Tài liệu Đề tài Thực trạng triển khai nghiệp vụ Bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Công ty cổ phần Bảo hiểm Hàng Không – chi nhánh Hà Nội giai đoạn 2008-2010: LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Với sự phát triển ngày càng cao của khoa học kỹ thuật, các phương tiện giao thông ngày càng được cải tiến theo hướng hiện đại hơn và được sử dụng phổ biến hơn, giúp cho việc giao lưu văn hóa giữa các vùng miền cũng như việc đi lại, giao thương, buôn bán của người dân ngày càng dễ dàng và thuận lợi hơn. Tuy nhiên bên cạnh đó cũng xuất hiện những mặt trái rất đáng quan tâm như vấn đề an toàn giao thông, đặc biệt là an toàn giao thông đường bộ ngày càng trở thành một vấn đề nhức nhối của toàn xã hội. Theo con số thống kê hàng năm, số vụ tai nạn giao thông đường bộ trong những năm gần đây ngày càng có xu hướng gia tăng. Tai nạn giao thông đã để lại những hậu quả lớn cho xã hội cả về mặt vật chất cũng như về con người. Nhằm hạn chế cũng như khắc phục một phần hậu quả do tai nạn giao thông đem lại, bảo hiểm xe cơ giới đã ra đời như là một tất yếu khách quan với mục đích giúp các chủ xe khắc phục bớt khó khăn, ổn định tài chính nhanh chóng hơn khi gặp các r...
67 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1182 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Thực trạng triển khai nghiệp vụ Bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Công ty cổ phần Bảo hiểm Hàng Không – chi nhánh Hà Nội giai đoạn 2008-2010, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Với sự phát triển ngày càng cao của khoa học kỹ thuật, các phương tiện giao thông ngày càng được cải tiến theo hướng hiện đại hơn và được sử dụng phổ biến hơn, giúp cho việc giao lưu văn hóa giữa các vùng miền cũng như việc đi lại, giao thương, buôn bán của người dân ngày càng dễ dàng và thuận lợi hơn. Tuy nhiên bên cạnh đó cũng xuất hiện những mặt trái rất đáng quan tâm như vấn đề an toàn giao thông, đặc biệt là an toàn giao thông đường bộ ngày càng trở thành một vấn đề nhức nhối của toàn xã hội. Theo con số thống kê hàng năm, số vụ tai nạn giao thông đường bộ trong những năm gần đây ngày càng có xu hướng gia tăng. Tai nạn giao thông đã để lại những hậu quả lớn cho xã hội cả về mặt vật chất cũng như về con người. Nhằm hạn chế cũng như khắc phục một phần hậu quả do tai nạn giao thông đem lại, bảo hiểm xe cơ giới đã ra đời như là một tất yếu khách quan với mục đích giúp các chủ xe khắc phục bớt khó khăn, ổn định tài chính nhanh chóng hơn khi gặp các rủi ro, tai nạn bất ngờ…, đồng thời cũng góp phần ổn định xã hội.
Trong những năm qua, dù mới thâm nhập thị trường song Công ty cổ phần Bảo hiểm Hàng Không đã thu được nhiều thành tựu đáng kể. Bên cạnh thế mạnh về lĩnh vực bảo hiểm hàng không thì các nghiệp vụ bảo hiểm khác cũng đã thu được rất nhiều kết quả đáng khích lệ, trong số đó phải kể đến nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới. Nghiệp vụ này đã đóng góp không nhỏ về mặt doanh thu cho toàn công ty cũng như mang lại những lợi ích thiết thực cho xã hội. Tuy nhiên so với tiềm năng rất lớn của thị trường hiện nay thì số lượng xe tham gia bảo hiểm vật chất xe còn tương đối thấp so với tổng lượng xe cơ giới hiện đang lưu hành. Vì vậy cần phải có những giải pháp hữu hiệu để khai thác tối đa nghiệp vụ này - một nghiệp vụ bảo hiểm có tiềm năng rất lớn ở nước ta hiện nay và trong tương lai. Chính vì lý do đó mà em quyết định chọn đề tài: “ Thực trạng triển khai nghiệp vụ Bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Công ty cổ phần Bảo hiểm Hàng Không – chi nhánh Hà Nội giai đoạn 2008-2010” làm đề tài nghiên cứu và làm luận văn tốt nghiệp của mình, nhằm tìm hiểu rõ hơn về nghiệp vụ này tại một trong những đơn vị tiêu biểu của công ty Cổ phần Bảo hiểm Hàng Không.
2. Mục đích nghiên cứu:
- Đánh giá thực trạng triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Công ty Cổ phần Bảo hiểm Hàng Không – Chi nhánh Hà Nội.
- Đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Công ty Cổ phần Bảo hiểm Hàng Không – Chi nhánh Hà Nội trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Công ty Cổ phần Bảo hiểm Hàng Không – Chi nhánh Hà Nội.
- Phạm vi nghiên cứu:
Không gian: Công ty cổ phần Bảo hiểm Hàng Không – Chi nhánh Hà Nội.
Thời gian: Giai đoạn 2008 – 2010.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Sử dụng các phương pháp nghiên cứu lý luận và thực tiễn kết hợp với các phương pháp khác như phương pháp xử lý số liệu, phương pháp phân tích, so sánh…
5. Kết cấu khóa luận:
Nội dung viết của em, ngoài mở đầu và kết luận được chia thành ba chương như sau:
Chương 1 : Cơ sở lý luận chung Bảo hiểm vật chất xe cơ giới.
Chương 2: Thực trạng triển khai nghiệp vụ Bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại công ty cổ phần Bảo hiểm Hàng Không – Chi nhánh Hà Nội giai đoạn 2008 -2010.
Chương 3: Một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại công ty cổ phần bảo hiểm Hàng Không - chi nhánh Hà Nội trong thời gian tới.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng song do thời gian nghiên cứu không lâu cộng với kiến thức bản thân còn nhiều hạn chế nên khóa luận của em không thể tránh khỏi thiếu sót và khuyết điểm. Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy cô để bài viết của em được đầy đủ và hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo, Th.s Lục Mạnh Hiển cùng tập thể cán bộ nhân viên Công ty Cổ phần Bảo hiểm Hàng Không - Chi nhánh Hà Nội đã nhiệt tình giúp đỡ em hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này!
Hà Nội, tháng 6 năm 2011
Sinh viên thực hiện
Trương Thị Thanh Thủy
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM VẬT CHẤT XE CƠ GIỚI
1.1. Một số vấn đề cơ bản về hoạt động kinh doanh bảo hiểm và nghiệp vụ Bảo hiểm vật chất xe cơ giới
1.1.1. Khái niệm và đặc trưng hoạt động kinh doanh bảo hiểm
1.1.1.1. Khái niệm: Kinh doanh bảo hiểm (KDBH) là hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) nhằm mục đích sinh lợi, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro của bên mua bảo hiểm, trên cơ sở bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm để doanh nghiệp trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho bên mua bảo hiểm khi có các sự kiện bảo hiểm xảy ra.
1.1.1.2. Đặc trưng của hoạt động kinh doanh bảo hiểm:
Thực chất của hoạt động kinh doanh bảo hiểm là các DNBH chấp nhận rủi ro mà bên tham gia bảo hiểm chuyển giao cho họ, đồng thời chấp nhận trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường cho bên tham gia khi có các sự kiện bảo hiểm xảy ra. Đổi lại doanh nghiệp sẽ thu được phí bảo hiểm để hình thành quỹ dự trữ, bồi thường, trang trải các khoản chi khác có liên quan và có lãi. Tuy nhiên không phải mọi rủi ro mà bên tham gia chuyển giao, DNBH đều có thể chấp nhận bảo hiểm. Rủi ro được bảo hiểm phải có những đặc trưng như: Rủi ro xảy ra trong tương lai, rủi ro có tính chất bấp bênh, rủi ro không phụ thuộc ý muốn chủ quan của người được bảo hiểm, các rủi ro có thể tập hợp được thành nhóm tương hỗ, các rủi ro không thuộc phạm vi cấm của pháp luật, các rủi ro được doanh nghiệp bảo hiểm đảm bảo.
Kinh doanh bảo hiểm được thực hiện theo nguyên tắc “ Số đông bù số ít”. Nguyên tắc này luôn được đảm bảo trong quá trình hình thành quỹ bảo hiểm, quá trình phân tán rủi ro, quá trình bồi thường và chi trả tiền bảo hiểm. Thực chất đây là quá trình phân phối lại nguồn quỹ được hình thành do các nhà bảo hiểm quản lý. Nhưng phân phối trong bảo hiểm chủ yếu là phân phối không đều, không bằng nhau, tức là không phải ai tham gia nộp phí cũng được phân phối và phân phối với số tiền như nhau.
Kinh doanh bảo hiểm là kinh doanh một dịch vụ tài chính chứ không phải dịch vụ sản xuất. Vì thế nó phải chịu sự kiểm tra giám sát rất chặt chẽ của các cơ quan quản lý nhà nước. Lý do phải kiểm tra là:
Thứ nhất, các hợp đồng bảo hiểm là các hợp đồng mở sẵn và khá phức tạp. Người tham gia bảo hiểm chỉ việc lựa chọn để ký kết, còn soạn thảo và phát hành hợp đồng là hoàn toàn do người bảo hiểm đảm nhận.
Thứ hai, hoạt động kinh doanh bảo hiểm theo một chu trình đảo ngược. Người tham gia nộp phí trước và được bồi thường hoặc chi trả tiền bảo hiểm sau khi có các tổn thất xảy ra thuộc phạm vi bảo hiểm.
Thứ ba, kỹ thuật tính phí và trích lập dự phòng phí cho từng nghiệp vụ bảo hiểm phải đảm bảo quyền lợi cho khách hàng và những người bảo hiểm.
Thứ tư, mục đích chính của hoạt động kinh doanh bảo hiểm là nhằm khắc phục hậu quả rủi ro, để từ đó giúp bên tham gia bảo hiểm ổn định cuộc sống hoặc sản xuất, làm cho sản xuất kinh doanh phát triển bình thường và từ đó góp phần đảm bỏa an toàn cho xã hội. Ngoài ra kinh doanh bảo hiểm còn đáp ứng một số mục đích khác như tiết kiệm, đầu tư, đề phòng hạn chế tổn thất và tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động…
Mục đích kinh tế của KDBH là lợi nhuận, đây là mục đích chính mà các doanh nghiệp bảo hiểm hướng tới. Nhưng bên cạnh đó thì hoạt động kinh doanh bảo hiểm còn giúp liên kết gắn bó các thành viên trong xã hội cùng vì lợi ích của cộng đồng, vì sự ổn định và phồn vinh của đất nước. Do đó hoạt động kinh doanh bảo hiểm đã thể hiện tính tương hỗ, tính xã hội và nhân văn sâu sắc.
1.1.2. Vai trò của bảo hiểm vật chất xe cơ giới
Nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới giữ một vai trò quan trọng trong việc hạn chế và khắc phục rủi ro, góp phần đảm bảo an toàn xã hội. Cụ thể:
Thứ nhất, góp phần ổn định tài chính cho chủ phương tiện khi có rủi ro xảy ra gây tổn thất thuộc trách nhiệm bảo hiểm.
Khi tham gia giao thông không ai muốn rủi ro xảy ra nhưng rủi ro là ngẫu nhiên, không loại trừ bất cứ ai. Khi rủi ro xảy ra, thường để lại những hậu quả to lớn về con người và vật chất, gây ra những tổn thất về tài chính, làm gián đoạn sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, bảo hiểm thông qua công tác bồi thường nhanh chóng, kịp thời góp phần ổn định tình hình tài chính, tránh những xáo trộn lớn cho chủ phương tiện, giúp họ nhanh chóng thoát khỏi tình trạng khó khăn; đồng thời qua đó góp phần xoa dịu, làm giảm bớt căng thẳng giữa chủ xe và người bị nạn.
Thứ hai, tăng khả năng tự chủ về tài chính cho người tham gia bảo hiểm.
Khi tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh, nguồn vốn chính là yếu tố quyết định sức mạnh, vị thế của doanh nghiệp trên thị trường. Trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp luôn phải trích ra một quỹ dự trữ đề phòng hạn chết tổn thất khi rủi ro xảy ra. Đối với những doanh nghiệp nhỏ, ít phương tiện số tiền này không đáng kể. Tuy nhiên, đối với doanh nghiệp lớn, số lượng đầu xe nhiều thì quỹ dự trữ này sẽ chiếm một tỷ lệ khá lớn trong nguồn vốn sản xuất kinh doanh. Nếu nguồn tiền này được đem để làm nguồn vốn lưu động trong kinh doanh sẽ đem lại sức mạnh to lớn cho doanh nghiệp, nhưng nó lại ở dạng dự trữ thì quả là sự lãng phí lớn.
Khó khăn này sẽ được giải quyết thông qua các hợp đồng bảo hiểm. Thông qua các hợp đồng này, công ty bảo hiểm sẽ lập quỹ bảo hiểm hoạt động trên nguyên tắc “số đông bù số ít”. Nhờ đó, thay vì thành lập quỹ dự trữ riêng thì các chủ phương tiện có thể yên tâm hoạt động nhờ quỹ bảo hiểm lớn hơn nhiều do rất nhiều thành viên cùng đóng góp.
Thứ ba, góp phần đề phòng và hạn chế tai nạn giao thông:
Với số phí bảo hiểm thu được, ngoài việc bồi thường cho các chủ phương tiện khi có rủi ro xảy ra, các công ty bảo hiểm còn thực hiện các biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất xảy ra như: xây dựng đường lánh nạn, đường phụ, hốc cứu nạn; lắp đặt hệ thống biển báo, tín hiệu giao thông, hệ thống gương cầu…hàng năm đã cứu thoát khỏi nguy hiểm hàng trăm tính mạng.
Ngoài ra, công ty bảo hiểm còn khuyến khích các chủ xe tự thực hiện các biện pháp đề phòng hạn chế tổn thất, nâng cao ý thức thông qua công tác tuyên truyền. Đồng thời, công ty còn thực hiện giảm phí nếu sau một thời gian nhất định mà xe không gặp bất kì sự cố nào.
Thứ tư, góp phần tăng thu ngân sách Nhà nước, để từ đó Nhà nước có điều kiện xây dựng mới và nâng cao cơ sở hạ tầng giao thông.
Mức sống người dân ngày càng cao, số lượng các phương tiện cơ giới cũng tăng nhanh. Do đó, số lượng người tham gia bảo hiểm vật chất xe cơ giới cũng tăng nhanh, góp phần làm tăng nguồn thu cho Ngân sách nhà nước thông qua hình thức nộp thuế của các công ty bảo hiểm. Ngược lại, chính phủ sử dụng ngân sách nhà nước phối hợp với các doanh nghiệp bảo hiểm đầu tư hỗ trợ, nâng cao chất lượng hệ thống cơ sở hạ tầng, đáp ứng tốt hơn nhu cầu đi lại của người dân từ đó góp phần nâng cao chất lượng đời sống dân cư.
Thứ năm, góp phần làm tăng doanh thu cho các doanh nghiệp bảo hiểm, tạo công ăn việc làm cho nhiều lao động.
Doanh thu phí mà các công ty bảo hiểm thu được thông qua việc triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới là tương đối lớn so với các nghiệp vụ khác do đặc điểm của các phương tiện giao thông là ngày càng gia tăng cả về số lượng và chủng loại. Mặt khác, ý thức của người dân cũng ngày càng được nâng cao, họ quan tâm hơn đến các rủi ro có thể xảy ra đối với mình và cố gắng tìm mọi cách để đề phòng, hạn chế những rủi ro có thể xảy ra. Do đó, số lượng người tham gia loại hình bảo hiểm này ngày càng nhiều. Chính điều này đã làm cho doanh thu của các doanh nghiệp bảo hiểm tăng lên đáng kể.
1.2. Nội dung cơ bản của bảo hiểm vật chất xe cơ giới
1.2.1. Đối tượng bảo hiểm và phạm vi bảo hiểm
1.2.1.1. Đối tượng bảo hiểm: Xe cơ giới, theo quy định hiện hành là tất cả các loại xe tham gia giao thông trên đường bộ bằng động cơ của chính chiếc xe đó, bao gồm ô tô, mô tô và xe máy. Đối tượng bảo hiểm vật chất xe cơ giới là bản thân những chiếc xe còn giá trị và được phép lưu hành trên lãnh thổ quốc gia. Để xác định là xe cơ giới, người ta thường dùng các tiêu thức sau:
Thứ nhất, xe cơ giới phải được gắn động cơ (khác với xe không có động cơ như xe đạp, xe do gia súc kéo…).
