Đề tài Thực trạng stress nghề nghiệp của điều dưỡng lâm sàng đang học hệ cử nhân vừa làm vừa học tại Trường Đại học Thăng Long và Đại học Thành Tây – Trần Thị Ngọc Mai

Tài liệu Đề tài Thực trạng stress nghề nghiệp của điều dưỡng lâm sàng đang học hệ cử nhân vừa làm vừa học tại Trường Đại học Thăng Long và Đại học Thành Tây – Trần Thị Ngọc Mai: Y HỌC THỰC HÀNH (914) - SỐ 4/2014 110 0,56 – 0,93 và p=0,01], mà các nghiên cứu trước đây chưa ghi nhận. * Những yếu tố liên quan góp phần vào kết quả điều trị lâu dài giữa 2 nhóm Hở van 3 lá thực thể liên quan đến việc tăng nguy cơ hở van 3 lá (>2) và tăng NYHA 1 độ sau thời gian theo dừi trờn 10 năm và kết quả phân tầng theo nhóm tạo hỡnh khụng vũng van và tạo hỡnh cú đặt vũng van thỡ ghi nhận nhóm tạo hỡnh khụng vũng cú nguy cơ tăng hở van 3 lá (>2) là 1,95 lần với HR=1,95 (p<0,001), tăng NYHA 1 độ là 1,98 lần với HR=1,98 (p<0,001). Tương tự, đường kính thất phải (VD) lớn (>35mm) trước phẫu thuật làm gia tăng nguy cơ hở van 3 lá (>2) là 1,6 lần với HR=1,6 (p=0,03), tăng NYHA 1 độ là 1,7 lần với HR=1,7 (p=0,02). Mức độ hở van 3 lá (3&4) chỉ có liên quan đến nguy cơ tăng NYHA 1 độ là 1,64 lần với HR=1,64 (p=0,03). Kết quả của chúng tôi ghi nhận được nhiều yếu tố hơn tác giả Sung Ho Shinn, chỉ ghi nhận độ hở van 3 lá trước phẫu...

pdf6 trang | Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 12/07/2023 | Lượt xem: 356 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Thực trạng stress nghề nghiệp của điều dưỡng lâm sàng đang học hệ cử nhân vừa làm vừa học tại Trường Đại học Thăng Long và Đại học Thành Tây – Trần Thị Ngọc Mai, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y HỌC THỰC HÀNH (914) - SỐ 4/2014 110 0,56 – 0,93 và p=0,01], mà các nghiên cứu trước đây chưa ghi nhận. * Những yếu tố liên quan góp phần vào kết quả điều trị lâu dài giữa 2 nhóm Hở van 3 lá thực thể liên quan đến việc tăng nguy cơ hở van 3 lá (>2) và tăng NYHA 1 độ sau thời gian theo dừi trờn 10 năm và kết quả phân tầng theo nhóm tạo hỡnh khụng vũng van và tạo hỡnh cú đặt vũng van thỡ ghi nhận nhóm tạo hỡnh khụng vũng cú nguy cơ tăng hở van 3 lá (>2) là 1,95 lần với HR=1,95 (p<0,001), tăng NYHA 1 độ là 1,98 lần với HR=1,98 (p<0,001). Tương tự, đường kính thất phải (VD) lớn (>35mm) trước phẫu thuật làm gia tăng nguy cơ hở van 3 lá (>2) là 1,6 lần với HR=1,6 (p=0,03), tăng NYHA 1 độ là 1,7 lần với HR=1,7 (p=0,02). Mức độ hở van 3 lá (3&4) chỉ có liên quan đến nguy cơ tăng NYHA 1 độ là 1,64 lần với HR=1,64 (p=0,03). Kết quả của chúng tôi ghi nhận được nhiều yếu tố hơn tác giả Sung Ho Shinn, chỉ ghi nhận độ hở van 3 lá trước phẫu thuật (trên 3) có liên quan đến kết quả điều trị lâu dài giữa 2 nhóm với HR=2,21, p=0,021. KẾT LUẬN Kết quả điều trị lâu dài của nhóm bệnh nhân được phẫu thuật tạo hỡnh van ba lỏ kốm đặt vũng van tốt hơn so với nhóm bệnh nhân được tạo hỡnh không đặt vũng van. Khuyến cáo nên sử dụng kỹ thuật đặt vũng van cho cỏc bệnh nhân có : rung nhĩ, hở van ba lá thực thể, mức độ hở van ba lá mức độ vừa-nặng ( > 2), đường kính thất phải lớn (>35mm), NYHA >2 trước phẫu thuật để đảm bảo kết quả điều trị tốt về lâu dài (trên 10 năm). TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Antunes MJ, Barlow JB, “Management of tricuspid valve regurgitation”, Heart 2007, 93 (2), pp. 271 - 276. 2. Chang BC et al, Long-term clinical results of tricuspid valve replacement. Ann Thorac Surg,2006; 81(4):1317-23. 3. Groves P et al., “Surgery of valve disease: late results and late complications”, Heart 2001, 86 (6), pp. 715 - 721. 4. Groves PH, Hall RJ, “Late tricuspid regurgitation following mitral valve surgery”, J Heart Valve Dis 1992, 1 (1), pp. 80 - 86. 