Tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp đánh giá rủi ro trước khi cho vay đối với các dự án đầu tư tại Ngân hàng MHB-Chi nhánh Hà Nội: Lời mở đầu
Việt Nam gia nhập WTO tạo ra một sân chơi mới cho thị trường tài chính tại Việt Nam. Trong bối cảnh hội nhập mở rộng tài trợ cho các dự án đầu tư là một chính sách phù hợp để tăng trưởng tín dụng. Tuy nhiên, việc mở rộng qui mô đầu tư đòi hỏi phải có một hệ thống ngân hàng thích ứng để hỗ trợ - các doanh nghiệp yêu cầu cung cấp dịch vụ tài chính tốt hơn, các công ty đa quốc gia cũng muốn có các dịch vụ tài chính trong nước hỗ trợ cho vốn đầu tư của mình. Điều này thúc đẩy sự hình thành các chi nhánh ngân hàng tại Việt Nam, cũng như thúc đẩy sự phát triển của các ngân hàng trong nước mở rộng qui mô và chất lượng dịch vụ nhằm đáp ứng yêu cầu mở rộng sản xuất của các doanh nghiệp trong nước. Nhưng tăng trưởng tín dụng đi đôi với chất lượng tín dụng và áp dụng các chuẩn mực quốc tế mới là cách thức đưa các ngân hàng thương mại (NHTM) trong nước hội nhập một cách thực chất và bền vững, có khả năng cạnh tranh cao với các NHTM nước ngoài.
Hiện nay, dự án đầu tư đang giữ một vị ...
87 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1049 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp đánh giá rủi ro trước khi cho vay đối với các dự án đầu tư tại Ngân hàng MHB-Chi nhánh Hà Nội, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Việt Nam gia nhập WTO tạo ra một sân chơi mới cho thị trường tài chính tại Việt Nam. Trong bối cảnh hội nhập mở rộng tài trợ cho các dự án đầu tư là một chính sách phù hợp để tăng trưởng tín dụng. Tuy nhiên, việc mở rộng qui mô đầu tư đòi hỏi phải có một hệ thống ngân hàng thích ứng để hỗ trợ - các doanh nghiệp yêu cầu cung cấp dịch vụ tài chính tốt hơn, các công ty đa quốc gia cũng muốn có các dịch vụ tài chính trong nước hỗ trợ cho vốn đầu tư của mình. Điều này thúc đẩy sự hình thành các chi nhánh ngân hàng tại Việt Nam, cũng như thúc đẩy sự phát triển của các ngân hàng trong nước mở rộng qui mô và chất lượng dịch vụ nhằm đáp ứng yêu cầu mở rộng sản xuất của các doanh nghiệp trong nước. Nhưng tăng trưởng tín dụng đi đôi với chất lượng tín dụng và áp dụng các chuẩn mực quốc tế mới là cách thức đưa các ngân hàng thương mại (NHTM) trong nước hội nhập một cách thực chất và bền vững, có khả năng cạnh tranh cao với các NHTM nước ngoài.
Hiện nay, dự án đầu tư đang giữ một vị trí quan trọng và tham gia vào hầu hết các quan hệ kinh tế, trong đó có quan hệ tín dụng với các NHTM. Đầu tư theo dự án là một trong những phương thức đầu tư được đánh giá là có hiệu quả nhất mà các nhà đầu tư trên thế giới đã tổng kết và coi đó là cách thức thực hiện chủ yếu khi quyết định đầu tư đối với mọi công trình.
Đứng về phương diện Ngân hàng, hoạt động tín dụng nói chung cà hoạt động cho vay theo dự án nói riêng đem lại nguồn thu nhập chủ yếu cho Ngân hàng, nhưng tiềm ẩn nhiều rủi ro nhất. Do đó Ngân hàng luôn phải giám sát chặt chẽ hoạt động này để đảm bảo hoạt động hiệu quả nhưng an toàn. Đánh giá rủi ro dự án đầu tư giúp cho Ngân hàng phần nào dự báo được hiệu quả tài chính và tính khả thi của từng dự án để có thể chọn lọc được các cơ hội đầu tư tốt, có hiệu quả, có khả năng thu hồi vốn và do đó hạn chế rủi ro cho vay sai lầm, gây hậu quả không nhỏ đến hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Do vậy hoạt động đánh giá rủi ro trước khi cho vay là một hoạt động vô cùng cần thiết và có ý nghĩa rất quan trọng trong hoạt động cho vay của Ngân hàng.
Qua thực tế tìm hiểu tình hình đánh giá rủi ro trước khi cho vay của Ngân hàng MHB-chi nhánh Hà Nội, tôi đã chọn nghiên cứu đề tài “Đánh giá rủi ro trước khi cho vay đối với các dự án đầu tư tại Ngân hàng MHB-chi nhánh Hà nội.Thực trạng và giải pháp” , với mục đích đánh giá những kết quả đã đạt được, xem xét những khó khăn còn tồn tại và đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác này hơn nữa tại Ngân hàng MHB trong thời gian tới.
Chuyên đề này được kết cấu như sau :
Chương I : Lý luận chung về dự án đầu tư, tín dụng đầu tư phát triển và rủi ro.
Chương II : Thực trạng công tác đánh giá rủi ro trước khi cho vay đầu tư tại Ngân hàng MHB-chi nhánh Hà nội.
Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao công tác đánh giá rủi ro trước khi cho vay đối với dự án vay vốn đầu tư tại Ngân hàng MHB-chi nhánh Hà nội.
Trong thời gian thực tập và hoàn thành chuyên đề này tôi xin chân thành cảm ơn giáo viên hướng dẫn Ths. Nguyễn Thu Hà, cùng các anh chị phòng thẩm định và quản lý tín dụng Ngân hàng MHB-chi nhánh Hà nội đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ tôi hoàn thành chuyên đề này.
Hà nội,tháng 4 năm 2008
Sinh viên
Nguyễn Thị Hồng Ngọc
Chương I : Lý luận chung về dự án đầu tư, tín dụng đầu tư phát triển và rủi ro.
I. Đầu tư :
1. Khái niệm :
Đầu tư theo nghĩa rộng, là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về cho nhà đầu tư các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó.
Nguồn lực của hoạt động đầu tư tạo ra có thể là sự tăng them các tài sản tài chính (tiền vốn), tài sản vật chất (nhà máy,đường sá, các của cả vật chất khác…), tài sản trí tuệ (trình độ văn hóa, chuyên môn, khoa học kỹ thuật…) và nguồn nhân lực có đủ điều kiện để làm việc với năng suất cao hơn trong nền sản xuất xã hội.
2. Phân loại :
Có nhiều cách phân loại hoạt động đầu tư, tuy nhiên xuất phát từ bản chất và phạm vi lợi ích do đầu tư đem lại, có thể phân chia thành 3 loại hình đầu tư cơ bản : đầu tư tài chính, đầu tư thương mại, đầu tư phát triển.
II. Dự án đầu tư :
Khái niệm :
Dự án đầu tư có thể được xem xét từ nhiều góc độ như về mặt hình thức, góc độ quản lý, kế hoạch hóa hay xem xét về mặt nội dung thì có những khái niệm khác nhau ứng với mỗi góc độ đó :
Là tập hợp các hoạt động nhằm thực hiện một mục tiêu nhất định, trong quá trình thực hiện mục tiêu đó cần có các đầu vào và kết quả thu được là các đầu ra.
Là một lĩnh vực haotj động đặc thù, một nhiệm vụ cụ thể cần phải được thực hiện với phương pháp riêng, nguồn lực riêng và theo một kế hoạch tiến độ nhằm tạo ra một thực thể mới.
Dự án là những nỗ lực có hạn nhằm tạo ra một sản phẩm hoặc một dịch vụ nhất định
Ở Việt Nam, khái niệm về dự án được thể hiện ở các văn bản pháp quy. Nghị định 52/1999/NĐ-CP đã xác định : “ Dự án đầu tư” là tập hợp những đề xuất có liên quan đến việc bỏ vốn để tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo những cơ sở vật chất nhất định nhằm đạt được sự tăng trưởng về số lượng hoặc duy trì, cải tiến,nâng cao chất lượng sản phẩm hoặc dịch vụ trong khoảng thời gian xác định.
2. Chu kỳ của dự án :
Chu kỳ của dự án đầu tư là các bước hoặc các giai đoạn mà một dự án phải trải qua, bắt đầu từ khi dự án mới chỉ là ý đồ đến khi dự án được hoàn thành cà chấm dứt hoạt động.
Ta có thể minh hoạ chu kỳ của dự án theo sơ đồ sau đây:
ý đồ về dự án đầu tu
Sản xuất kinh
doanh
Thực hiện đầu tư.
Chuẩn bị đầu tư
ý đồ về dự án mới
Hình 1.1: Chu kì của dự án đầu tư.
* Giai đoạn chuẩn bị đầu tư :
- Nghiên cứu về sự cần thiết phải đầu tư và quy mô đầu tư
- Tiến hành tiếp xúc, thăm dò thị trường trong nước và ngoài nước để xác định nhu cầu tiêu thụ, khả năng cạnh tranh của sản phẩm, tìm nguồn cung ứng thiết bị, vật tư cho sản xuất, xem xét khả năng về nguồn vốn đầu tư và lựa chọn hình thức đầu tư.
- Tiến hành điều tra, khảo sát, và chọn địa điểm xây dựng
- Lập dự án đầu tư
- Gửi hồ sơ dự án và văn bản trình người có thẩm quyền quyết định đầu tư, tổ chức cho vay vốn đầu tư và cơ quan thẩm định dự án đầu tư.
* Giai đoạn thực hiện đầu tư:
- Xin giao hoặc thuê đất (đối với dự án sử dụng đất)
- Xin giấy phép xây dựng(nếu yêu cầu phải có giấy phép xây dựng ) và giấy phép khai thác tài nguyên (nếu có khai thác tài nguyên)
- Thực hiện việc đền bù giải phóng mặt bằng, thực hiện kế hoạch tái định cư và phục hồi, chuẩn bị mặt bằng xây dựng
- Mua sắm thiết bị và công nghệ
- Thực hiện việc khảo sát, thiết kế xây dựng
- Thẩm định, phê duyệt thiết kế và tổng dự toán, dự toán công trình.
- Tiến hành thi công xây lắp
- Kiểm tra và thực hiện hợp đồng
- Quản lý kỹ thuật, chất lượng thiết bị và chất lượng xây dựng
- Vận hành thử, nghiệm thu, quyết toán vốn đầu tư, bàn giao và thực hiện bảo hành sản phẩm.
* Giai đoạn kết thúc đầu tư :
- Nghiệm thu bàn giao công trình
- Thực hiện việc kết thúc xây dựng công trình
- Vận hành công trình và hướng dẫn sử dụng công trình
- Bảo hành công trình
- Quyết toán vốn đầu tư
- Phê duyệt quyết toán
- Hoàn trả vốn đầu tư
Quá trình nghiên cứu, soạn thảo một dự án đầu tư được thực hiện theo từng giai đoạn rất cẩn thận nhưng không thể tránh khỏi những sai sót nhất định. Do đó, chúng ta cần phải có một quy trình đánh giá rủi ro trước khi cho vay vốn dự án thích hợp nhằm phát hiện ra những sai sót để có biện pháp khắc phục, đảm bảo tính khả thi của dự án.
2. Các nguồn vốn cho dự án :
2.1. Nguồn vốn trong nước
* Nguồn vốn nhà nước :
- Vốn ngân sách : Được hình thành từ nguồn thu thuế và nguồn thu khác cộng với tiết kiệm chi cho ngân sách. Đây là nguồn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng cho các đơn vị hoạt động đầu tư trong nước. Nguồn này hiện nay chủ yếu được tập trung cho đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế và xó hội, đầu tư phát triển một số công trình then chốt. Bảo đảm vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh trong nền kinh tế.
Đây chính là nguồn chi của ngân sách Nhà nước cho đầu tư. Đó là một nguồn vốn đầu tư quan trọng trong chiến lựơc phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Nguồn vốn này thường được sử dụng cho các dự án kết cấu kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, hỗ trợ cho các dự án của doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực cần sự tham gia của Nhà nước, chi cho các công tác lập và thực hiện các quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng, lãnh thổ, quy hoạch xây dựng đô thị và nông thôn.
- Vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước: Cùng với quá trình đổi mới và mở cửa, tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước ngày càng đóng vai trò đáng kể trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước có tác dụng tích cực trong việc giảm đáng kể việc bao cấp vốn trực tiếp của Nhà nước. Với cơ chế tín dụng, các đợn vị sử dụng nguồn vốn này phải đảm bảo nguyên tắc hoàn trả vốn vay. Chủ đàu tư là người vay vốn phải tính kỹ hiệu quả đầu tư, sử dụng vốn tiết kiệm hơn. Vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước là một hình thức quá độ chuyển từ hình thức cấp phát ngân sách sang phương thức tín dụng đối với các dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp.
- Nguồn vốn đầu tư từ doanh nghiệp Nhà nước: Được xác định là thành phần chủ đạo trong nền kinh tế, các doanh nghiệp Nhà nước vẫn nắm giữ một khối lượng vốn khá lớn. Mặc dù vẫn còn một số hạn chế nhưng đánh giá một cách công bằng thì khu vực thì khu vực kinh tế Nhà nước với sự tham gia của các doanh nghiệp Nhà nước vẫn đóng một vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần.Với chủ trương tiếp tục đổi mới doanh nghiệp Nhà nước, hiệu quả hoạt động của khu vực kinh tế này ngày càng được khẳng định, tích luỹ của các doanh nghiệp Nhà nước ngày càng gia tăng và đóng góp đáng kể vào tổng quy mô vốn đầu tư của toàn xã hội.
* Nguồn vốn từ khu vực tư nhân.
Nguồn vốn từ khu vực tư nhân bao gồm phần tiết kiệm của dân cư, phần tích luỹ của các doanh nghiệp dân doanh, các hợp tác xã. Theo đánh giá sơ bộ, khu vực kinh tế ngoài Nhà nước vẫn sở hữu một lượng vốn tiềm năng rất lớn mà cuă được huy động triệt để.
Cùng với sự phát triển kinh tế của đất nước, một bộ phận không nhỏ trong dân cư có tiềm năng về vốn do có nguồn thu nhập gia tăng hay do tích luỹ tryuền thống. Nhìn tổng quan nguồn vốn tiềm năng trong dân cư không phải là nhỏ, tồn tại dưới dạng vàng, ngoại tệ, tiền mặt ,nguồn vốn này xấp xỉ bằng 80% tổng nguồn vốn huy động của toàn bộ hệ thống ngân hàng. Vốn của dân cư phụ thuộc vào thu nhập và chi tiêu của các hộ gia đình. Quy mô của các nguồn tiết kiệm này phụ thuộc vào:
- Trình độ phát triển của đất nước (ở những nước có trình độ phát triển thấp thường có quy mô và tỷ lệ tiết kiệm thấp).
+ Tập quán tiêu dùng của dân cư.
+ Chính sách động viên của Nhà nước thông qua chính sách thuế thu nhập và các khoản đóng góp với xã hội.
2.1. Nguồn vốn nước ngoài.
Có thể xem xét nguồn vốn đầu tư nuớc ngoài trên phạm vi rộng hơn đó là dòng lưu chuyển vốn quốc tế (international capital flows). Về thực chất, các dòng lưu chuyển vốn quốc tế là biểu thị quá trình chuyển giao nguồn lực tài chính giữa các quốc gia trên thế giới. Trong các dòng lưu chuyển vốn quốc tế, dòng từ các nước phát triển đổ vào các nước đang phát triển thường được các nước thế giới thứ ba đặc biệt quan tâm. Dòng vốn này diễn ra với nhiều hình thức. Mỗi hình thức có đặc điểm, mục tiêu và điều kiện thực hiện riêng, không hoàn toàn giống nhau. Theo tính chất lưu chuyển vốn, có thể phân loại các nguồn vốn nước ngòai chính như sau:
- Tài trợ phát triển vốn chính thức (ODF - official development finance). Nguồn này bao gồm: Viện trợ phát triển chính thức (ODA -offical development assistance) và các hình thức viện trợ khác. Trong đó, ODA chiếm tỷ trọng chủ yếu trong nguồn ODF;
- Nguồn tín dụng từ các ngân hàng thương mại;
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài;
- Nguồn huy động qua thị trường vốn quốc tế.
* Nguồn vốn ODA.