Thứ hai, xe cơ giới di chuyển trên đất liền không cần đường dẫn bằng chính động cơ gắn trên nó (khác với tàu hỏa, xe điện…).
Thứ ba, xe cơ giới phải có tối thiểu một chỗ ngồi cho người điều khiển.
Xe cơ giới bao gồm nhiều loại: ô tô, mô tô, xe chở hàng và xe chuyên dụng khác. Đối tượng bảo hiểm của nghiệp vụ này là bản thân chiếc xe. Tuy nhiên các loại xe như xe dùng để tập đua, tập lái, chạy thử không phải là đối tượng được bảo hiểm nhưng nếu có thoả thuận riêng thì có thể được bảo hiểm.
Đối tượng được bảo hiểm cần có các điều kiện là: Có giá trị sử dụng và có đầy đủ các bộ phận để cấu thành một chiếc xe hoàn chỉnh. Ngoài ra còn phải thỏa mãn các yêu cầu khác như: đã được cấp giấy chứng nhận đăng ký, có biển kiểm soát và được cấp giấy phép lưu hành theo chế độ quy định kiểm soát của công an và nhà nước. Trong thời gian lưu hành xe phải được kiểm tra kỹ thuật định kỳ để đảm bảo an toàn khi tham gia giao thông, còn người điều khiển xe phải có bằng lái phù hợp với loại xe đó.
Đối với xe mô tô, xe máy chủ xe thường tham gia bảo hiểm toàn bộ vật chất thân xe. Ở Việt Nam hiện nay loại hình bảo hiểm này hầu như chưa được thực hiện.
Đối với xe ô tô, các chủ xe có thể tham gia toàn bộ hoặc tham gia từng bộ phận của xe. Căn cứ vào đặc điểm kĩ thuật xe ô tô được chia thành các tổng thành sau: tổng thành thân vỏ, tổng thành hệ thống lái, tổng thành hộp số, tổng thành động cơ, tổng thành trục trước, tổng thành trục sau, tổng thành bánh xe.
Ngoài ra một số loại xe còn có tổng thành các bộ phận chuyên dụng theo yêu cầu được lắp đặt trên xe như xe cứu thương, cứu hoả, xe chở container…
Căn cứ vào các tổng thành như trên mà các chủ xe có thể tham gia bảo hiểm cho toàn bộ xe hoặc các bộ phận của xe. Trong đó, tổng thành thân vỏ chiếm tỷ trọng lớn nhất và chịu ảnh hưởng nhiều nhất từ hậu quả của rủi ro. Vì vây, đối với nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe, các công ty bảo hiểm phi nhân thọ ở Việt Nam hiện nay thường bán hai loại hình của sản phẩm là bảo hiểm toàn bộ xe hoặc bảo hiểm thân vỏ xe.
1.2.1.2. Phạm vi bảo hiểm:
Phạm vi bảo hiểm là giới hạn những rủi ro khi xảy ra gây tổn thất cho xe cơ giới sẽ được người bảo hiểm chịu trách nhiệm bồi thường.
Rủi ro được bảo hiểm là những thiệt hại vật chất xe do:
Tai nạn do đâm va, lật đổ: trường hợp này rất dễ xảy ra và cần được bảo hiểm nhất.
Tai nạn do thiên tai: cháy, nổ, bão, lụt, động đất, sét đánh, mưa…
Mất cắp: Trong trường hợp này chỉ mất cắp toàn bộ xe mới được bảo hiểm, mất cắp bộ phận xe không được bảo hiểm là do các nguyên nhân sau:
Thứ nhất, tránh trục lợi bảo hiểm, vì chủ xe có thể tháo bộ phận xe giấu đi và đòi nhà bảo hiểm phải bồi thường.
Thứ hai, bộ phận xe thường có giá trị không cao. Do đó, chi phí xác nhận mất cắp lớn hơn so với số tiền được bồi thường.
Thứ ba, nâng cao tinh thần trách nhiệm của người mua bảo hiểm trong việc bảo vệ tài sản của mình.
Tai nạn do rủi ro bất ngờ khác gây nên.
Ngoài việc được bồi thường những thiệt hại vật chất xảy ra cho xe được bảo hiểm trong những trường hợp nêu trên, các công ty bảo hiểm còn thanh toán cho chủ xe tham gia bảo hiểm những chi phí cần thiết và hợp lý như :
Chi phí ngăn ngừa và hạn chế tổn thất phát sinh thêm khi xe bị thiệt hại do các rủi ro được bảo hiểm
Chi phí bảo vệ xe và kéo xe thiệt hại tới nơi sửa chữa gần nhất.
Chi phí giám định thuộc trách nhiệm của bảo hiểm.
Chi phí ra toà (nếu có ).
Rủi ro loại trừ: Công ty bảo hiểm không nhận bảo hiểm và không chịu bồi thường cho những thiệt hại vật chất của xe xảy ra do:
Thứ nhất, hao mòn tự nhiên, hỏng hóc do sử dụng, lão hóa, mất giá, giảm dần chất lượng, hỏng hóc do khuyết tật hoặc hư hỏng thêm do sửa chữa, trong quá trình sửa chữa (bao gồm cả chạy thử).
Thứ hai, hư hỏng về điện hoặc bộ phận máy móc, thiết bị (kể cả máy thu thanh điều hoà nhiệt độ), săm lốp hư hỏng mà không do tai nạn gây ra.
Thứ ba, mất cắp bộ phận của xe .
Ngoài ra để tránh những ‘nguy cơ đạo đức’ lợi dụng bảo hiểm, những hành vi vi phạm pháp luật, luật lệ an toàn giao thông hay một số rủi ro đặc biệt khác, những thiệt hại, tổn thất xảy ra bởi những nguyên nhân sau cũng không được bồi thường:
Một là, hành động cố ý của chủ xe, lái xe.
Hai là, xe không đủ điều kiện kỹ thuật và thiết bị an toàn để lưu hành theo qui định trong điều lệ trật tự an toàn giao thông vận tải đường bộ của liên bộ giao thông vận tải- nội vụ
Ba là, chủ xe (lái xe) vi phạm nghiêm trọng luật an toàn giao thông đường bộ như:
Xe không có giấy phép lưu hành ;
Xe không có bằng lái hoặc có nhưng không hợp lệ ;
Lái xe bị ảnh hưởng của rượu, bia, ma tuý hoặc các chất kích thích tương tự khác trong khi điều khiển xe ;
Xe chở chất cháy, nổ trái phép ;
Xe chở quá trọng tải hoặc quá số hành khách qui định ;
Xe đi vào đường cấm ;
Xe đi đêm không có đèn
Xe sử dụng để tập lái, đua thể thao, chạy thử sau khi sửa chữa
Bốn là, loại trừ rủi ro có tính “xã hội” với hậu quả lan rộng như: chiến tranh, bạo loạn…
Năm là, loại trừ những thiệt hại có tính chất hậu quả gián tiếp như: Giảm giá trị thương mại; ngừng sản xuất, sử dụng, khai thác.
Sáu là, tai nạn xảy ra ngoài lãnh thổ nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (trừ trường hợp có thỏa thuận riêng).
Ngoài ra, người bảo hiểm có thể từ chối một phần hoặc toàn bộ số tiền bồi thường cho chủ xe khi:
Chủ xe cung cấp thông tin không đầy đủ, trung thực khi kê khai các nội dung trong giấy bảo hiểm (về tình trạng xe, địa bàn hoạt động của xe).
Không thực hiện đầy đủ các quy định về: thông báo tai nạn, truy đòi người thứ ba, vấn đề này phụ thuộc vào yêu cầu quản lý rủi ro của người bảo hiểm, vào những yếu tố khác của hợp đồng như là phí bảo hiểm.
Cần lưu ý rằng, trong thời hạn bảo hiểm, nếu chủ xe chuyển quyền sở hữu xe cho chủ xe khác thì quyền lợi bảo hiểm vẫn có hiệu lực với chủ xe mới. Tuy nhiên, nếu chủ xe cũ không chuyển quyền lợi bảo hiểm cho chủ xe mới thì công ty bảo hiểm sẽ hoàn lại phí cho họ và làm thủ tục bảo hiểm cho chủ xe mới nếu họ có yêu cầu.
1.2.2. Giá trị bảo hiểm và số tiền bảo hiểm :
1.2.2.1. Giá trị bảo hiểm:
Giá trị bảo hiểm xe cơ giới là giá trị thực tế trên thị trường của xe tại thời điểm người tham gia bảo hiểm mua bảo hiểm.
Giá xe trên thị trường luôn luôn biến động. Vì vậy, để xác định được giá trị của xe, các công ty bảo hiểm thường căn cứ vào các nhân tố:
- Loại xe.
- Năm sản xuất.
- Mức độ mới cũ của xe.
- Thể tích làm việc của xi lanh…
Giá trị bảo hiểm được xác định theo hai trường hợp:
- Nếu là xe mua mới giá trị bảo hiểm chính là giá mua mới của xe.
- Nếu là xe đã qua sử dụng thì giá trị bảo hiểm của xe được tính bằng công thức: Giá trị bảo hiểm = Nguyên giá - Khấu hao
+ Nguyên giá ở đây chính là giá mua mới hay giá trị ban đầu của xe.
+ Để tính khấu hao các công ty bảo hiểm thường dựa vào nguyên giá và tỷ lệ khấu hao bình quân của xe trong một năm, cụ thể là:
Giá trị khấu hao
=
Nguyên giá ´ Tỷ lệ khấu hao 1 năm ´
Thời gian xe sử dụng
12
Trên thực tế rất nhiều xe đã khấu hao hết nhưng vẫn còn giá trị sử dụng và vẫn sử dụng được. Điều này buộc các công ty bảo hiểm phải có những biện pháp linh hoạt nhằm thu hút và phục vụ khách hàng một cách tốt nhất.
1.2.2.2. Số tiền bảo hiểm:
Số tiền bảo hiểm là khoản tiền nhất định được ghi trong đơn bảo hiểm hoặc giấy chứng nhận bảo hiểm để xác định giới hạn trách nhiệm của người bảo hiểm trong việc bồi thường hoặc trả tiền bảo hiểm.
Trên cơ sở giá trị bảo hiểm, chủ xe có thể tham gia bảo hiểm với số tiền bảo hiểm nhỏ hơn (bảo hiểm dưới giá trị) hoặc bằng (bảo hiểm ngang giá trị) hoặc lớn hơn (bảo hiểm trên giá trị) giá trị thực tế của xe. Việc quyết định tham gia bảo hiểm với số tiền là bao nhiêu sẽ là cơ sở để xác định số tiền bồi thường khi có tổn thất xảy ra. Cụ thể:
Đối với xe tham gia bảo hiểm dưới giá trị khi xảy ra tổn thất:
Số tiền bồi thường
=
Giá trị tổn thất thực tế ´
Số tiền bảo hiểm
Giá trị bảo hiểm
Đối với xe tham gia bảo hiểm ngang giá trị khi xảy ra tổn thất thì công ty bảo hiểm sẽ bồi thường số tiền bằng đúng giá trị thiệt hại thực tế của xe tại thời điểm xảy ra tổn thất.
Đối với xe tham gia bảo hiểm trên giá trị khi rủi ro xảy ra gây tổn thất công ty bảo hiểm cũng chỉ bồi thường với số tiền bằng thiệt hại thực tế và luôn luôn nhỏ hơn hoặc bằng giá trị thực tế của xe.
1.2.3. Phí bảo hiểm:
Phí bảo hiểm vật chất xe cơ giới là khoản tiền nhất định mà người tham gia bảo hiểm phải nộp cho công ty bảo hiểm sau khi kí kết hợp đồng bảo hiểm.
Phí bảo hiểm phải đóng cho mỗi đầu xe đối với mỗi loại xe được tính theo công thức:
P = f + d
Trong đó: P: Phí thu mỗi đầu xe.
f: Phí thuần
d: Phụ phí.
Phí thuần (f ) được xác định căn cứ vào số liệu thống kê về tình hình bồi thường tổn thất trong những năm trước đó và được xác định như sau:
f =
Trong đó: Si: số vụ tai nạn giao thông xảy ra năm thứ i
Ti: thiệt hại bình quân một vụ trong năm thứ i
Ci: số xe hoạt động thức tế trong năm thứ i
Phụ phí (d) bao gồm các chi phí khác như: chi đề phòng hạn chế tổn thất, chi quản lý…Phần phụ phí này thường được tính bằng một tỷ lệ phần trăm nhất định so với phí bồi thường.
Để tính phí bảo hiểm vật chất xe cơ giới, các công ty bảo hiểm thường căn cứ vào các yếu tố sau:
Một là, những yếu tố liên quan đến bản thân chiếc xe và vấn đề sử dụng xe như: Loại xe; Mục đích sử dụng xe; Phạm vi địa bàn hoạt động; Thời gian đã qua sử dụng, giá trị xe.
Hai là, những yếu tố liên quan đến người được bảo hiểm, người điều khiển xe như: Giới tính, độ tuổi của lái xe; Tiền sử của lái xe; Kinh nghiệm của lái xe; Quá trình tham gia bảo hiểm của người được bảo hiểm.
Ba là, việc tính phí bảo hiểm còn tùy thuộc vào sự giới hạn phạm vi bảo hiểm và có sự phân biệt giữa bảo hiểm lẻ và bảo hiểm cả đội xe.
Trong thực tế các công ty bảo hiểm thường áp dụng công thức tính phí bảo hiểm như sau:
P = Sb ´ R
Trong đó: P - Phí bảo hiểm.
Sb - Số tiền bảo hiểm.
R - Tỷ lệ phí bảo hiểm.
Tỷ lệ phí ở công thức này do Bộ Tài Chính quy định và nó phụ thuộc vào các yếu tố sau:
Xác suất thống kê những vụ tai nạn giao thông xảy ra (nói chung).
Thiệt hại bình quân mỗi vụ tai nạn giao thông xảy ra (nói chung).
Thời hạn bảo hiểm (ngắn hạn hoặc dài hạn).
1.2.4. Đề phòng và hạn chế tổn thất:
Khi triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới, các công ty bảo hiểm thường có những biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất nhằm hạn chế tối đa các tai nạn và rủi ro có thể xảy ra. Từ đó, giảm thiểu được chi phí bồi thường, giúp cho nhà bảo hiểm hoạt động có hiệu quả hơn. Hàng năm, các công ty bảo hiểm thường tiến hành trích một phần từ doanh thu phí của nghiệp vụ để phục vụ cho công tác đề phòng và hạn chế tổn thất. Các biện pháp chủ yếu thường được thực hiện là: xây dựng hệ thống biển báo, xây dựng đường lánh nạn, lắp hệ thống gương cầu tại những nơi đường rộng hay đèo dốc…Tuy nhiên, để đề phòng và hạn chế tổn thất một cách hiệu quả nhất lại phụ thuộc chủ yếu vào ý thức của người chủ phương tiện. Vì vậy, nếu chủ phương tiện thực hiện tốt các biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất như: thắt dây an toàn khi lái xe, chạy đúng đường, đúng tốc độ quy định…sẽ làm giảm số vụ tai nạn xảy ra. Từ đó sẽ làm giảm xác suất xảy ra rủi ro dẫn đến phí bảo hiểm giảm và khoản chi bồi thường của nhà bảo hiểm cũng được giảm xuống.
1.2.5. Giám định và bồi thường tổn thất:
1.2.5.1. Giám định tổn thất:
Giám định tổn thất là quá trình giám định những thiệt hại trong vụ tai nạn. Công tác giám định nhằm mục đích xác định xem rủi ro xảy ra có thuộc phạm vi được bảo hiểm hay không, nếu Có thì mức độ tổn thất là bao nhiêu để làm cơ sở xác định trách nhiệm bồi thường của nhà bảo hiểm. Nếu không xác định chính xác mức độ thiệt hại thực tế, trách nhiệm của lái xe và trách nhiệm của công ty bảo hiểm sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả hoạt động cũng như uy tín của công ty đối với các khách hàng. Thông thường có hai loại giám định tổn thất là giám định độc lập và giám định của công ty bảo hiểm.
Giám định của công ty bảo hiểm: việc giám định tổn thất xảy ra được giao cho giám định viên của công ty bảo hiểm.
Giám định độc lập: Việc thực hiện giám định tổn thất xảy ra được giao cho một giám định viên không thuộc của khách hàng cũng không thuộc của công ty bảo hiểm nhằm đảm bảo tính khách quan.
