Tài liệu Đề tài Thực trạng tình hình sử dụng vốn đầu tư phát triển và vốn đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước tới tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam: Lời mở đầu
Ngay từ khi xuất hiện loài người, con người đã phải bỏ ra thời gian, sức lực, trí tuệ để kiếm sống. Tuy nhiên, do dân số ngày càng phát triển và tài nguyên không phải là vô tận nên các nguồn lực tự nhiên ngày càng khan hiếm. Bởi vậy, để có thể đạt được các kết quả mong muốn thì con người không những phải mất thời gian, trí lực, sức lực mà còn phải cần sử dụng các nguồn lực khác như vốn bằng tiền, máy móc, nguyên vật liệu…Sự bỏ ra hay còn gọi là hi sinh các nguồn lực này được gọi là đầu tư.
Đầu tư là một hoạt động kinh tế, là một bộ phận không thể thiếu được trong hoạt động sản xuất kinh doanh ở các cấp cơ sở khác nhau. Đầu tư phát triển là một hình thức đầu tư có ảnh hưởng tiếp tới tăng tiềm lực kinh tế nói chung và tiềm lực sản xuất kinh doanh của từng cơ sở nói riêng, nó là điều kiện chủ đạo để tạo việc làm nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội.
Đối với các nước đang phát triển như nước ta, khi mà cơ sở vật chất hạ tầng còn thiếu thốn, chưa đảm bảo, nhu cầu ...
103 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1302 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Thực trạng tình hình sử dụng vốn đầu tư phát triển và vốn đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước tới tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Ngay từ khi xuất hiện loài người, con người đã phải bỏ ra thời gian, sức lực, trí tuệ để kiếm sống. Tuy nhiên, do dân số ngày càng phát triển và tài nguyên không phải là vô tận nên các nguồn lực tự nhiên ngày càng khan hiếm. Bởi vậy, để có thể đạt được các kết quả mong muốn thì con người không những phải mất thời gian, trí lực, sức lực mà còn phải cần sử dụng các nguồn lực khác như vốn bằng tiền, máy móc, nguyên vật liệu…Sự bỏ ra hay còn gọi là hi sinh các nguồn lực này được gọi là đầu tư.
Đầu tư là một hoạt động kinh tế, là một bộ phận không thể thiếu được trong hoạt động sản xuất kinh doanh ở các cấp cơ sở khác nhau. Đầu tư phát triển là một hình thức đầu tư có ảnh hưởng tiếp tới tăng tiềm lực kinh tế nói chung và tiềm lực sản xuất kinh doanh của từng cơ sở nói riêng, nó là điều kiện chủ đạo để tạo việc làm nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội.
Đối với các nước đang phát triển như nước ta, khi mà cơ sở vật chất hạ tầng còn thiếu thốn, chưa đảm bảo, nhu cầu cần vốn sản xuất của các ngành rất lớn thì đầu tư là điều kiện bắt buộc phải có trong chiến lược phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, đặc biệt đầu tư càng cần thiết hơn trong xu hướng toàn cầu hoá hiện nay.
Trong điều kiện nền kinh tế mở như hiện nay đầu tư bao gồm rất nhiều bộ phận: đầu tư trong nội địa, đầu tư từ nước ngoài. Trong đầu tư nội địa bao gồm: đầu tư từ NSNN, đầu tư từ vốn tự có của các doanh nghiệp Nhà nước, đầu tư từ các doanh nghiệp tư nhân…Còn đầu tư từ nước ngoài chủ yếu là đầu tư trực tiếp từ nước ngoài và một bộ phận từ nguồn vốn ODA.
Tuy là một bộ phận của đầu tư, nhưng đầu tư phát triển từ NSNN lại có vai trò rất quan trọng không những tới tăng trưởng kinh tế mà còn là một yếu tố đóng vai trò chủ đạo dẫn dắt các bộ phận khác của đầu tư hoạt động hiệu quả hơn, có tác dụng trực tiếp và gián tiếp tới chiến lược đầu tư phát triển, đến quy hoạch đầu tư theo ngành kinh tế, theo vùng lãnh thổ…
Trước tầm quan trọng của đầu tư và đặc biệt đầu tư phát triển từ NSNN, em xin được nghiên cứu, phân tích những tác động của đầu tư và cụ thể hơn là đầu tư phát triển từ NSNN tới tăng trưởng kinh tế quốc dân của Việt Nam trong giai đoạn 1990-2000. Với mục tiêu thông qua việc phân tích trên để thấy được tình hình sử dụng vốn đầu tư nói chung và vốn đầu tư phát triển từ NSNN nói riêng của nước ta trong thời gian qua tác động như thế nào tới tăng trưởng kinh tế nước ta cũng như những tồn tại trong việc sử dụng vốn đầu tư từ đó cũng xin được có một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của vốn đầu tư.
Đề tài được chia làm 3 phần chính:
Phần 1: Cơ sở lý luận của đầu tư.
Phần này đề cập một số khái niệm của đầu tư với mục đích tạo điều kiện thuận lợi hơn cho quá trình nghiên cứu. đồng thời cũng đưa ra một số tác động của đầu tư tới tăng trưởng kinh tế tạo tiền đề cho việc phân tích nghiên cứu phần 2 & phần 3
Phần 2: Thực trạng tình hình sử dụng vốn đầu tư phát triển và vốn đầu tư phát triển từ NSNN tới tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam.
Phần này phân tích, đánh giá thực trạng quá trình sử dụng vốn đầu tư phát triển từ NSNN, hiệu quả của nó tới tăng trưởng kinh tế. Bộ số liệu sử dụng là các chỉ tiêu kinh tế Việt Nam giai đoạn1990 đến 2000 .
Phần 3: Phân tích ảnh hưởng của vốn đầu tư và vốn đầu tư từ NSNN tác động tới tăng trưởng kinh tế
Phần này sử dụng các mô hình kinh tế lượng phân tích một số tác động của đầu tư cũng như đầu tư phát triển từ NSNN tới tăng trưởng kinh tế. Qua một số mô hình phân tích mang tính chất khái quát, không chuyên sâu về đầu tư và một số mô hình phân tích cụ thể hơn về mối quan hệ đầu tư phát triển từ NSNN và tăng trưởng kinh tế cung cấp những thông tin rõ nét hơn về đầu tư nói chung và đầu tư từ NSNN nói riêng tác động đến quá trình tăng trưởng kinh tế để từ đó có những đề xuất thích hợp
Luận văn của em hoàn thành được là nhờ sự hướng dẫn trực tiếp tận tình của thầy Hoàng Đình Tuấn và sự chỉ bảo, góp ý, giúp đỡ nhiệt tình, chu đáo của chú Võ Trí Thành, anh Hoàng Văn Thành cùng các cô chú trong Ban Nghiên cứu Vĩ Mô- Viện Nghiên cứu quản lý Kinh tế Trung Ương - Bộ Kế hoạch và đầu tư. Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy và các cô chú. Nhân dịp này, em cũng xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới tất cả các thầy cô giáo và bạn bè đã giúp đỡ em trong quá trình học tập những năm vừa qua.
Tuy nhiên, do kiến thức lý luận và kinh nghiệm thực tiễn còn non yếu, thời gian nghiên cứu chưa nhiều, cùng với các hạn chế về mặt số liệu nên Luận văn của em không tránh khỏi những khiếm khuyết và sơ sài. Em mong được sự góp ý chỉ bảo để Luận văn của em hoàn thành tốt hơn.
Hà nội tháng 5 năm2002
Mục lục
trang
Phần 1:
Cơ sở lý luận của đầu tư
8
I. Các khái niệm cơ bản
8
1. Đầu tư và phân loại đầu tư
8
a. Đầu tư
8
b. Phân loại đầu tư
8
2. Đầu tư phát triển của chính phủ từ NSNN
9
II. Nguồn hình thành vốn đầu tư
10
1. Nguồn vốn đầu tư trong nước
10
2. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài
14
III. đầu tư và tăng trưởng kinh tế
15
1.Tác động của đầu tư tới tăng trưởng kinh tế thông qua mô hình thu nhập quốc dân
16
2.Tác động của đầu tư tới tăng trưởng kinh tế thông qua hàm sản xuất
18
3. Đầu tư và mô hình nhân tử
20
4. Quan hệ giữa tăng trưởng và nhu cầu về vốn
20
5. Tác động của đầu tư tới tăng trưởng kinh tế thông qua mô hình AD – AS
21
IV. Vai trò của đầu tư phát triển của chính phủ từ NSNN đối với tăng trưởng kinh tế
23
1. Vai trò của đầu tư phát triển từ NSNN trong lĩnh vực Nông nghiệp và phát triển Nông thôn
23
2. Vai trò của đầu tư phát triển từ NSNN trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng
24
3. Vai trò của vốn đầu tư phát triển từ NSNN trong lĩnh vực đào tạo, giáo dục, khoa học công nghệ.
25
Phần 2
Quá trình sử dụng vốn đầu tư và vốn đầu tư phát triển từ NSNN của Việt Nam trong giai đoạn 1990-2000
26
I. khái quát chung nền kinh tế Việt nam giai đoạn 1990-2000
26
II. vốn đầu tư và cơ cấu vốn đầu tư của việt nam giai đoạn 1990-2000
28
1. Quá trình sử dụng vốn đầu tư ở Việt Nam giai đoạn 1990-2000
28
2. Hệ số ICOR và cơ cấu vốn đầu tư
35
III. vốn đầu tư phát triển từ NSNN ở Việt Nam trong giai đoạn 1990-2000
38
1. Khái quát chung về vốn Nhà nước
39
2. Thực trạng sử dụng vốn đầu tư phát triển từ NSNN giai đoạn 1990-2000
40
Phần 3
Phân tích ảnh hưởng của vốn đầu tư và vốn đầu tư phát triển từ NSNN tới tăng trưởng kinh tế Việt Nam
43
I. phân tích những tác động của đầu tư tới tăng trưởng kinh tế Việt nam giai đoạn 1990-2000
43
1.Mô hình thu nhập quốcdân
43
2.Mô hình Harrod- Domar
49
II. Đầu tư phát triển từ NSNN tác động tới tăng trưởng kinh tế quốc dân
52
1. Tác động của đầu tư phát triển từ NSNN tới tăng trưởng kinh tế quốc dân
52
2.Tác động của đầu tư phát triển từ NSNN tơí một số ngành kinh tế
55
2.1 Tác động tới lĩnh vực Nông, lâm, ngư nghiệp
55
2.2 Tác động tới lĩnh vực công nghiệp
57
2.3 Tác dụng tới lĩnh vực cơ sở hạ tầng
58
2.4 Tác dụng tới lĩnh vực giáo dục, đào tạo, khoa học công nghệ
58
3. Tác dụng của đầu tư phát triển từ NSNN tới đầu tư tư nhân
59
4. Tác dụng của đầu tư phát triển từ NSNN tới đầu tư trực tiếp nước ngoàI
63
IIi. Những nhân tố tác động tới đầu tư phát triển từ NSNN
65
1. Một số nét cơ bản của chính sách tài khoá Việt Nam giai đoạn 1990-2000
65
2. ảnh hưởng từ thuế tới chi đầu tư phát triển từ NSNN
66
3. ảnh hưởng của GDP tới chi đầu tư phát triển từ NSNN
68
4. ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính châu á tới nguồn vốn đầu tư phát triển từ NSNN
68
iv. một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của đầu tư phát triển từ NSNN
70
1. Những tồn tại trong đầu tư phát triển từ NSNN
70
a. Chính sách huy động vốn
71
b. Sử dụng vốn đầu tư từ NSNN
71
2. Định hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư từ NSNN
72
a. Kết cấu NSNN
72
b. Chính sách và cơ cấu quản lý vốn đầu tư từ NSNN
74
Kết luận
77
Phụ lục mô hình
78
Phần lục tài liệu tham khảo
104
Phần 1:
Cơ sở lý luận của đầu tư
Các khái niệm cơ bản
Đầu tư và phân loại đầu tư
Đầu tư
Đầu tư là sự hi sinh các nguồn lực ở hiện ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được kết quả đó.
Nguồn lực bỏ ra có thể là tiền, tài nguyên thiên nhiên, sức lao động, trí tuệ… Các kết quả thu được có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính (Tiền vốn), tài sản vật chất (Nhà máy, đường xá…), tài sản trí tuệ (trình độ văn hoá, chuyên môn, khoa học, kĩ thuật…) và các nguồn nhân lực có đủ điều kiện để làm việc có năng suất trong nền sản xuất xã hội. Những kết quả đạt được từ sự hi sinh các nguồn lực có vai trò rất quan trọng trong mọi lúc, mọi nơi không chỉ đối với người bỏ vốn đầu tư mà còn đối với cả toàn bộ nền kinh tế.
b. Phân loại đầu tư
Việc phân loại đầu tư có rất nhiều tiêu chí để phân loại, nhưng xét về bản chất và lợi ích do đầu tư đem lại ta có thể phân loại đầu tư thành 3 loại: Đầu tư tài sản tài chính; Đầu tư thương mại; Đầu tư phát triển.
*. Đầu tư tài sản tài chính:
Đầu tư tài sản tài chính là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra cho vay hoặc mua các giấy tờ có giá để hưởng lãi suất định trước, hay lãi suất tuỳ thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất- kinh doanh của công ty phát hành. Đầu tư tài sản tài chính không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế (Nếu không xét đến quan hệ quốc tế trong lĩnh vực này) mà chỉ làm tăng giá trị tài sản tài chính của tổ chức, cá nhân. Với sự hoạt động của hình thức đầu tư này, vốn đầu tư được lưu chuyển dễ dàng, khi cần có thể rút ra nhanh chóng. Đây thực sự là một nguồn cung cấp vốn quan trọng cho đầu tư phát triển.
*. Đầu tư thương mại.
Đầu tư thương mại là hình thức đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra mua hàng hoá và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận do chênh lệch giá khi mua và khi bán. Loại đầu tư này không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế (nếu không xét tới ngoại thương), mà chỉ làm tăng tài sản tài chính của người đầu tư trong quá trình mua đi bán lại, chuyển giao quyền sở hữu hàng hóa giữa người bán với người đầu tư và người đầu tư với khách hàng của họ. Tuy nhiên, đầu tư thương mại có tác dụng thúc đẩy quá trình lưu thông của cải vật chất do đầu tư phát triển tạo ra. Từ đó thúc đẩy đầu tư phát triển, tăng thu cho Ngân sách, tăng tích luỹ vốn cho phát triển sản xuất kinh doanh dịch vụ nói riêng và nền sản xuất xã hội nói chung.
*. Đầu tư phát triển
Đầu tư phát triển là những hoạt động đầu tư nhằm tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, làm tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động xã hội khác, là điều kiện chủ yếu để tạo việc làm, nâng cao đời sống của mọi người dân trong xã hội. Nói cách khác đầu tư phát triển là việc bỏ tiền ra để xây dựng, sửa chữa nhà cửa và các kết cấu hạ tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ, bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện các chi phí thường xuyên gắn liền với sự hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế xã hội
2. Đầu tư phát triển của chính phủ từ NSNN
Chi đầu tư phát triển kinh tế của chính phủ từ NSNN là một bộ phận trong chính sách chi Ngân sách của chính phủ. Dựa vào chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước, chi Ngân sách được phân thành:
+ Chi đầu tư phát triển kinh tế.
+ Chi văn hoá xã hội.
+ Chi quản lý hành chính.
+ Chi quốc phòng.
+ Chi khác.
Trong đó chi cho đầu tư phát triển kinh tế là nhiệm vụ hàng đầu của tất cả các Nhà nước hiện đại. Để đạt được sự phát triển chính phủ phải hoạch định được chiến lược phát triển đúng đắn, phù hợp và cần phải có vốn đầu tư của Nhà nước. Đối tượng đầu tư của Nhà nước thường là những công trình kinh tế mà không thể dựa vào đầu tư tư nhân nhưng hoạt động của chúng cần thiết cho xã hội. Tóm lại, đầu tư từ NSNN của chính phủ góp phần ổn định nền kinh tế, bù lấp các lỗ hổng kinh tế, đem lại công bằng cho xã hội.
