Đề tài Thực trạng phát triển và công tác hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn thành phố Đà Nẵng giai đoạn 1997 - 2007

Tài liệu Đề tài Thực trạng phát triển và công tác hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn thành phố Đà Nẵng giai đoạn 1997 - 2007: A – Mở đầu 1. Lý do chọn đề tài Một trong những nhiệm vụ quan trọng của Chính Phủ và chính quyền thành phố là tạo ra nhiều việc làm cho người dân & huy động vốn từ trong dân để phát triển đất nước. Muốn phát triển kinh tế thì phải huy động được vốn, trong điều kiện phát triển của cả nước nói chung và của thành phố nói riêng, điều cần nhất đó là vốn trong nước và để có được nguồn vốn này thì phải huy động vốn từ trong dân. Việc phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ là bước đi thích hợp và thật sự quan trọng bởi vì nó góp phần tạo ra được nhiều việc làm, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, huy động mọi nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hôi của cả nước, cũng như của thành phố. Ngoài ra, việc phát triển DNNVV phù hợp với quy luật phát triển của nền kinh tế thế giới cũng như sự vần động biến đổi của nền kinh tế Việt Nam, bước đi trên còn giúp tháo gỡ các vấn đề xã hội như thất nghiệp, khắc phục và giảm bớt các tệ nạn xã hôi, góp phần bảo đảm trật tự an ninh, đ...

doc79 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1089 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Thực trạng phát triển và công tác hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn thành phố Đà Nẵng giai đoạn 1997 - 2007, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A – Mở đầu 1. Lý do chọn đề tài Một trong những nhiệm vụ quan trọng của Chính Phủ và chính quyền thành phố là tạo ra nhiều việc làm cho người dân & huy động vốn từ trong dân để phát triển đất nước. Muốn phát triển kinh tế thì phải huy động được vốn, trong điều kiện phát triển của cả nước nói chung và của thành phố nói riêng, điều cần nhất đó là vốn trong nước và để có được nguồn vốn này thì phải huy động vốn từ trong dân. Việc phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ là bước đi thích hợp và thật sự quan trọng bởi vì nó góp phần tạo ra được nhiều việc làm, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, huy động mọi nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hôi của cả nước, cũng như của thành phố. Ngoài ra, việc phát triển DNNVV phù hợp với quy luật phát triển của nền kinh tế thế giới cũng như sự vần động biến đổi của nền kinh tế Việt Nam, bước đi trên còn giúp tháo gỡ các vấn đề xã hội như thất nghiệp, khắc phục và giảm bớt các tệ nạn xã hôi, góp phần bảo đảm trật tự an ninh, đảm bào sự phát triển công bằng giữa các thành phần kinh tế, nâng cao mức sống và thu nhập cho người dân. Nói tóm lại, phát triển DNNVV là một bước đi không thể không tiến hành, tận dụng tối đa nguồn lực và phát triển nền kinh tế xã hội sẽ giúp cho nước ta vững bước trên con đường hội nhập và mở cửa với nền kinh tế thế giới. Đà nẵng một thành phố năng động, là trung tâm phát triển mạnh mẽ nhất của khu vực Miền trung & Tây nguyên và sự phát triển kinh tế của nó kéo theo sự phát triễn mạnh mẽ của các DNNVV. Tuy nhiên hiện nay các doanh nghiệp này đang lâm vào tình trạng khó khăn và có những thách thức đặt ra cho các doanh nghiệplà không nhỏ. Số DN được thành lập ít hơn quy mô số dân của thành phố, số doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, tăng thêm vốn, lao động là chưa nhiều. Tuy đã có nhiều DN hoạt động hiệu quả, có hình thức tổ chức kinh doanh phù hợp, có nhiều ưu thế về tính năng động, thích ứng nhanh với sự thay đổi của thị trường…nhưng sự phát triển của DNNVV thành phố tuy đã có nhiều thay đổi nhưng còn chậm và chưa ổn định. Điều đó xuất phát từ những hạn chế và khó khăn của bản thân các DNNVV ở Việt Nam nói chung và TP Đà Nẵng nói riêng, mặt khác chính quyền thành phố cũng chưa có đủ các chính sách phù hợp để hỗ trợ DNNVV và nhất là chưa thực hiện được tốt nhất các giải pháp và chính sách đã đề ra, chính quyền thành phố cũng chưa theo sát được các vấn đề liên quan đến DN. Để thúc đẩy sự ra đời và phát triển của các DNNVV, cũng như đẩy mạnh công tác hôc trợ các DN trên địa bàn thành phố nhằm huy động tối đa tiềm năng vốn, lao động, mặt bằng…trong dân, cần thiết phải làm rỏ thực trạng của DNNVV của thành phố và các chính sách hỗ trợ cho các DN này, qua đó đưa ra các giải pháp nhằm đẩy mạnh công tác hỗ trợ cho các DNNVV của chính quyền thành phố. 2. Mục tiêu nghiên cứu - Phần nào khái quát hoá và hệ thống hoá về mặt lý luận cũng như các vấn đề có liên quan đến DNNVV và vai trò của DNNVV đối với sự phát triển KT - XH - Đánh giá ttổng quan thực trạng của các DNNVV trên địa bàn thành phố, cũng nhưng công tác hỗ trợ cho các DN này của chính quyền thành phố bao gồm cả nguyên nhân, những hạn chế và thành quả đạt được từ công tác phát triển và hỗ trợ các DNNVV này - Xem