Thông thường đối với bảo hiểm vật chất ô tô việc giám định tổn thất được thực hiện dưới sự có mặt của chủ xe hoặc lái xe hoặc người đại diện hợp pháp nhằm xác định nguyên nhân và mức độ thiệt hại. Chỉ trong trường hợp hai bên không đạt được sự thống nhất thì mới chỉ định giám định viên kỹ thuật làm trung gian thực hiện giám định. Kết luận của giám định viên kỹ thuật được coi là kết luận cuối cùng. Trường hợp kết luận của giám định viên kỹ thuật khác với kết luận của giám định viên bảo hiểm thì chi phí giám định do công ty bảo hiểm chịu và ngược lại chủ xe phải chịu chi phí này.
Trong trường hợp đặc biệt nếu doanh nghiệp bảo hiểm không thể thực hiện được việc lập biên bản giám định thì có thể căn cứ vào các biên bản, đánh giá của các cơ quan có thẩm quyền và các hiện vật thu được, bản lời khai của nhân chứng và các bên có liên quan để xác định mức độ thiệt hại.
Quá trình giám định đòi hỏi phải đáp ứng các yêu cầu: nhanh chóng, kịp thời, chính xác, tỉ mỉ, khách quan, trung thực…và phải thực hiện theo nguyên tắc chung trong công tác giám định là:
Xác định nguyên nhân tai nạn, từ đó xác định trách nhiệm của bảo hiểm.
Xác định mức độ thiệt hại thuộc phạm vi, trách nhiệm của nhà bảo hiểm.
Tất cả các thiệt hại thuộc phạm vi, trách nhiệm của nhà bảo hiểm phải được tiến hành giám định.
Trong trường hợp đặc biệt nếu không tiến hành giám định được hoặc thiệt nhại nhỏ (dưới 1 triệu đồng) thì căn cứ vào biên bản của các cơ quan chức năng, căn cứ vào ảnh chụp, các hiện vật thu được, thông báo tai nạn của chủ xe và lái xe để xác định thiệt hại và trách nhiệm của bảo hiểm.
Khi tiến hành giám định phải có đại diện của chủ xe, chủ tài sản bị thiệt hại hoặc người có trách nhiệm được uỷ quyền quản lý, sử dụng
Quy trình giám định được tiến hành theo các bước:
Bước 1: Tiếp nhận thông tin từ phía khách hàng:
Khi xảy ra tai nạn gây tổn thất, khách hàng một mặt phải tìm cách cứu chữa hạn chế tổn thất, mặt khác phải nhanh chóng thông báo với công ty bảo hiểm. Khách hàng không được phép thay đổi hiện trường khi chưa có ý kiến của công ty bảo hiểm, trừ trường hợp phải thi hành chỉ thị của cơ quan có thẩm quyền.
Khi đã nhận được thông báo tai nạn của khách hàng, giám định viên cần nắm bắt các thông tin cơ bản để thuận lợi cho việc tiến hành giám định như: tên chủ xe; biển kiểm soát; số giấy chứng nhận bảo hiểm, hiệu lực, loại hình tham gia; địa điểm, thời gian xảy ra tai nạn; thông tin ban đầu về tổn thất thuộc phạm vi, trách nhiệm bảo hiểm; số điện thoại, địa chỉ để liên lạc của chủ xe…
Bước 2: Tiến hành giám định:
Công việc giám định phải được tiến hành khẩn trương, khoa học và chuẩn xác. Các kết luận đưa ra phải hợp lý, nhất quán, phù hợp với thực tế.
Giám định viên sau khi đã giám định, thống nhất giữa các bên và đi đến kết luận cuối cùng sẽ tiến hành hoàn thiện hồ sơ tai nạn để giải quyết bồi thường một cách nhanh chóng.
1.2.5.2. Bồi thường tổn thất:
Bồi thường tổn thất được thực hiện theo hai bước sau:
Bước 1: Xem xét hồ sơ khách hàng: Nhân viên bồi thường xem xét, đối chiếu các thông tin của khách hàng trong hợp đồng gốc theo số hồ sơ. Sau đó, thông báo cho khách hàng đã nhận đầy đủ giấy tờ hoặc những giấy tờ nào thiếu cần báo ngay với khách hàng để bổ sung kịp thời vào hồ sơ bồi thường.
Bước 2: Xác định số tiền bồi thường: Sau khi đã hoàn tất hồ sơ bồi thường, bộ phận bồi thường tính toán số tiền bồi thường cho khách hàng dựa trên:
Điều khoản của hợp đồng bảo hiểm.
Biên bản giám định, bản kê khai tổn thất.
Bảng theo dõi phí nộp.
Báo giá.
Trách nhiệm của người thứ ba (nếu có).
Bước 3: Thông báo bồi thường: Sau khi xác định được số tiền bồi thường, nhà bảo hiểm sẽ thông báo cho khách hàng chấp nhận bồi thường và đề xuất các hình thức bồi thường với khách hàng.
Bước 4: Truy đòi tiền bồi thường của các bên liên quan: Nếu tổn thất xảy ra có liên quan tới trách nhiệm của người thứ ba, công ty bảo hiểm sẽ thế quyền khách hàng đòi phần trách nhiệm đó. Hoặc đòi bồi thường của các nhà tái bảo hiểm nếu hợp đồng đó được tái đi.
Trường hợp tổn thất bộ phận: Các công ty bảo hiểm thường giới hạn mức bồi thường đối với tổn thất bộ phận bằng bảng tỷ lệ giá trị tổng thành xe.
Trường hợp tổn thất toàn bộ: Số tiền bồi thường lớn nhất bằng số tiền bảo hiểm và phải trừ khấu hao cho thời gian xe đã sử dụng hoặc chỉ tính giá trị tương đương với giá trị xe ngay trước khi xảy ra tổn thất.
Bảo hiểm trùng: Trong trường hợp chủ xe tham gia bảo hiểm vật chất xe theo một hay nhiều đơn bảo hiểm khác, theo đúng nguyên tắc hoạt động của bảo hiểm, tổng số tiền mà chủ xe nhận được từ tất cả các đơn bảo hiểm chỉ đúng bằng thiệt hại thực tế.
1.3. Hệ thống chỉ tiêu phân tích tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm
1.3.1. Phân tích tình hình khai thác bảo hiểm
Kết quả khâu khai thác bảo hiểm thể hiện chủ yếu ở các chỉ tiêu: số lượng khách hàng tham gia bảo hiểm (số hợp đồng bảo hiểm đã được ký kết, số giấy chứng nhận bảo hiểm, số đơn bảo hiểm đã cấp); số phí bảo hiểm thu được, doanh thu phí khai thác, hoặc số lượng hợp đồng/ nhân viên...
1.3.1.1. Phân tích tình hình thực hiện kế hoạch khai thác
Để lập kế hoạch và kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch khai thác có thể vận dụng các chỉ số:
+ Chỉ số nhiệm vụ kế hoạch (iNK)::
+ Chỉ số hoàn thành kế hoạch ( iHK):
+ Chỉ số thực hiện (i):
Trong đó : y1, y0, yk là mức độ khai thác kỳ báo cáo, kỳ gốc và kỳ kế hoạch.
1.3.1.2. Phân tích cơ cấu khai thác
Có thể phân tích cơ cấu khai thác theo nhiều tiêu thức như theo cơ cấu vùng lãnh thổ, loại khách hàng, điều kiện bảo hiểm, mức trách nhiệm…
1.3.1.3. Phân tích tính thời vụ trong khâu khai thác bảo hiểm
Phân tích tính thời vụ trong khâu khai thác có thể sử dụng các phương pháp:
+ Tính chỉ số thời vụ theo các tháng trong năm:
+ Mức độ khai thác bình quân một tháng trong năm:
Trong đó:
ki : chỉ số thời vụ tháng thứ i
Xi : mức độ khai thác tháng thứ i
X : Mức độ khai thác bình quân một tháng trong năm.
ki phản ánh mối quan hệ giữa mức độ khai thác trong từng tháng với mức độ khai thác bình quân một tháng trong năm. Kết quả tính ra càng gần 1 thì tính chất thời vụ trong tháng đó càng ít và ngược lại.
1.3.2. Phân tích tình hình kiểm soát tổn thất
Kiểm soát tổn thất bao gồm cả đề phòng và hạn chế tổn thất. Đối với các nghiệp vụ bảo hiểm liên quan đến xe cơ giới, muốn giảm thiểu tổn thất, thiệt hại, các doanh nghiệp bảo hiểm phải phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng có liên quan như: công an, giao thông công chính để tăng cường hệ thống biển báo chỉ đường, xây dựng đường lánh nạn trên các đèo dốc nguy hiểm, hỗ trợ kinh phí tổ chức các cuộc thi lái xe tải an toàn và tuyên truyền giáo dục luật lệ an toàn giao thông…
Phân tích tình hình đề phòng và hạn chế tổn thất có thể tiến hành theo các hướng sau:
+ So sánh và đánh giá các vụ tổn thất xảy ra do các nguyên nhân khác nhau, so với cùng kỳ hoặc so với kỳ trước khi thực hiện các biện pháp đề phòng, hạn chế tổn thất.
+ Vận dụng phương pháp phân tổ, phương pháp hồi quy tương quan để phân tích mối quan hệ giữa chi phí bỏ ra trong khâu này với số vụ tổn thất xảy ra với số tiền bồi thường thực tế của doanh nghiệp bảo hiểm.
1.3.3.Phân tích tình hình giám định và bồi thường tổn thất
Phân tích và đánh giá thực trạng của khâu này thường dựa vào các chỉ tiêu sau:
+ Số vụ khiếu nại đòi giải quyết bồi thường trong kỳ, bao gồm: số vụ khiếu nại đòi giải quyết bồi thường phát sinh trong kỳ và số vụ khiếu nại đòi bồi thường tồn đọng kỳ trước chuyển sang.
+ Số vụ khiếu nại đã được giải quyết bồi thường trong kỳ;
+ Số vụ khiếu nại còn tồn đọng chưa giải quyết bồi thường trong kỳ;
+ Tỷ lệ giải quyết bồi thường:
Số vụ khiếu nại đã được GQBT trong kỳ
Tỷ lệ giải quyết BT = x 100
Số vụ khiếu nại đòi GQBT trong kỳ
+ Tỷ lệ tồn đọng:
Số vụ khiếu nại còn tồn đọng chưa GQBT trong kỳ
Tỷ lệ tồn đọng = x100
Số vụ khiếu nại đòi GQBT trong kỳ
+ Số tiền bồi thường thực tế trong kỳ:
Tổng số tiền phải BT cho các vụ
Số tiền BTBQ mỗi vụ khiếu nại đã được GQ trong kỳ
khiếu nại đã được = x 100
giải quyết trong kỳ Số vụ khiếu nại đã được GQ BT trong kỳ
Số tiền chi bồi thường thực tế trong kỳ
Tỷ lệ chi bồi thường = x 100
Tổng chi trong kỳ
Tổng số tiền chi BT trong kỳ
Tỷ lệ BT trong kỳ = x 100
Tổng doanh thu phí BH trong kỳ
+ Thời gian xử lý ban đầu: Là khoảng thời gian kể từ khi doanh nghiệp bảo hiểm nhận được thông báo tổn thất đến khi có phản hồi ban đầu với khách hàng.
+ Thời gian giải quyết bồi thường: Là khoảng thời gian kể từ khi DNBH nhận được thông báo tổn thất của KH đến khi KH nhận được thông báo BT ( hoặc từ chối BT) của DNBH.
+ Số vụ khiếu nại bồi thường sai sót trong kỳ.
1.3.4. Chỉ tiêu hiệu quả:
Hiệu quả kinh doanh là chỉ tiêu đo lường sự phát triển của doanh nghiệp bằng cách so sánh kết quả thu được với chỉ tiêu bỏ ra sẽ thu được chỉ tiêu hiệu quả.
H
=
K
C
Trong đó: K: kết quả thu được
C: chi phí bỏ ra
H: hiệu quả
Để đánh giá hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới thường sử sụng chủ yếu các chỉ tiêu:
- Hiệu quả theo doanh thu:
Hd
=
D
C
- Hiệu quả theo lợi nhuận:
He
=
L
C
Trong đó: Hd, He: hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm tính theo doanh thu và lợi nhuận.
D : doanh thu trong kỳ.
L : lợi nhuận thu được trong kỳ.
C : tổng chi phí chi ra trong kỳ.
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM VẬT CHẤT XE CƠ GIỚI TẠI CÔNG TY CP BẢO HIỂM HÀNG KHÔNG – CN HÀ NỘI GIAI ĐOẠN 2008 – 2010
2.1. Khái quát về Công ty CP Bảo hiểm Hàng Không - Chi Nhánh Hà Nội
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển
2.1.1.1. Đôi nét về Công ty CP Bảo hiểm Hàng Không
Công ty cổ phần Bảo hiểm Hàng Không có tên giao dịch quốc tế là Vietnam National Aviation Insurance Company (viết tắt là VNI) được thành lập theo quyết định số 49 GP/KDBH, ngày 23/04/2008 của Bộ Tài Chính. Trong đó, cổ đông sáng lập lớn là các tập đoàn, doanh nghiệp hàng đầu Việt Nam bao gồm Tổng Công ty Hàng không Việt Nam (VNA), Tập đoàn Than Khoáng sản Việt Nam (TKV), Tổng Công ty lắp máy Việt Nam (LILAMA), Tổng Công ty XNK Tổng hợp Hà Nội (GELEXIMCO), Công ty CP Nam Việt (NAVICO) và các cổ đông khác.
Bảng 1. Số vốn góp của các cổ đông sáng lập
STT
Tên cổ đông
Số vốn góp (triệu đồng)
Tỉ lệ % / vốn điều lệ
1
Tổng công ty hàng không Việt Nam - VNA
100.000
20
2
Tập đoàn công nghiệp Than và Khoáng sản Việt Nam - TKV
50.000
10
3
Tổng công ty lắp máy Việt Nam - LILAMA
50.000
10
4
Công ty xuất nhập khẩu tổng hợp Hà Nội - GELEXIMCO
40.000
10
5
Công ty cổ phần Nam Việt - NAVICO
40.000
8
6
Các cổ đông khác
210.000
42
Tổng cộng
500.000
100
Sự tham gia và cam kết của các cổ đông đã tạo ra một đòn bẩy mạnh mẽ, tạo ra nền móng cho sự phát triển, đi lên của một thương hiệu đầy triển vọng của thị trường bảo hiểm Việt Nam – VNI.
Với số vốn đăng ký 500 tỷ đồng, VNI là một trong 5 doanh nghiệp bảo hiểm có số vốn đăng ký lớn nhất trên thị trường bảo hiểm Việt Nam.
Hiện nay VNI được phép tiến hành kinh doanh các nghiệp vụ sau:
Kinh doanh bảo hiểm gốc bao gồm:
Bảo hiểm sức khỏe và bảo hiểm tai nạn con người
Bảo hiểm tài sản và bảo hiểm thiệt hại
Bảo hiểm hàng hóa vận chuyển đường bộ, đường biển, đường sông, đường sắt và đường hàng không.
Bảo hiểm hàng không;
Bảo hiểm xe cơ giới
Bảo hiểm cháy, nổ;
Bảo hiểm thân tàu và trách nhiệm dân sự của chủ tàu;
Bảo hiểm trách nhiệm chung;
Bảo hiểm tín dụng và rủi ro tài chính;
Bảo hiểm thiệt hại kinh doanh.
Kinh doanh tái bảo hiểm: Nhận và nhượng tái bảo hiểm đối với tất cả các nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ.
Và tiến hành các hoạt động đầu tư khác theo quy định của pháp luật.
Mạng lưới dịch vụ của VNI đã phát triển tốt với nhiều chi nhánh và các văn phòng tại: Hà Nội, TP.Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Nghệ An, Hải Phòng, Ninh Bình, Thanh Hóa, Quảng Ninh, Quảng Nam… và đang tiếp tục mở rộng trong thời gian tới. Tính đến thời điểm này, số chi nhánh và văn phòng đã xấp xỉ lên đến 20 đơn vị. Mạng lưới đại lý khai thác cũng được triền khai rộng khắp nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng trên phạm vi toàn quốc. Mạng lưới cứu hộ, giám định trải dài và rộng khắp hỗ trợ tích cực và hiệu quả cho công tác dịch vụ khách hàng, giải quyết bồi thường.
Kể từ khi đi vào hoạt động đến nay, Công ty CP Bảo Hiểm Hàng Không đã thu được nhiều thành tựu đáng ghi nhận. VNI là một trong 4 doanh nghiệp bảo hiểm trên thị trường Việt Nam có đầy đủ 10 nhóm nghiệp vụ bảo hiểm. Bên cạnh đó, tình hình kinh doanh của Công ty trong những năm qua cũng rất khả quan. Năm 2008, VNI đã hoàn thành xuất sắc kế hoạch đề ra và là một trong số ít các doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động có lãi trong số 27 công ty bảo hiểm trên thị trường. Năm 2009, VNI đứng trong nhóm 10 công ty bảo hiểm có doanh thu lớn nhất Việt Nam. Năm 2010, VNI tiếp tục phát triển mở rộng mạng lưới kinh doanh với lợi thế là một trong những doanh nghiệp có mức phí bảo hiểm thấp nhất trên thị trường bảo hiểm Việt Nam.