Đây là nguồn vốn phát triển do các tổ chức quốc tế và các chính phủ nước ngoài cung cấp với mục tiêu trợ giúp các nước đang phát triển. So với các hình thức tài trợ khác, ODA mang tính ưu đãi cao hơn bất cứ nguồn vốn ODF nào khác. Ngoài các điều kiện ưu đãi về lãi suất, thời hạn cho vay tương đối lớn, bao giờ trong ODA cũng có yếu tố không hoàn lại (còn gọi là thành tố hỗ trợ) đạt ít nhất 25%.
Mặc dù có tính ưu đãi cao, song sự ưu đãi cho loại vốn này thường di kèm các điều kiện và ràng buộc tương đối khắt khe (tính hiệu quả của dự án, thủ tục chuyển giao vốn và thị trường…). Vì vậy, để nhận được loại tài trợ hấp dẫn này với thiệt thòi ít nhất, cần phải xem xét dự án trong điều kiện tài chính tổng thể. Nếu không việc tiếp nhận viện trợ có thể trở thành gánh nặng nợ nần lâu dài cho nền kinh tế. Điều này có hàm ý rằng, ngoài những yếu tố thuộc về nội dung dự án tài trợ, còn cần có nghệ thuật thoả thuận để vừa có thể nhận vốn, vừa bảo tồn được những mục tiêu có tính nguyên tắc.
* Nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại.
Điều kiện ưu đẫi dành cho loại vốn này không dễ dàng như đối với nguồn vốn ODA. Tuy nhiên, bù lại nó có ưu điểm rõ ràng là không có gắn với các ràng buộc về chính trị, xã hội. Mặc dù vậy, thủ tục vay đối với nguồn vốn này thường là tương đối khắt khe, thời gian trả nợ nghiêm ngặt, mức lãi suất cao là những trở ngại không nhỏ đối với các nước nghèo.
Do được đánh giá là mức lãi suất tương đối cao cũng như sự thận trọng trong kinh doanh ngân hàng (tính rủi ro ở nước đi vay, của thị trường thế giới và xu hướng lãi suất quốc tế), nguồn vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại thường được sử dụng chủ yếu để đáp ứng nhu cầu xuất khẩu và thường là ngắn hạn. Một bộ phận của nguồn vốn này có thể được dùng để đầu tư phát triển. Tỷ trọng của nó có thể gia tăng nếu triển vọng tăng trưởng của nền kinh tế là lâu dài, đặc biệt là tăng trưởng xuất khẩu của nước đi vay là sáng sủa.
* Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài có đặc điểm cơ bản khác nguồn vốn nước ngoài khác là việc tiếp nhận nguồn vốn này không phát sinh nợ cho nước tiếp nhận. Thay vì nhận lãi suất trên vốn đầu tư, nhà đầu tư sẽ nhận được phần lợi nhuận thích đáng khi dự án đầu tư hoạt động có hiệu quả. Đầu tư trực tiếp nước ngoài mang theo toàn bộ tài nguyên kinh doanh vào nước nhận vốn nên có thể thúc đẩy phát triển ngành nghề mới, đặc biệt là những ngành đòi hỏi cao về trình độ kỹ thuật, công nghệ hay cần nhiều vốn. Vì thế nguồn vốn này có tác dụng cực kỳ to lớn đối với quá trình công nghiệp hoá, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tốc độ tăng trưởng nhanh ở các nước nhận đầu tư .
* Thị trường vốn quốc tế.
Với xu hướng toàn cầu hoá, mối liên kết ngày càng tăng của các thị trường vốn quốc gia vào hệ thống tài chính quốc tế đã tạo nên vẻ đa dạng vế các nguồn vốn cho mỗi quốc gia và làm tăng khối lượng vốn lưu chuyển trên phạm vi toàn cầu. Ngay tại nhiều nước đang phát triển, dòng vốn đầu tư qua thị trường chứng khoán cũng gia tăng mạnh mẽ. Mặc dù vào nửa cuối những năm 1990, có sự xuất hiện của một số cuộc khủng hoảng tài chính nhưng đến cuối năm 1999 khối lượng giao dịch chứng khoán tại các thị trường mới nổi vẫn đáng kể. Riêng năm 1999, dòng vốn đầu tư dưới dạng cổ phiếu vào Châu á đã tăng gấp 3 lần năm 1998, đạt 15 tỷ USD.
Để đảm bảo tiến độ thực hiện đầu tư của dự án, vừa để tránh ứ đọng vốn, nên các nguồn tài trợ cần được xem xét không chỉ về mặt số lượng mà về cả thời điểm nhận được tài trợ.
Phải so sánh nhu cầu về vốn với khả năng đảm bảo vốn cho dự án từ các nguồn về số lượng và tiến độ thông qua lập bảng cân đối vốn đầu tư.
III. Đặc điểm và vai trò của tín dụng đầu tư phát triển với nền kinh tế:
Khái niệm :
Tín dụng đầu tư phát triển là hoạt động sử dụng vốn tín dụng nhằm tiến hành các hoạt động tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng các cơ sở vật chất kỹ thuật nhằm duy trì các tiềm lực sẵn có, làm tăng tài sản mới và năng lực sản xuất mới cho các cơ sở sản xuất kinh doanh nói riêng và nền kinh tế nói chung.
Đối với các doanh nghiệp khi nguồn vốn tự có hay vốn huy động không đủ tài trợ cho việc triển khai dự án thì họ sẽ sử dụng vốn tín dụng Ngân hàng. Vốn này được huy động qua các trung gian tàì chính là hệ thống Ngân hàng và các tổ chức tín dingj sản xuất kinh doanh. Các doanh nghiệp khi vay vốn tín dụng Ngân hàng để triển khai các dự án đầu tư của mình, trong quá trình vận hành phát huy tác dụng cần thu hồi đủ vốn để hoàn trả vốn đầu tư ban đầu và đem lại lợi ích cho chủ đầu tư.
Đặc điểm của tín dụng ĐTPT :
Tín dụng đầu tư phát triển có sự tham gia của các Ngân hàng vào dự án đầu tư. Điều này thể hiện ở chỗ khi doanh nghiệp muốn vay vốn tín dụng để đầu tư họ phải có dự án và dự án đó được Ngân hàng thẩm định trước khi cho vay. Khác với hoạt động đầu tư bằng vốn tự có, doanh nghiệp phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về hiệu quả dự án, thì tín dụng đầu tư phát triển có sự chịu trách nhiệm về hiệu quả của dự án. Ngân hàng giám sát, đánh giá từ khi trình hồ sơ xin vay vốn, cho đến khi thực hiện dự án, vận hành kết quả của dự án. Trong quá trình sử dụng vốn, Ngân hàng cũng tham gia dưới góc độ xem vốn có sử dụng đúng mục đích không, tiến hành giải ngân theo khối lượng công việc đã hoàn thành và nghiệm thu.
Các kết quả của tín dụng đầu tư phát triển chủ yếu là để haotj động chứ không phải dịch chuyển. Tín dụng đầu tư phát triển tạo ra các tài sản hoạt động cho doanh nghiệp, tạo thành công cụ lao động cho doanh nghiệp theo nghĩa rộng đó là máy móc, kho tang, thiết bị… Các tài sản dung để sản xuất hàng hóa vật phẩm bán ra thị trường chứ không phải dung vào việc mua đi bán lại. Kết quả của hoạt động tín dụng đầu tư phát triển là tạo ra năng lực sản xuất mới them cho doanh nghiệp.
Tín dụng đầu tư phát triển sử dụng nhiều nguồn vốn ngắn hạn. Đây là đặc điểm riêng có của Việt nam. Đúng ra các kết quả của hoạt động tín dụng đầu tư phát triển khi có thời gian phát huy tác dụng và hoàn vốn thì đòi hỏi nguồn vốn để tài trợ phải là nguồn vốn dài hạn. Vốn ngắn hạn chỉ tập trung tài trợ cho tài sản lưu động để vận hành các kết quả đầu tư này. Tuy nhiên ở Việt nam các công cụ huy đọng vốn dài hạn còn chưa thực sự hấp dẫn thì vốn ngắn hạn chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn huy động, trong khi nhu cầu vốn trung và dài hạn lại lớn. Việc sử dụng vốn ngắn hạn tài trợ cho vốn trung và dài hạn làm hiệu quả đồng vốn không cao do chi phí huy động lớn, vốn huy động thường xuyên biến động, tín dụng đầu tư phát triển sử dụng vốn ngắn hạn không tạo ra được sự chủ động về vốn cho đầu tư, do tính ổn định của đồng nguốn vốn không cao.
Tín dụng đầu tư phát triển chứa đựng nhiều rủi ro. Trước hết là rủi ro về nguồn vốn cho đầu tư. Cụ thể khi chi phí về vốn tăng lên làm cho chi phí sản xuất tăng, giá thành sản phẩm tăng, giảm sức cạnh tranh gây nên thất bại cho dự án. Ngoài ra, Ngân hàng có thể không huy động được đủ số vốn cần thiết, công tác giải ngân chậm… làm ảnh hưởng đến tiến độ của dự án. Thứ hai là rủi ro thuộc về bản than dự án. Một dự án đầu tư bao giờ cũng chứa đựng rủi ro bởi các chi phí thì được bỏ ra ở hiện tại nhưng kết quả có được hoàn toàn mang tính chất dự đoán trong tương lai.
Vai trò của Tín dụng đầu tư phát triển với nên kinh tế.
3.1. TD ĐTPT góp phần huy động vốn và nâng cao hiệu quả đầu tư vốn trong nền kinh tế.
TD ĐTPT góp phần huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế cho đầu tư phát triển. Để tiến hành TD ĐTPT phải có vốn tín dụng. Vốn tín dụng được huy động từ người thừa vốn trong tất cả các thành phần kinh tế nhằm đáp ứng nhu cầu cho người thiếu vốn là doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức trong nền kinh tế. Thông qua việc xét duyệt cho vay dự án, Ngân hàng có điều kiện tham gia và tác động vào quá trình phân bổ và sử dụng một cách hợp lý hơn, giảm bớt lãng phí thất thoát, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Cũng nhờ có tín dụng đầu tư phát triển mà nguồn vốn được chu chuyển nhanh từ nơi thừa tới nơi thiếu, điều chỉnh quan hệ cung cầu vốn tín dụng từ đó nâng cao hiệu quả vốn trong nền kinh tế.
Nhờ có tín dụng đầu tư phát triển nên dự án đầu tư có hiệu quả được đáp ứng đủ vốn, thực hiện đúng tiến độ và thời cơ từ đó góp phần nâng hiệu quả đầu tư của toàn xã hội, tạo ra sự tăng trưởng và phát triển kinh tế.
. TD ĐTPT thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH :
Chúng ta thực hiện CNH-HĐH từ một cơ cấu kinh tế mất cân đối và kết cấu hạ tầng kém phát triển là những khó khăn cản trở đáng kể đòi hỏi phải có sự chuyển biến nhanh chóng.
Trong ngành kinh tế, chúng ta chủ trương khai thác các tiềm năng thế mạnh của đất nước trong lĩnh vực nông nghiệp, đặc biệt chú ý phát triển công nghiệp và kết cấu hạ tầng. Kết hợp phát triển các vùng kinh tế trọng điểm với các vùng khác tạo điều kiện cho các vùng đều phát triển, phát huy lợi thế mỗi vùng tránh chênh lệch quá xa về nhịp độ tăng trưởng giữa các vùng. Để thực hiện những nhiệm vụ đó cần vốn để đầu tư cho kế hoạch phát triển đề ra, đặc biệt là vốn trung và dài hạn.
Thông qua nghiệp vụ huy động vốn mà mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội được khơi dậy, đảm bảo phục vụ mục tiêu đầu tư phát triển, tăng năng lực sản xuất của nền kinh tế quốc dân. Qua đó góp phần quan trọng vào việc thực hành tiết kiệm, huy động cả nội lực và ngoại lực để xây dựng đất nước theo hướng phát triển và hòa nhập với nền kinh tế thế giới.
. Tín dụng đầu tư phát triển nâng cao hiệu quả sản xuất và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế:
Hoạt động trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp đều phải chấp nhận cạnh tranh. Muốn nâng cao khả năng cạnh tranh, các doanh nghiệp phải thường xuyên đổi mới và hiện đại hóa thiết bị- công nghệ. Để làm được điều đó, cần có sự tư vấn và một lượng vốn lớn, vốn tự có của doanh nghiệp không tự đáp ứng được và họ đã tìm đến Ngân hàng để giải quyết khó khăn đó. Có thể nói rằng, đối với hầu hết các doanh nghiệp, vốn của Ngân hàng là mộ trong những nguồn vốn sẵn có rẻ nhất và linh hoạt nhất. Đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, Ngân hàng có thường là nguồn duy nhất cung cấp tư vấn và bổ sung vốn, Ngân hàng có thể phát huy vai trò tư vấn đố với các doanh nghiệp trên nhiều khía cạnh. Ngân hàng không thể thay thế các nhà lãnh đạo doanh nghiệp trong quá trình ban đầu soạn thảo các chương trình đầu tư, nhưng Ngân hàng là người đầu tiên quan tâm đến cơ sở luận chứng của việc triển khai chương trình. Đó là những dự án của những doanh nghiệp cần nguồn vốn tài trợ của Ngân hàng. Vì vậy, đầu tư theo dự án là một hoạt động phổ biến của Ngân hàng trong thời kỳ đầu của nền kinh tế thị trường. Đây là hoạt động tín dụng trung và dài hạn nhằm tăng năng lực sản xuất cho các doanh nghiệp.
Bên cạnh đó việc đổi mới công nghệ và hiện đại hóa hệ thống thanh toán, ngành Ngân hàng có khả năng thực hiện tốt hơn các dịch vụ thanh toán quốc tế, góp phần thúc đẩy các hoạt động xuất nhập khẩu và làm cho môi trường đầu tư ở Việt Nam hấp dẫn và có tính cạnh tranh cao hơn trong việc thu hút đầu tư nước ngoài.
3.4. Tín dụng đầu tư phát triển góp phần phát triển các thành phần kinh tế đặc biệt là kinh tế quốc doanh, thực hiện định hướng XHCN :
Tín dụng đầu tư phát triển có thể đáp ứng vốn cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế từ đó thúc đẩy sự phát triển của các thành phần kinh tế này. Mức độ đầu tư cho mỗi thành phần kinh tế có ảnh hưởng đến tốc đọ tăng trưởng và phát triển của chugns. Kinh tế Nhà nước mà chủ đạo là hệ thống doanh nghiệp Nhà nước được coi là công cụ chủ đạo để Nhà nước thực hiện định hướng XHCN. Tín dụng đầu tư phát triển hiện nay đang tập trung rất lớn cho các DNNN với mục tiêu phát triển hệ thống DNNN làm xương sống cho nền kinh tế.
Cũng thông qua tín dụng đầu tư phát triển, Ngân hàng có thể cung cấp cho doanh nghiệp các thông tin cập nhật hơn về thị trường, tư vấn để tìm ra các giải pháp công nghệ, giải pháp tổ chức sản xuất và tiêu thụ hợp lý hơn. Nhờ vậy các doanh nghiệp có thể xây dựng được chiến lược và chính sách phát triển cũng như lựa chọn dự án phát triển khả thi có hiệu quả hơn, tạo điều kiện khả năng cạnh tranh cao hơn.
IV. Những vấn đề về rủi ro :
1. Đứng trên góc độ chủ đầu tư.
1.1. Khái niệm và phân loại rủi ro :
* Khái niệm :
Rủi ro là khả năng gặp nguy hiểm có thể phát sinh từ một vài tiến trình hay từ một vài sự kiện.
Rủi ro gắn với khả năng xảy ra biến cố không lường trước , biến cố mà ta haonf toàn không biết chắc.
Rủi ro ứng với sai lệch giữa dự kiến và thực tế.
Một số quan niệm về rủi ro :
- Người ta có thể coi rủi ro chỉ lien quan đến các thiệt hại – rủi ro không đối xứng ( ví dụ Pháp)
- Rủi ro liên quan đến cả thiệt hại và may mắn – rủi ro đối xứng ( ví dụ Mĩ )
* Phân loại rủi ro :
Có thể phân biệt Rủi ro theo các tiêu thức sau:
- Rủi ro tĩnh và rủi ro động.
- Rủi ro cơ bản và rủi ro riêng biệt
- Rủi ro thuần túy và rủi ro đầu cơ. Rủi ro động và rủi ro tĩnh:
Rủi ro động là những rủi ro liên quan đến sự luôn thay đổi, đặc biệt là trong nền kinh tế. Đó là những rủi ro mà hậu quả của nó có thể có lợi, nhưng cũng có thể sẽ mang đến sự tổn thất ( sự thay đổi về thị hiếu khách hàng có thể phù hợp với sản phẩm mà doanh nghiệp đang kinh doanh hay không, sự thay đổi về công nghệ kĩ thuật có phù hợp với khả năng tài chính của doanh nghiệp hay không, sự thay đổi đó có quá nhanh hay không? ...)