5. Kim JB, Jung SH, Choo SJ, Chung CH, Lee JW. Surgical outcomes of severe tricuspid regurgitation: predictors of adverse clinical outcomes, Heart. 2013 Feb;99(3):181-7. 6. Matsuyama K, Matsumoto M, Sugita T, Nishizawa J, Tokuda Y, Matsuo T et al. De Vega annuloplasty and Carpentier-Edwards ring annuloplasty for secondary tricuspid regurgitation. J Heart Valve Dis 2001;10:520–4. 7. Maziar Khorsandi, Amit Banerjee, Harpreet Singhand Aseem R. Srivastava, Is a tricuspid annuloplasty ring significantly better than a De Vega’s annuloplasty stitch when repairing severe tricuspid regurgitation?, Interactive CardioVascular and Thoracic Surgery 15 (2012) 129–135. 8. McCarthy J, Cosgrove DM III, “Tricuspid valve repair with the Cosgrove-Edwards annuloplasty system”, Ann Thorac Surg 1997, 64 (1), pp. 267 - 268. 9. McCarthy PM, Bhudia SK, Rajeswaran J, Hoercher KJ, Lytle BW,Cosgrove DM, Blackstone EH. Tricuspid valve repair: durability and risk factors for failure. J Thorac Cardiovasc Surg. 2004;127:674 –685. 10. Shamin RJ et all, “Tricuspid valve disease”, Cardiac surgery in the adults, McGraw-Hill, New York, 2003, pp. 1001 - 1015. THỰC TRẠNG STRESS NGHỀ NGHIỆP CỦA ĐIỀU DƯỠNG LÂM SÀNG ĐANG HỌC HỆ CỬ NHÂN VỪA LÀM VỪA HỌC TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC THĂNG LONG VÀ ĐẠI HỌC THÀNH TÂY TRẦN THỊ NGỌC MAI Trường Đại học Thăng Long, Bệnh viện Bộ Xây dựng NGUYỄN HỮU HÙNG, TRẦN THỊ THANH HƯƠNG Trường Đại học Y Hà Nội TÓM TẮT Đặt vấn đề: Điều dưỡng hàng ngày, hàng giờ phải làm việc với cường độ rất cao, khối lượng công việc nhiều, luôn phải đối mặt với những tình huống cấp cứu chấn thương nặng. Rất ít nghiên cứu của Việt Nam tìm hiểu về stress của nhóm đối tượng này. Mục tiêu: (1) Mô tả thực trạng stress nghề nghiệp của điều dưỡng lâm sàng đang học hệ cử nhân vừa làm vừa học tại trường Đại học Thăng Long và Thành Tây. (2) Mô tả một số yếu tố liên quan tới stress của điều dưỡng nêu trên. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang, sử dụng thang đo Stress trên điều dưỡng (NSS) (Nursing stress scale) được tiến hành trên 299 điều dưỡng lâm sàng đang theo học hệ cử nhân vừa làm vừa học của trường Đại học Thăng Long và Đại học Thành Tây. Kết quả: Nhóm tác nhân gây stress thường xuyên nhất và mức độ cao nhất đối với điều dưỡng là các nhóm liên quan đến: (1) Chứng kiến cái chết và sự chịu đựng đau đớn của bệnh nhân với mức độ gây stress là 1,64, tần suất 0,83, (2) Khối lượng công việc lớn với mức độ gây stress là 1,42 tần suất 0,99. Các điều dưỡng làm việc ở khoa Hồi sức cấp cứu có tần suất mắc stress cao hơn điều dưỡng làm ở các khoa khác với điểm đánh giá trung bình là 52,2. Kết luận: Bệnh viện cũng như các nhân viên điều dưỡng cần chú ý hơn đến các tác nhân gây stress cho điều dưỡng để có thể nâng cao hiệu suất công việc cũng như làm hạn chế xảy ra rủi ro khi chăm sóc bệnh nhân. Từ khóa: Stress nghề nghiệp, điều dưỡng lâm sàng, NSS. Y HỌC THỰC HÀNH (914) - SỐ 4/2014 111 SUMMARY STRESS IN CLINICAL NURSES STUDYING AT THANG LONG AND THANH TAY UNIVERSITY Background: There were limited study on stress in clinical nurses in Vietnam. Objectives: (1) To investigate stress in clinical nurses who studying at ThangLong and ThanhDo University (2) To identify some factors related to stress in nurses. Methods: Cross-sectional survey was applied in 299 clinical nurses who were studying nursing degree at Thang Long University and Thanh Tay University by using NSS (Nursing Stress Scale) questionnaire. Results: The most prevalent groups of causes of stress (stressors) are: (i) death and dying, (ii) physicians and superior nurses, (iii) workload. Conclusion: Intervention stressor for nurse is important in supporting nurses to perform their jobs efficiently and safely. Keywords: Occupational stress, clinical