Tài liệu Đề tài Thực trạng triển khai bảo hiểm xã hội ở Việt Nam: Bài tập lớn nhóm 1
Đề bài: “Thực trạng triển khai bảo hiểm xã hội ở Việt Nam”
Thành viên nhóm: 41 bạn đầu trong danh sách
Phần I: Cơ sở lý thuyết
Lịch sử BHXH
1. Lịch sử BHXH thế giới
Các chế độ của bảo hiểm xã hội đã hình thành khá lâu truớc khi xuất hiện thuật ngữ an sinh xã hội. Hệ thống bảo hiểm xã hội đầu tiên được thiết lập tại nước Phổ (nay là Cộng hòa Liên bang Đức) dưới thời của Thủ tướng Bismarck (1850) và sau đó được hoàn thiện (1883-1889) với chế độ bảo hiểm ốm đau; bảo hiểm rủi ro nghề nghiệp; bảo hiểm tuổi già, tàn tật và sự hiện diện của cả ba thành viên xã hội: người lao động; người sử dụng lao động và Nhà nước. Kinh nghiệm về bảo hiểm xã hội ở Đức, sau đó, được lan dần sang nhiều nước trên thế giới, đầu tiên là các nước châu Âu (Ý: 1919, Pháp: từ 1918 ...), tiếp đến là các nước châu Mỹ Latinh, Hoa Kỳ, Canada (từ sau 1930) và cuối cùng là các nước châu Phi, châu Á (giành độc lập sau chiến tranh thế giới lần thứ 2).
2. Lịch sử phát triển BHXHVN
BHXH được thực hi...
43 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1405 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Thực trạng triển khai bảo hiểm xã hội ở Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bài tập lớn nhóm 1
Đề bài: “Thực trạng triển khai bảo hiểm xã hội ở Việt Nam”
Thành viên nhóm: 41 bạn đầu trong danh sách
Phần I: Cơ sở lý thuyết
Lịch sử BHXH
1. Lịch sử BHXH thế giới
Các chế độ của bảo hiểm xã hội đã hình thành khá lâu truớc khi xuất hiện thuật ngữ an sinh xã hội. Hệ thống bảo hiểm xã hội đầu tiên được thiết lập tại nước Phổ (nay là Cộng hòa Liên bang Đức) dưới thời của Thủ tướng Bismarck (1850) và sau đó được hoàn thiện (1883-1889) với chế độ bảo hiểm ốm đau; bảo hiểm rủi ro nghề nghiệp; bảo hiểm tuổi già, tàn tật và sự hiện diện của cả ba thành viên xã hội: người lao động; người sử dụng lao động và Nhà nước. Kinh nghiệm về bảo hiểm xã hội ở Đức, sau đó, được lan dần sang nhiều nước trên thế giới, đầu tiên là các nước châu Âu (Ý: 1919, Pháp: từ 1918 ...), tiếp đến là các nước châu Mỹ Latinh, Hoa Kỳ, Canada (từ sau 1930) và cuối cùng là các nước châu Phi, châu Á (giành độc lập sau chiến tranh thế giới lần thứ 2).
2. Lịch sử phát triển BHXHVN
BHXH được thực hiện ở Việt Nam từ năm 1945 và đã trải qua nhiều lần bổ sung, sửa đổi đặc biệt trong các năm 1961, 1985 và 1995.
Từ năm 1975 thì chính sách BHXH được thực hiện thống nhất trong cả nước. Chế độ BHXH bao gồm: trợ cấp hưu trí, mất sức lao động và tử tuất, cùng với các chế độ ốm đau, thai sản và tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp do cơ quan, đơn vị và doanh nghiệp đóng góp.
Giai đoạn 1: Thời kỳ trước khi có Điều lệ tạm thời về bảo hiểm xã hội (trước 1961)
Nhìn chung giai đoạn này các chế độ bảo hiểm xã hội chưa được quy định một cách toàn diện, quỹ bảo hiểm xã hội chưa được hình thành. Tuy nhiên, các chế độ trợ cấp, phụ cấp mang tính chất bảo hiểm xã hội trong giai đoạn đầu thành lập nước, trong kháng chiến và những năm đầu hoà bình lập lại đã có tác dụng rất to lớn, giải quyết một phần những khó khăn trong sinh hoạt của công nhân viên chức Nhà nước và gia đình họ, củng cố thêm lòng tin của nhân dân vào Đảng, Chính phủ và làm cho mọi người an tâm, phấn khởi đẩy mạnh công tác, sản xuất, thu hút lực lượng lao động vào khu vực kinh tế Nhà nước.
Giai đoạn 2: Thời kỳ thực hiện điều lệ bảo hiểm xã hội tạm thời (từ 1961 đến 12/1994):
Trong giai đoạn này tuy qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung nhưng xét về bản chất thì bảo hiểm xã hội vẫn giữ nguyên những đặc trưng cơ bản
Năm 1961, một Nghị định của Chính phủ được ban hành để cung cấp các dịch vụ phúc lợi xã hội cho tất cả các cán bộ, viên chức làm việc trong ngành nội chính, giáo dục, y tế, các doanh nghiệp Nhà nước, nội vụ. Hệ thống này chỉ chịu trách nhiệm bảo hiểm cho khoảng 600.000 - 700.000 người trên tổng số dân là 17 triệu người của miền Bắc Việt Nam (theo số liệu năm 1962). Năm 1964 Nghị định 218 thực hiện BHXH cho quân nhân.
Từ năm 1975 thì chính sách BHXH được thực hiện thống nhất trong cả nước. Chế độ BHXH bao gồm: trợ cấp hưu trí, mất sức lao động và tử tuất, cùng với các chế độ ốm đau, thai sản và tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp do cơ quan, đơn vị và doanh nghiệp đóng góp.
Tóm lại: Trong suốt thời kỳ lịch sử của đất nước từ khi Nhà nước Cộng hoà dân chủ Việt Nam ra đời đến hết năm 1994, tuỳ thuộc vào đặc điểm của từng giai đoạn, Về cơ bản, chính sách bảo hiểm xã hội trong thời kỳ này đã hoàn thành cơ bản nhiệm vụ và sứ mệnh của mình trong một thời kỳ dài, nó đã góp phần ổn định cuộc sống, đảm bảo thu nhập cho hàng triệu cán bộ công nhân viên chức đang làm việc được yên tâm công tác, chiến đấu và bảo vệ Tổ quốc; hàng 1 triệu người lao động khi già yếu được đảm bảo về vật chất và tinh thần, cũng như gia đình họ bằng trợ cấp bảo hiểm xã hội hoặc lương hưu, đồng thời góp phần to lớn trong việc đảm bảo ổn định xã hội và an toàn xã hội.
Giai đoạn 3: Thời kỳ từ 1/1995 đến nay:
Trong quá trình thực hiện theo những quy định của Điều lệ bảo hiểm xã hội từ năm 1995 đến nay, chính sách bảo hiểm xã hội đã có những sửa đổi, bổ sung, chính sách bảo hiểm xã hội cũng được xem xét, nghiên cứu thay đổi sao cho phù hợp không những so với tình hình đổi mới kinh tế của đất nước mà dần hoà nhập với những quy định, những nguyên tắc của bảo hiểm xã hội thế giới và nhất là các nước trong nền kinh tế chuyển đổi.
Trước năm 1995, BHXH do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chịu trách nhiệm quản lý thực hiện về các chế độ trợ cấp dài hạn (hưu trí, tử tuất, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp đối với người nghỉ việc), Tổng Liên đoàn Lao động chịu trách nhiệm quản lý thực hiện các khoản chi trả trợ cấp ngắn hạn (trợ cấp đau ốm, thai sản và tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp đối với người đang làm việc).
Từ tháng 01/1995, Bộ Luật Lao động có hiệu lực, trong đó có chương XII về BHXH. Để hướng dẫn thực hiện Bộ Luật Lao động, ngày 16/02/1995 Chính phủ ban hành Nghị định số 19/CP của Chính phủ thành lập hệ thống BHXH Việt Nam để giúp Thủ tướng Chính phủ tổ chức thực hiện các chính sách, chế độ về BHXH, BHYT và quản lý quỹ BHXH. Ngày 26/01/1995 Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 12/CP về điều lệ BHXH đối với dân sự với 5 chế độ BHXH: chế độ trợ cấp ốm đau; trợ cấp thai sản; trợ cấp tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp; chế độ hưu trí và chế độ trợ cấp tử tuất. Và ngày 15/07/1995, Chính phủ ban hành Nghị định số 45 quy định về BHXH đối với quân sự (quân đội, công an). Trong 2 nghị định của Chính phủ có quy định về hình thành quỹ BHXH trên cơ sở thu BHXH bao gồm người sử dụng lao động đóng 15% quỹ tiền lương và người lao động đóng 5% tiền lương hàng tháng. Quỹ này được sử dụng để chi cho 5 chế độ trên. Quỹ BHXH được bảo tồn, tăng trưởng và được Nhà nước bảo hộ.
Ngày 24/01/2002, Chính phủ có Quyết định số 20/2002/QĐTTg chuyển hệ thống BHYT trực thuộc Bộ Y tế sang BHXH Việt Nam và ngày 06/12, Chính phủ ra Nghị định 100/NĐCP quyết định chức năng nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của BHXH (bao gồm cả BHYT).
BẢO HIỂM XÃ HỘI
Bản chất và chức năng của bảo hiểm xã hội.
Bản chất.
Bảo hiểm là nhu cầu khách quan, đa dạng và phong phú của xã hội: BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với người lao động khi họ gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trên cơ sở hình thành và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ góp phần đảm bảo an toàn xã hội. Kinh tế là nền tảng của BHXH hay BHXH không vượt quá trạng thái kinh tế của mỗi nước.
Mối quan hệ giữa các bên trong BHXH phát sinh trên cơ cở quan hệ lao động và diễn ra giữa ba bên : bên tham gia bảo hiểm, bên bảo hiểm xã hội và bên được bảo hiểm xã hội.
Những rủi ro có thể xảy ra trong và ngoài quá trình lao động: có thể là rủi ro ngẫu nhiên và rủi ro không ngẫu nhiên.
Phần thu nhập của người lao động bị giảm sút hoặc mất đi khi gặp phải rủi ro và được bù đắp bằng một nguồn quỹ do bên tham gia BHXH đóng góp là chủ yếu, ngoài ra còn được sự hỗ trợ của Nhà nước.
Mục tiêu của BHXH là nhằm thỏa mãn những nhu cầu thiết yếu của người lao động khi gặp rủi ro.
=> BHXH đã trở thành một trong những quyền con người và được LHQ thừa nhận và ghi vào Tuyên ngôn Nhân quyền ngày 10/12/1948.
Ở nước ta, BHXH là một bộ phận quan trọng trong chính sách an sinh xã hội.
Chức năng
Thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động tham gia bảo hiểm khi họ gặp rủi ro.
Tiến hành phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia BHXH, góp phần thực hiện công bằng xã hội.
Góp phần kích thích người lao động hăng hái lao động sản xuất nâng cao năng suất lao động cá nhân và năng suất lao động xã hội.
Gắn bó lợi ích giữa người lao động và người sử dụng lao động giữa người lao động với xã hội.
Nguyên tắc và tính chất của bảo hiểm xã hội.
Nguyên tắc.
Mọi người lao động đều có quyền tham gia và hưởng trợ cấp BHXH.
Mức hưởng trợ cấp BHXH phải tương quan với mức đóng góp.
Nguyên tắc số đông bù số ít.
Nhà nước thống nhất quản lí BHXH.
Kết hợp hài hòa các lợi ích các mục tiêu và phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội củ đất nước .
Tính chất.
Tất yếu khách quan trong đời sống xã hội.
Tính kinh tế, xã hội và dịch vụ.
Tính ngẫu nhiên phát sinh không đồng đều theo thời gian và không gian.
Đối tượng và đối tượng tham gia BHXH.
Phân biệt đối tượng và đối tượng tham gia bảo hiểm.
Đối tượng tham gia BHXH là người lao động và người sử dụng lao động. Nhưng tùy thuộc vào từng nước mà đối tượng này có thể là tất cả hay một phần những người lao động nào đó.
Đối tượng của BHXH chính là thu nhập của người lao động bị biến động giảm hoặc mất đi do bị giảm hoặc mất khả năng lao động mất việc làm của những người tham gia BHXH.
Mối quan hệ ba bên:
Người lao động cung cấp sức lao động cho người sử dụng lao động
Người sử dụng LĐ trả lương và trợ cấp cho NLĐ.
Cà NLĐ và người sử dụng LĐ đều đóng phí BHXH và có thể nhận trợ cấp từ cơ quan BHXH
Những quan điểm cơ bản về BHXH.
Chính sách BHXH là một bộ phận cấu thành và là bộ phận quan trọng nhất trong chính sách xã hội.
Người sử dụng lao động phải có trách nhiệm và nghĩa vụ bảo hiểm xã hội cho người lao động.
Người lao động được bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi đối với BHXH.
Mức trợ cấp BHXH phụ thuộc vào nhiều yếu tố.
Nhà nước quản lí thống nhất chính sách BHXH và tổ chức bộ máy thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội.
Hệ thống các chế độ BHXH.
Chính sách bảo hiểm xã hội là một trong những chính sách xã hội cơ bản nhất của mỗi quốc gia. Nó là những quy định chung khái quát cả về đối tượng phạm vi các mối quan hệ và những giải pháp lớn nhằm đạt được mục tiêu chung. Chính sách này có thể biểu hiện dưới dạng các văn bản pháp luật, hiến pháp…song lại rất khó thực hiện nếu không được cụ thể hóa và không thong qua các chế độ BHXH.
Chế độ BHXH là sự cụ thể hóa chính sách BHXH, là hệ thống các quy định cụ thể và chi tiết, là sự bố trí sắp xếp các phương tiện để thực hiện BHXH đối với người lao động. Chế độ BHXH thường dưới dạng văn bản pháp luật dưới luật, các thông tư, điều lệ,...Khi thực hiện mỗi chế độ thường phải nắm giữ vững những vấn đề mang tính cốt lõi của chính sách BHXH, để đảm bảo tính đúng đắn và nhất quán trong toàn bộ hệ thống các chế độ BHXH.
BHXH bao gồm 9 chế độ (Theo khuyến nghị của ILO )
1.Chăm sóc y tế
2.Trợ cấp ốm đau
3. Trợ cấp thất nghiệp
4.Trợ cấp tuổi già
5.Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
6.Trợ cấp gia đình
7.Trợ cấp sinh đẻ
8.Trợ cấp khi tàn phế
9.Trợ cấp cho người còn sống (trợ cấp mất người nuôi dưỡng).
