Tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp để nâng cao hiệu quả kinh doanh đối ngoại của các ngân hàng thương mại Việt Nam: 1
…………..o0o…………..
Đề tài : “Thực trạng và giải pháp để nâng cao hiệu
quả kinh doanh đối ngoại của các ngân hàng thương
mại Việt Nam”
2
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
Chương 1 THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI CỦA VIỆT NAM
HIỆN NAY 4
1.1. THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI CỦA VIỆT NAM QUA
CÁC THỜI KỲ 4
1.1.1. Thời kỳ trước 1989 4
1.1.2. Thời kỳ từ năm 1989 đến năm 1999 6
1.1.3 Giai đoạn từ 1999 đến nay 10
1.2 ĐÁNH GIÁ ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ HỐI DOÁI CỦA VIỆT
NAM 19
1.2.1 Thời kỳ trước năm 1989 19
1.2.2 Thời kỳ từ 1989 đến nay 20
Chương 2 ẢNH HƯỞNG CỦA BIẾN ĐỘNG TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI TỚI HOẠT
ĐỘNG KINH DOANH NGOẠI TỆ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 24
2.1 ẢNH HƯỞNG CỦA BIẾN ĐỘNG TỶ GIÁ HỐI DOÁI TỚI HOẠT ĐỘNG
KINH DOANH NGOẠI TỆ CỦA NHTM 24
2.2 ẢNH HƯỞNG CỦA BIẾN ĐỘNG TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI TỚI HOẠT ĐỘNG
KINH DOANH NGOẠI TỆ CỦA NHTMCP ĐẠI DƯƠNG (OCEANBANK) 26
2.2.1 Giới thiệu chung về Ngân hàng TMCP Đại Dương 26
2.2.2 Kết quả hoạt động kinh doanh của ...
47 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1270 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp để nâng cao hiệu quả kinh doanh đối ngoại của các ngân hàng thương mại Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
…………..o0o…………..
Đề tài : “Thực trạng và giải pháp để nâng cao hiệu
quả kinh doanh đối ngoại của các ngân hàng thương
mại Việt Nam”
2
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
Chương 1 THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI CỦA VIỆT NAM
HIỆN NAY 4
1.1. THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI CỦA VIỆT NAM QUA
CÁC THỜI KỲ 4
1.1.1. Thời kỳ trước 1989 4
1.1.2. Thời kỳ từ năm 1989 đến năm 1999 6
1.1.3 Giai đoạn từ 1999 đến nay 10
1.2 ĐÁNH GIÁ ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ HỐI DOÁI CỦA VIỆT
NAM 19
1.2.1 Thời kỳ trước năm 1989 19
1.2.2 Thời kỳ từ 1989 đến nay 20
Chương 2 ẢNH HƯỞNG CỦA BIẾN ĐỘNG TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI TỚI HOẠT
ĐỘNG KINH DOANH NGOẠI TỆ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 24
2.1 ẢNH HƯỞNG CỦA BIẾN ĐỘNG TỶ GIÁ HỐI DOÁI TỚI HOẠT ĐỘNG
KINH DOANH NGOẠI TỆ CỦA NHTM 24
2.2 ẢNH HƯỞNG CỦA BIẾN ĐỘNG TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI TỚI HOẠT ĐỘNG
KINH DOANH NGOẠI TỆ CỦA NHTMCP ĐẠI DƯƠNG (OCEANBANK) 26
2.2.1 Giới thiệu chung về Ngân hàng TMCP Đại Dương 26
2.2.2 Kết quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng TMCP Đại Dương 32
2.2.3 Ảnh hưởng của biến động tỷ giá tới hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại Ngân
hàng TMCP Đại Dương 39
2.2.3.1 Thực trạng kinh doanh ngoại tệ của Ngân hàng 39
Chương 3 GIẢI PHÁP THÍCH ỨNG CỦA NHTM TRƯỚC BIẾN ĐỘNG TỶ GIÁ
HIỆN NAY 47
3.1 GIẢI PHÁP TỔNG THỂ 48
3
3.1.1. Giải pháp về tổ chức và nhân sự 48
3.1.1.1 Điều chỉnh lại chức năng của từng bộ phận của Phòng kinh doanh tiền tệ
một cách hợp lý. 48
4
LỜI MỞ ĐẦU
Ngân hàng -môt ngành kinh tế tổng hợp , có vai trò đặc biệt
quan trọng trong nền kinh tế quốc dân , đuợc coi là “ mạch
máu lưu thông của cơ thể “.
Hoạt động của ngân hàng có ý nghĩa hết sức to lớn đối với
sự phát triển kinh tế của đât nước - “ thiếu máu cơ thể sẽ không
khoẻ mạnh ” và trong môt nền kinh tế cũng thế. Là sản phẩm
của nền kinh tế thị trường , ngân hàng thực hiện những nghiệp
vụ tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ , cũng như các dịch vụ
có liên quan đến tài chinh - tiền tệ khác trong nền kinh tế .
Ngày nay không một quôc gia nào có thể thực hiện được
mục đích tăng trưởng kinh tế mà không chú trọng tới chính sách
mở của và giao lưu kinh tế với nước ngoài . chính vì vậy , pham
vi hoạt đông của ngân hàng rộng lớn , vượt ra khỏi biên giới ,
hoạt động ở khắp nơi trên thế giới . Chính sách sách mở cửa
kinh tế với hoạt động tài chính đối ngoại của ngân hàng vơí mục
đích quan trọng nhát là huy động vốn từ ngoài nước phục vụ cho
nhu cầu phát triển trong nước, sẽ thúc đẩy sự phát triển kinh tế
của Việt Nam
5
Xuất phát từ đó nên vấn đề “Thực trạng và giải pháp để
nâng cao hiệu quả kinh doanh đối ngoại của các ngân hàng
thương mại Việt Nam” là nội dung nghiên cứu của bài viết này.
Bố cục bài viết được chia thành 3 phần:
Chương I: Lý luận chung vê hoạt động kinh doanh đối ngoại
của
ngân hàng thương mại
I. Các hoạt động cơ bản của NHTM
II. Hoạt động kinh doanh đối ngoại của NHTM
Chương II: Thực trạng kinh doanh đối ngoại của các NHTM
Việt Nam
I. Thực trạng tình hình hoạt động
II. Nguyên nhân của tình trạng trên
Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
hoạt động kinh doanh đối ngoại của các NHTM
Việt Nam
6
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
ĐỐI NGOẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
I. CÁC HOẠT ĐỘNG CƠ BẢN CỦA NHTM
1. Khái niệm
Ngân hàng thương mại là một loại hình tổ chức tín dụng
thực hiện toàn bộ hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân
hàng. Thị trường hoạt động của nó không phải là thị trường
hàng hoá thông thường mà là thị trường tiền tệ với mục tiêu là
tối đa hoá lợi nhuận.
2. Hoạt động của NHTM
Lịch sử của ngân hàng NHTM là lịch sử kinh donah tiền gửi
với phương thức là nhận gửi để giữ hộ và thu phí, sau phát triển
thành nhận gửi có trả lãi cho người gửi và sử dụng số tiền đó trong
khoảng thời gian “nhàn rỗi” để cho vay nhằm thu được lãi cao hơn.
các nhà kinh doanh tiền gửi này được hưởng một khoản chênh lệch
giữa lãi suất cho vay với lãi suáat trả cho người gửi tiền và một số
chi phí khác. Ngày nay, hoạt động của NHTM ngày càng đa dạng
phong phú và có phạm vi rộng lớn, có tác động mạnh đến sự phát
7
triển kinh tế của đất nước. Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh
doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với mục đích thường xuyên là
nhận gửi sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch
vụ thanh toán.
2.1. Hoạt động huy động vốn
Ngân hàng huy động vốn dưới nhiều hình thức như nhận
gửi, đi vay; vay dân bằng cách phát hành kỳ phiếu ,trái phiếu ;
vay các tổ chức tín dụng ,các ngân hàng khác; hoặc có thể vay
nước ngoài trên thị trường vốn quốc tế.
Hoạt động này của ngân hàng có hiệu quả ,tập hợp được
những khoản tiền nhỏ bé phân tán, tạm thời chưa sử dụng với
những thời hạn hết sức khác nhau nhằm tài trợ lại cho nền kinh
tế, cho những cá nhân có nhu cấu sử dụng tiền khi chưa có thu
nhập. Nó cũng tiết kiệm cho nền kinh tế bằng các khoản giảm
chi phí in tiền, chi phí lưu thông.. . và là cơ sở cho các hoạt động
khác của ngân hàng.
2.2. Hoạt động sử dụng vốn.
Một ngân hàng để tồn tại và phát triển được, trước tiên phải
đảm bảo khả năng thanh toán. Nếu ngân hàng không thanh toán
được cho khách hàng sẽ dẫn đến sự ồ ạt rút tiền trong dân
chúng và sự sụp đổ là điều khó có thể tránh. Để tránh rủi ro này,
8
ngân hàng luôn có hoạt động về ngân quỹ nhằm đảm bảo khả
năng thanh toán của ngân hàng.