Nguồn hình thành vốn đầu tư
Do đặc điểm của việc sử dụng tài sản là thời gian hoạt động dài và bị hao mòn dần, đồng thời do nhu cầu ngày càng tăng về tài sản cho nên cần phải tiến hành thường xuyên việc bù đắp hao mòn tài sản và tăng thêm khối lượng tài sản mới. Quá trình này được tiến hành bằng vốn đầu tư thông qua hoạt động đầu tư. Vốn đầu tư được hình thành từ tiết kiệm của dân cư, chính phủ, và tiết kiệm của các công ty. Ngoài ra, vốn đầu tư cũng được huy động từ các khoản viện trợ, các khoản đầu tư trực tiếp từ nước ngoài. Như vậy có thể chia nguồn hình thành vốn đầu tư thành nguồn vốn nội địa và nguồn vốn nước ngoài
Nguồn vốn đầu tư trong nước
Tiết kiệm của chính phủ (Sg)
Tiết kiệm của chính phủ, theo tính chất sở hữu bao gồm tiết kiệm từ Ngân sách nhà nước (Sg.h) và tiết kiệm của các công ty Nhà nước(Sg.e). Theo tổ chức kinh tế thì tiết kiệm của các công ty Nhà nước và tiết kiệm của các công ty tư nhân được kết hợp chung là tiết kiệm của các công ty. Do vậy trong phạm vi xem xét ở đây, tiết kiệm của chính phủ được giới hạn trong phạm vi tiết kiệm của Ngân sách Nhà nước. Về nguyên tắc, tiết kiệm được tính bằng cách lấy tổng số thu nhập trừ đi các khoản chi tiêu.
Tức là: Sg = ∑thu Ngân sách - ∑ chi Ngân sách.
Nhưng đối với chính phủ, đặc biệt là chính phủ của các nước đang phát triển, chi cho đầu tư phát triển là một nhiệm vụ chi quan trọng, do vậy tình trạng phổ biến là bội chi Ngân sách, nhưng đầu tư vẫn được coi là một nội dung chi tiêu quan trọng. Các khoản chi của chính phủ qua NSNN bao gồm:
Chi mua hàng hoá và dịch vụ.
Chi các khoản trợ cấp.
Chi trả lãi suất và các khoản vay.
Thu Ngân sách chủ yếu là thuế và một phần các khoản lệ phí. ở Việt Nam hiện nay có 9 sắc thuế chủ yếu, đó là: Thuế xuất - nhập khẩu; Thuế sử dụng đất nông nghiệp; Thuế nhà đất; Thuế tài nguyên; Thuế chuyển quyền sử dụng đất; Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao; Thuế tiêu thụ đặc biệt; Thuế giá trị gia tăng; Thuế thu nhập doanh nghiệp. Bình quân thu từ thuế, phí và các khoản lệ phí của Việt Nam đạt khoảng 95% đến 98% tổng thu cho Ngân sách Nhà nước.
Tiết kiệm của các công ty (Sc)
Tiết kiệm của các công ty được xác định trên cơ sở doanh thu của công ty và các khoản chi phí trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Doanh thu của công ty là các khoản thu nhập của công ty do tiêu thụ hàng hoá hoặc các dịch vụ sau khi đã trừ đi các chi phí trung gian trong quá trình sản xuất. Tổng doanh thu được kí hiệu là TR.
Tổng chi phí (TC) thường bao gồm các khoản: trả tiền công, trả tiền thuê đất đai, trả lãi suất tiền vay và thuế kinh doanh.
Khoản chênh lệch giữa tổng doanh thu và tổng chi phí được gọi là lợi nhuận của công ty trước thuế:
TR - TC = Pr trước thuế
Lợi nhuận trước thuế sau khi đóng thuế lợi tức sẽ còn lại lợi nhuận sau thuế :
Pr trước thuế - Td.e = Pr sau thuế
Đối với các công ty cổ phần thì Pr sau thuế còn phải chia cho các cổ đông:
Pr sau thuế - Pr cổ đông = Pr để lại công ty (Pr không chia).
Lợi nhuận để lại công ty ( hay còn gọi là lợi nhuận không chia) chính là tiết kiệm của công ty, nhưng vốn đầu tư của công ty còn sử dụng cả quỹ khấu hao nên:
Ic = Dp + Pr không chia
Trong đó: Ic là đầu tư của công ty
Dp là khấu hao.
Tiết kiệm của dân cư (Sh)
Tiết kiệm của dân cư phụ thuộc vào thu nhập và chi tiêu của các hộ gia đình bao gồm thu nhập có thể sử dụng (ID) và các khoản thu khác.
Thu nhập có thể sử dụng được tính bằng công thức:
DI = NI - Td + Su.
Trong đó: NI là thu nhập quốc dân sản xuất
Td là thuế thu nhập (bao gồm cả thuế thu nhập của công ty và thuế thu nhập của dân cư: Td = Td.e + Td.h).
Su là các khoản trợ cấp của chính phủ.
Các khoản thu nhập khác có thể từ rất nhiều nguồn như được viện trợ, thừa kế, bán tài sản, trúng xổ số, thậm chí là các khoản đi vay…
Các khoản chi tiêu của hộ gia đình gồm có:
các khoản chi mua hàng hoá và dịch vụ
+ Chi mua hàng hoá: Đó là chi về lương thực, thực phẩm, quần áo, phương tiện đi lại và các hàng tiêu dùng lâu bền khác…
+ Chi cho hoạt động dịch vụ: Đó là các khoản chi tiêu cho du lịch, đi xem các hoạt động văn hoá thể thao…
Chi trả lãi suất các khoản tiền vay.
Khác với chi tiêu của chính phủ, tất cả các khoản chi tiêu của hộ gia đình đều được coi là yếu tố cấu thành GDP. Mối quan hệ giữa các khoản thu nhập và chi tiêu của hộ gia đình có thể được mô tả qua hàm chi tiêu có dạng:
C = a + b. DI
Với a: các khoản thu nhập khác ngoài DI.
Và b: là độ dốc của hàm chi tiêu (b = = MPC: xu hướng tiêu dùng cận biên).
C
s1
0
a a1
D1 D0 D2 DI
Tại: mức thu nhập có thể sử dụng nhỏ hơn mức chi tiêu (DI < C), tại đó để có đủ tiền chi tiêu dân cư phải sử dụng các khoản thu nhập khác.
Tại: mức thu nhập có thể sử dụng vừa bằng mức chi tiêu (DI=C). Điểm 0 được gọi là điểm vừa đủ.
Tại : Mức thu nhập có thể sử dụng lớn hơn mức chi tiêu (DI>C), tại đây dân cư có tiết kiệm.
Như vậy qua sơ đồ có thể thấy rằng khi thu nhập gia tăng tỷ lệ tiết kiệm sẽ tăng dần, có nghĩa là trong một nước những gia đình có thu nhập cao hơn sẽ có tỷ lệ tiết kiệm để đầu tư cao hơn, và những nước giàu có tỷ lệ tiết kiệm để đầu tư là cao hơn so với những nước có thu nhập thấp. Cũng có thể chứng minh điều này qua xu thế tiêu dùng trung bình (APC) và xu thế tiết kiệm trung bình (APS).
APC = = =+b.
Với a, b là các hằng số thì:
Vậy khi thu nhập tăng lên sẽ làm cho xu hướng tiết kiệm trung bình tăng theo.
Nguồn vốn đầu tư nước ngoài
Viện trợ phát triển chính thức (Official Development Aid - ODA)
ODA ra đời sau chiến tranh thế giới thứ II cùng với kế hoạch Marshall để giúp các nước Châu Âu phục hồi các ngành công nghiệp bị chiến tranh tàn phá. Để nhận được viện trợ của kế hoạch Marshall, các nước Châu Âu thành lập tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD). Ngày nay tổ chức này bao gồm 30 nước và không chỉ có các nước Châu Âu tham gia, tổ chức này còn có Mĩ; Oxtraylia; Nhật; Hàn Quốc…
Trong khuân khổ hợp tác phát triển kinh tế các nước OECD lập ra những uỷ ban chuyên môn, trong đó có Uỷ ban viện trợ phát triển (DAC) nhằm giúp các nước đang phát triển.
ODA được gọi là nguồn tài chính do các cơ quan chính thức (chính quyền Nhà nước hay địa phương) của một nước hoặc một tổ chức quốc tế viện trợ cho các nước đang phát triển nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế và phúc lợi xã hội của các nước này.
Ngày nay nguồn vốn ODA không chỉ từ các nước OECD mặc dù các nước này vẫn chiếm đại bộ phận (85%), ngoài ra còn từ Nga và các nước Đông Âu (10%) và các nước ả rập có dầu mỏ (5%), ODA được thực hiện trên cơ sở song phương hoặc đa phương. Viện trợ đa phương thông qua các tổ chức quốc tế. Ví dụ như: Các tổ chức Liên hợp quốc (UNDP; UNICFF; UNESCO….); IMF; WB; ADB; OPEC. Viện trợ đa phương thường chiếm 20% trong tổng nguồn vốn ODA, còn lại là viện trợ song phương. Nội dung viện trợ ODA bao gồm:
Viện trợ không hoàn lại thường chiếm 25% tổng vốn ODA.
Hợp tác kĩ thuật
Cho vay ưu đãi, bao gồm:
+ Cho vay không lãi suất.
+ Cho vay với lãi suất ưu đãi: Từ 0.5- 5%/năm. phải trả vốn sau 3-10 năm, hoàn vốn trong thời gian 10-15 năm.
Theo quy định của liên hợp quốc (1970) thì các nước công nghiệp phát triển phải dành 0.7% GDP để viện trợ ODA cho các nước đang phát triển. Nhưng thực tế hiện nay chỉ có rất ít nước thực hiện được chỉ tiêu này. Những quy định mới đây của tổ chức OECD nhấn mạnh về nguồn viện trợ ODA cho đầu tư công cộng ở các nước đang phát triển, như các dự án cho giáo dục, y tế, giao thông vận tải…
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment-FDI)
FDI là nguồn vốn đầu tư của tư nhân nước ngoài đối với các nước đang phát triển, là nguồn vốn lớn có ý nghĩa quan trọng với phát triển kinh tế. FDI không chỉ cung cấp nguồn vốn mà nó còn thực hiện quá trình chuyển giao công nghệ, đào tạo cán bộ kĩ thuật và tìm thị trường tiêu thụ ổn định. Mặt khác vốn FDI còn gắn với trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn. Do đó thu hút được nguồn vốn này sẽ giảm được gánh nợ nước ngoài đối với các nước đang phát triển.
Đầu tư với tăng trưởng kinh tế
Do vai trò quan trọng của đầu tư đối với tăng trưởng kinh tế rất quan trọng, nên để khai thác tối đa các nguồn vốn đầu tư, một mặt là các chính sách để thu hút nó mặt khác phải có những biện pháp hữu ích cho quản lý nhằm đảm bảo mục tiêu vừa tăng trưởng được kinh tế vừa đảm bảo ổn định chính trị xã hội, tiến tới mục tiêu phát triển bền vững.
Tính tất yếu của các biến số kinh tế trong sự vân động của nó là mối quan hệ tác động qua lại ràng buộc lẫn nhau. Các biến số đó chịu tác động không những của các nhân tố khách quan mà còn chịu tác động của các nhân tố chủ quan của con người. Các nhân tố khách quan bao gồm các nhân tố kinh tế đặc thù như: lãi suất, tỷ giá hối đoái, tiết kiệm, GDP, công nghệ, lao động, dân số… Các yếu tố chủ quan là các quyết định quản lý của con người, do thông tin không hoàn hảo. Theo các nhà kinh tế thì các yếu tố chủ quan và khách quan là các bàn tay hữu hình và vô hình, muốn vỗ tay được thì cần phải kết hợp cả hai bàn tay. Đầu tư chịu tác đông bởi các nhân tố này đồng thời nó cũng tác động ngược trở lại các nhân tố đó. Chính vì vậy, mục tiêu của các nhà hoạch định chính sách là tăng trưởng kinh tế và giữ được mối quan hệ ổn định giữa các nhân tố trên, không làm mất tính cân đối của nền kinh tế.
Các yếu tố kinh tế vĩ mô luôn luôn có tác động qua lại lẫn nhau ở nhiều cấp độ. Hiểu được những tác động này có thể lượng hóa chúng qua các mô hình toán học, ứng dụng cho phân tích, hoạch định các chính sách kinh tế.
Tác động của đầu tư tới tăng trưởng kinh tế thông qua mô hình thu nhập quốc dân
Để xem xét ảnh hưởng qua lại của các nhân tố kinh tế đặc thù đối với tăng trưởng kinh tế cũng như đối với đầu tư… ta sẽ xét tới mô hình thu nhập quốc dân.
Quy ước:
: tổng sản phẩm quốc dân trong năm t
C: tiêu dùng của dân cư.
I: đầu tư.
G: tiêu dùng của chính phủ.
EM: xuất khẩu ròng (Xuất khẩu ròng= Xuất khẩu -nhập khẩu).
T: Thuế .
r: lãi suất.
LaP: Lạm phát
ER: tỷ gia hối đoái đồng ngoại tệ
ĐTNĐ: đầu tư trong nước.
ĐTNN: đầu tư từ nước ngoài vào.
Đồng nhất thức thu nhập quốc dân
GDP = C+I+G+EM
Hàm tiêu dùng:
C=(GDP-T)
;
: Mức tiêu dùng tối thiểu của dân cư.
: Xu hướng tiêu dùng biên. Khi thu nhập quốc dân tăng lên, mức tiêu dùng tăng theo. Khi thuế tăng thì tiêu dùng sẽ giảm xuống.
Hàm thuế:
T= +*GDP
>0, 0<<1.
: thuế suất, hay sự thay đổi tuyệt đối của T do ảnh hưởng của GDP (=dT/dGDP). Thuế thu được luôn thấp hơn mức sản lượng thu được.
Hàm đầu tư:
I= ĐTNĐ + ĐTNN
ĐTNĐ =
ĐTNN=
,;,
Mức sản lượng trong hiện tại và quá khứ có tác động mạnh tới đầu tư. Thu nhập quốc dân tăng làm cho tiết kiệm tăng dẫn đến đầu tư tăng.
Thuế có ảnh hưởng ngược chiều với đầu tư. Thuế tăng làm cho lợi nhuận giảm tích luỹ thấpđầu tư giảm.
Lãi suất cũng có tác động ngược chiều với đầu tư. Bởi khi lãi xuất tăng làm cho chi phí đầu tư cũng tăngQuy mô đầu tư giảm xuốngcầu đầu tư giảm.
Lạm phát là thù địch của các nhà đầu tư. Khi lạm phát có xu hướng tăng lên làm cho giá trị của đồng tiền giảm xuốnglàm cho độ rủi ro của đồng vốn tăng lênNhu cầu đầu tư giảm xuống.
Khi tỷ giá hối đoái của đồng ngoại tệ tăng lên làm cho giá trị đồng ngoại tệ so với đồng nội tệ tăng lên kích thích các nhà đầu tư nước ngoài mang ngoại tệ vào trong nước đầu tư làm cho cầu đầu tư cũng tăng lên.
Hàm xuất -nhâp khẩu:
EM =
Tỷ giá hối đoái là nhân tố tác động rất mạnh tới xuất khẩu, khi tỷ giá hối đoái tăng lên, khối lượng hàng hoá xuất khẩu tăng.
=dEX/dGDP cho biết lượng biến động tuyệt đối của xuất khẩu ròng do tác động của GDP. Khi GDP tăng lên một đơn vị thì lượng xuất khẩu ròng tăng lên
=dEM/dER: biến động tuyệt đối của xuất khẩu do tác động của tỷ giá hối đoái. Khi tỷ giá hối đoái tăng lên một đơn vị thì xuất khẩu tăng lên đơn vị
Trong mô hình trên, các biến nội sinh bao gồm: GDP, T, EM, I còn các biến ngoại sinh bao gồm các biến: r, Lap, G, ER,
Mô hình biểu diễn các quan hệ giữa các biến kinh tế vĩ mô
G
Lap
T
C
ER
EM
r
I
Tác động của đầu tư tới tăng trưởng kinh tế thông qua hàm sản xuất
Những học thuyết kinh tế hiện đại đều thống nhất với nhau rằng vốn đầu tư sản xuất là một trong những yếu tố đầu vào cơ bản quyết định sản lượng đầu ra. Hàm sản xuất mà họ đưa ra là hàm số có dạng:
Y =f (K, L, R, T)
Trong đó Y: là đầu ra ( Sản lượng hoặc là GDP)
K: Vốn sản xuất.
L: số lượng lao động.
R: Nguồn tài nguyên thiên nhiên.
T: Tiến bộ Khoa học - công nghệ.
Mô hình phản ánh sự tăng lên của đầu ra phụ thuộc vào sự thay đổi của 4 yếu tố đầu vào cơ bản, đó là vốn đầu tư sản xuất; lao động; tài nguyên và khoa học công nghệ.