Rủi ro tĩnh là những rủi ro, mà hậu quả của nó chỉ liên quan đến sự xuất hiện tổn thất hay không, chứ không có khả năng sinh lời, và không chịu sự ảnh hưởng của những thay đổi trong nền kinh tế. Những rủi ro tĩnh thường liên quan đến các đối tượng: tài sản, con người, trách nhiệm dân sự.
Theo các giai đoạn của quyết định đầu tư :
Trước quyết định ( rủi ro thông tin ) : liên quan đến chất lượng và hiệu suất hệ thống thông tin, đến khâu xử lý thông tin và lập mô hình
Ra quyết định ( rủi ro cơ hội ) : một khi quyết định đã được ra sẽ không chỉ có rủi ro đi liền với hậu quả của quyết định đó, mà còn những rủi ỏ phát sinh do việc ta không chọn quyết định khác.
Sau quyết định ( rủi ro khi thực tế không phù hợp với quyết định ) : là rủi ro không tương hợp so với dự kiến ban đầu, phát sinh do việc chọn quyết định đã cho.
1.2. Những rủi ro thường gặp với dự án đầu tư :
* Rủi ro về chính trị :
Rủi ro này bao gồm bất ổn tài chính và bất ổn chính trị.
Ví dụ: Hạn chế chuyển tiền ra nước ngoài, Sắc thuế mới gây thiệt hại cho nhà đầu tư, Quốc hữu hóa, Những cam kết ưu đãi trước đây đối với các nhà đầu tư bị xóa bỏ.
Có thể liệt kê một số rủi ro chính trị chính sau:
Rủi ro thuế: Sự thay đổi về thuế đã làm cho dòng tiền hằng năm của dự án bị thay đổi từ đó NPV và IR của các dự án bị thay đổi theo.
Hạn ngạch, thuế quan hoặc các giới hạn thương mại khác : làm giảm sản lượng hoặc tăng chi phí của các dự án.
Chính sách tuyển dụng lao động : những thay đổi về quản lý và tuyển dụng lao động như thay đổi quy định về mức lương tối thiểu, chính sách với lao động nữ, hạn chế lao động nước ngoài… đều ảnh hưởng đến hiệu quả của các dự án.
Kiểm soát ngoại hối: hạn chế chuyển tiền ra nước ngoài ảnh hưởng đến hoạt động cung ứng hoặc tiêu thụ sản phẩm của dự án cũng như quyền lợi của các nhà đầu tư.
Lãi suất : khi chính phủ đưa ra các chính sách lãi suất để kiểm doát lạm phát có thể làm cho haotj động đầu tư tăng lên howacsj giảm đi.
Độc quyền: sự độc quyền kinh doanh của Nhà nước ở một số lĩnh vực có thể làm hạn chế đầu tư cho các bộ phận khác trong xã hội và thường dẫn đến sự kém hiệu quả của đầu tư.
Môi trương, sức khỏe và an toàn: những quy định lien quan đến kiểm soát chất thải, quy trình sản xuất để bảo vệ sức khỏe cộng đồng có thể làm hạn chế nhiều dự án cũng như làm tăng chi phí của các dự án
Quốc hữu hóa.
* Rủi ro về xây dựng và hoàn thành công trình :
- Chi phí xây dựng vượt quá dự toán
- Công trình xây dựng không đảm bảo các yêu cầu của dự án
- Hoàn thành không đúng thời hạn
- Không giải tỏa được dân, phải thu hẹp hoặc hủy bỏ dự án
* Rủi ro về thị trường, thu nhập, thanh toán :
- Cầu không đủ : Q < Công suất của dự án
- Giá bán thấp
- ….
Dẫn tới không có khả năng trả nợ
* Rủi ro về cung cấp đầu vào :
Đầu vào của dự án : Nguyên vật liệu, vốn, lao động, máy móc thiết bị …
Không đảm bảo được các đầu vào quan trọng theo số lượng, giá cả, chất lượng đã dự kiến gây khó khăn trong việc vận hành, thanh toán các khoản nợ.
* Rủi ro về kỹ thuật, vận hành :
- Khi các tiện ích ( dây chuyền, thiết bị, hệ thống điều hành…) của dự án không thể vận hành và bảo dưỡng ở mức độ phù hợp với thiets kế ban đầu.
* Rủi ro về môi trường và xã hội :
Môi trường bao gồm nhiều yếu tố ảnh hưởng đến kết quả nhưng không bị chi phối bởi người ra quyết định. Đây là những rủi ro về những tác động tiêu cực của dự án đến môi trường và những người xung quanh.
* Rủi ro về kinh tế vĩ mô :
- Rủi ro về tỷ giá hối đoái
- Rủi ro về lạm phát
- Rủi ro về lãi suất
Một số loại rủi ro và biện pháp phong ngừa :
Rủi ro
Biện pháp phòng ngừa
Giai đoạn thực hiện đầu tư
Chậm tiến độ thi công
Đấu thầu, chọn thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng
Vượt tổng mức đầu tư
Kiểm tra hợp đồng giá(một giá hoặc các điều kiện phát sinh tăng giá )
Cung cấp dịch vụ kỹ thuật- công nghệ
Kiểm tra hợp đồng trọn gói
Bảo lãnh hợp đồng
Tài chính ( thiếu vốn, giải ngân không đúng tiến độ)
Cam kết bảo đảm nguồn góp vốn, bến cho vay hoặc tài trợ vốn
Bất khả kháng
Mua bảo hiểm đầu tư hoặc bảo hiểm xây dựng
Giai đoạn vận hành
Cung cấp các yếu tố đầu vào
Hợp đồng cung cấp dài hạn
Đưa ra các nguyên tắc về giá
Tiêu thụ sản phẩm
Hợp đồng bao tiêu sản phẩm
Nguyên tắc tiêu thụ sản phẩm
Tài chính ( thiếu vốn kinh doanh)
Cam kết bảo đảm nguồn vốn tín dụng
Mở L/C với các cơ quan cấp vốn
Quản lý điều hành
Năng lực quản lý của doanh nghiệp, phải có hợp đồng thuê quản lý
Rủi ro bất khả kháng
Mua bảo hiểm tài sản, kinh doanh
1.3. Phương pháp phân tích rủi ro :
* Phương pháp phân tích không chính thức :
Dựa vào kinh nghiệm, trực quan, nhận định linh cảm và sự may mắn của nhà đầu tư( hay người ra quyết định) có nên thực hiện một khoản đầu tư cụ thể nào đó hay không.
* Phương pháp phân tích định lượng :
- Phương pháp phân tích độ nhạy :
Bản chất của việc phân tích độ nhạy cảm la xác định mối quan hệ động giữa các yếu tố của hoạt động đầu tư, trên cơ sơ đó giúp nhà đầu tư lường trước được những tình huống, cân nhắc những lợi ích và chi phí có thể xảy ra với dự án, trên cơ sơ đó đưa ra các quyết định đầu tư phù hợp.
Phương pháp này là cách đánh giá các tác động của sự bất trắc đối với các khoản đầu tư bằng cách xác định khả năng sinh lời của khoản đầu tư đó thay đổi như thế nào khi các biến số thay đổi.
Nguồn số liệu : Ngân hàng MHB – chi nhánh Hà Nội
Ví dụ: Công ty RC đang xem xét dự án đầu tư 5 triệu USD vào một nhà máy sản xuất những sản phẩm bê tông như đá lát sân, những bậc thang (làm sẵn) và trang trí nội thất sân vườn. Nhà máy này sẽ tạo ra doanh thu từ 2 triệu USD đến 5 triệu USD. Chi phí cố định sau thuế là 500.000 USD và chi phí biến đổi sau thuế là 50% doanh thu. Dòng tiền sau thuế được xác định là:
Dòng tiền sau thuế = 50% x Doanh thu – 500.000
Vòng đời dự án dự kiến là 5 năm, và giá trị thu hồi của dự án phụ thuộc vào giá đất vào cuối năm thứ 5. Nhà máy được xây dựng tại Hà nội
Phụ thuộc Cầu X (đang quy họach) sẽ được đặt ở đâu mà giá trị thu hồi có thể từ tối thiểu là 1 triệu USD đến tối đa là 3 triệu USD. Để xem xét rủi ro, nhà quản trị phải tính NPV cho sự kết hợp đa dạng giữa doanh thu và giá trị thu hồi, được minh họa trong bảng sau:
Bảng 4.1 – Phân tích độ nhạy của nhà máy RC
NPV tương ứng với các mức doanh thu và giá trị thu hồi (đơn vị tính: 1.000 USD).
2.000 2.500 3.000 3.500 4.000 4.500 5.000
1.000 -2.484 -1.536 -588 359 1.307 2.255 3.202
3.000 -1.242 -294 654 1.601 2.549 3.497 4.444
Ví dụ, với tỷ suất sinh lời đòi hỏi là 10%, doanh thu 3,5 triệu USD và giá trị thu hồi là
1 triệu USD thì NPV sẽ là:
NPV = 359.000 USD.
Như đã minh họa trong bảng và hình trên, phân tích độ nhạy cung cấp cho nhà quản lý một bức tranh dễ hiểu về các kết quả có thể xảy ra. Các biến số mà nó được xem là tác động chính yếu đến thành công hoặc thất bại của dự án được xác định cũng như mức độ cần thiết của các biến số này trong sự thành công của dự án. Nhà quản trị có thể nỗ lực để xác định một cách khách quan những kết quả có thể xảy ra và sử dụng chúng trong việc đánh giá một cách chủ quan về xác suất xảy ra khả năng đó.
Một cách thường xuyên hơn, nhà quản trị thường dựa trên những kết quả này để quyết định rằng rủi ro có thể chấp nhận hay không, mà không cần sử dụng những xác suất cụ thể. Nhà quản trị cũng có thể quyết định thực hiện những hành động giảm thiểu rủi ro.
ví dụ như chọn địa điểm khác hoặc thuê thay cho mua đất để giảm thiểu sự không chắc chắn trong giá trị thu hồi.
Ưu điểm:
− Dễ tính toán và giải thích.
− Không đòi hỏi ước tính xác suất.
− Tập trung vào 1 hoặc 2 biến.
Nhược điểm:
− Không có xác suất của kết quả cuối cùng.
− Giới hạn trong sự tương tác của các biến
− Khó khăn đối với các chuỗi quyết định.
- Phương pháp điều chỉnh tỷ lệ chiết khấu :
Phương pháp này dựa vào mức rủi ro dự kiến. Đây là phương pháp đơn giản nhất và được dử dụng rộng rãi trong thực tiễn. Nguyên tắc cơ bản của phương pháp này là điều chỉnh mức tỷ lệ chiết khấu cơ sơ được xem là không có rủi ro, hoặc có thể chấp nhận ở mức rủi ro tối thiểu ( ví dụ : lãi suất chứng khoán chính phủ, chi phí sư dụng vốn bình quân hoặc cận biên của công ty)
Việc điều chỉnh được thực hiện bằng cách cộng thêm vào lãi suất một mức bù cần thiết cho rủi ro ( mức bù rủi ro), sau đó thực hiện tính toán các chỉ tiêu NPV, IR… theo mức lãi suất mới nhận được, sau khi đã điều chỉnh theo mức rủi ro, quyết định đầu tư sẽ được thực hiện theo nguyên tắc của chỉ tiêu được chọn. Nếu rủi ro gắn với dự án càng lớn thì mức bù rủi ro càng phải cao.
Ưu điểm : dễ tính toán, dễ hiểu, dễ thực hiện
Nhược điểm :
Chỉ tăng lãi suất để quy đổi mà không xét đến các rủi ro thực tế
Coi rui ro tăng theo thời gian với một tỷ lệ không đổi
Không tính đến xác suất các trường hợp rủi ro
Khó mô hình hóa các phương pháp khác nhau
- Phương pháp hệ số tin cậy:
Phương pháp này điều chỉnh các giá trị của dọng tiền dự kiến ( CFi) băng cách đưa vào các hệ số điều chỉnh đặc biệt ai với từng thời kỳ thực hiện dự án. Giá trị ai = CCFi/RCFi
Trong đó CCFi la giá trị các luồng thu nhập ròng không có rủi ro trong thời kỳ I, RCFi là giá trị các luồng thu nhập ròng dự kiến trong thời kỳ i.
Vậy CCFi = a x RCFi (a < 1)
Từ đó xác định NPV và IR của dự án.
Ưu điểm : đơn giản, dễ tiếp cận, có tính đến sự thay đổi mức độ rủi ro trong các năm.
Nhược điểm : khó khăn trong xác định ai, không tính đến xác suất của các biến cố chủ chốt.
1.4. Ra quyết định đầu tư trong điều kiện rủi ro :
Trong thực tế giá trị kỳ vọng không phải là phương pháp duy nhất được sử dụng để đưa ra quyết định đầu tư trong điều kiện rủi ro. Trong thực tế các nhà đầu tư còn có thể dựa trên nhiều tiêu thức khác để cân nhắc lựa chọn phương án đầu tư.
* Tối đa hóa tối đa ( maximax)
Thường được sử dụng trong trường hợp nhà đầu tư la người thích mạo hiểm. Người ta nhìn vào kết quả tốt nhất của các phương án và từ đó chọn phương án có kết quả tốt nhất.
* Tối đa hóa tối thiểu : ( maximin)
Chủ đầu tư căn cứ vào các kết quả tồi của các phương án và từ đó chọn phương án nào có kết quả ít tốt nhất. Tiêu chuẩn này thường được sử dụng khi rất cần đến sự thận trọng và phải né tránh mọi tai họa có thể xảy ra.
* Tối đa hóa khả năng lớn : ( maximum likelihood)
Trường hợp khi nhà đầu tư căn cứ vào khả năng nào xảy ra nhiều nhất, chọn phương án nào đem lại kết quả tốt nhất khi khả năng đó xảy ra
* Thiểu hóa thua thiệt : (minimax regret)
Được sư dụng khi nhà đầu tư muốn chọn một phương án mà khi thua thiệt xảy ra nó có ít thua thiệt nhất.
* Ngoài ra còn có các tiêu chuẩn khác : trung bình ngẫu nhiên, Trung bình có trọng số
1.5. Cách phòng chống rủi ro đối với các dự án đầu tư :
* Hình thức đa dạng hóa sản phẩm :
Trong nền kinh tế thị trường không một sản phẩm nào có thể khẳng định được vị trí vĩnh viễn của mình. Một doanh nghiệp nếu chỉ đầu tư vào một sản phẩm duy nhất thì sự tồn tại của doanh nghiệp phụ thuộc vào sự phát triển của sản phẩm đó. Các doanh nghiệp muốn tồn tại : thường sử dụng chiến lược đa dạng hóa sản phẩm, đồng thời đầu tư vào sản phẩm khác nhau.
* Mua trước:
Hình thức tạo rào cản khi rủi ro nảy sinh, rào cản này sẽ hạn chế hay loại bỏ rủi ro đó. Theo phương pháp này nhà đầu tư có thể ký những hợp đồng mua trước, bán trước, nhờ đó khi giá cả thay đổi, nhà đầu tư luôn có sự ổn định trong hoạt động đầu tư
* Bảo hiểm đầu tư :
Thực chất là lấy một phần lợi nhuận kỳ vọng để bù đắp cho những rủi ro kỳ vọng. Đầu tư luôn gắn với rủi ro, với những rủi ro khi xảy ra ảnh hưởng đến sự sống còn, ảnh hưởng hoạt động doanh nghiệp, thường phải tiến hành mua Bảo hiểm.