nurses, NSS. ĐẶT VẤN ĐỀ Stress nghề nghiệp là vấn đề của mọi thời đại và được coi là một tiêu điểm của các nhà nghiên cứu hiện nay. Nghề Y là một nghề đặc biệt, do đối tượng trực tiếp là con người, đồng thời đây cũng nghề tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây stress, trong đó phải kể tới người làm công tác điều dưỡng (ĐD). Hans Selye (nhà sinh lý học người Canada) đã sử dụng thuật ngữ stress để mô tả hội chứng của quá trình thích nghi với mọi loại bệnh tật và đã đưa ra định nghĩa: “Stress là một phản ứng sinh học không đặc hiệu của cơ thể trước những tình huống căng thẳng”. [1] Qua nghiên cứu 464 ĐD tại 13 bệnh viện ở Jordani, nhóm tác giả S,H, Hamaideh RN, và cộng sự kết quả chỉ ra: tình trạng quá tải và việc phải đối mặt với các vấn đề liên quan đến tử vong của bệnh nhân trong quá trình làm việc là những nguyên nhân căn bản dẫn đến áp lực căng thẳng trong công việc của người điều dưỡng [2]. Nghiên cứu của tác giả Hiromi Fukuda, năm 2006 chỉ ra rằng có rất nhiều nhân tố dẫn đến áp lực căng thẳng trong công việc của điều dưỡng, trong đó yếu tố đối mặt với sự tử vong của các bệnh nhân chiếm tỷ lệ cao nhất (117 người trong tổng số 118 người được điều tra) [3]. Qua nghiên cứu của Đặng Trần Ngọc Thanh và cộng sự tại 7 khoa cấp cứu của 7 bệnh viện đa khoa cấp tỉnh ở thành phố HCM, năm 2008 kết quả chỉ ra: sự mâu thuẫn nơi làm việc, công việc quá tải là những yếu tố gây chán nản trong công việc của ĐD [4]. Stress không những ảnh hưởng đến sức khỏe của nhân viên ĐD mà còn làm giảm sự tập trung chú ý trong công việc, dễ gây ra tình trạng sai sót làm nguy hại đến tính mạng người bệnh. Hiện nay ở Việt Nam việc nghiên cứu các yếu tố gây stress của ĐD còn hạn chế đặc biệt là ĐD đang học hệ cử nhân vừa làm vừa học. Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài này với mục tiêu: Mô tả thực trạng stress nghề nghiệp của điều dưỡng lâm sàng đang học hệ cử nhân vừa làm vừa học tại trường Đại học Thăng Long và Thành Tây, năm 2013. Mô tả một số yếu tố liên quan tới stress của điều dưỡng nêu trên. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Đối tượng nghiên cứu Các điều dưỡng lâm sàng đang học tại trường đại học Thăng Long và Thành Tây. * Tiêu chuẩn lựa chọn: - Là điều dưỡng đang học hệ cử nhân vừa làm vừa học tại hai trường đại học trên. - Là điều dưỡng lâm sàng, hiện đang làm việc tại các khoa lâm sàng tại các bệnh viện. - Đồng ý tham gia nghiên cứu. * Tiêu chuẩn loại trừ: - Không phải là điều dưỡng lâm sàng. - Không phải đang học lớp cử nhân điều dưỡng hệ vừa làm vừa học tại hai trường đại học nêu trên. - Không đồng ý tham gia nghiên cứu. 2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu - Từ tháng 11/2012 đến tháng 11/2013. - Tại trường Đại học Thăng Long và Thành Tây. 3. Thiết kế nghiên cứu: Phương pháp mô tả cắt ngang, sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng. 4. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu - Cỡ mẫu: Áp dụng công thức tính cỡ mẫu cho một nghiên cứu mô tả, kết quả là 300 điều dưỡng. - Cách chọn mẫu: Sử dụng phương pháp chọn mẫu thuận tiện. Trong quá trình thu thập và xử lý số liệu, các thông tin cá nhân của đối tượng tham gia nghiên cứu được giữ bí mật. 5. Công cụ nghiên cứu 5.1. Thang đo Stress trên đối tượng điều dưỡng - NSS Thang đo gồm 35 câu hỏi là các tác nhân gây stress thường gặp nhất trong công việc của điều dưỡng, người tham gia điều tra được yêu cầu đánh giá tần suất gây ra stress và mức độ stress theo thang điểm tần suất: 0 (không bao giờ), 1 (thi thoảng), 2 (thường xuyên); và thang điểm mức độ: 0 (không stress), 1 (stress nhẹ), 2 (stress vừa), 3 (stress nhiều), 4 (stress rất nhiều). 