Đề tài Thực trạng thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam từ năm 2001 đến nay

Tài liệu Đề tài Thực trạng thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam từ năm 2001 đến nay: THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU GẠO CỦA VIỆT NAM TỪ NĂM 2001 ĐẾN NAY MỤC LỤC THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU GẠO CỦA VIỆT NAM TỪ NĂM 2001 ĐẾN NAY. MỞ ĐẦU. 1.Tính cấp thiết của đề tài. Là một nước với 67% lực lượng lao động làm nông nghiệp, trong những năm qua, nông nghiệp nước ta đã đóng góp rất lớn cho nền kinh tế. Với khoảng ¼ GDP và 1/3 tổng kim nghạch xuất khẩu. Trong quá trình hội nhập khu vực và thế giới, hoạt động kinh doanh quốc tế đã trở nên phổ biến và góp phần không nhỏ trong việc phát huy lợi thế so sánh của mỗi quốc gia. Hoạt động kinh doanh quốc tế thường được thực hiện bằng nhiều hình thức trong đó có hình thức xuất khẩu. Trong cơ cấu hàng xuất khẩu hiện nay, gạo là một trong những mặt hàng có thế mạnh của Việt Nam. Chiếm tỷ trọng lớn trong mặt hàng xuất khẩu và đưa Việt Nam vươn lên vị trí thứ hai thế giới về xuất khẩu gạo. Song song với tiến trình hội nhập kinh tế thế giới, tham gia vào tổ chức thương mại WTO, ngành lúa gạo Việt Nam đang đứng trước nhữn...

docx54 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1586 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Thực trạng thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam từ năm 2001 đến nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU GẠO CỦA VIỆT NAM TỪ NĂM 2001 ĐẾN NAY MỤC LỤC THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU GẠO CỦA VIỆT NAM TỪ NĂM 2001 ĐẾN NAY. MỞ ĐẦU. 1.Tính cấp thiết của đề tài. Là một nước với 67% lực lượng lao động làm nông nghiệp, trong những năm qua, nông nghiệp nước ta đã đóng góp rất lớn cho nền kinh tế. Với khoảng ¼ GDP và 1/3 tổng kim nghạch xuất khẩu. Trong quá trình hội nhập khu vực và thế giới, hoạt động kinh doanh quốc tế đã trở nên phổ biến và góp phần không nhỏ trong việc phát huy lợi thế so sánh của mỗi quốc gia. Hoạt động kinh doanh quốc tế thường được thực hiện bằng nhiều hình thức trong đó có hình thức xuất khẩu. Trong cơ cấu hàng xuất khẩu hiện nay, gạo là một trong những mặt hàng có thế mạnh của Việt Nam. Chiếm tỷ trọng lớn trong mặt hàng xuất khẩu và đưa Việt Nam vươn lên vị trí thứ hai thế giới về xuất khẩu gạo. Song song với tiến trình hội nhập kinh tế thế giới, tham gia vào tổ chức thương mại WTO, ngành lúa gạo Việt Nam đang đứng trước những khó khăn và thách thức lớn về chất lượng gạo và ổn định thị trường tiêu thụ. Điều kiện mới đặt ra những yêu cầu tất yếu mà mọi khâu: “ sản xuất - chế biến – tiêu thụ” lúa gạo của nước ta phải tiến hành quy trình liên kết đồng bộ. Trong đó tìm kiếm và mở rộng thị trường tiêu thụ gạo xuất khẩu ra thị trường thế giới là vấn đề then chốt. Để góp phần mở rộng thị trường xuất khẩu gạo và nâng cao lợi thế cạnh tranh của mặt hàng gạo trên thị trường thế giới, chúng ta phải có một cái nhìn toàn diện về thực trạng thị trường xuất khẩu gạo của VN trên thị trường thế giới. Xuất phát từ thực tế và nhận định trên, em đã chọn đề tài” thực trạng thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam từ năm 2001đến nay.” Đây là giai đoạn Việt Nam có nhiều chuyển biến mạnh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế nói chung, hội nhập thương mại nói riêng. 2. Tình hình nghiên cứu. Tầm quan trọng của đề tài có thể thấy rõ trong thời gian qua đã có nhiều công trình nghiên cứu về đề tài này. Trong đó có các công trình đáng chú ý là - Nguyễn Ngọc Bích: ”thị trường xuất khẩu gạo - những bất ngờ và thú vị”. - Lê Mai:” mở rộng thị trường xuất khẩu gạo Việt Nam”. - Công Trí: “nâng cao khả năng cạnh tranh của gạo Việt Nam trên thị trường thế giới”. - Nguyễn Mạnh Tùng:“mở cửa thị trường xuất khẩu gạo, song hành cơ hội và thách thức”. - IFPRI(1996):”giám sát thị trường gạo và nghiên cứu các lựa chọn chính sách” Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên chủ yếu mới đề cập đến những thành tựu và hạn chế của thị trường xuất khẩu gạo và những giải pháp nhằm mở rộng thị trường xuất khẩu gạo trong khuôn khổ một bài báo nên chưa đi sâu vào phân tích, đánh giá thực trạng thị trường xuất khẩu gạo một cách toàn diện về lý luận và thực tiễn, mặt khác thị trường gạo thế giới đang biến động không ngừng vì vậy việc nghiên cứu thực trạng thị trường xuất khẩu gạo là điều cần thiết. Mục đích nghiên cứu.   - Phân tích, đánh giá thực trạng thị trường xuất khẩu gạo Việt Nam từ năm 2001 đến nay. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu: thực trạng thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu: Về không gian: một số quốc gia mà gạo xuất khẩu của Việt Nam hướng tới và một số nước là đối thủ cạnh tranh của gạo xuất khẩu của Việt Nam. Về thời gian: từ năm 2001 đến nay.Đây là giai đoạn Việt Nam có nhiều chuyển biến mạnh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế nói chung, hội nhập thương mại nói riêng. Phương pháp nghiên cứu. -Phương pháp tổng hợp để đưa ra những lý luận khái quát về thị trường xuất khẩu gạo. - Phương pháp phân tích, đối chiếu so sánh, tổng hợp các số liệu thống kê và tài liệu để làm sáng tỏ thực trạng thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam từ năm 2001 đến nay. Đóng góp của đề tài. -Phân tích đánh giá một cách toàn diện thực trạng thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam từ năm 2001 đến nay. Kết cấu của đề tài. Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của đề tài gồm 3 chương. Chương 1: Xuất khẩu gạo Việt Nam – cơ sở lý luận và thực tiễn Chương 2: Thực trạng thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam từ năm 2001 đến nay. Chương 3: Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam. CHƯƠNG 1: Những vấn đề lý luận chung về xuất khẩu gạo ở Việt Nam 1.1 Khái niệm về xuất khẩu gạo. Hoạt động xuất khẩu hàng hóa là việc bán hàng hóa và dịch vụ cho một quốc gia khác trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương tiện thanh toán . Tiền tệ ở đây có thể dùng là ngoại tệ đối với một quốc gia hay đối với cả hai quốc gia. Hoạt động xuất khẩu là hình thức cơ bản của ngoại thương đã xuất hiện từ rất lâu và ngày càng phát triển . Hoạt động xuất khẩu diễn ra trên mọi lĩnh vực , mọi điều kiện kinh tế từ xuất khẩu hàng hóa tiêu dùng cho đến hàng hóa tư liệu sản xuất , từ máy móc thiết bị cho đến công nghệ kĩ thuật cao. Tất cả các hoạt động đó đều nhằm mục tiêu là đem lại ngoại tệ cho các quốc gia . 1.2 Vai trò của hoạt động xuất khẩu gạo đối với nền kinh tế - Xuất khẩu gạo mang lại ngoại tệ cho quốc gia, góp phần nhập khẩu nhằm phục vụ cho công cuộc công nghiệp hóa đất nưóc Hiện nay gạo chiếm giá trị kim ngạch lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của đất nước. Trong khi đó cán cân thanh toán ngoại tệ của Việt Nam luôn bị thâm hụt, do đó cần một khoản ngoại tệ bổ sung thâm hụt đó. Công nghiệp hóa đất nước theo những bước đi thích hợp là con đường tất yếu khắc phục tình trạng nghèo nàn và chậm phát triển của nước ta. Để công nghiệp hóa đất nước trong thời gian ngắn đòi hỏi phải có số vốn rất lớn để nhập khẩu máy móc thiết bị kĩ thuật công nghệ tiên tiến. Nguồn vốn để nhập khẩu hình thành từ nhiều nguồn: đầu tư nước ngoài, đi vay, viện trợ và xuất khẩu. Các nguồn đầu tư nước ngoài, đi vay, viện trợ tuy quan trọng nhưng cũng phải trả dù cách này hay cách khác. Nguồn quan trọng nhất chỉ có thể trông chờ vào xuất khẩu mà trong đó xuất khẩu gạo chiếm vị trí quan trọng. - Xuất khẩu gạo đóng góp vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển Quan điểm coi thị trường thế giới là hướng quan trọng để tổ chức sản xuất và xuất khẩu đã tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển + Xuất khẩu gạo tạo điều kiện cho các ngành khác cùng cơ hội phát triển. Điều này có thể thông qua ví dụ khi phát triển ngành lúa gạo xuất khẩu thì các ngành như sản xuất phân bón, thuốc trừ sâu… cũng có điều kiện phát triển. + Xuất khẩu gạo tạo điều kiện, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm góp phần ổn định sản xuất + Tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất gạo, mở rộng khả năng tiêu dùng của một quốc gia. Vì xuất khẩu tạo ra nguồn vốn không nhỏ cho mỗi quốc gia. Đây là điều kiện cho mỗi quốc gia đang phát triển như Việt Nam có thể đưa kỹ thuật công nghệ hiện đại vào sản xuất lúa gạo. Bên cạnh đó xuất khẩu còn cho phép một quốc gia có thể tiêu dùng tất cả các mặt hàng với số lượng lớn hơn nhiều lần giới hạn khả năng sản xuất của quốc gia đó thậm chí cả những mặt hàng mà họ không có khả năng sản xuất được. Theo như quan điểm lợi thế so sánh của nhà kinh tế học người Anh David Ricardo ông cho rằng khi tham gia vào hoạt động xuất khẩu một quốc gia sẽ tham gia vào việc sản xuất và xuất khẩu các loại hàng hoá mà việc sản xuất ra chúng ít bất lợi nhất (đó là những hàng hoá có lợi thế tương đối) và nhập khẩu những hàng hoá mà việc sản xuất ra chúng có những bất lợi hơn (đó là những hàng hoá không có lợi thế tương đối). Vì vậy xuất khẩu còn tạo điều kiện mở rộng khả năng tiêu dùng của một quốc gia. Thông qua xuất khẩu gạo Việt Nam sẽ có điều kiện tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả và chất lượng. Cuộc cạnh tranh này có tác dụng ngược trở lại buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải tổ chức, xem xét lại khâu sản xuất, hình thành một cơ cấu sản xuất thích hợp, các doanh nghiệp cũng cần phải nhìn lại chất lượng sản phẩm của mình để thích nghi với những biến động của thị trường thế giới. - Xuất khẩu gạo có tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống nhân dân + Tác động của xuất khẩu gạo đến đời sống nông dân được thể hiện trên nhiều phương diện. Một mặt sản xuất gạo là nơi thu hút nhiều lao động và việc làm có thu nhập khá ổn định. Mặt khác xuất khẩu gạo tạo ra ngoại tệ để nhập khẩu sản phẩm tiêu dùng đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng phong phú của nhân dân. + Khi thực hiện xuất khẩu một lượng mặt hàng gạo dư thừa trong thị trường nội địa sẽ giải quyết lập lại cung cầu ở giá cao hơn. Nông dân không những bán được hàng mà còn được giá. Từ những điều này mang lại cho nông dân thu nhập cao hơn và đây chính là động lực thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển. + Ngoài ra thông qua xuât khẩu gạo chúng ta phần nào hiểu rõ hơn về yêu cầu của thị trường quốc tế đối với mặt hàng gạo. Mối quan hệ giữa thị trường nước ngoài và sản xuất trong nước được thực hiện qua xuất khẩu là cách tốt nhất để nâng cao trình độ và hiệu quả của nền công nghiệp. 