2. Đứng trên góc độ Ngân hàng:
* Tác động của rủi ro đến hoạt động kinh doanh Ngân hàng :
- Về chi phí : Chi phí hoạt động của Ngân hàng là yếu tố không thể thiếu để thực thi các nghiệp vụ. Các chi phí cho hoạt động của Ngân hàng thường gồm : chi phí trả lãi tiền gửi, lãi tiền vay cho các tổ chức tín dụng, tiền lương cán bộ Ngân hàng,…. Rủi ro có thể xảy ra dưới dạng: nâng cao lãi suất tiền gưi do biến động thị trường tiền tệ, tăng lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng, các khoản chi phí nghiệp vụ phát sinh ngoài dự kiến…
- Về thua lỗ : Sự thua lỗ được biểu hiện dưới hình thức không đạt được thu nhập mong muốn. Nguyên nhân dẫn đến thua lỗ do Ngân hàng không phân tích hết các yếu tố cần cho các hoạt động sẽ thực thi, dự đoán sai đối tượng cho vay và đầu tư…
- Về tổn thất : Sự tổn thất của Ngân hàng có thể hiểu là các thiệt hại về vật chất hoặc uy tín của Ngân hàng. Rủi ro có thể dẫn đến thua lỗ. Tuy nhiên hoạt động ngân hàng còn chịu nhiều rủi ro khác như rủi ro thị trường không thừa nhận sản phẩm của Ngân hàng…
* Các loại rủi ro trong kinh doanh Ngân hàng :
- Rủi ro về lãi suất : là rủi ro mà Ngân hàng phải gánh chịu khi có sự biến động về lãi suất làm giảm tiền lãi và thu nhập của Ngân hàng
Thiệt hại do rủi ro lãi suất gây ra làm cho chi phí cho nguồn vốn lớn hơn chi phí sử dụng vốn.
Rủi ro về tín dụng : là khả năng xảy ra do khách hàng không thực hiện trả nợ theo các điều khoản đã thỏa thuận.
Trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại, rủi ro tín dụng ảnh hưởng rất lớn đến mọi hoạt động của Ngân hàng. Nếu món vay của Ngân hàng bị thất thoát, dân chúng sẽ thiếu lòng tin và tìm cách rút tiền khỏi Ngân hàng, từ đó ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản của Ngân hàng thương mại. Khi rủi ro tín dụng phát sinh, Ngân hàng thương mại không thực hiện được kế hoạch đầu tư cũng như kế hoạch thanh toán các khoản tiền gửi đến hạn. Rủi ro tín dụng lớn sẽ dẫn đến khó khăn trong việc huy động vốn và phát triển các sản phẩm dịch vụ, khó mở rộng quan hệ với các bạn hàng và các Ngân hàng khác, buộc Ngân hàng phải thu hẹp hoạt động, tất cả thể hiện ở lợi nhuận giảm, ngân hàng phải sử dụng vốn tự có để bù đắp sự giảm sút đó, uy tín của Ngân hàng giảm sút, dẫn đến tình trạng khó khăn, phá sản.
* Rủi ro về ngoại hối : do sự biến động về tỷ giá giữa các đồng tiền.
Nếu tỷ giá hối đoái bán ra lớn hơn tỷ giá mua vào thì nhà kinh doanh có lãi và ngược lại
* Rủi ro về thanh toán :
Rủi ro thanh khoản là một trong các rủi ro rất quan trọng trong hoạt động Ngân hàng, do vậy rủi ro thanh khoản được Ngân hàng quan tâm đặc biệt.
Rủi ro thanh khoản liên quan đến rủi ro của một bên đối tác trong một giao dịch. Khả năng thanh toán tức là đáp ứng nhu cầu thanh toán hiện tại. Khi Ngân hàng thiếu khả năng thanh toán, nếu không giải quyết kịp thời có thể dẫn đến mất khả năng thanh toán. Nếu Ngân hàng thừa khả năng thanh toán dẫn đến ứ đọng vốn, làm giảm khả năng sinh lời.
* Rủi ro về nguồn vốn :
- Rủi ro thừa vốn và rủi ro thiếu vốn : nếu không khắc phục Ngân hàng sẽ có khả năng bị thua lỗ lớn, hoặc phạm vi của Ngân hàng bị thu hẹp, có khi nguy cơ đi đến vỡ nợ.
* Nội dung đánh giá rủi ro trước khi cho vay đối với dự án vay vốn đầu tư phát triển :
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động kinh doanh của Ngân hàng liên quan đến rất nhiều thành phần kinh tế từ cá nhân, hộ gia đình, các tổ chức kinh tế cho tới các tổ chức tín dụng khác.Vì vậy,kết quả kinh doanh của Ngân hàng phản ánh kết quả sản xuất kinh doanh của nền kinh tế và đương nhiên phụ thuộc rất lớn vào tình hình tổ chức sản xuất kinh doanh của cỏc doanh nghiệp và khách hàng.Hoạt động kinh doanh của ngân hàng không thể có kết quả tốt khi hoạt động kinh doanh của nền kinh tế chưa tốt hay nói cách khác hoạt động kinh doanh của ngân hàng sẽ có nhiều rủi ro khi hoạt động kinh tế có nhiều rủi ro.Rủi ro xảy ra dẫn tới tình trạng mất ổn định trên thị trường tiền tệ, gây khó khăn cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh,làm ảnh hưởng tiêu cực đối với nền kinh tế và đời sống xã hội.Do đó, phòng ngừa và hạn chế rủi ro trước khi cho vay không những là vấn đề sống còn đối với ngân hàng mà cũng là yêu cầu cấp thiết của nền kinh tế góp phần vào sự ổn định và phát triển của toàn xã hội.
* Đánh giá rủi ro kinh tế vĩ mô của doanh nghiệp :
- Đánh giá tư cách pháp nhân của chủ đầu tư. Nhằm xác định trách nhiệm trước pháp luật về việc trả nợ vay cho Ngân hàng.
- Đánh giá mức độ tin cậy, uy tín nguồn lực của chủ đầu tư : Với một khách hàng cũ, có uy tín, và độ tin cậy cao, qua những lần giao dịch trước thì khả năng nảy sinh rủi ro ít hơn so với khách hàng mới. Thông tin đánh giá cần phải đầy đủ, chính xác giúp cho Ngân hàng có quyết định đúng trong quá trình cho vay.
- Đánh giá về năng lực điều hành sản xuất kinh doanh của ban lãnh đạo doanh nghiệp : Cần đánh giá về năng lực chuyên môn, năng lực tài chính, uy tín và lãnh đạo.
* Đánh giá rủi ro với dự án vay vốn :
- Đánh giá sự cần thiết và mục tiêu đầu tư của dự án : dự án có phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế không, dự án có cần thiết phải thực hiện không…
- Thẩm định nội dung thị trường của dự án :
+ Tình hình tiêu thụ sản phẩm cùng loại trong thời gian qua, mức độ cạnh tranh của các doanh nghiệp khác, xu hướng tiêu thụ sản phẩm trong thời gian tới…
+ So sánh giá thành sản phẩm của dự án với giá thành sản phẩm tương tự hiện có trên thị trường, tiêu chuẩn chất lượng cần đạt được
+ Xem xét tính hợp lý, hợp pháp, mức độ tin cậy của các văn bản: đơn đặt hàng, hiệp định đã ký, hợp đồng tiêu thụ và bao tiêu sản phẩm…
Đánh giá nội dung kỹ thuật của dự án:
+ Địa điểm xây dựng có giải tỏa được mặt bằng không
+ Quy mô công suất quá lớn hay nhỏ không
+ Thẩm định về công nghệ sản xuất : công nghệ có phù hợp với điều kiện thực tiễn ở Việt nam không…
+ Thẩm định về nguyên vật liệu sử dụng cho dự án : nguồn cung cấp có đảm bảo lâu dài hay không, có đảm bảo chất lượng không…
+ Thẩm định về năng lượng và nước cho dự án : đánh giá sự cân đối trong khả năng cung cấp năng lượng, có đảm bảo đủ các điều kiện cho sản xuất không…
+ Thẩm định về vấn đề xử lý chất thải gây ô nhiễm môi trường
Đánh giá về lao động của dự án :
Đánh giá nội dung tài chính của dự án :
+ Đánh giá về tổng vốn đầu tư, nguồn vốn và sự đảm bảo của nguồn vốn tài trợ dự án
+ Đánh giá về chi phí sản xuất, doanh thu và thu nhập hàng năm của dự án
+ Dự kiến doanh thu hàng năm, lợi nhuận gộp lại và lợi nhuận ròng hàng năm có đủ bù đắp cho chi phí không…
Xét các chỉ tiêu : Chỉ tiêu thời gian hoàn vốn,chỉ tiêu NPV, điểm hòa vốn của dự án, chỉ tiêu IRR và phân tích độ nhạy của dự án
Chương II : Thực trạng đánh giá rủi ro trước khi cho vay tại Ngân hàng MHB- chi nhánh Hà nội
I. Khái quát về tình hình hoạt động của Ngân hàng MHB- chi nhánh Hà nội
1. Quá trình hình thành và phát triển :
Ngân hàng phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long (MHB) là 1 trong 5 Ngân hàng thương mại nhà nước được xếp hạng doanh nghiệp đặc biệt, thành lập theo Quyết định 769/QĐ-TTg ngày 18/9/1997 của Thủ tướng Chính phủ. Ngân hàng có trụ sở chính đặt tại địa chỉ số 9 Võ Văn Tần, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh. MHB là ngân hàng hoạt động đa năng, chuyên sâu trong lĩnh vực cho vay xây nhà ở, cơ sở hạ tầng.
Vốn điều lệ ban đầu là 600 tỷ đồng, đến năm 2002 tổng vốn điều lệ tăng lên 800 tỷ đồng. Chỉ sau 8 năm hoạt động, MHB đã đạt những thành tích vượt bậc trong các mặt hoạt động:
Tổng tài sản có tăng trưởng trên 2000%
Tốc độ tăng trưởng vốn bình quân đạt 350% năm. Tốc độ tăng trưởng đầu tư tín dụng bình quân đạt 260% năm, đảm bảo an toàn vốn.
Mạng lưới hoạt động của MHB đến nay đã phát triển rộng khắp trên 30 tỉnh thành trong cả nước với gần 100 chi nhánh và phòng giao dịch.
Hoạt động của Ngân hàng phát triển nhà ĐBSCL luôn gắn với các chương trình phát triển kinh tế xã hội, đặc biệt là chương trình phát triển nhà ở.
Với thành tích đóng góp nổi bật cho nền kinh tế xã hội, MHB đã được nhà nước tặng thưởng huân chương lao động hạng 3.
Ngân hàng phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long - Chi nhánh Hà Nội (MHB Hà Nội) được thành lập theo quyết định số 46/QĐ-NHN-HĐQT ngày 04/7/2003 của Chủ tịch Hội đồng quản trị MHB. MHB Hà Nội có trụ sở đặt tại 41A Lý Thái Tổ - Hoàn Kiếm - Hà Nội. Sau gần 3 năm hoạt động, MHB Hà Nội đã đạt được sự tăng trưởng mạnh mẽ về tổng huy động vốn, doanh số cho vay cũng như các mảng hoạt động khác.
* Bộ máy điều hành
Giám đốc là bà Phạm Thiên Nga được bổ nhiệm theo quyết định số 97/QĐ - HĐQT – TCCB. Giúp việc cho Giám đốc là một Phó Giám đốc.
Giám đốc chi nhánh do Hội đồng quản trị bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật. Các chức danh khác tại chi nhánh do Tổng Giám đốc bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật khi có ý kiến chấp thuận của Hội đồng quản trị hoặc do Giám đốc chi nhánh bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật theo phân cấp, uỷ quyền của Tổng Giám đốc. Phó Giám đốc thường trực do Giám đốc Chi nhánh phân công.
Giám đốc chi nhánh là người trực tiếp điều hành và chịu trách nhiệm trước Tổng Giám đốc, trước pháp luật về mọi hoạt động của chi nhánh.
Giám đốc chi nhánh có nhiệm vụ và quyền hạn:
+ Trực tiếp chỉ đạo, điều hành mọi hoạt động của Chi nhánh theo pháp luật, theo Điều lệ về tổ chức và hoạt động của Ngân hàng phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long, theo các quy chế, quy định khác của ngân hàng phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long.
+ Được ký các quyết định về công tác cán bộ như khen thưởng, kỷ luật, trả lương, cho thôi việc, bổ nhiệm, miễn nhiệm với các chức danh quản lý điều hành, nhân viên trong phạm vi được Tổng Giám đốc uỷ quyền và theo các quy chế, quy định khác của ngân hàng phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long.
+ Được ban hành các nội quy, quy định về điều hành và quản lý công việc trong phạm vi Chi nhánh nhưng không trái với điều lệ và các nội quy, quy định của Ngân hàng phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long.
+ Được quyền ký cho vay trong phạm vi được Tổng Giám đốc uỷ quyền phán quyết.
+ Đại diện Tổng Giám đốc trong việc giải quyết các tranh chấp, quan hệ tố tụng liên quan đến hoạt động của Chi nhánh.
+ Được uỷ quyền cho Phó Giám đốc và lãnh đạo các phòng tại chi nhánh giải quyết các công việc của Chi nhánh theo chức năng, nhiệm vụ được giao, trong phạm vi được uỷ quyền và chịu trách nhiệm về việc uỷ quyền đó.
+ Tổ chức hạch toán kế toán theo đúng quy định của Nhà nước; phân phối tiền lương, tiền thưởng đối với người lao động theo kết quả kinh doanh và quy định về khoán tài chính của ngân hàng phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long.
+ Chấp hành đầy đủ chế độ báo cáo thông kê định kỳ, báo cáo đột xuất về mọi hoạt động của Chi nhánh theo quy định của ngân hàng Nhà nước và của ngân hàng phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long.
Phó Giám đốc Chi nhánh có nhiệm vụ và quyền hạn:
+ Phó Giám đốc chi nhánh là người giúp việc cho Giám đốc, quản lý một số mặt hoạt động của Chi nhánh do Giám đốc phân công, chịu trách nhiệm trước Giám đốc về những công việc được giao và chịu trách nhiệm trước pháp luật về các quyết định của mình.
+ Phó Giám đốc thường trực được uỷ quyền thay mặt Giám đốc giải quyết các công việc chung khi Giám đốc đi vắng và báo cáo lại khi Giám đốc có mặt.
* Tổ chức bộ máy điều hành
Chi nhánh có các phòng nghiệp vụ giúp cho Ban Giám đốc:
Phòng Hành chính - Nhân sự:
Phòng Hành chính – Nhân sự có nhiệm vụ:
+ Tổ chức thực hiện quy hoạch cán bộ, quản lý nhân sự; chi trả lương; đào tạo nhân viên; thực hiện chính sách cán bộ và công tác thi đua khen thưởng.
+ Lập kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm trang thiết bị, công cụ lao động và tổ chức thực hiện theo kế hoạch được duyệt.
+ Thực hiện công tác văn thư, hành chính, quản trị.
+ Lập báo cáo về công tác cán bộ, lao động, tiền lương và công tác hành chính, quản trị.
+ Thực hiện các nhiệm vụ khác do Giám đốc Chi nhánh giao.
Phòng Nghiệp vụ Kinh doanh:
Phòng Nghiệp vụ Kinh doanh có nhiệm vụ:
+ Nghiên cứu tình hình kinh tế – xã hội trên địa bàn hoạt động để lập kế hoạch kinh doanh ngắn, trung và dài hạn và tổ chức thực hiện theo kế hoạch được giao.
+ Hướng dẫn khách hàng lập hồ sơ xin vay đúng quy trình nghiệp vụ, tiếp nhận và giải quyết hồ sơ xin vay theo quy định, trình Giám đốc chi nhánh duyệt hồ sơ vay vốn của khách hàng.
+ Tổ chức thực hiện việc kiểm tra, kiểm soát theo quy trình nghiệp vụ tín dụng, thu hồi các khoản nợ đến hạn, quá hạn.
+ Thực hiện nghiệp vụ thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại tệ, bảo lãnh, tái bảo lãnh, vay vốn đầu tư theo quy định của Nhà nước.
+ Thực hiện công tác thông tin phòng ngừa rủi ro.
+ Lập báo cáo thống kê về nghiệp vụ tín dụng, ngoại hối, bảo lãnh, tái bảo lãnh theo quy định của Ngân hàng Nhà nước và theo chế độ thông tin báo cáo do Tổng Giám đốc ban hành.
+ Tổ chức theo dõi các tài sản thế chấp, bảo lãnh là bất động sản; quản lý các tài sản được cầm cố, lưu giữ tại kho Chi nhánh hoặc kho thuê ngoài.
+ Lưu trữ, bảo quản hồ sơ tín dụng, ngoại hối và các báo cáo nghiệp vụ theo chế độ quy định.
+ Thực hiện các nhiệm vụ khác do Giám đốc chi nhánh giao.
Phòng Kế toán và Ngân quỹ:
Phòng Kế toán - Ngân quỹ có nhiệm vụ:
+ Thực hiện công tác hạch toán kế toán, theo dõi, phản ánh tình hình hoạt động kinh doanh, tài chính, quản lý các loại vốn, tài sản tại Chi nhánh; báo cáo các hoạt động kinh tế – tài chính theo quy định của Nhà nước.