35 câu này được chia thành 07 nhóm các tác nhân có đặc điểm tương đồng liên quan đến: (1) nhóm tác nhân liên quan đến cái chết và sự chịu đựng của bệnh nhân, (2) sự bất đồng với bác sĩ, (3) thiếu kiến thức và sự chuẩn bị tâm lý của điều dưỡng, (4) mối quan hệ trong công việc, (5) sự bất đồng với ĐD cấp trên, (6) khối lượng công việc, (7) nhóm tác nhân liên quan đến việc điều trị bệnh nhân. Thang đo NSS đã được rất nhiều nghiên cứu trên thế giới áp dụng cho thấy tính giá trị và độ tin cậy rất cao. 5.2. Xây dựng bộ câu hỏi điều tra Do thang đo này chưa được chuẩn hóa tại Việt Nam nên chúng tôi đã tiến hành thử nghiệm và đánh giá tính giá trị của thang đo theo các bước như sau: + Bước 1: Dịch thang đo từ tiếng Anh sang tiếng Việt, sau đó xin ý kiến của chuyên gia và các điều dưỡng chuyên ngành khác nhau để Việt hóa bộ công cụ. Y HỌC THỰC HÀNH (914) - SỐ 4/2014 112 + Bước 2: Thử nghiệm bộ công cụ trên 30 điều dưỡng lâm sàng, hiện đang công tác tại các khoa khác nhau tại Hà Nội. Các điều dưỡng điền vào bộ công cụ theo 2 lần, mỗi lần cách nhau 1 tuần. + Bước 3: Tính toán tính giá trị của bộ công cụ, đồng thời xin ý kiến chuyên gia về xã hội học, y học, y tế công cộng và chỉnh sửa bộ công cụ lần cuối trước khi tiến hành nghiên cứu chính thức * Phân tích và xử lý số liệu Nhập số liệu bằng phần mềm Epidata 3.1, số liệu được nhập 2 lần sau đó 2 bản ghi sẽ được so sánh với nhau nhằm loại bỏ sai sót. Phân tích số liệu bằng phần mềm STATA 12.0. KẾT QUẢ Tổng số ĐD tham gia nghiên cứu là 299, trong đó nữ giới chiếm đa số (78,9%), chỉ có 21,1% là nam. 1. Thực trạng stress nghề nghiệp của đối tượng nghiên cứu Bảng 1. Nhóm các tác nhân gây stress liên quan đến chứng kiến cái chết, sự chịu đựng đau đớn của người bệnh Các tác nhân Mức độ stress Tần suất stress Giá trị trung bình (Độ lệnh chuẩn) Giá trị trung bình (Độ lệnh chuẩn) 1. Chứng kiến cái chết của người bệnh 2,37 (1,69) 0,83 (0,53) 2. Nhìn thấy sự chịu đựng của người bệnh 2,05 (1,09) 1,56 (0,57) 3. Thực hiện các quy trình, thủ thuật làm bệnh nhân phải đau đớn 1,99 (1,28) 1,13 (0,61) 4. Cảm giác bất lực khi thấy tình trạng của bệnh nhân không được cải thiện 1,85 (1,00) 0,99 (0,39) 5. Bác sỹ đã không có mặt khi người bệnh chết 1,39 (1,66) 0,40 (0,50) 6. Cái chết của người bệnh mà Anh/Chị đã có mối quan hệ thân thiện với họ 1,13 (1,29) 0,53 (0,51) 7. Phải nghe hoặc nói với người bệnh về khả năng người bệnh sẽ chết 0,69 (1,15) 0,36 (0,56) Nhận xét: Bảng 2 cho thấy: Việc chứng kiến cái chết của bệnh nhân gây ra căng thẳng nhất (2,37) trong nhóm các tác nhân.Các tác nhân khác cũng có mức độ và tần suất cao như: Nhìn thấy sự chịu đựng đau đớn của bệnh nhân (mức độ 2,05; tần suất 1,56). Thực hiện các quy trình, thủ thuật làm bệnh nhân phải đau đớn (mức độ 1,99; tần suất 1,13). Cảm giác bất lực khi thấy tình trạng của bệnh nhân không được cải thiện (mức độ 1,85; tần suất 0,99). Tác nhân có khả năng tạo áp lực căng thẳng thấp nhất của nhóm là: Phải nghe hoặc nói với người bệnh về khả năng người bệnh sẽ chết (mức độ 0,69). Bảng 2. Nhóm các tác nhân gây stress liên quan đến sự bất đồng với bác sĩ Các tác nhân Mức độ stress Tần suất stress Giá trị trung bình (Độ lệnh chuẩn) Giá trị trung bình (Độ lệnh chuẩn) 1. Bất đồng với bác sỹ 1,31 (0,99) 0,82 (0,47) 2. Bị chỉ trích bởi bác sỹ 1,21 (1,02) 0,73 (0,49) 3. Bất đồng liên quan tới chăm sóc, điều trị người bệnh 1,17 (0,93) 0,81 (0,45) 4. Đã có những quyết định liên quan tới người bệnh khi bác sỹ không có mặt 1,05 (0,90) 0,89 (0,45) Nhận xét: Vấn đề bất đồng ý kiến giữa bác sĩ điều trị với các điều dưỡng tham gia nghiên cứu ở mức độ nhẹ (mức độ tối đa 1,31 <4) và ở tần suất thấp (tần suất tối đa 0,89 <2) (bảng 2). - Với nhóm các tác nhân gây stress liên quan đến thiếu chuẩn bị kiến thức, hay do tâm lý ĐD được thể hiện với mức độ nhẹ, tần