Tùy điều kiện mỗi nước tham gia công ước Giơ-ne-vơ thực hiện nhưng phải có ít nhất 3 chế độ, trong đó ít nhất phải có một trong 5 chế độ:
Trợ cấp thất nghiệp
Trợ cấp tuổi già
Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
Trợ cấp khi tàn phế
Trợ cấp mất người thân
Quỹ bảo hiểm xã hội.
Khái niệm và đặc điểm.
Khái niệm:
Quỹ BHXH là qũy tài chính độc lập tập trung nằm ngoài ngân sách nhà nước. Quỹ có mục đích và chủ thể riêng. Mục đích tạo lập quỹ là dùng để chi trả cho người lao động, giúp họ ổn định cuộc sống khi gặp các biến cố hoặc rủi ro. Chủ thể của quỹ BHXH chính là những người tham gia đóng góp để hình thành nên quỹ, do đó có thể bao gồm cả: người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước.
Đặc điểm:
- Quỹ ra đời tồn tại và phát triền gắn với mục đích đảm bảo ổn định cuộc sống cho người lao động và gia đình họ khi họ gặp rủi ro. Nguyên tắc quản lí quỹ BHXH: cân bằng thu- chi.
- Phân phối quỹ BHXH vừa mang tính chất hoàn trả vừa mang tính chất không hoàn trả.
- Quá trình tích lũy để bảo tồn giá trị và bảo đảm an toàn về tài chính đối với quỹ BHXH là một vấn đề mang tính nguyên tắc. Bảo tồn giá trị và tăng trưởng quỹ BHXH đã trở thành yêu cầu mang tính nguyên tắc trong quá trình hoạt động của BHXH.
- Quỹ BHXH là hạt nhân là nội dung vật chất của tài chính BHXH. Tài chính BHXH, Ngân sách Nhà nước và tài chính doanh nghiệp có quan hệ chặt chẽ với nhau và đều chịu sự chi phối của pháp luật Nhà nước.
- Sự ra đời tồn tại và phát triển quỹ BHXH phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế xã hội và điều kiện lịch sử trong từng thời kì nhất định.
2. Nguồn hình thành quỹ BHXH
Quỹ BHXH được hình thành từ các nguồn:
- Người sử dụng lao động đóng góp
- Người lao động đóng góp
- Nhà nước đóng góp và hỗ trợ thêm
- Các nguồn khác ( cá nhân, tổ chức từ thiện, lãi do đầu tư quỹ nhàn rỗi )
So sánh quỹ BHXH và ngân sách nhà nước:
Quỹ bảo hiểm xã hội
Ngân sách nhà nước
Ra đời , tồn tại và phát triển gắn với kinh tế hàng hóa, với mối quan hệ thuê mướn nhân công
Ra đời , tồn tại và phát triển gắn với Nhà nước, thực hiện các chức năng nhiệm vụ của nhà nước
Quan hệ phân phối có tính pháp lý thấp hơn ngân sách nhà nước.
Quan hệ phân phối có tính pháp lý cao, dựa vào quyền lực của nhà nước.
Phải tham gia mới được hưởng quyền lợi, quan tâm tới lợi ích của các bên tham gia trước sau đó mới tới lợi ích xã hội
Phân phối lại, không mang tính hoàn trả trực tiếp, phản ánh lợi ích xã hội
Cách xác định phí BHXH:
Phí BHXH được tính theo công thức:
P = f1 + f2 + f3
f1: phí thuần túy trợ cấp BHXH
f2: phí dự phòng
f3: phí quản lý
3. Sử dụng quỹ BHXH
Mục đích của quỹ
- Chi trả trợ cấp cho các chế độ BHXH: Là mục chi lớn nhất và quan trọng nhất; thu ở chế độ nào thì chi ở chế độ đó
- Chi đầu tư tăng quỹ BHXH:
Điều96. Nguyên tắc đầu tư
Hoạt động đầu tư từ quỹ bảo hiểm xã hội phải bảo đảm an toàn, hiệu quả và thu hồi được khi cần thiết.
Điều 97. Các hình thức đầu tư
1. Mua Nhà nước, của ngân hàng thương trái phiếu, tín phiếu, công trái của mại của Nhà nước.
2. Cho ngân hàng thương mại của Nhà nước vay.
3. Đầu tư vào các công trình kinh tế trọng điểm quốc gia.
4. Các hình thức đầu tư khác do Chính phủ quy định
- Chi phí cho quản lý BHXH: Bao gồm : tiền lương cho những người làm việc trong hệ thống BHXH; khấu hao tài sản cố định, văn phòng phẩm, một số khoản chi khác...
Quỹ BHXH được quản lý theo cơ chế cân bằng thu chi, phần quỹ nhàn rỗi phải được đầu tư tăng trưởng để đảm bảo an toàn quỹ.
Phần 2 : Thực trạng, nguyên nhân, hạn chế
Thực trạng triển khai BHXH ở Việt Nam
Theo khuyến nghị của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) trong công ước 102 tháng 6/1952 tại Giơnevơ, quỹ BHXH được sử dụng để trợ cấp cho:
- Chăm sóc y tế
- Trợ cấp ốm đau
- Trợ cấp thất nghiệp
- Trợ cấp tuổi già
- Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
- Trợ cấp gia đình
- Trợ cấp sinh đẻ
- Trợ cấp khi tàn phế
- Trợ cấp cho người còn sống (trợ cấp mất người nuôi dưỡng)
Còn theo điều 2 Điều lệ BHXH Việt Nam, BHXH nước ta hiện nay bao gồm 5 chế độ:
- Trợ cấp ốm đau
- Trợ cấp thai sản
- Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
- Trợ cấp hưu trí
- Trợ cấp tử tuất
1. Khái quát chung
Tính đến ngày 30/9/2011, số người tham gia bảo hiểm xã hội (BHXH), bảo hiểm y tế (BHYT) là 55.125.835 người, tăng 338.345 người (tăng 0,62%) so với tháng 8/2011, trong đó số người tham gia BHXH, BHYT bắt buộc là 9.847.547 người (trong đó: có 7.674.716 người tham gia bảo hiểm thất nghiệp); tham gia BHXH tự nguyện là 88.966 người; chỉ tham gia BHYT: 45.189.322 người.Trong tháng 9, toàn Ngành thu được 9.707,9 tỷ đồng, đưa số thu từ đầu năm lên 65.910,4 tỷ đồng, đạt 78,87% so với kế hoạch Thủ tướng giao, đạt 75% so với kế hoạch Ngành giao (tăng 16,48% so với cùng kỳ năm 2010).Tháng 9/2011, BHXH Việt Nam đã cấp 8.048,5 tỷ đồng để chi BHXH, BHYT, đưa số kinh phí cấp từ đầu năm đến hết tháng 8/2011 lên 72.703,9 tỷ đồng. Trong tháng, toàn Ngành cũng chi 9.342 tỷ đồng, đưa số chi từ đầu năm lên 73.324,8 tỷ đồng,Tháng 9, toàn Ngành giải quyết 64.472 lượt người hưởng chế độ BHXH tăng 3,6% so với tháng 8/2011, bao gồm: 10.806 người hưởng BHXH hàng tháng, 53.666 lượt người hưởng trợ cấp 1 lần đưa số lũy kế từ đầu năm đến 30/9/2011 toàn Ngành giải quyết 521.495 lượt ngườiTuy nhiên, trong quá trình thực hiện, các đơn vị vẫn còn một số hạn chế nhất định cần phải khắc phục. Một số đơn vị chưa chú trọng đến công tác kiểm tra việc thực hiện chuyên môn nghiệp vụ tại BHXH các địa phương, kịp thời phát hiện sai sót để chấn chỉnh. Việc rà soát để sửa đổi, bổ sung ban hành đồng bộ văn bản hướng dẫn nghiệp vụ về công tác thu, cấp sổ BHXH, thẻ BHYT, chi, giải quyết chế độ chính sách BHXH theo Nghị quyết số 49/NQ-CP ngày 09/12/2010 của Chính phủ về đơn giản hoá các thủ tục thuộc thẩm quyền giải quyết của BHXH Việt Nam của các đơn vị còn chậm, chưa đáp ứng yêu cầu. Việc thực hiện các chương trình, đề án, dự án trọng tâm và kết luận của Tổng Giám đốc chưa đảm bảo tiến độ.Hoạt động của BHXH các địa phương nhiều khởi sắcBHXH các tỉnh, thành phố có nhiều cố gắng trong việc đôn đốc các đơn vị đóng BHXH, BHYT kết quả tăng so với cùng kỳ năm trước. Tính đến 30/9/2011, kết quả thu của 63/63 BHXH tỉnh, thành phố đảm bảo tiến độ theo yêu cầu của Ngành (đạt 70% trở lên) tại Bảng điểm thi đua ban hành kèm theo Quyết định số 1038/QĐ-BHXH ngày 10/10/2011 của BHXH Việt Nam. 49 địa phương có tỷ lệ thu đạt trên mức bình quân chung của toàn Ngành (75%). Tổng Giám đốc biểu dương 09 địa phương có tỷ lệ thu cao là: Hậu Giang 85,15%, Bắc Giang 85,01%, Đắk Nông 84,54%, Quảng Nam 83,58%, Tiền Giang 83,55%, Kiên Giang 83,51%, Thừa Thiên - Huế 83,01%, Phú Yên 82,93% và Lạng Sơn 82,69%.BHXH các tỉnh, thành phố thực hiện cấp thẻ BHYT cho các đối tượng và cho học sinh, sinh viên tham gia BHYT năm học 2011 - 2012 đảm bảo, kịp thời, tạo thuận lợi cho người tham gia được KCB theo quy định.Ngoài việc chi trả lương hưu, trợ cấp và giải quyết chế độ BHXH đầy đủ, kịp thời, đảm bảo quyền lợi cho người tham gia, BHXH các tỉnh, thành phố tiếp tục giải quyết chế độ trợ cấp hàng tháng cho những người đã hết hạn hưởng chế độ mất sức lao động theo Quyết định 613/QĐ-TTg ngày 06/5/2010 của Thủ tướng Chính phủ. Trong tháng, BHXH các tỉnh, thành phố tiếp tục phối hợp với cơ sở y tế tăng cường kiểm tra, kiểm soát chi phí KCB nhằm đảm bảo quyền lợi cho bệnh nhân BHYT và hạn chế tình trạng lạm dụng.Tuy nhiên, công tác in tờ rời sổ BHXH hàng năm của một số BHXH các tỉnh, thành phố còn chưa kịp thời. Năm 2009, số tờ rời sổ BHXH đã in là 3.260.701/7.813.072 tờ đạt 42% so với tổng số tờ rời cần in, trong đó có 16 địa phương hoàn thành việc in tờ rời sổ BHXH. Năm 2010, số tờ rời sổ BHXH đã in là 3.271.694/8.449.488 tờ đạt 39% tổng số tờ rời cần in, trong đó có 9 địa phương hoàn thành việc in tờ rời sổ BHXH. Đặc biệt còn một số địa phương tỷ lệ in tờ rời còn dưới 10%.thu hồi nợ đọng và khởi kiện các DN chiếm dụng tiền BHXHTình trạng nợ đọng vẫn còn rất nghiêm trọng và việc khởi kiện chưa được tiến hành mạnh mẽ là những lo ngại của Ngành. Số nợ đến 30/9/2011 là 5.852,1 tỷ đồng, chiếm 6,66% so với số phải thu. Trong đó, nợ BHXH là 4.562,5 tỷ đồng, nợ BHYT là 1.287,6 tỷ đồng. Đặc biệt đáng lo ngại là số nợ được xếp vào dạng khó đòi, nợ BHXH từ 6 tháng trở lên là: 1.679,2 tỷ đồng, tăng 154,9 tỷ đồng so tháng 8/2011.Số nợ BHXH tăng cao hơn tháng trước, song việc khởi kiện các đơn vị có số nợ BHXH lớn và kéo dài chưa được BHXH các tỉnh, thành phố quan tâm. Trong tháng, BHXH TP Hồ Chí Minh khởi kiện 34 đơn vị sử dụng lao động, lũy kế từ đầu năm BHXH TP Hồ Chí Minh khởi kiện 117 đơn vị với tổng số nợ là 39,75 tỷ đồng, đã thu hồi được 15,27 tỷ đồng; BHXH tỉnh Yên Bái khởi kiện 4 đơn vị với tổng số nợ là 7,8 tỷ đồng. Hoạt động của Tổ Thu nợ liên ngành ở hầu hết các địa phương còn chưa thường xuyên, hiệu quả thấp.
2.Về các chế độ
2.1. Trợ cấp ốm đau
Theo Nghị định 12/CP ngày 26/1/1995 của Chính Phủ về việc ban hành Điều lệ Bảo hiểm xã hội quy định: Người lao động nghỉ việc vì ốm đau, tai nạn rủi ro mà có xác nhận của tổ chức y tế do Bộ Y tế quy định được hưởng chế độ trợ cấp ốm đau. Người lao động nghỉ việc do tự hủy hoại sức khỏe, do say rượu hay dùng chất ma túy thì không được hưởng trợ cấp ốm đau (điều 6). Ngoài ra, thời gian tối đa người lao động được hưởng trợ cấp ốm đau quy định tại điều 7
Hiện nay chế độ trợ cấp ốm đau vẫn còn nhiều bất cập, các doanh nghiệp vẫn lợi dụng các kẽ hở để lách luật nhằm tránh phải chi trả cho khoản trợ cấp này
2.2. Trợ cấp thai sản
{Điều kiện hưởng chế độ thai sản:
1. Người lao động được hưởng chế độ thai sản khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Lao động nữ mang thai;
b) Lao động nữ sinh con;
c) Người lao động nhận nuôi con nuôi dưới bốn tháng tuổi;
d) Người lao động đặt vòng tránh thai, thực hiện các biện pháp triệt sản.
2. Người lao động quy định tại điểm b và điểm c ở trên phải đóng bảo hiểm xã hội từ đủ sáu tháng trở lên trong thời gian mười hai tháng trước khi sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi.
Thời gian hưởng chế độ khi sinh con:
1. Lao động nữ sinh con được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản theo quy định sau đây:
a) Bốn tháng, nếu làm nghề hoặc công việc trong điều kiện lao động bình thường;
b) Năm tháng, nếu làm nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Bộ Y tế ban hành; làm việc theo chế độ ba ca; làm việc thường xuyên ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số từ 0,7 trở lên hoặc là nữ quân nhân, nữ công an nhân dân;
c) Sáu tháng đối với lao động nữ là người tàn tật theo quy định của pháp luật về người tàn tật;
d) Trường hợp sinh đôi trở lên, ngoài thời gian nghỉ việc quy định tại các điểm a, b và c ở trên thì tính từ con thứ hai trở đi, cứ mỗi con được nghỉ thêm ba mươi ngày.
