gặp khó khăn về địa điểm, đất đai, quyền sử dụng đất đựơc chuyển nhượng, thế chấp vay vốn.
không hạn chế mức chuyển ngoại tệ, vẫn duy trì chính sách kiểm soát tài khoản vãng lai; chuyển tiền ra nước ngoài phải được phép
Philippin
cho phép DN có 100% vốn FDI rộng rãi ở nhiều lĩnh vực, chỉ hạn chế tỷ lệ tối đa vốn FDI một vài lĩnh vực, nhà đầu tư lựa chọn đối tác trong nước.
Chỉ yêu cầu giấy phép nếu muốn hưởng chính sách khuyến khích (trong 3 tuần), còn lại thủ tục đầu tư thực hiện giống như các nhà đầu tư khác ( chỉ phaỉ đăng ký).
DN FDI có trên 40% vốn nước ngoài không được sở hữu đất, mà phải thuê từ công ty bất động sản, FDI có dưói 40% vốn nước ngoài được thuê đất trong 50 năm
Chế độ quản lý ngoại tệ tự do, không hạn chế vốn vay ngoại tệ, mức chuyển ngoại tệ, không định mức lưu ngoại tệ trong tài khoản của DN
Thái lan
Không hạn chế DN FDI đầu tư vào các lĩnh vực, và DN tự lựa chọn hình thức đầu tư, trừ một số rất ít lĩnh vực cấm hay hạn chế FDI
Chỉ yêu cầu giấy phép nếu muốn hưởng chính sách khuyến khích. Nhà đầu tư chỉ phải đăng ký với Bộ thương mại và Cục thuế.
DN FDI được thuê đất 50 năm, sau đó thời hạn tự động kéo dài khi hết hạn, hợp đồng thuê được dùng để thế chấp vay vốn
Chế độ tự do ngoại hối, không hạn chế vay ngoại tệ, chuyển ngoại tệ, lưu ngoại tệ tại tài khoản của DN
Hàn Quốc
Lúc đầu rất khắt khe, nhưng đã thay đổi. Về cơ bản không hạn chế FDI trừ một số ngành công nghiệp nhạy cảm. Nhà đầu tư có thể sở hữu tới 33% vốn của DNNN; được tự do lựa chọn đối tác trong nước.
Trình tự thủ tục khá phức tạp nhưng đã được cải thiện nhiều sau khi xảy ra khủng hoảng tiền tệ khu vực.
DN FDI được thuê đất sở hữu nhà nước trong 50 năm, có thể dùng quyền sử dụng đất để thế chấp vay NH. Tuy nhiên, điều kiện thuận lợi để tiếp cận đất đai vẫn được ưu tiên hơn cho các liên doanh với DN trong nước
Chế độ tự do ngoại hối không hạn chế, vay ngoại tệ, chuyển ngoại tệ, lưu ngoại tệ tại tài khoản của DN
Indonexia
một số ít lĩnh vực cấm DN 100% vốn FDI, tuy nhiên nhà đầu tư được tự do lựa chọn hình thức đầu tư và lĩnh vực đầu tư, trừ một số ít ngành nhạy cảm
Qui trình phức tạp, tình trạng tham nhũng phổ biến trong quá trình cấp phép ĐT, đòi hỏi sự đồng ý của tổng thống nếu dự án trên 100 triệu USD. còn nhiều loại giấy phép sau khi doanh nghiệp đã được cấp phép đầu tư
DN FDI có thể đầu tư vào khu CN để được dế dàng thuê đất, nhưng không dễ; phần lớn là thuê đất trong 30 năm. Quyền sử dụng đất được chuyển đổi, thế chấp để vay vốn
Không có hạn chế đáng kể gì về chế độ ngoại hối
Malaixia
chỉ cho phép DN 100% vốn FDI đối với dự án định hướng XK, còn hạn chế đối với các lĩnh vực khác
Mọi dự án FDI đều phải xin phép (thời hạn 6-8 tuần). Đối với một số dự án đòi hỏi thời gian xem xét dài hơn
DN FDI có thể lựa chọn mua hay thuê đất trong 99 năm, có thể chuyển đổi, thế chấp để vay vốn
Sau khủng hoảng tài chính, đã áp dụng chế độ thu thuế chuyển tiền ra nước ngoài.
Hungary
Không hạn chế gì đối với hình thức và loại hình DN FDI
Không yêu cầu giấy phép, trừ đối với một số lĩnh vực
Có thể mua và sở hữu đất
Chế độ tự do ngoại hối, đồng tiền chuyển đổi.
Balan
Không hạn chế gì đối với hình thức và loại
Không yêu cầu giấy phép, trừ đối với một
Có thể mua và sở hữu đất, tuy
Chế độ tự do ngoại hối, đồng tiền chuyển
Trong các quốc gia trên thế giới, Nam Phi, Mexico, Mỹ, Anh, CH Czech và các nước trong khu vực Châu á là Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan là những nước được nhóm nghiên cứu của Hợp tác Kinh tế Châu á Thái Bình Dương đánh giá là hấp dẫn FDI nhất.
7. Công tác vận động, xúc tiến đầu tư nước ngoài kém hiệu quả.
Không chỉ trong lĩnh vực nông nghiệp có tình trạng này mà FDI trong các ngành đều có tình trạng chung như vậy.
Cuộc cạnh tranh để thu hút vốn FDI giữa các nước trong khu vực đang diễn ra rất quyết liệt; dòng vốn FDI không phải dễ dàng thu hút được; các TNC đang hướng vào những quốc gia có môi trường đầu tư lý tưởng nhất. Do vậy, xúc tiến đầu tư là một công cụ quan trọng để thu hút FDI.