suất thường gặp thấp. Cao nhất là cảm thấy trang bị kiến thức, kĩ năng để hỗ trợ cho gia đình người bệnh chưa đầy đủ với mức độ stress đạt giá trị trung bình là 1,03 và tần suất thường gặp là 0,82. Bảng 3. Nhóm các tác nhân gây stress liên quan đến mối quan hệ trong công việc Các tác nhân Mức độ stress Tần suất stress Giá trị TB (Độ lệnh chuẩn) Giá trị TB (Độ lệnh chuẩn) 1. Thiếu cơ hội để nói chuyện cởi mở với lãnh đạo về các vấn đề của Khoa 1,57 (1,22) 0,96 (0,60) 2. Khó khăn khi làm việc với điều dưỡng khác ngoài khoa 1,13 (0,90) 0,78 (0,47) 3. Thiếu cơ hội để chia sẻ kinh nghiệm và chia sẻ cảm xúc với đồng nghiệp 0,89 (0,83) 0,74 (0,52) 4. Khó khăn khi làm việc với điều dưỡng khác trong khoa 0,86 (0,83) 0,72 (0,51) 5. Thiếu cơ hội để bày tỏ với đồng nghiệp trong khoa về cảm giác tiêu cực về người bệnh 0,85 (0,85) 0,65 (0,53) Nhận xét: Với nhóm các tác nhân gây stress liên quan đến mối quan hệ trong công việc thì: - “Thiếu cơ hội để nói chuyện cởi mở với lãnh đạo về các vấn đề của Khoa” là tác nhân nổi bật nhất trong nhóm với mức độ gây stress 1,57 và tần suất stress 0,96 (ở mức trung bình). - “Thiếu cơ hội để bày tỏ với đồng nghiệp trong khoa về cảm giác tiêu cực của người bệnh” là tác nhân có mức độ gây stress thấp nhất của nhóm (mức độ 0,85; tần suất 0,65). - Với nhóm các tác nhân gây stress liên quan đến sự bất đồng với điều dưỡng cấp trên thì: ‘Bất đồng với y tá trưởng/ cấp trên/người giám sát’ và ‘Bị y tá trưởng/cấp trên phê bình/chỉ trích’ có mức Y HỌC THỰC HÀNH (914) - SỐ 4/2014 113 độ và tần suất gần bằng nhau (mức 1,56; tần suất 0,79) và (mức 1,51; tần suất 0,86). Bảng 4. Nhóm các tác nhân gây stress liên quan đến khối lượng công việc Các tác nhân Mức độ stress Tần suất stress Giá trị TB (Độ lệnh chuẩn) Giá trị TB (Độ lệnh chuẩn) Quá tải công việc do không đủ điều dưỡng 2,52 (1,27) 1,51 (0,62) Phải làm quá nhiều các công việc khác (thống kê, kế toán) 2,18 (1,39) 1,25 (0,70) Không đủ thời gian để hoàn thành tất cả các nhiệm vụ của điều dưỡng 1,57 (1,03) 0,94 (0,52) Lịch làm việc không lường trước được 1,42 (1,05) 0,98 (0,58) Không đủ thời gian để hỗ trợ tâm lý cho người bệnh 1,36 (0,98) 1,07 (0,59) Phải tắt/không nghe điện thoại do tính chất công việc 0,91 (0,85) 1,17 (0,58) Bị chuyển tới khoa khác do thiếu nhân viên 0,63 (0,95) 0,42 (0,55) Nhận xét: Được đánh giá ở mức độ căng thẳng nhiều (2,52) và tần suất tương đối thường xuyên (1,52) là tác nhân ‘Quá tải công việc do không đủ điều dưỡng’ (xem bảng 7) tiếp theo đó là tác nhân ‘Phải làm quá nhiều các công việc khác (thống kê, kế toán)’ với mức độ 2,18; tần suất 1,25. Cả hai tác nhân này được đánh giá là gây nhiều stress nhất trong tất cả 35 tác nhân. Bảng 5. Nhóm các tác nhân gây stress liên quan đến việc điều trị Các tác nhân Mức độ stress Tần suất stress Giá trị TB (Độ lệnh chuẩn) Giá trị TB (Độ lệnh chuẩn) Bác sĩ không chia sẻ đủ thông tin về người bệnh gây khó khăn cho quá trình chăm sóc và tư vấn 1,87 (1,96) 0,92 (0,51) Thiếu trang thiết bị cần thiết để giảm thiểu rủi ro nghề nghiệp và đảm bảo an toàn cho sức khỏe 1,53 (1,21) 0,89 (0,57) Lo sợ sẽ mắc lỗi trong quá trình chăm sóc cho người bệnh 1,37 (1,05) 0,87 (0,47) Các chỉ định của bác sỹ không thích hợp với việc điều trị cho người bệnh 1,19 (0,94) 0,77 (0,45) Băn khoăn có nên thông báo cho người bệnh và gia đình về tình trạng bệnh và khả năng điều trị 1,00 (0,96) 0,69 (0,49) Bác sỹ đã không có mặt trong trường hợp cấp cứu 1,26 (1,26) 0,60 (0,54) Không chắc chắn về chức năng và cách sử dụng của các dụng cụ chuyên dụng 0,85 (0,95) 0,59 (0,52) Nhận xét: Các tác nhân gây stress cao hơn cả là ‘Bác sĩ không chia sẻ đủ thông tin về người bệnh gây khó khăn cho quá trình chăm sóc và tư vấn’ (mức độ 1,87; tần suất 0,92); ‘Thiếu trang thiết bị cần thiết để giảm thiểu rủi ro nghề nghiệp và đảm bảo an toàn cho sức khỏe’ (mức độ 1,53; tần suất 0,89); tác nhân ít gây stress hơn cả là ‘Không chắc chắn về chức năng và cách sử dụng của các dụng cụ chuyên dụng’ (mức độ 0,85; tần suất 0,59). 