2. Trường hợp sau khi sinh con, nếu con dưới sáu mươi ngày tuổi bị chết BHXHthì mẹ được nghỉ việc chín mươi ngày tính từ ngày sinh con; nếu con từ sáu mươi ngày tuổi trở lên bị chết thì mẹ được nghỉ việc ba mươi ngày tính từ ngày con chết, nhưng thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản không vượt quá thời gian quy định tại khoản 1 Điều ; thời gian này không tính vào thời gian nghỉ việc riêng theo quy định của pháp luật về lao động.
3. Trường hợp chỉ có cha hoặc mẹ tham gia bảo hiểm xã hội hoặc cả cha và mẹ đều tham gia bảo hiểm xã hội mà mẹ chết sau khi sinh con thì cha hoặc người trực tiếp nuôi dưỡng được hưởng chế độ thai sản cho đến khi con đủ bốn tháng tuổi.
4. Thời gian hưởng chế độ thai sản quy định tại các điểm 1, 2 và 3 ở trên tính cả ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hằng tuần.}
Do một số nguyên nhân dẫn đến các thực trạng triển khai trợ cấp thai sản chưa được như ý muốn hiện nay là:
Có nơi tỷ lệ nữ rất cao từ 85-100% như kho quỹ, giao dịch, kế toán… nếu nhiều người nghỉ thai sản cùng thời điểm thì khó khăn là rất lớn và rất khó xử lý. Ngân hàng không thể tuyển thêm lao động để thay thế. Bởi lẽ nếu tuyển thêm thì nhân sự sẽ dôi dư khi số lao động nghỉ sinh xong đi làm trở lại. Việc điều chuyển công việc để hỗ trợ cho bộ phận khác cũng làm ảnh hưởng đến công việc của cả hệ thống. Ngoài ra, hoạt động ngân hàng mang tính tự động cao, phần mềm ứng dụng liên tục được cập nhật và thay đổi. Nếu chị em nghỉ thai sản lâu sẽ mất nhiều thời gian để đáp ứng nhu cầu công việc, chỉ tiêu về hoàn thành công việc và thu nhập sẽ không như mong muốn.
Trong một khảo sát của Liên hiệp Công đoàn Na Uy và Tổng LĐLĐ VN vừa được công bố: Hơn 55% lao động nữ có con nhỏ không được nghỉ 60 phút của mỗi ca làm việc để cho con bú; chưa đến 19% nữ CN được nghỉ 30 phút để làm vệ sinh trong những ngày chu kỳ; 71% lao động nữ không được nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Đó là ở những doanh nghiệp lớn, còn nếu khảo sát ở những doanh nghiệp nhỏ thì tỷ lệ trên cao hơn rất nhiều. Đáng ngại hơn, số đông lao động nữ có thai, nuôi con nhỏ vẫn phải tăng ca thường xuyên, dù pháp luật nghiêm cấm hành vi này.
Hiện nay có 67,6% LĐ nữ được hưởng chế độ khám thai nghỉ đẻ; 40% CN nữ không được trợ cấp thai sản, 74,5% CN nữ được bố trí làm việc sau khi sinh con. Hầu hết các DN đã có sự quan tâm thực hiện các chính sách đối với LĐ nữ, nhưng vẫn còn DN tìm cách “lách luật”
Việt Nam đang là một trong 20 quốc gia có tỉ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng cao nhất nhì thế giới, đặc biệt là suy dinh dưỡng thể thấp còi. Nhiều tỉnh có tỉ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng trên 50% như Ninh Thuận, Bình Thuận, Đăk Lăk
Theo Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, kết quả điều tra mới đây về nghỉ thai sản và nuôi con bằng sữa mẹ của lao động nữ tại một số KCN lớn sử dụng nhiều lao động nữ ở 12 tỉnh, thành phố trên cả nước cho thấy, phần lớn lao động nữ phải cai sữa sớm cho con hoặc không cho con bú đầy đủ trong 6 tháng đầu đã phải đi làm. Bởi với chế độ nghỉ thai sản 4 tháng như hiện nay, nếu người mẹ nghỉ thêm thì không có thu nhập, hoặc có thể bị mất việc vì doanh nghiệp phải bố trí lao động khác thay thế.
Thời gian qua, Tổng LĐLĐ VN đã tổ chức nhiều cuộc khảo sát lấy ý kiến của đoàn viên để tham gia dự thảo sửa đổi Bộ luật Lao động. Đối với nghỉ thai sản, được kiến nghị: LĐ nữ được nghỉ trước và sau khi sinh con theo quy định: năm tháng trong điều kiện làm việc bình thường; sáu tháng với người làm việc nặng nhọc, độc hại; bảy tháng đối với người làm công việc đặc biệt nặng nhọc độc hại, nguy hiểm... Trong dự thảo Bộ luật Lao động cũng kiến nghị nhà nước có chính sách ưu đãi cho vay vốn lãi suất thấp, hỗ trợ một lần từ quỹ quốc gia giải quyết việc làm, xét giảm thuế đối với doanh nghiệp sử dụng nhiều LĐ nữ. Những ưu đãi này nhằm giúp doanh nghiệp có điều kiện thuận lợi hơn để chăm lo và thực hiện tốt chính sách liên quan đối với LĐ nữ.
2.3. Chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
chế độ này ở nước ta trong những năm vừa qua đã góp phần không nhỏ đảm bảo thu nhập, ổn định cuộc sống cho người lao động không may bị TNLĐ hoặc bệnh nghề nghiệp. Đồng thời chế độ này còn quy định rõ trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với các trường hợp xảy ra TNLĐ hoặc bệnh nghề nghiệp. Mức trợ cấp của chế độ này dựa trên cơ sở tỷ lệ suy giảm khả năng lao động là hợp lý. Cách xác định tai nạn lao động theo như quy định hiện nay là chưa rõ ràng, đặc biệt trường hợp tai nạn lao động trên đường đi từ nhà ở đến nơi làm việc và ngược lại rất khó xác định. Đây là vấn đề gây bất cập nhất, có khả năng phát sinh tiêu cực trong việc thực hiện chế độ trợ cấp này. Một điểm hạn chế nữa là việc trả trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp dựa trên tiền lương tối thiểu là chưa phù hợp với nguyên tắc đóng – hưởng BHXH.
{Theo điều 39 Luật BHXH thì người lao động được hưởng chế độ TNLĐ khi có đủ các điều kiện sau:
- Bị tai nạn tại nơi làm việc và trong giờ làm việc;
- Bị tai nạn ngoài nơi làm việc hoặc ngoài giờ làm việc khi thực hiện công việc theo yêu cầu của người sử dụng lao động;
- Bị tai nạn trên tuyến đường đi và về từ nơi ở đến nơi làm việc trong khoản thời gian và tuyến đường hợp lý;
- Suy giảm khả năng lao động từ 5% trở lên do bị tai nạn.
Đối với bệnh nghề nghiệp (BNN), theo điều 40 Luật BHXH thì người lao động được hưởng chế độ này khi: Bị bệnh thuộc danh mục bệnh nghề nghiệp do Bộ Y tế và Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội ban hành khi làm việc trong môi trường hoặc nghề có yếu tố độc hại; mức độ suy giảm khả năng lao động từ 5% trở lên do bị BNN.}
Thực tế, trong quá trình lao động, nhiều trường hợp đã xảy ra TNLĐ-BNN, đặc biệt là những trường hợp tai nạn giao thông được xác định là TNLĐ. Tuy nhiên, nhiều trường hợp đã không được giải quyết hưởng chế độ TNLĐ-BNN, ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao động.
Trước hết, phải nói rằng phần lớn người lao động và chủ sử dụng lao động chưa nắm rõ về chế độ TNLĐ-BNN, khi xảy ra TNLĐ-BNN, cơ quan, đơn vị thường hỗ trợ một phần nhỏ chi phí chữa trị cho người bị nạn và không đề nghị giải quyết chế độ. Thông thường người lao động còn tham gia các loại hình bảo hiểm khác, vì thế khi bị tai nạn chỉ chú ý đến việc đền bù thiệt hại thân thể ở các đơn vị bảo hiểm thương mại, chưa chú ý đến quyền lợi BHXH của mình.
Mặc khác, khi xảy ra TNLĐ-BNN, người sử dụng lao động không thông báo cho các cơ quan chức năng, hoặc khai báo không trung thực, sợ ảnh hưởng đến thành tích thi đua, né tránh việc giải quyết chế độ và đền bù thiệt hại cho người lao động theo quy định của Nhà nước; một số tổ chức công đoàn cơ sở chưa nắm rõ chính sách và chưa có biện pháp hữu hiệu để bảo vệ người lao động. Một số cơ quan đơn vị chưa chú ý đến quyền lợi của người lao động, chưa thực hiện đúng chức năng của mình, ngại lập hồ sơ, xem việc giải quyết chế độ TNLĐ-BNN là việc giữa người lao động với cơ quan BHXH…Một số trường hợp TNLĐ-BNN nhưng lập hồ sơ hưởng chế độ ốm đau, bảo hiểm y tế…
Một thực tế cần nói đó là việc né tránh, không đóng BHXH cho người lao động, những ngành nghề hay xảy ra TNLĐ-BNN như: Xây dựng, cầu đường, cơ khí…đa số là lao động phổ thông, ít được huấn luyện kỹ thuật an toàn lao động và phần lớn bị người sử dụng lao động trốn đóng BHXH, bảo hiểm y tế, do vậy khi xảy ra TNLĐ-BNN họ không được hưởng chế độ trợ cấp BHXH.
Bị TNLĐ-BNN là điều không may mắn và không ai muốn, nhưng dù nguyên nhân khách quan hay chủ quan, khi bị TNLĐ-BNN nhưng không được giải quyết hưởng chế độ BHXH là một thiệt thòi rất lớn của người lao động và thân nhân của họ, không chỉ thiệt thòi về vật chất, ảnh hưởng đến tinh thần của người lao động mà còn tác động lâu dài về mặt xã hội, ảnh hưởng đến chính sách an sinh xã hội của Đảng và Nhà nước ta. Người lao động và chủ sử dụng lao động cần chú ý hơn nữa đến quyền lợi và nghĩa vụ của mình, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đóng BHXH-BHYT và giải quyết chế độ BHXH khi không may xảy ra TNLĐ-BNN, đảm bảo quyền lợi cho người lao động và đảm bảo sự ổn định của nền an sinh xã hội nói chung.
Thống kê sơ bộ của Bộ LĐ-TB và XH cho thấy, TNLĐ trong lĩnh vực Xây dựng chiếm tỷ lệ cao nhất so với các lĩnh vực khác, chiếm 51,11% trên tổng số vụ TNLĐ chết người. Số liệu hồ sơ Quốc gia về an toàn vệ sinh lao động trong 5 năm gần đây cũng cho thấy tai nạn chết người trong lĩnh vực xây dựng trên toàn quốc liên tục tăng (năm 2005: 172 người; năm 2006: 174 người ; năm 2007: 276 người; năm 2008: 212 người; năm 2009: khoảng 280 người).
Có một thực tế rất đáng lo ngại hiện nay là người sử dụng lao động thường bỏ qua các qui định của pháp luật về an toàn vệ sinh lao động, không thực hiện huấn luyện an toàn vệ sinh lao động cho người lao động. Nếu có, chỉ phổ biến sơ sài từ 5 đến 10 phút trước giờ làm việc. Trong khi đó, lao động phần lớn là lao động phổ thông, chưa qua đào tạo, không hiểu gì về các biện pháp an toàn trong quá trình làm việc, nhất là các công việc trên cao.
Theo báo cáo của 63 Sở Lao động - Thương binh và Xã hội, năm 2009 đã xảy ra 6.250 vụ TNLĐ làm hơn 6.400 người bị nạn, trong đó có 507 vụ TNLĐ chết người làm 550 người chết, hơn 1.200 người bị thương nặng, có 88 vụ có từ 2 người bị nạn trở lên. Riêng trong năm 2009, thiệt hại vật chất do tai nạn lao động như chi phí thuốc men, mai táng, bồi thường cho gia đình bị chết và bị thương… đã lên tới hơn 39 tỷ đồng, thiệt hại về tài sản là 2,7 tỷ đồng và tổng số ngày nghỉ do TNLĐ lên tới 457.817 ngày.