+ Hướng dẫn khách hàng mở tài khoản tại chi nhánh, lập các thủ tục nhận và chi trả tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi của các tổ chức kinh tế, cá nhân…
+ Tổ chức thực hiện các dịch vụ thanh toán, chuyển tiền trong nước và nước ngoài thông qua hệ thống Ngân hàng phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long, Ngân hàng Nhà nước, các hệ thống khác khi cần thiết.
+ Tổ chức việc thu, chi tiền mặt; xuất, nhập ấn chỉ có giá, bảo quản an toàn tiền bạc, tài sản của Ngân hàng và của khách hàng theo quy định của Ngân hàng Nhà nước và của Ngân hàng phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long.
+ Thực hiện công tác điện toán và xử lý thông tin.
+ Thực hiện kiểm tra chuyên đề kế toán, ngân quỹ trong phạm vi Chi nhánh.
+ Tổ chức bảo quản hồ sơ thế chấp, cầm cố, bảo lãnh do phòng Nghiệp vụ Kinh doanh chuyển sang theo chế độ quy định.
+ Tổng hợp, lưu trữ hồ sơ tài liệu kế toán, giữ bí mật các tài liệu, số liệu theo quy định của Nhà nước.
+ Lập và bảo vệ kế hoạch tài chính của Chi nhánh; tổ chức thực hiện theo chỉ tiêu kế hoạch được giao.
+ Chấp hành đầy đủ, kịp thời nghĩa vụ tài chính đối với ngân sách Nhà nước và quy định về nghĩa vụ tài chính của hệ thống.
+ Chấp hành chế độ quyết toán tài chính hàng năm với hội sở chính.
+ Thực hiện các nhiệm vụ khác do Giám đốc Chi nhánh giao.
Phòng Kiểm tra nội bộ
Phòng Kiểm tra nội bộ có nhiệm vụ:
+ Thực hiện việc kiểm tra, kiểm toán nội bộ các hoạt động của Chi nhánh theo đúng pháp luật, theo điều lệ, theo quy định về tổ chức và hoạt động bộ máy kiểm tra nội bộ của ngân hàng phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long.
+ Theo dõi, phúc tra Chi nhánh trong việc sửa chữa những vi phạm, kiến nghị của các đoàn thanh tra, kiểm tra và những kiến nghị của kiểm tra nội bộ tại Chi nhánh.
+ Báo cáo kết quả công tác kiểm tra nội bộ định kỳ hoặc đột xuất theo đúng quy định của Hội đồng quản trị và Tổng Giám đốc Ngân hàng phát triển nhà và đồng bằng sông Cửu Long.
+ Phối hợp với các đoàn thanh tra, kiểm tra của Nhà nước, ngân hàng Nhà nước và của Hội sở chính trong việc thanh tra, kiểm tra tại Chi nhánh.
+ Thực hiện các nhiệm vụ khác do Giám đốc Chi nhánh giao.
Mô hình tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của Chi nhánh phụ thuộc, phòng giao dịch, quỹ tiết kiệm trực thuộc Chi nhánh thực hiện theo quy định khác của ngân hàng phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long.
Kế hoạch phát triển mạng lưới và biên chế, kế hoạch kinh doanh, kế hoạch tài chính, phương án liên doanh, liên kết của Chi nhánh phải được Tổng Giám đốc phê duyệt mới được thực hiện.
Chi nhánh chịu sự kiểm tra, giám sát của các phòng nghiệp vụ có liên quan thuộc Hội sở chính về mặt hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ.
Tính đến thời điểm 31/12/2005, tổng số cán bộ công nhân viên của MHB Hà Nội là 73 người thuộc 6 điểm giao dịch trên địa bàn Hà Nội.
2. Công tác về nguồn vốn :
Tổng nguồn vốn thực hiện đến cuối năm 2007 đạt 27195,9 tỷ đồng, tăng 8364.4 tỷ đồng (44.4%) so với năm trước. Trong đó so với năm trước, vốn tự có đạt 1084 tỷ đồng, tăng 12%, vốn đi vay đạt 434.7 tỷ đồng, bằng 47%, vốn ủy thác đầu tư đạt 978.2 tỷ đồng, tăng 34.8%, vốn khác 668.1 tỷ, tăng 57.8%
Vốn huy động đạt 24031 tỷ đồng, tăng 52% so với năm trước. trong đó Tiền gửi thanh toán đạt 5191.1 tỷ đồng, tăng 37.6%, tiền gửi tiết kiệm đạt 4677.5 tỷ đồng, tăng 67.6%, phát hành giấy tờ có giá đạt 6022.5 tỷ, tăng 78.1%, đầu năm 2007 phát hành 600 tỷ đồng kỳ phiếu, đạt 105.9% so với kế hoạch, cuối 2007 phát hành 2000 tỷ đồng trái phiếu, đạt 100% kế hoạch, tiền gửi của các TCTD đạt 7970 tỷ đồng, tăng 9.1%, huy động vốn ngoại tệ đạt 572.1 tỷ đồng, chiếm 2.4% vốn huy động, bằng 76.7% so với năm 2006.
Vốn huy động có tốc độ tăng trưởng cao, tiền gửi thanh toán, tiền gửi tiết kiệm, giấy tờ có giá đều có tộc độ tăng trưởng cao, trong điều kiện các ngân hàng thương mại mở rộng mạng lưới và cạnh tranh để chiếm thị phần huy động vốn thể hiện các sản phẩm huy động vốn và lãi suất phù hợp với thị hiếu của khách hàng.
Tỷ trọng huy động vốn từ thị trường 1 và thị trường 2 đã được điều chỉnh theo hướng tích cực. Tỷ trọng huy động vốn từ thị trường 1 và thị trường 2 năm trước là 38% và 62%, đến nay tỷ trọng này là 46.8% và 53.2%, chứng tỏ cơ cấu nguồn vốn huy động tương đối hợp lý.
Hoạt động sử dụng vốn :
2004
2005
2006
2007
1.Doanh số cho vay
- Ngắn hạn
-Trung, dài hạn
7.085
5.223
1.862
12.217
10.225
1.992
23.052
22.100
952
57.631
55.122
2.509
2.Doanh số thu nợ
-Ngắn hạn
- Trung, dài hạn
12.685
9.633
3.052
19.221
17.045
2.176
32.036
31.002
994
55.236
53.154
2.082
3.Số dư nợ tính đến 31/12
- Ngắn hạn
- Trung,dài hạn
6.809
5.316
1.493
8.011
6.826
1.185
10.014
9.078
936
12.723
11.255
1.468
Nhìn vào bảng số liệu ta thấy rằng Ngân hàng có những bước nhảy vọt trong tăng trưởng tín dụng. Nghiệp vụ tín dụng ngày càng phát triển cả về số lượng khách hàng cũng như doanh số cho vay, doanh số thu nợ và số dư nợ. Tổng dư nợ đến 31/12/2007 là 12.723 tỷ đồng tăng 30% so với cùng kỳ năm 2006, tăng > 2 lần so với năm 2004. Doanh số cho vay tăng dần qua các năm, cụ thể 2007 tăng vượt trội so với 2006 từ 23.052 tỷ lên đến 57.631 tỷ.
Ngoài hoạt động tín dụng, Ngân hàng MHB còn
Đầu tư vào chứng khoán :
Ngày 01-03-2007, Công ty Chứng khoán MHB (MHBS) đã chính thức khai trương và đi vào hoạt động
Công ty Chứng khoán MHB đi vào hoạt động với các chức năng như: hướng dẫn mở/đóng tài khoản khách hàng. Nhận và đặt lệnh giao dịch, theo dõi kết quả giao dịch. Tư vấn, môi giới đầu tư chứng khoán. Nghiên cứu, xây dựng, cung cấp và phát triển sản phẩm môi giới và tìm kiếm khách hàng, phát triển mối quan hệ với khách hàng. Cung cấp các dịch vụ hỗ trợ khách hàng: cầm cố, mua bán chứng khoán theo kỳ hạn… Phân tích xu hướng thị trường, định giá các loại chứng khoán. Thưc hiện chức năng đầu tư tự doanh cho Công ty và nghiệp vụ uỷ thác đầu tư. Cung cấp dịch vụ tư vấn tài chính: tư vấn tái cấu trúc tài chính, doanh nghiệp, tư vấn CPH, tư vấn sát nhập, mua lại… Thiết lập kênh thông tin tiếp thị đến khách hàng để giới thịêu các sản phẩm và dịch vụ ngân hàng, công ty, các công ty thành viên. Nghiên cứu và triển khai các dịch vụ tư vấn tài chính cao cấp, hiện đại cho khách hàng, góp phần xây dựng thương hiệu công ty trên thị trường tài chính. Mua lại một phần hay toàn bộ chứng khoán của đợt phát hành mới, chứng khoán chưa được phân phối hết, hỗ trợ tổ chức phát hành trong việc phân phối chứng khoán, đại lý bảo lãnh hay đại lý phân phối. Cung cấp dịch vụ lưu giữ, bảo quản chứng khoán, dịch vụ quản lý sổ cổ đông,…
Đầu tư góp vốn, liên doanh :
Hoạt động đầu tư góp vốn liên doanh, liên kết của MHB cũng có những bước phát triển. Ngân hàng đã hợp tác với những công ty doanh nghiệp lớn như VNPT, Viettel, tổng công ty dầu khí, …. Đặc biệt trong hoạt động sử dụng thẻ, Ngân hàng đã có sự hợp tác với 1 số ngân hàng nhằm phục vụ cho khách hàng gửi tiền, rút tiền….với những tiện ích lớn nhất, đáp ứng nhu cầu khách hàng.
II. Thực trạng đánh giá rủi ro trước khi cho vay các dự án đầu tư tại Ngân hàng MHB- chi nhánh Hà nội :
Thực trạng đánh giá rủi ro trước khi cho vay tại MHB- hà nội :
Sau 10 năm đi vào hoạt động, đến năm 2007, MHB đã trở thành ngân hàng có Tổng tài sản lớn thứ 7 tại Việt Nam, tăng 56 lần so với ngày đầu thành lập, đạt con số 18.734 tỷ đồng, tăng 48,3% so với năm 2006.
Tổng nguồn vốn đến 31/12/2007 đạt 18.734 tỷ đồng, tăng 48,3% so với năm 2006, trong đó Vốn tự có là 929 tỷ đồng, tăng 9,3% so với cuối năm 2006, Vốn huy động là 16.617 tỷ đồng, tăng 59,3% so với năm 2006, Vốn ủy thác đầu tư là 725 tỷ đồng, trong đó đã nhận 408 tỷ đồng từ Dự án tài chính nông thôn II (RDF II) của World Bank và 317 tỷ đồng từ Cơ quan Phát triển Pháp (AFD).Theo thông lệ và tiêu chuẩn Quốc tế, MHB là 1 trong những ngân hàng có hệ số an toàn vốn tốt nhất Việt Nam (9,02%).
* Hoạt động đánh giá rủi ro dự án đầu tư tại Ngân hàng MHB có những bước phát triển
Năm 2007, do tình hình thị trường có những diễn biến khá phức tạp về giá vàng, dầu lửa, một số mặt hàng nông sản thực phẩm, bất động sản, chứng khóan, ... nên ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của các Ngân hàng thương mại nói chung và MHB nói riêng. Tuy vậy, MHB vẫn cố gắng phấn đấu để đạt được một số kết quả : tổng đầu tư tín dụng đạt 14.453 tỷ đồng, tăng 45,11%, tổng dư nợ cho vay đạt 10.013 tỷ đồng, tăng 18,68 % so với đầu năm. MHB luôn cố gắng tìm kiếm, lựa chọn khách hàng để cho vay, chú trọng cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ, cho vay hộ cá nhân và gia đình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, Cho vay có bảo đảm bằng tài sản, tích cực cho vay xây dựng, mua, sửa chữa nhà ở đối với hộ cá nhân và gia đình và các doanh nghiệp xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ nhà ở.
Công tác đánh giá rủi ro trước khi cho vay dự án đầu tư trong những năm qua diễn ra ở Ngân hàng MHB rất sôi động, và có kết quả cao điều đó được thể hiện qua các hoạt động đầu tư theo dự án và tăng cường mở rộng đầu tư theo dự án.
Theo định hướng chiến lược trong hoạt động tín dụng, doanh số cho vay tổng dư nợ nói chung của Ngân hàng MHB trong những năm gần đây tăng nhanh và ổn định.
Đặc biệt từ thời kỳ 2004-2007, mà năm 2007 đánh dấu sự phát triển vượt bậc về giải ngân cho vay theo dự án, nên tổng doanh số cho vay đạt mức kỷ lục 57.631 tỷ đồng, tăng 60% so với năm 2006, các năm sau tiếp tục tăng lên rất nhiều, năm 2005 tăng gần 42% so với năm 2004 và năm 2006 tăng gần 47% so với năm 2005.
Bên cạnh đó, các dự án được Ngân hàng MHB đầu tư trước đó phát huy hiệu quả, chủ dự án thu hồi được vốn, có điều kiện trả nợ vốn vay ngân hàng, nên tổng doanh số thu nợ tiền riêng trong năm 2007 đạt 55.236 tỷ đồng, tăng 42% so với năm 2006, khẳng định công tác đánh giá rủi ro của Ngân hàng MHB bước đầu đã thành công và đi đúng hướng.
Các khoản vay đầu tư theo dự án góp phần làm cho nợ tín dụng tăng trưởng cao trong các năm.
Tính đến năm 2007, tổng dư nợ cho vay đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 12.6% đạt 3564 tỷ đồng tăng 125% so với năm 2006. Đặc biệt tỷ lệ nợ quá hạn được cải thiện rất nhiều, giảm xuống còn 0.3 so với 1.1 năm 2006, trong đó tỷ lệ cho vay trung và dài hạn là 46% (tăng so với 2006 là 40%)
Kể từ khi đề án tái cơ cấu được triển khai thì hoạt động đầu tư theo dự án của Ngân hàng MHB đã không ngừng tăng lên về số lượng và chất lượng, trong đó bộ phận đánh giá rủi ro là bộ phận đóng góp cho sự thành công của quá trình đầu tư rất lớn, là bộ phận bảo vệ cho sự thành bại của đầu tư.
Bảng Tỷ trọng cho vay vốn các dự án trung và dàn hạn trong tổng dư nợ :
Năm
Dư nợ trung và dài hạn(tỷ đồng)
Tỷ trọng trong tổng dư nợ
2004
1.493
21.93%
2005
1.185
14.79%
2006
936
9.35%
2007
1.468
12%
Một số mặt chưa tốt trong công tác đánh giá rủi ro tại Ngân hàng MHB- hà nội.
_ Thời gian tiến hành đánh giá rủi ro các dự án còn dài, kể từ khi doanh nghiệp đưa hồ sơ xin vay vốn đến khi nhận được kết quả vay vốn. Dẫn đến làm mất cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp, nhất là những dự án sản phẩm mang tính chất thời vụ.
_ Chi phí đánh giá rủi ro của các dự án thường lớn đối với các dự án. Chi phí đánh giá dự án thường chiếm một phần lớn kết quả kinh doanh của dự án. Chất lượng đánh giá vẫn còn ở mức trung bình, nhiều dự án thu hồi vốn chậm, nhất là những dự án có sự tham gia của nhà nước.
Bảng : Thiệt hại do đánh giá rủi ro kém chất lượng
(trường hợp xác định sai nhu cầu thị trường dự án)
Sai lệch thị trường
NPV(triệu đồng)
Thiệt hại nguồn lực
Thiệt hại cơ hội
-40%
-118.612
-135.619
-30%
-84.708
-101.175
-20%
-50.804
-67.811
-10%
-16.900
-33.907
0%
17.007
0
0
10%
50.908
33.901
20%
84.812
67.805
30%
118.717
101.710
40%
152.621
135.614
Tình hình nợ quá hạn tại Ngân hàng MHB- chi nhánh Hà nội
2004
2005
2006
2007
Số dư
%Tổng dư nợ tương đương
Số dư
%tổng dư nợ tương đương
Số dư
%tổng dư nợ tương đương
Số dư
%tổng dư nợ tương đương
Tổng dư nợ quá hạn
18.768
7.45
21.734
10.4
28.526
13.2
21.573
8.7
Ngắn hạn
11.928
6.3
14.865
7.2
18.506
8.5
19.529
7.87
Trung dài hạn
6.840
1.15
6.869
3.2
10.020
4.7
2.044
0.83
2. Những mặt tồn tại và nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng tại MHB chi nhánh Miền Bắc
2.1. Nguyên nhân khách quan
* Môi trường kinh tế của Việt Nam chưa lành mạnh
Từ sau đại Đảng lần thứ VI năm 1986, đánh dấu sự thay đổi căn bản trong đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, nhằm chuyển đổi cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế có sự quản lý của Nhà nước. Công cuộc đổi mới đa dạng mang lại những thành tựu đáng khích lệ như tăng trưởng kinh tế tương đối ổn định, đã ngăn chặn được tình trạng siêu lạm phát, cơ cấu kinh tế nhiều thành phần đã khơi dậy tiềm năng lớn trong sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên bên cạnh những thành tích đã đạt được thực tế cho thấy nền kinh tế ở nước ta vẫn còn nhiều mặt yếu kém như; hiệu quả nền kinh tế còn thấp, tỷ lệ tích luỹ đầu tư còn nhỏ, trình độ quản lý vĩ mô còn yếu kém bộc lộ nhiều sơ hở và thiếu sót thể hiện rõ nhất ở sự ra đời ồ ạt các doanh nghiệp tư nhân, Công ty TNHHH, HTX tín dụng… nhưng chỉ có ít trong số đó là kinh doanh lành mạnh và làm ăn có hiệu quả.