Một dạng của kiểu phân tích này là hàm Cob-Douglass. Hàm này có dạng:
Y = t + .k + .l +.r
Mỗi yếu tố đầu vào có vai trò khác nhau trong quan điểm của mỗi trường phái kinh tế. Các trường phái kinh tế học cổ điển cho rằng yếu tố đất đai là quan trọng nhất quyết định yếu tố đầu ra. Còn trường phái kinh tế học tân cổ điển lại đề cao vai trò của yếu tố khoa học công nghệ, họ cho rằng yếu tố khoa học công nghệ là quan trọng nhất sau đó đến yếu tố vốn và lao động, còn yếu tố đất đai rất mờ nhạt đối với tăng trưởng kinh tế. Khác với trường phái kinh tế học cổ điển và tân cổ điển, trường phái kinh tế học Keynes và trường phái kinh tế học chính hiện đại đều nhất trí cho rằng yếu tố vốn là yếu tố đầu vào quan trọng nhất đối với quá trình tăng trưởng kinh tế. Sở dĩ các quan điểm kinh tế trên không thống nhất với nhau vì mỗi phương thức sản xuất ở mỗi thời điểm lịch sử khác nhau là khác nhau.
Trong các nền kinh tế hiện đại, đặc biệt là nền kinh tế của các nước đang phát triển rất cần vốn đầu tư. Bởi vì, khi tăng vốn đầu tư thì vốn sản xuất cũng tăng; đến lượt mình vốn sản xuất làm cho yếu tố khoa học công nghệ tăng, cơ sở hạ tầng phát triển, trước nền sản xuất hiện đại trình độ sản xuất của người công nhân cũng tăng lên. Tất cả các yếu tố này phát triển đều làm tăng trưởng kinh tế.
Đầu tư và mô hình nhân tử
Mô hình nhân tử xuất phát từ tư tưởng của Keynes. Keynes cho rằng đầu tư tăng sẽ bù đắp cho những thiếu hụt về cầu tiêu dùng. Để đảm bảo cho đầu tư gia tăng liên tục ông đưa ra nguyên lý số nhân.
Số nhân là tỷ số giữa tốc độ tăng thu nhập và tăng đầu tư. Nếu kí hiệu dR là mức tăng của thu nhập; dI là mức tăng của đầu tư; dS là mức tăng của tiết kiệm; dC là mức tăng của tiêu dùng và k là số nhân, thì mô hình nhân tử của Keynes là như sau:
= = = =
Mô hình nhân tử phản ánh quan hệ giữa gia tăng thu nhập với gia tăng đầu tư, theo Keynes mỗi sự gia tăng của đầu tư đều kéo theo sự gia tăng nhu cầu bổ sung công nhân, nâng cao cầu về tư liệu sản xuất, do vậy làm tăng cầu tiêu dùng, tăng giá hàng, làm tăng việc làm cho công nhân. Tất cả điều đó làm cho thu nhập tăng lên, đến lượt mình thu nhập lại là tiền đề cho sự gia tăng đầu tư mới, tăng đầu tư mới lại làm tăng thu nhập mới. Cứ như vậy, đầu tư quyết định thu nhập, thu nhập lại tạo tiền đề để gia tăng đầu tư.
Quan hệ giữa tăng trưởng và nhu cầu về vốn (Mô hình Harrod -Domar)
Mô hình được xuất phát từ tư tưởng của Keynes ở trên, nó được áp dụng khá phổ biến và rộng rãi ở các nước đang phát triển, hiện tại vẫn là một mô hình được các nhà kinh tế đương đại dùng để xem xét mối quan hệ giữa nhu cầu về vốn và tăng trưởng.
Mô hình áp dụng cho bất kì một đơn vị kinh tế nào, nó xem xét đến đầu ra của đơn vị kinh tế đó phụ thuộc như thế nào tới tổng số vốn đầu tư của nó.
Nếu gọi đầu ra trong một đơn vị thời gian là GDPt, tỷ lệ tăng trưởng của đầu ra là g thì :
g =
Nếu gọi s là tỷ lệ tích luỹ trong GDP và mức tích luỹ là St thì :
Do tiết kiệm là nguồn gốc của đầu tư cho nên về lý thuyết đầu tư luôn bằng tiết kiệm (St = It), nên: s =
Đầu tư là cơ sở tạo ra vốn sản xuất do đó It = Kt+n.
Nếu gọi k là tỷ số gia tăng giữa vốn và đầu ra ta có:
hay
Vì ===
Vậy g =
Hệ số k được gọi là hệ số ICOR. Đó là hệ số gia tăng vốn /đầu ra, tức là vốn được tạo ra bằng đầu tư là yếu tố cơ bản của tăng trưởng; tiết kiệm của dân cư và các công ty là nguồn gốc của đầu tư. Hệ số này còn phản ánh trình độ kĩ thuật của sản xuất và là số đo năng lực sản xuất của đầu tư. Mô hình cho phép các nhà hoạch định đưa ra các kế hoạch tăng trưởng phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế.
Tóm lại mô hình chỉ ra sự tăng trưởng là do kết quả tương tác giữa tiết kiệm và đầu tư, đầu tư là động lực cơ bản của sự phát triển kinh tế, là tiền đề của sự phát sinh lợi nhuận và gia tăng khả năng sản xuất của nền kinh tế.
Tác động của đầu tư tới tăng trưởng kinh tế quốc dân thông qua mô hình AD-AS
Đầu tư là bộ phận lớn và hay thay đổi trong chi tiêu. Do đó những thay đổi trong đầu tư có thể tác động lớn đối với tổng cầu và do đó tác động tới sản lượng và công ăn việc làm. Khi đầu tư tăng lên có nghĩa là nhu cầu về chi tiêu để mua sắm máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, vật liệu xây dựng... tăng lên. Sự thay đổi này làm cho đường tổng cầu chuyển dịch, AD tăng, Y tăng.
AD = C + I + G + NX => I tăng -> AD tăng -> Y tăng.
( Sơ đồ 1)
Mức giá
AS
P1
P0 AD1
AD0
0 Y0 Y1 GDP
Sơ đồ 1 – Tác động của vốn đầu tư đến tăng trưởng.
Đầu tư sẽ dẫn đến tăng vốn sản xuất, nghĩa là có thêm các nhà máy, thiết bị, phương tiện vận tải mới được đưa vào sản xuất, làm tăng khả năng sản xuất của nền kinh tế. Sự thay đổi này tác động đến tổng cung. Khi vốn sản xuất tăng sẽ làm cho đường tổng cung chuyển dịch, làm cho mức sản lượng tăng từ đến ( Sơ đồ 2).
Mức giá AS0
AS1
P0
P1
0 Y0 Y1 GDP
Sơ đồ 2 – Tác động của vốn sản xuất đến tăng trưởng kinh tế.
Điều cần lưu ý là sự tác động của vốn đầu tư và vốn sản xuất đến tăng trưởng kinh tế không phải là quá trình riêng rẽ mà nó là sự kết hợp đan xen lẫn nhau, tác động liên tục vào nền kinh tế.
Vốn đầu tư không chỉ là cơ sở để tạo ra vốn sản xuất, tăng năng lực sản xuất của các doanh nghiệp và của nền kinh tế mà nó còn là điều kiện để nâng cao trình độ khoa học - công nghệ, góp phần đáng kể vào việc đầu tư theo chiều sâu, hiện đại hoá quá trình sản xuất. Việc tăng vốn đầu tư cũng góp phần vào việc giải quyết công ăn việc làm cho người lao động khi mở ra các công trình xây dựng và mở rộng qui mô sản xuất.
Vai trò của đầu tư phát triển từ NSNN đối với tăng trưởng kinh tế
Đầu tư phát triển từ NSNN tác động tới tăng trưởng kinh tế, điều chỉnh và chuyển dịch cơ cấu vốn đầu tư theo định hướng của chính phủ. Đối với nền kinh tế nói chung và nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa như nước ta nói riêng thì đầu tư từ NSNN có tác dụng kích thích các thành phần kinh tế phát triển có hiệu quả hơn và đồng đều hơn. Trong điều kiện chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, cạnh tranh gay gắt thì đầu tư của tư nhân và nước ngoài chỉ chủ yếu tập trung vào các ngành nghề, khu vực có khả năng sinh lời cao, mức độ an toàn lớn, vốn nhỏ, dẫn đến mất cân đối trong các ngành kinh tế và vùng kinh tế. Để nền kinh tế phát triển một cách đồng bộ thì chính phủ sẽ dùng vốn đầu tư phát triển từ Ngân sách để đầu tư vào một số lĩnh vực mà có vốn đầu tư lớn, khả năng thu hồi vốn chậm như các công trình phúc lợi, đầu tư mặt bằng cơ sở hạ tầng, chi cho đầu tư phát triển giáo dục…
Vai trò của đầu tư phát triển từ NSNN trong lĩnh vực Nông nghiệp và phát triển nông thôn
Để phát triển kinh tế với tốc độ cao và có hiệu quả ở một số nước trên thế giới chủ yếu nhằm vào đầu tư phát triển các ngành công nghiệp, họ coi đó là cách đầu tư mang lại hiệu quả kinh tế xã hội cao nhất. Sở dĩ họ lựa chọn như vậy vì đất nước họ có nền công nghiệp rất phát triển và có thành tựu đạt được từ các cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật trước đó.
Thực tế tại Việt Nam, trong giai đoạn đầu của thời kì đổi mới, nền kinh tế nước ta là một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu với cơ sở vật chất thấp kém. Khi đó chúng ta chỉ tập trung vào đầu tư các ngành công nghiệp nặng và các ngành công nghiệp nhẹ, cuối cùng chúng ta đã không thành công mà còn kéo theo sự trì trệ, chậm phát triển của các ngành kinh tế khác. ở giai đoạn sau, khi chúng ta nhìn nhận lại kết quả đạt được thì thấy rằng sở dĩ chúng ta không thành công là do cơ cấu đầu tư cho các ngành là không hợp lí. Không chú trọng đầu tư vào những ngành có lợi thế để tận dụng được những lợi thế này, ví dụ như ngành nông nghiệp có lợi thế rất lớn về đất đai, điều kiện khí hậu, kĩ thuật canh tác lâu đời thì lại không được quan tâm đầu tư đúng mức, cơ sở vật chất kỹ thuật và kết cấu hạ tầng thấp kém và chưa phát triển đồng đều, chưa đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Khoảng cách về thu nhập giữa nông dân giàu và nghèo, giữa nông thôn và thành thị ngày càng tăng. Nguyên nhân của tình trạng này một phần do thiếu những điều kiện và tiền đề cần thiết để phát triển nông nghiệp, nông thôn, trong đó quan trọng nhất là lực lượng sản xuất, một phần do việc đầu tư của Nhà nước chưa thoả đáng. Vốn và tích luỹ của khu vực này rất thấp vì vậy việc tăng cường đầu tư vào phát triển nông nghiệp nông thôn từ NSNN và các nguồn khác trong điều kiện hiện nay là hết sức cần thiết nhằm khắc phục những tồn tại nêu trên, điều đó sẽ thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội ở nông thôn
Vai trò của đầu tư từ NSNN trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng
Vốn đầu tư từ NSNN là nguồn vốn đầu tư cơ bản và quan trọng nhất để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng như: hệ thống giao thông, bưu điện, thông tin liên lạc... giao thông, bưu điện, thông tin liên lạc là cơ sở hạ tầng của mọi quốc gia, tạo tiền đề cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Các công trình này là những công trình công cộng đòi hỏi một lượng vốn đầu tư lớn nhưng thời gian thu hồi vốn dài, lợi nhuận thấp. Do đó, các nhà đầu tư thường không muốn và không đủ sức đầu tư vào lĩnh vực này. Hiện nay việc tham gia đầu tư từ các nguồn vốn ngoài NSNN là quá ít; để đảm bảo thực hiện được các mục tiêu phát triển đất nước, Nhà nước phải sử dụng vốn đầu tư từ NSNN đầu tư cho phát triển các lĩnh vực kết cấu hạ tầng. Từ khó khăn về huy động vốn dẫn đến tiến độ thi công các công trình đầu tư phát triển các lĩnh vực kết cấu hạ tầng cũng rất chậm chạp, trì trệ, một số công trình có tên trong danh mục đầu tư đã được phê duyệt cứ phải xếp hàng mãi mới đến lượt, nhiều công trình không thể thực hiện được vì không đảm bảo vốn đầu tư. Ngoài ra, vấn đề sử dụng vốn cho phát triển các lĩnh vực kết cấu hạ tầng cũng đang là vấn đề nhức nhối mà các ngành đang phải tìm cách giải quyết. Đó là tình trạng thất thoát vốn do tệ tham ô, tham nhũng, do việc thực hiện không đúng tiến độ kỹ thuật. Mà thất thoát vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng thì rất lớn, gây lãng phí vốn, đáng phải xem xét lại.
Vai trò của vốn đầu tư phát triển từ NSNN trong lĩnh vực đào tạo, giáo dục, khoa học công nghệ
Công nghệ, tri thức là trung tâm của công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đầu tư là điều kiện tiên quyết của sự phát triển và tăng cường khả năng công nghệ quốc gia. Theo đánh giá của các chuyên gia, trình độ công nghệ của Việt Nam lạc hậu nhiều thế hệ so với khu vực và thế giới. UNIDO cho rằng nếu chia quá trình phát triển công nghệ thế giới làm 7 giai đoạn thì vào năm 1995, Việt Nam chỉ ở vào giai đoạn 2 và là một trong 90 nước kém phát triển về công nghệ nhất thế giới. Với trình độ công nghệ lạc hậu này, quá trình Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá của Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn nếu không đề ra được một chiến lược đầu tư phát triển công nghệ nhanh chóng, vững chắc. Nhà nước đã chủ trương " khoa học, công nghệ cùng với giáo dục, đào tạo thực sự là quốc sách hàng đầu". Có 2 con đường cơ bản để có công nghệ là tự nghiên cứu phát minh hoặc nhập công nghệ từ nước ngoài. Dù là tự nghiên cứu hay là nhập từ nước ngoài đều cần phải có vốn đầu tư. Mọi phương án đổi mới công nghệ không gắn với nguồn vốn đầu tư sẽ là những phương án không có tính khả thi. Chính vì vậy, tăng cường các biện pháp khuyến khích phát triển khoa học và công nghệ thông qua các khoản chi đầu tư từ NSNN, từng bước tiếp cận với nền kinh tế tri thức, tạo cơ sở phát triển kinh tế nhanh và bền vững trong thời kì mới là định hướng chiến lược trọng yếu của Đảng và Nhà nước.
Ngoài những tác dụng trên vốn đầu tư từ NSNN cũng có tác động gián tiếp tới các thành phần vốn khác thông qua những tác động tích cực của nó đối với các ngành kinh tế.
Phần 2
Quá trình sử dụng vốn đầu tư và đầu tư phát triển từ NSNN của Việt Nam trong giai đoạn 1991-2000
khái quát chung nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 1990-2000.
Sau hơn 10 năm đổi mới nền kinh tế - xã hội, nhìn chung chúng ta đã đạt được rất nhiều thành tựu to lớn: đời sống nhân dân được cải thiện, tăng trưởng luôn ở mức cao, tổng sản phẩm trong nước tăng gấp đôi góp phần rút ngắn khoảng cách so với các nước khác, giá trị sản lượng các ngành sản xuất đều đạt và vượt chỉ tiêu kế hoạch, đặc biệt là nông nghiệp và công nghiệp. Tích luỹ nội bộ nền kinh tế từ mức không đáng kể đã tăng trên 25%GDP. Cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội được cải thiện, năng lực của hầu hết các ngành kinh tế xã hội đều tăng, cơ cấu kinh tế đang chuyển biến tích cực, tỷ trọng giá trị sản xuất nông nghiệp trong GDP giảm dần và chiếm khoảng 1/4 trong tổng sản phẩm quốc nội giảm đáng kể so với thời kì cuối thập kỷ 80 (chiếm khoảng 38.5%GDP) tỷ trọng công nghiệp tăng từ 22.7% GDP lên 36.6%GDP, khu vưc dịch vụ tăng từ 38.6%GDP ở cuối thập niên trước lên gần 40%GDP trong giai đoạn này. Nếu như đầu thập kỉ cơ cấu các ngành kinh tế của nước ta là Nông nghiệp - Dịch vụ - Công nghiệp thì những năm cuối thập kỉ đã chuyển sang một cơ cấu khác tiến bộ hơn: Dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp.
Dựa vào quy mô GDP và tốc độ tăng trưởng của nó ta nhận thấy rằng sau giai đoạn tăng trưởng bùng nổ 1991-1995 với đỉnh cao 9.54%GDP vào năm 1995, tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế đã bắt đầu chững lại, các chính sách đổi mới kinh tế áp dụng rất thành công ở thời kì 1991-1995 đã tỏ ra bảo thủ ở giai đoạn sau, không còn hợp với một nền kinh tế bắt đầu phát triển theo chiều sâu.