1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu gạo Trong xu thế khu vực hóa và toàn cầu hóa kinh tế, mọi quốc gia đều mở rộng các mối quan hệ buôn bán với nhau để phát huy lợi thế so sánh của mình trong việc sản xuất và xuất khẩu các loại hàng hóa nhằm thu lợi ích cao nhất để phát triển đất nước. Điều này đặc biệt quan trọng đối với các nước đang phát triển trong việc tạo ra nguồn thu từ việc xuất khẩu một hoặc một số mặt hàng được hình thành trên cơ sở khai thác các nguồn lực sẵn có của nước đó. Việc xuất khẩu gạo của Việt Nam cũng như tất cả các nước xuất khẩu gạo khác trên thế giới đều bị chi phối bởi 3 nhân tố chính: nhân tố thị trường, nhân tố về cơ sở vật chất – kỹ thuật và công nghệ của sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, nhân tố về chính sách kinh tế vĩ mô. - Nhân tố thị trường Nhân tố thị trường ảnh hưởng rất lớn chi phối hoạt động xuất khẩu gạo của mỗi quốc gia tham gia xuất khẩu. Trong đó có thể xét trên các yếu tố cơ bản sau + Nhu cầu của thị trường về sản phẩm gạo: gạo là hàng thiết yếu, cũng giống như các loại hàng hóa khác cầu về gạo phụ thuộc vào thu nhập, cơ cấu dân cư, thị hiếu …khi thu nhập cao thì cầu về số lượng gạo giảm nhưng trong đó cầu về gạo chất lượng cao có xu hướng tăng lên (ở các nước phát triển: Nhật Bản, Châu Âu…) ngược lại cầu đối với gạo chất lượng thấp giảm đi chính vì thế tỷ trọng tiêu dùng cho gạo trong tổng thu nhập vẫn tăng. + Cung trên thị trường là nhân tố quan trọng trong xuất khẩu. Các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu cần phải tìm hiểu kĩ về khả năng xuất khẩu từng loại gạo của mình cũng như khả năng của các đối thủ cạnh tranh. Trên thị trường thế giới sản phẩm gạo rất đa dạng, phong phú, cầu về gạo co giãn ít so với mức giá do đó nếu lượng cung tăng quá nhiều có thể dẫn tới dư cung điều đó bất lợi cho các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu. + Giá cả là một yếu tố quan trọng là thước đo sự cân bằng cung cầu trong nền kinh tế thị trường. Trên thị trường gạo thế giới có nhiều nước xuất khẩu, nhiều nước nhập khẩu, giá cả thị trường thế giới sẽ có xu hướng hội tụ về mức giá cân bằng – mức giá mà tại đó lượng cung và lượng cầu bằng nhau. Ở mức giá cao hơn mức giá cân bằng, lượng cung về gạo sẽ vượt quá lượng cầu về gạo. Trong trường hợp này, một số lượng gạo mà nhà xuất khẩu muốn bán lại không tìm được người mua. Sự ế thừa kiểu này gọi là sự dư cung. Sự dư cung này làm cho hay tạo ra sức ép khiến những nhà xuất khẩu phải hạ giá gạo. Quá trình hạ giá này sẽ dần dần làm giảm mức dư cung và chỉ dừng lại khi mức giá trên thị trường đã hạ xuống đến mức cân bằng. Ngược lại ở mức giá thấp hơn mức giá cân bằng những nhà nhập khẩu sẽ mua nhiều hơn khiến cho lượng cung không đáp ứng kịp thời và dẫn đến tình trạng dư cầu. Sự dư cầu này tạo cơ hội cho nhà xuất khẩu nâng giá lên. Quá trình tăng giá này sẽ dần dần làm giảm mức dư cầu và chỉ dừng lại khi mức giá đã tăng lên đúng bằng mức giá cân bằng. - Nhân tố về cơ sở vật chất – kỹ thuật và công nghệ của sản xuất và tiêu thụ sản phẩm Các nhân tố về cơ sở vật chất – kĩ thuật là do hệ thống vận chuyển, kho tàng, bến bãi, hệ thống thông tin liên lạc…Hệ thống này bảo đảm việc lưu thông nhanh chóng kịp thời, đảm bảo cung cấp nguồn hàng một cách nhanh nhất, tiết kiệm thời gian và chi phí lưu thông. Các nhân tố về kĩ thuật, công nghệ sản xuất và tiêu thụ đặc biệt quan trọng trong việc tăng khả năng tiếp cận và mở rộng thị trường tiêu thụ gạo. Hệ thống chế biến với công nghệ dây chuyền hiện đại sẽ góp phần tăng chất lượng và giá trị gạo. - Chính sách kinh tế vĩ mô Chính sách áp thuế xuất khẩu gạo Chính sách áp thuế xuất khẩu gạo là một biện pháp nhằm điều tiết sự chênh lệch giữa giá xuất khẩu với giá thị trường trong nước nhằm bình ổn giá gạo nội địa đồng thời đây còn là một công cụ tăng thu, góp phần làm giảm thâm hụt ngân sách. Tuy nhiên việc áp thuế xuất khẩu gạo có thể sẽ không khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu các loại gạo cao cấp có giá trị đồng thời ảnh hưởng tới lượng gạo xuất khẩu. Chính bởi vậy nên các doanh nghiệp sẽ rất khó khăn khi quyết định kí kết những hợp đồng cung cấp gạo cao cấp với mức giá cao vì lợi nhuận thu về sau khi trừ thuế cũng không đáng kể, thậm chí còn phải chịu lỗ do các nguyên liệu, chi phí đầu vào của sản xuất lúa gạo tăng cao. Không những thế mức thuế lũy tiến theo giá xuất khẩu càng làm cho mức chịu thuế cao lên cùng với những lô gạo xuất khẩu có chất lượng tốt, giá thành cao. Như vậy, chính sách thuế đã làm cho doanh nghiệp xuất khẩu gạo bỏ lỡ cơ hội xâm nhập vào những thị trường khó tính giá trị gia tăng cao, mất khách hàng, mất đi những dấu ấn thương hiệu đang giai đoạn hình thành. Bên cạnh đó, chính các doanh nghiệp cũng ép giá thu mua lúa gạo từ nông dân để tránh phải nộp thuế cao hơn, điều này gây ảnh hưởng tới thu nhập của người nông dân từ đó có thể gây ra xáo trộn trong sản xuất lúa gạo. Về hạn ngạch Chính sách hạn ngạch được sử dụng căn cứ vào lượng gạo xuất khẩu hàng năm và tình hình sản xuất hiện tại, căn cứ vào hạn ngạch nhà nước quyết định số lượng xuất khẩu nếu gạo trong nước dư thừa nhiều thì tùy theo tình hình chính phủ sẽ tiếp tục cấp chỉ tiêu xuất khẩu. Việc sử dụng hạn ngạch linh hoạt căn cứ vào tình hình sản xuất trong nước, tiêu dùng nội địa và dự trữ quốc gia để phát huy tác dụng. Việc áp dụng hạn ngạch có thể là công cụ hợp lý nhưng trong một chừng mực nào đó lại cản trở việc phát triển sản xuất lúa gạo xuất khẩu, ảnh hưởng đến mức giá của gạo xuất khẩu. Trong bối cảnh khủng hoảng lương thực thế giới và ở trong nước, thiên tai đe dọa đến an ninh lương thực quốc gia đã làm giá lúa gạo cao, cũng gây áp lực lên lạm phát. Đó cũng là lý do chính phủ đã thắt chặt việc xuất khẩu gạo thông qua hạn ngạch. Tuy nhiên hạn ngạch trong một chừng mực nào đó lại cản trở việc phát triển sản xuất lúa gạo xuất khẩu, ảnh hưởng đến mức giá thực tế của gạo xuất khẩu. Có thể thấy một số tác động tiêu cực của hạn ngạch lên hoạt động xuất khẩu gạo như: Thứ nhất, hạn ngạch làm cách ly nền kinh tế trong nước và các biến đổi của thương mại quốc tế bằng cách giảm sự truyền tin về giá cả quốc tế và giá cả trong nước, đưa đến một hình thức giá cả ổn định cho người nông dân nhưng đem lại thu nhập cho người nông dân dưới mức mà sản xuất có thể, làm giảm hiệu quả xuất khẩu gạo. Thứ hai, trong khi lương thực trong nước dư thừa nhiều nhưng hạn ngạch chưa đề ra, chưa kịp bổ sung hay chưa cấp chỉ tiêu cho các đầu mối. Điều này dẫn đến lỡ mất cơ hội xuất khẩu thu lợi nhuận cao khi giá gạo thế giới đang tăng cao và biến động rất nhanh. Chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài Chính sách thu hút FDI vào sản xuất và xuất khẩu gạo sẽ hướng tập trung đầu tư cho các chương trình trọng điểm như phát triển công nghệ sinh học để tạo ra các giống lúa mới cho năng suất cao, chất lượng đáp ứng nhu cầu thị trường; áp dụng công nghệ sinh học chế biến, bảo quản sau thu hoạch, nâng cao giá trị, an toàn vệ sinh thực phẩm của sản phẩm… đẩy mạnh xuất khẩu tới các thị trường cao cấp và tiềm năng. Các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ góp phần phát triển sản xuất lúa gạo trên quy mô lớn, trên cơ sở phát huy các lợi thế so sánh và áp dụng các công nghệ mới, công nghệ cao, để từ đó nâng cấp khả năng cạnh tranh của xuất khẩu gạo khi tham gia hội nhập. Với các dự án của các nhà đầu tư nước ngoài, nguồn vốn đầu tư sẽ góp phần cải thiện công nghệ, kĩ thuật nông nghiệp nông thôn thông qua chuyển giao công nghệ, khai thác thế mạnh của vùng, phát triển được các giống lúa đặc sản, vừa nâng cao được giá trị của hạt gạo, lại tăng thêm giá trị xuất khẩu. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU GẠO CỦA VN TỪ NĂM 2001 ĐẾN NAY. 2.1. Tình hình xuất khẩu gạo của VN từ năm 2001 đến nay. 2.1.1.Về sản lượng, kim ngạch gạo xuất khẩu. Công tác xuất khẩu gạo trong những năm qua đã đạt được nhiều thành tích đáng khích lệ. Qui mô xuất khẩu gạo ngày càng mở rộng với khối lượng và kim ngạch tăng với tốc độ khá cao. Xét về cơ cấu ngành hàng xuất khẩu từ năm 2001 đến nay, bên cạnh một số sản phẩm nông sản mang tính truyền thống như lạc nhân, hạt tiêu, cà phê, đỗ tương, gạo đã trở thành một mặt hàng nông sản mang về cho đất nước một nguồn ngoại tệ xuất khẩu rất lớn. Tốc độ tăng trưởng về sản lượng và kim ngạch xuất khẩu gạo không ngừng tăng lên. Năm 2001 là năm đánh dấu nhiều bước khởi sắc cho Việt Nam xuất khẩu gạo ra thị trường thế giới.Với sản lượng gạo xuất khẩu đạt 3,6 triệu tấn trị giá trên 6oo triệu đô la. Đây là một thành công vì đã hoàn thành được nhiệm vụ cơ bản do chính phủ đề ra, tiêu thụ hết thóc hàng hóa, chặn đà giảm sút của giá thóc gạo trong nước. Từ năm 2003 đến năm 2005, sản lượng lúa gạo xuất khẩu tiếp tục tăng. Tính đến năm 2005, tổng sản lượng gạo xuất khẩu của cả nước đạt 50,12 triệu tấn, thu về 11,51 tỷ USD, bình quân mỗi năm tăng 13,55% về sản lượng và 14,55% về kim ngạch.trong đó, các năm có tốc độ tăng cao về sản lượng là năm 2003 vowis20,6%, năm 2005 với 27,78%. Năm 2006, hoạt động xuất khẩu gạo cua Việt Nam có dấu hiệu chựng lại. Tính cả năm 2006, sản lượng gạo xuất khẩu đạt 4,8 triệu tấn với kim ngạch là 1,3 tỷ đô la, giảm 7,48%vế sản lượng và 7,08% về kim ngạch so với năm 2005. Năm 2007, Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) cho biết, lượng gạo cả nước xuất khẩu đã đạt mức 4,5 triệu tấn với kim ngạch trị giá 1,5 tỷ USD. Năm 2008 xuất khẩu gạo đạt 4,7 triệu tấn, kim ngạch đạt 2,9 tỷ USD (tính ra, giá bán bình quân 617,02 USD/tấn). Năm 2009, thị trường hàng hoá thế giới chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế nghiêm trọng, trong đó có lúa gạo. Dưới sự điều hành xuất khẩu linh hoạt của Chính phủ, năm 2009 cả nước đã xuất khẩu được 6,052 triệu tấn gạo, kim ngạch xuất khẩu gần 2,7 tỉ USD, đây là năm có số lượng xuất khẩu nhiều nhất từ khi gia nhập WTO. Tổng giá trị xuất khẩu đạt 2,463 tỉ USD (giá FOB); về số lượng tăng 29,35% so năm 2008. Đặc biệt, tỷ lệ gạo cao cấp xuất khẩu đã đạt  50% (những năm trước chỉ khoảng 34%). Mặc dù năm 2009 xuất khẩu nhiều hơn năm 2008 đến 1,352 triệu tấn gạo, nhưng kim ngạch xuất khẩu giảm 200.000 USD, giá bán giảm 183,69 USD/tấn. [9] Năm 2010, xuất khẩu gạo được đánh giá là đạt kỷ lục cả về khối lượng và giá trị. Lượng gạo xuất khẩu cả năm 2010 ước đạt 6,88 triệu tấn, kim ngạch là 3,23 tỷ USD, so với năm 2009 tăng 15,4% về lượng và tăng tới 21,2% về giá trị. [25] Hình 2.1. Sản lượng và kim ngạch gạo xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 2007-2010 Nguồn: Hiệp hội lương thực Việt Nam, 2010 Từ hình 2.1 cho thấy, từ khi gia nhập WTO, xuất khẩu gạo của nước ta có xu hướng tăng, tăng trung bình 16% về lượng và 29% về giá trị. Mặc dù kim ngạch xuất khẩu gạo giai đoạn này có những biến động không lớn nhưng giá trị xuất khẩu tăng. Sự gia tăng về mặt giá trị xuất khẩu xuất phát chủ yếu từ việc giá gạo trên thị trường thế giới tăng cao. Năm 2008, do nhu cầu tích trữ gạo trên thế giới tăng mạnh cùng với lệnh tạm ngưng xuất khẩu gạo của một số nước đã đẩy giá gạo lên mức kỉ lục. Do đó, lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam năm 2008 tăng không nhiều nhưng kim ngạch xuất khẩu lại có bước nhảy vọt. Bên cạnh đó, thì do chất lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam đang dần được cải thiện vì thế giá gạo xuất khẩu cũng từng bước tăng. Theo thống kê của VFA, tính đến hết tháng 1/2011, lượng gạo các doanh nghiệp Việt Nam đã ký hợp đồng xuất khẩu là hơn 1,5 triệu tấn, tăng 15,7% so với cùng kỳ năm 2010. Số lượng hợp đồng đăng ký trong tháng 1 ở mức cao, chủ yếu là 2 hợp đồng tập trung với Malaysia và Indonesia, chiếm trên 300.000 tấn. Xuất khẩu gạo tháng 1 của cả nước đạt trên 485.000 tấn, cao hơn dự kiến 350.000- 400.000 tấn. Đây là tháng đầu năm có số lượng giao hàng cao nhất từ trước đến nay. Về trị giá cũng đạt ở mức cao do giá xuất khẩu bình quân tăng nhiều. Trong tháng 2/2011, lượng gạo xuất khẩu cũng tăng do nguồn cung dồi dào vì các tỉnh ĐBSCL đã bắt đầu thu hoạch lúa đông xuân sớm. VFA dự kiến xuất khẩu gạo quý I sẽ đạt 1,6 triệu tấn; quý II có thể xuất 2,24 triệu tấn. 2.1.2. Về chất lượng gạo xuất khẩu Chất lượng gạo trên thị trường thế giới được phân thành 5 loại dựa trên 9 tiêu chí: tỷ lệ tấm, kích thước hạt, màu gạo, độ ẩm, mức độ đánh bóng, tỷ lệ amilaza, tỷ lệ protein, nhiệt hóa, mùi thơm. Theo tiêu chí này, chất lượng gạo Việt Nam thuộc loại thấp nhất so với thế giới. Dường như Việt Nam chỉ đạt được tiêu chuẩn thứ nhất còn các tiêu chuẩn khác thì không mấy ai quan tâm. Chất lượng gạo liên quan đến hàng loạt các yếu tố từ khâu sản xuất như đất đai, nước tưới tiêu, phân bón, giống lúa, đến khâu bảo quản, vận chuyển và chế biến nhưng tại Việt Nam hầu hết các khâu này đều thiếu và yếu. Chất lượng gạo xuất khẩu thời gian qua cũng không ngừng được cải thiện, gạo Việt Nam hiện nay đã có chỗ đứng, được chấp nhận trên thị trường thế giới. Nhờ cải tiến đầu tư trong các khâu chế biến, gạo Việt Nam đã phần nào đáp ứng được các yêu cầu của người tiêu dùng về chất lượng. Nếu xét trên một tiêu chí của phẩm cấp là độ gãy (hay tỉ lệ tấm) có thể thấy phần nào phẩm cấp gạo của Việt Nam thời gian qua như sau: Bảng 2.1. Tỷ trọng phẩm cấp các loại gạo của Việt Nam Loại gạo Năm Phẩm cấp cao 5%-10% tấm Phẩm cấp trung bình 15%-20% tấm Phẩm cấp thấp 25% tấm trở lên 2003 55% 24% 21% 2007 52% 30% 18% 2008 48% 40% 12% 2009 50% 26% 24% 2010 54% 20% 26% Nguồn: Viện nghiên cứu chiến lược- bộ khoa học đầu tư Nhìn chung, từ khi Việt Nam gia nhập WTO tốc độ tăng xuất khẩu gạo có tỷ lệ tấm ít ( từ 5%- 10%) đã nhanh hơn so với tốc độ tăng trường xuất khẩu chung và có xu hướng tăng dần trong khi đó loại có tỷ lệ tấm trên 10% chiếm tỷ trọng nhỏ và có xu hướng giảm dần. Có được tiến bộ này là do nhà nước đã quy hoạch và xây dựng các vùng lúa chất lượng cao phục vụ xuất khẩu, trong đó vùng đồng bằng sông Cửu long có 1 triệu ha, vùng đồng bằng sông Hồng có 300 nghìn ha. Đến nay trên 70% diện tích đất trồng lúa đã được cung cấp những giống lúa mới từ viện nghiên cứu lúa gạo quốc tế. Trong đó, nhiều giống lúa cho năng suất cao, khả năng chống chịu với điều kiện thời tiết, sâu bệnh tốt. Vì vậy trong những năm gần đây thị trường gạo được được mở rộng, khách hàng tăng, sức cạnh tranh của hạt gạo Việt Nam trên thị trường thế giới đang dần được cải thiện. Minh chứng rõ ràng nhất là việc gạo Việt Nam đã và đang thâm nhập được vào thị trường Nhật Bản – một thị trường khó tính và có những quy định khắt khe về vệ sinh an toàn thực phẩm. Tại Nhật Bản Việt Nam trúng thầu xuất khẩu 45.050 tấn gạo. Hai lần liên tiếp Việt Nam đã trúng thầu tổng cộng 28.000 tấn gạo (14.000 tấn/lần). Giá gạo trung bình của đợt thầu này là trên 63.433 Yên/tấn (khoảng 528,6 USD/tấn). Lần thứ 3 là 17.050 tấn với giá trung bình là 52.804 Yên/tấn (tương đương 459,16 USD/tấn). Các chuyên gia nhận định, chất lượng gạo Việt Nam ngày càng được nâng cao với những yêu cầu và quy định khắt khe về an toàn vệ sinh thực phẩm của Nhật Bản (đây là thị trường rất khó tính) đồng thời có giá cả phù hợp. Do vậy, Việt Nam là một trong ba nước (cùng với Thái Lan và Mỹ) đã trúng thầu cung cấp gạo sang thị trường Nhật Bản năm 2007 [22].Tuy nhiên chất lượng gạo Việt Nam còn nhiều hạn chế, ảnh hưởng tới sự tăng trưởng sản lượng và kim ngạch xuất khẩu. 2.1.3. Giá gạo xuất khẩu. Từ năm 2001-2003, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam lại ở mức khá thấp, đặc biệt năm 2001 giá gạo hạ tới mức thấp nhất 167,53 USD/ tấn. Nhưng sau đó giá gạo xuất khẩu của Việt Nam lại có sự phục hồi trở lại và tăng dần qua các năm từ năm 2004 đến năm 2006 Nhìn chung thì giá gạo xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn này thường thấp hơn giá gạo thế giới do chưa đáp ứng được các tiêu chuẩn nghiêm ngặt của thị trường như chủng loại. Ngay sau khi gia nhập WTO, năm 2007 lần đầu tiên giá gạo của Việt Nam vượt mốc 300 USD/tấn đối với hầu hết các loại gạo (gạo 5% tấm, 10% tấm, 15% tấm). Đây cũng là lần đầu tiên giá gạo Việt Nam xuất khẩu ngang bằng với gạo Thái Lan cùng cấp các loại, từ 5% tấm, 10%,15% đến 20% tấm, và có thời điểm, giá gạo loại 25% tấm vượt cao hơn Thái Lan. Trong năm này Việt Nam đã trúng thầu cung cấp 474000 tấn gạo loại 25% tấm cho Philippin và một gói thầu cung cấp 14000 tấn gạo tẻ hạt dài cho thị trường Nhật Bản. Bên cạnh đó nhu cầu gạo ở Trung Đông và Châu Phi tăng mạnh. Chính lượng cầu tăng mạnh trong khi nguồn cung của thế giới tăng không nhiều đã làm cho giá gạo xuất khẩu của Việt Nam luôn ở mức cao kể từ đầu năm. [20] Năm 2008 là năm có nhiều biến động mạnh trong giá gạo xuất khẩu, có lúc giá gạo của Việt Nam tăng lên tới 1050 USD/tấn. Giá gạo chia làm 2 xu hướng rõ rệt: tăng mạnh trong 5 tháng đầu năm, giảm mạnh trong 7 tháng cuối năm, giá gạo xuất khẩu bình quân cả năm là 610 USD/ tấn, tăng 86,7% so với năm 2007. Nguyên nhân giá gạo tăng đột biến là do lạm phát cao khiến chính phủ các nước tạm ngưng xuất khẩu gạo để ổn định tình hình trong nước, điều này dẫn đến nguồn cung giảm mạnh khiến giá gạo thế giới tăng cao. [10] Năm 2009 giá gạo xuất khẩu bình quân của Việt Nam chỉ đạt 405,42 USD/tấn đã giảm 33,54% so với năm 2008 Năm 2009 giá xuất khẩu bình quân từ đầu năm đến 5/12 chỉ đạt 405 USD/tấn, giảm 180 đô la so với cùng kỳ năm 2008, nhưng lượng gạo giao trong tháng 11 đạt mức giá bình quân đến 413,71 đô la Mỹ/tấn, tức những tháng cuối năm gạo đang được giá. [21] Trước đó, từ đầu năm đến tháng 9, tình hình mua bán gạo trên thế giới vẫn trầm lắng, giá gạo hầu như không thay đổi, thậm chí có lúc xuống thấp trong thời điểm từ tháng 3-6. Nguyên nhân xuất phát từ thông tin Ấn Độ trúng mùa và đưa lượng gạo dự trữ lên mức hơn 20 triệu tấn, cao nhất từ trước đến nay, và có thể xuất khẩu khoảng 2 triệu tấn. Trong khi đó, Thái Lan vẫn tiếp tục thực hiện chương trình mua lúa có trợ giá cho nông dân, nâng mức tồn kho gạo lên hơn 6 triệu tấn và nhiều khả năng bán gạo tồn kho nhằm giảm chi phí, hao hụt khi lưu kho. Mặt khác, khủng hoảng tài chính trên thế giới cũng khiến việc mua bán gạo cấp thấp bị giới hạn do nhu cầu viện trợ từ các nước nghèo không được đáp ứng kịp thời. Năm 2010 bình quân giá gạo xuất khẩu đạt 468 USD/tấn, tăng 5,02% so với năm trước và đặc biệt giá gạo xuất khẩu năm này vượt giá gạo xuất khẩu bình quân thế giới. Hình 2.2. Giá gạo xuất khẩu của Việt Nam và thế giới giai đoạn 2007-2010 Nguồn: Bộ thương mại, 2010 Như vậy giá gạo xuất khẩu của nước ta nhìn chung đã ngày càng bám sát hơn giá bình quân trên thị trường xuất khẩu gạo thế giới và đã vượt giá xuất khẩu gạo bình quân thế giới vào năm 2010. Điều đó cho thấy gạo xuất khẩu của Việt Nam đã có nhiều cải thiện hơn về mặt chất lượng. Bên cạnh đó giá gạo Việt Nam đã dần dần ngang bằng với giá gạo của Thái Lan, đây là một tín hiệu vui giúp cho các doanh nghiệp xuất khẩu gạo cũng như người nông dân có nguồn vốn để tiếp tục sản xuất và xuất khẩu. Hình 2.3. Giá gạo trắng Việt Nam so với Thái Lan từ năm 2003 đến tháng 3 năm 2010 ( USD/tấn) Nguồn: Tổ chức Nông Lương Liên Hiệp Quốc (FAO) Tuy nhiên, giá xuất khẩu bình quân của 4 cường quốc còn lại so với giá bình quân của thế giới thấp nhất cũng là trên 90%, cao nhất là gần 120% thì giá của chúng ta chỉ đạt khoảng 80% giá bình quân của thế giới. Đó là giá bán thấp nhất trong số 5 nước xuất khẩu gạo nhiều nhất thế giới là Thái Lan, Ấn Độ, Việt Nam, Mỹ và Pakistan. Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), hiện nay giá gạo xuất khẩu của Việt Nam đang tăng mạnh, loại 5% tấm có giá 490-505 USD/tấn, loại 25% tấm giá khoảng 480 USD/tấn,  tính đến cuối tháng 7, các doanh nghiệp đã xuất khẩu 4,619 triệu tấn gạo, trị giá 2,187 tỷ USD, giá xuất khẩu bình quân đạt 473,37 USD/tấn, tăng 35,11 USD/tấn so với cùng kỳ năm trước. 2.2. Thực trạng thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam từ 2001 đến nay. 2.2.1. Cơ cấu thị trường xuất khẩu theo khu vực Trong giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2006, thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam ngày càng được mở rộng. Năm 2001, gạo Việt Nam mới xuất khẩu sang hơn 50 nước, và đến năm 2006 đã xuất khẩu đến hơn 60 thị trường và có mặt ở cả 5 châu lục. Trong đó Châu Á và Châu Phi là 2 thị trường nhập khẩu gạo lớn của Việt Nam. Hình 2.4. Tỷ trọng xuất khẩu gạo bình quân đến các châu lục giai đoạn 2001-2006 (%) Nguồn: Bộ thương mại, 2008 Giai đoạn 2001-2006, trung bình Châu Á chiếm 47% thị phần xuất khẩu gạo của Việt Nam (Hình 2.2). Đứng vị trí thứ hai là châu Phi, trung bình chiếm hơn 25% thị phần xuất khẩu gạo của Việt Nam (Hình 2.2). Thị trường Châu Mỹ cũng nhập khẩu một số lượng lớn gạo chiếm 9,68% thị phần xuất khẩu của Việt Nam. Do khu vực này cũng là nơi sản xuất gạo với số lượng lớn để xuất khẩu, thêm nữa gạo không phải là thương thực chính ở đây nên gạo nhập khẩu không nhiều. Mặc dù lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam vào Trung Đông giai đoạn 2001-2006 chỉ đứng sau Châu Á và Châu Phi nhưng Trung Đông vẫn chỉ được coi là thị trường tiềm năng của xuất khẩu gạo Việt Nam. Nguyên nhân là do, những nước giàu ở khu vực này như các tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất, Oman… thì chủ yếu nhập khẩu các loại phẩm cấp cao của Thái Lan, những thị trường có nhu cầu đối với gạo chất lượng trung bình của Việt Nam như Irac, Iran.. thì lượng gạo nhập khẩu hay bị gián đoạn do chiến tranh, xung đột chính trị. Do vậy lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường này không ổn định mặc dù nhu cầu tiêu dùng gạo Việt Nam ở thị trường Trung Đông là tương đối cao. Châu Âu vốn là thị trường tiêu dùng khó tính, với nhiều tiêu chuẩn chất lượng khắt khe. Bên cạnh đó khu vực này chủ yếu nhập khẩu các loại gạo phẩm cấp cao vị thế gạo xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường này cũng chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ (5,32%). So với trước khi gia nhập WTO, tỷ trọng xuất khẩu gạo của Việt Nam theo khu vực mặc dù có sự thay đổi nhưng hạng sắp xếp theo khối lượng thì không thay đổi. Châu Á vẫn là thị trường nhập khẩu gạo hàng đầu Việt Nam, tiếp đến là Châu Phi. Theo báo cáo thường niên ngành hàng lúa gạo Việt Nam 2008 và triển vọng 2009 của Trung tâm Thông tin phát triển nông nghiệp nông thôn (AGROINFO), xuất khẩu gạo của Việt Nam năm 2008 giảm mạnh tại thị trường Châu Á và tăng mạnh tại thị trường Châu Phi. Năm 2008, xuất khẩu gạo Việt Nam sang thị trường Châu Á giảm mạnh so với năm 2007 (giảm từ 78,1% năm 2007 xuống còn 58,8% năm 2008). Trong số các thị trường có tỷ trọng xuất khẩu gạo tăng thì thị trường Châu Phi là tăng mạnh nhất, tăng hơn gấp đôi so với năm 2007 (từ 8,4% năm 2007 lên 22% năm 2008). (Hình 2.4) Hình 2.5 Kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam đi các thị trường năm 2007-2008 (%) Nguồn: AGROINFO, tính theo Tổng cục Hải quan Năm 2009, châu Á tiếp tục đóng vai trò là thị trường xuất khẩu gạo quan trọng nhất của Việt Nam. Theo Báo cáo thường niên ngành hàng gạo năm 2009 của Công ty cổ phần Phân tích và Dự báo thị trường Việt Nam (AGROMONITOR), xuất khẩu gạo sang các nước châu Á chiếm đến 61,68% tổng kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam (so với mức 58,8% của năm 2008). Tiếp đến là Châu Phi - chiếm đến 30% trong tổng lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam. Còn lại các châu lục khác chỉ chiếm 8,32% tổng lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam. [16] Đến năm 2010 khu vực tỷ trọng xuất khẩu gạo vào các khu vực thay đổi không đáng kể, châu Á chiếm 61,29% ; châu Phi chiếm 29,64%; Châu Mỹ chiếm 5,22%, châu Âu chiếm 3,33%; còn lại là thị trường châu Úc chiếm 0,52% tổng số lượng xuất khẩu. 2.2.2. Cơ cấu thị trường theo quốc gia. Năm 2003, cơ cấu thị trường xuất khẩu gạo Việt Nam có sự thay đổi nhỏ. Cuộc chiến tranh tại Irac khiến lượng gạo nhập khẩu từ Việt Nam vào nước này giảm đáng kể. Tuy nhiên, với việc có thêm nhiều thị trường mới đã mở ra cũng trong năm đó như Libang, Xiri, các nước Châu phi như Kenya, Senegal,…nên xuất khẩu gạo của Việt Nam vẫn ở mức cao. Năm 2006, Châu Á vẫn là thị trường nhập khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam với gần 1,43 triệu tấn, chiếm 76,7% tổng lượng gạo xuất khẩu của cả nước. Thị trường Philipin chiếm vị trí số một với mức nhập khẩu 33% tổng lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam. Ngoài ra trong năm này Nhật Bản cũng được coi là một thị trường tiềm năng của gạo Việt Nam với những cam kết nâng dần lượng gạo nhập khẩu từ năm 2007 khoảng 150000 tấn đến 350000 nghìn tấn vào năm 2010. [4] Trước khi gia nhập WTO gạo Việt Nam được xuất khẩu đến hơn 60 quốc gia năm 2006 thì đến năm 2008, con số này đã tăng lên gấp đôi (128 quốc gia) Cơ cấu thị trường xuất khẩu gạo năm 2008 của Việt Nam có sự thay đổi đặc biệt trong việc xuất khẩu gạo sang thị trường Indonexia. Thực tế các năm trước đây, cũng như năm 2007, Indonexia luôn là thị trường gạo xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam (chiếm 24% tổng lượng xuất khẩu), thì năm 2008, nước này đã giảm mạnh lượng nhập khẩu gạo (chỉ chiếm hơn 1% tổng lượng gạo xuất khẩu) do đã có thể tự đáp ứng được nhu cầu gạo tại thị trường trong nước. Thị trường nhập khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam năm 2008 vẫn là Philippines chiếm 40% tổng lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam. 3 thị trường có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất là Philippines, Malaysia, Cuba. Đây đều là các thị trường truyền thống chiếm 63,8% về giá trị và 54,8% về lượng. [16] Bảng 2.2. Khối lượng và kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam tới 10 thị trường nhập khẩu chính 2007-2008 Năm Nước 2007 2008 Khối lượng (nghìn tấn) Kim ngạch (triệu USD) Khối lượng ( nghìn tấn) Kim ngạch ( triệu USD) Philipine 1458 466 1479 1088 Cuba 431 167 488 411 Malaysia 377 116 457 263 Senegal 191 94 200 100 Iraq - - 190 95 Bờ Biển Ngà 148 46 185 51 Đông Ti Mo 134 46 165 47 Singapore 82 26 150 39 Ghana 130 40 125 30 Indonexia 1169 379 76 19 Nguồn: Tổng cục hải quan, 2008 Sang năm 2009 thì thị trường xuất khẩu gạo chính của Việt Nam vẫn là các nước châu Á chiếm đến 61,68% tổng kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam (so với mức 50,8% của năm 2008). Trong đó, xuất khẩu gạo sang thị trường Philippines chiếm hơn một nửa thị phần của toàn khu vực châu Á (chiếm tới 35% trong tổng kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam năm 2009). Theo đó, lượng gạo mà Việt Nam xuất khẩu sang Philippines trong năm 2009 đạt gần 1,7 triệu tấn, trị giá hơn 912 triệu USD. Tiếp theo phải kể đến Malaysia, từ vị trí thứ ba trong năm 2008, đã vươn lên đứng thứ hai với thị phần 9%, tương đương với lượng gạo nhập khẩu hơn 611 nghìn tấn, trị giá khoảng 271 triệu USD. Các quốc gia và lãnh thổ châu Á nằm trong nhóm 10 thị trường xuất khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam năm 2009 còn có Singapore (329.000 tấn và 134 triệu USD ), Đông Timo (242.000 tấn và 97 triệu USD), Đài Loan (203.000 tấn và 81 triệu USD) và Iraq (168.000 tấn và 68 triệuUSD ). [16] Châu Á là thị trường xuất khẩu gạo chủ chốt của Việt Nam trong năm 2009 khi có tới sáu trong 10 thị trường có tốc độ tăng trưởng lớn nhất. Cụ thể, 10 thị trường có kim ngạch nhập khẩu gạo từ Việt Nam trên 1 triệu đô la và có tốc độ tăng trưởng kim ngạch lớn nhất năm 2009 bao gồm: Kiribati (tăng 10,608%), Campuchia (tăng 2,516%), Li Băng (tăng 2,124%), Hồng Kông (tăng 758%), Mỹ (tăng 714%), Nigeria (tăng 614%), Brunei (tăng 506%), Đài Loan (tăng 493%), Trung Quốc (tăng 397%) và Fiji (tăng 365%). Đáng chú ý là Đài Loan từ vị trí thứ 23 trong bảng xếp hạng năm 2008 đã vươn lên đứng trong nhóm 10 thị trường xuất khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam trong năm 2009. [16] Đến năm 2010 Thị trường truyền thống chủ đạo của xuất khẩu gạo Việt Nam vẫn là Philippines, Indonesia, Cu Ba, Malaysia và Đài Loan; trong đó, dẫn đầu về lượng và kim ngạch trong năm 2010 là thị trường Philipines với 1,48 triệu tấn, trị giá 947,38 triệu USD (chiếm 21,4% về lượng và chiếm 29,17% tổng kim ngạch); thị trường Indonesia xếp vị trí thứ 2 với trên 687 nghìn tấn, trị giá 346,02 triệu USD (chiếm 9,98% về lượng và chiếm 10,65% tổng kim ngạch); thứ 3 là Singapore với 539,3 nghìn tấn, trị giá 227,79 triệu USD (chiếm 7,83% về lượng và chiếm 7,01% tổng kim ngạch); tiếp đến Cu Ba gần 472,3 nghìn tấn, trị giá 209,22 triệu USD (chiếm 6,86% về lượng và chiếm 6,44% tổng kim ngạch); sau đó là 2 thị trường cũng đạt kim ngạch trên 100 triệu USD là: Malaysia 177,69 triệu USD; Đài Loan 142,7 triệu USD.