Với con số cụ thể và những hành động, phương châm phục vụ rõ ràng , VNI đã dần khẳng định được vị trí của mình đối với các công ty khác, uy tín cũng vì thế ngày càng tăng lên và được nhiều người biết đến.
Trong tương lai, VNI hướng tới các mục tiêu phát triển quan trọng như sau:
Thứ nhất, trở thành một trong 5 thương hiệu bảo hiểm hàng đầu tại Việt Nam.
Thứ hai, trở thành công ty hàng đầu tại khu vực trong lĩnh vực bảo hiểm hàng không.
Thứ ba, cung cấp đa dạng các sản phẩm, dịch vụ chất lượng và chuyên nghiệp.
Thứ tư, duy trì môi trường văn hóa doanh nghiệp năng động, sáng tạo.
Thứ năm, mang lại giá trị thiết thực cho khách hàng, cổ đông và đội ngũ cán bộ.
Thứ sáu, là đối tác tin cậy của thị trường trong nước và quốc tế.
2.1.1.2. Quá trình hình thành và phát triển của Chi nhánh Hà Nội:
Chi Nhánh Hà Nội được thành lập vào tháng 8/2008 theo quyết định số 49/GPĐC2/ KDBH của Bộ trưởng Bộ tài chính. Kể từ khi đi vào hoạt động đến nay, Chi nhánh đã dần trưởng thành và giành được những thành công bước đầu, đang cố gắng để dẫn đầu các chi nhánh khác trực thuộc công ty.
Khi mới thành lập, chi nhánh có 3 văn phòng khu vực là Hà Đông, Nam Hà Nội và Vĩnh Phúc nhưng đến thời điểm này số lượng các VPKV đã tăng lên hơn gấp đôi, bao gồm: Hà Đông, Vĩnh Phúc, Nội Bài, Nam Hà Nội, Gia Lâm, Đông Anh và Hoàng Mai.
Chi nhánh Hà Nội có chức năng nhiệm vụ là tiến hành kinh doanh, mở rộng mạng lưới và mở rộng thị phần trong thị trường bảo hiểm. Đồng thời tổ chức các hoạt động khác để có thể đảm bảo cho hoạt động kinh doanh khai thác đạt hiệu quả cao nhất như kế toán, tổ chức - hành chính, thống kê , quảng cáo, bồi thường, chăm sóc khách hàng…
2.1.2. Cơ cấu tổ chức – nhân sự của Công ty CP Bảo hiểm Hàng Không – Chi nhánh Hà Nội
Cùng với việc tạo dựng một môi trường làm việc năng động, sáng tạo và luôn chia sẻ, VNI nói chung và chi nhánh Hà Nội nói riêng đã thu hút được nhiều cán bộ có chuyên môn, trình độ và kinh nghiệm về thị trường, sản phẩm, luật pháp... và duy trì một môi trường văn hóa doanh nghiệp lành mạnh.
Đội ngũ cán bộ lãnh đạo được đào tạo bài bản, có kinh nghiệm, am hiểu luật pháp Việt Nam và quốc tế, tạo ra một bộ máy phối hợp và gắn kết chặt chẽ.
Dưới đây là sơ đồ cơ cấu tổ chức các phòng ban nghiệp vụ của Chi nhánh Hà Nội:
Sơ đồ 1. Cơ cấu tổ chức Chi nhánh Hà Nội
VPKV 14
(NỘI BÀI)
PHÒNG KDBH 3
(PHI HÀNG HẢI)
PHÒNG KDBH 2
( TSKT)
BAN GIÁM ĐỐC
KHỐI KINH DOANH
KHỐI VPKV
KHỐI GIÁN TIẾP
PHÒNG KẾ TOÁN
PHÒNG TC- HC
PHÒNG KDBH 1
(HÀNG HẢI)
VPKV 12
(HÀ ĐÔNG)
VPKV 13
(VĨNH PHÚC)
PHÒNG DỊCH VỤ - KHÁCH HÀNG
VPKV 15
(NAM HÀ NỘI)
VPKV 16
(GIA LÂM)
VPKV 17
(HOÀNG MAI)
VPKV 26
(ĐÔNG ANH)
Nhìn vào sơ đồ trên ta thấy cơ cấu tổ chức bộ máy của chi nhánh theo mô hình trực tuyến. Mỗi phòng ban và các đơn vị trực thuộc có những chức năng nhất định song đều phối hợp hài hòa và gắn kết với nhau dưới sự giám sát của Ban Giám đốc chi nhánh.
Với cơ cấu tổ chức như trên, chi nhánh công ty sẽ nâng cao được tính thống nhất trong việc thực hiện những mục tiêu chung đã đề ra, đồng thời cũng vẫn nâng cao được khả năng làm việc độc lập và sáng tạo của các phòng ban, đơn vị trực thuộc.
Đội ngũ cán bộ nhân viên của chi nhánh:
Bảng 2. Bảng phân bố cơ cấu lao động của công ty
Chỉ tiêu
Số lượng
( người)
Tỷ lệ (%)
Tổng số lao động
49
100
1.Phân cấp theo chức vụ
Cán bộ quản lý
19
38,78
Nhân viên
30
61,22
2.Trình độ lao động
Đại học và trên đại học
33
67,35
Cao đẳng, trung cấp
14
28,57
Sơ cấp, phổ thông
2
4,13
3.Giới tính
Nam
34
69,39
Nữ
15
30,61
( Nguồn: Phòng TC – HC)
Nhìn vào bảng cơ cấu lao động trên ta thấy số lượng cán bộ quản lý của chi nhánh chiếm tỉ lệ khá cao trong tổng số lao động, điều đó cho thấy chi nhánh có bộ máy hoạt động tinh giản, tiết kiệm lao động, mỗi phòng ban chỉ sử dụng một số lượng lao động không nhiều song vẫn đem lại hiệu quả công việc cao. Bên cạnh đó lao động là nam giới chiếm tỉ lệ cao hơn hẳn so với nữ giới. Nam giới tại chi nhánh chủ yếu trực thuộc các phòng ban nghiệp vụ hay khối kinh doanh trực tiếp, nữ giới chủ yếu thuộc các phòng như tổ chức - hành chính, kế toán hay bộ phận thống kê… Điều này dễ lý giải bởi đặc thù của ngành kinh doanh bảo hiểm luôn đòi hỏi sự năng động cũng như khả năng chịu đựng áp lực công việc cao, yêu cầu luôn sẵn sàng thích nghi với những biến đổi của công việc nên phù hợp với khả năng của nam giới hơn.
Một ưu điểm nữa dễ nhận thấy là trình độ lao động của chi nhánh khá cao, tỉ lệ lao động có trình độ đại học chiếm đa số, đặc biệt đa phần cán bộ chủ chốt của chi nhánh có trình độ trên đại học. Đây là một lợi thế rất lớn bởi nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những yếu tố hàng đầu làm nên thành công của một công ty, đặc biệt là một công ty có tuổi đời còn rất trẻ như VNI. Lực lượng lao động nhìn chung là lao động trẻ, nhiệt tình, năng động với công việc, ham học hỏi, cầu tiến, có tinh thần bắt kịp sự thay đổi trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
2.1.3. Kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty Cổ phần Bảo hiểm Hàng Không – Chi nhánh Hà Nội giai đoạn 2008 – 2010
Chi nhánh Hà Nội là một Chi nhánh trực thuộc Công ty Cổ phần Bảo hiểm Hàng Không nên chỉ được phép kinh doanh các nghiệp vụ bảo hiểm gốc, việc tiến hành kinh doanh tái bảo hiểm và thực hiện các hoạt động đầu tư khác không được thực hiện tại Chi nhánh. Tuy nhiên trong số các nghiệp vụ bảo hiểm gốc thì bảo hiểm Hàng Không cũng không được triển khai tại các Chi nhánh và VPKV của VNI. Do đó doanh thu hàng năm của Chi nhánh Hà Nội là từ phí bảo hiểm gốc của 9 nghiệp vụ còn lại.
Các khoản phải chi hàng năm của Chi nhánh Hà Nội bao gồm: Chi khai thác, chi đề phòng và hạn chế tổn thất, chi giám định, bồi thường, chi quản lý, chi hoa hồng…, trong đó chi bồi thường luôn chiếm tỉ trọng lớn nhất. Mặc dù các khoản phải chi mỗi năm rất nhiều song trong thời gian hoạt động vừa qua Chi nhánh luôn thu được khoản lợi nhuận không nhỏ. Kết quả kinh doanh của Chi nhánh Hà Nội trong ba năm qua được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 3: Kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty Cổ phần Bảo hiểm Hàng Không – Chi nhánh Hà Nội giai đoạn 2008 – 2010
Đvt: Triệu đồng
STT
Năm
Chỉ tiêu
2008
2009
2010
1
Doanh thu
5.106,27
28.701,91
36.403,05
2
Chi phí
2.764,13
13.904,93
19.102,26
3
Lợi nhuận trước thuế
2.342,14
14.796,98
17.300,79
4
Thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp
410,76
1.692,24
3.012,82
5
Lợi nhuận sau thuế
1.932,38
13.104,74
14.287,97
(Nguồn: Công ty CP Bảo hiểm Hàng Không – CN Hà Nội )
Nhìn vào bảng trên ta thấy tình hình kinh doanh của Chi nhánh Hà Nội trong ba năm qua tương đối tốt. Tăng trưởng của Chi nhánh về mặt doanh thu luôn ở mức cao và ổn định. Mặc dù chi phí hàng năm cũng tăng lên song điều đó hoàn toàn phù hợp với thực tế bởi khi số lượng hợp đồng bảo hiểm càng tăng thì xác suất xảy ra rủi ro cũng càng lớn, đồng thời với đó là sự tăng lên của các chi phí khác như chi khai thác, chi hoa hồng, chi đề phòng hạn chế tổn thất... Tuy nhiên hoạt động kinh doanh của Chi nhánh luôn có lãi, thể hiện qua con số lợi nhuận liên tục tăng lên qua các năm: năm 2008 lợi nhuận sau thuế là 1.932,38 triệu đồng, năm 2009 là 13.104,74 triệu đồng và năm 2010 là 14.287,97 triệu đồng. Nhờ tăng trưởng cao trong những năm qua mà đời sống của cán bộ nhân viên Chi nhánh đã được tăng lên rõ rệt, thu nhập bình quân đầu người tăng trên 5% mỗi năm. Có được kết quả này là nhờ sự phấn đấu nỗ lực không ngừng của tập thể cán bộ nhân viên Chi nhánh Hà Nội trong suốt thời gian qua.
2.2. Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại công ty CP Bảo hiểm Hàng Không - chi nhánh Hà Nội giai đoạn 2008 – 2010
2.2.1. Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Việt Nam
Bảo hiểm vật chất xe cơ giới là hình thức bảo hiểm đã xuất hiện ở Việt Nam khá lâu. Ban đầu loại hình bảo hiểm này chủ yếu do các công ty bảo hiểm phi nhân thọ hàng đầu Việt Nam như Bảo Việt, Bảo Minh triển khai và nắm giữ thị phần. Nhưng đến thời điểm hiện nay, với sự xuất hiện của rất nhiều công ty bảo hiểm trên thị trường Việt Nam thì thị phần của Bảo Việt và Bảo Minh đã bị giảm đi so với trước đó. Bảo hiểm vật chất xe cơ giới là loại hình mà bất cứ công ty kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ nào tại Việt Nam cũng triển khai bởi đây là mảng thị trường dễ khai thác và có nhiều tiềm năng mở rộng trong tương lai. Theo thống kê của Ủy ban an toàn giao thông quốc gia, trong khoảng thời gian 15 năm từ năm 1995 đến năm 2010, số phương tiện xe cơ giới tại nước ta đã tăng lên nhanh chóng. Nếu như năm 1995 cả nước mới có 3.918.935 phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, trong đó chỉ có 330.779 xe ô tô, còn lại là xe môtô với 3.678.156 chiếc (chiếm 93,85 %) thì đến năm 2010 số xe ô tô lưu hành trên cả nước đã lên tới 1.283.260 chiếc, xe môtô là 24.164.776 chiếc, nâng tổng số phương tiện xe cơ giới trên cả nước ta lên con số 25.448.036 chiếc, bằng 649,36% so với năm 1995. Với tốc độ gia tăng của các phương tiện xe cơ giới như hiện nay đã tạo nên một mảng thị trường sôi động trong kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm này.
Theo Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam (HHBHVN) thì bảo hiểm xe cơ giới luôn là một trong những nghiệp vụ chiếm tỉ trọng cao nhất trong cơ cấu doanh thu các nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ trên toàn thị trường, đồng thời cũng là nghiệp vụ bảo hiểm luôn có mức tăng trưởng cao hàng năm về doanh thu phí, trung bình từ 18 – 20%/năm. Riêng trong năm 2010 vừa qua Bảo hiểm xe cơ giới đạt doanh thu 5.378 tỉ đồng, tăng trưởng 23% so với năm 2009, dẫn đầu các nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ với tỉ trọng 31,5%. Các doanh nghiệp bảo hiểm đứng đầu thị trường về doanh thu nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới là Bảo Việt với 1.272 tỉ đồng (chiếm 23,65%), PJICO 791 tỉ đồng (chiếm 14,71%), PVI 628 tỉ đồng (chiếm 11,68%), Bảo Minh 538 tỉ đồng (chiếm 10%), PTI 303 tỉ đồng (chiếm 5,63%), AAA 271 tỉ đồng (chiếm 5,04%), MIC 217 tỉ đồng (chiếm 4,03%)… Các doanh nghiệp còn lại trên thị trường chỉ chiếm tỉ trọng 25,26% trong tổng doanh thu nghiệp vụ này trên thị trường.
Bên cạnh việc đạt mức doanh thu cao thì bảo hiểm xe cơ giới cũng là một trong những nghiệp vụ bảo hiểm có tỉ lệ bồi thường lớn, tỉ lệ bồi thường hàng năm trung bình khoảng trên 40%. Trong năm 2010 vừa qua số tiền bồi thường cho nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới là 2.368 tỉ đồng (chưa kể tổn thất xảy ra đang giải quyết bồi thường). Các doanh nghiệp bảo hiểm có tỉ lệ bồi thường cao là Liberty (72%), BV Tokio Marine (66%), Bảo Long (65,7%), Bảo Minh (59,6%), Bảo Việt (53%), AAA (52,8%), ABIC (52%), PVI (51,9%).
Các DNBH và các cơ quan hữu quan đã có nhiều động thái tích cực trong việc cố gắng giảm số vụ tai nạn hàng năm, đồng thời giảm chi bồi thường đối với nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới. Năm 2010 nhiều DNBH đã quản lý chặt chẽ khâu khai thác và giải quyết bồi thường phòng chống trục lợi bảo hiểm. Quỹ BH xe cơ giới đã tổ chức cho đại diện của một số DNBH khảo sát học tập kinh nghiệm BH và phần mềm dữ liệu BH xe cơ giới tại Malaysia.
Hiệp hội Bảo hiểmViệt Nam phối hợp với Cục Cảnh sát giao thông đường bộ, đường sắt tổ chức đào tạo khóa học giám định phân tích hồ sơ tai nạn giao thông cho hơn 200 cán bộ bảo hiểm của các doanh nghiệp bảo hiểm.
HHBHVN phối hợp với Bộ Tài chính – Trung ương đoàn tuyên truyền chế độ BH xe cơ giới trong thanh niên. Thông qua Quỹ BH xe cơ giới các DNBH đã đầu tư hơn 12 tỉ đồng để thực hiện 8 công trình đề phòng hạn chế tổn thất tại Gia Lai, Kontum, Lạng Sơn, Nam Định, Đồng Nai, Hưng Yên, Bắc Kạn và tài trợ 2 xe cứu thương cho trung tâm cấp cứu 115 Hà Nội. Năm 2010 Quỹ BH xe cơ giới đã chi hỗ trợ nhân đạo cho người nhà nạn nhân bị tử vong do không phát hiện được xe gây tai nạn hay xe không tham gia bảo hiểm, tổng số 11 trường hợp với số tiền 55 triệu đồng.