Bảng 1:Cơ cấu và Tốc độ tăng trưỏng GDP theo ngành
nguồn: Kinh tế Việt nam 1991-2000 qua các con số\kinh tế 2000-2001\thời báo kinh tế Việt Nam
Thêm vào đó là cuộc khủng hoảng tài chính Châu á năm 1997 đã thực sự đưa nền kinh tế nước ta vào thời kì suy thoái, tốc độ tăng trưởng GDP liên tục giảm qua các năm từ 1995 (đạt 9.54%) đến 1999 (đạt 4.77%). Tuy tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước ta trong giai đoạn 1995-2000 tăng thấp hơn thời kì trước nhưng so với một số nước trong khu vực và thế giới thì có cao hơn, thế nhưng quy mô GDP còn rất nhỏ bé tính đến năm 2000 mới đạt khoảng 24.5 tỷ USD (tính theo giá cố định năm 1994) trong khi đó tính theo giá bản tệ năm 1990 quy đổi theo tỷ giá USD năm 1997 của Trung Quốc là 464 tỷ USD, Hồng Kông: 108 tỷ, Hàn Quốc: 306 tỷ; Mỹ: 6729 tỷ, Pháp: 1224 tỷ, Inđônêxia 116 tỷ, Nhật Bản: 4000 tỷ, Malaixia: 73 tỷ, Singapore: 74 tỷ, Thái Lan: 85 tỷUSD. Như vậy, chỉ so với các nước lân cận, Quy mô GDP nước ta chưa bằng một nửa của Singapore, Malaxia; bằng khoảng một phần ba Hông Kông, Inđônêsia; chưa bằng một phần mười Hàn Quốc; quá nhỏ bé so với Nhật và Mỹ.
Bảng 2: Quy mô GDP một số nước trên thế giới
stt
Tên nước
GDP quy đổi (tỷ YSD)
1
Mỹ
6728.8
2
Nhật Bản
4003.46
3
Pháp
1223.69
4
Trung Quốc
464.41
5
Hàn Quốc
305.78
6
Inđônêsia
115.57
7
Hồng Kông
107.98
8
Thái Lan
85.07
9
Singapore
73.94
10
Malaxia
73.02
11
Việt Nam
28
Ghi chú:
Singapore: GDP tính cho năm 1996, còn lại GDP được tính cho năm 1997 tính theo giá bản tệ năm 1990
Nguồn: Statistiques Financières Internationales Annuaire, IMF,1998
Tuy nhiên theo một số nhà kinh tế cho rằng nền kinh tế Việt Nam sẽ có nhiều triển vọng trong một vài năm tới, trước mắt Việt Nam đang được coi là một trong các nước có tình hình chính trị ổn định nhất, điều kiện đó sẽ tạo điều kiện hết sức thuận lợi cho Việt Nam tham gia hội nhập thế giới khai thác các lợi thế so sánh mà mình có được.
Vốn đầu tư và cơ cấu vốn đầu tư của Việt nam trong giai đoạn 1990-2000
Quá trình sử dụng vốn đầu tư ở Việt Nam giai đoạn 1990-2000
Vì quy mô GDP của nước ta rất nhỏ bé nên tổng vốn đầu tư xã hội của nước ta cũng rất nhỏ bé, quy mô rất hạn hẹp. Tính theo giá hiện hành thì năm 1990 chỉ đạt 6734 tỷ đồng chiếm 16.05% GDP. Năm 1995 đạt khoảng 68047.8 tỷ đồng chiếm 29.73 %GDP. Năm 2000 đạt khoảng 120600tỷ đồng chiếm 27.15 %GDP. Tính chung trong giai đoạn 1990-1995 đạt khoảng 203356.4 tỷ đồng chiếm 26.18%GDP. Giai đoạn 1996--2000 đạt khoảng 701430.3 tỷ đồng chiếm 27.81%GDP. Tuy lượng tuyệt đối tăng nhưng tỷ lệ so với GDP còn chưa cao, bình quân cả thời kì nghiên cứu khoảng 27.5%GDP. Trong đó vốn trong nước đảm bảo 76.3%, vốn nước ngoài đảm bảo 23.7%.
Bảng 3: Quy mô và tỷ trọng của vốn đầu tư toàn xã hội(%/GDP)
năm
Vốn đầu tư toàn xã hội
(Tỷ đồng)
Tỷ trọng của vốn đầu tư toàn xã hội trong GDP (%GDP)
1990
6734
16.05
1991
12859.9
16.76
1992
23615.4
21.37
1993
40264.5
28.71
1994
51834.8
29.03
1995
68047.8
29.73
1996
79367.4
29.18
1997
96870.4
30.89
1998
97336.1
26.96
1999
103900
25.98
2000
120600
27.15
Nguồn: Viện Quản lý nghiên cứu Kinh tế trung ương
Thực tế, nền kinh tế nước ta có mức tích luỹ rất thấp, tiết kiệm ít trong khi đó lại thiếu chiến lược đầu tư phát triển dài hạn, bền vững. Hiệu quả đầu tư thấp và lãng phí thể hiện ngay từ khâu phê duyệt chủ trương đầu tư đến khâu thiết kế, lựa chọn nhà thầu và lãng phí trong quá trình thi công. Mặc dù quy mô nền kinh tế còn rất nhỏ song nguồn vốn đầu tư trong nước cũng chỉ đáp ứng một phần. Theo tính toán, để duy trì tăng trưởng 7% năm như nghị quyết Đại hội Đảng đề ra, thì mỗi năm chúng ta cần khoảng 150000 tỷ đồng. Khả năng huy động của Nhà nước, doanh nghiệp, dân cư hàng năm cho đầu tư chỉ đạt khoảng 2/3 đến 3/4 tổng nhu cầu, còn lại phải trông chờ vào vốn nước ngoài. Nói cách khác, nếu chỉ trông vào nguồn vốn trong nước và chỉ xét riêng yếu tố vốn đầu tư, thì tổng khả năng huy động vốn trong nội bộ nền kinh tế không thể đáp ứng đủ cho mục tiêu tăng trưởng trên 7% năm.
Đối với vốn đầu tư trực tiếp từ NSNN, tuy được trao sứ mạng chủ đạo, dẫn dắt các thành phần vốn khác nhưng lại chiếm tỷ trọng rất nhỏ. Nếu xét về quy mô tuyệt đối thì khái niệm "chủ đạo" cần phải được nghiên cứu, xem xét lại. Vấn đề đặt ra là nhà nước tiếp tục duy trì quan niệm chủ đạo hình thức dàn trải theo số lượng hay chỉ cần nắm đúng huyệt nền kinh tế. Khi cần thiết nhà nước chỉ cần tác động đến điểm huyệt đó thì toàn bộ (hay đa phần) nền kinh tế sẽ chuyển dịch theo mong muốn. Mặt khác, quan niệm chủ đạo về số lượng và việc nhà nước đầu tư trực tiếp từ NSNN theo tính chất để làm kinh tế nhiều khi đã tạo ra định hướng sai cho nền kinh tế dẫn tới lãng phí trong đầu tư của cả xã hội..
Năm 1995 nguồn vốn đầu tư phát triển từ NSNN đạt 13575 tỷ đồng chiếm 19.95% tổng đầu tư toàn xã hội. Năm 1996 nguồn vốn này cũng đạt 16544.2 tỷ đồng chiếm 20.85% tổng đầu tư toàn xã hội. Năm 1997 đạt khoảng 20570.4 tỷ đồng chiếm 21.23% tổng đầu tư toàn xã hội. Năm 1998 đạt 22208.9 tỷ đồng chiếm 22.82 % tổng đầu tư toàn xã hội. Năm 1999 đạt 26000 tỷ đồng chiếm 25.02% và năm 2000 đạt 28000 tỷ đồng chiếm 23.22% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Tính chung cho cả thời kì 1990-2000 vốn NSNN chiếm 21.18%tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
Nguồn vốn tự có của các doanh nghiệp nhà nước:
Nguồn vốn này được hình thành từ nhiều nguồn như nguồn vốn khấu hao để lại, nguồn lợi nhuận sau thuế…đây là một nguồn vốn khá lớn trong tổng đầu tư xã hội.
Từ đồ thị ta thấy về lượng tuyệt đối vốn tự có của các doanh nghiệp Nhà nước tăng đều qua các năm. Năm 1990 đạt 1037.04 tỷ đồng. Năm 1995 đạt 9408.8 tỷ đồng và năm 2000 đạt khoảng 22000 tỷ đồng. Về tỷ trọng của nó trong tổng vốn đầu tư thời kì 1990-1995 chiếm 11.97%, thời kì 1996-2000 chiếm khoảng 16.97%. Tỷ trọng của vốn đầu tư từ các doanh nghiệp trong tổng vốn đầu tư xã hội giai đoạn sau tăng mạnh so với giai đoạn trước khẳng định tính hiệu qủa trong hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước. Tính cả thời kì nghiên cứu thì nguồn vốn tự có của các DNNN chiếm khoảng 14.47% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
Nguồn vốn tín dụng trong những năm gần đây có tăng khá cả về lượng tuyệt đối và tỷ trọng trong tổng vốn đầu tư xã hội. Nếu như năm 1990 nguồn vốn này hầu như không đáng kể thì năm 1995 đạt 3094 tỷ đồng chiếm 4.5% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Năm 2000 đã đạt 24700 tỷ đồng chiếm 20.48% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Nhìn vào đồ thị ta nhận thấy rất rõ điều này, tuy cả tỷ trọng của vốn tín dụng trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội lẫn lượng tuyệt đối tuy tăng không đều đặn qua các năm nhưng xét trên tổng thể thì chúng đều có xu thế tăng theo thời gian.
Nguồn vốn của khu vực dân cư có mức tăng tuyệt đối rất khá. Năm 1990 chỉ đạt 3321 tỷ đồng thì năm 1995 đạt 20000 tỷ đồng, năm 2000 cũng đã đạt 23500 tỷ đồng. Tuy nhiên, tỷ trọng của vốn đầu tư của khu vực này trong tổng đầu tư toàn xã hội lại có xu hướng giảm dần
Nhìn trên đồ thị ta thấy rõ có hai xu hướng trái ngược nhau: về lượng tuyệt đối thì quy mô của nguồn vốn trong khu vực dân cư càng lớn dần trong thời gian qua, còn về tỷ trọng của nó trong tổng đầu tư toàn xã hội lại có xu hưóng giảm. Sở dĩ là như vậy là vì trong những năm gần đây nhà nước đã chủ động tạo nguồn vốn đầu tư thông qua vay tín dụng trong nước và vay nước ngoài bằng nguồn ODA. mặt khác do những năm gần đây nhờ luật khuyến khích đầu tư nước ngoài có sửa đổi làm cho luồng vốn từ thị trường thế giới chảy về nước ta nhiều hơn làm cho tổng quy mô vốn đầu tư trong xã hội tăng lên, do đó tuy nguồn vốn của khu vực dân cư có tăng về tuyệt đối song tỷ trọng của nó trong tổng đầu tư toàn xã hội giảm xuống.
Nguồn vốn của khu vực đầu tư nước ngoài
Đối với khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài, trong 13 năm qua (tính đến ngày 31/10/2001), tổng lượng FDI đăng kí đạt khoảng 37.4 tỷ USD, số thực hiện khoảng 18.4 tỷ USD.
Biểu 1: Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo ngành 1988-2001
(tính tới ngày 31/10/2001 - chỉ tính các dự án còn hiệu lực) đơn vị:USD
STT
Chuyên ngành
Số dự án
TVĐT
Vốn pháp định
Đầu tư thực hiện
I
Công nghiệp
1,913
20,379,389,213
9,373,232,624
11,504,793,846
II
Nông, lâm nghiệp
384
2,154,865,563
1,015,411,734
1,125,112,068
III
Dịch vụ
669
14,902,939,190
6,764,412,476
5,775,879,859
Tổng số
2,966
37,437,193,966
17,153,056,834
18,405,785,773
Nguồn: Vụ QLDA - Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Nhưng những năm gần đây, số vốn đăng kí liên tục giảm. Kết quả giải ngân thực tế thấp, chưa năm nào mức giải ngân vượt quá ngưỡng 2 tỷ USD. Trong thực tế, FDI đã có nhiều đóng góp thực thụ vào tăng trưởng kinh tế nước ta; Khoảng gần 12% GDP, hơn 1/3 sản lượng công nghiệp, 40% giá trị xuất khẩu giải quyết việc làm cho hơn 300 000 người….Tuy nhiên, vẫn còn quan niệm phân biệt đơn thuần số lượng về tỷ trọng giữa vốn đầu tư trong nước và nước ngoài, thiếu đánh giá khách quan về vị trí của các nguồn vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài đối với sự phát triển kinh tế của đất nước. Thêm vào đó, thực trạng kĩ thuật của môi trường đầu tư, thị trường tài chính, thị trường bất động sản ở nước ta và thị trường tiêu thụ (trong và ngoài nước) cho các sản phẩm do các doanh nghiệp FDI sản xuất ở Việt Nam ...còn bộc lộ nhiều bức xúc cần giải quyết. Vốn ngắn hạn không có đường vào; Vốn đầu tư trực tiếp gặp lực cản lớn về chiến lược, hiệu quả của khu vực quản lý hành chính và mức độ lành mạnh của môi trường đầu tư…
Tất cả những điều trên làm giảm sút rất nhiều sức thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam trong một vài năm gần đây
Trong khi đó, khả năng cung cấp vốn FDI trên thế giới là rất lớn với quy mô khổng lồ. Theo báo cáo của UNCTAD (Hội nghị Liên hiệp quốc về mậu dịch và thương mại) vốn FDI của các tập đoàn đa quốc gia trên thế giới đổ vào châu á có thể tăng từ 805 tỷ năm 1999 lên đến trên 1000 tỷ USD năm 2000
Tổng vốn đầu tư phân theo nguồn vốn (% )
Nguồn:Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương
năm
Vốn đầu tư toàn xã hội
Vốn ngân sách Nhà nước
Vốn tín dụng
Vốn tự có của các DNNN
Vốn ngoài nhà nước
Đầu tư nước ngoài
1990
100
24.80
0.00
15.40
49.32
10.53
1991
100
13.17
8.01
13.72
50.00
14.98
1992
100
21.97
3.46
6.56
46.00
21.96
1993
100
25.81
6.57
8.92
32.29
26.38
1994
100
14.14
7.86
13.40
32.80
31.83
1995
100
19.95
4.50
13.83
29.39
32.33
1996
100
20.85
10.43
13.95
26.17
28.60
1997
100
21.23
13.11
13.73
20.65
31.28
1998
100
22.82
10.49
20.66
21.06
24.97
1999
100
25.02
18.29
18.29
20.21
18.19
2000
100
23.22
20.48
18.24
19.49
18.57
Hệ số ICOR và cơ cấu vốn đầu tư của Việt Nam trong giai đoạn 1990-2000
Khi đề cập tới sự tăng trưởng của nền kinh tế, cần phải nhắc đến nhu cầu sử dụng các nguồn lực đối với quá trình tăng trưởng và phát triển của từng ngành. Đối với các quốc gia đang phát triển mà thiếu vốn, thiếu công nghệ thì vai trò của vốn càng trở nên quan trọng, các quốc gia này cần phải thu hút vốn đầu tư và sử dụng vốn đầu tư hiệu quả. Nhu cầu về vốn đầu tư cho quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế phụ thuộc rất lớn vào năng suất của vốn. Nhưng năng suất của vốn trong các ngành là khác nhau, do vậy nhu cầu về vốn đầu tư cũng khác nhau và gắn liền với sự thay đổi cơ cấu vốn đầu tư trong nền kinh tế
Nhu cầu về vốn đầu tư đối với quá trình tăng trưỏng kinh tế có thể được tính toán đơn giản qua mô hình Harrod-Domar đã đề cập đến trong chương trước:
ở Việt nam trong thời gian vừa qua tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm sút hơn so với giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới một phần do sự gia tăng của hệ số ICOR, trong đó, sự gia tăng của hệ số ICOR có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau: một phần do sự thay đổi của cơ cấu đầu tư trong các ngành kinh tế một phần do hiệu quả sử dụng vốn đầu tư ở Việt Nam
Hệ số ICOR của Việt Nam thời kì 1990-2000
Năm
1990-1995
1996
1997
1998
1999
2000
1996-2000
1990-2000
Đầu tư so với GDP(%)
23.61
29.18
30.89
26.96
25.98
27.15
28.03
25.62
Tăng trưởng GDP(%)
7.68
9.34
8.15
5.76
4.77
6.76
6.96
7.35
ICOR
3.07
3.12
3.79
4.68
5.44
4.02
4.21
3.59
Bảng trên cho thấy có sự thay đổi rõ ràng giữa tốc độ tăng trưởng và hệ số ICOR của Việt Nam trong thời kì 1990- 2000. Ta thấy, tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2000 là 6.76%, đầu tư so với GDP tính được là 27.15%, như vậy hệ số ICOR thu được khoảng 4.02 thấp hơn năm1999 rất nhiều (5.44) cho thấy xu hướng hồi phục khả năng tăng trưởng của nền kinh tế, trong đó có sự tác động của việc kí kết Hiệp định thương mại Việt - Mỹ. Như vậy, chúng ta có thể thấy hệ số ICOR của Việt Nam có xu hướng tăng lên, đặc biệt là kể từ năm 1996. Trong giai đoạn trước đó, hệ số ICOR của Việt Nam tương đối thấp. Những năm 1990-1995 hệ số ICOR của Việt Nam tương đối thấp, trung bình thời kì này là 3.07. Sở dĩ có được điều này là do:
Thứ nhất, trước khi đổi mới, nền kinh tế hoạt động không hết công suất- hiệu quả kém, một trong những tác động đầu tiên của cải cách là sự tăng nhanh sản lượng mà chỉ cần lượng vốn đầu tư rất ít, phản ánh những phản ứng ban đầu trước việc loại bỏ những sai lệch đặc biệt trong nông nghiệp và dịch vụ
Thứ hai, khối lượng đầu tư thực hiện trong thời kì Liên Xô (cũ) viện trợ mạnh mẽ vào giữa những năm 80 mới thực sự phát huy hiệu quả, điển hình là lĩnh vực khai thác dầu lửa và nhà máy điện Hoà Bình ... bắt đầu đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế.