Xét trên góc độ kinh doanh, thì hoạt động cho vay là nghiệp
vụ quan trọng nhất quyết định sự tồn tại của ngân hàng. Nếu
không cho vay được, sẽ không có thu nhập thì ngân hàng sẽ bị
phá sản. Hoạt động cho vay là hoạt độngđem lại lợi nhuận cao
nhất nhưng lại có độ rủi ro cao. Ngân hàng có thể cho chính phủ
vay bằng cách mua tín phiếu kho bạc, cho các cá nhân doanh
nghiệp vay trong kinh doanh, tiêu dùng... nhằm thúc đẩy nền sản
xuất phát triển.
Ngân hàng cũng có những hoạt động để đầu tư vốn của
mình như liên doanh hoặc mua chứng khoán. cung cấp các dịch
vụ để thu phí.
Tất cả các hoạt động trên là nhằm mang lại thu nhập cho
ngân hàng.
2.3. Hoạt động trung gian thanh toán.
Ngân hàng thực hiện mọi yêu cầu của khách hàng qua sự uỷ
thác của khách hàng như chuyển tiền, thu- chi hộ các khoản tiền
căn cứ vào chứng từ mà khách hàng giao cho. Ngân hàng thực
hiện việc thanh toán hộ, thanh toán không dùng tiền mặt... với
9
hình thức tập trung sẽ giảm được chi phí, thời gian cho khách
hàng qua đó ngân hàng cũng được có lợi với một khoản phí.
Hiện nay, nền kinh tế thị trường đang trở thành một nền kinh
tế toàn cầu, vì thế vai trò của ngân hàng trong lĩnh vực thương
mại quốc tế là không thể thiếu trong việc kinh doanh ngoại hối
nhằm phụ trợ cho việc tạo nguồn để cho vay, hỗ trợ cho hoạt
động xuất nhập khẩu của doanh nghiệp
Trong thanh toán quốc tế, ngân hàng đóng vai trò trung gian
thanh toán giúp cho quá trình thanh toán theo yêu cầu của khách
hàng được tiến hành an toàn, nhanh chóng tiện lợi và giảm bớt
chi phí thay vì thanh toán bằng tiền mặt. Ngân hàng bảo vệ của
khách hàng trong giao dịch thanh toán đồng thời tư vấn cho
khách hàng, hướng dãn về kỹ thuật nhằm giảm rủi ro, tạo sự an
tâm tin tưởng cho khách hàng trong quan hệ giao dịch mua bán
với nước ngoài. Mặt khác, trong quá trình thực hiện thanh toán
quốc tế, khách hàng không đủ khả năng tài chính cần đến sự tài
trợ của ngân hàng nhằm vay để thanh toán hàng xuất nhập khẩu,
ngân hàng bảo lãnh mở L/C, chiét khấu chứng từ xuất khẩu...
đáp ứng nhu cầu về vốn cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu.
Phương tiện thường được sử dụng là hối phiếu và séc.
Thanh toán quốc tế làm tăng cường quan hệ đối ngoại của
ngân hàng trong nước thông qua việc bảo lãnh cho khách hàng,
10
thanh toán cho ngân hàng nước ngoài, thực hiện thanh toán quốc
tế, sẽ có được những quan hệ đại lý với ngân hàng đối tác nước
ngoài.
II. HOẠT ĐỘNG KINH DOANH ĐỐI NGOẠI CỦA NHTM
1. Đặc điểm
Kinh doanh đối ngoại của NHTM là một loại hình kinh
doanh vừa mang tính truyền thống vừa mang tính hiện đaị. Vì là
kinh doanh trên thị trường nên nó cũng có cạnh tranh và theo
đuổi lợi nhuận.
Nói đến truyền thống, bởi vì kinh doanh tiền tệ bản thân
không có biên giới“cứng” , đồng vốn là dòng chảy không biên
giới đã có từ xa xưa gắn với giao lưu quốc tế, với lưu thông tiền
vàng , kim loại quý, với uy tín quốc gia, thương nhân, ngân
hàng. Chính nhờ kinh doanh đối ngoại mới đặt nền móng hình
thành các trung tâm tài chính quóc tế như trung tâm tài chính tại
Hồng Kông, Singapore, Tôkyô, London..
Nối đến hiện đại là nói đến hình thức, phương thức ngày
càng khác trước, đa dạng hơn, tinh vi hơn, đồ sộ hơn trên tất cả
các hoạt động:kinh doanh ngoại hối, chứng khoán, thanh toán
quốc tế, tín dụng hợp vốn, đồng tài trợ, đại lý, uỷ thác... thông
qua các nghiệp vụ rất đa dạng.
11
Xu hướng khu vực hoá, toàn cầu hoá trở thành phổ biến thì
bên cạnh quá trình hợp tác theo nguyên tắc hai bên cùng có lợi
giữa các quốc gia luôn kèm theo quá trình cạnh tranh gay gắt
khốc liệt. Cạnh tranh là sản phẩm của nền kinh tế thị trường. Nó
tồn tại một cách khách quan với tất cả các thành viên tham gia
thị trường. Năng lực cạnh tranh của hoạt động kinh doanh đối
ngoại của ngân hàng biểu hiện khả năng chiếm thị phần hoạt
động và chi phối một số thị trường quốc tế quan trọng, tỷ lệ vốn
đầu tư ngày càng tăng trong tổng số vốn nước ngoài đầu tư, ở
chi phí dịch vụ thấp hay cao, uy tín của ngân hàng.
Lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu và cũng là yếu tố cuối cùng
để kết thúc hoạt động sản xuất kinh doanh.. ở các nước phát
triển, hoạt động ngân hàng tìm kiếm thị trường bên ngoài lãnh
thổ quốc gia là nhằm chuyển vốn dư thừa tại chính quốc gia
sang các nước kém phát triển hơn với mục tiêu cuối cùng là tối
đa hoá lợi nhuận . Còn mục tiêu của các nước đang phát triển thì
là tìm kiếm các nguồn vốn từ các trung tâm tài chính để chuyển
về trong nước nhằm sử dụng có hiệu quả, thúc đẩy sự phát triển
kinh tế. Như vậy,tìm kiếm lơi nhuận chính là mục tiêu hàng đầu,
quan trọng nhất trong chiến lược mở rộng thị trường ra bên
ngoài của các NHTM
12
Tuy nhiên,kinh doanh đối ngoại phụ thuộc vào nhiều yếu tố
như năng lực tài chính, trình độ quản lý kinh doanh, uy tín, kỹ
thuật công nghệ, sự quản lý giám sát của NHNN và một số cấp
có liên quan,an ninh,chủ quyền kinh tế quốc gia. Đây là lý do
giải thích tại sao hệ thống NHTM của Việt Nam còn tương đối
“đóng”. Khái niệm biên giới “ mềm” trong lĩnh vực này còn
tương đối xa lạ .
2. Các nghiêp vụ (dịch vụ) kinh doanh đối ngoại.
Nếu căn cứ vào luât pháp hiện hành về ngân hàng và quản lý
ngoại hối của nước ta thì “kinh doanh đối ngoại” của NHTM
Viêt Nam mà chúng ta đề cập được hiểu là “hoạt động kinh
doanh ngoại hối”. Các NHTM hay ngân hàng nào khác được
tiến hành kinh doanh thì luật pháp có chế định gọi là các” ngân
hàng được phép” .Hiên nay nước ta có 28 ngân hàng được phép
:NHNTVN, NHCTVN,NHĐT&PTVN,NHNNVN, và một số
NHTM cổ phần NH nước ngoài đang hoạt đông trên lãnh thổ
Viêt Nam .
Chúng ta đều biết, kinh doanh đối ngoại của ngân hàng có
phạm vi rộng lớn trên cả thị trường nội địa và cả thị trường quốc
tế.Trong nước ,các hoạt động này mặt nào đó gắn với nhiệm vụ
chính trị của ngành ngân hàng phục vụ các yêu cầu phát triển,
giao lưu kinh tế-xã hội trong điều kiện mở cửa hiện nay như
13
nghiệp vụ hối đoái, mua bán ngoại tệ, nghiệp vụ thanh toán chi
trả kiều hối cho người nhận trong nước, nghiệp vụ tài khoản
ngoại tệ phục vụ các tổ chức và các cá nhân “ người cư trú “ và
“ người không cư trú” tại Việt Nam, nghiệp vụ thanh toán thẻ tín
dụng quốc tế đối với các cơ sở tại thương trường Việt Nam và
cả nghiệp vụ huy động vốn cho vay, bảo lãnh bằng ngoại tệ theo
cơ chế hiện hành trong nước. Tất cả những hoạt động kinh
doanh ngoại hối trên do các “ngân hàng được phép “thực hiện.
Kinh doanh đối ngoaị của các NHTM được phép trên thị
trường tiền tệ quốc tế thì lại khác, có những yêu cầu và điều kiện
khá khắt khe đặt ra cụ thể trong giao dịch và những nội dung
hoạt động diễn ra trên thị trường quốc tế là: thực hiện các dịch
vụ thanh toán liên ngân hàng quốc tế, phát sinh liên quan đến
việc trao đổi thương mại, dịch vụ, đầu tư quốc tế và các quan hệ
giao lưu khác hết sức đa dạng giữa các nước với nhau. Thanh
toán quốc tế thường là những hoạt động dịch vụ đối ngoại đầu
tiên mà NHTM khi bước ra thương trường quốc tế đều phải tiến
hành với những đòi hỏi rất khắt khe, trong đó yêu cầu chuẩn xác
và nhanh chóng được đặt lên hàng đầu. Có 3 phương thức thanh
toán quốc tế được sử dụng phổ biến là : phương pháp chuyển
tiền, phương pháp nhờ thu, phương pháp tín dụng chứng từ L/C.