[23] Hình 2.6. 10 thị trường lớn nhất trong cơ cấu xuất khẩu gạo của Việt Nam (7 tháng 2010) Nguồn: Tính từ số liệu của Tổng cục Hải quan Đa số các thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam năm 2010 đều giảm về lượng và kim ngạch so với năm 2009, tuy nhiên có 5 thị trường xuất khẩu tăng cả lượng và kim ngạch so với năm 2009, trong đó tăng mạnh nhất là xuất khẩu sang Indonesia (tăng 3763,79% về lượng và tăng 4696,30% về kim ngạch); xuất khẩu sang Hồng Kông đứng thứ 2 về mức tăng trưởng (tăng 194% về lượng và tăng 222,42% về kim ngạch); sau đó là Đài Loan (tăng 72,3% về lượng và tăng 74,85% về kim ngạch); Singapore (tăng 64,65% về lượng và tăng 70,51% về kim ngạch). Ngược lại, kim ngạch xuất khẩu gạo giảm mạnh so với năm 2009 ở các thị trường Italia (giảm 83,21% về lượng và giảm 75,94% về kim ngạch); Tây Ban Nha (giảm 79,16% về lượng và giảm 75,45% về kim ngạch) và Ucraina (giảm 64,98% về lượng và giảm 60,95% về kim ngạch).[23] Nhìn chung thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam từ khi gia nhập WTO không chỉ phát triển mạnh về chiều rộng mà còn cả về chiều sâu. Việt Nam đã chiếm lĩnh được một số thị trường khó tính như EU, Bắc Mỹ, Úc và Nhật Bản. Tuy nhiên, các thị trường xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam vẫn nằm ở Châu Á. Còn các thị trường Châu Phi Việt Nam mới chỉ xuất qua các trung gian khác vì chưa có điều kiện tiếp cận trực tiếp với thị trường này cũng như còn nhiều khó khăn trong việc thanh toán. Phần lớn các khu vực thị trường này có trình độ tiêu dùng thấp, khả năng thanh toán kém. So với Thái Lan việc gạo Việt Nam dành được những thị trường tiêu thụ có chất lượng tiêu dùng cao còn rất hạn chế. Trong năm 2010,Thị trường truyền thống chủ đạo của xuất khẩu gạo Việt Nam vẫn là Philippines, Indonesia, Cu Ba, Malaysia và Đài Loan; trong đó, dẫn đầu về lượng và kim ngạch trong năm 2010 là thị trường Philipines với 1,48 triệu tấn, trị giá 947,38 triệu USD (chiếm 21,4% về lượng và chiếm 29,17% tổng kim ngạch); thị trường Indonesia xếp vị trí thứ 2 với trên 687 nghìn tấn, trị giá 346,02 triệu USD (chiếm 9,98% về lượng và chiếm 10,65% tổng kim ngạch); thứ 3 là Singapore với 539,3 nghìn tấn, trị giá 227,79 triệu USD (chiếm 7,83% về lượng và chiếm 7,01% tổng kim ngạch); tiếp đến Cu Ba gần 472,3 nghìn tấn, trị giá 209,22 triệu USD (chiếm 6,86% về lượng và chiếm 6,44% tổng kim ngạch); sau đó là 2 thị trường cũng đạt kim ngạch trên 100 triệu USD là: Malaysia 177,69 triệu USD; Đài Loan 142,7 triệu USD. Đa số các thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam năm 2010 đều giảm về lượng và kim ngạch so với năm 2009, tuy nhiên có 5 thị trường xuất khẩu tăng cả lượng và kim ngạch so với năm 2009, trong đó tăng mạnh nhất là xuất khẩu sang Indonesia (tăng 3763,79% về lượng và tăng 4696,30% về kim ngạch); xuất khẩu sang Hồng Kông đứng thứ 2 về mức tăng trưởng (tăng 194% về lượng và tăng 222,42% về kim ngạch); sau đó là Đài Loan (tăng 72,3% về lượng và tăng 74,85% về kim ngạch); Singapore (tăng 64,65% về lượng và tăng 70,51% về kim ngạch). Ngược lại, kim ngạch xuất khẩu gạo giảm mạnh so với năm 2009 ở các thị trường Italia (giảm 83,21% về lượng và giảm 75,94% về kim ngạch); Tây Ban Nha (giảm 79,16% về lượng và giảm 75,45% về kim ngạch) và Ucraina (giảm 64,98% về lượng và giảm 60,95% về kim ngạch). Bước sang năm 2011, gạo xuất khẩu của nước ta có nhiều khả quan. Lượng gạo xuất khẩu của cả nước trong tháng 3/2011 đạt 895.614 tấn, trị giá 447,7 triệu đô la (tăng 81,1% về lượng và tăng 85,55% về trị giá so với tháng 2/2011); đưa tổng lượng gạo xuất khẩu cả quí 1 lên 1,93 triệu tấn, thu về 970,64 triệu đô la, chiếm 4,94% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá cả nước (tăng 33,77% về lượng và tăng 22,47% về kim ngạch so với cùng kỳ năm 2010). Đây là tháng thứ 6 liên tục, thị trường Indonesia luôn dẫn đầu cả về lượng và kim ngạch xuất khẩu, tháng 3 này xuất sang Indonesia gần 281 nghìn tấn gạo, thu về 137,73 triệu đô la; tính chung cả 3 tháng xuất sang thị trường này 684,9 nghìn tấn gạo, trị giá 343,04 triệu đô la (chiếm 35,48% về lượng và chiếm 35,34% trị giá). Thị trường Cuba đứng thứ 2 trong tháng với 109 nghìn tấn, trị giá 57,2 triệu đô la; tính cả 3 tháng xuất sang thị trường này 156,7 nghìn tấn gạo, trị giá 85,1 triệu đô la (chiếm 8,12% về lượng và chiếm 8,77% trị giá). Xếp thứ 3 trong tháng là thị trường Trung Quốc với 60,6 nghìn tấn, trị giá 30,4 triệu đô la; cộng gộp cả 3 tháng là 69,9 nghìn tấn, trị giá 36,4 triệu đô la (chiếm 3,62% về lượng và chiếm 3,75% tổng trị giá). Tính chung cả 3 tháng đầu năm 2011, có 8 thị trường xuất khẩu gạo đạt kim ngạch trên 10 triệu đô la, dẫn đầu là Indonesia 343,04 triệu đô la; tiếp đến Cuba 85,1 triệu đô la, Malaysia 60 triệu đô la; Singapore 48,66 triệu đô la; Trung Quốc 36,39 triệu đô la; Philippines 29,9 triệu đô la; Hồng Kông 20,16 triệu đô la; Đài Loan 13,17 triệu đô la. Trong số 21 thị trường xuất khẩu gạo quí 1/2011, có 4 thị trường mới so với cùng kỳ năm ngoái là Trung Quốc, Đông Timo, Brunei, Bỉ; còn lại 17 thị trường truyền thống thì có 10 thị trường đạt mức tăng trưởng dương về kim ngạch và 7 thị trường bị sụt giảm kim ngạch so với cùng kỳ năm ngoái; trong đó thị trường đột biến về mức tăng trưởng cả về lượng và kim ngạch là thị trường Indonesia tăng 5166% về lượng và tăng 4069,7% về kim ngạch; tiếp sau đó là một số thị trường cũng đạt mức tăng mạnh trên 100% về lượng và kim ngạch như: Tây Ban Nha (tăng 379% về lượng và tăng 299,4% về kim ngạch); Hồng Kông (tăng 173,05% về lượng và tăng 205,4% về kim ngạch); Australia (tăng 108,1% về lượng và tăng 113,3% về kim ngạch). Ngược lại, xuất khẩu gạo giảm mạnh ở các thị trường sau: Philippines (giảm 93,96% về lượng và giảm 93,86% về kim ngạch), Ucraina (giảm 71,65% về lượng và giảm 69,27% về kim ngạch); Đài Loan (giảm 72,58% về lượng và giảm 67,55% về kim ngạch) và Hà Lan (giảm 60,86% về lượng và giảm 59,97% về kim ngạch). Bảng 2.3. Xuất khẩu gạo sang các thị trường quí I/2011(Nguồn: Bộ Công Thương) Thị trường T3/2011 3T/2011 Tăng, giảm 3T/2011 so với cùng kỳ Lượng (tấn) Trị giá (USD) Lượng (tấn) Trị giá (USD) Lượng (%) Trị giá (%) Tổng cộng 895.614 447.695.478 1.930.235 970.644.060 +33,77 +22,47 Indonesia 280.925 137.726.100 684.850 343.041.425 +5166,05 +4069,71 Cu Ba 108.950 57.193.669 156.700 85.097.814 +59,82 +94,08 Malaysia 48.674 26.061.804 119.293 60.008.818 +1,96 +12,23 Singapore 49.593 24.470.474 95.775 48.662.239 +21,09 +31,97 Trung Quốc 60.647 30.378.637 69.852 36.392.254 * * Philippines 45.324 28.703.578 47.259 29.899.973 -93,96 -93,86 Hồng Kông 19.859 11.192.066 34.158 20.159.957 +173,05 +205,39 Đài Loan 14.202 6.899.271 26.311 13.172.899 -72,58 -67,55 Nga 10.032 5.025.086 11.765 5.911.183 -16,54 -10,41 Đông Timo 2.830 1.349.600 10.460 5.118.820 * * Brunei 2.294 1.171.290 4.524 2.517.090 * * Nam Phi 300 152.600 3.350 1.720.150 +10,82 +19,74 Australia 477 292.513 1.852 1.181.390 +108,09 +113,33 Ucraina 150 91.150 1.056 577.530 -71,65 -69,27 Tiểu vương Quốc Ả Rập thống nhất 412 255.130 824 519.625 -10,82 +12,36 Tây Ban Nha 0 0 570 320.670 +378,99 +299,39 Ba Lan 0 0 405 187.166 -14,74 -14,60 Bỉ 500 186.000 500 186.000 Italia 121 70.590 246 155.340 -25,45 -14,42 Pháp 24 26.855 194 143.832 - - 2.2.3. Một số đối thủ cạnh tranh chủ yếu của gạo xuất khẩu Việt Nam. Hình 2.7. các nước xuất khẩu gạo hàng đâug thế giới. Có thể thấy rằng, trong thời gian qua, gạo xuất khẩu của Việt Nam đã có mặt ở hầu hết thị trường trên thế giới, song một thực tế có thể thấy rằng, gạo xuất khẩu của Việt Nam có rất nhiều đối thủ cạnh tranh mạnh trên thị trường thế giới. Thái Lan. Thái Lan là nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới với lượng gạo và kim ngạch xuất khẩu gạo gấp 2 lần so với nước đứng vị trí thứ hai là Việt Nam. Năm 2004 là năm đỉnh cao của Thái Lan về xuất khẩu gạo, với sản lượng đạt 10,137 triệu tấn. Nhưng do có nhiều nước cũng tăng xuất khẩu gạo nên thị phần của nước này giảm xuống chỉ chiếm khoảng 37% thị trường gạo thế giới. Đến năm 2005, do diễn biến thới tiết không thuận lợi của lũ lụt kéo dài làm ảnh hưởng tới sản lượng lúa của Thái Lan chỉ đạt khoảng 13,360 triệu tấn. Lượng gạo xuất khẩu của Thái Lan trong năm này giảm xuống còn 7,274 triệu tấn, chiếm 25% sản lượng gạo xuất khẩu toàn cầu. Dù vậy,năm đó Thái Lan vẫn giữ vị trí thứ nhất thế giưới, vượt hẳn Việt Nam là nước đứng thứ hai thế giới đến 2,1 triệu tân.Năm 2006, sản lượng gạo Thái Lan đạt mức 18,2 triệu tấn. Điều này ảnh hưởng không nhỏ tới sản lượng xuất khẩu gạo của nước này. Mặc dù vậy, sản lượng gạo xuất khẩu của Thái Lan cũng tăng đến mức 7,376 triệu tấn, chiếm tỷ trọng 26% trong tổng sản lượng xuất khẩu toàn thế giới, tăng 1% so với năm 2005. Xuất khẩu gạo Thái Lan năm 2007 đạt 9,5 triệu tấn, chiếm 31,4% tổng sản lượng gạo xuất khẩu của thế giới, vượt 8,5 triệu tấn của chính phủ và càng cao hơn với 7,3 triệu tấn xuất khẩu năm 2006.Chính phủ Thái Lan đã nỗ lực mở rộng thị trường tiêu thụ gạo của mình bằng cách cử phái đoàn thương mại sang nhiều thị trường mới như Senagal, Ghana,Tunisia, các tiểu vương quốc Ảrập thống nhất và Trung Quốc. Các thị trường náy rất tin tưởng vào tiêu chuẩn và chất lượng gạo Thái. Hầu hết họ đều tăng nhập khẩu gạo Thái Lan. Căn cứ vào số liệu ước tính mới nhất, trong