Ở Việt Nam, từ năm 2001 trở lại đây, công tác vận động, xúc tiến đầu tư tiếp tục được cải tiến và hình ảnh của Việt Nam đã được quảng bá qua các cuộc hội thảo quốc tế, các chuyến thăm và làm việc của các lãnh đạo cấp cao của Đảng, Chính phủ ở nhiều nước như Nhật Bản, Trung Quốc, Anh, Pháp, Mỹ, Đức. Việc gắn chặt các hoạt động ngoại giao với hoạt động xúc tiến đầu tư đã có tác động tích cực đối với việc thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế trong công tác xúc tiến đầu tư. Công tác tuyên truyền, quảng bá về hình ảnh của một đất nước Việt Nam, nơi có chính trị-xã hội ổn định và môi trường đầu tư tương đối thuận lợi, lại rất yếu kém. Chẳng hạn như kênh truyền hình VTV4 dành cho người Việt ở nước ngoài không có chuyên mục về cơ hội đầu tư hay những thông tin liên quan đến kêu gọi đầu tư. Điều này cũng gây hạn chế nhiều về cơ hội đầu tư của Việt kiều. Tại các địa phương, vấn đề thu hút đầu tư nước ngoài cũng rất được coi trọng nhưng lại xem nhẹ công tác tuyên truyền, quảng bá về môi trường đầu tư nên số lượng đầu tư vào Việt Nam không được như mong muốn, số lượng các tập đoàn, các công ty có tiếng trên thế giới xuất hiện ở Việt Nam chưa nhiều.
Tất nhiên xúc tiến đầu tư không đơn giản chỉ là các hoạt động tuyên truyền, quảng bá việc mở rộng thị trường nội địa cho các nhà đầu tư nước ngoài; mà là hệ thống các biện pháp tiếp thị tổng hợp của chiến lược quốc gia về sản phẩm, về giá cả, về môi trường đầu tư để thu hút FDI từ các thị trường và đối tác khác nhau.
Việc xúc tiến đầu tư không hiệu quả là do những nguyên nhân chủ yếu như các thông tin được trình bày trong các tài liệu về xúc tiến đầu tư không bao quát được nhu cầu mà nhà đầu tư cần biết, như cơ sở hạ tầng và các chi phí, lao động và giá cả, các tiện ích có sẵn và khả năng tiếp cận một thị trường đầy tiềm năng ; chất lượng của các trang thông tin điện tử kể cả của Bộ Kế hoạch và Đầu tư nói chung là thấp và không được cập nhật thông tin đầy đủ ; các hoạt động xúc tiến đầu tư thường kết hợp với các đoàn ra công tác ở nước ngoài, hoặc được tổ chức Hội thảo tại các thành phố lớn trong nước do lãnh đạo chính quyền tỉnh, thành phố chủ trì, chưa trở thành một hoạt động thường xuyên do các cơ quan chuyên trách thực hiện. Sau khi tiến hành xúc tiến đầu tư cũng chưa tổ chức theo dõi để đánh giá kết quả ; trong một số trường hợp, Hội thảo về xúc tiến đầu tư mang nặng tính hình thức, chỉ để tuyên truyền, quảng bá tiềm năng và thế mạnh của từng địa phương.
8. Một số nguyên nhân khác như
Chưa hình thành một cơ chế gắn kết thường xuyên giữa Bộ và địa phương (Tỉnh) để chọn lựa giới thiệu với các nhà đầu tư nước ngoài các dự án FDI ưu tiên trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn;
Cần có chính sách thu hút đầu tư mạnh hơn nữa vào công nghệ chế biến nông lâm sản, bảo quản sau thu hoạch, tạo cây, con giống có chất lượng cao để đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu;
Các doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn chưa đủ năng lực để chủ động kêu gọi vốn đầu tư nước ngoài theo ý đồ chiến lược phát triển sản phẩm và thị trường của riêng mình.
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG ĐTNN TRONG LĨNH VỰC NÔNG NGHIỆP.
I.MỤC TIÊU:
Thu hút và sử dụng có hiệu quả ĐTNN là giải pháp quan trọng góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Định hướng thu hút ĐTNN trong ngành NN và phát triển nông thôn.
Bảo đảm phù hợp với qui hoạch và cơ cấu kinh tế ngành, vùng, lãnh thổ, qui hoạch vùng nguyên liệu.
Tiết kiệm và nâng cao hiệu quả sử dụng đất.
Sử dụng có hiệu quả nguyên liệu địa phương và tạo thêm công ăn việc làm cho nông dân.
Có tính khả thi cao, nhất là về địa điểm thực hiện thị trường tiêu thụ sản phẩm nguồn cung cấp nguyên liệu.
Kết hợp các dự án có quy mô tương đối lớn, có tác động quan trọng đến nền kinh tế với
nói chung và ngành nông nghiệp nói riêng với các dự án có quy mô vừa ở các địa bàn có
điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn để đảm bảo cơ cấu kinh tế vùng, ngành.
Các ngành hàng/sản phẩm cần thu hút ĐTNN :
Ngành trồng trọt và chế biến nông sản:
Ngành chăn nuôi và chế biến các sản phẩm chăn nuôi
Ngành trồng rừng - chế biến gỗ:
II. KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP VÀ NÔNG THÔN THỜI KỲ 2006 - 2010 VÀ KẾ HOẠCH THU HÚT SỬ DỤNG FDI ĐẾN NĂM 2010 VÀ NHỮNG NĂM TIẾP THEO.