2.2.2. Thực trạng triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Công ty Cổ phần Bảo hiểm Hàng Không – Chi nhánh Hà Nội
Ngay từ những ngày đầu thành lập, nhận thức được sự cần thiết và tác dụng của bảo hiểm vật chất xe cơ giới, VNI đã thực hiện triển khai nghiệp vụ này. Hàng năm, nghiệp vụ luôn mang lại doanh thu lớn cho công ty cũng như các đơn vị trực thuộc. Tuy nhiên, hiện nay VNI chỉ thực hiện bảo hiểm vật chất xe ô tô vì giá trị của ô tô lớn hơn nhiều so với xe máy, bên cạnh đó việc giám định bồi thường khi có rủi ro tai nạn thường trải qua nhiều công đoạn đôi khi khá phức tạp, trong khi giá trị cũng như chi phí sửa chữa xe máy khi thiệt hại nhìn chung là nhỏ nên số tiền bồi thường không đáng kể. Do vậy, khách hàng ít có nhu cầu tham gia bảo hiểm vật chất cho loại xe này. Ở Việt Nam hiện nay hầu như các công ty bảo hiểm cũng chỉ triển khai bảo hiểm vật chất cho xe ô tô.
2.2.2.1. Thực trạng hoạt động khai thác
Khi triển khai bất kì một nghiệp vụ bảo hiểm nào, khâu khai thác luôn là khâu đầu tiên quan trọng quyết định tới sự thành công của nghiệp vụ, đem về doanh thu cho công ty. Bảo hiểm vật chất xe cơ giới là loại hình bảo hiểm tự nguyện nên kết quả triển khai phụ thuộc rất nhiều vào số lượng khách hàng tham gia. Nhận thức được điều đó, trong những năm qua Công ty CP Bảo hiểm Hàng Không- chi nhánh Hà Nội luôn nỗ lực tìm kiếm khách hàng và đã thu được nhiều thành công. Hàng năm, nghiệp vụ này đem lại nguồn thu lớn, chiếm tỷ trọng cao trong tổng doanh thu của toàn chi nhánh. Với hệ thống văn phòng đại diện và đại lý rộng khắp địa bàn Hà Nội là một lợi thế mà chi nhánh tận dụng để tiếp cận khách hàng và khai thác hiệu quả nghiệp vụ này.
Quy trình khai thác của Chi nhánh được thể hiện qua sơ đồ sau:
Tiếp thị, nhận yêu cầu bảo hiểm
Điều tra, đánh giá rủi ro
Xem xét phân cấp trình duyệt & TBH
Chào phí & đàm phán
Từ chối
Không đạt
Không đạt
Không đạt
Đạt
Sơ đồ 2. Quy trình khai thác bảo hiểm của Công ty CP bảo hiểm Hàng Không – Chi nhánh Hà Nội
Đạt
Cấp GCNBH/
HĐBH
Theo dõi thực hiện đơn bảo hiểm
Cấp GCNBH/
HĐBH
Chăm sóc khách hàng
Chi nhánh hiện sử dụng hai kênh khai thác chủ yếu là: khai thác trực tiếp và khai thác gián tiếp qua đại lý. Trực tiếp ở đây có nghĩa là các cán bộ bảo hiểm của chi nhánh trực tiếp gặp gỡ, tiếp cận và khai thác khách hàng. Kênh này có ưu điểm là: các hợp đồng khai thác thường có giá trị lớn do mối quan hệ rộng của cán bộ nhân viên bảo hiểm; tiết kiệm nhân sự, do đó tiết kiệm được chi phí. Hơn nữa, các cán bộ nhân viên chi nhánh là những người được đào tạo chuyên sâu về nghiệp vụ, có kinh nghiệm nên các hợp đồng được thực hiện luôn có độ tin cậy cao và ít xảy ra tranh chấp. Tuy nhiên, cán bộ nhân viên chi nhánh không chỉ thực hiện công việc khai thác mà còn phải đảm nhiệm các công việc quản lý khác nên thời gian không nhiều và địa bàn hoạt động cũng hạn chế, hơn nữa số lượng cán bộ nhân viên của toàn chi nhánh cũng không nhiều (49 người) nên không thể đảm nhận hết khối lượng công việc của hoạt động khai thác. Song song với việc khai thác trực tiếp, chi nhánh còn kết hợp cả kênh khai thác gián tiếp thông qua hệ thống đại lý giúp mở rộng thị trường, thúc đẩy bán hàng nhanh chóng, hiệu quả. Đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng tìm đến với các sản phẩm của mình, tiết kiệm được chi phí, giảm thời gian.
Sơ đồ 3. Hệ thống khai thác bảo hiểm của Chi nhánh Hà Nội
VNI Hà Nội
Khai thác trực tiếp
Khai thác gián tiếp
Khối kinh doanh
Các
VPKV
Đại lý bán chuyên
Đại lý chuyên
khai thác thththácthácthác
Đại lý chuyên khai thác là những đại lý trực tiếp làm việc tại các phòng ban thuộc khối kinh doanh và các văn phòng khu vực của Chi nhánh Hà Nội. Ngoài hoa hồng đại lý họ được hưởng theo quy định của Bộ Tài chính thì họ còn được Chi nhánh hỗ trợ một số phụ cấp khác như phụ cấp đi lại, phụ cấp ăn trưa… Còn các đại lý bán chuyên là những người không trực tiếp làm việc tại các bộ phận trên song có cộng tác với Chi nhánh Hà Nội trong việc tìm kiếm khách hàng, họ chỉ được hưởng hoa hồng dựa trên giá trị các hợp đồng được ký kết. Hiện nay tại Chi nhánh Hà Nội có khoảng 15 đại lý chuyên khai thác và 10 đại lý bán chuyên. Các đại lý này được đào tạo theo chương trình đào tạo đại lý do VNI tổ chức và được sát hạch dưới sự giám sát của Bộ Tài chính. Tuy nhiên đa phần đại lý là những người chuyển từ các ngành, lĩnh vực khác sang, trước đó họ chưa có kiến thức chuyên môn về bảo hiểm nên với thời gian đào tạo tương đối ngắn (40 giờ đồng hồ) chỉ có thể đem lại cho họ cái nhìn tổng quan về bảo hiểm cũng như những kiến thức sơ lược nhất mà thôi. Điều đó dẫn đến một thực tế là trình độ chuyên môn nghiệp vụ của một số đại lý còn khá hạn chế, gây ảnh hưởng đến chất lượng công việc và trong một số trường hợp còn gây mất lòng tin của khách hàng khi thực hiện tư vấn các nghiệp vụ phức tạp. Hiện nay, nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới thu hút nhiều đại lý tham gia nhất bởi tính chất đơn giản và gần gũi đối với cuộc sống.
Với sự nỗ lực phấn đấu không ngừng của chi nhánh Hà Nội trong những năm qua đã giúp chi nhánh đạt được những kết quả đáng mừng trong khâu khai thác của nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô. Điều đó thể hiện cụ thể qua bảng sau:
Bảng 4. Tình hình thực hiện kế hoạch khai thác bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại công ty cổ phần Bảo hiểm Hàng Không – Chi nhánh Hà Nội
(2008 – 2010)
Năm
Doanh thu phí ( Triệu đồng)
Tỉ lệ hoàn thành kế hoạch
(đvt: %)
Kế hoạch
(đvt: triệu đồng)
Thực hiện
(đvt: triệu đồng)
2008
700
964,38
137,77
2009
9.200
10.894,27
118,42
2010
11.650
12.527,69
1,08
( Nguồn: Công ty Cổ phần Bảo hiểm Hàng Không – CN Hà Nội )
Như vậy kể từ thời điểm đi vào hoạt động đến nay chi nhánh Hà Nội luôn xuất sắc hoàn thành nhiệm vụ mà cấp trên giao phó với mức doanh thu luôn vượt chỉ tiêu đề ra hàng năm. Ngay năm đầu tiên chi nhánh đã vượt mức kế hoạch là 37,77% - một con số thực sự ấn tượng đối với một đơn vị mới thành lập. Đến năm 2010 mặc dù không đạt được con số ấn tượng như ban đầu nhưng chi nhánh Hà Nội vẫn chứng tỏ được mình là một đơn vị trực thuộc tiêu biểu của VNI.
Những thành quả mà VNI Hà nội đã giành được trong thời gian qua được chứng minh cụ thể qua bảng số liệu sau:
Bảng 5. Tình hình khai thác bảo hiểm vật chất xe ô tô tại công ty cổ phần Bảo hiểm Hàng Không – Chi nhánh Hà Nội (2008 – 2010)
Năm
Chỉ tiêu
Đ.vị
2008
2009
2010
Số xe ô tô thực tế lưu hành
chiếc
891.104
1 026.512
1.283.260
Tốc độ tăng trưởng của xe thực tế lưu hành
%
-
15,19
25,01
Số xe ô tô tham gia bảo hiểm vật chất tại VNI – chi nhánh Hà Nội
chiếc
173
1.676
1.917
Tốc độ tăng trưởng của xe tham gia bảo hiểm
%
-
868,79
16,03
Tỷ lệ khai thác
%
0,02
0,16
0,15
Doanh thu phí bảo hiểm
Trđ
964,38
10.894,27
12.527,69
Tốc độ tăng doanh thu phí bảo hiểm
%
-
1.029,67
14,99
Doanh thu phí bình quân/xe
Trđ/xe
5,57
6,50
6,54
( Nguồn: Công ty Cổ phần Bảo hiểm Hàng Không – CN Hà Nội )
Theo bảng số liệu trên cho thấy, số lượng xe ô tô thực tế được sử dụng tăng dần qua các năm. Sau 3 năm đã tăng 1,44 lần; từ 891.104 chiếc năm 2008 đã tăng lên 1.283.260 chiếc năm 2010. Điều này cũng dễ hiểu vì khi nền kinh tế phát triển, mức sống của người dân ngày một nâng cao thì nhu cầu đi lại trao đổi ngày một tăng và ô tô đã được chọn làm phương tiện phổ biến nhất với ưu điểm thuận tiện, cơ động… Đây là điều kiện rất thuận lợi cho việc khai thác bảo hiểm vật chất xe cơ giới đối với các công ty bảo hiểm nói chung và VNI cũng như chi nhánh Hà Nội nói riêng.
Thực tế cho thấy từ năm 2008 đến năm 2010 số lượng xe ô tô tham gia bảo hiểm vật chất tại chi nhánh đã tăng lên rất nhiều, theo đó mà doanh thu phí bảo hiểm cũng đã tăng lên đáng kể, chứng tỏ khâu khai thác đối với nghiệp vụ bảo hiểm này trong những năm qua đã được thực hiện tốt tại chi nhánh Hà Nội. Có thể nhận thấy mức chênh lệch khá lớn giữa hai năm 2008 và 2009 cả về số lượng xe tham gia bảo hiểm và doanh thu phí bảo hiểm. Sở dĩ có hiện tượng này là do chi nhánh Hà Nội mới được thành lập vào tháng 8/2008, thời gian đầu do chưa tạo dựng được hình ảnh trong lòng khách hàng cũng như chưa có chiến lược khai thác hợp lý nên kết quả đạt được chưa cao. Qua một thời gian hoạt động, nhờ việc đúc rút kinh nghiệm và có chiến lược khai thác hiệu quả hơn, địa bàn hoạt động mở rộng hơn nên kết quả mà chi nhánh Hà Nội thu được đã có những chuyển biến hết sức rõ ràng. Năm 2010 mặc dù vẫn giữ mức tăng trưởng cao về doanh thu cũng như số lượng hợp đồng khai thác được song do chi nhánh đã đi vào hoạt động ổn định nên không thể tạo ra được những đột phá mạnh mẽ như lúc đầu. Ta thấy tỉ lệ khai thác đã giảm đi một chút trong năm 2010 so với năm 2009. Lý do là bởi tốc độ tăng của số lượng xe cơ giới trên thị trường (25,01%) cao hơn so với tốc độ tăng của số xe khai thác được tại chi nhánh (16,03 %).
Cũng theo bảng trên ta nhận thấy doanh thu phí bình quân/xe đã tăng đều đặn qua 3 năm, từ 5,57 triệu đồng/xe vào năm 2008 lên 6,50 triệu đồng/xe năm 2009 và 6,54 triệu đồng/xe năm 2010. Như vậy qua một thời gian hoạt động thì VNI nói chung và Chi nhánh Hà Nội nói riêng đã thu hút được ngày càng nhiều sự quan tâm từ đông đảo khách hàng, số xe ô tô tham gia bảo hiểm vật chất tại chi nhánh không chỉ tăng về số lượng mà còn tăng cả về giá trị. Một trong những lý do quan trọng phải kể đến ở đây là hiện nay Chi nhánh Hà Nội đang chú trọng khai thác bảo hiểm vật chất xe ô tô thông qua trung gian là các ngân hàng thương mại. Ô tô là loại tài sản có giá trị lớn nên thường được dùng làm vật thế chấp khi vay vốn ở các ngân hàng thương mại, khai thác loại hình bảo hiểm này thông qua ngân hàng không những mang lại nguồn thu ổn định mà giá trị bảo hiểm của các xe được thế chấp cũng khá lớn, do đó mang lại nguồn doanh thu cao cho Chi nhánh.
Với mức tăng trưởng ngoạn mục về doanh thu phí bảo hiểm trong ba năm qua, nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới đã đóng góp tích cực trong tổng doanh thu của chi nhánh. Điều đó thể hiện khá rõ qua các bảng sau:
Bảng 6. Tỉ trọng doanh thu phí nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới trong tổng doanh thu phí bảo hiểm xe cơ giới của VNI Hà Nội (2008-2010)
Chỉ tiêu
Đơn vị tính
Năm
2008
2009
2010
Doanh thu phí nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới
Tr.đ
964,38
10.894,27
12.527,69
Tổng doanh thu phí các nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới
Tr.đ
1.579,21
18.495,64
21.228,45
Tỉ trọng doanh thu phí BHVCXCG trong tổng doanh thu phí BHXCG
%
61,07
58,91
59,01
(Nguồn: Công ty CP Bảo hiểm Hàng Không – CN Hà Nội)
Trong số các nghiệp vụ bảo hiểm mà Chi nhánh Hà Nội triển khai thì nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới luôn là nghiệp vụ chiếm tỉ trọng cao nhất trong cơ cấu tổng doanh thu của Chi nhánh. Đối với nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới, ngoài bảo hiểm vật chất xe cơ giới thì VNI còn triển khai các nghiệp vụ khác như: bảo hiểm trách nhiệm dân sự (TNDS) của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba (bao gồm cả bảo hiểm TNDS bắt buộc do Bộ Tài chính quy định và bảo hiểm tự nguyện TNDS chủ xe cơ giới đối với phần vượt quá mức trách nhiệm bắt buộc của Bộ Tài chính), bảo hiểm tai nạn lái, phụ xe và người ngồi trên xe, bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với hàng hóa vận chuyển trên xe. Các nghiệp vụ này cũng có những đóng góp quan trọng trong tổng doanh thu của Chi nhánh. Tuy nhiên nhìn vào bảng trên ta thấy nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới luôn chiếm tỉ trọng cao nhất trong số các nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới được triển khai với mức tỉ trọng trung bình trong ba năm qua là 59,67%. Điều đó cho thấy tầm quan trọng của nghiệp vụ bảo hiểm này trong các nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới nói riêng cũng như trong tổng số các nghiệp vụ bảo hiểm nói chung. Cũng theo bảng trên ta thấy tỉ trọng doanh thu nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tương đối ổn định qua các năm, thể hiện mức tăng trưởng của nghiệp vụ này tương đối đồng đều so với mức tăng trưởng của các nghiệp vụ còn lại.
Bảng 7. Tỉ trọng doanh thu phí bảo hiểm vật chất xe cơ giới trong tổng doanh thu phí bảo hiểm của công ty CP Bảo hiểm Hàng Không
– Chi nhánh Hà Nội (2008 -2010)
Chỉ tiêu
Đơn vị
Năm
2008
2009
2010
Doanh thu phí nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới
Tr.đ
964,38
10.894,27
12.527,69
Tổng doanh thu phí các nghiệp vụ bảo hiểm tại chi nhánh
Tr.đ
5.106,27
28.701,91
36.403,05
Tỉ trọng doanh thu phí BHVCXCG trong tổng doanh thu phí BH của chi nhánh
%
18,89
37,96
34,41
( Nguồn: Công ty CP Bảo hiểm Hàng Không – CN Hà Nội)
Như vậy trong cơ cấu doanh thu của toàn chi nhánh thì doanh thu của riêng nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới luôn chiếm một tỉ trọng khá cao. Điều đó cho thấy tầm quan trọng của nghiệp vụ này đối với kết quả kinh doanh chung của toàn chi nhánh. Nó đồng thời cũng thể hiện rằng nghiệp vụ này luôn được cán bộ nhân viên chi nhánh Hà Nội chú trọng triển khai trong những năm qua và chắc chắn sẽ vẫn là một trong những nghiệp vụ dành được nhiều sự quan tâm đầu tư của chi nhánh trong thời gian tới.