số các nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới, Thái Lan sẽ đóng vai trò chính trong năm 2011, với kim ngạch xuất khẩu tăng lên 9,7 triệu tấn, tăng từ 9,0 triệu tấn trong năm 2010 và cao hơn mục tiêu chính thức là 9,5 triệu tấn.Và đây là đối thủ cạnh tranh lớn nhất của gạo xuất khẩu của Việt Nam. Ân Độ. Xuất hiện trên thị trường thế giời từ rất sớm, vào những năm đầu thế kỷ xx đến nay Ân Độ đã trở thành một trong những nước xuất khẩu gạo lớn của thế giới.Nếu như những năm 60 của thế kỷ xx, sản lượng gạo xuất khẩu của Ân Độ chỉ khoảng 0,1 triệu tấn thì đến những năm gần đây sản lượng gạo xuất khẩu của Ân Độ luôn ở mức trên 2 triệu tấn với tỷ trọng chiếm 12 -14% tổng sản lượng gạo xuất khẩu thế giới. Gạo xuất khẩu chủ yếu của Ân Độ là gạo Đồ và gạo Basmati. Đây là gạo xuất khẩu gạo Basmati lớn nhất thế giới chủ yếu sang Ảrập Xêút và các nước Trung Đông khác, Châu Âu và Châu Mỹ. Lợi thế của Ân Độ là luôn đảm bảo cung cấp gạo không biến đổi gen cho bất kì nơi nào trên thế giới. Mặt khác nâng cao gạo chất lượng cao đang phát triển trên thị trường thế giới sẽ là cơ hội tốt cho Ân Độ. Thêm vào đó, gạo hạt dài của Ân Độ có giá cạnh tranh hơn nhiều so với gạo của Việt Nam, không chỉ có vậy lượng gạo xuất khẩu của Ân Độ chiếm 10% tổng sản lượng gạo xuất khẩu toàn thế giới. 2.3. Đánh giá về năng lực canh tranh của gạo xuất khẩu của Việt Nam từ năm 2001 đến nay. Từ một quốc gia thiếu đói, chỉ trong một thời gian ngắn, Việt Nam đã vươn lên trở thành một trong những nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới, tạo ra một lượng thặng dư ngoại tệ cho đất nước nhập khẩu máy móc, trang thiết bị hiện đại hóa cho nhiều ngành công nghiệp đồng thời, giữ vững an ninh lương. Đến năm 2007, kinh tế Việt Nam mới chính thức hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu, nhưng người nông dân sản xuất gạo Việt Nam đã tham gia thị trường toàn cầu từ trước đó gần 2 thập niên. Có thể thấy từ khi gia nhập WTO, xuất khẩu gạo của Việt Nam đã có nhiều bước tiến quan trọng, lượng gạo xuất khẩu ngày càng lớn, chất lượng ngày càng cao và giá gạo xuất khẩu dần ngang bằng với giá gạo của thế giới. Gạo Việt Nam ngày càng có mặt ở hầu hết các thị trường trên thế giới,chinh phục được cả những thị trường khò tính nhất.Cùng với đó, thị phần gạo xuất khẩu của việt nam ngày càng được khẳng định trên thị trường thế giới. Hiện nay, tình hình xuất khẩu gạo Việt Nam đang có nhiều thuận lợi. Đặc biệt, trong khi một số nước lớn về xuất khẩu gạo có xu hướng giảm nhưng xuất khẩu gạo của Việt Nam vẫn tăng trưởng cả về lượng và giá trị, so với lượng gạo xuất khẩu của cùng kỳ năm 2010 thì đến nay đã tăng 13,79%. Với thị trường toàn cầu, gạo Việt Nam ngày càng khẳng định được vị trí, giữ được giá xuất khẩu, loại gạo cấp trung bình có khả năng cạnh tranh cao. Việc duy trì các thị trường truyền thống đóng vai trò nền tảng giúp ngành lúa gạo Việt Nam có thời gian khắc phục khiếm khuyết về giống lúa, chất lượng gạo, tập quán canh tác, sức chứa kho dự trữ, công nghệ sau thu hoạch, công nghệ chế biến…  Theo kết quả nghiên cứu của chuyên gia tham gia tham gia đề án quốc gia về nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa dịch vụ Việt Nam thì chi phí sản xuất lúa Việt Nam hiện vẫn còn thấp trong khu vực Đông Nam Á.Thậm chí với điều kiện thiên nhiên thuận lợi, chi phí sản xuất lúa tại Đồng Bằng Sông Cửu Long còn được coi là nhỏ hơn thế giới(=80,95% so với Thái Lan) . Nguyên nhân chủ yếu là do chi phí cho lao động chỉ bằng 1/3 so với Thái Lan và năng suất lúa cao hơn 1,5 lần . Quan sát cơ cấu khối lượng xuất khẩu gạo trong vài năm trở lại đây, có thể thấy, tỷ trọng gạo có chất lượng (loại 5% tấm) đã tăng lên qua các năm. Điều này cho thấy sức cạnh tranh đã được cải thiện đáng kể. Quan sát diễn biến giá gạo cùng loại của Việt Nam và Thái Lan trong 5 năm trở lại đây cũng cho thấy gạo Việt Nam đang dần tiệm cận với giá gạo Thái Lan. Hiên nay, nhu cầu lương thực thế giới không ngừng tăng lên trong đó có nhu cầu về gạo, thì với lợi thế là một nước sản xuất và xuất khẩu lúa gạo hàng đầu thế giới Việt Nam hoàn toàn có thể nâng cao vị trí xuất khẩu gạo trong tương lai. Như vậy, trong thời gian tới, sức cạnh tranh gạo Việt Nam sẽ được cải thiện nếu chúng ta làm tốt 2 khâu là: chất lượng và thương hiệu. 2.4. Những vấn đề đặt ra của xuất khẩu gạo Việt Nam trong thời gian tới Về thị trường Mặc dù gạo Việt Nam đã có mặt trên hơn 100 nước thuộc tất cả các đại lục nhưng số lượng gạo do các tổ chức Việt Nam trực tiếp kí kết với các thị trường còn chiếm tỷ lệ thấp, số bán qua trung gian nước ngoài còn chiếm tỷ lệ lớn (tới 65%) đặc biệt là thị trường Châu Phi. Nguyên nhân là do một số doanh nghiệp Việt Nam còn chạy theo lối cò con, chỉ tính đến cái lợi trước mắt mà chưa tính đến lợi ích lâu dài và lợi ích toàn cục. Một số chính sách vĩ mô của nhà nước chưa chuyến đổi kịp với diến biến của thị trường trong nước và quốc tế cũng làm giảm khả năng cạnh tranh của lúa gạo Việt Nam trên thị trường thế giới. Hơn nữa, Việt Nam và Thái Lan lại có chung một số thị trường xuất khẩu gạo vì vậy Việt Nam phải đương đầu với một số đối thủ cạnh tranh có lợi thế về nhiều mặt: chất lượng gạo, kinh nghiệm sản xuất và xuất khẩu…Cho đến nay do không ngừng nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu, thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam tiếp tục mở rộng nhưng trong tương lai gần chủ yếu vẫn tập trung vào những thị trường đòi hỏi chất lượng không cao và giá rẻ như Châu Phi, Nam Mỹ. Trong suốt quá trình xuất khẩu gạo từ năm 1989 đến nay, sở dĩ Việt Nam chưa dành được sự ưu ái của thị trường thế giới bên cạnh lý do chất lượng gạo thấp còn có lý do chúng ta chậm trong xây dựng thương hiệu. Không phải gạo Việt Nam hoàn toàn yếu kém về mặt chất lượng, Việt Nam có rất nhiều sản phẩm chất lượng cao và độc đáo như gạo thơm, gạo dò nhưng nhiều người tiêu dùng thế giới lại không biết đến. Họ tưởng chỉ có Thái Lan mới có. Có tình trạng này là do Việt Nam chưa xây dựng được thương hiệu cho những mặt hàng độc đáo. Các doanh nghiệp trong nước thiếu thông tin về thị trường thế giới và không chủ động tiếp cận đối tác. Bên cạnh đó thì các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu gạo chủ yếu vẫn là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, thời gian hoạt động thương mại chưa lâu, thiếu kĩ năng trong tham gia thị trường quốc tế. Điều này khiến cho các doanh nghiệp mất chi phí trung gian mà còn không có cơ hội thể hiện thương hiệu sản phẩm và thương hiệu doanh nghiệp trên thị trường, làm mất cơ hội được giới thiệu về sản phẩm và đất nước Việt Nam với thế giới. Tóm lại hoạt động xuất khẩu gạo Việt Nam chưa thực sự ổn định chủ yếu vẫn là các thị trường nhỏ, có yêu cầu không cao và không ổn định. Xuất khẩu gạo Việt Nam vẫn thiếu một chiến lược đối với các thị trường lớn. Chúng ta chưa thiết lập được một hệ thống thị trường và bạn hàng đáng lớn ổn định cũng như thương hiệu sản phẩm. Gạo của Việt Nam chưa thực sự xâm nhập được vào các thị trường khó tính như Nhật Bản, Hàn Quốc, EU. Về chất lượng gạo xuất khẩu Bên cạnh vấn đề về thị trường xuất khẩu thì còn có vấn đề lớn về chất lượng gạo xuất khẩu. Mặc dù chất lượng gạo của Việt Nam đã được cải thiện tương đối ấn tượng trong hơn 1 thập kỉ qua, nhưng nhìn chung chất lượng gạo xuất khẩu vẫn còn ở mức thấp so với gạo của các nước xuất khẩu khác nên ảnh hưởng tới giá bán và thị trường trong xuất khẩu. Gạo xuất khẩu của Việt Nam luôn có giá thấp nhất nếu so với gạo cùng loại của các nước khác. Nhà nhập khẩu khó mua giá cao do chất lượng gạo Việt Nam không đồng đều. Có nhiều nguyên nhân khiến chất lượng gạo Việt Nam chưa bắt kịp với nhiều nước xuất khẩu khác, nhưng chủ yếu là do các nguyên nhân sau đây. Thứ nhất: giống là khâu đầu tiên có ảnh hưởng quan trọng tới chất lượng sản phẩm của gạo nước ta. Ở một số địa phương hiện nay vẫn trồng đại trà các giống lúa cũ đã thoái hóa hoặc các giống lúa lai của Trung Quốc ngắn ngày cho năng suất cao nhưng chất lượng gạo thấp không đảm bảo các tiêu chuẩn về độ dài hạt, độ trong, điểm bạc bụng của gạo xuất khẩu [6]. Mặt khác do phong trào sản xuất hướng vào năng suất và sản lượng trước đây đã làm mất đi nhiều giống lúa đặc sản quý có phẩm chất gạo cạnh tranh được với gạo thơm hay Hương Nhài của Thái Lan. Thứ hai: đặc tính phân tán, tự phát, quy mô nhỏ lẻ của các hộ nông dân là cản trở lớn để có thể tăng lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam. Với quy mô nhỏ, sản xuất phân tán, chất lượng lúa không đồng đều, khiến nông dân trồng lúa chỉ có thể duy trì tình trạng sản xuất tự cung, tự cấp là chủ yếu, điều này được thể hiện rõ ở đồng bằng sông Hồng. Ngay cả ở đồng bằng sông Cửu Long (chiếm 95% lượng gạo xuất khẩu), tuy nhiên diện tích đất canh tác bình quân đầu người cao nhất cả nước nhưng nhược điểm trên cũng chưa được khắc phục. Toàn vùng có 1700 trang trại trồng lúa hàng hóa nhưng quy mô đất lúa trung bình một trang trại từ 3-5 ha chiếm gần 60%, chỉ có 4,9% có quy mô trên 10ha. Với quy mô nhỏ như vậy, khả năng ứng dụng tiến bộ khoa học vào sản xuất lúa bị hạn chế rất nhiều. [23] Thứ ba, cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ chế biến, bảo quản lúa gạo xuất khẩu còn yếu kém lại không phân bổ đều. Hiện nay công tác bảo quản và lưu trữ sau thu hoạch của nước ta còn nhiều tồn tại. Hệ thống kho lưu trữ của nước ta phần lớn không đảm bảo đúng tiêu chuẩn kĩ thuật nên tỷ lệ tỷ lệ hư hao do nấm mốc, côn trùng và chuột còn cao. Mặt khác 80% lượng thóc của Việt Nam lại được xay xát và chế biến tại các cơ sở nhỏ và các hộ nông dân không được trang bị đồng bộ về phới sấy và kho chứa. Hệ thống nhà máy xay xát đánh bóng gạo xuất khẩu