1. Kế hoạch phát triển nông nghiệp và nông thôn thời kỳ 2006 - 2010.
1.1. Về sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp.
Phấn đấu đạt chỉ tiêu tăng giá trị sản xuất nông nghiệp hàng năm 4 - 4,5%. Hoàn chỉnh quy hoạch các vùng sản xuất hàng hóa tập trung gắn với chế biến và thị trường tiêu thụ, đặc biệt là thị trường xuất khẩu. Phát triển mạnh các loại sản phẩm có lợi thế, có tiềm năng và có thị trường tiêu thụ. Tiếp tục chuyển một phần diện tích trồng lúa và các cây trồng có năng suất thấp, thị trường khó khăn sang nuôi trồng thủy sản với các cây trồng khác nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao hơn.
Quy hoạch xây dựng các vùng rừng nguyên liệu gắn với các cơ sở chế biến bột giấy, giấy, ván nhân tạo, gỗ gia dụng... áp dụng phương thức quản lý rừng bền vững tạo lâm phần ổn định lâu dài. Đẩy nhanh tiến độ trồng rừng kinh tế hiệu quả cao. Tiếp tục triển khai việc tăng cường các biện pháp bảo vệ rừng hiện có.
Đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ( CNH - HĐH ) ngành muối, nhân rộng mô hình sản xuất muối sạch, tạo ra năng suất, chất lượng cao, tiến tới không nhập khẩu muối nguyên liệu công nghiệp.
Có kế hoạch về các biện pháp phòng, chống thiên tai như lũ lụt, hạn hán, cháy rừng...
1.2. Về phát triển công nghiệp nông thôn:
Tập trung phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản vào những mặt hàng xuất khẩu chủ lực, có thế mạnh cạnh tranh quốc tế như: gạo, cà phê, cao su, chè, hạt điều, và một số loại rau quả, bảo đảm nhịp độ tăng trưởng không thấp hơn 12%/năm.
Đối với chế biến lâm sản, tập trung đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ ở các cơ sở hiện có, khuyến khích xây dựng mới một số máy chế biến lâm sản có giá trị tăng cao. Tạo điều kiện với hỗ trợ các cơ sở sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ và phát triển cơ sở chế biến lâm đặc sản, nhựa thông, cánh kiến, quế hồi. Có chính sách hỗ trợ tích cực để phát triển các làng nghề, khuyến khích các hộ gia đình, tư nhân hợp tác xã, doanh nghiệp vừa và nhỏ đầu tư phát triển đa dạng các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và tham gia dịch vụ chế biến, dịch vụ tiêu thụ sản phẩm sau thu hoạch... Thực hiện xã hội hóa dịch vụ ở nông thôn, thu hút sự tham gia của mọi thành phần kinh tế. 1.3. Về phát triển nông thôn:
Tiếp tục triển khai thực hiện các biện pháp đặc biệt hỗ trợ cho các vùng nông thôn còn nhiều khó khăn, thực hiện các chương trình xóa đói giảm nghèo, tạo việc làm, các chương trình 135, nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn; lồng ghép các chương trình trên từng địa bàn để đạt hiệu quả cao hơn. Tiếp tục huy động các nguồn vốn để đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng nông thôn; ưu tięn các công trình có hiệu quả thiết thực phục vụ sản xuất và đời sống của nông dân....
1.4. Về khoa học công nghệ và đào tạo:
Xây dựng hệ thống nghiên cứu khoa học công nghệ nông nghiệp mạnh và đồng bộ đủ khả năng tiếp thu, làm chủ khoa học công nghệ hiện đại, tạo ra ngày càng nhiều các tiến bộ kỹ thuật có chất lượng cao đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn. Đồng thời, đổi mới cơ chế quản lý khoa học, gắn khoa học với sản xuất. Trong 5 năm tới việc nghiên cứu khoa học nông nghiệp cần tập trung vào chọn tạo các giống cây, con có năng suất, chất lượng cao phù hợp với các vùng; các biện pháp thâm canh cây trồng, nuôi dưỡng gia súc, công nghệ sau thu hoạch, những vấn đề kinh tế, quản lý trong cơ chế thị trường. Tăng cường hệ thống khuyến nông, lấy đây làm động lực để đẩy mạnh việc ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ mới. Mỗi Viện, Trường phải xây dựng điểm trình diễn công nghệ mới, công nghệ cao. Với các trường hướng vào nội dung phát triển nguồn nhân lực cho CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Đa dạng hóa đối tượng đào tạo, ưu tiên đào tạo nghề cho lao động nông thôn; nghiệp vụ quản lý cho cán bộ HTX, chủ trang trại, chủ doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn. Tăng cường công tác thú y, bảo vệ thực vật, hệ thống quản lý chất lượng vật tư nông nghiệp; kiểm soát chặt chẽ việc sản xuất, kinh doanh và sử dụng hóa chất, thuốc trừ sâu, thuốc thú y và phân bón. 1.5. Tăng cường công tác thị trường tiêu thụ nông sản trên cơ sở hội nhập kinh tế quốc tế:
Chú trọng mở rộng thị trường nội địa, nhất lŕ thị trường nông thôn, miền núi, tạo mối liên kết chặt chẽ giữa các vùng trong cả nước. Tổ chức các hội chợ, triển lãm, quảng cáo, giới thiệu sản phẩm, chắp nối bạn hàng và đối tác kinh doanh, thúc đẩy lưu thông hàng hóa trong nước. Tạo điều kiện thuận lợi với khuyến khích thương mại tư nhân cùng HTX tạo thành mạng lưới đại lý tiêu thụ chủ yếu và là đối tác cơ bản ký kết hợp đồng với doanh nghiệp trong việc tiêu thụ nông sản, cung ứng vật tư nông nghiệp và hàng hóa tiêu dùng trên địa bàn nông thôn. Tập trung triển khai các cam kết với ASEAN trong lĩnh vực nông nghiệp, nhất là an ninh lương thực, xúc tiến thương mại, thú y, bảo vệ thực vật, lâm nghiệp, thực hiện các cam kết với WTO về nông nghiệp, kiểm dịch động thực vật, thú y với các nước nhập khẩu nông sản của Việt Nam. Hỗ trợ với hướng dẫn các doanh nghiệp mở rộng thị trường xuất khẩu nông lâm sản, tổ chức các hoạt động xúc tiến thương mại, xây dựng với quản lý chất lượng nông sản hàng hóa, hướng dẫn các doanh nghiệp đăng ký với bảo vệ thương hiệu hàng hóa. Tăng cường công tác thông tin và dự báo thị trường để đáp ứng yêu cầu định hướng đầu tư với phát triển sản xuất của các doanh nghiệp, nông dân.