2.4 chế độ hưu trí:chế độ hưu trí là một dạng trợ cấp trong hệ thống trợ cấp bảp hiểm xã hội dành cho những người tuổi cao không thể tiếp tục làm việc bình thường được nữa. • Thứ nhất: Hưu trí cũng là một dạng trợ cấp của xã hội như những trợ cấp ốm đau, thai sản, tai lan lao động, thất nghiệp, tàn tật , tử tuất…..Nó cũng được thực hiện bởi sự phân phối, phân phối lại thu nhập. Mặc dù có những nước có qui định việc người lao động đóng góp để hưở hưu trí nhưng không thể ai đóng bao nhiêu hưởng bấy nhiêu. Bởi vì sau khi nghỉ việc tuổi thọ của mỗi người một khác. Vì thế vấn đề chia sể rủi ro, bù đắp, tương trợ cộng đồng cũng được thể hiện khá rõ.• Thứ hai: Hưu trí dành cho những người cao tuổi không thể tiếp tục làm việc được nữa. Dây là một nội dung quan trọng nhất của chế độ hưu trí. Trước hết nó thể hiện sự rủi ro về tuổi tác cần được trợ cấp, mặt khác nó lại bảo đảm cho quyền về lao động cho nhưỡng người chưu bị rủi ro, vẫn làm việc bình thường.Như vậy quyền được trợ cấp hưu trí chỉ được xác lập khi con người đạt đến một độ tưổi nhất định mà độ tổi ấy được xác định là không thể làm việc bình thường được nữa, đồng thời khi ấy quyền về làm việc cũng chấm dứt.Trong khoa học để xác định tuổi để nghỉ hưu, người ta căn cứ vào hai yếu tố chính là sự giảm sút về sinh học của cơ thể con người và tuổi thọ trung bình cả những người trong độ tuổi lao động.Hiện nay ở trên thế giới, độ tuổi nghỉ hưu của người lao động là từ 60 đến 65 tuổi, nam cũng như nữ, không phân biệt ngành nghề, vùng, miền, đân tộc và xu hướng các nước càng ngày càng tăng độ tuổi nghỉ hưu do tuổi thọ của người lao động càng ngày càng cao (tuổi nghỉ hưu thấp nhất là 55) Thực trạng hưu trí ở Việt NamĐánh giá tổng quát thì chế độ hưu trí là một chế độ đáng tin cậy cho cán bộ, công chức, quân nhân và người lao động. Bởi vì tính đến nay đã có hơn hai triệu người đã và đang được hưởng hưu trí. Những qui định về hưu trí đã trở thành một quyền lợi đương nhiên của tất cả những người được Nhà nước tuyển dụng và đặc biệt, nhờ có chế độ trợ cấp mà đời sống vật chất và tinh thần của những người về hưu được bảo đảm ổn định, góp phần tăng cường hạnh phúc gia đình và an toàn xã hội. Tuy nhiên chế độ hưu trí Việt nam còn nhiều tồn tại cần được nghiên cứu để hoàn thiện như sau:1/ Các quy định về hưu trí luôn thay đổi (chỉ tính từ năm 1995 đến 2009 đã 04 lần bổ sung, sửa đổi) điều này ảnh hưởng đến việc sử dụng lao động, việc xây dựng kế hoạch cơ cấu lao động và đặc biệt là kế hoạch sống và làm việc của người lao động.2/ Các tiêu chuẩn về chế độ hưu trí có nhiều khác biệt với mục đích, bản chất của chế độ hưu trí. Bởi vì tiêu chuẩn quan trọng nhất là độ tuổi nghỉ hưu nhưng ở Việt Nam đã hàng chục năm nay vấn đề xác định độ tuổi nghỉ hưu có nhiều luận điểm và có nhiều quy định khác nhau.Cụ thể trong Luật Lao động quy định tuổi nghỉ hưu của nam là 60, của nữ là 55. Nhưng các văn bản pháp quy khác có nhiều quy định như giảm 05 tuổi đối với nam và nữ, giảm 10 tuổi cả nam và nữ hoặc không cần đột uổi vẫn được nghỉ hưu. Đồng thời cũng có những quy địnht ăng tuổi nghỉ hưu đối với các nhà khoa học. Đặc biệt đối với những cán bộ cao cấp thì chưa có văn bản pháp quy nào quy định. Từ đó dẫn đến tình trạng 15% số người nghỉ hưu dưới 45 tuổi, 60% dưới 55 tuổi và hàng vạn người nghỉ hưu ở tuổi 38, 39 đang độ sung sức về khả năng lao động.3/ Vấn đề trợ cấp hưu trí có sự mâu thuẫn với nhau do phụ thuộc vào chính sách thu nhập của cán bộ, công chức và người lao động. Trong khi tỷ lệ của trợ cấp khá cao (75%) so với mức tiền lương đóng bảo hiểm xã hội đang tại chức. Nhưng thực tế thì giá trị trợ cấp hưu trí chỉ bằng 50, 30, 20 thậm chí 10% so với thu nhập khi đang tại chức tuỳ thuộc vào các loại hình lao động khác nhau. Bởi vì hiện nay tiền lương theo chế độ nhà nước chỉ là một phần (đây là cơ sở để đóng bảo hiểm xã hội) còn thu nhập của người lao động lại có phần thêm ngoài tiền lương, mà phần thêm nhiều khi gấp nhiều lần tiền lương theo chế độ.Trên cơ sở lý luận và thực tiễn về chế độ hưu trí ở Việt Nam, chúng ta thấy rằng chế độ hưu trí ở nước ta cần được hoàn thiện để thể hiện đúng bản chất, mục đích của hưu trí nhằm đáp ứng nhu cầu của các loại hình lao động và yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội, chính trị của đất nướcTS. NGUYỄN HUY BANTổng giám đốc Bảo hiểm Việt Nam
2.5. Chế độ tử tuất:
Đó là một trong những chế độ BHXH mang tính nhân đạo nhất. Chế độ này đã giúp cho thân nhân người chết có được khoản trợ cấp bù đắp một phần thiếu hụt thu nhập của gia đình do người lao động bị chế. Khi xây dựng chế độ này đã tính đến yếu tố đóng góp của người tham gia bảo hiểm và yếu tố xã hội giữa người sống và người chết, đặc biệt có tính đến yếu tố kế thừa đối với thân nhân của người chết.
Theo báo cáo của BHXH ở một số tỉnh, thành phố, hiện nay việc giải quyết chế độ tử tuất phải thực hiện nhiều lần với lý do tại thời điểm người tham gia BHXH hoặc người đang hưởng chế độ BHXH ( hay gọi chung là người lao động) chết thân nhân người lao động không nắm được chính sách nên đã không kê khai đầy đủ những thân nhân mà khi đối tượng còn sống có trách nhiệm nuôi dưỡng, nên sau khi giả quyết hưởng chế độ tử tuất thân nhân người lao động lại đề nghị bổ sung định suất tuất. Đây là vấn đề vướng mắc, BHXH Việt Nam đã gửi báo cáo lên cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, tuy nhiên đến nay vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể.
BẢO HIỂM Y TẾ
I. Tổng quan về Bảo hiểm y tế
Các vấn đề được trích dẫn theo luật Bảo hiểm y tế do quốc hội ban hành ngày 14/12/2008 theo quyết định số 25/2008/QH12, có hiệu lực từ ngày 1/7/2009.
Các khái niệm
Bảo hiểm y tế:là hình thức bảo hiểm được áp dụng trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, không vì mục đích lợi nhuận, do Nhà nước tổ chức thực hiện và các đối tượng có trách nhiệm tham gia theo quy định của Luật này.
Quỹ bảo hiểm y tế : là quỹ tài chính được hình thành từ nguồn đóng bảo hiểm y tế và các nguồn thu hợp pháp khác, được sử dụng để chi trả chi phí khám bệnh, chữa bệnh cho người tham gia bảo hiểm y tế, chi phí quản lý bộ máy của tổ chức bảo hiểm y tế và những khoản chi phí hợp pháp khác liên quan đến bảo hiểm y tế.
Cụ thể nguồn thu của quỹ bảo hiểm y tế gồm tiền đóng bảo hiểm theo quy đinh của luật này, tiền sinh lời từ hoạt động đầu tư của quỹ, các khoản tài trợ viện trợ của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước cùng các nguồn thu hợp pháp khác.
Các khoản chi của quỹ bảo hiểm y tế gồm thanh toán chi phí khám chữa bệnh bảo hiểm y tế, chi phí quản lý bộ máy tổ chức BHYT theo định mức quy định, khoản đầu tư, lập quỹ dự phòng khám chữa bệnh.
Đối tượng tham gia bảo hiểm : hầu hết người dân đều được tham gia bảo hiểm, các nhóm đối tượng đã được quy định rõ trong điều 12 luật này như: người lao động, người hưu trí, trẻ em dưới 6 tuổi, học sinh-sinh viên, người nghèo, cận nghèo…
Nguyên tắc bảo hiểm
Theo điều 3 luật này, nguyên tắc bảo hiểm gồm:
1. Bảo đảm chia sẻ rủi ro giữa những người tham gia bảo hiểm y tế.
2. Mức đóng bảo hiểm y tế được xác định theo tỷ lệ phần trăm của tiền lương, tiền công, tiền lương hưu, tiền trợ cấp hoặc mức lương tối thiểu của khu vực hành chính ( gọi chung là mức lương tối thiểu).
3. Mức hưởng bảo hiểm y tế theo mức độ bệnh tật, nhóm đối tượng trong phạm vi quyền lợi của người tham gia bảo hiểm y tế.
4. Chi phí khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế do quỹ bảo hiểm y tế và người tham gia bảo hiểm y tế cùng chi trả.
5. Quỹ bảo hiểm y tế được quản lý tập trung, thống nhất, công khai, minh bạch, bảo đảm cân đối thu, chi và được Nhà nước bảo hộ.
Mức phí đóng BHYT
Chính phủ đã ban hành nghị định 62/2009NĐ-CP quy đinh chi tiết và hướng dẫn thi hành luật bảo hiểm y tế, áp dụng từ 1/10/2009, theo đó mức đóng BHYT của các đối tượng tham gia bảo hiểm là 4,5% tiền lương, tiền công, tiền lương hưu, trợ cấp mất sức lao động và bằng 3% mức lương tối thiểu đối với học sinh, sinh viên.
Ngân sách nhà nước hỗ trợ 50% mức đóng cho người thuộc hộ gia đình cận nghèo từ ngày 1/7/2009. Hỗ trợ tối thiểu bằng 50% mức đóng đối với học sinh, sinh viên mà thuộc hộ cận nghèo và hỗ trợ tối thiểu 30% mức đóng đối với học sinh, sinh viên mà không thuộc hộ cận nghèo, chính sách này được thực hiện từ ngày 1/1/2010. Từ ngày 1/1/2010, mức đóng góp hằng tháng đối với đối tượng tự nguyện tham gia BHYT bằng 4,5% mức lương tối thiểu và do đối tượng đóng.
Mức hưởng BHYT
Đối với người tham gia BHYT khi đi khám, chữa bệnh theo quy định thì được quỹ BHYT thanh toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh thì được hưởng: 100% chi phí khám chữa bệnh đối với các đối tượng là sĩ quan, hạ sĩ quan đang công tác trong lực lượng Công an nhân dân, người có công với cách mạng và trẻ em dưới 6 tuổi; 100% chi phí khám chữa bệnh tại tuyến xã; 100% chi phí khám chữa bệnh trong trường hợp tổng chi phí 1 lần khám, chữa bệnh thấp hơn 15% mức lương tối thiểu: 95% chi phí khám, chữa bệnh đối với người hưởng lương hưu, trợ cấp mất sức lao động hàng tháng, người thuộc diện hưởng trợ cấp bảo trợ xã hội hàng tháng theo quy định của pháp luật và người thuộc hộ gia đình nghèo; người dân tộc thiểu số đang sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn. Nếu là khám chữa bệnh có dùng đến dịch vụ kỹ thuật cao, chi phí lớn thì chi phí cho 1 lần sử dụng không vượt quá 40 tháng lương tối thiểu. Người tham gia BHYT có sử dụng các dịch vụ kỹ thuật cao, chi phí lớn thì được quỹ BHYT thanh toán 100% chi phí đối với trẻ em dưới 6 tuổi, người hoạt động cách mạng trước ngày 1/1/1945; Bà mẹ Việt Nam anh hùng...; 100% chi phí đối với sĩ quan, hạ sĩ quan đang công tác trong lực lượng Công an nhân dân và người có công với cách mạng nhưng không vượt quá 40 tháng lương tối thiểu cho 1 lần sử dụng dịch vụ kỹ thuật đó.
II Thực trạng triển khai Bảo hiểm y tế
Quá trình triển khai và thực hiện
Điều lệ BHYT đầu tiên được ban hành kèm theo nghị định số 299/HĐBT ngày 15/8/1992 của Hội đồng Bộ trưởng, điều lệ này đã có tác dụng to lớn trong việc thực thi chính sách BHYT ở nước ta, góp phần thực hiện khám chữa bệnh , bảo đảm sức khỏe đối với cán bộ công nhân viên chức và người lao động, giảm bớt gánh nặng về tài chính đối với ngân sách nhà nước.
Để mở rộng đối tượng , vào ngày 19/09/1994 thì liên bộ Bộ Giáo dục và đào tạo và Bộ Y tế đã ban hành Thông tư số 14/TTLB hướng dẫn thực hiện BHYT tự nguyện cho học sinh. Nội dung chính là thực hiện chăm sóc sức khỏe ban đầu cho học sinh tại các trường phổ thông, đại học,…
Năm 1995, Chính phủ ban hành Nghị định số 28/CP quy định chi tiết hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh Ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sĩ và gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người hoạt động cách mạng, người kháng chiến, người có công với cách mạng
Đầu năm 1999, chế độ cùng chi trả BHYT theo tỷ lệ 80% và 20% đã được áp dụng. Với chế độ này người khám chữa bệnh BHYT đã quan tâm đến việc sử dụng các dịch vụ y tế hơn là khả năng tài chính của bản thân.
Thời kỳ này dù đã đổi mới chính sách để thích ứng với thực tế; nhưng cũng phải nhìn nhận lại sự thật BHYT vẫn là ngành độc quyền của Nhà nước, chưa có sự cạnh tranh rõ rệt của các tổ chức tư nhân trong và ngoài nước.
Và sự cải cách lớn nhất trong bộ máy tổ chức của cơ quan Bảo hiểm y tế là ngày 24/01/2002, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 20/2002/QĐ-TTg sáp nhập BHYT Việt Nam sang Bảo hiểm xã hội Việt Nam.
Ngày 15/10/2002 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 139/2002/QĐ-TTg về việc khám chữa bệnh cho người nghèo. BHXH Việt nam đã tích cực và chủ động phối hợp với các ban, ngành có liên quan thực hiện xét và cấp thẻ BHYT cho đối tượng nghèo nên năm 2003 đã có gần 3.3 triệu người nghèo được cấp thẻ BHYT , năm 2004 là trên 3.5 triệu người, gấp hai lần năm 2002.
Ngày 16/5/2005 chính phủ ban hành nghị định về Điều lệ bảo hiểm y tế, có hiệu lực thi hành từ 1/7/2005 quy định cụ thể các vấn đề về bảo hiểm y tế gồm,trong đó nêu rõ các đối tượng bắt buộc và tự nguyện tham gia BHYT, các mức đóng phí, chế độ thanh toán… Ngày 14/12/2008 , luật BHYT chính thức được ban hành theo quyết định số 25/2008/QH12 và có hiệu lực từ 1/7/2009
Thành tựu
Từ khi triển khai đến nay, BHYT đã đóng góp một phần to lớn trong cải thiện sức khỏe người dân. Qua việc tham gia BHYT người dân được bảo vệ và chămsóc sức khỏe, được khám chữa bệnh với chi phí rẻ hơn, đặc biệt là với những tầng lớp chưa có thu nhập hay thu nhập thấp, những tầng lớp có đời sống thấp, các nhóm đối tượng dễ bị tổn thương khác như người nghèo, người dân tộc thiểu số.
Có thể kết luận rằng cùng với mức sống của người dân được cải thiện, kiến thức về bảo vệ và chăm sóc sức khỏe của người dân được nâng cao, cở sở hạ tầng và phương tiện giao thông được nâng cấp thì hệ thống bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân trong đó có bảo hiểm y tế đã góp phần quan trọng vào giảm mức chết, gia tăng tuổi thọ của người dân nước ta.