những năm gần đây tuy có được trang bị hiện đại hơn nhưng số lượng còn ít, chủ yếu được bố trí ở thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Mỹ Tho. Trong khi đó những vùng và địa phương có nhiều hàng hóa phục vụ xuất khẩu khác ở đồng bằng sông Cửu Long và duyên hải Nam Trung Bộ…không có các nhà máy chế biến và đánh bóng gạo hiện đại. Chính vì những lý do trên nên tỷ lệ tấm, rạn vỡ hạt, tỷ lệ tạp chất, độ đục còn cao so với Thái Lan và Mỹ. Điều này là trở ngại rất lớn đối với xuất khẩu gạo của Việt Nam và Mỹ. Thứ tư, một nguyên nhân sâu sa dẫn đến tình trạng chất lượng gạo của Việt Nam không cao là do môi trường trường đầu tư cho sản xuất lúa không hấp dẫn. Người nông dân nhiều khi phải đối mặt với nạn dịch bệnh xảy ra trên cây lúa. Chi phí cho việc mua phân bón, thuốc trừ sâu rất tốn kém. Mà việc tiếp cận với nguồn vốn tín dụng của hộ nông dân vẫn rất hạn chế. Điều này làm ảnh hưởng không ít đến năng suất và chất lượng gạo. Về giá cả Giá gạo xuất khẩu của Việt Nam luôn thấp hơn so với giá gạo thế giới. Việt Nam có giá bán thấp nhất trong số 5 nước xuất khẩu gạo nhiều nhất thế giới (xét theo khối lượng) là Thái Lan, Ấn Độ, Mỹ, Pakistan. Giá xuất khẩu bình quân của 4 nước trên so với giá bình quân của thế giới thấp nhất cũng là trên 90%, cao nhất gần 120% thì giá của chúng ta chỉ đạt khoảng 80% giá bình quân của thế giới. Nguyên nhân chủ yếu khiến giá gạo Việt Nam luôn thấp hơn so với giá gạo thế giới là do chất lượng gạo thương phẩm chưa cao, không hợp gu các thị trường có sức mua và chất lượng cao như Hàn Quốc, Nhật Bản, Mỹ, Úc, EU... Ngoài ra, vấn đề tổn thất sau thu hoạch đang đặt ra 1 thách thức không nhỏ đối với gạo Việt Nam. Tổn thất sau thu hoạch của Việt Nam thường từ 9%-17%, có lúc lên đến 30%, cao hơn nhiều lần so với các nước khác như Ấn Độ chỉ 3%-3,5%, Bangladesh 7%, Indonesia 6%-17%. Ngoài ra theo kết quả điều tra của cục chế biến nông lâm sản và nghề muối- Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn cho thấy, tỷ lệ thất thoát và hao hụt trong quá trình thu hoạch , bảo quản và chế biến ở nước ta vẫn còn khá cao. Thất thoát trong khâu suốt lúa khoảng 0,8-2%, thất thoát khâu phới sấy khoảng 0,5-7%, thất thoát trong xay xát 7%-12%. [26] Với những lý do trên làm cho chất lượng gạo của Việt Nam vẫn còn kém. Vì thế gạo Việt Nam trên thị trường thế giới thường bị ép giá thấp hơn so với gạo cùng loại của các nước khác, đặc biệt là gạo Thái Lan. Bên cạnh đó, những yếu kém của cơ sở hạ tầng làm tăng chi phí xuất khẩu, mức độ chênh lệch cao giữa giá trong nước và giá tại cảng là điều bất lợi cho xuất khẩu gạo của Việt Nam trong thương mại thế giới. Chi phí sản xuất ở Việt Nam có lợi thế hơn nhiều so với Thái Lan: chi phí lao động bằng 1/3, tỷ lệ diện tích được tưới gấp 2 lần, hệ số quay vòng đất gấp 1,33 lần, năng suất gấp 1,5 lần các chỉ tiêu liên quan đến giá trị vật tư đầu vào bằng 50%-80% chi phí của Thái Lan. Do vậy chi phí sản xuất lúa gạo của Việt Nam bình quân từ 90-110USD/tấn, trong khi chi phí của Thái Lan là 120-150USD/tấn. Tuy nhiên chênh lệch giữa giá gạo trong nước và giá gạo tại cảng lại khá lớn do chi phí dịch vụ xuất khẩu gạo của Việt Nam cao. Điều đó xuất phát từ sự yếu kém của hệ thống cơ sở hạ tầng, vận tải, bốc dỡ. Chi phí bốc dỡ xếp hàng và chi phí tại cảng Sài Gòn cao chiếm 1,6% giá xuất khẩu, ở Thái Lan chi phí này bằng ½ Việt Nam, tốc độ bốc dỡ chậm so với Thái Lan 6 lần, làm tốn thêm 6000 USD/ ngày. [25] Chương 3: Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu gạo Việt Nam trong thời gian tới 3.3.1 Về phía nhà nước Dự báo dài hạn về thị trường, trên cơ sở đó quy hoạch vùng sản xuất chuyên canh gạo xuất khẩu Nhà nước cần có những dự báo dài hạn về nhu cầu của thị trường, hướng sản xuất để triển khai tới cơ sở tham gia hoạt động xuất khẩu. Từ những dự báo đó, các doanh nghiệp cũng như người dân sẽ chủ động hơn trong việc đầu tư sản xuất. Đầu tư những vùng chuyên canh lúa gạo xuất khẩu nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc ứng dụng khoa học kĩ thuật đồng bộ, tăng khả năng kiểm soát chất lượng gạo xuất khẩu. Nước ta vẫn chủ yếu xuất khẩu những loại gạo mà ta có chưa hẳn là xuất khẩu cái mà thị trường cần đến. Cần phải nhanh chóng quy hoạch các vùng chuyên canh lúa phục vụ xuất khẩu, chỉ có như vậy mới có thể đáp ứng được nhu cầu của thị trường, tăng sức cạnh tranh. Nhà nước đã xác định vùng chuyên canh lúa xuất khẩu là đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long. Quy hoạch từng vùng trồng các giống lúa khác nhau để tránh sự lai tạp giữa các loại giống cùng trồng xen lẫn trong cùng một vùng. Cũng có thể quy hoạch từng vùng lúa để phục vụ cho xuất khẩu sang thị trường có nhu cầu khác nhau, giảm diện tích gạo có chất lượng thấp, mở rộng hơn nữa diện tích gạo có chất lượng cao nhằm đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao. Nhanh chóng hoàn thiện quy hoạch các vùng lúa xuất khẩu của cả nước và kế hoạch cụ thể trong việc ưu tiên đầu tư vốn, khoa học kĩ thuật để phát triển sản xuất lúa trong từng thời kì, nhưng phải đảm bảo phù hợp với quy hoạch và kế hoạch xuất khẩu gạo của cả nước của thời kì đó. Trong đó cần quan tâm giải pháp khuyến khích tích tụ và tập trung đất lúa trong vùng quy hoạch lúa xuất khẩu ở đòng bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng để từng bước hiện đại hóa quy trình sản xuất lúa nhằm nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu. Về đầu tư, cần ưu tiên cho các công trình thủy lợi ở các vùng lúa xuất khẩu để thực hiện. Cơ cấu lại giống lúa theo hướng nâng cao chất lương để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu Tăng cường đầu tư trại giống cấp tính để sản xuất đầu dòng, cung cấp cho các điểm trình diễn, câu lạc bộ, các tổ chức nhân giống sau đó cung ứng đến mọi tổ chức, cá nhân, hộ nông dân sản xuất kinh doanh giống thương phẩm đại trà thành một mạng lưới rộng rãi, được phép mua bán, trao đổi trực tiếp với nông dân, tạo thị trường giống sôi động, đều khắp. Dùng kinh phí khuyến nông để mở nhiều đợt tập huấn, hội thảo, tham quan, trình diễn, chuyển giao kĩ thuật…nhằm phổ cập và nâng cao kiến thức về giống cho nông dân: dùng các phương tiện thông tin đại chúng kết hợp với các tổ chức, hợp tác xã, hộ nông dân và các tổ chức quần chúng để tuyên truyền, vận động người dân chuyển đổi cơ cấu giống lúa. Có cơ chế chính sách về quản lý, sản xuất lúa giống, khuyến khích mọi thành phấn kinh tế trong nước và liên doanh với nước ngoài được phép sản xuất và kinh doanh giống lúa, có đăng kí và chịu sự quản lý của nhà nước như miễn giảm thuế, trợ giá giống gốc, hợp tác quốc tế xuất nhập khẩu giống. Hình thành mạng lưới thu gom, vận chuyển lúa gạo xuất khẩu theo hợp đồng Xây dựng mới các cơ sở chế biến lúa gạo xuất khẩu tại các vùng sản xuất lúa hàng hóa phục vụ xuất khẩu gạo theo quy hoạch. Tiến tới hình thành mạng lưới thu gom lúa hàng hóa theo mô hình hợp tác xã hoặc tổ hợp tác thu mua lúa thống nhất giữa các địa phương theo phương thức hợp đồng kinh tế và giá cả hợp lý. Giải quyết thỏa đáng quan hệ giữa Nhà nước, nông dân và các doanh nghiệp xuất khẩu gạo trong phân phối lợi nhuận theo hướng quan tâm nhiều hơn đối với người trồng lúa. Nâng cấp, hiện đại hóa các cơ sở chế biến, đánh bóng gạo xuất khẩu hiện có đồng thời xây dựng các cơ sở mới cần thiết theo quy hoạch. Đầu tư vốn ngân sách để nâng cấp hệ thống kho tàng, cơ sở phơi sấy, đường sá, bến cảng, nhất là cảng Cần Thơ nhằm phục vụ đắc lực và hiệu quả xuất khẩu gạo. Nâng cao kĩ thuật canh tác Cần cử cán bộ chuyên môn xuống cấp xã để truyền đạt kĩ thuật. Hướng dẫn canh tác cho các hộ nông dân trồng lúa xuất khẩu theo quy trình đã biên soạn trước cho từng loại giống. Các quy trình này thông qua hoạt động thực tiễn phải được thường xuyên nâng cao cho phù hợp. Đầu tư cho khoa học công nghệ và cơ sở hạ tầng cho sản xuất và xuất khẩu gạo Xuất phát từ tình trạng sản xuất và xuất khẩu gạo như hiện nay, điều thiết yếu là cần nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu. Chất lượng gạo xuất khẩu liên quan đến các khâu sản xuất, bảo quản, vận chuyển, vì vậy việc đầu tư khoa học công nghệ, cơ sở hạ tầng phải được thực hiện đồng bộ. Trong sản xuất: Đầu tư vốn cho công tác nghiên cứu khoa học công nghệ, ứng dụng vào sản xuất đặc biệt là nghiên cứu các giống lúa mới phục vụ xuất khẩu và các phương thức canh tác mới theo hướng cơ giới hóa trong sản xuất. Tiếp tục củng cố, nâng cao hiệu quả mạng lưới khuyến nông, biến nó thành cầu nối để chuyển giao khoa học kĩ thuật và công nghệ mới vào sản xuất nông nghiệp. Đẩy mạnh việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ kĩ thuật, cán bộ khuyến nông cũng như cho nông dân về các kĩ thuật canh tác mới. Cung cấp đầy đủ, kịp thời các thông tin về thị trường, giá cả… để các doanh nghiệp cũng như người dân có những thay đổi phù hợp với các thông tin đó. Các khâu sau thu hoạch: đây là một trong nhũng khâu quan trọng nhất trong việc quyết định chất lượng hạt gạo. Vì vậy, cần đầu tư các trang thiết bị, máy móc hiện đại phục vụ cho các khâu này. Hoàn thiện môi trường đầu tư trong sản xuất và xuất khẩu gạo Nhà nước cần đổi mới một số cơ chế, chính sách nhằm phục vụ có hiệu quả hoạt động sản xuất và xuất khẩu lúa gạo. Ví dụ hiện nay chính sách tín dụng vẫn chưa thực sự tạo điều kiện cho việc xuất khẩu, khả năng tiếp cận các nguồn vốn tín dụng ngân hàng của nông dân, doanh nghiệp còn nhiều hạn chế. Và để chính sách tín dụng tạo điều kiện tốt cho việc xuất khẩu thì nhà nước nên đề cập đến các vấn đề sau: Thứ nhất, nhu cầu vay vốn sản xuất của nông dân hiện nay đòi hỏi các ngân hàng cần cải tiến thủ tục cho vay, đồng thời nâng cao nghiệp vụ của cán bộ cơ sở Thứ hai, mở rộng kịp