2. Mối liên quan giữa stress nghề nghiệp với một số yếu tố Bảng 6. Mối liên quan giữa stress nghề nghiệp với một số yếu tố Mức độ stress Tần suất stress n Mean SD Mean SD Giới Nam 63 46,89 20,81 29,43 8,46 Nữ 236 47,16 20,20 29,40 7,54 p = 0,82 p = 0,96 Khoa làm việc Hồi sức cấp cứu 37 52,22 15,80 31,84 5,60 Nội khoa 106 50,47 20,60 30,57 7,24 Ngoại khoa 64 47,00 19,07 30,22 6,65 Chuyên khoa khác 92 41,17 21,20 26,53 8,92 p = 0,003 p = 0,0008 Khoảng giá trị (Min- Max) 0-150 0-70 Nhận xét: Bảng 6 cho thấy tình trạng stress giữa nhóm nam (46,9) và nữ (47,1) không có sự khác biệt nhiều; ngược lại mức độ stress lại thể hiện sự khác biệt giữa nhóm ĐD làm ở khoa HSCC và Nội khoa với các đối tượng làm ở các khoa còn lại sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (P = 0,003< 0,05). BÀN LUẬN Về nhóm các tác nhân gây stress liên quan đến sự đau đớn, chịu đựng của người bệnh: Theo kết quả nghiên cứu của chúng tôi thì các yếu tố gây áp lực cao nhất trong nhóm này bao gồm việc chứng kiến cái chết của người bệnh và nhìn thấy sự chịu đựng đau đớn của người bệnh. Kết quả này thấp hơn so với kết quả thu được trong nghiên cứu của Elizabeth M.Andal đối với các y tá ở Philippine [5]. Mặc dù các chỉ số này ở ĐD Việt Nam thấp hơn so với ở Philippine nhưng vẫn ở mức độ cao. Điều này cho thấy sự tiến triển bệnh của bệnh nhân có ảnh hưởng lớn đến ĐD vốn là người trực tiếp chăm sóc theo dõi bệnh nhân, đặc biệt là khi điều xấu xảy ra. Do đó nhân viên ĐD cần chuẩn bị tâm lý sẵn sàng để đối phó với mọi tình huống cấp cứu xảy ra. Nhóm nhân tố gây stress liên quan đến bất đồng với bác sỹ: Nghiên cứu cho thấy áp lực tạo ra bởi nhóm này có mức thấp nhất là do quyết định liên quan tới người bệnh khi bác sĩ không có mặt gây ra và ở mức cao nhất (1.31) liên quan tới bất đồng với bác sỹ. Kết quả này thấp hơn so với nghiên cứu trên điều dưỡng ở Philippine [3]. Nhóm tác nhân gây stress liên quan đến kiến thức và sự chuẩn bị của bản thân: Tác nhân này đều ở mức độ và tần suất thấp theo kết quả nghiên cứu của chúng tôi. Cũng cùng so sánh với nghiên cứu của Elizabeth M.Andal đối với các y tá ở Philippine thì Y HỌC THỰC HÀNH (914) - SỐ 4/2014 114 áp lực từ việc cảm thấy mình chưa được chuẩn bị đầy đủ kiến thức, kỹ năng để hỗ trợ vấn đề tâm lý cho gia đình người bệnh là cao hơn. Mức áp lực là (1.96). Điều đó cho thấy hệ thống đào tạo, chương trình đào tạo nói chung và chương trình đào tạo cho hệ cử nhân ĐD vừa làm vừa học nói riêng ở nước ta đã và đang được thực hiện khá tốt, đáp ứng được nhu cầu về kiến thức, kỹ năng, giúp ĐD viên có sự chuẩn bị tốt hơn trong công việc. Về nhóm tác nhân gây stress liên quan đến mối quan hệ trong công việc Trong số 05 tác nhân của nhóm thì 03 tác nhân có mức độ tạo stress thấp, dưới (1.00); 02 tác nhân còn lại có khả năng gây stress cao hơn do thiếu cơ hội để nói chuyện cởi mở với lãnh đạo về các vấn đề của khoa và do khó khăn khi làm việc với điều dưỡng khác ngoài khoa. Điều này không gây cho chúng ta ngạc nhiên bởi những nhân viên cùng làm việc với nhau sẽ dễ dàng chia sẻ thông tin hơn là những người làm ở các công việc khác nhau. Các giá trị giữa các nhân tố gần tương đương nhau cho thấy quan hệ giữa nhân viên và lãnh đạo khá cởi mở và thân thiện. Như vậy nhân viên ĐD cần phát huy tốt việc trao đổi kinh nghiệm cũng như mối quan hệ cởi mở giữa các đồng nghiệp để thực hiện nhiệm vụ chăm sóc bệnh nhân tốt nhất. Về nhóm tác nhân gây stress liên quan đến điều dưỡng cấp trên: Bất đồng