1.6. Định hướng đầu tư xây dựng cơ bản với quản lý đầu tư:
Trong 5 năm tới, nguồn vốn đầu tư từ ngân sách với các nguồn khác vẫn còn nhiều khó khăn. Vì vậy, kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản 5 năm 2006 - 2010 phải được tiếp tục điều chỉnh theo hướng đầu tư có trọng tâm, trọng điểm. Hướng đầu tư vẫn tiếp tục ưu tiên cho các chương trình, dự án chọn tạo, nhân giống cây tồng, vật nuôi, giống cây lâm nghiệp; nâng cấp các cơ sở nghiên cứu khoa học, các trường đào tạo, các dự án ĐCĐC, Chương trình 135, Chương trình nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn, Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng. Bố trí đủ vốn đối ứng cho các dự án có vốn đầu tư nước ngoài, hỗ trợ xuất khẩu, hỗ trợ các hoạt động xúc tiến thương mại, těm kiếm mở rộng thị trường xuất khẩu, tăng cường công tác thông tin thị trường. Về thủy lợi, ưu tiên bố trí vốn đầu tư để tu bổ các hệ thống đê, các công trình có thể sớm hoàn thành và đi vào sử dụng sẽ có hiệu quả cao. Tiếp tục chấn chỉnh quản lý đầu tư và xây dựng bằng nguồn vốn Nhà nước, bảo đảm kỷ cương trong công tác xây dựng và thực hiện quy hoạch; làm tốt công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá đầu tư trong phạm vi Ngành ở tất cả các cấp, các đơn vị, kịp thời phát hiện và xử lý những hành vi vi phạm quy định về quản lý đầu tư.
II. KẾ HOẠCH THU HÚT SỬ DỤNG FDI ĐẾN NĂM 2010.
Dự thảo Kế hoạch Nông nghiệp và nông thôn thời kỳ 2006 – 2010 đã xác định, kế hoạch huy động vốn đầu tư phát triển của toàn ngày là 144.790 tỷ đồng, trong đó, vốn ĐTNN chiếm tỉ lệ 11% nhằm góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế nông thôn theo hướng sản xuất hàng hoá mạnh, đa dạng và bền vững.
KHUYẾN NGHỊ VỀ CHÍNH SÁCH.
Qua nghiên cứu, một số nhóm chính sách sau được đưa ra nhằm nâng cao hiệu quả thu hút ĐTNN trong ngành :
- Nhóm giải pháp thứ nhất: Nâng cao hiệu quả và chất lượng công tác xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển của từng ngành/sản phẩm theo hướng gắn kết với mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp phát triển đặt ra trong Kế hoạch phát triển nông nghiệp và nông thôn thời kỳ 2006-2010 cũng như Chiến lược thu hút, sử dụng ĐTNN đến năm 2010 và những năm tiếp theo. Căn cứ các quy hoạch nói trên, các ngành, địa phương cần xây dựng các Danh mục dự án ưu tiên gọi vốn ĐTNN với các thông tin cụ thể về mục tiêu, địa điểm, công suất và đối tác Việt Nam để làm cơ sở cho việc tổ chức các chương trình vận động đầu tư.
Cần xác định lĩnh vực ưu tiên
Với những vấn đề trên, mục tiêu huy động 1, 5 tỷ USD vốn FDI cho nông -lâm -ngư nghiệp giai đoạn 2006-2010 xem ra khó đạt nếu không sớm tìm ra những giải pháp kịp thời. ông Lê Hồng Thái, Vụ trưởng Vụ Kinh tế Nông nghiệp (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) cho rằng: “Để đạt được mục tiêu này, ngoài việc tiếp tục hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách phát triển nguồn nhân lực, chúng ta phải xác định lĩnh vực ưu tiên thu hút vốn FDI”.
Cụ thể, nguồn vốn ngân sách, vốn viện trợ phát triển (ODA) sẽ được tập trung đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, triển khai các dự án đào tạo nghề cho nông dân, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ nhằm nâng cao trình độ của lao động nông nghiệp, chất lượng, sản lượng của nguồn nguyên liệu nông sản trước khi chế biến, xuất khẩu.