Sự phối hợp giữa các ngành, các cấp thiếu đồng bộ. Nền kinh tế cứ khắc phục được sự mất cân đối này lại nảy sinh sự mất cân đối khác. Ví dụ như trong lĩnh vực xuất nhập khẩu mặc dù Nhà nước chú trọng quản lý điều hành nhưng trên thực tế lại vô cùng phức tạp và lộn xộn, là khâu đầu tiên thường dẫn đến mất cân đối cung cầu, rối loại giá cả hàng hoá và nhiều khi là vật cản trở đối với sản xuất kinh doanh trong nước
* Môi trường pháp lý không thuận lợi.
Do hệ thống pháp luật ban hành thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu cầu của hoạt động sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị trường dẫn đến tình trạng các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân đã lợi dụng sơ hở để cố tình làm sai gây thất thoát của Ngân hàng nhiều tỷ đồng.
Ngành Ngân hàng đã ra đời từ lâu và được coi như một ngành kinh doanh mạo hiểm nhất vậy mà đến tận cuối năm 1997, luật ngân hàng mới chính thức được ban hành nhưng trong đó còn nhiều lĩnh vực chưa được quy định chặt chẽ. Ngay cả trong công tác tín dụng cũng vậy, cuối năm 1996 Ngân hàng Công thương Việt Nam mới có văn bản về quy trình hướng dẫn cho vay và quy trình thẩm định dự án. Chính sự thiếu đồng bộ và lỏng lẻo nay đã gây không ít khó khăn cho cả Ngân hàng và khách hàng.
* Nguyên nhân từ phía người vay.
Năng lực của khách hàng yếu kém.
Mặc dù trong những năm gần đây đã có những bước phát triển nhảy vọt, nhưng nhìn chung thì nền kinh tế nước ta đang trong thời kỳ tích luỹ nguyên thuỷ, vốn của các doanh nghiệp còn ít ỏi, nghèo nàn. Để hoạt động được các nhà kinh doanh đều phải dựa vào vốn Ngân hàng do đó chỉ cần một sự biến động nhỏ của thị trường hoặc một sự tăng lãi suất cũng có thể đẩy doanh nghiệp vào tình trạng khó khăn về tài chính. Cũng vì đồng vốn ít ỏi đã khiến cho các doanh nghiệp thiếu khả năng chủ động trong sản xuất kinh doanh, đổi mới công nghệ. Thêm vào đó là công nghệ sản xuất hiện hành của các doanh nghiệp đã quá lạc hậu làm cho năng suất lao động thấp, chất lượng sản phẩm kém, giá thành cao. Trong khi nhu cầu của thị trường ngày càng đòi hỏi cao về chất lượng và mẫu mã, thị hiếu lại luôn thay đổi. Mặt khác muốn kinh doanh thành công, người điều hành doanh nghiệp phải biết cách tổ chức kinh doanh. Không thể lấy lòng nhiệt tình và sự chịu đựng khó khăn để thay thế kiến thức quản trị kinh doanh, đặc biệt là trong cơ chế thị trường như hiện nay. Nhưng thực tế cho thấy, các nhà kinh doanh ở nước ta chưa có được những cái cần thiết đó, hiện nay chúng ta mới chỉ bắt đầu quan tâm đến việc đào tạo đội ngũ cán bộ làm nghề quản trị kinh doanh.
Rủi ro thiếu thống tin.
Trong nền kinh tế thị trường, việc quản lý kinh doanh không thể thiếu thông tin, thông tin được coi là đối tượng lao động của người điều hành. Chúng ta thường nói "thời đại ngày nay là thời đại thông tin" thế nhưng trong thực tế các doanh nghiệp ở nước ta lại đang hoạt động trong tình trạng thiếu thông tin, thông tin sai lệch hoặc thông tin lạc hậu. Do tình trạng thông tin bất cập như vậy nên các doanh nghiệp trong nước đã không nắm bắt được tình hình thị trường, nhu cầu, chủng lợi, giá cả vì vậy đã có những quyết định sai lầm.
Rủi ro do thiếu thích nghi với cạnh tranh.
Cạnh tranh là một tất yếu của nền kinh tế thị trường. Nền kinh tế nước ta đang trong thời kỳ quá độ chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường, sự cạnh tranh diễn ra rất phức tạp nhiều khi còn thiếu lành mạnh, nhất là trong bối cảnh nền kinh tế mở, tính cạnh tanh không chỉ ở trong nước mà nó còn chịu ảnh hưởng của thế giới bên ngoài. Vì vậy rủi ro do thiếu thích nghi với cạnh tranh là vô cùng lớn và có tình phổ biến, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp nước ta vô cùng lớn và có tình trạng yếu kém về cả năng lực tài chính lẫn năng lực quản trị kinh doanh.
Trong thời gian qua do thiếu thích nghi với cạnh tranh, hàng ngàn doanh nghiệp nước ta đã bị giải thể, để lại gần 2.000 tỷ đồng tiền nợ không có khả năng thanh toán cho Ngân hàng. Một số doanh nghiệp khác đang hoạt động thì không ít trường hợp kinh doanh thua lỗ, đặt nhiều ngân hàng vào thế "tiến thoái lưỡng nan". Xét theo góc độ tín dụng thì đây là những con nợ có thể mang lại rủi ro cho ngân hàng bất cứ lúc nào.
Tư cách người vay kém.
Đánh giá về rủi ro tín dụng Ngân hàng do các nguyên nhân xuất phát từ phía người vay, chúng ta nhận thấy rằng không ít những chủ doanh nghiệp, cá nhân vay vốn của Ngân hàng không chỉ kém về năng lực quản lý điều hành kinh doanh mà còn yếu kém cả về tư cách khi xét theo góc độ ý muốn trả nợ Ngân hàng. Mặc dù đa số người vay thường có ý nghĩ xuất phát điểm là tốt đẹp với mong muốn thanh toán được nợ vay ngân hàng từ hiệu quả hoạt động kinh doanh của mình nhưng cũng không ít những con nợ đã rắp tâm lừa đảo Ngân hàng ngay từ đầu. Họ thường tìm cách săn đón, nói hay, nói tốt về dự án, chuẩn bị hồ sơ một cách hoàn chỉnh và chu đáo khiến cho một số cán bộ tín dụng dễ phán xét sai lầm khi quyết định cho vay. Khi đã vay được vốn ở Ngân hàng rồi thì lại sử dụng vốn đó vào các việc khác như: buôn lậu, chơi đề, chơi hụi, cho người khác vay để hưởng chênh lệch lãi suất cao hơn.
Với những trường hộp như vậy thì thất bại luôn chờ sẵn họ và hậu quả đổ lên nhà Ngân hàng. Ví dụ ở MHB chi nhánh Miền Bắc , khách hàng Trần Minh Đức đã vay vốn của Ngân hàng, dùng tài sản nhà đã thế chấp mang bán cho người khác, nay bị công an quận Đống Đa bắt giữ, Nguyễn Trọng Hùng cũng vay vốn ở Ngân hàng với mục đích nâng cấp khách sạn, song cho đến nay thời hạn thu hồi nợ đã quá lâu rồi những chưa trả được nợ cho ngân hàng, gây thất thu gần 2 tỷ đồng.
Để khắc phục tình trạng này, không còn cách nào khác MHB chi nhánh Miền Bắc nói riêng và hệ thống Ngân hàng Thương Mại nói chung cần phải đào tạo đội ngũ cán bộ ứng dụng có năng lực, có trình độ chuyên môn cao, nhanh nhạy, phản ứng kịp thời và có khả năng phán đoán đánh giá khách hàng trước khi quyết định cho vay. Đồng thời phải kế hợp với các ngành khác tránh tình trạng lừa đảo, giả mạo giấy tờ của khách hàng khi đến vay vốn của ngân hàng.
* Do hiệu lực quản lý của các cơ quan nhà nước chưa cao.
Trong quá trình chuyển đổi cơ chế, các chính sách cần phải điều chỉnh là không thể tránh khỏi, do đó sự điều chỉnh đôi khi tác động làm ảnh hưởng tới hoạt động tín dụng của Ngân hàng như NĐ18/CP của Chính phủ về quản lý đất đai làm cho nhiều doanh nghiệp vay vốn Ngân hàng kinh doanh bất động sản bị kẹt vốn không thể trả được nợ cho ngân hàng khi đến hẹn. Chính sách ngoại thương không kịp thời, không đối phó với sự biến động của thị trường của thị trường làm cho hàng hoá lúc thì nhập ồ ạt không tiêu thụ được gây kẹt vốn lúc thì tạo thành cơn sốt.
*Một số nguyên nhân khác:
Nước ta vẫn đang trong giai đoạn chuyển mình sang nền kinh tế thị trường, do đó có nhiều thay đổi trong chính sách và cơ chế. Chính những sự thay đổi này đã ảnh hưởng lớn tới hoạt động của các đơn vị, tổ chức kinh tế, bởi vì họ thường không thể phản ứng kịp thời trước sự biến động đột ngột của môi trường kinh doanh nên tất yếu gánh chịu thất bại. Trong trường hợp khác, có những doanh nghiệp mặt dù phương án sản xuất kinh doanh tốt, có tính khả thi cao song không gặp may gặp phải những rủi ro bất khả kháng như thiên tai, dịch hoạ… nên đã mất khả năng trả nợ cho Ngân hàng. Năm 2001 ở Ngân hàng TMCP Phương Nam có tới 223 triệu đồng (chiếm 0,3% tổng dư nợ quá hạn) do nguyên nhân bất khả kháng. Quý I - 2002 tỷ lệ này còn cao hơn nhiều (chiếm 1,7%). Với những trường hợp như vậy Ngân hàng cần có những biện pháp xử lý như gia hạn nợ cho khách hàng, đảo nợ hoặc nghị Bộ tài chính xem xét thanh nợ cho các đơn vị đó.
2.2. Nguyên nhân chủ quan từ phía Ngân hàng.
* Cho vay không đúng nguyên tắc:
Chỉ tiêu
Quý I -2006
31/12/2006
Quý I - 2007
Số lượng
%
Số lượng
%
Số lượng
%
Nợ quá hạn theo nguyên nhân
72.550
100
75.021
100
74.404
100
1. Do chủ quan
-
-
26.978
36
26.642
36
2. Do khách quan
72.550
100
48.043
64
47.462
64
+ Bất khả kháng
313
0,43
223
0,3
1.270
1,7
+ Sai mục đích lừa đảo
71.145
98
39.431
53
44.449
60
+ Nguyên nhân khác
1.092
1,75
8.389
10,7
2.043
2,3
Theo bảng trên thì nguyên nhân chủ quan gây ra rủi ro tín dụng cho MHB chi nhánh Miền Bắc cũng không phải là nhỏ, như năm 2006 có tới 27 tỷ đồng nợ quá hạn là do nguyên nhân chủ quan gây ra, chiếm 36% tổng dư nợ quá hạn. Sang quý I năm 2007 con số này cũng không giảm chút nào cả. Xin kể ra một vài lý do chủ yếu gây ra nợ quá hạn của Ngân hàng.
- Do cán bộ tín dụng không thực hiện đúng các nguyên tắc, quy trình nghiệp vụ cho vay.
- Khi xử lý thông tin không quán triệt đầy đủ các quan điểm, yêu cầu của nguyên tắc tín dụng.
- Các bộ tín dụng chủ quan quá tin tưởng vào khách hàng mà coi nhẹ khâu kiểm tra, giám sát.
- Chính sách tín dụng lỏng lẻo, để kẽ hở cho khách hàng lợi dụng.
- Cho vay quá mức an toàn về bảo lãnh, thế chấp.
- Cố ý thoả hiệp với người vay mặc dù biết rủi ro sẽ xẩy ra.
- Thiếu lòng tin về khách hàng và thị trường cho vay...
* Kiểm tra kiểm soát không tốt.
Hoạt động tín dụng là hoạt động rất phức tạp và nhạy cảm, luôn có sự biến động từ thái cực này sang thái cực khác. Trong khi đó cán bộ tín dụng hay làm việc theo thói quen. Việc kiểm tra, giám sát khoản cho vay tốt sẽ giúp cho họ sớm nhận ra sai sót, nắm bắt và xử lý kịp thời những khoản cho vay có vấn đề. Trong thực tế, những nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng ở MHB chi nhánh Miền Bắc không tốt. Cụ thể là:
Hệ thống thanh tra Ngân hàng Nhà nước kiểm soát hoạt động của các Ngân hàng thương mại không thường xuyên và kém hiệu quả. Thông thường họ chỉ có mặt khi sự việc đã vỡ lở, cũng có khi phát hiện được vấn đề lại không có biện pháp xử lý kịp thời.
- Việc kiểm soát của ngay chính bản thân MHB chi nhánh Miền Bắc cũng tỏ ra lỏng lẻo. Phòng kiểm soát nằm xa trung tâm, ít tiếp xúc với cán bộ tín dụng do đó tạo điều kiện cho một số cán bộ tín dụng làm bừa làm ẩu và thiếu trách nhiệm, dẫn đến những rủi ro không đáng có.
* Quá tin tưởng vào tài sản thế chấp
Mặc dù biết rằng nguyên tắc cho vay là phải có tài sản thế chấp song cán bộ tín dụng cũng không nên cứng nhắc trong điều kiện này. Có đơn vị sản xuất kinh doanh tốt thì có thể không cần tài sản thế chấp vẫn yên tâm cho vay được. Ngược lại có những khách hàng vay với tài sản thế chấp lớn nhưng làm ăn thua lỗ dẫn đến ngân hàng phải phát mại tài sản đến thu hồi nợ, nhưng việc bán các tài sản thế chấp để thu hồi lại vốn đã cho vay là một vấn đề không dễ dàng chút nào. Ngân hàng thường gặp phải khó khăn trong giấy tờ sở hữu tài sản, về giá cả của tài sản, về thời gian bán được tài sản thế chấp gây chậm chễ trong việc thu hồi vốn, có những tài sản thế chấp khi định giá cho vay thì nó đang ở thời điểm giá cao, đến khi phát mại bán đi giá trị hạ gây thua lỗ cho nhà Ngân hàng.
Thông tin tín dụng là vấn đề hàng đầu để có quyết định cho vay đúng đắn, trong nhiều trường hợp do điều tra không tốt nên thông tin sai lệch hoặc không đầy đủ, ở nước ta hiện nay chưa có hãng kinh doanh thông tin tín dụng nào, trung tâm thông tin TPR của Ngân hàng Nhà nước mới ra đời, hoạt động chưa hiệu quả nên việc hỗ trợ cho các cán bộ tín dụng ngân hàng rất kém không có thông tin đâỳ đủ nên nhiều trường hợp để bể rồi hoặc khách hàng đã hoàn toàn mất khả năng thanh toán ngân hàng mới nhận ra.
* Do đội ngũ cán bộ thiếu trình độ.
Trình độ của cán bộ tín dụng còn bị hạn chế do đó không có khả năng phân tích thẩm định dự án, nên nhiều khi cho vay mà không đánh giá được tính khả thi của dự án, hoặc do không phân tích được các báo cáo tài chính của lãnh đạo doanh nghiệp, không biết năng lực thực sự của khách hàng do đó khi họ kinh doanh thua lỗ không thể trả nợ được ngân hàng là tất yếu. Kiến thức về xã hội, thị trường của cán bộ tín dụng bị hạn chế cũng gây cho món vay bị rủi ro vì trong nhiều trường hợp khách hàng đã không nắm bắt được nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng, không phân tích được cung cầu của thị trường dẫn đến mặt hàng kinh doanh đó bị ứ đọng, nên cán bộ tín dụng là người có kiến thức, biết phân tích tình hình cho khách hàng, sẽ tránh được thiệt hại trong kinh doanh, và tiền vay của ngân hàng khi đó bị rủi ro.