với y tá trưởng/cấp trên/người giám sát và bị y tá trưởng/cấp trên phê bình, chỉ trích có mức độ và tần suất gần bằng nhau và ở mức trung bình (1.56) và (1.51). Kết quả này phản ánh phải chăng những y tá trưởng/cấp trên là những người có nhiều năm kinh nghiệm trong nghề, đòi hỏi những ĐD trẻ phải rèn luyện thật tốt những kỹ năng nghề nghiệp cũng như cách ứng xử trong cuộc sống để phù hợp với tình hình thực tế hiện nay. Về nhóm tác nhân gây stress liên quan tới khối lượng công việc: Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng quá tải công việc do không đủ điều dưỡng là yếu tố tạo stress cao nhất (2.52) với tần suất cũng ở mức cao (1.51). So với các nghiên cứu khác trên thế giới thì quá tải công việc dẫn đến stress cũng là thực trạng chung trong ngành ĐD ở các nước này. Theo nghiên cứu của Raeda Fawzi AbuAlRub, qua điều tra bằng Internet 263 y tá người Mỹ cho thấy tỷ lệ căng thẳng trung bình liên quan khối lượng công việc là khá cao (2,77), và qua điều tra bằng phương pháp truyền thống 300 y tá người Jordani thì tỷ lệ này là (2,31) [6]. Điều này gián tiếp suy ra rằng ngành ĐD đang cần bổ sung thêm nguồn nhân lực do nhu cầu khám chữa bệnh của người dân ngày càng tăng về số lượng và chất lượng. Ngoài ra việc bố trí, đào tạo cho các nhân viên điều dưỡng về các công việc cần hợp lý hơn, tránh tình trạng kiêm nhiệm quá nhiều việc. Về nhóm tác nhân gây stress liên quan đến việc điều trị: Nhóm này bao gồm 7 tác nhân có khả năng gây ra stress cho ĐD. Trong đó, việc bác sỹ không chia sẻ đủ thông tin về người bệnh gây khó khăn cho quá trình chăm sóc và tư vấn tạo áp lực với điều dưỡng ở mức cao nhất là (1.87). Kết quả này phản ánh ở Việt Nam, hiện nay ĐD vẫn chưa được coi trọng, hay bác sỹ có quá nhiều công việc nên không có đủ thời gian chia sẻ thông tin với ĐD, thêm vào đó ĐD cũng chưa phát huy được vai trò “phối hợp” trong chăm sóc điều trị bệnh nhân.Vì vậy, điều dưỡng chúng ta cần mạnh dạn, tự tin, chủ động trao đổi với bác sỹ những thông tin về người bệnh để phối hợp trong chăm sóc và điều trị ngày một tốt hơn. Stress nghề nghiệp của điều dưỡng trong nghiên cứu của chúng tôi có sự khác nhau giữa các chuyên Y HỌC THỰC HÀNH (914) - SỐ 4/2014 115 ngành về mức độ cũng như tần suất gặp stress. Kết quả này cũng tương đồng với kết quả từ nhiều nghiên cứu khác trên thế giới khi áp lực gây stress nhiều nhất là ở điều dưỡng tại các khoa hồi sức cấp cứu. KẾT LUẬN 1. Trong 7 nhóm tác nhân gây stress phổ biến ở nhân viên điều dưỡng thì nhóm các tác nhân liên quan đến cái chết của bệnh nhân và qúa tải công việc là những yếu tố gây mức độ stress và tần suất cao nhất với mức tạo áp lực lần lượt là 1,64 tần suất 0,83 và 1,42 tần suất 0,99, ngược lại với nhóm tác nhân stress liên quan đến thiếu chuẩn bị tâm lý có mức độ tạo áp lực thấp 0,99 tần suất 0,75. 2. Các điều dưỡng làm việc ở khoa Hồi sức cấp cứu có tần suất mắc stress cao hơn hẳn điều dưỡng làm ở các khoa khác với điểm đánh giá trung bình là 52,2. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Hans Selye (1965), The stress of life, New York, Mcgran-Hill Book Coinc. 2. Hamaideh S, Mrayyan M, Mudallal R, Faouri I and Khasawneh N (2008). Jordanian nurses job stressors and social support, Int Nurs Rev; 55 (1): 40-7. 3. Fukuda H, Ichinose T Kusama T, Yoshidome A, Anndow K, Akiyoshi N and Shibamoto T (2008). The relationship between job stress and urinary cytokines in healthy nurses: a cross-sectional study, Biol Res Nurs; 10 (2): 183-91. 4. Đặng Trần Ngọc Thanh, Arrernt Kumyu, Julaluk Baramee (2008), “Các yếu tố liên quan đến sự chán nản công việc của người điều dưỡng tại khoa hồi sức tích cực của các bệnh viện đa khoa TP.HCM”, Kỷ yếu đề tài nghiên cứu khoa học điều dưỡng toàn quốc lần thứ 4, Nhà xuất bản Giao thông vận tải, Hà Nội. 5. Andal EM (2006). A pilot study quantifying Filipino nurses perception of stress, Californian Journal of Health Promotion; 4 (4): 88-95. 