Thứ ba, trong thời gian này Việt Nam có sự mở rộng và tăng cường xuất khẩu, khai thác lợi thế so sánh của các ngành có hàm lượng lao động cao.
Trong các nguyên nhân giữ cho hệ số ICOR thấp ở giai đoạn này thì hai nguyên nhân đầu tiên là những nguyên nhân có tính chất tạm thời, nhân tố thứ ba- khai thác lợi thế so sánh trong các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động có ảnh hưởng lâu dài hơn
Thực tế cho thấy hệ số ICOR của Việt Nam đã tăng trong thời kì tiếp theo, tuy nhiên việc tăng quá nhanh làm hạn chế tốc độ tăng trưởng kinh tế, đây là dấu hiệu không tốt đối với khả năng bắt kịp của nền kinh tế với các nước trong khu vực và trên thế giới. Các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều nguyên nhân giải thích sự tăng nhanh của hệ số ICOR, nhưng ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á làm giảm khả năng sinh lợi, hiệu quả sử dụng vốn đầu tư thấp, năng suất lao động tăng chậm .... Tuy nhiên, sự thay đổi cơ cấu đầu tư trong định hướng phát triển kinh tế của chính phủ cũng ảnh hưởng rất lớn tới hệ số ICOR
Trong quá trình thực hiện đầu tư, việc gia tăng vốn đầu tư nước ngoài và gia tăng vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng, các ngành có hàm lượng vốn cao, hệ số ICOR cao có thể ảnh hưởng đến khả năng tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển kinh tế, thực hiện công nghiệp hoá- hiện đại hoá, việc tập trung đầu tư cho cơ sở hạ tầng, dịch vụ xã hội, đầu tư cho các ngành công nghiệp non trẻ, các ngành có tính chất sống còn đối với nền kinh tế là điều tất yếu. Để kết hợp hài hoà giữa mục tiêu tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu ngành trong định hướng phát triển kinh tế, Việt Nam cần phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn thông qua việc hạn chế sự lãng phí vốn, chi phí vốn cao trong quá trình đầu tư đẩy mạnh đầu tư và xuất khẩu những sản phẩm có lợi thế cạnh tranh, nâng cao năng xuất lao động, cải thiện cơ sở hạ tầng ... nhưng đồng thời cũng cần xác định cơ cấu vốn đầu tư hợp lý nhằm đảm bảo những mục tiêu phát triển trong dài hạn.
Mục tiêu của Việt Nam giai đoạn 2001-2005 là đảm bảo tăng trưởng kinh tế từ 6.7 đến 7.2%, lạm phát duy trì ở mức 4 đến 5%, Bộ tài chính ước tính nhu cầu đầu tư của toàn xã hội trong giai đoạn này khoảng 55-57 tỷ USD. Trong đó, nguồn vốn trong nước sẽ chiếm khoảng 64%-74% tổng số vốn đầu tư toàn xã hội, vốn nước ngoài bao gồm nguồn vốn ODA, FDI và vốn vay thương mại sẽ chiếm phần còn lại khoảng 30-36%. Như vậy, ước tính tỷ lệ đầu tư trong GDP của nền kinh tế trong giai đoạn 2001-2005 sẽ đạt mức trung bình khoảng 28-29% so với GDP và hệ số ICOR vào khoảng 4,2. Điều này đặt ra cho nền kinh tế những mục tiêu trong việc nâng cao hiệu quả đầu tư và định hướng cơ cấu đầu tư phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế, chiến lược công nghiệp hoá - hiện đại hoá nền kinh tế nhằm đảm bảo cho khả năng tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Kinh nghiệm của các quốc gia duy trì được hệ số ICOR thấp và tốc độ tăng trưởng cao là nhờ vào việc tập trung đầu tư vào những ngành có lợi thế cạnh tranh tốt, hướng ra xuất khẩu, trong đó có vai trò tích cực của khu vực tư nhân. Theo Bộ Tài chính, trong thời gian tới Việt Nam có thể định hướng cơ cấu đầu tư như sau: Phân bổ khoảng 15% tổng vốn đầu tư cho lĩnh vực Nông nghiệp, 45-47% tổng vốn đầu tư vào các ngành công nghiệp có lợi thế, có khả năng cạnh tranh. Để đạt được yêu cầu này, cần phải có sự định hướng của nhà nước thông qua nguồn vốn ngân sách, thông qua chính sách ưu đãi đầu tư các ngành, các khu vực đầu tư có hiệu quả cao trong hiện tại cũng như lâu dài đối với nền kinh tế. Việc thu hút nguồn vốn đầu tư xã hội cũng được quan tâm, trong đó, khả năng của khu vực tư nhân sẽ chiếm tỷ trọng cao nhất khoảng 28% (tương đương khoảng 16 tỷ USD); Ngân sách nhà nướclà 21% (tương 12 tỷ USD, trong đó 3 tỷ là vốn vay ODA); Khu vực doanh nghiệp Nhà nước khoảng 16.5-17.5% (tương đương khoảng 9-10 tỷ USD); FDI chiếm khoảng 16%(tương đương khoảng 9 tỷ USD); ngoài ra đầu tư bằng tín dụng nhà nước dự báo ở mức tương đương với mức đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước, trên một nửa số vốn này có nguồn gốc từ vay ODA để cho vay lại; đảm bảo đáp ứng nhu cầu đầu tư của nền kinh tế trong giai đoạn này đạt 55 tỷ USD đến 57 tỷ USD nhằm duy trì tốc độ tăng trưởng từ 6,7% đến 7,2% và lạm phát ở mức 4% đến 5%.
vốn đầu tư phát triển từ nsnn ở Việt Nam trong giai đoạn 1990-2000.
Như chúng ta đã biết, vốn đầu tư phát triển từ NSNN có vai trò rất lớn tới tăng trưởng kinh tế, là một yếu tố dẫn dắt, lan toả, có tác dụng trực tiếp và gián tiếp đến chiến lược đầu tư phát triển, đến quy hoạch đầu tư theo ngành kinh tế, theo vùng lãnh thổ, đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đến hiệu quả đầu tư… là yếu tố tạo tiền đề cho nền kinh tế bước vào giai đoạn cất cánh .
Nếu như trước những năm 1990 nguồn vốn đầu tư phát triển của đất nước chủ yếu dựa vào vốn NSNN thông qua các khoản vay nợ của Liên Xô và các nước XHCN (cũ), thì nay nguồn vốn này đã được đa dạng hoá dưới các thành phần:
Nguồn vốn của Ngân sách Nhà nước.
Nguồn vốn tín dụng Nhà nước.
Nguồn vốn tự có của các doanh nghiệp Nhà nước.
Nguồn vốn đầu tư của dân cư.
Nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài.
Tuy nguồn vốn đầu tư phát triển từ NSNN chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng vốn đầu tư phát triển của toàn xã hội. Song thực sự nó lại có vai trò rất quan trọng tới phát triển kinh tế và chuyển dịch cơ cấu ngành, là chất xúc tác, dẫn xuất để kích thích nguồn vốn đầu tư của các thành phần khác, là bánh lái cho cả cỗ xe kinh tế.
Khái quát chung về vốn nhà nước
Như trên đã được biết vốn nhà nước được hình thành từ rất nhiều nguồn vốn, mỗi nguồn vốn có một xu thế biến đổi theo thời gian (hay nói đúng hơn là theo chính sách của nhà nước) làm cho nguồn vốn của nhà nước cũng biến động theo
Thực tế, trong đầu giai đoạn 1990-2000, vốn đầu tư của Nhà nước tuy về lượng tuyệt đối tăng đều qua các năm, song tỷ trọng của vốn đầu tư Nhà nước trong tổng vốn đầu tư toàn xã hôi vẫn chưa ổn định. Tính theo giá hiện hành thì năm 1990 vốn đầu tư của Nhà nước chiếm 40.15% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Nhưng sau đó, năm 1991 lại giảm xuống chỉ còn 35.02% và tiếp tục giảm xuống vào năm 1992 (32.04%), rồi đột ngột tăng lên vào năm 1993 (41.34%) và lại giảm xuống chỉ còn 35.37%tổng vốn đầu tư toàn xã hội vào năm1994. Tuy nhiên, từ 1995 trở lại đây vốn đầu tư Nhà nước tăng đều qua các năm cả về số lượng lẫn tỷ trọng so với tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Vốn đầu tư Nhà nước trong giai đoạn này (từ 1995 - 2000) tăng nhanh qua các năm, từ 26047.8 tỷ đồng (chiếm 38.28% tổng vốn đầu tư toàn xã hội) của năm 1995 đã tăng lên 74700 tỷ đồng (chiếm 61.97% tổng vốn đầu tư toàn xã hội) vào năm 2000, tức là về giá trị danh nghĩa thì vốn đầu tư Nhà nước năm 2000 gấp 2.87 lần so với năm 1995. Trung bình thời kì 1995 - 2000 vốn đầu tư Nhà nước chiếm 51.52% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Còn tính cả thời kì 1990 - 2000 vốn đầu tư Nhà nước chiếm 45.29%.
Xét về tốc độ gia tăng vốn đầu tư Nhà nước ta thấy những năm đầu giai đoạn, tốc độ gia tăng vốn Nhà nước rất cao. Năm 1991 tăng 66.57% so với năm 1990, năm 1992 là 67.99% nhưng cao nhất cả giai đoạn là năm 1993 tốc độ gia tăng vốn so với năm 1992 là 119.96%.
Tuy nhiên, ngay năm sau đó tốc độ gia tăng vốn Nhà nước lại giảm đi trông thấy, từ 119.96% (năm 1993 so với năm 1992) giảm đi xuống còn 10.16% (năm 1994 so với năm 1993) và cả giai đoạn 1995-1990 tốc độ gia tăng vốn Nhà nước bình quân cũng chỉ đạt 23.78%. Sở dĩ có điều này bởi vì năm 1993 Nhà nước đã tập trung xây dựng đường dây tải điện 500KV Bắc Nam nên cần huy động một nguồn vốn lớn nên vốn đầu tư giai đoạn này tăng lên đột ngột và NSNN thời kì này cũng bị bội chi 4,6%GDP, sau năm 1993 để khống chế bội chi Nhà nước đã cắt giảm nhiều khoản chi bằng vốn nhà nước lên cả thời kì sau này tốc độ tăng vốn đầu tư đều rất thấp.
Thực trạng sử dụng vốn đầu tư phát triển từ NSNN trong giai đoạn 1990-2000
Vốn đầu tư từ NSNN trong giai đoạn này có rất nhiều điểm cần quan tâm. Tuy về mặt giá trị vốn đầu tư từ NSNN vẫn tăng đều qua các năm, song tỷ trọng của nó đối với tổng vốn đầu tư Nhà nước lại biến động rất thất thường ở thời kì đầu và có xu hướng giảm dần ở thời kì sau.
Thực tế Năm 1990 tỷ trọng của NSNN trong tổng vốn đầu tư của nhà nước là 61.76%. Nhưng năm 1991 lại giảm xuống chỉ còn 37.61%. Năm 1992 lại tăng lên 68.58%. Năm 1994 lại giảm xuống còn 39.98%. Cũng do xây dựng công trình trọng điểm đường dây 500KV mà chi ngân sách ở thời kì này cũng thất thường. Tuy nhiên, giai đoạn sau này từ 1995-2000 tỷ trọng của vốn đầu tư từ NSNN trong tổng vốn đầu tư lại xu hướng giảm dần. Năm 1995 tỷ trọng của vốn đầu tư từ NSNN so với tổng vốn đầu tư của nhà nước là 52.12% nhưng đến năm 2000 chỉ còn 37.48%. Đây cũng là một điều dễ hiểu, bởi thời kì này nền kinh tế của nước ta đang bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng tài chính châu á nên tốc độ tăng trưởng kinh tế cũng giảm, cả nền kinh tế bước vào thời kì suy thoái, thu NSNN từ thuế và các khoản phí khác cũng giảm. Do vậy tổng chi từ NSNN cho phát triển kinh tế cũng giảm. Mặt khác, chính phủ thực hiện chính sách cắt giảm 10% dự toán chi Ngân sách, nên cũng làm giảm các khoản chi cho đầu tư phát triển.
Tuy chi đầu tư phát triển của chính phủ từ NSNN giảm, song tỷ trọng vốn đầu tư từ nguồn vốn tín dụng Nhà nước và doanh nghiệp Nhà nước lại tăng trong giai đoạn này kéo theo tỷ trọng cũng như lượng tuyệt đối của vốn đầu tư thuộc khu vực Nhà nước tăng theo. Động thái chuyển dịch cơ cấu đầu tư thuộc khu vực kinh tế Nhà nước nêu trên là đúng hướng phù hợp với chủ trương xoá bỏ dần bao cấp trong đầu tư bằng nguồn vốn Ngân sách Nhà nước, tăng cường khai thác các nguồn lực và nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong đầu tư của khu vực doanh nghiệp.
Có một xu hướng mới đang được hình thành: chi đầu tư phát triển từ nguồn vốn tập trung của Nhà nước đang được dành chủ yếu cho xây dựng cơ sở hạ tầng và những khu vực khó hoặc không có khả năng thu hồi được vốn. Đây là một xu hướng tích cực, phù hợp với thực tế nước ta, cần được củng cố và tăng cường trong giai đoạn tới.
Trong giai đoạn 1990-2000, mục tiêu chi ngân sách cho đầu tư phát triển tuy có được đề cao song vẫn phải công nhận là đứng sau mục tiêu kiềm chế lạm phát. Hơn thế nữa, kế hoạch đầu tư phát triển chưa được đặt trong bối cảnh thực thụ của một chương trình phát triển kinh tế dài hạn, vẫn còn nặng cơ chế kế hoạch tập trung từ trên xuống Quy hoạch tổng thể không vững vàng. Chưa có cơ sở lý luận về việc sử dụng hiệu quả công cụ tài khoá để tác động tăng trưởng, nuôi dưỡng nguồn thu lâu dài cho NSNN
Chi đầu tư phát triển từ nguồn vốn NSNN trong giai đoạn qua vẫn chưa dứt điểm, tập trung và hiệu quả chưa cao. Chi đầu tư xây dựng cơ bản còn quá dàn trải, lãng phí ngay từ khâu thiết kế và lựa chọn dự án đầu tư. Nội dung chi đầu tư phát triển từ NSNN từ NSNN còn chưa chú trọng vào hàm lượng thiết bị, mới chỉ quan tâm đến quy mô số lượng về vốn xây dựng cơ bản nên hiệu quả đầu tư chậm phát huy. Trong thực tế, chi Ngân sách nhà nước cho đầu tư phát triển trong thời gian qua chưa thực sự chú trọng đến mục tiêu phát triển khoa học công nghệ, nâng cao năng suất lao động. Do đó, tăng trưởng kinh tế tuy đạt mức cao nhưng chất lượng tăng trưởng còn hạn chế thiếu tính bền vững, vẫn chưa thoát ra khỏi cái vòng luẩn quẩn: Công nghệ lạc hậu năng suất lao động thấp, hao phí nhiều, chất lượng sản phẩm thấp, giá thành cao sức cạnh tranh yếu, hàng hoá khó tiêu thụ thiếu vốn để mở rộng đầu tư công nghệ lạc hậu.
Phần 3
phân tích ảnh hưởng của vốn đầu tư phát triển &vốn đầu tư phát triển từ NSNN tới tăng trưởng kinh tế Việt Nam.