2.3. Các biện pháp mà MHB-chi nhánh hà nội đã áp dụng nhằm ngăn ngừa và hạn chế rủi ro khi cho vay :.
Muốn khắc phục tồn tại, đưa chi nhanh thoát ra khỏi tình trạng hiện nay, con đường duy nhất là mở rộng hoạt động, tăng cường nguồn thu, chú trọng công tác huy động vốn và cho vay đồng đều, tập trung vào các ngành kinh tế mũi nhọn để tăng thị phần dư nợ cho các doanh nghiệp quốc doanh, với đường lối chung do MHB chi nhánh Miền Bắc đề ra là “ổn định,phát triển vững chắc, an toàn và hiệu quả”, sau đây là một số biện pháp cụ thể mà Ngân hàng đã áp dụng thu được thành công đáng kể.
* Công tác tổ chức đào tạo cán bộ : việc đào tạo cán bộ tín dụng: có trình độ chuyên môn cao, có đạo đức nghề nghiệp và có tinh thần trách nhiệm tốt đối với công việc là một trong những mục tiêu hàng đầu của chi nhánh để hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
Trong những năm gần đây MHB chi nhánh Miền Bắc đã có những biện pháp đào tạo cán bộ như cứ cán bộ tham gia các chương trình tập huấn hội thảo do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tổ chức hay những buổi học tập nghiệp vụ tại chỗ do trung tâm đào tạo MHB chi nhánh Miền Bắc giảng dạy. Đây là những dấu hiệu đáng mừng chứng tỏ ý thức của ban lãnh đạo trong công tác đào tạo bồi dưỡng để nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ, nhân viên của chi nhánh.
Hiện nay tại MHB chi nhánh Miền Bắc, các cán bộ được giao nhiệm vụ theo hình thức khoán quản lý mức dư nợ, họ phải đảm đương mọi công việc trong một quy trình cấp tín dụng: như thẩm định, kiểm soát cho vay, thu nợ... vì vậy công tác đào tạo cán bộ tín dụng phải toàn diện mà nó hiểu biết nghiệp vụ sâu sắc và các mặt khác như pháp luật tài chính, kế toán.
Bên cạnh việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, ban lãnh đạo Ngân hàng phải cân nhắc thận trọng khi bố trí nhân sự để phát huy được thế mạh và hạn chế được nhược điểm của mỗi cán bộ. Điều này đòi hỏi ban lãnh đạo phải thường xuyên theo sát hoạt động của nhân viên để đánh giá về họ được chính xác. Ngoài ra việc đề ra các mức thưởng phạt nhằm khuyến khích kịp thời nhằm làm cho cán bộ, nhân viên không ngừng nâng cao tinh thần trách nhiệm, ích thích sự cố gắn phấn đấu trong công việc nghiệp vụ của mỗi cán bộ.
* Tăng cường công tác thu thấp và xử lý thông tin.
Thu thập và xử lý kịp thời, chính xác các thông tin liên quan đến hoạt động tín dụng là điều hết sức cần thiết, nó giúp nâng cao hiệu quả công tác tín dụng và hạn chế rủi ro trong kinh doanh của Ngân hàng.
Trong suốt quá trình cấp tín dụng cho khách hàng từ thẩm định dự ánn tới khi thu hồi gốc và lãi về. Ngân hàng luôn phải quan tâm tới tình hình hoạt động kinh doanh và sử dụng vốn vủa khách hàng. Do đó yếu tố thông tin về khách hàng là rất quan trọng trong công tác đảm bảo an toàn cho món vay. Những thông tin về tài chính, đạo dức, tình hình kinh doanh, uy tín... của khách hàng. Từ đó ngân hàng sẽ có những nhận định chính xác hơn về khách hàng và có thể đưa ra những quyết định có nên tài trợ hay không.
* Các giải pháp về phân tán rủi ro.
Trong kinh doanh đặc biệt là trong kinh doanh tiền tệ, rủi ro là điều kiện khó tránh khỏi. Vấn đề là làm thế nào để tối thiểu hoá những rủi ro đó đồng thời đạt được mục tiêu lợi nhuận. Để làm được điều này MHB chi nhánh Miền Bắc đã thực hiện một số biện pháp sau:
* Đa dạng hoá đối tượng đầu tư.
Đây là biện pháp chủ yếu và chủ động nhất của Ngân hàng Thương Mại trong việc phân tán rủi ro. Ngân hàng đã chia nguồn tiền của mình vào nhiều loại hình đầu tư tài trợ cho nhiều ngành nghề khác nhau cũng như nhiều khách hàng ở nhiều địa bàn khác nhau. Điều này vừa mở rộng được phạm vi hoạt động tín dụng của Ngân hàng khuyếch trương thanh thế uy tín đã đạt được mục đích của mình phân tán rủi ro. Để thực hiện tốt vấn đề này MHB chi nhánh Miền Bắc đã vạch ra một số chiến lược kinh doanh như:
+ Đầu tư vào nhiều ngành nghề kinh tế khác nhau, để tránh sự cạnh tranh của các tổ chức tín dụng trong việc giành thị phần trong một số ngành đang phát triển cũng như trắnh gặp phải rủi ro cho những chính sách mới của Nhà nước mới ban hành với mục đích hạn chế hoạt động của một số ngành nghề trong kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế.
+ Đầu tư vào nhiều đói tượng sản xuất kinh doanh loại hàng hoá khác nhau.
+ Tránh tình trạng cho vay quá nhiều đối với một khách hàng luôn đảm bảo một tỷ lệ cho vay nhất định trong tổng số vốn hoạt động của khách hàng để tránh sự ỷ lại và rủi ro bất ngờ của khách hàng đó.
+ Cho vay với nhiều thời hạn khác nhau bảo đảm msự cân đói giữa số vốn cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn đảmm bảo sự phát triển vững chắc và tránh rủi ro tín dụng do sự thay đổi lãi suất thị trường.
* Cho vay đồng tài trợ.
Trong thực tế có những doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn rất lớn và một ngân hàng không thể đáp ứng được đó thường là nhu cầu đầu tư cho các dự án lớn và khó xác định mức độ rủi ro có thể xảy ra. Trong trường hợp này các ngân hàng cùng nhau liên kết để thẩm định dự án cho vay và chia sẻ rủi ro đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi bên. Đây là một hình thức cho vay mới MHB chi nhánh Miền Bắc mới chỉ tham khảo vì hình thức này khá phức tạp về thủ tục và còn bị vướng mắc trong việc thoả hiệp giữa các Ngân hàng về quyền lợi và trách nhiệm.
* Tăng cường kiểm soát, kiểm tra nội bộ
Công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng là một hình thức quản lý hoạt động của ngân hàng có hiệu quả về chiều sâu. Qua hoạt động này nó làm hoàn thiện công tác của cán bộ tín dụng góp phần ngăn ngừa, chấn chỉnh những sai sót trong quá trình thực hiện nghiệp vụ. Do vậy để nâng cao hiệu quả công tác kiểm soát nhằm hạn chế rủi ro cho vay. MHB chi nhánh Miền Bắc đã thực hiện một số biện pháp:
+ Tăng cường những cán bộ có năng lực nghiệp vụ bổ xung cho phòng kiểm soát.
+ Quan tâm đào tạo, nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ phòng kiểm soát.
+ Phát huy chức năng hoạt động của hội đồng tín dụng và tổ thẩm định để nâng cao chất lượng thẩm định dự án trước khi cho vay.
Bên cạnh đó phòng kiểm soát, kiểm tra phải luôn quan tâm đến việc chỉnh sửa sau thanh tra và tham mưu cho giám đốc xử lý nghiêm túc, kịp thời các sai phạm nhằm hạn chế mức rủi ro thấp nhất cho chi nhánh.
CHƯƠNG III
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN HẠN CHẾ RỦI RO TRƯỚC KHI CHO VAY TẠI NGÂN HÀNG PHÁT TRIỂN NHÀ ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG - MHB CHI NHÁNH MIỀN BẮC
I. Kiến nghị các giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro trước khi cho vay của Ngân hàng MHB-chi nhánh Hà nội
Trên cơ sở định hướng hoạt động kinh doanh của MHB chi nhánh Miền Bắc giai đoạn 2005-2010 và trên cơ sở thưc trạng công tác phòng ngừa rủi ro tín dụng tại MHB chi nhánh Miền Bắc trong những năm qua, các tồn tại và nguyên nhân của những tồn tại trong công tác phòng ngừa rủi ro tín dụng, em xin kiến nghị với MHB chi nhánh Miền Bắc một số giải pháp sau:
1. Giải pháp trước mắt
Nhằm nâng cao vị thế của MHB chi nhánh Miền Bắc, hoàn thành các mục tiêu kinh doanh đã đề ra, nâng cao chất lượng tín dụng, phòng ngừa khi rủi ro tín dụng xảy ra, xây dựng được một hệ thống khách hàng truyền thống.Trước mắt, MHB chi nhánh Miền Bắc tập trung thực hiện các giải pháp cụ thể sau:
1.1 Giải pháp về nhận biết và đo lường rủi ro
- Sử dụng thêm các chỉ tiêu tài chính để đo lường rủi ro tín dụng như tỷ lệ nợ xấu so với Tổng dư nợ, tỷ lệ lãi treo so với tổng thu nhập từ cho vay...đồng thời sử dụng thêm các chỉ tiêu phi tài chính để đo lường rủi ro tín dụng.
- Cán bộ ngân hàng nói chung và cán bộ tín dụng, thẩm định nói riêng cần phải ghi nhớ các dấu hiệu khác nhận biết rủi ro tín dụng, các dấu hiệu đó là: nợ quá hạn, nợ được cơ cấu lại, nợ có vấn đề, nợ giãn, nợ khoanh, lãi treo...vv
- Chấm điểm tín dụng khách hàng, phân loại khách hàng thành các nhóm như khách hàng truyền thống và khách hàng mới, khách hàng là DNNN, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân...., khách hàng là doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp vừa và nhỏ, khách hàng có tài sản bảo đảm và khách hàng không có tài sản bảo đảm....
Trên cơ sở đó xác định mức độ rủi ro của từng khách hàng, từ đó đưa ra quyết định không cho vay hoặc cho vay, cân nhắc giữa lợi ích và rủi ro với đối sách: Quản lý chặt chẽ hơn, lãi suất cho vay cao hơn, yêu cầu khách hàng có tài sản bảo đảm...
1.2. Giải pháp để hạn chế rủi ro (điều tiết và giám sát rủi ro)
*Thẩm định:
- Từ phân tích dự án, phương án xin vay, cho đến việc xác định doanh thu, nguồn trả nợ từ dự án, phương án phải chính xác, chính vì vậy công tác dự báo phải tốt (dự báo về thị trường, giá cả, tỷ giá....)
- Khả năng tài chính của khách hàng: Phải chuẩn hoá công tác kế toán tài chính, trong điều kiện có thể áp dụng kiểm toán bắt buộc đối với các doanh nghiệp có quan hệ tín dụng
- Về tài sản bảo đảm tiền vay: Đánh giá tài sản bảo đảm phải qua tổ chức trung gian có tư cách pháp nhân, có tính chất chuyên nghiệp, đảm bảo yếu tố pháp lý của tài sản bảo đảm, giấy tờ tài sản bảo đảm, thủ tục bảo đảm tiền vay. Cơ chế chính sách của Nhà nước phải rõ ràng hơn, đảm bảo quyền chủ nợ (Ngân hàng) trong việc xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ
- Đảm bảo yếu tố pháp lý của tất cả hồ sơ vay vốn (Hồ sơ pháp lý, dự án, phương án xin vay, tài sản bảo đảm tiền vay...)
*Quyết định cho vay thiết lập hợp đồng:
- Thiết lập các hợp đồng tín dụng, bảo đảm tiền vay phải đảm bảo chặt chẽ, chú trọng tính pháp lý, lưu ý quyền hạn của các bên ký hợp đồng, tránh trường hợp hợp đồng vô hiệu
*Giải ngân, kiểm soát trong khi cấp tín dụng:
- Các hợp đồng, các chứng từ giải ngân, kiểm tra đối chiếu với đơn xin vay, khách hàng nhận tiền vay, các điều kiện giải ngân.
*Kiểm soát sau khi cho vay:
- Kiểm tra việc sử dụng vốn vay có phù hợp với mục đích xin vay không.
- Kiểm tra các dự án, tiến bộ phương án sản xuất kinh doanh, hiện trạng tài sản bảo đảm tiền vay.
1.3. Giải pháp xử lý tín dụng
Phát hiện món vay có rủi ro có thể áp dụng các giải pháp sau:
- Chuyển nợ quá hạn, thu nợ trước hạn
- Xử lý tài sản bảo đảm tiền vay
- Khởi kiện và một số giải pháp khác
1.4. Giải pháp khác
- Tiếp tục đào tạo và đào tạo lại cán bộ tín dụng để có thể tiếp cận nhanh nhất với những thay đổi về cơ chế, chính sách, những thông tin biến động trên thị trường, về tài chính doanh nghiệp, dự án đầu tư và các vấn đề liên quan đến công tác tín dụng.
- Rà soát và phân lại mức phán quyết tín dụng cho các chi nhánh cấp II cho hợp lý theo từng giai đoạn và định hướng phát triển chung và phù hợp với từng chi nhánh.
- Xây dựng, hoàn thiện tiêu chí phân loại khách hàng cho phù hợp.
- Xây dựng tiêu chí để cán bộ tín dụng đánh giá mức độ rủi ro tín dụng của từng khoản vay, qua đó đo lường và có biện pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng (Xếp loại khách hàng theo loại A,B,C, phân loại khách hàng...)
- Phân loại và xếp hạng rủi ro theo ngành, nhóm ngành theo định kỳ, qua đó xác định được hạn mức tín dụng cho từng ngành, nhóm ngành.
- Sớm ban hành sổ tay tín dụng riêng cho MHB chi nhánh Miền Bắc
- Với mạng lưới rộng, nên xây dựng hệ thống thu thập và xử lý thông tin tín dụng.
- Hoàn thiện quy trình thẩm định đã ban hành phù hợp với thực tiễn phát sinh trong hoạt động kinh doanh.
- Đa dạng hoá tài sản bảo đảm hơn nữa
- Nâng cao dần tỷ trọng cho vay có bảo đảm bằng tài sản/Tổng dư nợ
- Mở rộng cho vay đồng tài trợ để phân tán rủi ro
2. Giải pháp chiến lược.
Với định hướng hội nhập và chấp nhận sân chơi bình đẳng, về lâu dài MHB chi nhánh Miền Bắc cần phải thực hiện các chiến lược sau:
Đưa công nghệ thông tin vào quản trị rủi ro ngân hàng nói chung và quản trị rủi ro tín dụng nói riêng, ứng dụng công nghệ thông tin sẽ giúp chúng ta phân tích và dự báo được chính xác hơn mức độ biến động của từng ngành, từng khu vực, theo dõi việc cơ cấu nợ... giúp chúng ta đưa ra những quyết định đúng.
- Xây dựng hạn mức tín dụng theo ngành, nhóm ngành và từng nhóm khách hàng
- Thuê tổ chức tư vấn hoặc tìm nguồn thông tin về thị trường, giá cả, tỷ giá... phục vụ công tác thẩm định, quyết định cho vay.
- Phân loại khách hàng, nhóm khách hàng, tránh cho vay tập trung để phân tán rủi ro.
- Sử dụng số dư tiền gửi là số dư bù bao gồm lượng tiền gửi tối thiểu bắt buộc được xác định trên cơ sở quy mô của hạn mức tín dụng đối với mỗi khách hàng.
- Có chính sách, cơ chế đãi ngộ với trách nhiệm cá nhân hợp lý, tạo động lực phát triển an toàn và hiệu quả.
II. Kiến nghị với Hội sở Ngân hang MHB
Với vai trò là cơ quan là chỉ đạo trực tiếp hoạt động của MHB- chi nhánh Miền Bắc, Hội sở Ngân hàng phát triển nhà Đồng bằng sông Cửu Long -MHB cần có những hướng dẫn cụ thể các hoạt động của MHB- chi nhánh Miền Bắc, đồng thời tạo điều kiện nâng cao hiệu quả hoạt động của toàn hệ thống là những biện pháp gián tiếp giúp MHB- chi nhánh Miền Bắc thực hiện tốt công tác hạn chế rủi ro tín dụng.