6. AbuAlRub R (2006), Replication and examination of research data on Job stress and co-worker social support with Internet and traditional samples, Journal of Nursing Scholarship; 38 (2): 200-204. øNG DôNG NéI SOI CHÈN §O¸N Vµ CAN THIÖP TRONG PH¸T HIÖN Vµ §IÒU TRÞ UNG TH¦ BµNG QUANG N¤NG T¹I BÖNH VIÖN K TrÇn V¨n ThuÊn TãM T¾T Nghiªn cøu m« t¶ c¾t ngang sö dông ph­¬ng ph¸p tiÕn cøu nh»m m« t¶ mét sè ®Æc ®iÓm l©m sµng, vµ kÕt qu¶ c¾t u qua néi soi trong ®iÒu trÞ ung th­ bµng quang n«ng. KÕt qu¶ cho thÊy bÖnh nh©n nam nhiÒu h¬n n÷, nhãm tuæi hay gÆp tõ 50 – 70 tuæi, dÊu hiÖu l©m sµng ®iÓn h×nh lµ ®¸i m¸u. Ph¸t hiÖn bÖnh chñ yÕu dùa vµo siªu ©m vµ soi bµng quang, víi thÓ u nhó d¹ng cã cuèng vµ u ®¬n ®éc chiÕm ®a sè, kÝch th­íc u ®a sè < 3cm, vÞ trÝ hay gÆp nhÊt lµ ë 2 thµnh bªn. PhÉu thuËt néi soi c¾t u qua niÖu ®¹o lµ ph­¬ng ph¸p cã thÓ triÓn khai cã hiÖu qu¶, thêi gian mæ vµ thêi gian hËu phÉu ng¾n vµ t­¬ng ®èi an toµn. Tõ khãa: Néi soi, ung th­ bµng quang n«ng. summary A study has been conducted by the method of cross-sectional survey so as to describe some clinical symptoms and results of removing the tumor by means of ultrasound in treatment of hollow cancer of vesica urinaria. Results indicated that male patients were higher than female ones. Group of age who suffer such disease most is 50-70 years old. Typical clinic symptom is haematuria. It is detected mainly by ultrasound and vesica urinaria endoscopy in which stem-shaped papilloma and single tumor overwhelm. Most of tumor is less than 3cm. They are often seen on two sides. Ultrasonic surgery to remove the tumor via urethra may be performed effectively with short time and relative safety of operation and postoperation. Keywords: Ultrasound, hollow cancer of vesica urinaria. §ÆT VÊN §Ò Ung th­ bµng quang (UTBQ) lµ lo¹i ung th­ hay gÆp cña hÖ tiÕt niÖu, xÕp thø 2 sau ung th­ tiÒn liÖt tuyÕn. T¹i ViÖt Nam, UTBQ chiÕm kho¶ng 2% trong tæng sè c¸c lo¹i ung th­. Trong UTBQ, lo¹i ung th­ tÕ bµo chuyÓn tiÕp lµ lo¹i hay gÆp nhÊt. NÕu ®­îc ph¸t hiÖn sím th× viÖc ®iÒu trÞ ®¬n gi¶n vµ tiªn l­îng tèt. HiÖn nay viÖc chÈn ®o¸n UTBQ chñ yÕu dùa vµo siªu ©m vµ néi soi bµng quang, trong ®ã néi soi bµng quang cho phÐp ®¸nh gi¸ khèi u trong bµng quang vµ sinh thiÕt chÈn ®o¸n m« bÖnh häc. Ngoµi ra víi nh÷ng khèi u bµng quang n«ng th× ®­îc phÉu thuËt c¾t u néi soi qua niÖu ®¹o (TUR), ®©y lµ ph­¬ng ph¸p hiÖu qu¶, Ýt biÕn chøng vµ b¶o tån chøc n¨ng bµng quang. T¹i BÖnh viÖn K cïng víi viÖc ph¸t triÓn néi soi trong chÈn ®o¸n, can thiÖp c¸c bÖnh ung th­ TUR còng b¾t ®Çu ®­îc øng dông trong chÈn ®o¸n vµ ®iÒu trÞ UTBQ n«ng. Chóng t«i tiÕn hµnh ®Ò tµi nghiªn cøu nh»m c¸c môc tiªu sau: NhËn xÐt mét sè ®Æc ®iÓm l©m sµng, h×nh ¶nh néi soi vµ sinh thiÕt qua néi soi cña ung th­ bµng quang n«ng; §¸nh gi¸ kÕt qu¶ b­íc ®Çu ®iÒu trÞ ung th­ bµng quang n«ng b»ng c¾t u qua néi soi. PH¦¥NG PH¸P §©y lµ nghiªn cøu m« t¶ c¾t ngang sö dông ph­¬ng ph¸p tiÕn cøu víi ®èi t­îng lµ bÖnh nh©n ®­îc chÈn ®o¸n x¸c ®Þnh ung th­ bµng quang dùa vµo l©m sµng, siªu ©m, néi soi bµng quang vµ m« bÖnh häc qua néi soi sinh thiÕt ®ang ®­îc ®iÒu trÞ t¹i BÖnh viÖn K. Nghiªn cøu ®­îc tiÕn hµnh tõ th¸ng 1/2007 ®Õn th¸ng 6/2008, víi cì mÉu lµ 30 bÖnh nh©n ®­îc lùa chän tham gia nghiªn cøu. C¸c ®èi t­îng nghiªn cøu ®­îc hái khai th¸c bÖnh sö, tiÒn sö kh¸m ph¸t hiÖn triÖu chøng l©m sµng theo mÉu bÖnh ¸n nghiªn cøu. TiÕn hµnh néi soi bµng

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfde_tai_thuc_trang_stress_nghe_nghiep_cua_dieu_duong_lam_sang.pdf
Tài liệu liên quan