Đặc biệt, Nhà nước đã thực hiện chương trình cấp thẻ bảo hiểm y tế miễn phí cho người nghèo, người dân tộc thiểu số sống ở vùng đặc biệt khó khăn, trẻ em dưới 6 tuổi và nhiều nhóm đối tượng dễ bị tổn thương khác; hỗ trợ một phần đáng kể phí đóng bảo hiểm y tế (50% phí đóng bảo hiểm y tế ở mức tối thiểu) cho người cận nghèo, học sinh sinh viên, v.v… Song song với các chương trình hỗ trợ phí tham gia bảo hiểm y tế, các chương trình tuyên truyền, truyền thông về lợi ích của bảo hiểm y tế đối với bảo vệ và chăm sóc sức khỏe cộng đồng cũng được triển khai trên các phương tiện truyền thông, xuống từng địa phương, vào từng trường học. Kết quả là đã có 13,2 triệu người nghèo, gần 9,6 triệu học sinh, sinh viên tham gia bảo hiểm y tế.
Trong năm 2010 đã có 106 triệu lượt người bệnh có bảo hiểm y tế đi khám chữa bệnh, tần suất khám chữa bệnh bình quân 2,1 lần/người/năm. Tỷ lệ bệnh nhân khám chữa bệnh bằng bảo hiểm y tế tại một số cơ sở khám chữa bệnh tuyến tỉnh, huyện chiếm khoảng 70-80% tổng số bệnh nhân khám chữa bệnh chung.
Năm 2010, cả nước có gần 2.200 cơ sở khám chữa bệnh ký hợp đồng với cơ quan bảo hiểm xã hội gồm 1.900 cơ sở công lập và gần 300 cơ sở ngoài công lập. Số trạm y tế xã thực hiện khám chữa bệnh bảo hiểm y tế chiếm khoảng 60% tổng số trạm y tế xã trên cả nước, tăng 10% so với năm 2009.
Số người tham gia BHYT tăng nhanh qua các năm thể hiện sự quan tâm hưởng ứng của toàn xã hội đối với hình thức này. Cụ thể số liệu giai đoạn 2002-2007 được tổng hợp ở bảng dưới:
SỐ LƯỢNG ĐỐI TƯỢNG THAM GIA BẢO HIỂM Y TẾ
Nguồn: bảo hiểm xã hội Việt Nam
Năm
Đối tượng tham gia BHYT
Tỷ lệ tăng hàng năm (%)
Bắt buộc
Tự nguyện
Tổng
Bắt buộc
Tự nguyện
Tổng
2002
8.632.000
3.654.000
12.286.0000
2003
11.372.000
4.099.000
15.471.000
31.74%
9.56%
23.97%
2004
12.656.000
6.394.000
19.050.000
11.29%
25.40%
15.66%
2005
13.881.000
9.133.000
23.014.000
9.68%
42.84%
20.81%
2006
25.746.000
11.120.000
36.866.000
85.47%
21.76%
62.18%
2007
26.130.000
10.072.000
36.200.000
1,5%
Số người tham gia BHYT năm 2010 là 52,4 triệu người, đạt tỷ lệ bao phủ 60% dân số, tăng 12,65 triệu người so với năm 2008, trước khi có Luật BHYT . Tính đến tháng 6/2011 đã có 53,5 triệu người tham gia bảo hiểm y tế, tăng gần 14 triệu người so với năm 2008.
Khu vực có tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế cao nhất là vùng Trung du và Miền núi phía Bắc, đạt tới 77% dân số, trong đó các tỉnh miền núi phía Bắc như Bắc Kạn, Hà Giang, Lai Châu, Sơn La, Cao Bằng… có tỷ lệ bao phủ đạt tới 95% dân số.
Khu vực có tỷ lệ bao phủ thấp nhất là vùng Đồng bằng sông Cửu Long, tỷ lệ bao phủ chưa được 50% dân số. Một số tỉnh có dưới 45% dân số có bảo hiểm y tế như Tây Ninh, Bình Phước, Cà Mau, Bạc Liêu, Đồng Tháp, Hậu Giang...
Hạn chế
Độ bao phủ vẫn chưa cao, đặc biệt với các nhóm đối tượng nhạy cảm
Nước ta vẫn còn khoảng 34 triệu người chưa tham gia bảo hiểm tương đương với 40% dân số. người dân còn chưa mặn mà với loại hình khám chữa bệnh này.
Đặc biệt là người lao động trong các doanh nghiệp tham gia BHYT mới chỉ đạt hơn 53% và có khoảng 13% số người cận nghèo có BHYT. Tỷ lệ tham gia bảo hiểm của nhóm tự nguyện đóng BHYT rất thấp, chỉ đạt 18% tổng số đối tượng.
Năm 2010 mới chỉ có 692.000 người trên tổng số khoảng 6 triệu người thuộc hộ cận nghèo tham gia bảo hiểm y tế. Như vậy, số người cận nghèo tham gia bảo hiểm y tế mới chỉ chiếm 11,5 %, còn lại 88,5% người cận nghèo chưa được tiếp cận và thụ hưởng các dịch vụ từ bảo hiểm y tế.
Theo Vụ trưởng Vụ Bảo hiểm Y tế Tống Thị Song Hương, việc cấp thẻ Bảo hiểm y tế cho đối tượng trẻ em dưới 6 tuổi còn chậm. Hiện nay vẫn còn gần 2 triệu trẻ em chưa được cấp thẻ bảo hiểm y tế.
Quỹ BHYT thường trong tình trạng thất thu và bội chi
Theo thông tin từ Bảo hiểm Xã hội Việt Nam, năm 2007, quỹ bảo hiểm y tế bội chi 1,8 ngàn tỷ. Năm 2008, con số này giảm xuống còn 1,4 ngàn tỷ. Năm 2009, quỹ bảo hiểm y tế tiếp tục thâm hụt xấp xỉ 2.000 tỷ đồng. Tỷ lệ bội chi là 15%. So với năm 2007 và năm 2008, mức thâm hụt quỹ tăng cao hơn.
Sau nhiều năm liên tục bội chi, đến cuối năm 2010, quỹ bảo hiểm y tế đã kết dư khoảng 3.500 tỷ đồng, dự kiến đến năm 2011, quỹ Bảo hiểm Y tế dư 6.000 tỷ đồng, thu đạt 29.000 tỷ đồng trong khi chi 23.000 tỷ đồng. Sau khi trích quỹ dự phòng và trả nợ cho phần bội chi 2009 trở lại trước, cuối năm 2011, quỹ còn dư 4.500 tỷ đồng
Chất lượng các dịch vụ, cơ sở vật chất, thái độ đội ngũ y bác sỹ, còn chưa tốt, thủ tục hành chính còn nhiều vướng mắc
III Nguyên nhân
Tại sao tỷ lệ tham gia bảo hiểm vẫn chưa cao?
Có 5 lý do chính để người dân không tham gia BHYT: thiếu hiểu biết và thiếu thông tin, do thủ tục phức tạp, quyền lợi hạn chế ,chất lượng phục vụ chưa tốt và mệnh giá thẻ BHYT chưa thực sự phù hợp với khả năng tài chính của người dân.
Thiếu hiểu biết và thiếu thông tin
Thiếu hiểu biết và thông tin không đầy đủ là nguyên nhân dẫn đến sự nhận thức nghèo nàn về mục đích và chức năng của BHYT, chính điều đó làm cho người ta từ chối không muốn tham gia BHYT. Thậm chí ngay cả khi có thông tin về BHYT thì nhiều người cũng không biết là phải mua ở đâu
Thủ tục phức tạp
Kết quả các cuộc điều tra chỉ ra rằng, thủ tục không hợp lý và rất phức tạp, bắt đầu từ khâu đăng ký, chuyển tuyến, khám bệnh, điều trị và cuối cùng là thủ tục thanh toán, đã làm cho người dân không hài lòng nên không muốn tham gia BHYT. Thậm chí, khi đã có thẻ BHYT họ cũng không muốn sử dụng thẻ BHYT để khám chữa bệnh. Người tham gia BHYT bắt buộc phải đăng ký nơi khám chữa bệnh ban đầu. Khi có vấn đề gì về sức khỏe, phải đến nơi này để khám đầu tiên. Nếu là người nghèo, nó rất phiền phức, vì phải trả thêm tiền đi lại và chi phí ăn uống khi đi KCB
Thủ tục chuyển viện cũng tương tự như vậy, không thuận tiện, phiền phức và tốn kém thời gian. Chẳng hạn: bệnh nhân đăng ký ở tuyến dưới, sau đó được chuyển lên tuyến trên để điều trị. Lần sau, bệnh nhân đến tuyến trên để khám lại, bác sĩ yêu cầu quay về tuyến dưới để lấy giấy chuyển viện. Quá phức tạp, mất thời gian và tốn kém.
Thêm vào đó, là phương thức thanh toán khi mua thẻ cũng bị phàn nàn. BHXH bán thẻ BHYT một lần duy nhất trong năm, chỉ trong 2 đến 3 ngày thông qua các đại lý BH ở địa phương. Vì thế, nếu một hộ gia đình có 5 thành viên, cần phải trả ngay 1 lần 1,5 triệu đồng. Điều đó là quá khả năng của họ. Do đó, họ mong muốn được mua BHYT trả góp.
Hạn chế về quyền lợi
Một trong những rào cản chính cho việc mở rộng BHYT, đó chính là gói quyền lợi. Quyền lợi mà người dân được hưởng từ BH quá thấp so với mong muốn của họ. Họ cho rằng, phần được BHXH thanh toán khi điều trị rất nhỏ, danh mục thuốc được BH thanh toán bị hạn chế, và tương tự như vậy là hạn chế thanh toán cho các dịch vụ kỹ thuật cao. Nếu xét dưới góc độ chi phí – hiệu quả, thì BHYT không mấy hấp dẫn người tham gia.
Khả năng tài chính của người đại bộ phận người dân
Những người tham gia TLN cho rằng, mệnh giá BHYT là cao so với thu nhập và vì vậy họ thiếu tiền để mua BHYT. Tại thời điểm tiến hành TLN, mệnh giá BHYT là 240.000 đồng ở nông thôn và 320.000 đồng ở thành thị, trong khi đó thu nhập bình quân là 200.000 đồng/người/tháng. Đối với các đối tượng cận nghèo, thu nhập thấp, đời sống còn nhiều khó khăn, mặc dù đã được nhà nước hỗ trợ tối thiểu 50% mà vẫn không có khả năng tham gia BHYT
Chất lượng khám chữa bệnh còn hạn chế
Việc tổ chức, quản lý KCB tại trạm y tế hiện còn một số khó khăn vướng mắc do chưa thống nhất. Điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị ít được đầu tư, thiếu nhân lực... đã ảnh hưởng lớn đến chất lượng KCB và dẫn đến tình trạng vượt tuyến như hiện nay. Sự khác biệt khi KCB giữa đối tượng người tham gia BHYT và người trả viện phí đã khiến cho người tham gia BHYT cảm thấy phiền phức, mất thời gian khi phải thực hiện đúng các quy định quy trình KCB theo BHYT.
Tại sao quỹ bảo hiểm y tế luôn thất thu và bội chi?
Quỹ BHYT bị lạm dụng ngày càng nhiều với mức độ ngày càng tinh vi.Cách “móc” quỹ đầu tiên là lạm dụng dịch vụ kỹ thuật (DVKT), tập trung chủ yếu là xét nghiệm, chẩn đoán hình ảnh. Tức là bệnh nhân thường được chỉ định phải áp dụng các dịch vụ với chi phí cao hơn trong khi không thực sự cần thiết.
Cùng với việc lạm dụng dịch vụ kỹ thuật cao, hầu hết các bệnh viện hiện nay đều áp giá sát với mức trần khiến giá thuốc trong bệnh viện tăng cao, thậm chí còn cao hơn quá nhiều so với giá thị trường, vừa gây thiệt thòi cho người tham gia BHYT, vừa gây khó khăn cho các giám định viên BHYT. Điều đáng nói là, việc rà soát các đơn thuốc có hợp lý hay không lại là việc “lực bất tòng tâm” của BHXH khi đội ngũ giám định viên quá mỏng. Mặt khác, việc quản lý các toa thuốc này có đến tay người bệnh hay không cũng là vấn đề rất khó kiểm soát ...
Bên cạnh đó, hầu hết các bệnh viện tuyến TƯ đều quá tải và tình trạng này còn lâu mới giải quyết được. Hiện có những giường bệnh phải cõng 4 - 5 bệnh nhân; điều đáng nói là nếu tất cả bệnh nhân ấy đều có thẻ BHYT thì quỹ sẽ thanh toán chi phí 4 - 5 giường bệnh chứ không phải là 1. Điều đáng lưu tâm nữa là lực lượng giám định viên BHYT hiện nay quá mỏng: 1.800 giám định viên, trong khi đó lại cả nước hiện có tất cả 2.000 bệnh viện/cơ sở y tế trên toàn quốc, chưa kể 6.000 trạm y tế xã. Thường mỗi bệnh viện chỉ có 1 cán bộ giám định. Những nơi đông bệnh nhân ở tuyến TƯ thì phải có 8 – 10 người. Và tính ra, cũng còn khoảng 50% cơ sở y tế chưa được phủ sóng nhân viên giám định.
Bên cạnh đó, có một thực tế là khi thanh tra phát hiện ra sai phạm của các cơ sở y tế trong lạm dụng quỹ, BHXH không có chức năng xử lý nên ít có tác dụng răn đe. Chính vì vậy, BHXH Việt Nam đang đề nghị Chính phủ ban hành nghị định xử phạt trong lĩnh vực BHYT, trong đó cho phép BHXH có thể trực tiếp xử lý các sai phạm, các biểu hiện lạm dụng quỹ.
Một vấn đề lớn gây ra tình trạng thất thu của BHYT là sự chây ỳ trong việc đóng BH cho người lao động của các đối tượng sử dụng lao động. Nguyên nhân mà các doanh nghiệp đưa ra là công việc sản xuất đình trệ do khó khăn chung của nền kinh tế. Tuy nhiên, nguyên nhân sâu xa được phấn tích là do các doanh nghiệp chiếm dụng tiền BH của người lao động làm vốn sản xuất bởi nếu vay từ ngân hàng thì doanh nghiệp phải trả một khoản lãi vay tương đối lớn. Một số doanh nghiệp còn đem số tiền bảo hiểm của công nhân đi gửi tiết kiệm, bởi một thực tế là số tiền xử phạt nếu bị phát hiện lại không thấm vào đâu so với tiền lãi có được. Do vậy thì chế tài xử phạt còn nhẹ và cơ chế giám sát thanh tra còn nhiều khó khăn và vướng mắc cũng là những nguyên nhân khiến thất thu còn phổ biến. Tính chung cho BHXH, mức phạt hành chính cao nhất nếu vi phạm là 30 triệu đồng. Trong khi đó, lực lượng thanh tra lao động còn mỏng, bình quân mỗi tỉnh chỉ có 4- 5 cán bộ thanh tra lao động.