Phân tích những tác động của đầu tư tới tăng trưởng kinh tế Việt nam trong giai đoạn 1990-2000
Mô hình thu nhập quốc dân
Xây dựng mô hình
Chính sách chi tiêu, động viên thuế của chính phủ vào Ngân sách Nhà nước, tiêu dùng của dân cư, đầu tư của xã hội và tỷ lệ tăng trưởng kinh tế luôn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Để phân tích mối quan hệ này Keynes đã đưa ra lý thuyết trọng cầu và phân tích các yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng kinh tế:
Yt = f(Ct , It , Gt , Et ,Xt ) (1)
Với Y: giá trị tổng sản phẩm quốc nội (GDP)
C: Tiêu dùng toàn xã hội.
I: Đầu tư toàn xã hội.
G: Chi tiêu của chính phủ
E: Tổng giá trị xuất khẩu.
X: Tổng giá trị nhập khẩu .
Các chỉ tiêu kinh tế này đều xác định trong một thời kì t. Theo lý thuyết trên, tổng sản phẩm quốc nội sẽ phụ thuộc vào từng yếu tố có mặt trong mô hình. Nhưng bản thân các yếu tố này tác động qua lại lẫn nhau và ảnh hưởng trực tiếp đến Y ( tác động chèn). Chẳng hạn, tăng yếu tố G có khả năng tăng lạm phát, kéo theo lãi suất tăng và tiêu dùng, đầu tư giảm. Như vậy, việc xác định và dự báo trước được GDP của một nước sẽ tăng, giảm bao nhiêu do sự biến động của các yếu tố này là cả một vấn đề phức tạp và khó khăn, đó là chưa kể các yếu tố không có mặt trong mô hình nhưng lại có ảnh hưởng rất mạnh. May thay, trình độ tiến bộ khoa học kĩ thuật ngày càng phát triển đã mở ra khả năng ứng dụng khoa học kĩ thuật vào việc phân tích các vấn đề kinh tế và đạt được nhiều thành công ở nhiều nước. Những kỹ thuật kinh tế lượng cũng được áp dụng triệt để vào việc phân tích các hiện tượng kinh tế cũng như dự báo kinh tế thông qua các phần mềm thông dụng như Eviews, Mfit …
Đối với Việt Nam, Một nước đang thực hiện chuyển đổi từ cơ chế kinh tế tập trung, bao cấp sang cơ chế kinh tế thị trường theo định hướng XHCN kể từ đại hội Đảng VI 1986 thì việc phân tích được mối quan hệ giữa đầu tư phát triển, chính sách chi tiêu và động viên thuế với sự tăng trưởng thời kì 1991 -2000 là rất cần thiết, cho phép đánh giá tác động của các chính sách kinh tế - tài chính, đổi mới và điều chỉnh cũng như bổ sung để các chính sách phù hợp hơn đem lại hiệu quả cao nhất có thể được đối với tăng trưởng kinh tế. Do vậy dù có nhiều khó khăn nhất định nhưng việc nghiên cứu ảnh hưởng của các yếu tố, đặc biệt là chính sách chi Ngân sách và đầu tư tới tổng sản phẩm quốc nội trong điều kiện hiện nay là điều cần quan tâm.
Mô hình nghiên cứu có xuất phát điểm là Mô hình (1), tư tưởng được vận dụng ở đây là tư tưởng của Keynes.
Phần trước ta đã nghiên cứu sự tác động qua lại của các yếu tố kinh tế đặc thù và xác định rõ các yếu tố tác động tới tăng trưởng dưới dạng các hàm số và mô hình hoá chúng dưới dạng sơ đồ. Phần dưới đây chúng ta sẽ sử dụng một số công cụ phân tích toán học để làm rõ sự tác động này. Tuy nhiên do hạn chế về thời gian và đặc biệt do hạn chế trong việc thu thập số liệu nên một số biến ngoại sinh như lãi suất, tỷ giá hối đoái sẽ được coi là không đổi trong cả quá trình nghiên cứu. Một số biến nội sinh sẽ được coi như biến ngoại sinh mặc dầu trong thực tế chúng chịu sự tác động của rất nhiều yếu tố:
Đầu tư là một bộ phận lớn và hay thay đổi trong tổng chi tiêu, đầu tư có hai vai trò Kinh tế vĩ mô là:
- Do đầu tư là một bộ phận lớn và hay thay đổi trong tổng chi tiêu, nên những thay đổi thất thường về đầu tư ảnh hưởng rất lớn tới tổng sản lượng và thu nhập trong ngắn hạn
Đầu tư dẫn đến tích luỹ cơ bản, mở rộng năng lực sản xuất, nên về mặt dài hạn đầu tư làm tăng sản lượng tiềm năng và tăng trưởng kinh tế.
Đầu tư phụ thuộc vào 3 yếu tố cơ bản là:
*. Mức cầu về sản lượng trong tương lai, nếu mức cầu càng lớn thì đầu tư dự kiến sẽ càng cao và ngược lại.
*. Các yếu tố ảnh hưởng tới chi phí đầu tư như: Lãi suất, thuế…
*. Dự đoán của các hãng kinh doanh về tình trạng của nền kinh tế trong tương lai
Tuy nhiên, ta giả định lãi suất và thuế được ấn định trước, và đầu tư là một lượng không phụ thuộc vào sản lượng và thuế:
I =
Giả định là thuế của chính phủ được ấn định ngay từ đầu năm tài khóa. Do đó:
T = .
Xuất khẩu được định nghĩa là những hoạt động sản xuất hàng hoá và dịch vụ trong nước để bán ra nước ngoài, nên xuất khẩu làm tăng thu nhập quốc dân và tăng nhu cầu trong xã hội.
Tuy nhiên, do đặc điểm của nền kinh tế nước ta, nhu cầu xuất khẩu phụ thuộc chủ yếu vào thị trường nước ngoài, nhu cầu đó không liên quan tới thu nhập và sản lượng của nền kinh tế trong nước nên giả định nhu cầu về hàng xuất khẩu độc lập với sản lượng.
X =
Nhu cầu từ nhập khẩu từ bên ngoài được hiểu là những hoạt động nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ sản xuất ở nước ngoài được nhân dân trong nước mua vào. Chẳng hạn như nguyên vật liệu cho sản xuất nội địa hay hàng hoá tiêu dùng của hộ gia đình, trong cả hai trường hợp nhập khẩu có thể tăng khi nhu nhập và sản lượng tăng. Do đó hàm xuất khẩu được mô tả dưới dạng:
Mt=f(Yt)
Từ sự phân tích như vậy, kết hợp các yếu tố trên vào mô hình tổng quát (1), xin đề xuất một mô hình là hệ các phương trình có dạng:
Log(Yt )= c1*log(Ct )+ c2*log(It )+ c3*log(Gt )+ c4*log(Xt )+ c5*log(Mt) + Ut1.
Log(Ct )= c6 + c7*log(Yt )+ c8*log(Tt )+ Ut2.
Log(Mt )= c9+c10*log(Yt )+ Ut3.
Với Uti: là các yếu tố ngẫu nhiên
Các biến nội sinh trong hệ phương trình là Log(Yt); Log(Ct); Log(Mt)
Các biến ngoại sinh bao gồm: Log(It); Log(Gt); Log(Xt); Log (Tt)
Kì vọng về dấu các hệ số trong mô hình
Theo lý thuyết tăng trưởng kinh tế, thì sự tăng trưởng kinh tế phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố có mặt trong mô hình:
Thuế của chính phủ tác động tiêu cực tới tăng trưởng kinh tế, nghĩa là khi tăng thuế thì tăng trưởng kinh tế có chiều hướng chậm lại và ngược lại.
Đầu tư ảnh hưởng tích cực tới tăng trưởng kinh tế, khi đầu tư tăng thì quy mô sản xuất được mở rộng làm cho sản lượng đầu ra tăng.
Chi tiêu của chính phủ có thể kích thích tăng trưởng kinh tế, cũng có thể ảnh hưởng tiêu cực tới tăng trưởng kinh tế. Chẳng hạn khi chi tiêu của chính phủ quá lớn làm thâm hụt Ngân sách trầm trọng, sẽ làm tăng thêm gánh nặng cho nền kinh tế. Nhưng nó chung thì chi tiêu của chính phủ đều nhằm mục đích tăng trưởng kinh tế, tác động tích cực tới nền kinh tế.
Từ cơ sở lý thuyết như vậy ta luôn kì vọng dấu của các hệ số trong mô hình có dấu tương ứng là:
c1 mang dấu dương
c2 mang dấu dương
c3 mang dấu dương (hoặc có thể mang dấu âm)
c4 mang dấu dương
c5 mang dấu âm
c7 mang dấu dương
c8 mang dấu âm
c10 mang dấu dương
c. Ước lượng Mô hình.
Số liệu dùng để ước lượng mô hình được lấy trong khoảng thời gian từ 1990 đến 2000 tại Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế trung Ương và được tính theo giá năm 1994 để loại bỏ yếu tố lạm phát. Phần mềm dùng cho phân tích ở đây là Phần mềm kinh tế lượng EVIEWS với phương pháp ước lượng bình phương nhỏ nhất có trọng số cho Hệ Phương trình. Ước lượng và số liệu cùng với các kiểm định của mô hình được làm rõ hơn trong phần phụ lục (trang78), kết quả thu được là như sau:
Log(GDPr)=0.922026*log(Cr)+.233316*log(Ir)-0.0094896log(Gr) +0.166326*log(Xr)-0.197144*log(Mr)
Log(Cr) = 2.544823+0.839413*log(GDPr)-0.085436*log(THUE)
Log(Mr) = -10.27842+1.777943*log(GDPr)
d. Mối quan hệ giữa các biến trong mô hình
Quan hệ giữa tổng sản phẩm quốc nội và tiêu dùng cuối cùng của xã hội: Từ mô hình ước lượng cho thấy trong giai đoạn 1990-2000 khi dân cư tăng chi tiêu lên 1 % các yếu tố khác không đổi sẽ làm cho tổng sản phẩm quốc nội tăng lên 0.922026 %. Như vậy, chi tiêu cuối cùng của khu vực dân cư chiếm một tỷ trọng rất lớn trong tổng sản phẩm quốc nội (tính theo phương pháp luồng sản phẩm). Đây là đặc trưng chung của các nước đang phát triển. Quy mô GDP nhỏ bé, chỉ thoả mãn nhu cầu tiêu dùng tối thiểu của người dân, tích luỹ được từ GDP là rất ít. Cụ thể, khi tổng sản phẩm quốc nội tăng 1 % các yếu tố khác không đổi thì tiêu dùng tăng 0.839413%.
Quan hệ giữa tổng sản phẩm quốc nội với tổng đầu tư xã hội: Khi tổng đầu tư xã hội tăng lên 1% mà các yếu tố khác không đổi thì Tổng sản phẩm quốc nội tăng 0.233316 %. Nghĩa là đầu tư tác động rất tích cực tới tăng trưởng kinh tế, làm cho năng lực sản xuất tăng lên, quy mô sản xuất cũng được mở rộng. Thực tế trong giai đoạn này hệ số ICOR trung bình khoảng 4.0 Chứng tỏ nền kinh tế hoạt động có hiệu quả, ở giai đoạn đầu của quá trình đổi mới, hệ thống những cơ chế, chính sách đổi mới đã "cởi trói"và giải phóng mạnh sức sản xuất của mọi thành phần kinh tế. Các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ, thương mại, đầu tư diễn ra rất rầm rộ và sôi động, hiệu quả. Trên cơ sở đó nhu cầu cần vốn đầu tư cho nền kinh tế rất thấp mà vẫn đạt được tốc độ tăng trưởng cao
Quan hệ giữa chi tiêu của chính phủ với quá trình tăng trưởng kinh tế: Khi chính phủ tăng thêm chi tiêu 1 % và các thành phần khác đều không đổi thì tổng sản phẩm quốc nội giảm 0.094896%. Điều này làm cơ sở cho việc thực hiện các chính sách tài khoá của chính phủ phải thận trọng hơn. Có thể do số liệu chưa đảm bảo hết những yêu cầu của các giả thiết trong kinh tế lượng (thiếu quan sát). Song thực tế ở giai đoạn sau của thời kì đổi mới cũng có nhiều bất cập, hiệu quả bùng nổ kinh tế về số lượng đã hết, các cơ chế, chính sách đổi mới ở thời kì đầu đã trở lên bảo thủ, bộc lộ các hạn chế cản trở kinh tế phát triển. Đặc biệt chi tiêu của chính phủ trong giai đoạn sau dành cho chi tiêu thường xuyên rất lớn, việc xây dựng các công trình công cộng ồ ạt, dàn trải, không đúng mục đích đã làm lãng phí vốn NSNN.
Quan hệ giữa tổng sản phẩm quốc nội với xuất khẩu: Từ khi Mỹ bỏ cấm vận nước ta (năm1991) thì hoạt động ngoại thương nước ta những năm qua đã được mở rộng rất nhiều, nếu ở thời kì trước chúng ta chỉ quan hệ ngoại thương bó hẹp trong các nước XHCN thì ngày quan hệ bạn hàng ngày càng được mởi rộng, hiện tại có quan hệ với hơn 120 nước bạn hàng, tốc độ tăng trưởng của nền ngoại thương khá cao (khoảng20%) góp phần thoả mãn một phần nào nhu cầu tiêu dùng trong nước, đồng thời cũng thu nhiều ngoại tệ về cho nền kinh tế thông qua các hoạt động xuất khẩu. Mô hình cho kết quả là khi các thành phần khác không đổi thì việc tăng xuất khẩu lên 1% thì tổng sản phẩm quốc nội tăng lên 0.166326%.
Quan hệ giữa tổng sản phẩm quốc nội và nhập khẩu: Khi cho các yếu tố khác không đổi, việc tăng 1% giá trị hàng hoá và dịch vụ mua từ bên ngoài vào sẽ làm cho tổng sản phẩm quốc nội giảm mất 0.197144%, nhưng ngược lại, khi tổng sản phẩm quốc nội tăng 1 % thì xu hướng nhập khẩu lại tăng lên 1.777943%.
Tác động của Thuế: Thuế của chính phủ có tác động tiêu cực trong giai đoạn này. Khi chính phủ tăng thuế suất lên 1% dẫn đến chi tiêu cuối cùng của dân cư bị giảm 0.085436%, do đó kéo theo GDP bị giảm xuống 0.07877%. Tuy nhiên nền công nghiệp Việt Nam trong thời kì này vẫn còn non trẻ, yếu kém, mức độ cạnh tranh với thị trường thế giới còn thấp nên việc thực hiện các biện pháp bảo hộ như xác lập hàng rào thuế quan, cung cấp hạn ngạch quator tuy làm giảm nhu cầu tiêu dùng của khu vực dân cư song xét về lợi ích lâu dài thì đây là một biện pháp phải làm. Với yêu cầu hội nhập quốc tế và khu vực, thì xu hướng những năm gần đây và tương lai sẽ phải cắt giảm các hàng rào thuế quan tạo điều kiện thuận lợi cho lĩnh vực ngoại thương hoạt động. Đây vừa là thời cơ thuận lợi cũng vừa là thách thức khi nước ta hội nhập quốc tế.
Từ mô hình phân tích cho thấy đầu tư toàn xã hội tác động rất tích cực tới tăng trưởng kinh tế. Tuy mô hình chưa thể lượng hoá chính xác mối quan hệ giữa các biến, song về mặt bản chất nó cho phép thấy được khi đầu tư toàn xã hội tăng kéo theo một loạt các yếu tố khác bị ảnh hưởng theo như: tư liệu sản xuất, công nghệ, chất lượng lao động được nâng cao, thất nghiệp giảm xuống, năng suất lao động tăng lên làm tăng sản lượng đầu ra của xã hội dẫn đến tăng trưởng kinh tế. Đối với các nước đang phát triển thiếu vốn , thiếu công nghệ, năng suất lao động thấp thì vốn đầu tư toàn xã hội đủ lớn sẽ giải quyết được các vấn đề này tạo tiền đề vững chắc cho phát triển kinh tế.
Mô hình Harrod- Domar
Mô hình được xây dựng dựa trên tư tưởng của Harrod -Domar khi đề cập tới nhu cầu về vốn đối với quá trình tăng trưởng kinh tế. Đối với các nước đang phát triển như Việt Nam nhu cầu sử dụng vốn đầu tư cho quá trình tăng trưởng là rất lớn. Đặc biệt trong công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước và chuyển dịch cơ cấu kinh tế thì nhu cầu sử dụng vốn đầu tư lại càng lớn. Để xác định nhu cầu sử dụng vốn các nhà kinh tế thường sử dụng hệ số ICOR. Hệ số này biểu thị mức độ gia tăng vốn đầu tư so với mức độ gia tăng sản lượng của nền kinh tế, hay một đồng vốn gia tăng sẽ tạo thêm bao nhiêu đồng sản lượng.
ICOR=
Do đó =
Mô hình đề nghị:
gGDPt = *(TDTXH/GDP)t + *biengia +Ut
Trong đó : gGDP: Tốc độ tăng trưởng kinh tế.