14
Thị trường quốc tế là thị trường chu chuyển vốn tiền tệ
nhưng không phải tiền tệ của mọi quốc gia mà bằng ngoại tệ tự
do chuyển đổi. Vì vậy hoạt động kinh doanh ngoại hối của các
NHTM trên thị trường tiền tệ quốc tế là tất yếu và thuộc loại các
giao dịch kinh doanh vốn ngắn hạn. Lưu lượng vốn chu chuyển
trên thị trường tiền tệ quốc tế chủ yếu được hình thành từ các
nguồn thuộc dự trữ lưu động do các NHTM được phép nắm
giữ và điều hành kinh doanh tác nghiệp.
Thực tế kinh doanh ngoại hối thì có hai hoạt động chính là :
- Kinh doanh chuyển đổi ngoại tệ: là loại kinh doanh diễn ra
hàng ngày tại một NHTM đối ngoại. Người ta còn gọi việc
chuyển đổi này là mua, bán ngoại tệ. Thị trường hối đoái trong
nước, mua bán ngoại tệ giữa NHTM và khách hàng đều tiến
hành thông qua đồng bản tệ. Còn mua, bán ngoại tệ trên thị
trường hối đoái quốc tế thực chất là sự chuyển đổi giữa các
ngoại tệ với nhau.
- Kinh doanh tiền gửi ngoại tệ: là quan hệ giữa tiền gửi giữa
các NHTM , quan hệ kinh doanh vay mượn với ngân hàng
thương maị và chủ thể cho vay, nguồn vốn ngoại tệ để cho vay
thông qua nghiệp vụ tiền gửi thường được tạo ra từ hai nguồn
kinh doanh hối đoái trong nước và huy động trong thị trương
tiền tệ quốc tế qua nghiệp vụ tài khoản tiền gửi.
15
- Tổ chức bộ máy kinh doanh dưới hình thức lập chi nhánh
hoạt động ở hải ngoại hay liên doanh thành lập NHTM hay các
định chế tài chính ở nước ngoài, cũng là loại hình kinh doanh
đối ngoại của các NHTM .
3. Vai trò của hoạt động kinh doanh đối ngoại đối với NHTM
và đối với nền kinh tế
Xu hướng toàn cầu hoá đang chi phối khuynh hướng và cấu
trúc vận động của hệ thống tài chính- ngân hàng của từng quốc
gia từ khi đổi mới nền kinh tế hệ thống NHTM Việt Nam đã
sớm bắt nhịp quá trình hội nhập cộng đồng tài chính tiền tệ khu
vực và thế giới. Do đó đẩy mạnh hoạt động kinh doanh đối
ngoại đối với NHTM không chỉ là tất yếu khách quan mà còn là
lẽ sống của chính ngân hàng.
Trong kinh doanh đối ngoại hay còn được gọi là hoạt động
kinh doanh ngoại hối thì NHTM giữ vị trí trung tâm. Các ngân
hàng này đảm nhiệm hầu hết các hoạt động chuyển hoá ttrên thị
trường ngoại hối với tư cách người bán hoặc người mua, Vai trò
chủ đạo này xuất phát từ vị trí trung tâm của NHTM trong việc
thực hiện thanh toán quốc tế. Qua đó, ngân hàng là người cuối
cùng hình thành nền tảng doanh thu của thị trường hối đoái.
16
Khi cần thực hiện các hợp đồng thanh toán bằng ngoại tệ thì
trước sau ngân hàng cũng phải thực hiện nghiệp vụ kinh doanh
ngoại hối. Dịch vụ chuyển đổi ngoại tệ của NHTM nhằm đáp
ứng nhu cầu chi trả bằng ngoại tệ khác của khách hàng bản xứ
mà NHTM chưa có sẵn. Cũng vì yêu cầu bảo toàn giá trị tiền tệ
trong kinh doanh khi một loại ngoại tệ có sẵn đang có xu hướng
mất giá so với ngoại tệ khác. Các NHTM thường thanh toán hộ
theo yêu cầu khách hàng nên trong nghiệp vụ kinh doanh hầu
hết các ngân hàng còn thực hiện các hoạt động ngoại hối theo
hình thức liên ngân hàng, có nghĩa là các NHTM trực tiếp mua
bán với nhau không liên quan tới nghiệp vụ khách hàng. Mục
đích của hoạt động này đối với các NHTM là lợi nhuận thu được
trên cơ sở chênh lệch tỷ giá của các giao dịch ngay trên thị
trường hối đoái hoặc từ việc tích trữ đầu cơ ngoại hối hoặc từ
việc thu phí.
Góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của đất nước cũng là
mục tiêu quan trọng nhất trong chiến lưọc mở rộng thị trường ra
bên ngoài của các NHTM Việt Nam, bởi vì nó đóng vai trò
trung gian chuyển vốn từ các trung tâm tài chính quốc tế về
trong nước nhằm góp phần công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước.
Mở rộng hoạt động kinh doanh đối ngoại có những lợi ích:
17
Một là, tranh thủ được các nguồn vốn trên thị trường quốc tế
thông qua ngân hàng nước ngoài hoặc các chi nhánh của họ,
ngân hàng liên doanh với nước ngoài tại Việc Nam để đầu tư
phát triển kinh tế đất nước.
Hai là, có điều kiện và học hỏi công nghệ ngân hàng tiên
tiến, nhất là ở các khâu thanh toán kinh doanh ngoại hối, thẩm
định dự án ngừa phòng rủi ro kiểm soát nọi bộ và giám sất tài
chính. Hợp tác kinh doanh tạo cơ hội cho ta có điều kiện tìm
kiếm bạn hàng, khách hàng, đào tạo cán bộ qua các ngân hàng
liên doanh như INDOVINABANK, FIRSTVINABANK, VID
PUBLIC... các NHTM Việt Nam sẽ th được nhiều kinh nghiệm,
bài học khá tốt về cách quản lý ngân hàng góp phần làm phong
phú thêm và sôi động hơn thị trường chính Việt Nam, tạo nên
môi trường cạnh tranh lành mạnh từ đó, góp phần quốc tế hoá
hoạt động của NHTM Việt Nam.
Ba là, góp phần quan trọng khuyến khích mở rộng xuất
khẩu, kiểm soát tốt nhập khẩu. Tài trợ xuất nhập khẩu là một
mảng dịch vụ thuộc hệ thống tất cả các dịch vụ chuyên biệt của
ngân hàng nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp tronh hoạt động xuất
nhập khẩu.Thực hiện hoạt động này ngân hàng cung ứng vốn
bằng tiền hoặc bảo lãnh giúp doanh nghiệp gia tăng hệu quả
18
kinh doanh thực hiện thương vụ thành công khi có sự thiếu hụt
vốn trong doanh nghiệp.
Bốn là, tạo điều kiện cơ hội mở rộng thị trường tìm kiếm
bạn hàng trên những lĩnh vực kinh doanh khác nhau, thực hiện
đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước nâng cao vị thế
chính trị, kinh tế, ngoại giao, giao lưu văn hoá dân tộc với thế
giới
Trên thực tế đã cho chúng ta thây hội nhậo quốc tế về hoạt
động ngân hàng đang là một xu thế của thời đại. Nó đem đến
cho mỗi quốc gia nhiều lơi ích để phát triển, khơi thông các
kênh luân chuyển vốn từ nước ngoài vào thị trường Việt Nam-
nơi đang càn nhiều vốn đầu tư và nó cũng tạo điieù kiện cho các
NHTM Việt Nam, các doanh nghiệp trong nước có cơ hội đầu
cho nước ngoài
19
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH ĐỐI NGOẠI
CỦA CÁC NHTM VIỆT NAM
I. THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG
1. Một số thành tựu đã đạt được
Qua hơn 10 năm đổi mới cùng với sự phát triển chung của
nền kinh tế,trong đó có kinh tế đối ngoại của các NHTM Viêt
Nam dần có những khởi sắc. Cũng như nhưng hoạt động kinh
doanh tiền tệ ngân hàng trong nước,chuyển từ cơ chế độc quyền
của NHNN sang cơ chế thi trường, đa dạng hoá các loại hình
kinh doanh tiền tệ -tín dụng-ngoại hối’trong đó vai trò chủ đạo
và chủ lực vẫn thuộc các tổ chức tín dụng nhà nước. Hoạt động
kinh doanh đối ngoại của NHTM Viêt Nam từng bước được xác
lập vị thế trên thương trường.
20
Hiện nay, lĩnh vực này không còn độc quyền Nhà nước do
Vietcombank đảm trách như thời tập trung bao cấp nữa,và bản
thân Vietcombank trong cơ chế mới cũng đã trở thành một
NHTM thực thụ của Nhà nước.Nếu không tự đổi mới và phấn
đấu giữ vững nâng cao chất lượng “chữ tín“ chắc chắn
Vietcombanh đã không thể tồn tại và phát triển đến nay, không
thể thực hiện vai trò là NHTM quốc doanh chủ đạo và chủ lực
trong lĩnh vực ngoại hối.