Tuy nhiên tỉ trọng doanh thu phí bảo hiểm vật chất xe cơ giới (BHVCXCG) trong tổng doanh thu phí của cả chi nhánh biến động không đều qua các năm. Nếu như năm 2008 doanh thu BHVCXC chiếm tỉ trọng 18,89 % trong tổng doanh thu các nghiệp vụ của toàn chi nhánh thì con số này đã tăng lên 37,96 % trong năm 2009, nhưng đến năm 2010 thì tỉ trọng lại giảm xuống còn 34,41 %. Sở dĩ có hiện tượng này là do tốc độ tăng của doanh thu phí nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới năm 2009 cao hơn tốc độ tăng tổng doanh thu phí của cả phòng nhưng đến năm 2010 lại giảm xuống thấp hơn. Cụ thể: Năm 2009, doanh thu phí nghiệp vụ tăng 1029,67% so với năm 2008 trong khi tổng doanh thu toàn phòng tăng 462,09 %. Năm 2010, doanh thu phí nghiệp vụ tăng 14,99% thì tốc độ tăng của tổng doanh thu phí cùng năm đó là 26,83%.
Bên cạnh những thành tựu đạt được ở trên thì ta vẫn phải thừa nhận một thực tế: tỉ lệ khai thác bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Chi nhánh nhìn chung chưa cao, chưa tương xứng với tiềm năng. Chi nhánh Hà Nội có trụ sở đặt tại quận Cầu Giấy – một trong những quận sầm uất, đông dân cư và là một trong những khu vực trung tâm của thủ đô Hà Nội. Các văn phòng khu vực của Chi nhánh cũng đều đặt tại các địa điểm thuận lợi trên địa bàn thành phố. Đó là lợi thế rất lớn đối với việc đi lại giao dịch và tiếp cận các đối tượng khách hàng. Trong những năm qua số lượng xe ô tô lưu hành trên thị trường tăng trưởng rất nhanh và Hà Nội là một trong những khu vực có đóng góp lớn nhất vào sự tăng trưởng đó song tỉ lệ khai thác tại Chi nhánh vẫn còn khá khiêm tốn. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này song ta có thể kể đến một số nguyên nhân quan trọng sau:
Một là, bảo hiểm vật chất xe cơ giới là mảng thị trường có độ cạnh tranh rất gay gắt, số lượng các công ty bảo hiểm trên thị trường triển khai nghiệp vụ này rất nhiều, trong đó có những công ty đàn anh ra đời trước VNI khá lâu, tiếng tăm, uy tín cũng như thị phần chiếm tỉ trọng cao trên thị trường như Bảo Việt, Bảo Minh, PJICO, PVI…, những công ty này luôn có một lực lượng khách hàng đông đảo và trung thành nên VNI nói chung cũng như chi nhánh Hà Nội nói riêng không dễ gì có thể thu hút được khách hàng về phía mình.
Hai là, VNI là một cái tên còn khá xa lạ đối với khách hàng. Tuy công ty nói chung cũng như Chi nhánh Hà Nội nói riêng đã có nhiều biện pháp tích cực trong việc quảng bá hình ảnh của mình đến với công chúng song vì thời gian hoạt động của VNI trên thị trường bảo hiểm là chưa lâu, chính sách marketing cũng chưa thực sự hiệu quả nên một bộ phận dân cư vẫn chưa biết đến thương hiệu này. Đối với không ít người dân, đặc biệt là những người lần đầu tiếp cận với bảo hiểm, khi có nhu cầu mua sản phẩm bảo hiểm nào đó, ví dụ bảo hiểm xe cơ giới, họ thường nghĩ ngay đến những các tên đã trở nên quen thuộc như Bảo Việt, Bảo Minh, PJICO… Thực trạng này đòi hỏi trong những năm tới VNI nói chung và VNI Hà Nội nói riêng cần có những biện pháp hữu hiệu hơn nữa để đưa VNI trở thành thương hiệu bảo hiểm được đông đảo công chúng biết tới.
Ba là, hiện nay một số công ty bảo hiểm mới ra đời như MIC, Liberty… đã dùng nhiều biện pháp cạnh tranh để lôi kéo khách hàng như việc giảm phí bảo hiểm xuống thấp hơn các công ty đối thủ, đưa ra các ưu đãi hấp dẫn để lôi kéo đại lý giỏi về phía mình… Do đó đã khiến VNI và một số công ty bảo hiểm khác gặp không ít khó khăn trong việc tìm kiếm khách hàng mới cũng như tái tục hợp đồng với khách hàng cũ.
Bốn là, VNI có chính sách hạn chế, loại bỏ không khai thác vào các đối tượng xe có nguy cơ xảy ra tổn thất cao như: taxi, đầu kéo…, trong khi số lượng xe thuộc nhóm này chiếm một tỉ lệ không nhỏ trong tổng số xe đang lưu hành trên thị trường.
Thực tế trên đòi hỏi VNI Hà Nội cần có sự nỗ lực không ngừng trong việc cải tiến chất lượng sản phẩm cũng như các dịch vụ khách hàng để có thể thu hút ngày càng nhiều khách hàng tham gia bảo hiểm tại đơn vị mình.
2.2.2.2. Thực trạng công tác đề phòng và hạn chế tổn thất
Trong bảo hiểm vật chất xe ô tô nói riêng và trong bảo hiểm nói chung, khâu đề phòng hạn chế tổn thất là khâu không thể thiếu được, nó không chỉ nâng cao hiệu quả kinh doanh cho công ty mà còn góp phần làm giảm số vụ tai nạn cho toàn xã hội. Chính vì vậy mà công tác đề phòng hạn chế tổn thất không chỉ mang ý nghĩa kinh tế mà còn mang ý nghĩa xã hội rất lớn. Khâu đề phòng hạn chế tổn thất được thực hiện sau khi ký kết hợp đồng bảo hiểm
Nếu làm tốt khâu này, số vụ tổn thất sẽ giảm đi và mức độ tổn thất trong mỗi vụ cũng giảm, từ đó công ty bảo hiểm sẽ tiết kiệm được số tiền bồi thường hoặc chi trả. Tổn thất không xảy ra, đề phòng và hạn chế tổn thất sẽ tạo thêm niềm tin của khách hàng với công ty và hơn thế nữa là góp phần đảm bảo an toàn xã hội, hạn chế các vụ tai nạn giao thông.
Theo sự chỉ đạo của công ty, Chi nhánh đã cử cán bộ của mình tới các cơ quan đơn vị để đề xuất các biện pháp đề phòng hạn chế tổn thất đối với các xe có tham gia bảo hiểm đồng thời trích một khoản tiền trong chi phí quản lý cho công việc này thông qua việc cung cấp cho các chủ xe bình cứu hoả đặc biệt là các chủ xe tham gia bảo hiểm với số lượng lớn hoặc tham gia liên tục trong thời gian dài. Ngoài ra, đề công tác đề phòng và hạn chế tổn thất thêm hiệu quả, nhân viên sẽ đến làm việc trực tiếp với các khách hàng, tư vấn cho họ về việc phòng ngừa rủi ro như lựa chọn người lái xe có trình độ, am hiểu luật lệ giao thông và có tư cách tốt, tránh tình trạng lái xe có tay nghề cao nhưng lại nghiện rượu, cẩu thả,... Đồng thời phối kết hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng có liên quan như công an, giao thông công chính để tăng cường hệ thống biển báo chỉ đường, xây dựng bổ sung khép kín cọc tiêu, xây các tường chắn phòng vệ ở các đường cua thường xảy ra tai nạn,... và hỗ trợ kinh phí tổ chức các cuộc thi lái xe an toàn và tuyên truyền giáo dục luật lệ an toàn giao thông. Qua đó, VNI- Chi nhánh Hà Nội đã góp phần làm giảm thiểu số vụ tai nạn giao thông đường bộ xảy ra. Điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho phòng trong việc đẩy mạnh công tác đề phòng hạn chế tổn thất, tạo sự minh bạch rõ ràng trong việc hạch toán kế toán, ngoài ra còn góp phần làm giảm số vụ tai nạn đòi giải quyết bồi thường trong những năm tới.
Chi phí trích cho công tác này của chi nhánh được thể hiện cụ thể qua bảng:
Bảng 8. Chi đề phòng hạn chế tổn thất nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô tại VNI chi nhánh Hà Nội (2008 - 2010)
Năm
Chỉ tiêu
Đơn vị
2008
2009
2010
Chi đề phòng hạn chế tổn thất
trđ
30,28
437,95
517,39
Doanh thu phí bảo hiểm
Trđ
964,38
10.894,27
12.527.69
Tỷ trọng chi đề phòng hạn chế tổn thất/doanh thu
%
3,14
4,02
4,12
( Nguồn: Công ty CP Bảo hiểm Hàng Không – CN Hà Nội)
Theo bảng số liệu trên, ta thấy tổng chi đề phòng hạn chế tổn thất nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới của VNI Hà Nội không ngừng tăng qua các năm. Nguồn chi này được trích từ doanh thu phí. Năm 2008 là 30,28 triệu đồng, chiếm 3,14% doanh thu; năm 2009 là 437,95 triệu đồng tăng 407,67 triệu đồng so với năm 2009 và chiếm 4,02% doanh thu; năm 2010 là 517,39 triệu đồng tăng 18,14% so với năm 2009 và chiếm 4,12% doanh thu. Như vậy, chi đề phòng hạn chế tổn thất liên tục tăng qua các năm và ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong tổng doanh thu phí của nghiệp vụ. Điều đó cho thấy chi nhánh Hà Nội ngày càng quan tâm và chú trọng hơn tới việc đề phòng hạn chế tổn thất. Nó góp phần giảm đi nguy cơ xảy ra rủi ro cho các chủ xe, đồng thời làm giảm mức độ nghiêm trọng của các vụ tai nạn.
Tuy nhiên chúng ta có thể nhận thấy rằng, mặc dù Chi nhánh Hà Nội đã tăng cường chi cho công tác này nhưng số vụ tai nạn phát sinh vẫn tăng lên qua các năm. Như thế có nghĩa là số tiền này chưa thực sự phát huy hiệu quả của nó. Vì thế, vấn đề trước mắt của VNI Hà Nội là cần phải làm thế nào để phân bổ số tiền chi cho đề phòng và hạn chế tổn thất một cách hợp lí hơn, tránh tình trạng chi nhiều mà vẫn không đạt như mong muốn.
2.2.2.3. Thực trạng công tác giám định và giải quyết bồi thường:
2.2.2.3.1. Công tác giám định:
Giám định là một công việc khó khăn đòi hỏi sự chính xác, nhanh chóng, kịp thời. Chính vì vậy, chi nhánh Hà Nội đã và đang cố gắng lựa chọn kĩ và đào tạo một đội ngũ giám định viên có trình độ chuyên môn cao, có kinh nghiệm và đặc biệt là có đạo đức nghề nghiệp. Đồng thời với nó là những quy định chặt chẽ về công tác giám định.
Công tác giám định được tiến hành ngay sau khi nhận được thông báo tai nạn từ chủ xe. VNI - Chi nhánh Hà Nội sẽ cử ngay cán bộ giám định đến hiện trường nơi xảy ra tai nạn để nắm tình hình, thu thập các bằng chứng để trên cơ sở đó có thể giải đáp được những câu hỏi: tai nạn xảy ra ở đâu, như thế nào, vì sao,... để xác định thiệt hại có thuộc phạm vi bảo hiểm hay không. Nếu phát hiện thấy rủi ro không thuộc phạm vi bảo hiểm hoặc có dấu hiệu gian lận của chủ xe, giám định viên có thể từ chối bồi thường ngay tại hiện trường hoặc từ chối bằng văn bản sau khi đã trình lên lãnh đạo. Nếu thuộc phạm vi bảo hiểm, các cán bộ giám định của Chi nhánh sẽ nhanh chóng hướng dẫn chủ xe một số biện pháp nhằm hạn chế, giảm thiểu mức độ tổn thất và kiểm tra các giấy tờ cần thiết có liên quan như giấy chứng nhận bảo hiểm, giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường, sơ đồ xảy ra tai nạn,... Cán bộ giám định của Chi nhánh luôn tiến hành công tác giám định với sự có mặt của đại diện chủ xe, chủ tài sản bị thiệt hại hoặc người đại diện được uỷ quyền. Khi công việc giám định đã được hoàn tất, nhân viên giám định của Chi nhánh sẽ lập biên bản giám định trong đó miêu tả chi tiết quy mô thiệt hại, mối quan hệ nhân quả giữa nguyên nhân và hậu quả thiệt hại. Nếu đồng ý với kết quả giám định, các bên sẽ kí vào biên bản giám định. Sau đó biên bản này cùng với một số giấy tờ có liên quan khác sẽ được gửi lên phòng bồi thường để xét duyệt bồi thường. Biên bản này phải có đầy đủ chữ ký của các bên.
Trong trường hợp chủ xe không thống nhất với kết quả giám định của công ty thì hai bên sẽ thuê giám định viên kỹ thuật chuyên nghiệp, độc lập thực hiện giám định. Nếu kết luận của giám định viên này phù hợp với kết quả giám định của công ty thì chủ xe phải chịu toàn bộ chi phí thuê giám định viên và ngược lại VNI sẽ chịu toàn bộ chi phí thuê giám định viên.
Quy trình giám định của nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại VNI bao gồm các bước sau:
Sơ đồ 4. Quy trình giám định tổn thất tại Công ty CP Bảo hiểm Hàng Không – Chi nhánh Hà Nội
Nhận yêu cầu GĐ từ KH
Công ty GĐ
Báo tái BH
Xử lí ban đầu
Tiến hành giám định
Thỏa thuận theo dõi, sửa chữa
Lập biên bản GĐ
Cấp biên bản GĐ và thu phí.
Nhận biên bản GĐ và trả chi phí
Với quy trình giám định được lập ra cụ thể như trên, kết quả giám định của Chi nhánh trong thời gian qua được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 9. Kết quả giám định thiệt hại vật chất xe cơ giới tại công ty cổ phần Bảo hiểm Hàng Không – chi nhánh Hà Nội (2008 -2010)
Năm
Số vụ được giám định (vụ)
Chi phí giám định (trđ)
Chi phí giám định bình quân trong 1 vụ (ngđ/vụ)
2008
37
2,13
57,56
2009
690
32,21
46,68
2010
836
43,67
52,24
( Nguồn: Công ty CP Bảo hiểm Hàng Không – CN Hà Nội)
Số lượng các vụ giám định tăng hay giảm phụ thuộc vào tình hình tai nạn xảy ra. Chi phí giám định cũng thay đổi theo số lượng các vụ được giám định, theo mức độ phức tạp hay đơn giản của các vụ giám định. Năm 2008, chi nhánh đã giám định được 33 vụ tai nạn, chi phí giám định là 2,13 triệu đồng, chi phí giám định trung bình mỗi vụ là 57,56 nghìn đồng/vụ. Sang năm 2009, số xe tham gia bảo hiểm vật chất tại chi nhánh tăng lên rất nhiều, theo đó số xe bị thiệt hại vật chất và cần được bồi thường cũng tăng lên. Chính vì thế mà số vụ được chi nhánh giám định cũng tăng lên 690 vụ, chi phí giám định là 32,21 triệu đồng, chi phí giám định trung bình mỗi vụ giảm xuống còn 46,68 nghìn đồng/vụ. Năm 2010, số vụ được giám định cao nhất 836 vụ tương ứng với chi phí giám định là 43,67 triệu đồng và 52,24 nghìn đồng/vụ là chi phí trung bình một vụ mà chi nhánh đã giám định. Như vậy chi phí giám định tăng theo số lượng xe bị thiệt hại trong một năm nhưng chi phí giám định bình quân lại không đều giữa các năm. Năm 2008 do chi nhánh mới đi vào hoạt động, kinh nghiệm chưa nhiều nên trong quá trình triển khai giám định đã phát sinh những chi phí không cần thiết. Đến năm 2009, do chi nhánh được trang bị các trang thiết bị đồng bộ và hiện đại hơn nên quy trình giám định cũng vì thế mà nhanh gọn, chính xác hơn, đồng thời tiết kiệm được chi phí. Tuy nhiên đến năm 2010, do tính chất phức tạp của một số vụ tổn thất đã khiến quá trình giám định trở nên phức tạp nên chi phí phát sinh nhiều hơn.