1. Chỉ đạo, hướng dẫn cụ thể, kịp thời các chủ trương, chính sách của Chính phủ và của ngành
Hiện nay, các điều kiện về môi trường cho hoạt động ngân hàng còn nhiều thiếu sót, bất cập, chính vì vậy việc Chính phủ thường xuyên đưa ra những Nghị định để chỉ đạo hoạt động của ngành ngân hàng là sự cố gắng rất lớn của Nhà nước nhằm từng bước hoàn thiện môi trường pháp lý cho sự phát triển của ngành. Khi các Nghị định này ra đời, việc Hội sở Ngân hàng phát triển nhà Đồng bằng sông Cửu Long -MHB nhanh chóng đưa ra các hướng dẫn cụ thể cho các chi nhánh thực thi là điều cần thiết giúp họ giải toả kịp thời những vướng mắc để nâng cao hiệu quả hoạt động.
2. Chuẩn hoá cán bộ ngân hàng và đặc biệt là cán bộ tín dụng
Giải pháp về con người không chỉ là giải pháp của riêng từng chi nhánh mà còn phải có sự phối hợp của Hội sở Ngân hàng phát triển nhà Đồng bằng sông Cửu Long -MHB. Hội sở Ngân hàng phát triển nhà Đồng bằng sông Cửu Long -MHB cần có quy định những tiêu chuẩn của cán bộ ngân hàng ở các mặt hoạt động nghiệp vụ khác nhau cũng như ở các vị trí cấp bậc khác nhau, đồng thời tổ chức các lớp đào tạo cán bộ chuyên sâu trong từng lĩnh vực mà đặc biệt là lĩnh vực tín dụng. Các lớp đào tạo này cần được mở thường xuyên, nội dung giảng dạy phải không ngừng được nâng cao để phù hợp với sự phát triển nghiệpvụ ngân hàng tiến tới những tiêu chuẩn quốc tế. Có thể, Hội sở Ngân hàng phát triển nhà Đồng bằng sông Cửu Long -MHB nên tổ chức những kỳ thi sát hạch đối với những cán bộ ngân hàng để chọn lọc được những cán bộ có đủ năng lực, đồng thời khuyến khích họ không ngừng học hỏi, trau dồi kiến thức nghiệp vụ.
Ngoài ra, Hội sở Ngân hàng phát triển nhà Đồng bằng sông Cửu Long -MHB cần chỉ định những người có năng lực thực sự, phẩm chất đạo đức tốt để bố trí vào những vị trí lãnh đạo chủ chốt của chi nhánh. Một đội ngũ lãnh đạo giỏi về nghiệp vụ, tốt về đạo đức là điều kiện rất cần thiết để nâng cao hiệu quả hoạt động, hạn chế tối đa những rủi ro trong các hoạt động nghiệp vụ nói chung cũng như hoạt động tín dụng nói riêng.
3. Nâng cao hiệu quả hoạt động của trung tâm phòng ngừa rủi ro (TPR)
Trong thời gian qua, hoạt động của TPR đã góp phần tích cực trong công tác tín dụng của các chi nhánh. Tuy nhiên, số lượng thông tin vẫn còn ít và chưa thật cập nhật. Vì vậy, nâng cao hiệu quả hoạt động của TPR là điều rất cần thiết. Hội sở Ngân hàng phát triển nhà Đồng bằng sông Cửu Long -MHB cần có biện pháp nâng cấp các trang thiết bị của TPR giúp cho việc thu thập và truyền tải thông tin được kịp thời, chính xác. Ngoài ra cần phải tuyển chọn những cán bộ năng động và có trình độ nghiệp vụ cao bổ sung cho TPR.
Nguồn thông tin của TPR là một trong những căn cứ quan trọng nhằm ngăn ngừa và hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng của chi nhánh góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của toàn hệ thống Ngân hàng phát triển nhà Đồng bằng sông Cửu Long -MHB.
III. Kiến nghị với Ngân hang Nhà nước và các cấp, ngành có lien quan:
1. Xử lý thoả đáng những việc liên quan đến hợp đồng tín dụng
Trong thời gian qua, ngành ngân hàng đã vấp phải một số vụ việc lớn liên quan đến những sai phạm trong hợp đồng tín dụng, điển hình như vụ án Tamexco, Epco- Minh Phụng, Lã Thị Kim Oanh ... Những vụ việc đó đã làm suy giảm uy tín của ngành ngân hàng, làm suy yếu hoạt động ngân hàng. Những xử lý kiên quyết các vụ việc trên đã thể hiện quyết tâm xây dựng một hệ thống ngân hàng hoạt động lành mạnh, có hiệu quả. Từ những bài học đích đáng đó đòi hỏi NHNN phải thường xuyên giám sát hoạt động tín dụng của các ngân hàng, phối hợp với các cơ quan công an, Toà án, Viện kiểm sát… kịp thời phát hiện và xử lý những vi phạm để ngăn ngừa, răn đe những đối tượng có ý định lừa đảo ngân hàng góp phần làm lành mạnh hoá các quan hệ tín dụng, giảm thiểu rủi ro tín dụng đối với các ngân hàng.
2. Tăng cường các biện pháp quản lý tín dụng
NHNH cần sửa đổi, bổ sung các cơ chế, thể lệ cụ thể, rõ ràng để tạo lập một khung pháp lý hoàn thiện cho hoạt động tín dụng. Hiện nay, các quy chế, thể lệ của NHNN còn tỏ ra quá chung chung, mang tính chỉ đạo, định hướng nhiều hơn là mang tính pháp lý. Đấy là những sơ hở trong một văn bản pháp lý khung về tín dụng cho các NHTM thi hành.
Bên cạnh đó, NHNN phải có những biện pháp hữu hiệu trong việc buộc các NHTM thi hành đúng các cơ chế, thể lệ đó. Những sai sót, vi phạm quy chế, thể lệ phải được xử lý nghiêm túc và kịp thời.
Ngoài ra, NHNN cần phải tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các NHTM thông qua việc nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường liên ngân hàng, hiệp hội ngân hàng cũng như việc nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thông tin phòng ngừa rủi ro của trung tâm thông tin tín dụng (CIC).
3. Hỗ trợ các NHTM trong việc xử lý nợ
Ngoài việc chỉ đạo thi hành các quy chế, thể lệ của các NHTM, NHNN cần phải tích cực giám sát để nắm được tình hình hoạt động kinh doanh của các NHTM để có biện pháp hỗ trợ kịp thời, đặc biệt là trong việc xử lý các tài sản thế chấp, các khoản nợ.
Hiện nay, các NHTM Việt Nam đang đứng trước khó khăn rất lớn trong việc xử lý các tài sản thế chấp, cầm cố, các khoản nợ khó đòi. Số vốn bị mắc kẹt trong các khoản nợ đó chiếm một tỷ lệ lớn trong tổng số vốn cho vay gây khó khăn cho hoạt động tín dụng ngân hàng. Để giải quyết vấn đề này, đề nghị NHNN và các cấp, các ngành có liên quan thực hiện một số biện pháp sau:
+ Đề nghị UBND và các sở, ban, ngành tạo điều kiện hỗ trợ ngân hàng trong việc hợp pháp hóa các tài sản thế chấp, tài sản xiết nợ, hỗ trợ khi kê biên và đấu giá tài sản qua trung tâm đấu giá.
+ Các cơ quan Công an, Toà án, Viện kiểm sát… tạo điều kiện cho ngân hàng thu giữ tài sản thế chấp, giải quyết nhanh chóng các vụ án để thu hồi vốn cho ngân hàng.
+ NHNN cần sớm ban hành những thông tư liên tịch về hướng dẫn thủ tục về xử lý tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh vay vốn ngân hàng.
+ NHNN xúc tiến thành lập các công ty mua bán nợ dưới nhiều hình thức của Nhà nước, cổ phần hoặc liên doanh. Hoạt động của Công ty mua bán nợ được mở rộng, phát triển sẽ giải toả bớt nợ quá hạn, nợ đọng từ tài sản thế chấp giúp cho ngân hàng vượt qua khó khăn, có thanh khoản để đầu tư cho nền kinh tế, có vốn để quay vòng chứ không để tình trạng đóng băng vốn như hiện nay.
+ NHNN sớm cho ra đời tổ chức bảo hiểm tiền gửi. Tổ chức bảo hiểm tiền gửi đi vào hoạt động sẽ là cơ quan cảnh báo và xử lý sớm những hoạt động yếu kém của ngân hàng, không để sự cố xảy ra.
+ NHNN cần ban hành những văn bản quy định những hệ số an toàn để quản lý hoạt động ngân hàng gần tới những tiêu chuẩn quốc tế, đồng thời tăng cường công tác thanh tra, kiểm soát hoạt động tín dụng của NHTM.
IV. Kiến nghị với Chính phủ
1. Hoàn thiện môi trường pháp đảm bảo an toàn cho hoạt động đánh giá rủi ro tại ngân hàng
Môi trường pháp lý hoàn thiện, có hiệu lực sẽ có ý nghĩa rất lớn trong việc quản lý và thúc đẩy hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp nói chung và hoạt động tín dụng ngân hàng nói riêng lành mạnh và hiệu quả.
Trong thời gian qua, Chính phủ đã ban hành nhiều điều luật quan trọng liên quan đến hoạt động tín dụng ngân hàng như Luật Ngân hàng Nhà nước, luật các tổ chức tín dụng, luật đất đai, luật DNNN, luật Công ty… Tuy nhiên vẫn còn tồn tại nhiều thiếu sót trong các điều luật, sự chồng chéo trong các quy định đã dẫn đến sự phối hợp thiếu đồng bộ giữa các cơ quan chức năng, gây khó khăn cho hoạt động tín dụng ngân hàng, đặc biệt trong việc giải quyết các tranh chấp tố tụng về hợp đồng kinh tế, hợp đồng dân sự, phát mại tài sản, bán đấu giá… Vì vậy kiến nghị chính phủ xem xét sửa đổi, quy định rõ về các vấn đề sau:
+ Quy định rõ quyền phát mại, bán đấu giá tài sản đảm bảo của NHTM.
+ Quy định rõ các trường hợp vô hiệu hoá hợp đồng tín dụng, hợp đồng kinh tế.
+ Quy trách nhiệm rõ ràng cho các cấp, các ngành trong việc xử lý tài sản thế chấp của NHTM. Đồng thời quy định rõ thời gian, thủ tục xử lý các trường hợp này, hạn chế những thủ tục rườm rà gây phiền hà, cản trở quá trình xử lý.
Bên cạnh việc xem xét sửa đổi các điều luật đã ban hành. Chính phủ cần nghiên cứu cho ra đời những điều luật mới, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tín dụng ngân hàng. Kiến nghị hình thành các điều luật sau:
+ Luật về sở hữu tài sản: Hiện nay, điều kiện cho vay đặc biệt là đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh gần như bắt buộc phải thế chấp tài sản. Trong khi đó, không có cơ quan nào chịu trách nhiệm cấp chứng thư sở hữu tài sản. Vì thế, trong nhiều trường hợp ngân hàng khó có thể xác định chính xác chủ sở hữu của tài sản đó hoặc phải lấy chứng nhận của cơ quan nào về nguồn gốc tài sản thế chấp, cầm cố hoặc nguồn gốc số tiền trả nợ là hợp pháp. Mặt khác, pháp luật cho các doanh nghiệp thế chấp giá trị quyền sử dụng đất nhưng lại phải có điều kiện gắn với tài sản thuộc sở hữu của mình, quy định này khó có thể áp dụng được với các DNNN.
+ Luật về kiểm toán: Để tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng, hoạt động lành mạnh, có hiệuquả, giảm thiểu rủi ro tín dụng ngân hàng. Chính phủ cần nhanh chóng cho ra đời điều luật này đảm bảo phản ánh chính xác thực trạng tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Luật về lưu thông kỳ phiếu thương mại: Hiện nay, tín dụng thương mại (mua bán chịu) đang trở thành phổ biến trong giao dịch thương mại. Tình trạng chiếm dụng vốn, công nợ dây dưa, lừa đảo, trốn thuế, sử dụng vốn vay ngân hàng sai mục đích diễn ra thường xuyên gây khó khăn cho các cơ quan chức năng trong việc kiểm soát và là nguyên nhân tiềm ẩn rủi ro tín dụng ngân hàng. Việc ra đời bộ luật này sẽ làm lành mạnh hoá các quan hệ thương mại có ảnh hưởng tích cực đến hoạt động tín dụng ngân hàng.
2. Tăng cường công tác quản lý đối với các doanh nghiệp
Hoạt động của các doanh nghiệp ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động tín dụng ngân hàng. Việc nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp là một trong những biện pháp hữu hiệu nhằm hạn chế những rủi ro trong hoạt động tín dụng ngân hàng. Trong hoàn cảnh nền kinh tế đất nước gặp nhiều khó khăn như hiện nay, năng lực sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp còn nhiều yếu kém, ít có sức cạnh tranh. Trên thị trường hoạt động của nhiều doanh nghiệp mang tính chất nhỏ lẻ, chụp giật, không có tầm nhìn chiến lược là một thách thức lớn đòi hỏi Chính phủ phải có những biện pháp giải quyết kịp thời. Tôi xin đề xuất một số kiến nghị sau:
+ Thực thi tốt kế hoạch phát triển kinh tế tổng thể đã đề ra, có các ưu tiên ưu đãi đối với các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế mũi nhọn, kinh tế trọng điểm.
+ Ban hành và hướng dẫn chỉ đạo các ngành, các cấp thực thi các điều luật đã và sẽ ban hành. Đối với các hoạt động của doanh nghiệp, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra bảo đảm các doanh nghiệp thực thi nghiêm túc các điều luật đó.
+ Việc cấp giấy phép hoạt động và kinh doanh đối với doanh nghiệp mới, đặc biệt là các công ty TNHH phải đảm bảo điều kiện về vốn, cơ sở vật chất phục vụ kinh doanh, cán bộ điều hành có đủ năng lực và có phẩm chất đạo đức tốt.
+ Đẩy nhanh tiến độ sắp xếp lại các DNNN, tạo điều kiện để các doanh nghiệp có đủ khả năng trong điều hành sản xuất kinh doanh và có tình hình tài chính lành mạnh.
Tiếp tục duy trì chế độ bảo toàn vốn cho các DNNN. Đối với những doanh nghiệp kinh doanh không có hiệu quả, không bảo tồn được vốn kinh doanh thì kiên quyết thay đổi bộ máy lãnh đạo, cán bộ quản lý, giám đốc điều hành. Nếu những DNNN làm ăn thua lỗ kéo dài, sản phẩm không cạnh tranh được với cơ chế thị trường thì kiên quyết giải thể.
Tiếp tục thực hiện chủ trương cổ phần hoá các DNNN, gắn chặt quyền lợi và trách nhiệm của người lao động với doanh nghiệp.
Tóm lại, trên đây là những ý kiến đóng góp của em góp phần vào việc hạn chế rủi ro tín dụng đối với MHB- chi nhánh Miền Bắc. Để đạt được điều này đòi hỏi không chỉ có sự cố gắng của bản thân cán bộ, nhân viên Ngân hàng MHB- chi nhánh Miền Bắc mà còn phải có sự quan tâm, hỗ trợ của các ngành, các cấp có liên quan. Em rất hy vọng những ý kiến nêu ra trên đây sẽ góp phần giảm thiểu các rủi ro tín dụng, nâng cao hiệu quả hoạt động của chi nhánh, tiếp tục chứng tỏ MHB- chi nhánh Miền Bắc là một chi nhánh vững mạnh trong hệ thống NHCT Việt Nam.
Kết luận
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường còn nhiều biến động, hoạt động tín dụng của các Ngân hàng thương mại nói chung và của MHB- chi nhánh Miền Bắc nói riêng hiện nay gặp khá nhiều rủi ro.Để có thể tồn tại và phát triển các Ngân hàng phải biết vượt lên chính mình, đẩy lùi những khó khăn vướng mắc còn tồn tại trong kinh doanh, hạn chế rủi ro đến mức thấp nhất bằng các biện pháp khác nhau. Song việc ngăn chặn rủi ro một cách tuyệt đối là hoàn toàn thiếu thực tế. Do vậy trong quá trình kinh doanh mỗi Ngân hàng phải biết chấp nhận rủi ro mức độ nhất định có thể chấp nhận được đảm bảo cho hoạt động Ngân hàng ổn định và phát triển vững chắc.
Do đó việc phân tích và đưa ra các biện pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong hoạt động ki
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 272nh gi r7911i ro tr4327899c khi cho vay 2737889i v7899i camp22.doc