thời mạng lưới qũy tín dụng nhân dân trên toàn địa bàn nông thôn nhằm tăng khả năng cung ứng vốn nhanh chóng, đồng thời giám sát được mục đích vay và đảm bảo tốt khả năng hoàn trả Thứ ba, tăng cường hình thức tín dụng tín chấp thông qua các tổ chức liên gia có sự tổ chức của các hội nông dân, hội phụ nữ mà không cần thế chấp song khả năng hoàn trả vẫn được đảm bảo chắc chắn Thứ tư, chú ý mở rộng hình thức tín dụng thương mại cho nông dân vay qua các doanh nghiệp xuất khẩu gạo. Các doanh nghiệp này vay tiền của ngân hàng thương mại rồi nhập vật tư ứng trước cho nông dân. Đến vụ tu hoạch doanh nghiệp thu lại tiền cho vay bằng thóc Thứ năm, để tăng cường hơn nữa nguồn vốn vay đến nông dân, Nhà nước cần ban hành quy chế buộc các ngân hàng thương mại cũng dành một phần vốn vay cho nông nghiệp 3.3.2 Về phía doanh nghiệp kinh doanh gạo xuất khẩu Nâng cao năng lực cạnh tranh trong và ngoài nước Việc gia nhập WTO tạo ra không ít thách thức cho các doanh nghiệp xuất khẩu gạo Việt Nam. Chính vì lẽ đó trong thời gian tới các doanh nghiệp cần chú trọng tới việc đa dạng hóa chủng loại hàng để xâm nhập vào nhiều loại thị trường hơn. Đồng thời, cần nâng cao chất lượng gạo nhằm đáp ứng được thị hiếu người tiêu dùng ở các quốc gia khó tính. Cần có sự đầu tư thích đáng đối với các máy móc thiết bị Với các máy móc, thiết bị hiện đại các doanh nghiệp xuất khẩu gạo sẽ tạo ra sản phẩm đạt chất lượng cao ở tất cả các khâu như sau thu hoạch, chế biến, đóng gói bao bì, chuyên chở tới nơi xuất hàng Với giải pháp này sẽ khắc phục được lý do làm cho chất lượng gạo của Việt Nam thấp hơn các nước khác đó là cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ chế biến, bảo quản lúa gạo xuất khẩu còn yếu kém lại phân bổ không đồng đều Đẩy mạnh hoạt động tiếp thị mở rộng thị trường xuất khẩu Một trong những nguyên nhân gây nên sự yếu kém đối với thị trường gạo xuất khẩu của Việt Nam là chưa thiết lập được hệ thống thị trường và bạn hàng đáng tin cậy vì vậy các doanh nghiệp cần phải: Các doanh nghiệp phải chú trọng nghiên cứu kĩ nhu cầu của các loại thị trường để xác định rõ nhu cầu về số lượng, chất lượng, phương thức thanh toán, từ đó tìm kiếm bạn hàng tin cậy, có uy tín để cùng hợp tác. Cần giữ vững các thị trường quen thuộc và truyền thống như: Inđônêxia, Cuba, Malaixia đồng thời mở rộng ra các thị trường mới nhất là các nước châu Phi, đây là thị trường có nhu cầu nhập khẩu lớn các loại gạo có phẩm cấp thấp, giá rẻ mà Việt Nam có thể dễ dàng đáp ứng. Để thực hiện được mục tiêu này các doanh nghiệp cần phải tạo và giữ uy tín của mình thông qua việc nghiêm chỉnh thực hiện các hợp đồng đã kí kết đúng hạn, đúng số lượng. Chú trọng công tác nghiên cứu thị trường và khuyếch trương, quảng bá sản phẩm mở rộng thị trường xuất khẩu, vươn tới những thị trường mới, triển vọng Các doanh nghiệp cần có sự liên kết trong việc tìm hiểu các thông tin thị trường, tình hình cung, cầu, cạnh tranh. Thành lập các tổ chức thông tin, có hệ thống khai thác nguồn thông tin cơ sở, có phương pháp và nhân lực xử lý thông tin nhanh nhạy, kịp thời Xây dựng thương hiệu gạo Việt Nam lớn mạnh, tạo uy tín trên trường quốc tế Đây là một vấn đề rất khó khăn với các doanh nghiệp xuất khẩu gạo Việt Nam. Các doanh nghiệp cần đẩy mạnh quảng bá thương hiệu ra thị trường nước ngoài như tham gia các hội chợ triển lãm quốc tế, thông qua các hoạt động du lịch… nhằm tạo ra hình ảnh gạo Việt Nam trong mắt người tiêu dùng quốc tế, trên cơ sở đó thâm nhập sâu hơn vào thị trường hiện có và mở rộng ra thị trường mới. Các doanh nghiệp xuất khẩu gạo cần phải gắn kết nhau, hỗ trợ nhau và khẳng định uy tín của mình không những bằng sản phẩm chất lượng cao, mà còn bằng cả hình ảnh đáng tin cậy. 3.3.3 Về phía người sản xuất gạo xuất khẩu Tổ chức thành lập các hợp tác xã, hiệp hội để giúp đỡ nhau trong các khâu sản xuất, trao đổi các thông tin thị trường hữu ích, nhận được các ưu đãi từ các dịch vụ khuyến nông, tư vấn về quản lý, thương mại. Các thành viên của hợp tác xã, hiệp hội còn có thể mua được các vật liệu giá rẻ, giảm được giá thành sản xuất, đảm bảo chất lượng ổn định đồng nhất. Với giải pháp này phần nào khắc phục được đặc tính phân tán, tự phát, quy mô nhỏ lẻ của các hộ nông dân trong sản xuất và tiêu thụ lúa gạo. Người nông dân cũng cần phải thay đổi tư duy nhận thức về sản xuất lúa gạo Trước đây khi chưa tham gia vào thị trường quốc tế, thì việc sản xuất lúa gạo của nông dân chỉ để đáp ứng tiêu dùng trong nước nên giá trị kinh tế của sản xuất lúa gạo không cao so với từ khi tham gia thị trường quốc tế. Vì vậy người nông dân cần thay đổi căn bản nhận thức về tập quán canh tác, sản xuất và tạo ra những sản phẩm có giá trị kinh tế cao, nhằm cải thiện đời sống. Bên cạnh đó người dân phải thường xuyên tìm hiểu các kiến thức về các giống lúa mới có năng suất cao chất lượng tốt, các kĩ thuật canh tác từ lúc gieo mạ cho đến lúc thu hoạch để từ đó áp dụng cho sản xuất nhằm đạt được lợi nhuận tối đa. Người dân cần phải học hỏi và áp dụng triệt để các tiến bộ khoa học kĩ thuật vào đồng ruộng. Đầu tiên là khâu chọn giống, phải là giống chất lượng cao. Đồng thời áp dụng quy trình bón phân cân đối, sử dụng thuốc trừ sâu hợp lý để cho năng suất cao. KẾT LUẬN Sản xuất và xuất khẩu gạo là lĩnh vực có vị trí đặc biệt trong đời sống kinh tế thế giới, nhất là đối với các quốc gia đang phát triển có lợi thế xuất khẩu gạo. Với Việt Nam gạo là một sản phẩm quan trọng, gạo không chỉ đóng vai trò trong việc đáp ứng nhu cầu tiêu dùng lương thực hàng ngày của dân Việt Nam mà còn là mặt hàng có giá trị xuất khẩu. Nhờ có các điều kiện về tự nhiên, về lao động và điều kiện về thể chế chính sách thuận lợi mà hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam được phát triển và mở rộng. Từ một nước lạc hậu, thiếu đói, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai thế giới. Điều này đem lại vai trò rất lớn đối với nền kinh tế Việt Nam. Hoạt động xuất khẩu gạo không những đóng góp vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển mà còn có tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống nhân dân. Mặc dù hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam bị ảnh hưởng bởi rất nhiều nhân tố như: thị trường, cơ sở vật chất kĩ thuật và công nghệ của sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, các chính sách kinh tế vĩ mô của chính phủ nhưng Việt Nam đã đạt được những thành tựu rất lớn trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là từ khi gia nhập WTO. Tổng sản lượng, kim ngạch xuất khẩu và giá cả gia tăng, chất lượng gạo xuất khẩu ngày càng được cải thiện, thị trường xuất khẩu được mở rộng. Tuy gặt hái được nhiều thành tựu quan trọng, nhưng xuất khẩu gạo Việt Nam hiện giờ vẫn còn nhiều yếu kém: chất lượng và giá cả xuất khẩu còn thiếu sức cạnh tranh, thị trường xuất khẩu chưa thực sự ổn định. Cùng với xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, mức độ cạnh tranh trên thị trường gạo ngày càng gay gắt, xuất khẩu gạo cũng ngày càng gặp nhiều khó khăn. Sẽ xuất hiện thêm nhiều rào cản thương mại cũng như các hình thức bảo hộ nông nghiệp mới tinh vi và phức tạp hơn, núp dưới hình thức là hàng rào kĩ thuật các đòi hỏi vệ sinh, các điều kiện lao động, các chỉ tiêu môi trường ...Thêm vào đó, sự hỗ trợ từ phía nhà nước đã bị xóa bỏ trong khi sức cạnh tranh của gạo lại chưa đủ mạnh. Để giải quyết vấn đề này, chúng ta cần kết hợp thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ, phải bắt đầu từ sự chuyển biến về chất trong sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam. Nâng cao năng lực cạnh tranh và xây dựng một thương hiệu gạo trên thị trường thế giới là những việc làm cấp bách trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, đặc biệt khi Việt Nam là thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới WTO. TÀI LIỆU THAM KHẢO Nguyễn Sinh Cúc (2004), “Xuất khẩu gạo, một thành tựu nổi bật của nước ta”, Tạp chí cộng sản 8/2004. 2. Nguyễn Sinh Cúc (2007), “Sản xuất và xuất khẩu gạo ở nước ta”, Tạp chí cộng sản số 15 (135). 3. Ngọc Dương, Anh Phương (2007), “Xuất khẩu đạt kết quả ngoạn mục”, Kinhtế 2006-2007, Việt Nam và thế giới, tr 14-17. 4. Thanh Hải, Duy Hiếu (2000), “Sản xuất và xuất khẩu gạo trong thời gian qua”, Báo Thương mại số 4/2000. 5. Nguyễn Đình Long (2007), Hiệp hội ngành hàng nông sản xuất khẩu ở ViệtNam, NXB nông nghiệp, Hà Nội. 6. Thúy Nga (2000), “Mậu dịch gạo thế giới thời gian gần đây và triển vọng”, Báo Thương mại số 4/2000. 7 Vũ Hùng Phương ( 2004), “Xuất khẩu gạo Việt Nam, thực trạng và giải pháp”, Tạp chí kinh tế và dự báo số 4/ 2004 (372). 8. Phạm Hà Sơn ( 2004), “Việt Nam gia nhập WTO cơ hội và thách thức”, Lao động và công đoàn tr 8-9,26. 9. Phạm Công Tú (1998), Triển vọng thị trường hàng nông sản thế giới và khả năng xuất khẩu ở Việt Nam đến năm 2010, Đề tài nghiên cứu, TT thông tin Khoa học công nghệ thành phố Hồ Chí Minh. 10. Quang Thuần (2008), “Khan hiếm gạo xuất khẩu”, Thanh niên số 26 (4417) ngày 26/1/2008. 11. Nguyễn Văn Trung (2006), Phát triển sản xuất lúa và những giải pháp chủyếu để đẩy mạnh xuất khẩu gạo ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ đại học kinh tế quốc dân, Hà Nội. 12. Nguyễn Trung Văn ( 2001), Lúa gạo Việt Nam trước thiên niên kỉ mới hướng xuất khẩu, NXB chính trị quốc gia. 13. Mai Thị Thanh Xuân (2006), “Xuất khẩu gạo của Việt Nam giai đoạn 1989-2006: thực trạng và giải pháp”, Tạp chí nghiên cứu Châu Phi và Trung Đông, số 8/2006. 14. 15. 16. 17. 18. 19. 20. 21. 22. 23. 24. 25.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxBÁO CÁO TỐT NGHIỆP THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU GẠO CỦA VIỆT NAM TỪ NĂM 2001 ĐẾN NAY.docx
Tài liệu liên quan