Cùng với Vietcombank bắt đầu vào cuộc còn có các NHTM
quốc doanh khác,mà mới trước đó với danh nghĩa các ”ngân
hàng chuyên doanh”,chỉ hoạt đông trên thương trường nội
địa.Vơí phương châm phát triển thận trọng ,tiến chắc không thể
phủ nhận sự tiến bộ của NHCTVN, NHĐT&PTVN, NHNNVN
trong lĩnh vực này. Đồng thời , một số NHTM cổ phần ra
đòi sớm đã từng bước khẳng định được vị thế . Nễu xét trên
giác độ hạch toán kinh doanh trên thị trương tiền tệ quốc tế của
nhiều NHTM nước ta đều có lãi,chưa để xẩy ra những thất thoát
gì đáng kể về vốn ngoại tệ.
Một số NHTM nước ta đã sớm tiếp cận với các phương thức
kinh doanh quốc tế hiện đại để vận hành vào Viêt Nam như thẻ
tín dụng quốc tế , phòng buôn tiền quốc tế, dịch vụ chuyển tiền
điện tử quốc tế đã thu lợi hàng chục triệu USD mỗi năm cho nhà
21
nước đặc biệt là từ sau khi bùng nổ cuộc khủng hoảng tài chình
tiền tệ tại các nước khu vực Đông Nam á vào giữa năm 1997 và
đầu năm 1998 thì cơn sốt nóng ngoại tệ với sự gia tăng đột ngột
tỷ giá là sự thử thách gay go đầu tiên của nưóc ta trong thời kỳ
đổi mới tính từ năm 1990 trở lại đây trên lĩnh vực tài chính- tiền
tệ- đối ngoại.
Những giải pháp tình thế trong quản lý vầ điều hành ngoại
hối nhạy bén kiên quyết của chính phủ, ngân hàng Nhà nước
cùng với sự phát triển nỗ lực vượt bậc trong tác nghiệp của hệ
thống NHTM được phép kinh doanh ngoại hối đã đẩy lùi được
cơn sốt nóng này.
Từ sau khi đổi mới đến 1997 xuất khẩu nước ta tăng trưởng
vói tỷ lệ cao, hàng năm từ 20- 25%. Đấy là nhờ tiềm lực kinh tế
đất nước phát triển được tác động bởi các chủ trương chính sách
vĩ mô của Đảng và chính phủ dành cho xuất khẩu ngày càng đi
vào cuộc sống. Ngân hàng cũng đã có nhiều đóng góp đắc lực về
vốn tín dụng thanh toán đối ngoại.... tạo nhiều thuạn lợi cho xuất
khẩu.
Những năm gần đây với hoạt động của NHTM nhằm đẩy
mạnh huy động vốn và cho vay phục vụ CNH, HĐH đất nước
phát huy nội lực, tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài phục vụ
mục tiêu phát triển đất nước.
22
2. Tình hình hoạt động .
Mặc dù đã có những thành tựu như trên nhưng hoạt động
kinh doanh đối ngoại của các NHTM Việt Nam còn có một số
tồn tại:
Chưa đa năng hoá theo cơ ché thị trường, điều đó được thể
hiện ngay cả trong nghiệp vụ huy động vốn và sử dụng vốn
ngoại tệ. Các hình thức huy động còn đơn điệu, chưa có các hình
thức huy động dài hạn, chưa thu hút được các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài hay các cá nhân nước ngoài, ngân hàng
nước ngoài mở tài khoản ngoại tệ. Còn bị động trong huy động
vốn và sử dụng, điều này thể hiện rất rõ trong năm 97 khi bị ảnh
hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực và nhất
là trong năm 99- 2000 người dân có khuynh hướng chuyển dịch
tiền gửi từ VND sang USD. Hậu quả là, các NHTM có dư số
tiền gửi ngoại tệ tăng nhanh mà không sử dụng hết được số vốn
khả dụng bằng USD.
Cuối năm 1996 chỉ có 18% tiền gửi bằng ngoại tệ trong tổng
tiền gửi sang đến năm 97-99 thì tỷ lệ này là 30%. Nhưng trong
năm 2000 tỷ lệ này tiếp tục gia tăng với tốc độ nhanh hơn, 9
tháng đầu năm tốc độ huy động tiền gửi ngoại tệ tăng mạnh
25.5% năm 99 lên 41.2% năm 2000 và tốc độ huy động tiền gửi
bằng VND giảm tương ứng 19.2% năm 99 xuống còn 14.2%
23
năm 2000. Hiện tượng nguồn vốn USD chảy vào các NHTM
tăng mạnh, hơn nữa các NHTM lại nâng lãi suất huy động USD
lên cao được nhiều USD, lên lượng vốn USD tiềm năng trong
dân chúng chảy mạnh vào hệ thống ngân hàng. Một thực tế khá
sinh động hiện naylà nguồn ngoại tệ để cho vay của các NHTM
là rất lớn nhưng không cho vay ra được. Không biết rằng có bao
nhiêu nguyên nhân nhưng chỉ riêng các hợp đồng tín dụng cho
vay bằng ngoại tệ mà các ngân hàng đã ký với doanh nghiệp đến
nay đã lên tới hàng trăm triệu USD nhưng vẫn chưa giải ngân
được. Tiền ngân hàng vẫn năm chờ các thủ tục như tổng dự toán
chưa được duyệt, gói thầu chưa lập xong, thiết bị cung cấp chưa
lựa chọn, hợp đồng thi công chưa được ký... nên các chủ đầu tư
không dại gì rút vốn vay để chịu lãi suất. Khi các NHTM cho
doah nghiệp vay bằng ngoại tệ nhưng doanh nghiệp không tạo ra
mặt hàng xuất khẩu để tái tạo ra ngoại tệ sẽ không có ngoại tệ
trả nợ cho NHTM và tất nhiên doanh nghiệp phải mua ngoại tệ
để trả nợ sẽ bị thiệt hại về tỷ giá so với khi vay, ngoài ra cũng
rất khó cho doanh nghiệp khi lập kế hoạch hoá về giá thành sản
phẩm và tài chính cho những năm mắc nợ.
Nước ta nguồn ngoại tệ phân lớn là nguồn kiều hối chuyển
từ nước ngoài về nhưng NHTM chỉ cho phép người cư trú mở
tài khoản tiền gửi nngoại tệ bằng tiền mặt nhưng lại không cho
24
phép vay bằng ngoại tệ, khách hàng chỉ mua bán ngoại tệ với
NHTM khi thật cần thiết.
Các NHTM Việt Nam huy động vốn bằng ngoại tệ mà
không thể cho vay được nên phải gửi ngoại tệ ra nước ngoài
nhằm hưởng lãi cao và biến ngoịa tệ tièn mặt thành ngoại tệ
chuyển khoản ( có lợi ích được sử dụng trong thanh toán quốc tế
). Việc các NHTM gửi ngoại tệ ra ngân hàng nước ngoài là hoạt
động kinh doanh bình thường được luật pháp cho phép và phù
hợp với thông lệ quốc tế, góp phần làm tăng GDP tăng lãi cho
NHTM và người gửi. Song là kinh doanh tiền tệ nên hoạt động
này có lãi và cũng có rủi ro, đòi hỏi NHTM phải chú trọng tới
hiệu quả, an toàn dù số dư tiền gửi nhiều hay ít. Sẽ là tốt hơn
nếu NHTM dùng nguồn vốn ngoại tệ huy dộng được để dầu tư
trong nước. Vì đứng trên góc độ quản lý vĩ mô việc gửi ngoại tệ
ra nước ngoài tiếp tục gia tăng sẽ có những tác động không tốt
đến nguồn vốn phát triển kinh tế của nước ta. đối với nguồn vốn
trong nước không phát huy hết hiệu quả, không được khai thác
triệt để nhằm mở rộng sản xuất kinh doanh, còn đố với nguồn
vốn từ nước ngoài cũng giảm sút vì lãi suất ở Việt Nam (nước
tiếp nhận vốn đầu tư) thấp hơn so với lãi suất quốc tế. Hơn nữa,
việc các NHTM gửi ngoại tệ ra nước ngoài, không cho vay trong
nước cũng làm giảm lòng tin của các nhà đầu tư nước ngoài vào
25
sự ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô ở Việt Nam, càng làm
xấu đi hoạt động thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài vốn
đã có chiều hướng giảm sút gần 3 năm nay.
Hoạt động kinh doanh đối ngoại trong lĩnh vực ngân hàng
rất phức tạp nên đòi hỏi phải có vốn đủ sức hoạt động , phải có
những trang bị, phương tiện tiên tiến dủ khả năng và đáp ứng
kịp thời đầy đủ các nhu cầu của kkhách hàng và cạnh tranh được
với các ngân hàng nước ngoài. Nhưng hiện nay tiềm lực tài
chính của các NHTM Việt Nam còn nhỏ bé, tổng số vốn tự có
của 4 NHTM quốc doanh lớn nhất Việt Nam chỉ khoảng 5500 tỷ
VND. Như vậy với điều kiện cho vay đối với một khách hàng
không vượt quá 15% vốn tự có theo quy định hiện hành thì toàn
bộ các NHTM quốc doanh cũng chỉ có thể cho vay hợp vốn cho
một khách hàng giá trị tối đa là 825 tỷ VND. Do đó, khi các nhu
càu đầu tư cho những công trình trọng điểm của nền kinh tế... rất
khó có thể huy động được đủ vốn từ các NHTM trong nước.