TDTXH/GDP: Tỷ lệ vốn đầu tư/ tổng sản phẩm quốc nội.
Biengia: là biến giả phản ánh cuộc khủng hoảng tài chính châu á. Biến có giá trị bằng 1 nếu ở thời kì sau năm 1997, tức là:
Biengia =0 nếu là trước1997
Biêngia = 1 từ 1997 trở đi
Các chỉ tiêu kinh tế này đều xác định trong một thời kì t phản ánh thực trạng nền kinh tế tại thời điểm t
Kì vọng từ các hệ số: kì vọng hệ số > 0
Kì vọng hệ số : hệ số này có kì vọng là âm bởi cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ có ảnh hưởng tiêu cực tới hầu như toàn bộ nền kinh tế thế giới.
Số liệu phân tích mô hình được lấy từ Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương trong thời kì 1990-2000 và đã điều chỉnh theo giá năm 1994 để loại trừ yếu tố lạm phát. Lãi suất trong kì giả định là không đổi
Ước lượng mô hình
Ước lượng mô hình bằng EVIEWS với phương pháp ước lượng bình phương nhỏ nhất, kết quả ước lượng và các kiểm định về mô hình được trình bày trong Phụ lục (trang80).
Dưới đây là mô hình hồi quy thu được
Estimation Command:
=====================
LS @PCH(GDPR) VDTXHR/GDPR BIENGIA
Estimation Equation:
=====================
@PCH(GDPR) = C(1)*(VDTXHR/GDPR) + C(2)*BIENGIA
Substituted Coefficients:
=====================
@PCH(GDPR) = 0.3206198261*(VDTXHR/GDPR) - 0.04024186484*BIENGIA
Mối quan hệ giữa các biến số có mặt trong mô hình :
Từ kết quả nhận được của mô hình cho thấy khi tỷ trọng của tổng đầu tư toàn xã hội trong tổng GDP (tính theo giá 1994) tăng nên 1% trong điều kiện không có khủng hoảng thì tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân tăng nên 0.3206198261%, tức nếu cố định các yếu tố khác thì hệ số ICOR đạt được khoảng 3.15 trong thời kì nghiên cứu.
Yếu tố biến giả cho thấy trong thời kì sau khủng hoảng tài chính châu á tốc độ tăng trưởng GDP năm sau giảm 0.040242% so với năm trước khẳng định giai đoạn trong và sau cuộc khủng hoảng nền kinh tế nước ta đang lâm vào tình trạng suy thoái
Qua mô hình ta thấy sự đóng góp của yếu tố vốn đầu tư vào quá trình tăng trưởng kinh tế là rất lớn nếu không nói là rất quan trọng. Nếu khủng khoảng tài chính châu á không xảy ra thì cứ khoảng 3.15 đồng vốn đầu tư sẽ thu thêm 1 đồng cho nền kinh tế. Cuộc khủng hoảng tài chính châu á không những kéo theo sự suy giảm kinh tế mà còn kéo theo các vấn đề xã hội sẽ làm ảnh hưởng lớn tới môi trường đầu tư. Sự phục hồi nền kinh tế có thể trở lại sau 2 đến 3 năm nữa, nhưng một môi trường đầu tư như cũ sẽ không thể được thiết lập lại nhanh chóng như vậy. Môi trường đầu tư nước ta tuy không bị biến động lớn như ở một số nước trong cùng khu vực, nhưng môi trường đầu tư nước ngoài ở nước ta sẽ phải đối phó với sức cạnh tranh lớn hơn từ các nước ASEAN, đây cũng là cơ hội cho Việt Nam cải thiện môi trường đầu tư của mình và mở rộng hơn các cơ hội đầu tư.
Tổng vốn đầu tư toàn xã hội như đã phân tích ở trên không chỉ có một nguồn duy nhất mà có rất nhiều nguồn. Một trong các nguồn vốn quan trọng trong tổng đầu tư xã hội là vốn đầu tư cho phát triển từ Ngân sách Nhà nước, có vai trò dẫn dắt, tạo điều kiện thuận lợi cho các nguồn vốn khác tập trung, phát huy tác dụng theo đúng mong muốn của chính phủ. Phần dưới đây sẽ xem xét kĩ hơn về nguồn vốn này.
Đầu tư phát triển từ NSNN tác động tới tăng trưởng kinh tế quốc dân việt nam giai đoạn 1990-2000
1. Tác động của đầu tư phát triển từ NSNN tới tăng trưởng kinh tế quốc dân
Nước ta đang trên con đường CNH-HĐH đất nước, được khởi điểm từ một vị trí rất thấp, khi mà cơ sở hạ tầng chưa phát triển hoàn chỉnh, tiềm lực của khu vực tư nhân chưa được tập trung và khơi dậy thì Đầu tư phát triển từ NSNN có vai trò hết sức quan trọng trong việc huy động các nguồn vốn khác. Đầu tư phát triển từ NSNN được coi như một "mồi lửa" để thổi bùng nền kinh tế bước vào thời kì hoạt động sôi động, điều chỉnh nền kinh tế đi vào ổn định tăng trưởng. Trước tình hình đó việc xây dựng một mô hình để đánh giá được mức độ ảnh hưởng của vốn Đầu tư phát triển từ NSNN tới các chỉ tiêu kinh tế là rất cần thiết, nó cho phép dự báo tình hình tăng trưởng kinh tế trong tương lai và đưa ra các đề xuất hợp lý.
Do hạn chế về mặt thời gian và số liệu nên mô hình chỉ đề cập tới sự ảnh hưởng của Đầu tư phát triển từ NSNN tới tăng trưởng kinh tế và một số chỉ tiêu kinh tế khác
Cơ sở lý thuyết để hình thành mô hình
Tổng đầu tư xã hội:
Tổng đầu tư xã hội bao gồm rất nhiều thành phần, do đó hàm đầu tư toàn xã hội có dạng: TDTXH = f( DTNSNN , TDND..)
Trong đó TDTXH : Tổng đầu tư xã hội.
DTNSNN : Đầu tư Ngân sách Nhà nước.
TDND : Tín dụng nội địa.
Tổng sản phẩm quốc nội.
Tổng sản phẩm quốc nội của một quốc gia trong nền kinh tế mở phụ thuộc không những vào các nguồn lực trong nước mà còn phụ thuộc vào các hoạt động xuất nhập khẩu với thế giới bên ngoài. Do vậy GDP là một hàm số có dạng:
GDP=f(TDTXH,EXPORT…)
Trong đó EXPORT: tổng giá trị tất cả các hoạt động xuất khẩu của một quốcgia
Xây dựng mô hình
Từ việc phân tích trên cơ sở lý thuyết kinh tế ở trên xin đề xuất mô hình là một hệ các phương trình sau:
log(TDTXH)=c(1)+c(2)*log(DTNSNN )+c(3)*log(TDND)+Ut1.
Log(gdp)=c(4)+c(5)*log(TDTXH)+c(7)*log(EXPORT)+Ut2
Cơ sở dữ liệu được lấy từ Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương giai đoạn 1990-2000. Số liệu được đưa về giá năm 1994 để loại bỏ yếu tố lạm phát.
Các hệ số c(i) trong mô hình chính là hệ số co dãn của các biến độc lập đối với biến phụ thuộc phản ánh sự thay đổi % của các biến phụ thuộc theo sự thay đổi % của biến độc lập.
Các kì vọng về dấu của mô hình
Đầu tư phát triển từ NSNN là một bộ phận của tổng đầu tư xã hội, mỗi sự thay đổi nhỏ của Đầu tư phát triển từ NSNN đều tác động trực tiếp tới tổng đầu tư xã hội, tác động đó thường theo tính chất cùng chiều nên ta kì vọng sự thay đổi Đầu tư phát triển từ NSNN tác động tới sự thay đổi của tổng đầu tư toàn xã hội là tích cực.
Tín dụng nội địa (hay nói các khác là tín dụng Nhà nước) theo lý thuyết kinh tế thì là một bộ phận của tổng đầu tư toàn xã hội nên kì vọng sự thay đổi của tín dụng nội địa cũng có tác động tích cực tới sự thay đổi của tổng đầu tư toàn xã hội.
Vốn giải ngân nước ngoài FDI tăng làm cho nguồn vốn cho tổng đầu tư tăng do đó ta cũng kì vọng sự thay đổi của vốn FDI tác động tích cực tới sự thay đổi trong tổng đầu tư toàn xã hội.
Tổng đầu tư xã hội là nguồn cơ bản tạo nên vốn sản xuât, một yếu tố đầu vào cho nền kinh tế. Xuất khẩu có vai trò rất lớn trong việc tăng thêm đầu ra cho nền kinh tế mở. Nên kì vọng hai yếu tố này có tác động tích cực tới GDP.
Từ suy luận như vậy ta mong muốn dấu của các hệ số trong mô hình như sau: c(2); c(3); c(4); c(5); c(6); c(7) đều dương.
Ước lượng mô hình
Mô hình được ước lượng bằng phương pháp bình phương nhỏ nhất có trọng số trên EVIEWS. Mô hình ước lượng và các kiểm định sự phù hợp của mô hình được trình bày trong phần phụ lục(trang85). Kết quả thu được như sau:
Log(TDTXH)=4.297935+0.224553*log(DTNSNN)+0.193959*log(TDND)+ 0.302524*log(FDI)
Log(GDP)= 6.411473+0.077679*log(TDTXH)+ 0.439755*log(EXPORTR
Khi đầu tư từ NSNN tăng 1% các yếu tố khác không đổi thì tổng đầu tư toàn xã hội tăng 0.224553%. Tương tự khi tín dụng nội địa tăng 1% các yếu tố khác không đổi thì tổng đầu tư xã hội tăng 0.193959%, đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI tăng 1% thì tổng đầu tư toàn xã hội cũng tăng 0.302524 %.
khi tổng đầu tư toàn xã hội tăng 1% các yếu tố khác không đổi thì tăng trưởng của nền kinh tế tăng 0.077679%. Tương tự khi xuất khẩu ra nước ngoài tăng 1% các yếu tố khác không đổi thì toàn bộ nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng là 0.439755%.
Từ sự phân tích trên ta thấy khi tăng đầu tư phát triển từ NSNN lên 1% thì tăng trưởng toàn bộ nền kinh tế tăng nên 0.03734%. chứng tỏ đầu tư phát triển từ NSNN có tác động rất tích cực tới tăng trưởng kinh tế. Tuy tác động trực tiếp tới nền kinh tế chưa nhiều song nó có tác dụng kích thích tới các nhân tố khác, tạo hành lang cho các thành phần kinh tế khác hoạt động thuận lợi hơn và hiệu quả hơn. Hơn nữa, trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay, yêu cầu đối với nguồn vốn NSNN rất lớn. Vốn NSNN vừa đảm bảo được nhiều hơn cho đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, vùa đảm bảo nâng cao chất lượng bồi dưỡng và đào tạo nguồn nhân lực, đẩy mạnh đầu tư nghiên cứu khoa học, thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu kinh tế, hỗ trợ các doanh nghiệp nhà nước và ngân hàng thươg mại quốc dân, góp phần cải thiện môi trường đầu tư nuớc ngoài, tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế theo yêu cầu hôi nhập quốc tế.
Tác động của vốn đầu tư từ NSNN tới một số ngành kinh tế
Nhìn chung, vốn đầu tư phát triển từ NSNN trong giai đoạn 1990-2000 tuy có xu hướng giảm dần song lại tập trung vào một số lĩnh vực trọng yếu, nên đạt được một số kết quả đáng khích lệ:
Về nông nghiệp, thuỷ lợi, lâm nghiệp thuỷ sản
Mục tiêu phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn của Đại hội Đảng trong thời kỳ này là phát triển nông nghiệp toàn diện hướng vào bảo đảm an toàn lương thực quốc gia trong mọi tình huống, tăng nhanh nguồn thực phẩm rau quả, cải thiện chất lưỡng bữa ăn, giảm suy dinh dưỡng. Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn có hiệu quả. Trên cơ sở bảo đảm vững chắc nhu cầu lương thực, chủ yếu là lúa, mở rộng diện tích trồng cây công nghiệp, cây ăn quả, tăng nhanh đàn gia súc, gia cầm, phát triển kinh tế biển, đảo, kinh tế rừng, khai thác có hiệu quả tiềm năng của nền nông nghiệp sinh thái, tăng nhanh sản lượng hàng hoá gắn với công nghiệp chế biến và xuất khẩu, mở rộng thị trường nông thôn tăng thu nhập của nông dân. Đẩy mạnh xây dựng, nâng cấp kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội. Tăng nhanh sản lượng lương thực hàng hoá ở những vùng đồng bằng có năng suất và có hiệu quả cao. Bố trí lại mùa vụ để né tránh thiên tai, chuyển sang các vụ có năng suất cao hoặc các cây khác có hiệu quả hơn. Nhân nhanh những giống mới có năng suất cao, phẩm chất tốt, thích ứng với từng vùng sinh thái, đặc biệt là giống lúa lai, ngô lai. Qui hoạch và phát triển một số vùng sản xuất các loại lúa gạo ngon có giá trị cao. Dự kiến năm 2000, sản lượng lương thực đạt khoảng 30 triệu tấn, bình quân đầu người 360-370 kg.
Phát triển mạnh các loại cây công nghiệp, cây ăn quả, rau đậu có hiệu quả kinh tế cao; hình thành những vùng sản xuất tập trung gắn với công nghiệp chế biến tại chỗ. Trồng cây công nghiệp kết hợp với chương trình phủ xanh đất chống đồi núi trọc theo hình thức nông lâm kết hợp. Coi trọng các biện pháp thâm canh tăng năng suất. Còn đối với các ngành chăn nuôi, thuỷ sản, lâm nghiệp cũng cần phải được tập trung phát triển cao. Đến năm 2000 nông nghiệp (cả lâm nghiệp và thuỷ sản) chiếm khoảng 19-20% GDP.
Nhờ nguồn vốn Đầu tư phát triển từ NSNN được tập trung đáng kể vào lĩnh vực này thông qua các chương trình dự án lớn về thuỷ lợi và các chương trình quốc gia (Chương trình 327,773…) và một số nguồn vốn khác, mà trong những năm qua mặc dầu thiên tai xảy ra liên tiếp nhưng khu vực nông nghiệp vẫn đạt được mức tăng trưởng khá, bình quân 4.3% trong giai đoạn 1996-2000. Chúng ta không những đảm bảo an toàn lương thực thực phẩm mà còn là một trong những nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. Kim ngạch xuất khẩu thủy sản và các nông sản tăng mạnh trong các năm qua: Gạo năm 1999 xuất khẩu 4.5 triệu tấn, năm 2000: 3.5 triệu tấn. Tương tự cà phê: 482 nghìn tấn và 694 nghìn tấn; hải sản 979 triệu USD và 1475 triệu USD.
Sự tác động của vốn NSNN dành cho lĩnh vực này được phản ánh trong mô hình sau: log(GDPNN&LNr) = 9.025312 + 0.196902*log(VNSNNr)
Trong đó :
Log(GDPNN&LNr): logarit của giá trị tổng sản phẩm ngành nông, lâm, ngư nghiệp đã được tính theo giá cố định năm 1994
Log(VNSNr): Logarit của nguồn vốn đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước, tính theo giá năm 1994
Mô hình ước lượng và các kiểm định sự phù của nó được trình bày trong phần phụ lục (trang86)
Với mô hình trên nhận thấy tác động của vốn đầu tư phát triển từ NSNN tới lĩnh vực Nông, Lâm, Ngư nghiệp thông qua các chương trình dự án nâng cao năng suất, kĩ thuật như các công trình thuỷ lợi, cung cấp phân bón, giống và cây con, các trương trình phủ xanh đất trống đồi trọc, các chương trình hỗ trợ xuất khẩu thuỷ hải sản…đã mang lại hiệu quả thiết thực cho lĩnh vực này. Hệ số co dãn của vốn đầu tư từ NSNN đối với lĩnh vực Nông, lâm, ngư nghiệp cho thấy khi tăng vốn đầu tư phát triển từ NSNN nói chung lên 1% sẽ làm cho giá trị sản phẩm của lĩnh vực này tăng lên 0.196902%, chuyển dịch dần cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn theo Nghị quyết đại hội Đảng VIII .
Đối với lĩnh vực công nghiệp
Do chủ chương xoá bỏ dần bao cấp trong đầu tư từ Ngân sách Nhà nước, tăng cường tính tự chủ của các doanh nghiệp Nhà nước nên lĩnh vực này thu hút khá nhiều vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp dân doanh và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Đặc biệt là việc tăng đầu tư vào những ngành có công nghệ cao, có khả năng cạnh tranh và xuất khẩu lớn. Nguồn vốn đầu tư phát triển tập trung cho lĩnh vực này chủ yếu vào các ngành công nghiệp chủ lực như công nghiệp gang thép, công nghiệp khai thác, công nghiệp xây dựng…phục vụ nhu cầu sản xuất trong nước và xuất khẩu. Mặt khác, các biện pháp kích cầu đã phát huy hiệu quả nên ngành công nghiệp đạt tốc độ cao, tính trung bình cả giai đoạn 1995-2000 tốc độ tăng khoảng 10.6%.