Còn các doanh nghiệp FDI được khuyến khích đầu tư chủ yếu vào ngành chế biến nông lâm sản, trồng rừng - chế biến gỗ, chăn nuôi - sản xuất thức ăn gia súc. Đây được coi là những điểm đột phá nhằm nâng cao giá trị xuất khẩu của nông sản Việt Nam, giảm dần tình trạng xuất thô và tạo lực đẩy cho việc phát triển các vùng sản xuất nông, lâm sản quy mô lớn với chất lượng cao. Ngành còn chú trọng kêu gọi FDI đầu tư vào các dự án phát triển công nghệ sinh học trong nông nghiệp, lai tạo giống cây trồng, vật nuôi mới, trồng chế biến các loại rau, quả xuất khẩu bằng công nghệ kỹ thuật cao để mặt hàng nông sản Việt Nam có thương hiệu trên thị trường quốc tế, mang lại hiệu quả kinh tế cao, là một trong những mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu lớn nhất.
- Nhóm giải pháp thứ hai: Hoàn thiện cơ chế, chính sách về khuyến khích ĐTNN,
Cần đưa các hành động thu hút FDI vào chiến lược kế hoạch 5 năm của ngành. Cụ thể, các đơn vị của bộ, các sở, tổng công ty cùng tham gia xây dựng các dự án trọng điểm; phát triển hệ thống quản lý FDI trong ngành, bao gồm cả cơ chế hình thành danh mục ưu tiên thu hút FDI và hệ thống hỗ trợ xúc tiến đầu tư, trong đó cần xây dựng hệ thống tổ chức, xây dựng thể chế, quy trình công tác, tăng cường năng lực vận hành. Hay nói cách khác, ngành nông nghiệp cần đổi mới chính mình để nhà đầu tư có thể nhìn thấy tiềm năng.
Để cải thiện môi trường đầu tư, tạo sự thuận lợi cho các nhà đầu tư tiếp cận rộng rãi hơn với các cơ hội đầu tư và thị trường hàng hóa và dịch vụ , tạo sự thuận lợi, minh bạch, an toàn và bình đẳng cho các nhà đầu tư.
Nâng cao hiệu quả quản lý và điều hành của Nhà nước trong lĩnh vực FDI theo hướng tiếp tục cải tiến thủ tục cấp giấy phép, khắc phục sự trì trệ trong các cơ quan quản lý Nhà nước, đơn giản hóa thủ tục hành chính theo nguyên tắc “một cửa, một đầu mối”. Thực hiện phân cấp quản lý Nhà nước về FDI cho các địa phương trên cơ sở bảo đảm thống nhất về quy hoạch, chính sách và cơ chế quản lý.
Chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư; hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến hoạt động thu hút FDI, như xây dựng hệ thống pháp luật hấp dẫn, có tính cạnh tranh cao, hoàn thiện hệ thống pháp lý chung về kinh tế để tạo lập môi trường kinh doanh bình đẳng. Thực hiện đa dạng hóa các hình thức hoạt động FDI, đẩy mạnh việc thí điểm cổ phần hóa doanh nghiệp FDI.
Chính sách phát triển thị trường vốn và tín dụng đầu tư;
Chính sách thương mại và thị trường; hoàn thiện và triển khai có hiệu quả các chính sách về thuế và ưu đãi tài chính, chính sách về cơ cấu đầu tư, chính sách đất đai. Tiếp tục thực hiện việc giảm chi phí đầu tư, điều chỉnh giá các loại hàng hóa dịch vụ như viễn thông, vận tải... thực hiện miễn, giảm tiền thuê đất trong một số năm để tạo thuận lợi cho doanh nghiệp đầu tư sản xuất kinh doanh.
Chính sách phát triển nguồn nguyên liệu; nguồn nhân lực: , tập trung các nguồn lực tăng cường năng lực đào tạo của hệ thống cơ sở đào tạo. Đẩy mạnh đào tạo ở tất cả các cấp: sau đại học, đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề, trong đó chú trọng đào tạo nghề ngắn hạn cho nông dân.
Các địa phương khi xem xét, phê duỵệt dự án ĐTNN cần có kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực cụ thể.
Ngoài ra, ngành sẽ tiếp tục củng cố và hoàn thiện việc đào tạo các ngành nghề truyền thống trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn: trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản… Các ngành nghề phi nông nghiệp, đặc biệt là các ngành nghề phục vụ cho ĐTNN như: chế biến nông, lâm, thuỷ hải sản, cơ điện nhỏ, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ nông nghiệp sẽ có chương trình đào tạo bám sát các định hướng ĐTNN. Đặc biệt, các hộ nghèo, hộ phải chuyển đổi mục đích sử dụng đất cho ĐTNN cũng được ưu tiên, bố trí học nghề.
Chú trọng đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học, thực hành tiên tiến, đồng thời đào tạo bồi dưỡng đội ngũ giáo viên giỏi, có khả năng nắm bắt nhanh tiến bộ khoa học công nghệ và có năng lực chuyển tải kiến thức tới người học.