Cho nên các tổng công ty, các nhà xuất nhập khẩu tầm cỡ đều là
khách hàng thường xuyên của ngân hàng nước ngoài cùng với
những dịch vụ nhanh,chính xác và ít rủi ro. Như vậy, các
NHTM Việt Nam chưa đủ sức làm ăn với các doanh nghiệp có
tầm cỡ.
26
Thị trường nội tệ liên ngân hàng thì không hoạt động, thị
trường ngoại tệ liên ngân hàng hoạt động kém hiệu quả, nhiều
khi nhu cầu bán lớn hơn nhu cầu mua tạo nên sự mất cân đối
lớn. Mặc dù các ngân hàng có nhu cầu ngoại tệ lớn để bán cho
khách hàng L/C và trả nợ vay đến hạn nhưng việc mua từ các
ngân hàng là rất khó bởi tâm lý găm giữ ngoại tệ trong thời điểm
tỷ giá có xu hướng tăng lên. Tình hình đó càng làm việc lưu
chuyển vốn trong xã hội trở lên bị cản trở nhiều hơn.
Các NHTM Việt Nam có hệ thống thanh toán chưa hiện đại.
Một số ngân hàng đã sử dụng phương tiện của tổ chức viễn
thông tài chính quốc tế kiên ngân hàng để chuyển các khoản
thanh toán đi và nhận các khoản thanh toán đến từ các ngân
hàng đại lý nước ngoài, nhưng mưói nhỉ được thực hiện ở hội sở
chính, chưa có đến các chi nhánh. Ngay trong cùng một hệ
thống NHTM được phép kinh doanh đối ngoại ở nước ta như
VIETCOMBANK chẳng hạn thì các giao dịch kinh doanh đối
ngoại đúng nghĩa của nó cũng chỉ tập trung tại hội sở Trung
ương và một và choi nhánh chủ yếu. Hoạt động kinh doanh về
vốn , kinh doanh ngoại hối, vay và bảo lãnh quốc tế... đều xử lý
theo nguyên tắc tập trung chứ không phân tán mở rộng. Thị
trường tài chính quốc tế và khu vực là một mạng liên thông toàn
cầu hoạt động 24/24 giờ, dịch vụ ngân hàng nội địa của nhiều
27
nước nhờ sự giúp đỡ của hệ thống vi tính và mạng viễn thông đã
đưa hoạt động ngân hàng đến tận cửa hiệu, khách sạn, gia đình.
Kế toán và thanh toán qua ngân hàng được thực hiện và lưu giữ
trong hệ thống vi tính không cần chứng từ. Dịch vụ ngân hàng
đã liên kết các doanh nghiệp, các nhà đầu tư với nhau trên phạm
vi toàn cầu mỗi giao dịc chỉ tính bằng giây thì thực tế hệ thống
thanh toán cuả NHTM Việt Nam còn có khoảng cách lớn đối
với hoạt động xuất khẩu, NHTM có dịch vụ cho bạn hàng của
doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam mở L/C tại ngân hàng, trên
cơ sở đó có thể cho doanh nghiệp vay tiền để tiến hành sản xuất
kinh doanh xuất khẩu. Tuy nhiên, do giới hạn về trình độ nghiệp
vụ đặc biệt là thông tin về bạn hàng nên tín dụng trên cơ sở L/C
còn rất hạn chế và mức độ rủi ro cao (10- 15%). Thêm vào đó
vai trò trung gian của NHTM đối với các giao dịch thanh toán
xuất nhập khẩu còn rất thụ động, hầu như NHTM chưa có giải
pháp gì để tăng độ an toàn nhất là thanh toán hàng xuất cho các
doanh nghiệp Việt Nam và do đó lại càng hạn chế tín dụng cho
xuất khẩu. Hiện nay, phía Việt Nam yeu cầu doanh nghiệp trong
nước mở L/C thời hạn 180 ngày( trước đây có thể kéo dài L/C
tới 360 thậm chí 540 ngày).để tránh phí quá cao, một số doanh
nghiệp đã mở L/C “ngầm” qua ngân hàng nước ngoài. Tuy chi
phí mở L?c tại ngân hàng thương mại quốc doanh vẫn thấp hơn
28
so với các ngân hàng nước ngoài nhưng việc phát hành hối
phiếu và bán hôí phiếu cho nhà đầu tư hầu như không được chấp
nhận ở Việt Nam. Ngoài ra doanh nghiệp Việt Nam phải ký quỹ
tới 80% giá trị L/C trong khi các doanh nghiệp đang rất thiếu
vốn mà cơ sở nước ngoài mở L/C tại ngân hàng Việt Nam chỉ
phải đặt cọc giá trị L/C càng làm cho tín dụng xuất khẩu trở nên
khó khăn. Mặt khác, độ an toàn trong tín dụng xuất khẩu trở nên
không cao do ngân hàng hầu như không chịu trách nhiệm đối
với doanh nghiệp xuất khẩu, điều này không những không thúc
đẩy xuất khẩu mà ngược lại còn kìm chế. Bản thân phương thức
L/C tỏ ra ưu việt hơn so với các phương thức thanh toán quốc tế
khác vì nó đảm bảo quyền lợi của cả hai bên (bên bán và bên
mua) song nó không phải là phương thức thanh toán đảm bảo
tránh được rủi ro hoàn toàn cho các bên tham gia trong đó có
ngân hàng. Rủi ro trong thanh toán L/C, ngoài những mất mát,
thiệt hại xảy ra do không thu hồi được vốn đã trả thay cho doanh
nghiệp mà còn rủi ro về uy tín của ngân hàng trong thanh toán
quốc tế và các khoản chi phí phát sinh vô ích khác.
Trong hoạt động kinh doanh đối ngoại của các NHTM Việt
Nam trong thời gian qua thực hiện thanh toán L/C đã mang lại
thu nhập cho ngân hàng khi ngân hàng thực hiện một cách thận
trọng. Bên cạnh đó cũng có NHTM đã buông lỏng việc quản lý
29
thực hiện thanh toán cho nên hiện đang phải hiênj hứng chịu hậu
quả khó có thể khắc phục và còn ảnh hưởng lâu dài đến hoạt
động ngân hàng .Có NHTM dư nợ cho vay bắt buộc (trả thay
cho khách hàng) tư những năm trước còn tồn đọng hàng chục
triêu USD nơ gốc không có khả năng thu hồi.
Trong năm 2000,tình trạng khan hiếm ngoại tệ đã bộc phát
và kéo dài.Các doanh nghiệp phải mua gom ngoại tệ tư nhiều
NHTM để thanh toán L\C hoặc để trả nợ vay nước ngoài...Hệ
thống NHTM cũng rất khó khăn trong việc xoay sơ được ngoại
tệ để cung ứng cho doanh nghiêp.Một thưc tế là đang có xu
hướng chuyển dịch các nghiêp vụ xuất nhâp khẩu sang các
ngân hàng liên doanh và các chi nhánh ngân hàng nước
ngoài.Nhiều dự án lớn có hiệu quả trong lĩnh xuất khẩu gạo,thuỷ
hải sản,cà phê...đa rơi vào các chi nhánh ngân hàng nước
ngoài.Việc thanh toán những mặt hàng xuât khẩu chủ lực của
Việt Nam đều được tiến hành hầu như tối đa qua các chi nhánh
ngân hàng nước ngoài: thanh toán xuất khẩu gạo với số lượng
lớn qua BNP (Pháp) xuất khẩu than qua Citibank (Mỹ) và Ing
Bank(Hà Lan), thuỷ hải sản qua BFCE(Pháp), cà phê xuất khẩu
qua chi nhánh ngân hàng Deutsche (Đức) ... Mở cửa hội nhập
quốc tế về thương mại và dịch vụ, đầu tư nên việc thiết lập quan
hệ đại lý với các ngân hàng nước ngoài là yêu cầu không thể
30
thiếu với bất cứ NHTM nào khi được phép thực hiện các dịch vụ
thanh toán quốc tế và các hoạt động kinh doanh trên thị trường
tiền tệ quốc tế. Nhưng có tình trạng đặt quan hệ đại lý dàn
đều,số lượng quá yêu cầu cần thiết, thiếu sự chỉ đạo chung của
NHNN về chính sách quan hệ ngân hàng đại lý giữa các NHTM
nước ta , thiếu hẳn sự liên kết phối hợp với nhau để trao đổi
thông tin kịp thời trong đánh giá tín nhiệm ngân hàng đại lý để
ngăn ngừa những rủi ro có thể xảy ra. Nhất là trong điều kiện,
hâu hết các NHTM Việt Nam đều chỉ có quan hệ đại lý tài
khoản loại “ Nostro” tức là phía ta gửi vốn ngoại tệ của mình ở
nước ngoài chứ hầu như chưa có việc ngân hàng dại lý ở nước
ngoài thiết lập quan hệ tài khoản đại lý, loaị ” Loro” tức là
ngoại tệ huy động trên thị trường tiền tệ quốc tế thông qua
nghiệp vụ tài khoản tiền gửi đối với nước ta.