Bảo hiểm thất nghiệp
Ngày 29/6/2006, Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật Bảo hiểm Xã hội (BHXH), trong đó qui định chính sách bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) sẽ có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2009. Đây là loại hình bảo hiểm bắt buộc và là chính sách mới có liên quan trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ của người lao động và người sử dụng lao động, đến vấn đề an sinh xã hội và quan trọng hơn là để người thất nghiệp nhanh chóng trở lại thị trường lao động thông qua việc hỗ trợ học nghề, hỗ trợ tìm việc làm, đồng thời hỗ trợ thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị mất thu nhập do thất nghiệp và hỗ trợ về bảo hiểm y tế.
Khái quát chung về BHTN
Khái niệm
BHTN là bảo hiểm bồi thường cho người lao động bị thiệt hại về thu nhập do bị mất việc làm để họ ổn định cuộc sống và có điều kiện tham gia vào thị trường lao động.
Đặc điểm
BHTN cũng là 1 loại hình bảo hiểm con người, song có một số đặc điểm khác như:
Không có hợp đồng trước.
Người tham gia và người thụ hưởng hợp đồng là một
Không có việc chuyển rủi ro của những người bị thất nghiệp sang những người khác có khả năng thất nghiệp.
BHTN không có dự báo chính xác về số lượng và phạm vi và có thể thiệt hại về kinh tế rất lớn, đặc biệt là trong thời kỳ nền kinh tế bị khủng hoảng.
Đối tượng bảo hiểm
- Những người làm công ăn lương trong các doanh nghiệp có sử dụng một số lượng lao động nhất định
- Những người làm việc theo hợp đồng lao động với một thời gian nhất định ( thường là một năm trở lên) trong các doanh nghiệp, các cơ quan đoàn thể, các đơn vị hành chính sự nghiệp ( nhưng không phải là viên chức và công chức)
Theo quy định của Luật BHXH, người lao động tham gia BHTN phải là công dân Việt Nam làm việc theo hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc mà các hợp đồng này không xác định thời hạn hoặc xác định thời hạn từ đủ mười hai tháng đến ba mươi sáu tháng.
4. Phạm vi bảo hiểm
- Rủi ro nghề nghiệp
- Rủi ro việc làm
5. Điều kiện bảo hiểm
- Người tham gia bảo hiểm phải nộp phí bảo hiểm trong một thời gian nhất định.
- Thất nghiệp không phải do lỗi của người lao động.
- Phải đăng ký thất nghiệp, đăng ký tìm kiếm việc làm tại Cơ quan lao động có thẩm quyền do Nhà nước quy định.
- Phải sẵn sàng làm việc.
- Có sổ BHTN để chứng nhận có tham gia đóng phí BHTN đủ thời hạn quy định.
Luật BHXH quy định điều kiện hưởng chế độ trợ cấp thất nghiệp là: người lao động đã đăng ký thất nghiệp với cơ quan BHXH; chưa tìm được việc làm sau 15 ngày kể từ ngày đăng ký thất nghiệp đồng thời đã có thời gian đóng BHTN đủ 12 tháng trong vòng 24 tháng trước khi thất nghiệp, quy định này là khá phù hợp với điều kiện tài chính của quỹ BHTN trong thời gian đầu thực hiện.
II. Thực trạng triển khai chế độ BHTN ở Việt Nam hiện nay
1.Về tình hình triển khai thực hiện chính sách BHTN ở trung ương và địa phương
Nhìn chung các văn bản hướng dẫn và triển khai thực hiện chính sách BHTN được ban hành kịp thời, đầy đủ và đáp ứng được yêu cầu thực tế; có sự phối hợp tốt giữa các bộ, ngành trong việc nghiên cứu, xây dựng và ban hành văn bản.
Cục Việc làm (Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội) đã phối hợp với Bảo hiểm Xã hội Việt Nam và các chuyên gia quốc tế tổ chức các hội nghị tập huấn triển khai thực hiện chính sách BHTN cho các Sở Lao động-Thương binh và Xã hội, trung tâm giới thiệu việc làm (TTGTVL) và các cơ quan có liên quan; Tổ chức thông tin, tuyên truyền về các chế độ, chính sách này trên các phương tiện thông tin đại chúng, xuất bản sách hỏi đáp và tờ rơi về chế độ, chính sách, xây dựng Sổ nghiệp vụ về BHTN. Cùng với đó, Cục đã phối hợp với Tổ chức Lao động Quốc tế (Văn phòng ILO Hà Nội) xây dựng phần mềm quản lý, từng bước ứng dụng công nghệ thông tin vào việc quản lý, xử lý hồ sơ hưởng BHTN; Tổ chức đoàn đánh giá tình hình thực hiện ở một số địa phương (có chuyên gia của ILO tham gia); Tổ chức hội nghị đánh giá về tình hình thực hiện chính sách; Tổ chức đoàn công tác liên ngành khảo sát, học tập, nghiên cứu chính sách và kinh nghiệm tại Cộng hoà Liên bang Đức và Canada; Phân bổ kinh phí quản lý BHTN cho các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Các Sở LĐ-TBXH đã tổ chức thông tin, tuyên truyền các chế độ, chính sách về BHTN trên các phương tiện thông tin đại chúng trên địa bàn, tập huấn cho các cơ quan, tổ chức và doanh nghiệp tại địa phương; phối hợp với các cơ quan có liên quan triển khai thực hiện các chế độ, chính sách BHTN; giao nhiệm vụ và tăng cường cán bộ, cơ sở vật chất cho Phòng thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về việc làm để thực hiện BHTN. Các TTGTVL trực thuộc Sở LĐ-TBXH đã khẩn trương thành lập phòng BHTN tại trung tâm; thành lập các văn phòng đại diện, chi nhánh và các điểm tiếp nhận đăng ký thất nghiệp và giải quyết các thủ tục hưởng BHTN tại một số quận, huyện hoặc cụm quận, huyện để tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người thất nghiệp đến đăng ký; tuyển dụng và đào tạo nghiệp vụ cho cán bộ; trang bị cơ sở vật chất để đảm bảo phục vụ nhiệm vụ mới được giao; thực hiện tốt việc tiếp nhận và giải quyết các thủ tục hưởng BHTN từ ngày 01/01/2010.
2. Về hoạt động thu BHTN
Theo báo cáo của BHXH Việt Nam, năm 2009 có 5,412 triệu người tham gia BHTN, tổng số thu là 3.066 tỷ đồng (đạt 142% kế hoạch được giao), trong đó ngân sách Nhà nước hỗ trợ khoảng 1.022 tỷ đồng. Năm 2010 có 7.054.962 người tham gia BHTN, tăng 17,7% so với năm 2009 về số thu đạt 4.864 tỷ đồng tăng 27,9% so với năm 2009, đưa tổng quỹ bảo hiểm thất nghiệp lên 8.200 tỷ đồng. Đây chính là thành công lớn, kết quả của sự nỗ lực rất lớn của các cơ quan trong việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật và tổ chức thu BHTN như BHXH Việt Nam và ngành Lao động- Thương binh và Xã hội; sự tham gia tích cực của các doanh nghiệp, tổ chức và người lao động.
Theo Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đến hết năm 2010, có 145.519 người thất nghiệp có quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp thường xuyên; 2.772 người thất nghiệp đã có quyết định hưởng BHTN 1 lần; 114.809 người được tư vấn giới thiệu việc làm; 243 người được trợ cấp học nghề, đã phần nào giảm đi gánh nặng về giải quyết thất nghiệp cho Nhà nước, góp phần đảm bảo an sinh xã hội, tạo được lòng tin cho người lao động khi tham gia BHTN. Tuy nhiên, so với số tham gia BHXH, BHYT bắt buộc hiện nay là hơn 9,3 triệu người, thì số người tham gia BHTN nêu trên là còn quá khiêm tốn, chưa tương xứng với tiềm năng của nó, một bộ phận người lao động chưa được đảm bảo đầy đủ quyền lợi của mình.
3. Về công tác chi trả BHTN
Công tác chi trả chế độ BHTN cho người lao động được thực hiện từ tháng 01/2010, các Sở LĐ – TBXH và TTGTVL đã chủ động để người lao động đến đăng ký thất nghiệp, giải quyết chế độ được thuận tiện, đúng qui định và có sự phối hợp giữa Sở LĐ – TBXH và BHXH tỉnh. Hiện nay, trên toàn quốc đã có gần 50 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện chi trả BHTN cho khoảng 50.000 lượt người, địa phương có phát sinh nhiều nhất là Bình Dương, Thành phố Hồ Chí Minh..... Dự báo trong thời gian tới số người được hưởng BHTN sẽ tiếp tục tăng nhanh.
Tại Hội nghị triển khai nhiệm vụ công tác năm 2011 của Bộ LĐ-TB&XH được tổ chức mới đây, ông Nguyễn Đại Đồng- Cục trưởng Cục Việc làm- cho biết: Hiện nay ở khu vực Đông Nam Á, chỉ có 2 nước đang triển khai được chính sách bảo hiểm thất nghiệp là Việt Nam và Thái Lan, song ở Thái Lan đã không thành công, trong khi đó ở Việt Nam sau 2 năm triển khai chính sách bảo hiểm thất nghiệp, tới nay hoạt động thu và chi trả bảo hiểm thất nghiệp đã đạt được những kết quả mong muốn. Tổng quỹ bảo hiểm thất nghiệp đã đạt hơn 7.800 tỷ đồng, số lượng người tham gia bảo hiểm thất nghiệp đã vượt cả dự kiến. Cùng với thu, việc chi trả bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động để có cơ hội tìm kiếm việc làm cũng đang được triển khai đồng thời. Tính tới ngày 31/12/2010, quỹ bảo hiểm thất nghiệp đã chi trả khoảng 550 tỷ đồng.
4. Về tổ chức tiếp nhận đăng ký và giải quyết hưởng trợ cấp thất nghiệp
Theo báo cáo của các địa phương, tính đến hết ngày 30/06/2010 tình hình tiếp nhận và giải quyết các chế độ BHTN trên toàn quốc như sau:
- Tổng số người đến đăng kí thất nghiệp: 86.994
- Số người đã nộp hồ sơ hưởng: 63.707
- Số người đã có quyết định hưởng: 50.057
- Số người có quyết định hưởng 1 lần: 1.732
- Số người đề nghị chuyển hưởng: 11.523
- Số người tạm dừng hưởng: 2.506
- Số người chấm dứt hưởng: 8.072
- Số người được tư vấn giới thiệu việc làm: 34.997
- Số người được hỗ trợ học nghề: 108
Trong số những người có quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng tháng, số người dưới 24 tuổi có 12.275, chiếm 24,5%; từ 25-40 tuổi có 31.366 người, chiếm 62,7%; trên 40 tuổi có 6.416 người, chiếm 12,8%; Nam: 20.700 người, chiếm 41,4%; Nữ: 29.357 người, chiếm 58,6%. Một số địa phương có nhiều người đăng ký thất nghiệp và đề nghị hưởng BHTN, cụ thể như sau:
Nguồn: Sở Lao động – Thương binh và xã hội
Năm 2011, đăng ký BHTN tăng đáng ngại. Theo thông tin từ Trung tâm giới thiệu việc làm Hà Nội, bắt đầu từ tháng 6/2011 trung tâm luôn nằm trong tình trạng "hoạt động hết công suất" kể cả trong những ngày không tổ chức phiên giao dịch việc làm. Từ đầu năm tới hết ngày 1/9, đã có 10.458 lao động đến đăng ký bảo hiểm thất nghiệp, trong khi cả năm 2010 chỉ có 4.192 người đăng ký. Như vậy, mới chỉ 8 tháng mà số lượng người đăng ký bảo hiểm thất nghiệp đã cao gấp đôi so với lượng người đăng ký của cả năm 2010.
Theo báo cáo của Trung tâm Giới thiệu việc làm TP.HCM, từ đầu năm đến nay (15-9-2011), số người đến đăng ký thất nghiệp tại trung tâm tăng đột biến. Cụ thể: Trong quý I/2011 số người đến đăng ký BHTN là gần 23.000 người (tăng hơn 200% so với cùng kỳ năm ngoái). Chỉ tính riêng trong tháng 3 đã trên 10.600 người, tháng 4 tăng hơn 31% với gần 14.000 người. Từ đầu năm đến nay, thành phố có trên 70.000 người lao động đăng ký thất nghiệp, trong khi cả năm 2010, chỉ có khoảng 67.000 người. Số liệu tổng hợp của Cục Việc làm (Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội) cũng cho thấy, đến hết tháng 6/2011, có 146.538 người tới đăng ký thất nghiệp tại các trung tâm giới thiệu việc làm. Con số này tăng gấp ba lần so với cùng kỳ năm ngoái.
Không chỉ tại Hà Nội, TP Hồ Chí Minh mà nhiều TP lớn khác như Đà Nẵng, Vinh, Đồng Nai… cảnh xếp hàng chờ làm thủ tục BHTN cũng đang diễn ra. Thực trạng này khiến nhiều người lo ngại đến khả năng mất cân đối thu chi của quỹ BHTN cũng như tình trạng thất nghiệp "ảo" khi chủ sử dụng LĐ "hợp tác" với người LĐ để "trục lợi" từ chính sách này.
III. Hạn chế và nguyên nhân
Hạn chế
* Về nhận thức của người lao động và người sử dụng lao động:
- Nhận thức của người lao động về chính sách BHTN còn hạn chế, một số người chưa hiểu rõ quyền và trách nhiệm của mình, thậm chí nhiều người cho rằng cứ thất nghiệp là được hưởng trợ cấp và được hưởng 1 lần là 3 tháng trợ cấp để về quê nghỉ ăn Tết; một số chưa biết điều kiện để được hưởng nên số lượng người đăng ký thất nghiệp nhiều, nhưng đa số lại chưa đủ điều kiện để hưởng chế độ.
- Người sử dụng lao động chưa nhận thức đầy đủ về trách nhiệm của mình và chưa nắm rõ các qui định về hoàn thiện các thủ tục, giấy tờ cho người lao động để đăng ký thất nghiệp và nộp hồ sơ hưởng BHTN như các giấy tờ chứng minh về việc chấm dứt hợp đồng lao động, làm các thủ tục chốt sổ BHXH cho người lao động...