Mô hình dưới đây phản ánh được phần nào vai trò của vốn đầu tư phát triển từ NSNN tác động tới ngành này:
Log(GDPCN&XDr) =6.051158 + 0.530779*log(VNSNNr)
Nguồn số liệu được thu thập từ Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương và đã được điều chỉnh về giá gốc năm 1994 để loại bỏ yếu tố lạm phát. Ước lượng và các kiểm định được trình bày trong phần phụ lục (trang90)
Với hệ số co dãn là 0.530779 thu được từ mô hình cho thấy khi nhà nước tăng 1% vốn đầu tư phát triển từ NSNN vào nền kinh tế (trong đó ngành công nghiệp chiếm tỷ trọng khoảng 45%) thì giá trị sản lượng ngành công nghiệp tăng khoảng 0.530779%.
Đối với lĩnh vực kết cấu hạ tầng
Vốn đầu tư thuộc khu vực này chủ yếu được tài trợ bởi nguồn vốn phát triển từ Ngân sách Nhà nước. Nhờ đó hệ thống thông tin liên lạc được thông suốt, góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế chung của các ngành, khu vực kết cấu hạ tầng được phát triển mạnh: Việc xây dựng hệ thống giao thông trục Bắc - Nam đã cơ bản được hoàn thành, tiếp đến đường Hồ Chí Minh Highway cũng đang trong giai đoạn hoàn thiện, các trục giao thông trong vùng kinh tế trọng điểm chính như quốc lộ 18, quốc lộ 5 thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, quốc lộ 51, quốc lộ 13 của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, nhiều cầu lớn như Bắc Mỹ Thuận, cầu sông Gianh, cầu Đuống, cầu Thanh Trì đã hoàn thành hay bắt đầu khởi công trong năm 2000. Hệ thống giao thông được cải thiện với 170.000km; ngành hàng không khai thác được 15 sân bay, đảm bảo 10 triệu lượt khách trong năm 2000; hiện cả nước đã có 70 cảng biển với 22 km cầu cảng đảm bảo năng lực bốc dỡ 50 triệu tấn hàng/năm…những kết quả nêu trên không chỉ có ý nghĩa tạo môi trường thu hút vốn đầu tư mà còn góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh và xuất khẩu của tất cả các ngành sản xuất trong nền kinh tế.
Về lĩnh vực đào tạo, giáo dục, khoa học, công nghệ
Trong 10 năm (1991-2000) các lĩnh vực này được đầu tư khoảng 2.8 tỷ USD chiếm 4.76% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, tốc độ tăng trưởng vốn bình quân trong 10 năm là 19.8%. Đánh giá chung, việc đầu tư cho GDĐT và KHCN mặc dù đã đảm bảo 15% và 2% tổng chi Ngân sách (Theo Nghị quyết đại hội VIII), song so với nhu cầu hiện tại và tương lai để đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực khi bước vào thế kỉ XXI thì số vốn này còn quá nhỏ bé.
Về lĩnh vực đào tạo, nguồn tài chính chi cho hoạt động này vẫn chủ yếu là từ NSNN. Tuy nhiên trong điều kiện nền kinh tế còn chậm phát triển, thu nhập quốc dân tính trên đầu người thấp và nguồn thu ngân sách hạn hẹp, đầu tư cho giáo dục tuy có tăng lên song vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu tài chính để duy trì và phát triển các hoạt động giáo dục và đào tạo.
Ngân sách nhà nước chi chogiáo dục và đào tạo
Năm
Tổng ChiNSNN
chi cho giáo dục và đào tạo
%so với tổng chi NSNN
1986
120
7
5.83
1987
513
29
5.65
1988
2814
131
4.66
1989
5964
593
9.94
1990
8280
735
8.88
1991
12081
1127
9.33
1992
23710
1867
7.87
1993
37010
3129
8.45
1994
44655
4080
9.14
1995
54589
6130
11.23
1996
62889
7100
11.29
1997
70749
8100
11.45
1998
74761
10365
13.86
Nguồn: Vụ hành chính sự nghiệp- Bộ tài chính
Tỷ lệ chi cho giáo dục trong ngân sách nhà nước tuy ngày một tăng nên (xem bảng), nhưng so với các nước trong khu vực Đông Nam áá và thế giới thì vẫn thấp. ở Thái Lan, chi cho giáo dục và đào tạo trung bình chiếm hơn 20% tổng chi Ngân sách Nhà nước, Hàn quốc 21%, Malaixia19%, Singapore là 20%…
Thực tế, các khoản chi cho khoa học, kĩ thuật, giáo dục là các khoản đầu tư cho tương lai, rất tốn kém nhưng đưa lại hiệu quả rất lớn cho nền kinh tế. Do vậy, cần thiết phải ưu tiên, đa dạng hoá các nguồn vốn để đầu tư vào lĩnh vực này.
Tác động của đầu tư phát triển từ NSNN tới đầu tư tư nhân
Phần này nghiên cứu sự tác động của vốn đầu tư từ Ngân sách Nhà nước tác động tới quá trình đầu tư của khu vực tư nhân như thế nào và liệu thực sự đầu tư từ NSNN thực sự có làm kích thích đầu tư của khu vực tư nhân không? Hay là đầu tư từ NSNN làm thoái lui đầu tư tư nhân?
Mô hình dự định đưa ra xem xét sự tác động dựa trên sự phân tích tỷ trọng của tổng vốn đầu tư toàn xã hội trong tổng GDP phụ thuộc như thế nào tới tăng trưởng kinh tế và tỷ trọng của vốn đầu tư phát triển từ NSNN trong tổng GDP cả trong thời điểm t và thời điểm t-1. Cho phép xác định sự phụ thuộc của vốn đầu tư toàn xã hội phụ thuộc vào đầu tư phát từ NSNN trong thời kì trước. Từ ý tưởng đó ta xây dựng mô hình
Mô hình đề nghị:
TDTXHt/GDPt=*@PCH(GDPt)+*(VNSNN t/GDPt)+*(TDTXHt-1/GDPt-1)+Ut
Trong đó
TDTXHt/GDPt: tỷ trọng của tổng đầu tư xã hội trong tổng sản phẩm quốc nội ở thời điểm t.
@PCH(GDPt): tốc độ tăng trưởng kinh tế của thời kì t
VNSNN t/GDPt: tỷ trọng của vốn đầu tư phát triển từ NSNN trong tổng sản phẩm quốc nội tại thời điểm t.
TDTXHt-1/GDPt-1: tỷ trọng của tổng đầu tư xã hội trong tổng sản phẩm quốc nội ở thời điểm t-1.
Các hệ số chính là các hệ số co dãn phản ánh sự thay đổi của biến phụ thuộc theo biến giải thích
Bộ số liệu dùng phân tích trong mô hình cũng được lấy từ Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương và được điều chỉnh theo giá năm 1994. Giả định các yếu tố khác là không đổi.
Kì vọng về dấu:
Tốc độ gia tăng tổng sản phẩm quốc nội phản ánh thực trạng của nền kinh tế, khi tốc độ gia tăng tổng sản phẩm quốc nội tăng chứng tỏ nền kinh tế đang trong đà phát triển ngược lại tốc độ gia tăng tổng sản phẩm quốc nội giảm qua các năm báo hiệu nền kinh tế đang trong đà xuống dốc. Khi nền kinh tế phát triển, vốn đầu tư từ mọi thành phần kinh tế được thu hút rất mạnh vào quá trình sản xuất nhằm mở rộng quy mô sản xuất. Ngược lại, trong thời kì suy thoái của nền kinh tế mức độ thu hút vốn đầu tư từ các thành phần kinh tế huy động cho nền kinh tế rất kém. Vì vậy, tốc độ tăng trưởng kinh tế có quan hệ cùng chiều với tổng đầu tư toàn xã hội.
Vốn đầu tư chi cho phát triển từ Ngân sách nhà nước có tác dụng kích thích, huy động các nguồn vốn khác đầu tư vào nền kinh tế có hiệu quả hơn, tuy nhiên trong một số trường hợp đầu tư từ phía Nhà nước có thể làm cho lãi suất của đồng vốn tăng gây lên hiện tượng tháo lui đầu tư tư nhân làm cho tổng đầu tư toàn xã hội giảm xuống. Do đó vốn đầu tư từ phía Nhà nước có thể tác động tích cực, cũng có thể tác động tiêu cực tới tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
Từ sự phân tích như vậy kì vọng của các hệ số trong mô hình được viết lại như sau:
có dấu dương
có dấu dương (và có thể có dấu âm)
có dấu dương (và có thể có dấu âm)
Ước lượng mô hình:
Mô hình ước lượng cụ thể cùng với bộ số liệu và các kiểm định được trình bày ở phần phụ lục (trang 94) kết quả cuối cùng thu được như sau:
Estimation Command:
=====================
LS (VDTXHR/GDPR) @PCH(GDPR) (VNSNNR/GDPR) (VDTXHR(-1)/GDPR(-1))
Estimation Equation:
=====================
VDTXHR/GDPR =
C(1)*(@PCH(GDPR)) + C(2)*(VNSNNR/GDPR) + C(3)*(VDTXHR(-1)/GDPR(-1))
Substituted Coefficients:
=====================
VDTXHR/GDPR = 0.8424897235*(@PCH(GDPR)) + 1.219743244*(VNSNNR/GDPR) + 0.5556721035*(VDTXHR(-1)/GDPR(-1))
Hệ số co dãn ngắn hạn của vốn đầu tư phát triển từ Ngân sách nhà nước đối với tổng vốn đầu tư toàn xã hội là 1.219743244 chứng tỏ vốn đầu tư từ Ngân sách nhà nước tác động tích cực tới tổng đầu tư xã hội, cứ tăng tỷ trọng của vốn đầu tư phát triển từ NSNN trong tổng GDP lên 1% thì tỷ trọng của tổng vốn đầu tư toàn xã hội trong tổng GDP tăng 1.19656%.
Hệ số co dãn của vốn đầu tư từ NSNN đối với tổng đầu tư toàn xã hội trong dài hạn là =2.7451>1
Do đó, về dài hạn, tỷ trọng của vốn đầu tư từ NSNN trong tổng GDP tăng thêm 1% có tác dụng làm tỷ trọng vốn đầu tư toàn nền kinh tế tăng 2.7451% >1% do vậy có thể kết luận việc tăng vốn đầu tư trong giai đoạn nghiên cứu về cơ bản là kích thích đầu tư từ khu vực tư nhân, hay nói cách khác đầu tư từ khu vực Nhà nước không gây ra hiện tượng thoái lui đầu tư.
Để làm rõ vấn đề này ta xét tiếp mô hình sau
VKNNr =8501.212+ 0.675421*VNSNNr - 4657.262*BIENGIA
Với VKNNr: vốn đầu tư của khu vực dân cư tính theo giá năm1994.
VNSNNr: Vốn ngân sách nhà nước chi cho đầu tư phát triển tính theo giá năm 1994.
BIENGIA: biến giả phản ánh cuộc khủng hoảng tài chính châu á. Biến này nhận giá trị bằng 0 nếu năm nghiên cứu trước năm 1997, và bằng 1 nếu năm nghiên cứu từ năm 1997 trở đi.
Ước lượng và các kiểm định cũng như bộ số liệu được sử dụng được trình bày kĩ hơn ở phần phụ lục (trang 98)
Dựa vào mô hình ta có thể thấy kết luận ở trên là đúng đắn, đầu tư từ NSNN chi cho phát triển không những kìm hãm đầu tư từ khu vực tư nhân mà còn có tác dụng kích thích mạnh mẽ tới đầu tư ở khu vực này. Đầu tư của khu vực nhà nước mà chủ yếu là đầu tư từ NSNN ở thời kì này đã tạo ra một cú huých vào cầu tiêu dùng cũng như cầu đầu tư thông qua các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế. Với phương châm Nhà nước và nhân dân cùng góp vốn, chung sức xây dựng các công trình công cộng phục vụ lợi ích chung của dân cư ngay trên địa bàn, một loạt các chương trình đã được triển khai như kiên cố hóa kênh mương; xây dựng nhà ở; nâng cấp giao thông nông thôn… Chính phủ cũng đã đề ra nhiều giải pháp quan trọng để khuyến khích sản xuất, đẩy mạnh xuất khẩu, tạo thêm vốn và việc làm, cụ thể như bổ sung vốn đầu tư vào các công trình quan trong để sớm hoàn thành đưa vào sử dụng; tăng hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp sản xuất những sản phẩm trọng điểm và xuất khẩu…Do đó nhu cầu tiêu dùng và cầu đầu tư từ đó được tăng mạnh. Nếu chính phủ bỏ ra một đồng vốn đầu tư từ NSNN cho phát triển kinh tế thì sẽ làm tăng 0.675421 đồng vốn của khu vực dân cư. Tuy nhiên trong giai đoạn này cuộc khủng hoảng tài chính châu á đã gây ra tâm lý hoang mang lo sợ đối với các nhà đầu tư trong nước nên nguồn vốn đầu tư này có xu hướng chuyển về tích luỹ dưới dạng ngoại tệ mạnh và kim loại quý làm suy giảm rất nhiều nguồn vốn này. Trung bình trong và sau cuộc khủng hoảng cứ một năm thì vốn đầu tư của khu vực này giảm xuống 4657 tỷ đồng đây thực sự là một vấn đề hết sức khó khăn cho việc huy động vốn cho đầu tư phát triển của xã hội nói chung và của khu vực dân cư nói riêng. Trọng trách của chính phủ trong thời gian này hết sức nặng nề, phải tạo ra một môi trường đầu tư thông thoáng, đảm bảo, có sức hút trở lại không những đối với những nhà đầu tư trong nước mà còn đối với những nhà đầu tư nước ngoài. Muốn vậy không những hệ thống luật pháp của nước ta phải đổi mới cho phù hợp với hoàn cảnh thực tế mà cơ sở hạ tầng cũng cần phải được đảm bảo, các hoạt động dịch vụ thương mại như dịch vụ cung cấp điện, nước, dịch vụ bảo hiểm, ngân hàng cũng từng bước phải được đổi mới.
Đầu tư từ NSNN tác động tới vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài
Vốn đầu tư từ NSNN tác động tới đầu tư trực tiếp của nước ngoài chủ yếu thông qua việc dùng vốn này đầu tư vào nâng cấp, xây dựng cơ sở hạ tầng thu hút vốn nước ngoài. Bởi trong các yếu tố để khuyến khích đầu tư trong dài hạn thì yếu tố cơ sở hạ tầng kĩ thuật là một nền tảng quan trọng để phát triển sản xuất thuận lợi. Các yếu tố này bao gồm cơ sở hạ tầng chung của xã hội như đường quốc lộ, đường giao thông quan trọng để nối kết các vùng kinh tế, các khu công nghiệp, cơ sở hạ tầng trong và ngoài khu công nghiệp, khu chế xuất. Đối với các vùng xa trung tâm, xa các thành phố lớn, các tỉnh có cơ sở hạ tầng còn yếu kém thì việc phát triển cơ sở hạ tầng là điều kiện tiên quyết để thu hút vốn đầu tư FDI.
Song song với việc dùng vốn NSNN xây dựng các cơ sở vật chất hạ tầng kĩ thuật thì xây dựng cơ sở hạ tầng xã hội, đào tạo nguồn nhân lực từ NSNN chính là một trong những chiến lược lớn để thực hiện thành công sự nghiệp Công nghiệp hoá ở Việt Nam. Đối với việc thu hút vốn đầu tư FDI đây là lợi thế so sánh động của Việt Nam trong tương lai. Hiện tại Việt đang có lợi thế về lao động rẻ nhưng chủ yếu là lao động chưa được đào tạo từ khu vực nông thôn. Nước ta có khoảng 30 triệu lao động nông nghiệp, chiếm khoảng 75% trong tổng 41 triệu lao động trong cả nước. Số lao động này quá dư thừa so với tổng diện tích đất canh tác 7 triệu ha. Kinh nghiệm cho biết với diện tích đất canh tác trên chỉ cần 8-9 triệu lao động là đủ đảm bảo sản xuất có hiệu quả, nhưng với điều kiện Việt Nam hiện nay thì chỉ cần tối đa là 15 triệu lao động làm việc trong nông nghiệp. Như vậy còn 15 triệu lao động dư thừa trong nông nghiệp sẽ được chuyển sang các ngành khác. Đây là lực lượng lao động tiểm tàng cho các ngành công nghiệp. Nhưng để đưa được một phần nhữn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 12838.DOC