Trong nền kinh tế cơ chế thị trường phần lớn các doanh
nghiệp trong quá trình kinh doanh đã biết khai thác một cách tốt
nhất mối quan hệ mật thiết với các ngân hàng trên nhiều phương
diện như sử dụng các dịch vụ thanh toán, thu tiền, trả lương, vay
vốn của ngân hàng .... nhằm mở rộng hoạt động, đổi mới công
nghệ, đảm bảo an toàn trong thanh toán. hầu hết các doanh
nghiệp đều có xu hướng lựa chọn cho mình một ngân hàng đáng
tin cậy để lo mọi quan hệ thanh toán ủng hộ mình khi có sự tiếp
31
xúc với các ngân hàng khác hay thực hiệ giao dịch thương mại
với nươc ngoài. Vì vậy. Ngân hàng ngày càng có vai trò quan
trọng đối với doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh. Những
năm gần đây, nhất là sau khi Chính phủ cho phép các ngân hàng
nước ngoài dược mở chi nhánh tại Việt Nam hay thành lập ngân
hàng liên doanh với ngân hàng Việt Nam thì các ngân hàng
nước ngoài đã nhanh chóng chiếm thị phần tiền gửi cũng nhu thị
trường hoạt động tín dụng Việt Nam.Từ năm 1997 trở lại đây thị
trường của cá chi nhánh ngân hàng nước ngoài có xu hướng
bùng nổ. Thị trường tiền gửi, thị phần của các ngân hàng nước
ngoài tăng 9.2 lần từ 2% năm 94 lên 18.5% năm 97 sau đó giảm
nhẹ còn 14.7% năm 99, còn thị trương tín dụng tăng 14.6 lần từ
2% (94) lên 29.2%(97) và còn 25.7%(99). Trong lĩnh vực ngân
hàng buộc các ngân hàng phải chấp nhận cơ chế cạnh tranh khốc
liệt. Các ngân hàng trong nướcngay từ lúc đầu bị mất đi thị
trường lẫn khách hàng va có thể sẽ tiếp tục bị thu hẹp thị trường
nếu như không thể khẳng định được mình, tiếp rục làm ăn thua
lỗ tất yếu sẽ rơi vào tình trạng ngày càng tồi tệ. Với một thị phần
khá lớn như hiện nay, có thể nói khả năng chi phối và ảnh
hưởng của các chi nhánh ngân hàng chủ yếu tập trung vào các
dự án lớn, trọng điểm của Việt Nam. Như vậy chi nhánh ngân
hàng nước ngoài đang luồn sâu vào những nghành trọng điểm
32
của quốc gia, khả năng chi phối của nước ngoài đối với một số
lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội tại Việt Nam là hết sức rõ
ràng và rất có khả năng chi phối hệ thống tài chính của Việt
Nam nếu như các nhà quản lý tiền tệ không có một chiến lược
kiểm soát một cách hợp lý.
Một hạn chế nữa là đội ngũ cán bộ đối ngoại cuả NHTM
Việt Nam còn bất cập chưa đáp ứng được yêu cầu của kinh tế thị
trường, cán bộ am hiểu nghiệp vụ ngân hàng sâu sắc song trình
độ ngoại ngữ , tin học. Một số lãnh đạo NHTM không có trình
độ ngoại ngữ , không am hiểu luật pháp, do đó đã chấp nhận
pháp hành nhứng L/C hoặc dễ dãi tu chỉnh L/C với những nội
dung điều khoản gây bất luận cho ngân hàng. Vấn đề nhân lực
cho hoạt động kinh doanh trên thị trường quốc tế của các
NHTM Việt Nam thực ra không phải là một vấn đề khó bởi vì
ta đã có rất nhiều sinh viên xuất sắc được đào tạo tại các trường
đại học trong nước và chúng ta cũng có hàng vạn sinh viên Việt
Nam đã và đang học tại các trường đại học ở các nước công
nghiệp phát triển.Kiến thức học vấn nói chung và ngoại ngữ của
các sinh viên này không kém sinh viên ngoại quốc,thâm chí còn
có mặt suất sắc.Ngoài ra ,chúng ta còn có thể thu hút đội ngũ
cán bộ Việt Nam làm việc cho các NHTM quốc doanh Việt
Nam thay vì để họ đi làm thuê cho công ty nước ngoài .
33
Trong việc triển khai loại hình dịch vụ thẻ tín dụng quốc tế
tại nước ta như: visa, master card cũng phát sinh một tình hình
không thể tiếp tục duy trì được mà nguyên nhân là do thiếu một
cơ chế hợp tác liên doanh kinh doanh giũa các NHTM nước ta
trong lĩnh vực này, do thói quen sinh hoạt và chi tiêu bằng tiền
mặt trong dân cư còn phổ biến.
Ngày nay, hệ thông ngân hàng Việt Nam đang tiếp tục củng
cố và không ngừng phát triển các quan hệ hợp tác quốc tế ,góp
phần thu hút và huy động nhiều nguồn vốn ,khai thông được các
quan hệ tài chính-tín dụng với các tổ chức như:
IMF,WB,ADB...mở đường cho việc thu hút đầu tư trực tiếp và
mở rông thương mại với nước ngoài .Bằng việc đổi mới công
nghê và hiện đại hoá hệ thống thanh toán ngân hàng có khả năng
thực hiện tốt hơn các dich vụ thanh toán trong nước và quốc
tế,góp phần thúc đẩy hoạt động xuây nhập khẩu và làm cho môi
trường đầu tư ở Việt Nam hấp dẫn và có tính canhj tranh cao
hơn trong việc thu hút đầu tư nước ngoài .
II. NGUYÊN NHÂN CỦA THỰC TRẠNG TRÊN.
Xét về hiên trạng trên trong hoạt động kinh doanh đối ngoại
của các NHTM Việt Nam ,ta có thể dễ dàng nhận thấy :năng lực
cạnh tranh của các NHTM Việt Nam còn thấp . Đó là do nước
ta có xuất phát điểm thấp ,cơ sở vật chất kỹ thuật còn nghèo nàn
34
lạc hậu và đang trong giai đoạn đầu của quá trình chuyển sang
cơ chế thị trường .Hậu quả chiến tranh còn năng nề ,hoạt động
đối ngoại của ngành Ngân hàng nói chung và hoạt động kinh
doanh đối ngoại của các NHTM nói riêng trong giai đoạn đàu
đổi mới (1989-1995) có chính sách cấm vận về tiền tệ-tín dụng-
thanh toán quốc tế liên quan đến USD là rõ nhất .Ngoài ra do
hậu quả nơ. nần nước ngoài của thời tập trung bao cấp để lại
chưa được xử lý thoả đáng trong quan hệ kinh doanh đối ngoại
của đất nước ,ảnh hưởng uy tín quốc tế của ngành Ngân hàng
.Hệ thống ngân hàng Việt Nam trong giai đoạn này chuyển sang
cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước vẫn còn nhiều yếu
tố bao cấp chưa thực sự năng động trong khi các ngân hàng
nước ngoài rất linh hoạt chỉ nhìn vào hiệu quả kinh tế của các dự
án vốn để cho vay .Rõ ràng các ngân hàng trong nước đã co
cụm hơn trong hoạt động tín dụng .Đáng chú ý hơn việc hạ thấp
các điều kiện vay vốn đến đôi khi không quản lý được các
nguồn thu nợ đã tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các
ngân hàng gây ảnh hưởng nghiêm trọng đén đời sống kinh
tế,chính trị ,xã hội Việt Nam .
Hiện nay, thị trường ngoại tệ có những dấu hiệu mất cân
bằng thể hiện qua tỷ giá trong giao dịch của các NHTM liên tục
ở mức sát trần NHNN phải can thiệp để hỗ trơ thị trường một số
35
ngoại tệ đăp ứng nhu cầu thanh toán gặp khó khăn ...Thời gian
qua ,nhu cầu ngoại tệ nhập khẩu xăng dầu trên thị trường quốc
tế tăng mạnh do giá xăng dầu trên thị trường quốc tế tăng trong
khi đó nguồn ngoại tệ từ xuất khẩu dầu thô cũng tnăng nhưng
chưa bán lại cho ngân hàng. Vì trong vòng hơn 1 năm qua, lãi
suất USD trên thị trường quốc tế tăng do áp lực kiềm chế lạm
phát và do nhu cầu về tín dụng đối voứi đồng USD tăng, còn tại
Việt Nam tình hình lại diễn biến theo chiếu hướng ngược lại.
Năm 1999, nền kinh tế rơi vào tình trạng thiểu phát, chỉ số giá
cả của cả năm ở mức rất thấp ( chỉ có 0.1%) năm 2000 nền kinh
tế tiếp tục rơi vào tình trạng này, nhiều doanh nghiệp làm ăn
không có hiệu quả( hơn 60% các DNNN làm ăn thua lỗ) nên các
cơ hội đầu tư trong nước đã thiếu làm cho các NHTM gặp khó
khăn trong tìm kiếm dự án khả thi. Vì vậy, nhu cầu tín dụng đối
VND bị giảm sút. Do chênh lệch lãi suất USD giữa Việt Nam và
thị trường quốc tế nên các ngân hàng có xu hướng đầu tư vốn
USD ra nước ngoài nhiều hơn.