Nhìn chung công tác giám định nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại VNI Hà Nội tương đối tốt. Các giám định viên ngày càng hoàn thiện và vững vàng hơn về chuyên môn nghiệp vụ, nâng cao tinh thần trách nhiệm với công việc. Tuy nhiên cũng tồn tại một số vướng mắc như chất lượng công tác giám định chưa đồng đều giữa các văn phòng khu vực trực thuộc Chi nhánh. Tại một vài VPKV, đôi khi cán bộ giám định chính là cán bộ khai thác. Sở dĩ có hiện tượng này là do hiện nay nguồn nhân lực có chuyên môn giám định cao phục vụ cho công tác giám định tổn thất vẫn còn thiếu, dẫn đến việc một người có thể đảm nhận nhiều công việc cùng lúc. Điều này có thể dẫn đến tình trạng quá tải trong công việc hoặc không đảm bảo chất lượng công việc. Do đó trong thời gian tới Chi nhánh Hà nội cần có những điều chỉnh kịp thời để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nhằm phục vụ tốt hơn trong công việc.
2.2.2.3.2. Công tác bồi thường:
Sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm vô hình, nhà bảo hiểm cam kết sẽ bồi thường cho người tham gia bảo hiểm khi có rủi ro xảy ra gây tổn thất. Do đó, hiệu quả của công tác bồi thường như thế nào sẽ đánh giá chất lượng của sản phẩm bảo hiểm. Có tạo được lòng tin, sự tín nhiệm và mong muốn tái tục hợp đồng của khách hàng hay không chủ yếu phụ thuộc vào việc bồi thường hợp đồng có thoả đáng hay không.
Hồ sơ bồi thường nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại VNI bao gồm:
Tờ trình kiên bản thanh toán.
Thông báo tai nạn và yêu cầu bồi thường.
Phiếu xác nhận ấn chỉ gốc.
Biên bản giám định xe cơ giới.
Bảng báo giá các thiệt hại đã sửa chữa, thay thế.
Hoá đơn đỏ.
Bản sao giấy phép lái xe, chứng minh thư.
Bản sao đăng ký ô tô, kiểm định xe.
Biên nhận tiền bảo hiểm.
Ảnh chụp xe bị tai nạn.
Quy trình bồi thường tại công ty CP Bảo hiểm Hàng Không – chi nhánh Hà Nội gồm các bước sau:
Sơ đồ 5. Quy trình bồi thường nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại công ty CP bảo hiểm Hàng Không - chi nhánh Hà Nội
Tiếp nhận hồ sơ
Bổ sung
Hồ sơ
Kiểm tra và hoàn thiện hồ sơ
Tạm ứng BT
Tính toán bồi thường
Xin ý kiến
Trình duyệt bồi thường
Thông báo bồi thường
Đòi người thứ ba xử lý tài sản (nếu có)
Trường hợp phải tiến hành các thủ tục khiếu kiện tới các Cơ quan bảo vệ pháp luật (Công an, Toà án, Viện kiểm sát): Các vụ do Phòng Giám định - Bồi thường tại Chi nhánh giải quyết sẽ chuyển hồ sơ về Phòng thanh tra tiến hành; các vụ do các văn phòng khu vực trực thuộc chi nhánh giải quyết thì các VPKV phải báo cáo về Chi nhánh và thực hiện theo sự chỉ đạo của Chi nhánh.
Với quy trình bồi thường như trên, chi nhánh Hà Nội đã có những kết quả giải quyết bồi thường như sau:
Bảng 10. Tình hình bồi thường bảo hiểm vật chất xe ô tô tại VNI Hà Nội (2008- 2010)
Chỉ tiêu
ĐVT
Năm
2008
2009
2010
Số vụ khiếu nại đòi giải quyết bồi thường
Vụ
37
690
836
Số vụ năm trước chuyển sang
Vụ
-
5
15
Số vụ đã giải quyết BT
Vụ
28
664
805
Số vụ từ chối bồi thường
Vụ
4
7
15
Số vụ tồn đọng
Vụ
5
15
31
Tỷ lệ tồn đọng
%
13,51
2,16
3,64
Tỷ lệ giải quyết bồi thường
%
86,49
97,84
96,36
Số tiền bồi thường thực tế
Tr.đ
132,25
1.902,87
3.273,58
Số tiền bồi thường thực tế/ vụ
Tr.đ/vụ
4,72
2,82
4,06
Số tiền từ chối bồi thường
Tr.đ
16,72
35,14
80,7
Số tiền từ chối BT/ vụ
Tr.đ
4,18
5,02
5,38
(Nguồn: Phòng GĐ – BT & Dịch vụ khách hàng)
Dựa vào bảng số liệu trên cho thấy, trong giai đoạn 2008 – 2010 số vụ đòi khiếu nại bồi thường tăng liên tục tỷ lệ thuận với số lượng xe tham gia bảo hiểm tại Chi nhánh. Nguyên nhân chủ yếu là do số phương tiện tham gia giao thông tăng cao nhưng ý thức chấp hành luật lệ giao thông của các chủ xe, lái xe lại kém dẫn đến số vụ tai nạn ngày một tăng. Bên cạnh đó cơ sở hạ tầng kỹ thuật giao thông của thủ đô còn lạc hậu, không tương xứng, chưa có sự quy hoạch hợp lý. Mạng lưới đường thành phố chỉ đáp ứng được chừng 45% nhu cầu đi lại, nhiều tuyến đường hẹp, mật độ giao cắt cao, hệ thống tín hiệu chưa thật hợp lý. Do vậy, khả năng xảy ra tai nạn giao thông rất cao. Đây thực sự là một điều đáng lo ngại đối với các công ty bảo hiểm nói chung và VNI cũng như Chi nhánh Hà Nội nói riêng trong quá trình triển khai nghiệp vụ này. Đi đôi với việc tăng lên của số vụ tai nạn giao thông hàng năm thì số tiền bồi thường đối với nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới của VNI Hà Nội cũng tăng lên. Nếu như năm 2008 số tiền bồi thường cho nghiệp vụ bảo hiểm này mới chỉ là 132,25 triệu đồng thì con số này đã tăng lên gấp nhiều lần vào năm 2009, ở mức 1.902,87 triệu đồng và đặc biệt năm 2010 là năm có số tiền bồi thường cao nhất với 3.273,58 triệu đồng. Như vậy có thể nhận thấy, song song với việc tăng lên của doanh thu phí bảo hiểm qua các năm thì số tiền bồi thường hàng năm cũng tăng.
Số vụ được giải quyết bồi thường tại chi nhánh cũng tăng dần qua các năm. Năm 2008 là 28 vụ, năm 2009 là 664 vụ và năm 2010 là 805 vụ, như vậy khối lượng công việc của chi nhánh ngày một gia tăng song tập thể cán bộ của chi nhánh Hà Nội đã nỗ lực làm việc với tinh thần tốt nhất có thể nên tỉ lệ giải quyết bồi thường trong những năm qua luôn đạt mức cao: Năm 2008 là 86,49 %, năm 2009 là 97,84% và năm 2010 là 96,36%.
Công tác tổ chức trả tiền bồi thường cũng được tiến hành kịp thời và đa dạng hoá, các chủ xe được thanh toán tiền ngay tại cơ quan đơn vị hoặc chuyển khoản qua hệ thống ngân hàng trong cả nước. Thời gian quy định để một hồ sơ được giải quyết bồi thường là 15 ngày (kéo dài không quá 30 ngày) nhưng Chi nhánh cũng đã cố gắng giải quyết nhanh chóng trước thời hạn nhằm giúp các chủ xe khắc phục thiệt hại ổn định sản xuất kinh doanh. Từ khi triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô đến nay Chi nhánh chưa gặp một trường hợp nào khiếu nại do bồi thường sai. Điều này thể hiện tính chính xác cao trong khâu bồi thường của chi nhánh và góp phần nâng cao uy tín của công ty trên thị trường bảo hiểm.
Tuy tỉ lệ giải quyết bồi thường hàng năm khá lớn song số vụ tồn đọng hàng năm vẫn liên tục gia tăng: năm 2008 là 5 vụ, năm 2009 con số này tăng lên 15 vụ và năm 2010 là 31 vụ. Điều này có thể làm giảm lòng tin của các khách hàng có hồ sơ bị tồn đọng bởi vì việc chậm giải quyết hồ sơ bồi thường sẽ ảnh hưởng đến việc khắc phục khó khăn, ổn định lại cuộc sống, ổn định sản xuất kinh doanh của những người không may gặp rủi ro. Có hai nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng tồn đọng hồ sơ:
Thứ nhất, do số vụ tai nạn xảy ra ngày càng nhiều, số vụ phức tạp có xu hướng tăng lên dẫn đến thời gian xử lý hồ sơ kéo dài.
Thứ hai, do nguồn nhân lực của Chi nhánh còn hạn chế. Mặc dù năm 2010 vừa qua Chi nhánh đã bổ sung cho Phòng Giám định – Bồi thường & Dịch vụ khách hàng thêm 2 cán bộ song vẫn không thể giải quyết hết khối lượng công việc ngày càng đồ sộ. Bên cạnh đó, một số cán bộ vẫn còn trẻ, thiếu kinh nghiệm nên hiệu suất công việc chưa cao.
Số tiền bồi thường bình quân một vụ không đều qua các năm. Năm 2008 là 4,72 triệu đồng/vụ, năm 2009 là 2,82 triệu đồng/vụ và đến năm 2010 là triệu 4,06 triệu đồng/vụ. Điều này tùy thuộc vào tính chất của các vụ tổn thất trong các năm. Năm 2009 là năm có số tiền bồi thường bình quân nhỏ nhất trong ba năm là do hầu như các vụ tổn thất xảy ra trong năm đều không gây thiệt hại lớn về vật chất, trong khi đó năm 2010 mặc dù xảy ra một số vụ tai nạn có tính chất nghiêm trọng hơn so với 2 năm còn lại, gây thiệt hại lớn, song một số vụ tai nạn khác trong năm lại có số tiền bồi thường không đáng kể nên số tiền bồi thường bình quân năm 2010 lại nhỏ hơn so với năm 2008.
Cũng qua bảng số liệu trên có thể thấy được hiện tượng trục lợi bảo hiểm là một vấn đề rất đáng quan tâm trong những năm qua. Nếu năm 2008 số tiền bị từ chối bồi thường do phát hiện trục lợi chỉ là 16,72 triệu đồng thì năm 2009 con số này đã là 35,14 triệu đồng, tăng hơn 2 lần so với năm 2008. Con số này tiếp tục tăng lên thành 80,7 triệu đồng năm 2010. Số tiền từ chối bồi thường/vụ cũng tăng lên theo các năm: năm 2008 là 4,18 triệu đồng/vụ, năm 2009 là 5,02 triệu đồng/vụ và năm 2010 là 5,38 triệu đồng/ vụ. Điều đó cho thấy trong những năm qua hiện tượng trục lợi bảo hiểm diễn ra ngày một phổ biến và số tiền trục lợi cũng ngày càng tăng lên, đòi hỏi trình độ chuyên môn nghiệp vụ của các cán bộ giám định luôn không ngừng nâng cao cũng như sự phố hợp đồng bộ hơn nữa giữa các bộ phận trong công ty và các ban ngành chức năng khác.
2.3. Hiệu quả triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại công ty CP Bảo hiểm Hàng Không – Chi nhánh Hà Nội
Bảng 11 . Hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới của VNI Hà Nội ( 2008 – 2010)
ĐVT: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm
2008
2009
2010
Chi khai thác
56,21
635,77
701,11
Chi giám định
2,13
32,21
43,67
Chi bồi thường
132,25
1.902,87
3.273,58
Chi đề phòng hạn chế tổn thất
30,28
437,95
517,39
Chi quản lý
40,23
453,66
501,66
Chi hoa hồng
57,86
112,15
153,97
Tổng chi
318,96
3.574,61
5.191,38
Doanh thu nghiệp vụ
964,38
10.894,27
12.527,69
Lợi nhuận trước thuế
645,42
7.319,66
7.336,31
Hd
3,02
3,04
2,41
He
2,02
2,04
1,41
( Nguồn: Công ty CP Bảo hiểm Hàng Không – CN Hà Nội)
Nếu như năm 2008, một đồng chi phí bỏ ra thu được 3,02 đồng doanh thu hay 2,02 đồng lợi nhuận thì năm 2009 một đồng chi phí bỏ ra thu được 3,04 đồng doanh thu; 2,04 đồng lợi nhuận và năm 2010 một đồng chi phí bỏ ra thu được 2,41 đồng doanh thu và 1,41 đồng lợi nhuận. Như vậy năm 2009 là năm có hiệu quả kinh doanh cao nhất và năm 2010 có hiệu quả kinh doanh thấp nhất. Nguyên nhân là do năm 2010 là năm xảy ra nhiều vụ tổn thất nhất trong ba năm, trong số đó có những vụ tổn thất gây thiệt hại lớn nên số tiền bồi thường phải chi của chi nhánh năm 2010 là khá lớn so với 2 năm còn lại, bên cạnh đó các khoản chi khác như chi hoa hồng, chi quản lý, chi đề phòng và hạn chế tổn thất… đều tăng dẫn đến tổng chi của chi nhánh năm 2010 tăng vọt. Tuy nhiên xét trên tổng thể thì VNI Hà Nội cũng đã đạt được thành công khá cao trong khai thác nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới. Đây là một kết quả rất đáng khích lệ, đóng góp vào sự phát triển của chi nhánh cũng như sự phát triển chung của toàn công ty.
2.4. Đánh giá kết quả triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Công ty cổ phần bảo hiểm Hàng Không – Chi nhánh Hà Nội giai đoạn 2008 -2010
Qua phân tích trên đây ta thấy việc triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô tại VNI-Chi nhánh Hà Nội giai đoạn 2008-2010 đã được tiến hành một cách nhịp nhàng, từ khâu khai thác đến khâu giám định bồi thường đều thực hiện theo đúng quy trình do Tổng công ty cổ phần bảo hiểm Hàng Không đặt ra và đều có kế hoạch cụ thể. Nhìn chung các chỉ tiêu mà lãnh đạo Chi nhánh Hà Nội đề ra cho nghiệp vụ đều được thực hiện vượt mức kế hoạch. Như vậy, qua việc phân tích hai chỉ tiêu hiệu quả nêu trên ta thấy hiệu quả hoạt động kinh doanh nghiệp vụ của VNI- Chi nhánh Hà Nội là khá ổn định, các chỉ tiêu hiệu quả đều tăng, mặc dù lượng tăng là không đồng đều.
Như vậy qua 3 năm triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới, ta có thể tổng kết những thành công mà Công ty CP Bảo hiểm Hàng Không – chi nhánh Hà Nội đạt được như sau:
2.4.1.Những mặt đạt được
2.4.1.1. Về công tác khai thác
- Qua hơn 3 năm triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô, chi nhánh đã giúp các chủ xe thấy được lợi ích và tầm quan trọng của nghiệp vụ, hơn nữa chi nhánh đã tạo cho mình nhiều khách hàng lớn và trung thành.
- Các cán bộ khai thác của chi nhánh luôn chủ động đến từng cơ quan đơn vị của các chủ xe nhất là các chủ xe là khách hàng truyền thống để vận động họ tham gia bảo hiểm chứ không thụ động như trước đây. Thêm vào đó thái độ gần gũi của cán bộ khi tiếp xúc với khách hàng đã làm cho họ có ấn tượng tốt về chi nhánh.
- Tình hình khai thác nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới đã đạt được nhiều kết quả rất đáng ghi nhận trong thời gian qua: số lượng hợp đồng khai thác được cũng như doanh thu phí bảo hiểm của nghiệp vụ này luôn tăng trưởng với mức cao và ổn định. Nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới đã đóng góp đáng kể vào doanh thu của toàn chi nhánh trong những năm qua, trở thành một trong những nghiệp vụ được chú trọng khai thác nhất trong cơ cấu các nghiệp vụ bảo hiểm được triển khai tại chi nhánh.
2.4.1.2. Về công tác giám định bồi thường
- Chất lượng công tác giám định bồi thường đã được nâng lên một bước, việc tổ chức xét duyệt trả tiền bồi thường đã được củng cố và cải tiến. Công tác giám định bồi thường được chi nhánh tiến hành theo đúng quy trình nghiệp vụ và kịp thời đảm bảo quyền lợi cho các chủ xe.
- Các cán bộ của chi nhánh đã hướng dẫn đầy đủ những giấy tờ cần thiết cho các chủ xe khi nhận được thông báo tai nạn từ đó tạo điều kiện cho các chủ xe không phải đi lại nhiều lần.
- Việc trả tiền bồi thường được chi nhánh thực hiện ngay tại chính cơ quan đơn vị của chủ xe nhằm mang lại thuận tiện cho họ, thậm chí trước khi trả tiền cán bộ bồi thường còn gọi điện báo trước cho các chủ xe biết.