- Nhóm giải pháp thứ ba: Tăng cường, nâng cao hiệu quả công tác vận động, xúc tiến ĐTNN theo hướng:
· coi việc hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi để triển khai có hiệu quả các dự án ĐTNN đã được cấp Giấy phép đầu tư là biện pháp tốt nhất để xây dựng hình ảnh, nâng cao sự hiểu biết của nhà đầu tư nước ngoài về sức hấp dẫn và cạnh tranh của ĐTNN trong lĩnh vực NLN-NT ở Việt Nam;
· nhanh chóng xây dựng kế hoạch và chương trình vận động đầu tư cụ thể ở trong
nước và ngoài nước, tập trung vào các các ngành /dự án và đối tác đầu tư trọng điểm cần thu hút ĐTNN;
· bố trí đủ ngân sách cho hoạt động xúc tiến đầu tư như một khoản chi riêng thuộc
kinh phí ngân sách chi thường xuyên hàng năm của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn;
· xem xét xây dựng Quỹ xúc tiến đầu tư trong lĩnh vực này trên cơ sở ngân sách Nhà nước cấp (trích từ nguồn thu của khu vực ĐTNN), kết hợp với huy động đóng góp của các tổ chức, doanh nghiệp;
· triển khai nghiên cứu tiềm năng đầu tư của các nước /vùng lãnh thổ đầu tư vào lĩnh vực này để có chính sách, cơ chế vận động thích hợp;
· đổi mới và nâng cao chất lượng các ấn phẩm tuyên truyền ĐTNN nói chung và đầu tư trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp nói riêng (bao gồm Sách hướng dẫn đầu tư, Danh mục dự án gọi vốn ĐTNN....) nhằm tạo sức hấp dẫn ban đầu của nhà đầu tư nước ngoài.
Những giải pháp này cần được thực hiện thường xuyên, liên tục và cần đặt trong tổng thể chính sách phát triển NLN&NT nói chung. Tuy nhiên, trong thời gian trước mắt, cần thực hiện ngay các bước tiếp theo dưới đây:
· Rà soát và hoàn thiện quy hoạch từng ngành/sản phẩm;
· Hoàn thiện Danh mục và Tóm tắt dự án gọi vốn ĐTNN (theo Phụ lục 1 kèm theo Báo cáo nghiên cứu);
· Bố trí ngân sách cho hoạt động xúc tiến đầu tư;
· Nghiên cứu tiềm năng đầu tư của các nước /vùng lãnh thổ;
· Tổ chức các chương trình vận động đầu tư ở nước ngoài;
· Soạn thảo các tài liệu, ấn phẩm tuyên truyền đầu tư trong lĩnh vực NLN-NT.
KẾT LUẬN :
Dự thảo Kế hoạch Nông nghiệp và nông thôn thời kỳ 2006 – 2010 đã xác định, kế hoạch huy động vốn đầu tư phát triển của toàn ngày là 144.790 tỷ đồng, trong đó, vốn ĐTNN chiếm tỉ lệ 11% nhằm góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế nông thôn theo hướng sản xuất hàng hoá mạnh, đa dạng và bền vững. Với các giải pháp đồng bộ, tổng thể, cùng với những định hướng chính sách đúng đắn của Nhà nước, có lẽ mục tiêu 11% sẽ không quá khó để đạt được.
Phụ lục : Thực trạng của một số công ty nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực nông lâm nghiệp tại Việt Nam.
1. Công ty Đà Lạt Hasfarm
Đà Lạt Hasfarm là một công ty 100% vốn Hà Lan, được thành lập tại Đà Lạt năm
1994. Hiện nay, dự án chính của công ty là đầu tư công nghệ cao để trồng hoa, quản lý ánh sáng, sức gió, và các yếu tố khí hậu khác trong nhà kính. Như vậy, thực chất công việc trồng hoa của công ty mang nhiều tính công nghiệp hơn là nông nghiệp và cũng chịu ít rủi ro về thiên tai hơn.
Khó khăn doanh nghiệp gặp phải trong quá trình đầu tư
Thủ tục hành chính
Thủ tục hành chính được đối tượng phỏng vấn tả là “kinh khủng”, đặc biệt là ở khâu nhập giống qua cục bảo vệ thực vật. Mỗi năm, doanh nghiệp nhập giống khoảng 5 đến 6 lần. Nếu nhập với số lượng ít (vài nghìn củ) thì không đủ để trồng. Còn nhập nhiều (khoảng 1 vạn củ) thì phải nhiều khó khăn về thủ tục, thời gian nhập vào. Hơn nữa, giống nhập về bị tắc ở cửa khẩu phải trữ lại ở kho lạnh do công ty tự bỏ tiền ra thuê.
Đầu vào
Doanh nghiệp không gặp nhiều khó khăn về đầu vào, vì các nguyên liệu, công nghệ đều được nhập từ phía Hà Lan. Doanh nghiệp cũng không gặp khó khăn về vay vốn như nhiều doanh nghiệp nhỏ vì có hội nghị cổ đông lớn và cũng vay vốn ở nước ngoài chứ không phải ở Việt Nam. Ngoài ra, doanh nghiệp cũng được sự hỗ trợ rất nhiều từ phía tỉnh Lâm Đồng ngay từ khi bắt đầu bước chân vào Việt Nam. Lượng nhân công thì
rất dồi dào, là một lợi thế lớn của việc đầu tư vào Việt Nam.
Tuy nhiên, Đà Lạt Hasfarm hiện có hai khó khăn về thuê đất và thiên tai. Khó khăn thứ nhất là về đất đai. Đà Lạt Hasfarm rất muốn có thêm đất ở Đà Lạt, nhưng giá đất quá đắt. Các khoảng đất rộng cũng không còn nữa mà chỉ còn đất nhỏ của dân. Khó khăn thứ hai là về thuỷ lợi. Cách đây vài năm, Đà Lạt xảy ra hạn hán. 2 hồ tự đào của doanh nghiệp đều cạn khô nước nhưng không nhận được hỗ trợ. Tuy nhiên, đây chỉ là vấn đề về thuỷ lợi, còn doanh nghiệp vẫn nhấn mạnh sự ủng hộ nhiệt tình của tỉnh Lâm Đồng nói chung Tuy nhiên, đến cả khi doanh nghiệp đã chuyển sang trồng hoa rồi mà vẫn gặp phải sự cạnh tranh không lành mạnh của người dân là “sao chép” giống. Đây là vấn đề khó khăn nhất của doanh nghiệp hiện tại. Người dân không có hợp đồng với doanh nghiệp nhưng vẫn tự lấy giống về trồng, gây nhiều bất bình. Chẳng hạn, cúc của Đà Lạt Hasfarm hiện tại đang bị “sao chép” hầu hết tất cả các chủng loại. Hoa cúc của người dân trồng chỉ kém của doanh nghiệp ở điểm là tung ra thị trường chậm hơn, vì họ còn mất thời gian để nhân giống.