Lượng cung ngoại tệ giảm còn do quy định của Chính phủ
về tỷ lệ kết hối theo quyết định 180 ngày 30/9/1999 giảm tỷ lệ
kết hối từ 80% xuống còn 50% làm cho lượng USD mua được
của ngân hàng giảm mạnh. Kể từ tháng 4/2000, khi một loạt các
ngân hàng cả quốc doanh và cổ phần chạy đua nâng lãi suất tiết
36
kiệm USD lên cao hơn cả lãi suất tiết kiệm của VND gần như ở
tất cả các kỳ hạn, vì lý do này mà người dân có xu hướng
chuyển các khoản tiền gửi của mình từ VND sang USD. Nhiều
người muốn mua USD tại thị trường tự do làm lượng cầu tăng
nên giá USD tăng
Các NHTM Việt Nam nói chung đều có vốn tự có thấp, kinh
doanh ngoại hối đòi hỏi phải có trình độ nnhạy bén, bản lĩnh.
Việc quy định trạng thái ngoại tệ dư thừa hoặc dư thiếu cuối
ngày theo QĐ 180 NHNN năm 1998 là không được vượt quá
30% (trong đó USD là 15%) vốn tự có của ngân hàng là cứng
nhắc, không tạo ra thông thoáng để các NHTM tận dụng thời cơ
thuận lợi khi trên thị trường quốc tế các ngoại tệ thường xuyên
biến động thậm chí lâm vào tình trạng mất giá, phá hoặc nâng
giá ngoại tệ thì việc quy định buộc các ngân hàng chỉ được phép
dư thừa 15% khi USD lên giá hoặc đối với các ngaọi tệ khác là
không hợp lý.
Các NHTM Việt Nam có mức độ rủi ro cao nhất là rủi ro
quốc tế nên đôi khi làm mất uy tín và khách hàng. Quá trình hội
nhập quốc tế về ngân hàng có nghĩa là gia tăng sự giao dịch với
bên ngoài với quy mô lớn hơn, sâu sắc hơn trong khi các ngân
hàng trong nước Việt Nam vẫn còn thiếu kinh nghiệm chưa nắm
vững tình hình tài chính của những đối tác nhập khẩu hàng hoá
37
Việt Nam. Một số NHTM đã bảo lãnh cho doanh nghiệp mở
L/C nhập hàng trả chậm quá ồ ạt, tràn lan, thẩm định hồ sơ qua
loa, đại khái. Thực tế cho thấy, mặt hàng nhập đó thường là các
mặt hàng đã qua sử dụng, những mặt hàng tồn kho khó tiêu thụ
ở nước ngoài hoặc những mặt hàng ở trong nước, vì vậy hiệu
quả kinh doanh rất thấp. Thực chất việc mua hàng trả chậm của
doanh nghiệp có sự bảo lãnh của ngân hàng là một hình thức
vay vốn, tiền hàng bao gồm cả lãi suất trả chậm cộng thêm chi
phí bảo lãnh của ngân hàng cho nen trong quá trình kinh doanh,
tỷ giá biến động do ảnh hưởng của nền kinh tế do trình độ quản
lý kinh doanh yếu kém thậm chí thua lỗ phá sản... dẫn đến
doanh nghiệp không có khả năng thanh toán và ngân hàng bảo
lãnh phải thực hiện trách nhiệm trả thay cho đơn vị. Các khoản
cho vay “ bắt buộc” này thực té rất khó thu hồi nợ vì không có
tài sản bảo đảm, hoặc nếu có thì tái sản rất khó phát mãi để thu
hồi nợ.
Chính sách ưu đãi về thuế của nhà nước nhằm khuyến khích
đầu tư nước ngoài đã góp phần giúp cho các ngân hàng nước
ngoài dễ dàng chiếm lĩnh thị trường Việt Nam. Các ngân hàng
nước ngoài chịu thuế thu nhập doanh nghiệp với thuế suât chung
là 25% trong khi các ngân hàng Việt Nam phải chịu thuế suất
chung là 32%. Khoản chênh lệch này là khá lứon đủ để các ngân
38
hàng nước ngoài đánh bại các NHTM Việt Nam trong một cuộc
cạnh tranh không cân sức ngay trên sân nhà cùng với sức mạnh
về vốn, công nghệ, phương tiện thanh toán nhanh gọn, chính
xác, phí dịch vụ thấp, sự đa dạng hoá đã góp phần giúp cho các
chi nhánh ngân hàng nước ngoài từng bước vững chắc hình
thành và bám rễ vào thị trường Việt Nam .
Trên đây chỉ là một số các tồn tại trong kinh doanh đối ngoại
của các NHTM Việt Nam. Qua đó cho ta thấy được sụ yếu kém
của hệ thống ngân hàng Việt Nam so với các nước trên thế giới.
điều này đòi hỏi nước ta cân có những chính sách cải cách, tổ
chứ lại và khuyến khích sự phát triển của ngành ngân hàng tạo
động lực thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế Việt Nam đuổi kịp
sự phát triển chung của thế giới
39
CHƯƠNG III
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH
DOANH
ĐỐI NGOẠI CỦA CÁC NHTM VIỆT NAM
I. ĐỊNH HƯỚNG CỦA NHÀ NƯỚC
Cùng theo đà tăng trưởng hàng năm của nền kinh tế và sự
phát triển các quan hệ kinh doanh đối ngoại của đất nước nên tất
yếu các hoạt động của các NHTM nước ta cũng sẽ có bước phát
triển mạnh mẽ cả về quy mô lẫn kim nhạch hoạt động kinh
doanh. Các NHTM Việt Nam là ngân hàng của nhà nước nên
hoạt động của nó phải gắn với hoạt động kinh tế của nhà nước.
Kinh doanh đòi hỏi phải đạt hiệu quả kinh tế’ tạo được lợi nhuận
cao. Tuy nhiên hoạt động kinh doanh đối ngoại của NHTM cũng
như các hoạt động kinh doanh ngân hàng nội địa không thể chỉ
hướng vào mục tiêu lựo nhuận của bản thân từng ngân hàng làm
đầu mà phải nhằm vào mục tiêu rộng hơn là đảm bảo an toàn tài
sản, vốn ngoại tệ quốc gia góp phần thúc đẩy các quan hệ kinh tế
đồi ngoại của nước ta với chất lượng hiệu quả kinh tế- xã hội.
Tiềm lực tài chính của các NHTM nước ta rất nhỏ bé nên
phương châm hoạt động của các NHTM là hết sức thận trọng
40
không thực hiện các giải pháp kinh doanh theo ý đồ đầu tư phưu
lưu. phải đề cao phương thức hợp tác liên kết, lấy mục tiêu lợi
ích quốc gia làm đầu để chi phối quá trình tổ chức và điều hành
kinh doanh tác nghiệp ở từng ngân hàng riêng lẻ. Từng NHTM
phải lấy hoạt độngkinh doanh trong nước làm nền tảng, ddamr
bảo phát triển bền vững, tạo dựng đợc vị thế và tín nhiệm trên
thương trường nội địa làm cơ sở để phát triển kinh doanh đối
ngoại.
II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CẦN THỰC HIỆN
Toàn cầu hoá là một xu thế tất yếu khách quan, là vấn đê
kinh doanh đối ngoại giữa các quốc gia, và một hệ thống quốc tế
rộng lớn, chi phối các quan hệ kinh tế xã hội trong từng quốc gia
và trên phạm vi toàn cầu.
Sức mạnh chi phối của quá trình này là sự chu chuyển nhanh
chóng của các luồng vốn quốc tế ( ngắn hạn và dài hạn) trên
phạm vi toàn cầu với sự giúp đỡ của hệ thống công nghệ thông
tin hiện đại. Một khối lượng lớn luồng vốn quốc tế sẽ đổ vào
mõi quốc gia nếu như nơi đây môi trường đầu tư và các điều
khác hấp dẫn. Tuy nhiên cũng có thể dòng vốn quốc tế lại “ ào
ào rút chạy” nếu như môi trường kinh doanh trở nên tồi tệ. Các
luồng vốn quốc tế có thể nâng đỡ một nền kinh tế và tạo nên sự
thần kỳ về tăng trưởng, nhưng mặt khác nếu có sự “ hoảng loạn,
41
rút chạy ồ ạt” của các luồng vốn quốc tế cũng sẽ để lại các cuộc
khủng hoảng tài chính tiền tệ. Bài học này đã được rút ra từ cuộc
kủng hoảng ở khu vực vừa qua. Một quốc gia khó có thể hấp thụ
một cách hữu hiệu một khối lượng lớn nguồn vốn quốc tế nếu
thiếu vắng một hệ thống ngân hàng mà doanh nghiệp lớn mạnh,
đội ngũ cán bộ quản lý giỏi và hệ thống luật pháp minh bạch. Vì
vậy, muốn có hệ thống ngân hàng lành mạnh cần tạo lập một sân
chơi bình đẳng trên cơ sở từng bước mở cửa, hội nhập quốc tế
về ngân hàng nhằm nâng cao kỹ năng quản lý và sức ép cạnh
tranh, tạo động lực để phát triển.