- Các cơ quan, tổ chức chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của chính sách nên công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến ở một số địa phương còn chậm, hình thức thông tin, tuyên truyền còn nghèo nàn dẫn đến một bộ phận không nhỏ người lao động, người sử dụng lao động không nắm bắt được, dẫn đến việc đăng ký thất nghiệp và hoàn thiện hồ sơ hưởng BHTN chậm theo quy định, ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao động.
* Về chính sách:
- Việc xác định đối tượng cụ thể tham gia BHTN cũng gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là các đối tượng trong các đơn vị sự nghiệp Nhà nước (phân biệt giữa cán bộ, công chức, viên chức), các tập đoàn, tổng công ty Nhà nước (Tổng giám đốc, phó tổng giám đốc, kế toán trưởng, các thành viên hội đồng quản trị).
- Chính phủ đã ban hành Nghị định số 06/2010/NĐ-CP ngày 25/1/ 2010 quy định những người là công chức, trong đó có những người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu, một số vị trí của các đơn vị sự nghiệp Nhà nước (tuỳ từng đơn vị trực thuộc cấp nào) được coi là công chức nên không thuộc đối tượng tham gia BHTN. Những đối tượng này trước đây không được coi là công chức nên thuộc đối tượng tham gia BHTN song đến nay, chưa có văn bản hướng dẫn rõ các chức danh này.
- Một số nội dung hướng dẫn cần làm rõ như qui định về việc ngươừ thất nghiệp từ chối nhận việc làm vì lý do không chính đáng; các trường hợp được coi là có việc làm; người lao động chưa làm việc đủ tháng nhưng đã đóng BHTN đủ tháng. Đồng thời, qua quá trình thực hiện có những vấn đề thuộc quy định của Luật BHXH cũng cần được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp.
* Về chốt sổ BHXH:
Hiện nay, về cơ bản cơ quan BHXH rất khẩn trương và đảm bảo tiến độ trong việc chốt sổ cho người lao động, nhưng cũng gặp nhiều khó khăn do một số doanh nghiệp chậm hoặc nợ đóng BHXH nói chung và BHTN nói riêng nên không chốt được sổ; nhiều doanh nghiệp không kịp thời làm các thủ tục chốt sổ cho người lao động hưởng chế độ.
*Về bộ máy tổ chức thực hiện:
Ngành Lao động-Thương binh và Xã hội thực hiện tiếp nhận và giải quyết các thủ tục hưởng BHTN, ở địa phương Phòng BHTN thuộc TTGTVL thực hiện nhiệm vụ này.Tuy nhiên, TTGTVL thuộc Sở LĐ – TBXH do địa phương quản lý, không được tổ chức theo ngành dọc như đối với BHXH Việt Nam nên việc chỉ đạo từ trung ương xuống các địa phương đã gặp phải không ít khó khăn.
Việc phối hợp giữa Cục Việc làm, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội với BHXH Việt Nam ở cấp trung ương rất chặt chẽ (Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội và BHXHVN đã ký quy chế phối hợp công tác giữa hai ngành, trong đó có quy định về công tác phối hợp thực hiện chính sách BHTN), nhưng ở một số địa phương sự phối hợp giữa hai ngành còn gặp nhiều khó khăn.
*Về kinh phí quản lý:
Theo quy định, toàn bộ chi phí cho các hoạt động sự nghiệp BHTN được trích từ Quỹ BHTN, Phòng BHTN trực thuộc TTGTVL chỉ là một bộ phận của trung tâm, nhưng kinh phí hoạt động do quỹ trên đảm bảo và được cấp qua Cục Việc làm, không phải là hệ thống dọc nên việc lập dự toán, phân bổ, giải ngân và thanh, quyết toán gặp rất nhiều khó khăn, phức tạp, ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện nhiệm vụ.
Nguyên nhân của những hạn chế trên
Ý thức của người lao động cũng như người sử dụng lao động chưa cao:
Trước hết tâm lý của người lao động là không muốn bỏ tiền ra đóng góp bất kỳ khoản gì, không muốn tham gia vì ngại những thủ tục phiền hà...
Hiện tượng còn rất nhiều doanh nghiệp cũng như người lao động không chịu đóng bảo hiểm thất nghiệp là do họ rất băn khoăn về 3 câu hỏi:
Thứ 1 : Khi thất nghiệp sẽ phải đến đâu để nhận tiền trợ cấp.
Thứ 2 : Thủ tục đăng kí khá phiền hà.
Thứ 3 : Nhiều lao động còn tỏ ra chủ quan khi nhận định rằng những gì họ nhận được từ bảo hiểm thất nghiệp là quá phiền phúc và từ đó có tâm lý là thà tranh thủ đi kiếm việc khác tốt hơn.
Đó là người lao động còn người sử dụng lao động thì ta thấy rằng trong điều kiện cạnh tranh rất gay gắt, trong điều kiện hội nhập mà nước ta hầu hết là doanh nghiệp nhỏ và vừa, thì bất kỳ một sự gia tăng chi phí đầu vào nào dù là nhỏ cũng sẽ gây ảnh hưởng đến hoạt động, lợi nhuận của doanh nghiệp. Vì thế xảy ra hiện tượng chây ỳ trong việc đóng bảo hiểm thất nghiệp ở các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Các cơ quan hữu quan đùn đẩy trách nhiệm cho nhau
Quy định của Luật về Bảo hiểm thất nghiệp nếu: trong vòng 7 ngày kể từ ngày mất việc, chấm dứt hợp đồng lao động, người lao động phải đăng ký thất nghiệp; 15 ngày sau đó, người lao động phải nộp đủ hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp. Như vậy chỉ trong vòng 22 ngày người lao động phải hoàn tất hồ sơ, nếu không sẽ bị từ chối hưởng trợ cấp thất nghiệp. Tuy nhiên, nhiều người lao động cho hay nơi họ làm việc cố tình gây khó khăn trong việc chốt sổ bảo hiểm xã hội. Việc chốt sổ bảo hiểm xã hội cho người thất nghiệp đã gặp nhiều vướng mắc. Nhiều người dù đã đăng ký từ sớm nhưng chưa được chốt sổ là do các doanh nghiệp làm thủ tục chốt sổ không đúng quy trình, nhầm lẫn thông tin của họ. Hồ sơ được gửi lên, Bảo hiểm xã hội rà soát thấy sai phải gửi trở lại để doanh nghiệp làm lại. Việc này sẽ khiến nhiều người lao động thất nghiệp không thể nhận được trợ cấp đúng hạn.
Cơ quan chức năng lúng túng thừa nhận có nhiều vướng mắc phát sinh từ thực tế mà họ chưa lường hết được. Đơn cử, trong trường hợp doanh nghiệp nợ bảo hiểm thất nghiệp từ 3 tháng trở lên thì người lao động không được chốt sổ bảo hiểm xã hội, và như vậy sẽ không được nhận trợ cấp thất nghiệp. Lỗi ở đây là của chủ doanh nghiệp, nhưng thiệt hại lại thuộc về người lao động. Và cơ quan chức năng thì chưa biết xử lý ra sao.
Tương tự, ở doanh nghiệp có chủ bỏ trốn cũng không biết phải giải quyết quyền lợi cho người lao động ra sao. Nếu doanh nghiệp không hợp tác trong việc chốt sổ bảo hiểm xã hội cho người lao động đúng hạn thì cơ quan chức năng cũng chưa biết phải áp dụng biện pháp hữu hiệu nào.
Tính đa dạng của thị trường lao động nảy sinh các trường hợp khó giải quyết:
Một trong những nguyên nhân gây ra thất nghiệp còn do những người lao động làm những công việc mang tính chất mùa chất mùa vụ, những làng nghề truyền thống. Tiền lương của họ cũng phụ thuộc vào sản lượng đặt hàng cũng như thời vụ trong năm do đó việc tính toán tiền lương chính xác để tính phí bảo hiẻm cũng không thể rõ ràng được. Đó là chưa kể, mức độ luân chuyển, di dời lao động ở nhiều công ty phải đến 50% mỗi năm khiến việc theo dõi, chốt sổ bảo hiểm rất phức tạp.
Phần 3: Giải pháp, kiến nghị
I. Giải pháp cho BHXH nói chung:
1. Đối với Nhà nước
- Nhà nước cần phải xây dựng một hệ thống cơ chế chính sách để khuyến khích những đối tượng tham gia dịch vụ BHXH và bảo vệ những đối tượng thụ hưởng của loại hình dịch vụ này.
- Xác định rõ trách nhiệm của chính quyền các cấp, của các bộ, ngành liên quan, tổ chức công đoàn trong việc thực hiện Luật BHXH; và giao cho BHXH Việt Nam có thẩm quyền thanh tra và xử phạt các doanh nghiệp, đơn vị nợ đọng tiền đóng BHXH.
- Hoàn thiện Luật BHXH nhằm tạo sự thông thoáng trong việc triển khai BHXH.
- Nhà nước tạo mọi điều kiện để cho các thành phần kinh tế phát triển nhằm tăng nguồn thu cho quỹ BHXH.
- Sửa đổi các quy định hiện hành về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH theo hướng nâng cao mức phạt, quy định mức lãi suất chậm đóng BHXH linh hoạt, tối thiểu cũng bằng lãi suất tiền vay quá hạn của các ngân hàng thương mại quy định tại từng thời điểm tính lãi.
- Không ngừng mở rộng cả phạm vi, hình thức và nội dung thông tin, tuyên truyền nêu gương các doanh nghiệp làm tốt, phê phán các doanh nghiệp trốn đóng BHXH, đồng thời tuyên truyền sâu rộng và triển khai đưa pháp luật BHXH vào đời sống xã hội để thực sự trở thành quyền lợi và nghĩa vụ của mọi công dân Việt Nam.
- Xúc tiến việc thiết lập và mở rộng quan hệ của BHXH Việt Nam với BHXH của các nước khác. Công tác này nhằm trao đổi và học hỏi kinh nghiệm của các nước khác giúp cho quá trình hội nhập với hệ thống bảo hiểm quốc tế mà gần nhất là các nước trong khu vực Đông Nam Á.
2. Đối với cơ quan Bảo hiểm xã hội
- Mở rộng đối tượng tham gia BHXH và hình thức tham gia:
Đây là mục tiêu hàng đầu có tính chất sống còn đối với hoạt động BHXH Việt Nam. Nước ta có một nguồn lao động phong phú và đầy tiềm năng tham gia BHXH.
Việc mở rộng phạm vi áp dụng BHXH cho mọi người trong các thành phần kinh tế đã được Đảng và Nhà nước khẳng định. Vì vậy ngoài hình thức BHXH bắt buộc nên khuyến khích hình thức BHXH tự nguyện, đồng thời động viên, khuyến khích các đối tượng lao động khu vực phi chính thức (chủ yếu là nông dân) tham gia vào hệ thống BHXH và BHYT tự nguyện.
- Cần có những biện pháp để bảo toàn và đầu tư tăng trưởng quỹ. Quỹ BHXH phải được quản lý thống nhất dân chủ và công khai. Phương hướng đặt ra là:
Đối với hoạt động thu: Việc tăng số thu cho quỹ BHXH được xem là một trong những hoạt động bảo toàn và tăng trưởng quỹ. Đi đôi với việc mở rộng đối tượng tham gia BHXH thì nhu cầu chi trả trong tương lai sẽ tăng lên. Do đó, việc tăng thu cho quỹ BHXH thực sự có ý nghĩa với bảo toàn và tăng trưởng quỹ khi nó được gắn liền với hoạt động đầu tư quỹ BHXH. Việc thiết lập hệ thống kiểm soát thu giúp phát hiện những sai lầm dấu hiệu không an toàn cho quỹ trong việc quản lí đối tượng thu, đôn đốc thu nộp, quản lí tiền thu cũng góp phần bảo toàn quỹ.
Đối với hoạt động chi: Việc tính toán khoa học và hợp lí mức chi trả và phương thức chi trả vừa góp phần đảm bảo đời sống của người hưởng thụ, vừa đảm bảo khả năng chi trả của quỹ có số dư ngày càng lớn tạo tiền đề cho hoạt động đầu tư. Quản lí đối tượng hưởng thụ và tổ chức chi trả chặt chẽ an toàn sẽ đảm bảo cho nguồn vốn quỹ không bị thất thoát. Các khoản chi cho quản lý tài chính cần phải sử dụng tiết kiệm hiệu quả và từ đó góp phần tăng khả năng tự tích luỹ đáp ứng cho nhu cầu đầu tư. Bên cạnh đó không thể quên việc thiết lập hệ thống kiểm soát góp phần ngăn ngừa và hạn chế các khuyết điểm và sai phạm có thể xảy ra trong quá trình nghiên cứu, xét duyệt hồ sơ nhằm đảm bảo an toàn quỹ, giữ nghiêm kỉ luật, nâng cao năng lực và uy tín hoạt động của BHXH.
- Việc thực hiện chế độ BHXH có tác động trực tiếp đến tình hình ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội. Do vậy, cơ quan BHXH các cấp cần chủ động tham mưu, định kỳ báo cáo tình hình, phản ánh những tồn tại, kiến nghị các biện pháp giải quyết với cấp ủy, chính quyền địa phương trong việc thực hiện chính sách BHXH.
- Tiếp tục nghiên cứu, tổng kết thực tiễn để đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, cải tiến lối làm việc. Để làm được điều này, cần loại bỏ những thủ tục hành chính không cần thiết, những việc làm hình thức, không có hiệu quả thiết thực, không phù hợp với thực tế hoặc chồng chéo đang gây trở ngại cho hoạt động của đơn vị sử dụng lao động và người lao động, dễ bị lợi dụng để sách nhiễu, tham nhũng nhằm vừa tạo thuận tiện nhanh chóng, vừa tránh gây phiền hà trong thực hiện chính sách BHXH, hướng tới mục tiêu phục vụ người lao động ngày một tốt hơn.
- Bổ sung và hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Hội đồng quản lý, Tổng giám đốc BHXH Việt Nam và của BHXH các cấp, thành lập mới một số đơn vị chuyên môn để giúp tổng giám đốc trong việc điều hành công tác.
- Tuyển dụng mới và bồi dưỡng nâng cao mọi mặt cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong ngành theo hướng giỏi về chuyên môn, vững vàng về nghiệp vụ, chính trị tư tưởng phẩm chất đạo đức tốt.
- Tiến hành đầu tư, trang bị cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện đại, đáp ứng được nhu cầu của hoạt động BHXH trong tình hình mới.