Tại nước ta, vấn để bảo vệ bản quyền chưa được chú trọng đích đáng, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp. Bên cạnh đó, trình độ dân trí vẫn còn thấp nên chưa nhận biết được sự sai trái của việc “sao chép” giống. Hiện tại, đây chưa phải là vấn đề cấp bách vì thị trường tiêu thụ Việt Nam còn đang phát triển rất nhanh, cạnh tranh còn chưa gắt gao. Tuy nhiên, về lâu dài, nếu Việt Nam muốn thu hút được đầu tư nước ngoài, cần phải chú trọng đến những vấn đề như trên. Ngoài tìm cách xử lý những tình trạng vi phạm bản quyền, một khâu còn quan trọng hơn nữa là nâng cao dân trí, để người dân dần dần nhận thức được tầm quan trọng của bản quyền.
Riêng với Đà Lạt Hasfarm thì biện pháp tạm thời giải quyết được hành vi copy giống này là khoán sản phẩm cho dân trồng để dân bán lại sản phẩm cho doanh nghiệp sau khi thu hoạch. Tuy nhiên, biện pháp này chỉ khả thi trong những ngày thường. Trong các dịp lễ đặc biệt, khi giá khi tăng lên 3, 4 lần, thì việc người dân bán hoa ra ngoài xảy ra rất thường xuyên. Vì vậy, muốn biện pháp này có hiệu quả thì doanh nghiệp sẽ phải chọn rất cẩn thận những hộ đáng tin cậy để khoán giống. Công ty còn chịu sự cạnh tranh khá mạnh từ hàng Trung Quốc trốn thuế. Hoa trốn thuế rẻ hơn của Hasfarm, nhưng không bền bằng. Tuy nhiên, hoa vẫn khá đẹp, và nhìn bề ngoài khó phân biệt được, nên người dân vẫn mua nhiều.
2. Bà Beatrice Tauziede.
Tuỳ viên thương mại Pháp – Lĩnh vực nông nghiệp và thực phẩm
Đại sứ quán Pháp tại Việt Nam
Bà Tauziede là tuỳ viên thương mại trong lĩnh vực nông nghiệp và thực phẩm. Vì vậy, bà nắm khá rõ tình hình chung của các doanh nghiệp nông nghiệp của Pháp ở Việt Nam. Theo bà, các doanh nghiệp nước ngoài nói chung và các doanh nghiệp Pháp nói riêng, có những khó khăn sau, khi đầu tư vào nông nghiệp Việt Nam:
Đầu vào không ổn định
Nông nghiệp là ngành có nhiều rủi ro nhất, mà mỗi rủi ro này lại gây ảnh hưởng rất lớn đến kết quả kinh doanh. Ở Việt Nam, một trong những rủi ro lớn nhất là tình hình cung cấp nguyên liệu từ nông dân. Vì chưa có các vùng chuyên canh, nông dân vẫn chạy theo lợi nhuận và đổi cây trồng tuỳ theo thời vụ chứ không phải theo hợp đồng lâu dài với các doanh nghiệp. Lý do nông dân không ổn định với một cây trồng là vì chưa có động lực đủ mạnh để bù lại được khoản lợi nhuận họ có thể có được nếu chuyển sang giống mới. Ngoài ra, họ cũng không có đủ thông tin thị trường để quyết định trồng cây gì có lợi lâu dài hơn.
Rất nhiều công ty đang chịu hậu quả của việc nhập nguyên liệu manh mún này. Cụ thể là công ty mía đường Bourbon. Công ty hiện nay đang gặp rất nhiều khó khăn vì không có đủ mía để sản xuất. Ngoài ra một số công ty sản xuất thức ăn gia súc, như ngô, đậu tương, v.v. cũng chịu hoàn cảnh tương tự. Vì vậy, rất nhiều nguyên liệu vẫn phải nhập từ nước ngoài. Nguồn tài nguyên thiên nhiên của Việt Nam như vậy là chưa được tận dụng triệt để. Trong khi đó, ngành nông nghiệp vốn đã nhiểu rủi ro, nay còn nhiều rủi ro hơn.
Một giải pháp có thể có hiệu quả để làm giảm rủi ro về đầu vào này là khoanh vùng chuyên canh. Tuy nhiên,nông dân sẽ chịu rủi ro. Mỗi khi thiên tai mất mùa hay giá cả biến động, nông dân có thể trắng tay. Vì vậy, việc chọn vùng chuyên canh có điều kiện thời tiết phù hợp và ít thiên tai là rất quan trọng. Ngoài ra, cũng nên có những biện pháp bảo đảm đầu ra cho người dân.
Cơ sở hạ tầng thấp
Cơ sở hạ tầng cho ngành nông nghiệp chế biến vẫn còn quá thấp. Vì vậy, việc xuất khẩu vẫn còn khó khăn. Đây là vấn đề quan trọng không kém vấn đề về đầu ra.