Như ta đã biết từ phần thực trạng cho ta thấy mức độ mở cửa
hội nhập của ngân hàng Việt Nam cho đến nay là chưa tương
thích hay thấp hơn mức độ mở cửa thương mại hàng hoá và một
số dịch vụ khác của Việt Nam. Để mở rộng kinh doanh đối
ngoại, tăng doanh số, quy mô hoạt động, tiếp tục đổi mói toàn
diện và sâu sác nhằm thích nghi với cơ chế thị trường, đổi mới
công nghệ trình độ quản lý kinh doanh, gắn kinh doanh nội địa
với kinh doanh đối ngoại, các NHTM nên thực hiện:
Trong thời gian hiện nay, tuỳ thuộc chức năng nhiệm vụ
từng NHTM nên có một mô hình tổ chức hoạt động phù hợp,
không nên mở rộng thêm diện các NHTM được phép kinh
doanh theio thị trường tiền tệ quốc tế nữa. Triển khai chặt chẽ
42
quy chế quản lý ngoại tệ thuộc tất cả các nguồn dự trữ của nước
ta thường xuyên gửi ở nước ngoài, đặc biệt là nguồn dự trữ tác
nghiệp các NHTM được phép.
Đổi mới công nghệ ngân hàng trên hai mặt: phát triển các
nghiệp vụ ngân hàng và kỹ nghệ hiện đại, để NHTM nhanh
chóng thoát ra khỏi sự giản đơn về nghiệp vụ phục vụ sự phát
triển đa dạng của đời sống kinh tế xã hội cần được sử dụng rộng
rãi các hoạt đôngj về tín dụng và thanh toán quốc tế, bảo lãnh,
chiết khấu hối phiếu, kinh doanh hối đoái, đại lý, uỷ thác, thanh
toán séc, tư vấn...trong lĩnh vực dịch vụ thẻ tín dụng quốc tế các
NHTM Việt Nam cần liên kết lại dưới hình thức một công ty
kinh doanh thẻ tín dụng là chức năng trung tâm xử lý thanh toán.
trong lĩnh vực thanh toán quốc tế về xuất khẩu hàng hoá và dịch
vụ đối ngoại thu ngoại tệ cần sớm hình thành nhằm hỗ trợ luân
chuyênr vốn nnhanh cho các hoạt đọng xuất nhập khẩu ở nước
ta.
Chính phủ, bộ Tài chính và NHNN nên nghiên cứu bổ sung
thêm vốn điều lệ cho các NHTMQD tạo điều kiện thực hiện bốn
chương trình thanh toán hiện đại:
+ Xây dựng hệ thống nội bộ mỗi ngân hàng;
+ Nối mạng thanh toán quốc tế;
43
+ Xây dựng hệ thống thanh toán liên ngân hàng;
+ Xây dựng hệ thống xử lý tài khoản của khách hàng;
để đáp ứng được các tieu chuẩn quốc tế.
Về chiến lược chính sách kinh doanh lên hướng mạnh vào
thu hút vốn đầu tư nước ngoài, hình thành và phát triển các chi
nhánh của các NHTM Việt Nam ở nước ngoài. Với phương
châm hợp tác liên kết các NHTM nên phân công thị trường ở mỗ
nước chỉ nên mở một chi nhánh NHTM Việt Nam để hoạt động
kinh doanh.
Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam nên có bộ phận điều phối
việc hợp tác, liên kết giữa các NHTM Việt Nam trong lĩnh vực
kinh doanh đối ngoại trên thị trương tiền tệ quốc tế tạo cơ hội
cho các ngân hàng hội viên gặp nhau trao đổi thông tin, học hỏi
kinh nghiệm, tư vấn nghiệp vụ lẫn nhau.
Tăng cường hệ thống kiểm soát nội bộ, giám sát tài chính
nhằm duy trì lành mạnh, ổn định và có hiệu quả của toàn hệ
thống ngân hàng với mục đích bảo toàn vốn phòng ngừa rủi ro
Tăng cường cán bộ có học vấn và phẩm chất đạo đức đủ sức
gánh vác nhũng chức năng nhiệm vụ ngày càng đa dạng của các
2. Nâng cao chất lượng cán bộ không chỉ về chuyên môn nà cả
44
về ngoại ngữ, tin học, khả năng ứng xử thu hút nhân tài cũng
như những sinh viên Việt Nam xuất sắc.
Tiếp tục hệ thống văn bản pháp luật của nghành tạo khuôn
khổ pháp lý cần thiết đảm bảo an toàn hiệu quả và sự thông
thoáng, môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các NHTM Việt
Nam và các ngân hàng nước ngoài chủ động và khôn khéo tham
gia quá trình hội nhập quốc tế, hợp tác với các tổ chức tài chính
tiền tệ và hệ thống ngân hàng nước ngoài, nhất là sau khi hiệp
định thương mại Việt- Mỹ là chât xúc tác đầy hứa hẹn trong
hoạt động trên thị trường quốc tế của Việt Nam. Phát huy nội
lực tranh thủ ngoại lực học hỏi kinh nghiệm, sự đầu tư giúp đỡ
của nước ngoài nhưng phải giữ vững độc lập chủ quyền và định
hướng XHCN
Trước bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hiện nay đòi hỏi có sự
cải cách hệ thống ngân hàng để tạo tiền đề thúc đẩy hoạt động
của NHTM trên thương trờng quốc tế. Điều này đặt ra mục tiêu
trong năm tới của ngân hàng là phải sử lý tốt các tồn tại về tài
chính đổi mới hơn nữa mô hình tổ chức đa dạng hoá các dịch vụ
ngân hàng, từng bước hình thành hệ thống ngân hàng tự động sử
dụng các thiết bị ATM cho phép ngân hàng trực tiếp giao dịch
hoạt động suốt ngày, phát triển dịch vụ ngân hàng E-Banking,
ngân hàng mạng Net-bank... Những mục tiêu này rất khó thực
45
hiện do việc sử dụng tiền mặt ở Việt Nam còn phổ biến nhưng
trên thị trường quốc tế thì nó sẽ cũng cấp cho khách hàng trong
và ngoài nước, những thành phố trọng điểm có giao dịch thương
mại những dịch vụ ngân hàng có chất lượng cao giữ vững niềm
tin đối với khách hàng dần dần tạo lập uy tín chỗ đứng trên thị
trường quốc tế của các NHTM Việt Nam
Chú thích
1.NHTM : Ngân hàng thương mại
2.NHNN: Ngân hàng nhà nước
KẾT LUẬN
Hoạt động của ngân hàng dù là hoạt động đối nội hay đối
ngoại bao giờ nó cũng đóng vai trò quan trọng, nó đảm bảo cho
các nhà đầu tư có thể tiếp cận đẽ dàng tới các nguồn vốn tín
dụng ngân hàng, các hoạt động thanh toán được thực hiện thuận
46
lợi nhanh chóng và an toàn... nhằm đẩy nhanh tốc độ chu
chuyển vốn.
Trong điều kiện và hoàn cảnh của mình các NHTM Việt
Nam có tiềm năng tài chính nhỏ bé, nguồn thu lợi nhuân từ hoạt
động trong nước để có thể tài trợ cho hoạt động đầu tư nước
ngoài còn hạn chế, kinh nghiệm hoạt động kih doanh quốc tế
chia có nên chủ yếu đầu tư vào các sản phẩm tài chính có mức
độ rủi ro thấp, quy mô nhỏ, để tích luỹ lợi nhuận từhoạt động
kinh doanh nước ngoài để tự phát triển
Với yêu cầu phát triển kinh tế Việt Nam trong những năm
tớithì cần phải có một hệ thông ngân hàng phát triển. Mở rộng
hơn nữa hoạt động kinh doanh đối ngoại là một hướng lớn cần
chú trọng để đầu tư phát triển vì nó là chìa khoá then chốt cho
công cuộc đẩy mạnh đổi mới sâu rộng hoạt động của NHTM
Việt Nam có như thế mới phá vỡ thế trầm lắng, trị trệ, co cụm,
hướng nội cứng nhắc toạ đột phá thực sự trong kinh doanh tiền
tệ hiện nay. Đó cũng là một chặng đường dài đầy khó khăn mà
nghàng ngân hàng cần vượt qua. Nhà nước ta cũng phải có
những chính sách ưu đãi đặc biệt. Nó cũng là trách nhiệm chung
cho những người hoạt động trong ngân hàng- tài chính nói riêng
và toàn xã hội nói chung. Nó cũng là phương hướng cho những
thế hệ sinh viên hiện nay- chủ tương lai của đất nước phấn đấu.
47
Nếu có sự nỗ lực cố gắng thì NHTM Việt Nam chắc chắn sẽ trở
thành ngân hàng có chỗ đứng tren thị trường quốc tế là điều
không xa.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đề tài - Thực trạng và giải pháp để nâng cao hiệu quả kinh doanh đối ngoại của các ngân hàng thương mại Việt Nam.pdf