- Trong tương lai, đối tượng tham gia BHXH sẽ tăng nhanh và có nhiều biến động. Do đó, công tác dự báo đối tượng tham gia BHXH phải được hết sức chú trọng nhằm phục vụ cho việc lập và thực hiện kế hoạch thu sát với thực tiễn, làm tăng khả năng thu BHXH.
3. Đối với các doanh nghiệp
- Tham gia BHXH nghiêm túc theo quy định của pháp luật để cơ quan BHXH làm tốt công tác thu và chi trả chế độ cho người lao động được kịp thời. Thực hiện khai báo đủ số lao động, đăng ký tham gia đúng hạn, ghi rõ các quyền và nghĩa vụ của người lao động, mức lương người lao động được hưởng và đúng với mức lương thực tế trả cho người lao động để tham gia đóng BHXH.
- Luôn hợp tác tích cực với cơ quan bảo hiểm xã hội.
- Nâng cao chất lượng, hiệu quả, vai trò và vị trí của hoạt động công đoàn, tổ chức cơ sở Đảng trong chỉ đạo thực hiện công tác BHXH.
- Đi đôi với việc phát triển doanh nghiệp, cần chú ý nâng cao nhận thức, ý thức tự giác, tự nguyện của cả chủ sử dụng lao động và người lao động về lĩnh vực BHXH.
II. Giải pháp cho BHYT
Thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân như Luật Bảo hiểm y tế đã đề ra là giải pháp cơ bản, đảm bảo hiệu quả cao nhất trong thực hiện chức năng chia sẻ rủi ro của bảo hiểm y tế. Sau đây là một số nhóm giải pháp chính cho BHYT của Việt Nam hiện nay:
1. Nhóm giải pháp nhằm mở rộng đối tượng tham gia BHYT
Để thực hiện mục tiêu BHYT toàn dân, phải nhanh chóng hoàn thiện những vấn đề sau khi quy định về đối tượng tham gia BHYT:
Thứ nhất, việc quy định một trong những điều kiện triển khai BHYT tự nguyện là phải đạt tỷ lệ % cố định người tham gia BHYT cho mọi địa bàn như trong Thông tư liên tịch số 22/2005/TTLT-BYT-BTC là một điều không hợp lý vì mỗi vùng, miền có thể có điều kiện phát triển kinh tế xã hội khác nhau, nhận thức của người dân không giống nhau về BHYT nói chung, BHYT tự nguyện nói riêng, do đó sẽ khó đạt được mục tiêu xã hội hoá công tác BHYT.
Nên áp dụng tỷ lệ % khác nhau đối với các khu vực khác nhau. Khu vực thành thị, thị xã nên áp dụng tỷ lệ % cao hơn so với các khu vực miền núi, vùng sâu, vùng mà điều kiện kinh tế còn khó khăn. Hoặc có thể áp dụng các tỷ lệ % thấp hơn đối với các trường học lần đầu tiên tham gia BHYT tự nguyện cho học sinh, sinh viên. Như vậy sẽ đảm bảo tốt hơn quyền lợi cho người tham gia, đảm bảo mục đích an sinh xã hội của loại hình BHYT này.
Thứ hai, về việc xác định hình thức tham gia BHYT cho nhóm đối tượng không có quan hệ lao động: việc đưa nhóm đối tượng này tham gia BHYT bắt buộc rất khó khăn. Nhóm đối tượng này nên được vận động để tham gia BHYT tự nguyện theo hộ gia đình.
Thứ ba, nên thực hiện BHYT bắt buộc với nhóm đối tượng là học sinh, sinh viên. Đây là nhóm đối tượng có tiềm năng, không chỉ chiếm số lượng đông đảo mà còn là nhóm đối tượng có nhận thức tốt về mọi mặt. Đây là một giải pháp nhằm giáo dục cho tuổi trẻ ý thức được sự cần thiết và bắt buộc đối với bản thân khi lớn lên phải có trách nhiệm tham gia BHYT.
Thứ tư, xem xét bổ sung các quy định về BHYT đối với đối tượng là trẻ em dưới 6 tuổi. Hiện nay, nước ta đang thực hiện chế độ khám chữa bệnh (KCB) miễn phí cho trẻ em dưới 6 tuổi. Bằng cách này có thể giúp các gia đình chủ động về kinh tế cho các em. Các bệnh viện cũng chủ động hơn trong việc KCB.
2. Nhóm giải pháp nhằm giải quyết tình trạng mất cân bằng thu chi của quỹ BHYT
Thứ nhất, cần tiến hành nghiên cứu để có thể giảm bớt việc áp dụng phương thức thanh toán (PTTT) theo phí dịch vụ, thay vào đó là phương thức thanh toán theo định suất.
Hiện nay, thanh toán theo phí dịch vụ đang là PTTT được sử dụng phổ biến. Đây là PTTT phù hợp trong giai đoạn đầu áp dụng BHYT vì nó đảm bảo được quyền lợi của người bệnh và đáp ứng chi phí KCB thực tế tại các bệnh viện. Nhưng PTTT theo phí dịch vụ không thể thực hiện lâu dài như là một phương thức duy nhất vì nó có nhiều nhược điểm như : không khuyến khích được phòng bệnh, làm cho chi phí KCB ngày càng gia tăng mà không có sự kiềm chế.
Trong thời gian tới, chúng ta nên áp dụng PTTT theo khoán định suất. Đây là PTTT có nhiều ưu điểm hơn hẳn PTTT theo phí dịch vụ. Khoán định suất là phương thức thanh toán qua đó cơ sở KCB nhận được một khoản tiền cố định cho mỗi người đăng ký KCB tại đó trong một thời gian nhất định (tháng, quý, năm) mà không tính đến số lượng dịch vụ sẽ cung cấp. Khoán định suất được đánh giá là phương pháp thanh toán có khả năng quản lý chi phí KCB, đảm bảo được chất lượng dịch vụ y tế, việc quản lý hành chính khá dễ dàng với chi phí quản lý thấp. PTTT này đang được nhiều quốc gia trong khu vực như Thái Lan, Philippin áp dụng và tỏ ra có hiệu quả cao trong quản lý quỹ và bảo đảm quyền lợi cho người tham gia BHYT. Do đó, nên áp dụng rộng rãi hơn PTTT này trong thực tế Việt Nam hiện nay.
Thứ hai, hoàn thiện chính sách giá viện phí.
Để có cơ sở điều chỉnh những mức giá bất hợp lý theo đúng nguyên tắc thu một phần viện phí, cần phải tiến hành khảo sát chi phí thực tế tại các cơ sở KCB. Đồng thời kiểm tra việc chấp hành việc định giá các dịch vụ y tế tại tất cả các cơ sở KCB thuộc sở hữu Nhà nước. Xử lý nghiêm minh các trường hợp tự qui định giá các dịch vụ y tế, gây ảnh hưởng đến quyền lợi người bệnh.
Thứ ba, tiếp tục hoàn thiện mức đóng, hưởng bảo hiểm y tế để đảm bảo khả năng cân đối quỹ bảo hiểm y tế theo hướng: Thực hiện đa dạng hóa các chế độ bảo hiểm y tế theo các nhóm bệnh tật với các mức đóng, hưởng khác nhau trong đó có tính đến các trợ giúp mức đóng cho các nhóm đối tượng dễ bị tổn thương; gắn quyền lợi được hưởng các chế độ bảo hiểm y tế với mức tham gia và thời gian tham gia đóng bảo hiểm y tế của người dân; tính toán mức “đồng chi trả” giữa người bệnh có bảo hiểm y tế và cơ quan bảo hiểm y tế một cách hợp lý để hạn chế tình trạng lạm dụng quỹ bảo hiểm y tế nhưng vẫn đảm bảo được quyền lợi của đối tượng tham gia bảo hiểm; trong dài hạn, cần nâng cao hiệu quả đầu tư từ tiền nhàn rỗi của quỹ bảo hiểm y tế.
3. Nhóm giải pháp nhằm đảm bảo quyền lợi của người tham gia BHYT
Thứ nhất, nâng cao chất lượng KCB cho người tham gia BHYT.
Một trong những nét đặc thù của BHYT là không thể tách rời ngành y tế nói chung và cơ sở KCB nói riêng. Trong thời gian tới, cần nghiên cứu để sắp xếp lại hệ thống bệnh viện theo các địa bàn dân cư, tăng đầu tư cho các bệnh viện tuyến dưới để tăng khả năng tiếp cận dịch vụ y tế của nhân dân, hạn chế tình trạng quá tải ở các bệnh viện tuyến trên. Ngành y tế cần tích cực sắp xếp lại tổ chức bộ máy, đề xuất chính sách đãi ngộ, chính sách ưu đãi đối với cán bộ y tế, cán bộ dược, cán bộ y học cổ truyền.
Thứ hai, bên cạnh việc quy định chế độ khám chữa bệnh cần quy định thêm chế độ phòng bệnh, chẩn đoán sớm và tư vấn sức khỏe miễn phí cho người tham gia BHYT.
Để thu hút người khỏe mạnh tham gia BHYT, bên cạnh việc chữa bệnh cần quy định cả chế độ phòng bệnh, chẩn đoán sớm và tư vấn sức khỏe miễn phí cho người tham gia BHYT hoặc có cơ chế thưởng cho người tham gia BHYT nhưng có sức khỏe tốt và không phải đi khám chữa bệnh. Những dịch vụ này có chi phí nhỏ nhưng lại có tác động về mặt tinh thần rất lớn vì những người khỏe mạnh tham gia BHYT sẽ thấy được sự hữu ích của hoạt động bảo hiểm này và tích cực tham gia BHYT.
Thứ ba, cần có chế tài xử phạt nghiêm khắc hơn để xử lý các vi phạm về BHYT như : trốn đóng BHYT cho người lao động, lợi dụng, lừa đảo tiền bảo hiểm. Bên cạnh đó, nên tăng trách nhiệm và quyền hạn cho cơ quan BHXH. Cần quy định thêm chức năng giám sát chất lượng KCB của các bệnh viện cho cơ quan BHXH, bên cạnh lực lượng thanh tra y tế còn rất mỏng hiện nay để tăng hiệu quả của công tác này.
III. Giải pháp cho BHTN
Bảo hiểm thất nghiệp là một biện pháp hỗ trợ người lao động trong thị trường lao động. Thông qua các hoạt động đào tạo nghề, tư vấn, giới thiệu việc làm, sớm đưa những lao động thất nghiệp trở lại làm việc. Đồng thời, nó cũng hỗ trợ một khoản tiền đảm bảo ổn định cuộc sống cho người lao động trong thời gian mất việc. Bảo hiểm thất nghiệp là một loại hình bảo hiểm tiến bộ không chỉ có ý nghĩa hỗ trợ người lao động khi mất việc làm mà còn có giá trị ổn định kinh tế - xã hội đối với xã hội, đất nước. Vì vậy, để chính sách BHTN thực sự phát huy vai trò, thu hút đông đảo người lao động cũng như chủ sử dụng lao động tham gia, trong thời gian tới, cần có những giải pháp gỡ những vướng mắc như sau :
Tiếp tục tổ chức rà soát, phát hiện, sửa đổi và bổ sung kịp thời các văn bản hướng dẫn thực hiện chế độ, chính sách BHTN
- Trước mắt, trong phạm vi, quyền hạn của mình, Cục Việc làm đã nghiên cứu, dự thảo và trình lãnh đạo Bộ để xin ý kiến các cơ quan có liên quan về việc thay thế Thông tư số 04/2009/TT-BLĐTBXH ngày 22/01/2009 và Thông tư số 34/2009/TT-BLĐTBXH ngày 16/10/2009 để khắc phục những khó khăn, vướng mắc và những vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện chính sách BHTN.
- Trong thời gian tới, cần tiếp tục nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Nghị định 127/2008/NĐ-CP ngày 12/12/2008 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo hiểm Xã hội về BHTN và Luật BHXH cho phù hợp với thực tế triển khai thực hiện chính sách như: vấn đề mở rộng đối tượng, phạm vi áp dụng chính sách BHTN và các vấn đề liên quan đến chính sách, quy trình thực hiện, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức có liên quan, hạn chế việc lạm dụng chính sách.
Tăng cường tuyên truyền chính sách về BHTN đến tận chủ sử dụng lao động và người lao động thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, hội thảo, tọa đàm, phổ biến chính sách ở các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động và các khu công nghiệp nhằm nâng cao nhận thức của chủ sử dụng lao động cũng như bản thân người lao động về chính sách BHTN, quy trình thủ tục tham gia, các chế độ thụ hưởng BHTN như hỗ trợ học nghề, hỗ trợ tìm việc làm, bảo hiểm y tế…
Đẩy mạnh sự phối hợp giữa ngành Lao động – Thương binh và Xã hội và ngành Bảo hiểm xã hội nhằm tháo gỡ những vướng mắc trong quá trình thực hiện như ban hành văn bản hướng dẫn kịp thời, phù hợp với tình hình thực tế, xác định đối tượng đóng BHTN, xác định rõ những người có việc làm thôi hưởng trợ cấp thất nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động khi tham gia và thụ hưởng chế độ, đồng thời tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực BHTN.
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra của ngành và liên ngành, kiên quyết xử lý những doanh nghiệp cố tình trây ỳ, trốn đóng BHTN hoặc những trường hợp doanh nghiệp, người lao động có hiện tượng gian lận trong thụ hưởng chế độ BHTN.
Tiếp tục hoàn thiện quy trình thực hiện BHTN và phải thực hiện đúng các quy định hiện hành. Kiện toàn tổ chức, cơ sở vật chất: Tổ chức mạng lưới tiếp nhận đăng ký thất nghiệp trên địa bàn đảm bảo thuận lợi nhất cho người lao động; nâng cao năng lực cán bộ thực hiện chính sách. Thành lập một hệ thống ngành dọc từ trung ương đến địa phương để thực hiện chế độ, chính sách BHTN, cách thức tổ chức này tạo sự chủ động, linh hoạt trong quá trình hoạt động và có nhiều thuận lợi.
Cần phát huy vai trò của tổ chức công đoàn trong việc bảo vệ quyền lợi cho người lao động cùng với sự phối hợp của các cấp, các ngành trong việc tuyên truyền chính sách về BHTN cũng như giám sát việc thực hiện BHTN.
Về phía người lao động cần chủ động tìm hiểu nắm được chính sách BHTN, tích cực tham gia các cuộc hội thảo, tạo đàm hoặc phổ biến chính sách về BHTN để yêu cầu về quyền lợi tham gia BHTN khi ký kết hợp đồng với chủ sử dụng lao động, biết được quy trình, thủ tục khi thụ hưởng chế độ BHTN.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- kinh t7871 b7843o hi7875m th7883 tr4327901ng b7843o hi7875m x hamp7.doc