Các vấn đề khác
Các thủ tục hành chính còn rất rườm rà, gây nhiều cản trở cho doanh nghiệp. Nguyên nhân của sự rườm rà này là do chính sách còn nhiều mâu thuẫn chồng chéo nhau và do trình độ, năng lực của cán bộ. Tuy nhiên, việc phải đi qua các khâu hành chính rắc rối không phải là một vấn để bức thiết của các doanh nghiệp nước ngoài. Lý do có lẽ là họ có một số vốn khá lớn, trong khi giá trị đồng Việt Nam lại thấp, nên việc tốn một chút tiền để lo thủ tục hành chính trót lọt không phải quá khó khăn.
Quyết định đầu tư vào Việt Nam
Trước khi quyết định đầu tư vào Việt Nam, các doanh nghiệp nước ngoài đã tìm hiểu về môi trường đầu tư nước ta bằng một số cách. Cách thứ nhất là từ các doanh nghiệp nước ngoài khác đã đầu tư ở Việt Nam. Cách thứ hai là từ đại sứ quán của họ ở Việt Nam. Đại sứ quán có thể cung cấp các thống kê cơ bản của Việt Nam, những thủ tục phải qua khi đầu tư vào Việt Nam, hoặc có thể hướng dẫn cách tìm thông tin về Việt Nam. Thường thì các thông tin này được tìm ở các website của các bộ. Việc các bộ ngành có website bằng tiếng Anh là một bước tiến rất lớn trong việc thúc đẩy đầu tư nước ngoài, vì các website này là điểm khởi đầu của đầu tư. Các bộ ngành nên tiếp tục cập nhật trang web của mình để giúp cho việc nghiên cứu môi trường đầu tư của các doanh nghiệp được thuận lợi nhất.
Mặc dù có những khó khăn kể trên trong việc đầu tư vào nông nghiệp, Việt Nam vẫn có rất nhiều thuận lợi cho đầu tư. Thứ nhất, lao động ở Việt Nam rất rẻ nên chi phí sản xuất của các doanh nghiệp thấp đi nhiều. Thứ hai, trình độ dân trí của Việt Nam khá cao, nên việc đào tạo nhân công cũng dễ dàng hơn nhiều nước khác. Thứ ba, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đang rất lớn, vì vậy việc tìm đầu ra cho sản phẩm không khó. Sức tiêu thụ của Việt Nam đang phát triển rất nhanh, nên thị trường đang không có quá nhiều cạnh tranh. Điều kiện thứ tư cũng không kém quan trọng là Việt Nam nằm ngay cạnh Trung Quốc và các nước Đông Nam Á khác, là những nước cũng đang có tốc độ phát triển rất nhanh. Vì vậy, việc xuất khẩu cũng thuận lợi. Một yếu tố nữa rất quan trọng trong quyết định đầu tư vào Việt Nam là tình hình chính trị rất ổn định ở nước ta. Đây là điểm làm cho việc đầu tư vào Việt Nam hấp dẫn hơn những nước như Indonesia rất nhiều. Hơn nữa, chính phủ Việt Nam cũng đang rất cố gắng trong việc mở rộng thị trường và thu hút đầu tư.
Nhìn chung, môi trường đầu tư ở Việt Nam đang rất thuận lợi. Đại sứ quán Pháp vừa tổ chức một cuộc họp cho 30 nước lớn, và họ đều rất lạc quan về đầu tư vào Việt Nam. Trong thời gian tới, việc Việt Nam gia nhập AFTA sẽ có rất nhiều ảnh hưởng đến môi trường đầu tư của nước ta. Một mặt, Việt Nam sẽ đối mặt với rất nhiều đối thủ cạnh tranh, nhưng mặt khác, việc mở cửa kinh tế này sẽ giúp Việt Nam thu hút được rất nhiều đối tác đầu tư. Vì vậy, để duy trì tăng trưởng kinh tế, Việt Nam nên có những biện pháp khắc phục những vấn đề kể trên, và phát huy thế mạnh vốn có.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH.
------------------------------------
1. Tổng quan các nghiên cứu về môi trường đầu tư nông thôn Việt Nam, tháng 11/2005( Bộ NN và PTNT- viện chính sách chiến lược NT và PTNT).
2. Bản tổng hợp khuyến nghị chính sách ( PAB) số 4 , tác giả Trần Hào Hùng tháng 10/ 2006.
3.Bộ Kế hoạch và Đầu tư, dự thảo Báo cáo kế hoạch phát triển nông nghiệp và nông thôn thời kỳ 2006-2010, Hà Nội, tháng 1/ 2005.
4.Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các báo cáo về ĐTNN trong ngành trồng trọt, chăn nuôi, chế biến nông, lâm, thuỷ sản, Hà NộI, tháng 7/2005.
5.Bộ Kế hoạch và Đầu tư, dự thảo chiến lược thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020, Hà NộI, tháng 11/2004.
6. Những chủ trương và biện pháp mới trong giai đoạn 2006 - 2010 về công nghiệp hóa , hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn. ( CIEM).
7. ĐTTT nước ngoài trong lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp hiện nay, thực trạng và những vấn đề đặt ra. (Con sô và sự kiện tháng 3/2004).
Một số trang báo điện tử khác.
Trang web của bộ kế hoạch đầu tư: mpi.gov.vn/
Bộ NN và PTNT: www.agroviet.gov.vn/
Tổng cục thống kê : www. gso.gov.vn/
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- DA115.docx