- Đối với những tổn thất không thuộc phạm vi bảo hiểm hoặc những vụ gian lận, cán bộ giám định của phòng đã từ chối ngay hoặc gửi công văn từ chối sau khi đã trình lãnh đạo chi nhánh để tránh thiệt hại cho công ty và đảm bảo tính công bằng cho mọi chủ xe tham gia bảo hiểm.
- Trình độ chuyên môn của các cán bộ giám định bồi thường ngày càng được nâng cao do đó phần lớn số vụ tai nạn được bồi thường chính xác. Trong ba năm qua đã phát hiện được nhiều vụ trục lợi bảo hiểm, giúp giảm chi phí bồi thường cho chi nhánh.
2.4.1.2. Về công tác đề phòng và hạn chế tổn thất:
Công tác đề phòng và hạn chế tổn thất được quan tâm và chú trọng đúng mức, giúp giảm thiểu khả năng xảy ra rủi ro cũng như hạn chế mức độ của tổn thất.
2.4.2. Những mặt còn hạn chế
Bên cạnh những kết quả đạt được như đã phân tích ở trên, tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại VNI - chi nhánh Hà Nội còn tồn tại một số vấn đề:
Một là, tỉ lệ khai thác nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới chưa cao, chưa tương xứng với tiềm năng của thị trường. Tốc độ khai thác thấp hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng của số xe ô tô lưu hành trên địa bàn thành phố Hà Nội. Điều này cũng cho thấy chi nhánh cần phải có thêm nhiều biện pháp hỗ trợ cho khâu khai thác hơn nữa.
Hai là, tỷ lệ bồi thường vẫn còn ở mức cao. Bên cạnh đó hiện tượng trục lợi bảo hiểm xảy ra ngày một phổ biến với mức độ ngày càng tinh vi và phức tạp. Ngoài những vụ đã được phát hiện và có đủ bằng chứng để từ chối bồi thường thì cũng có rất nhiều vụ bị nghi ngờ có gian lận nhưng không có đủ bằng chứng nên VNI Hà Nội vẫn phải tiến hành bồi thường theo thỏa thuận. Đây là một thực tế đáng lo ngại đã làm giảm hiệu quả kinh doanh của chi nhánh trong thời gian qua.
Ba là, chất lượng công tác giám định chưa đồng đều giữa các văn phòng khu vực trực thuộc chi nhánh.
Bốn là, công tác bồi thường đôi khi vẫn còn chậm trễ. Việc phối hợp giải quyết bồi thường giữa các văn phòng chưa nhịp nhàng do đó vẫn còn có hiện tượng giải quyết chậm đặc biệt đối với những vụ bồi thường trên phân cấp. Số hồ sơ tồn đọng có xu hướng gia tăng. Bên cạnh đó, thủ tục giấy tờ đôi khi vẫn còn rườm rà nên gây tâm trạng bực bội cho một bộ phận khách hàng của Chi nhánh.
Năm là, lực lượng cán bộ còn mỏng nên đôi khi chưa đáp ứng được yêu cầu của công việc. Bên cạnh đó chất lượng nguồn nhân lực cũng chưa thật sự tốt, một số cán bộ vẫn còn thiếu kinh nghiệm. Chất lượng đại lý cũng chưa thật đồng đều và còn nhiều bất cập cần điều chỉnh trong thời gian tới.
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM VẬT CHẤT XE CƠ GIỚI TẠI CÔNG TY CP BẢO HIỂM HÀNG KHÔNG – CHI NHÁNH HÀ NỘI
TRONG THỜI GIAN TỚI
3.1. Phương hướng nhiệm vụ của VNI – Chi nhánh Hà Nội
Mục tiêu của VNI- Chi nhánh Hà Nội trong thời gian tới là tiếp tục đẩy mạnh công tác khai thác, nâng cao chất lượng dịch vụ sau bán hàng, phấn đấu vượt kế hoạch mà tổng công ty trong năm 2011, đó là:
Doanh thu phấn đấu: 39 tỷ đồng
Lợi nhuận: 8,5 tỷ đồng.
Thu nhập bình quân đầu người tăng: 7%
Riêng đối với bảo hiểm vật chất xe cơ giới, chi nhánh đặt ra kế hoạch là doanh thu phí bảo hiểm đạt 14,5 tỷ tăng 15,74 % so với năm 2010. Đây là nhiệm vụ tương đối khó với VNI Hà Nội đặc biệt là trong tình hình cạnh tranh gay gắt như hiện nay tuy nhiên nó cũng phần nào thể hiện sự tin tưởng của ban lãnh đạo công ty cùng sự quyết tâm của các cán bộ chi nhánh. Hy vọng rằng trong tương lai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới không những giữ vai trò chủ đạo mà còn là nghiệp vụ mang lại hiệu quả cao nhất cho VNI Hà Nội.
Để đạt được mục tiêu trên, nhiệm vụ mà VNI- Chi nhánh Hà Nội đề ra là: áp dụng các biện pháp một cách đồng bộ trong tất cả các hoạt động từ khâu khai thác, giám định bồi thường đến công tác tổ chức đào tạo cán bộ…Cụ thể: tiếp tục duy trì khách hàng cũ đặc biệt là khách hàng lớn và khách hàng truyền thống, đẩy mạnh khai thác khách hàng mới, chú trọng vào các cơ quan Bộ, ngành, Tổng công ty; tăng cường mối quan hệ với các đầu mối như phòng CSGT, cục Thuế Hà Nội, cục Đăng kiểm Việt Nam, các Showroom và các ngân hàng trên địa bàn thành phố. Ngoài ra công ty đặt ra nhiệm vụ phải đổi mới tác phong phục vụ khách hàng, nâng cao chất lượng công tác tài chính kế toán, công tác tin học thống kê, công tác hành chính quản trị nhằm phát huy tối đa lợi thế hiện có và tăng khả năng cạnh tranh của công ty trên thị trường bảo hiểm. Đây là nhiệm vụ tương đối khó với VNI - Chi nhánh Hà Nội, đặc biệt trong tình hình cạnh tranh gay gắt như hiện nay tuy nhiên nó cũng khẳng định phần nào sự tin tưởng của ban lãnh đạo công ty vào năng lực và sức sáng tạo của toàn thể cán bộ trong Chi nhánh trước những khó khăn thách thức mới.
3.2. Một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Công ty Cổ phần Bảo hiểm Hàng Không – Chi nhánh Hà Nội trong thời gian tới
3.2.1. Một số kiến nghị
3.2.1.1. Đối với cơ quan chức năng:
+ Thị trường bảo hiểm Việt Nam ngày càng phát triển và hoàn thiện với sự gia nhập của nhiều công ty bảo hiểm. Do vậy, đòi hỏi cần có một hành lang pháp lý thông thoáng, phù hợp để tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh. Xuất phát từ thực tế đó, Nhà nước đã ban hành luật kinh doanh bảo hiểm vào năm 2000 và có hiệu lực từ ngày 1/4/2001. Tuy nhiên, đây chỉ là văn bản mang tính nền tảng đối với lĩnh vực còn khá mới mẻ này. Trong thực tế hoạt động, còn rất nhiều vấn đề mà luật kinh doanh bảo hiểm còn chưa đề cập đến hoặc chỉ mới đề cập sơ lược. Do đó, đòi hỏi Nhà nước cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo hiểm, ban hành nhiều văn bản pháp lý quy định cụ thể hơn.
+ Một thực tế đang diễn ra, có rất nhiều các công ty bảo hiểm vì cạnh tranh đã có những biện pháp không lành mạnh. Đặc biệt là hiện tượng giảm phí bảo hiểm một cách tuỳ tiện không theo khung chuẩn của bộ tài chính để thu hút khách hàng gây mất ổn định cho thị trường bảo hiểm. Giảm phí quá mức làm cho thu không đủ chi dẫn đến việc bồi thường bị trì trệ hoặc không có khả năng bồi thường gây ảnh hưởng lớn tới quyền lợi và lợi ích của khách hàng. Do vậy, nhà nước cần có những quy định và xử phạt nghiêm khắc đối với những trường hợp vi phạm pháp luật bảo hiểm này.
+ Các cơ quan quản lý giao thông cần phải có những biện pháp quản lý chặt chẽ hơn nữa trong công tác cấp đăng ký, giấy phép lưu hành xe, công tác kiểm định xe. Hiện nay, vẫn còn tồn tại một số lượng không nhỏ các xe ô tô đã quá thời hạn sử dụng từ lâu, chất lượng không đảm bảo nhưng vẫn đang được lưu hành. Đây là nguồn nguy cơ tiền ẩn có khả năng dẫn đến rủi ro rất cao. Các cơ quan chức năng cần cương quyết xoá bỏ những chiếc xe này vì nó không chỉ gây ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh bảo hiểm mà còn ảnh hưởng đến việc ổn định trật tự an toàn xã hội.
+ Nhà nước cần tích cực tuyên truyền an toàn giao thông trên các phương tiện thông tin đại chúng, lắp đặt các biển báo, tín hiệu giao thông giúp người dân tiếp cận và hiểu biết về trật tự an toàn giao thông và từ đó nâng cao ý thức khi tham gia giao thông.
+ Tăng cường đầu tư xây dựng hệ thống công trình giao thông, nâng cấp và hoàn thiện cơ sở hạ tầng; đặc biệt là ở các thành phố lớn nơi có mật độ dân cư và phương tiện qua lại đông.
+ Trục lợi bảo hiểm (TLBH) là hành vi diễn ra ngày càng phổ biến với cấp độ ngày càng tinh vi, gây thiệt hại không nhỏ cho các công ty bảo hiểm mỗi năm, trong khi đó ở nước ta chế tài xử lý các hành vi TLBH còn quá thiếu. Theo nghị định về xử phạt hành chính, hành vi TLBH chỉ bị cảnh cáo hoặc phạt tối đa 10 triệu đồng. Bộ luật Hình sự chưa có điều luật nào quy định cụ thể về tội TLBH. Kẻ TLBH chỉ bị xử với các tội danh liên quan như tham ô, hối lộ, chiếm đoạt tài sản... Chính vì hành lang pháp lý chưa đầy đủ nên nhiều vụ TLBH chưa được điều tra và xét xử nghiêm khắc, do vậy không có tính răn đe. Nếu không có ngay những giải pháp phòng chống hiệu quả, hiện tượng TLBH sẽ gây ra những thiệt hại to lớn, kìm hãm sự phát triển của nền công nghiệp bảo hiểm còn rất non trẻ ở nước ta. Nhằm phòng chống TLBH một cách có hiệu quả, cần tiến hành nhiều giải pháp đồng bộ:
- Thứ nhất, về phía các doanh nghiệp bảo hiểm, phải tăng cường kiểm tra giám sát nội bộ, quản lý chặt các đại lý, không ngừng trao đổi thông tin giữa các doanh nghiệp bảo hiểm với nhau, duy trì chặt chẽ mối quan hệ với khách hàng, làm tốt công tác tuyên truyền để người dân và các tổ chức không tham gia TLBH.
- Thứ hai, về phía các cơ quan chức năng, cũng cần phải thường xuyên giám sát tài chính và hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm, hoàn thiện các chế tài xử phạt nghiêm khắc từ cấp vĩ mô cũng như cụ thể... Phải làm sao để các hành vi TLBH bị lên án về mặt đạo đức, trừng trị nghiêm khắc về mặt luật pháp.
3.2.1.2. Đối với công ty cổ phần Bảo hiểm Hàng Không – chi nhánh Hà Nội
- Tăng cường hơn nữa hình thức tuyên truyền, quảng cáo về loại hình bảo hiểm vật chất xe cơ giới cho mọi người dân trong xã hội bởi vì trên thực tế chúng ta thấy việc quảng cáo mới chỉ được sử dụng phổ biến đối với các loại hình bảo hiểm nhân thọ mà hầu như chưa thấy thực hiện cho các sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ. Quảng cáo là một công cụ truyền thông có tính kinh tế cao hơn so với bán hàng cá nhân vì nó tiếp cận được với số lượng khách hàng tiềm năng lớn hơn. Ngoài ra, quảng cáo sẽ giúp hình ảnh của VNI trở nên quen thuộc hơn với đông đảo công chúng hơn.
- VNI Hà Nội cần phải xây dựng một chiến lược khai thác phù hợp để thu hút ngày càng nhiều khách hàng hơn nữa. Chi nhánh cần phải xác định được vị trí, uy tín của mình trên thị trường; phát huy những mặt mạnh, hạn chế, khắc phục những mặt yếu; phải thường xuyên tổng hợp thông tin thị trường, thông tin về đối thủ cạnh tranh để từ đó đưa ra chiến lược kinh doanh hợp lý. Mặt khác, Chi nhánh cần phải tổ chức nghiên cứu nhu cầu của khách hàng, của thị trường mục tiêu, tìm ra những ưu - nhược điểm của sản phẩm mà mình cung cấp để từ đó nâng cao chất lượng sản phẩm, thu hút khách hàng.
- Cần phân loại khách hàng thành các nhóm đối tượng khác nhau (khách hàng là cá nhân hay đơn vị, khai thác trực tiếp hay thông qua ngân hàng…) để có những chính sách ưu đãi phù hợp với từng nhóm đối tượng đó.
- Hoàn thiện và tiến tới xây dựng một hệ thống đại lý hoạt động có hiệu quả, chú ý công tác tuyển dụng đại lý sao cho không đơn thuần chỉ là người bán bảo hiểm mà còn hội tụ đủ năng lực chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt. Những đại lý này khi khai thác bảo hiểm sẽ có đủ tự tin để giải thích rõ về nghiệp vụ bảo hiểm cho khách hàng và hướng dẫn họ những thủ tục cần thiết để được hưởng quyền lợi bảo hiểm khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra. Bên cạnh đó cần thường xuyên mở các lớp tập huấn nâng cao trình độ chuyên môn cho các cán bộ, nhân viên và các cộng tác viên. Ngoài ra, Chi nhánh phải thường xuyên giám sát hiệu quả hoạt động của các nhân viên, đại lý để từ đó đúc kết những kinh nghiệm giúp cho hoạt động ngày một hiệu quả hơn.
- Đặc điểm quan trọng của nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới là tái tục theo định kì (thường là 1 năm). Tuy nhiên, trong thời gian hợp đồng có hiệu lực các khai thác viên rất ít khi tiếp xúc với khách hàng chỉ trừ trường hợp tai nạn xảy ra. Do vậy, các sổ sách thống kê rất cần được coi trọng để khai thác viên có thể theo dõi và thuyết phục khách hàng tái tục hợp đồng kịp thời. Bên cạnh đó, công ty cần có chế độ hậu mãi, chăm sóc khách hàng thật tốt để giữ chân khách hàng. Hơn nữa, đối với những khách hàng tham gia với số lượng lớn, dài kỳ hay trong thời gian dài không xảy ra tai nạn công ty nên tính toán giảm phí.
3.2.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Công ty CP Bảo hiểm Hàng Không – Chi nhánh Hà Nội trong thời gian tới
3.2.2.1. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động khai thác
- Nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới luôn có sự đóng góp không nhỏ của đội ngũ đại lý, cộng tác viên. Do đó VNI cũng như Chi nhánh Hà Nội cần tổ chức và sử dụng tốt mạng lưới đại lý (tập thể, cá nhân, chuyên nghiệp và bán chuyên nghiệp) và đội ngũ cộng tác viên nhằm phủ kín địa bàn. Bên cạnh đó Chi nhánh cũng cần chú trọng hơn nữa công tác tuyển dụng đại lý, đào tạo đại lý không những giỏi về chuyên môn nghiệp vụ mà còn có phẩm chất đạo đức tốt. Đồng thời có chính sách hoa hồng, tiền thưởng thỏa đáng đối với đại lý giỏi, làm việc có hiệu quả nhằm giữ họ ở lại lâu dài và hết mình phục vụ công ty, tránh để các đối thủ cạnh tranh lôi kéo các đại lý đó về phía họ.
- Tổ chức các lớp học ngắn hạn có mời các chuyên gia trong lĩnh vực bảo hiểm vật chất xe cơ giới để nâng cao trình độ cho các cán bộ trong công ty cả khâu khai thác lẫn khâu giám định và xét giải quyết bồi thường.
- Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt như hiện nay, việc quản lý khách hàng và giữ vững mối quan hệ rất quan trọng nên cần tập trung duy trì những khách hàng cũ đặc biệt là những khách hàng lớn và khách hàng truyền thống.
- Phát triển và mở rộng mối quan hệ với hệ thống các ngân hàng, các công ty cho thuê tài chính, các hãng bán xe ô tô, các đại lý ủy quyền, các Showroom để
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- khoa luan tot nghiep2.doc