xét mối quan hệ, sự tương thích của công tác hỗ trợ với doanh nghiệp - Phân tích & đưa ra một số giải pháp phát triển DNNVV cũng như việc đẩy mạnh công tác hỗ trợ của chính quyền đối với các DN này trong giai đoạn 2008 – 2015 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Các DNNVV, những khó khăn và vướng mắc trong quá trình phát triển của các DN, cũng như cồng tác hỗ trợ của chính quyền thành phố đối với các DNNVV tính từ năm 1997 – 2007. Và đồng thời đưa ra một số giải pháp cho sự phát triển của DNNVV và công tác hỗ trợ của chính quyền thành phố cho các DN này Phạm vi nghiên cứu: Các DNNVV đang hoạt động trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, các DN thuộc hội Doanh nghiệp trẻ thành phố Đà Nẵng. Các giải pháp và chương trình của chính quyền thành phố đã thực hiện từ năm 1997 – 2007 để hỗ trợ cho DNNVV trên địa bàn thành phố. 4. Phương pháp nghiên cứu Thu thập số liệu Phân tích thống kê và đánh giá Phương pháp so sánh Điều tra, xử lý bằng SPSS 5. Kết cấu chuyên đề thực tập Phần 1: Doanh nghiệp nhỏ và vừa với những khó khăn, thách thức trong xu thế hội nhập toàn cầu hóa hiện nay Phần 2: Thực trạng phát triển & công tác hỗ trợ DNNVV trên địa bàn TP Đà Nẵng giai đoạn 1997 - 2007 Phần 3: Những giải pháp đẩy mạnh công tác hỗ trợ phát triển DNNVV trên địa bàn TP Đà Nẵng trong thời gian đến Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện chuyên đề, do khả năng còn hạn hẹp và kiến thức chưa được sâu rộng, thêm vào đó là không có đầy đủ số liệu để phân tích nên trong đề tài của em còn rất nhiều sai sót, em rất mong nhận được sự thông cảm của thầy cô. Qua đây, em cũng xin chân thành cảm ơn cô giáo Th.S TRẦN THỊ TÚC đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề thực tập này. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn! Sinh viên thực hiện TRẦN THANH HẢI B – Nội dung PHẦN I Doanh nghiệp nhỏ và vừa với những khó khăn, thách thức trong xu thế hội nhập toàn cầu hóa hiện nay I/ Vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nền kinh tế Việt Nam & thế giới 1. Khái niệm về doanh nghiệp & doanh nghiệp nhỏ và vừa 1.1. Khái niệm về doanh nghiệp (DN) Trong nền kinh tế thị trường, bất cứ một nền sản xuất kinh doanh nào tạo ra sản phẩm hoặc dịch vụ để bán, cung ứng cho khách hàng và thu lợi nhuận, dù hoạt động đó chỉ là một cá nhân, một hộ gia đình, đều có thể coi là một doanh nghiệp. Cùng cách hiểu này, Viện Thống kê và viện nghiên cứu kinh tế Pháp định nghĩa DN là một tổ chức kinh tế mà chức năng chính của nó là sản xuất ra của cải vật chất và dịch vụ để bán. Tuy vậy, trong các văn bản pháp quy của nước ta ranh giới thật rõ ràng “doanh nghiệp” hộ gia đình và doanh nghiệp khác vẫn còn nhiều vấn đề tranh cải. Luật DN được Quốc hội nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam khoá X thông qua tại kỳ họp thứ 5, ngày 12/6/1999 và có hiệu lực thi hành vào ngày 01/01/2000, Chương I, Điều 3 nêu rõ: “Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh”. Tiếp theo đó, Luật cũng đã định nghĩa kinh doanh như sau: “Kinh doanh là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoạc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi”. Như vậy chính trong văn bản Luật cũng đã để một khoảng trống, rằng có hoạt động kinh doanh nhưng chưa hẳn đã là doanh nghiệp. Bởi vì, muốn trở thành doanh nghiệp thì phải có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định tất yếu phải có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật. Như vậy, theo quy định của Luật doanh nghiệp, các hộ kinh doanh cá thể nếu không có đăng ký kinh doanh, không được gọi là doanh nghiệp, cho dù hộ này vẫn thực hiện các hoạt động kinh doanh hợp pháp. 1.2. Khái niệm doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) Trong một nền kinh tế , có thể tuỳ theo các chỉ tiêu khác nhau mà người ta phân ra các loại doanh nghiệp khác nhau. Theo ngành kinh tế có thế chia ra DN công nghiệp, DN nông nghiệp, DN thương mại dịch vụ; Theo tính chất hoạt động thì có DN hoạt động công ích và DN SX-KD; Theo hình thức sở hữu thì có DNNN, DNDN và DN có vốn đầu tư nước ngoài; Theo quy mô, mà chủ yếu là quy mô về vốn và lao động thì có DN lớn, DNNVV là loại hình doanh nghiệp phổ biến ở hầu hết tất cả các nước. Có khá nhiều cách định nghĩa khác nhau về DNNVV. Các định nghĩa này có những điểm giống nhau và khác nhau, vì vậy khó mà tìm ra một định nghĩa thống nhất mặc dù ai cũng biết rằng kinh doanh nhỏ và vừa thì khối lượng công việc ít hơn, đơn giản hơn là ở các DN lớn. Hiện nay không có tiêu chuẩn chung cho việc phân định ranh giới quy mô DN ở các nước. Ở mỗi nước, tuỳ theo điều kiện và hoàn cảnh phát triển kinh tế cụ thể mà có cách xác định quy mô DN trong từng giai đoạn nhất định. Bảng 1: Tiêu thức phân loại DNNVV của một số nước Lĩnh vực Công nghiệp Thương mại-Dịch vụ Các nước DN vừa DN nhỏ DN vừa DN nhỏ Mỹ Dưới 3,5 triệu USD Dưới 500 lao động Dưới 3,5 triệu USD Dưới 500 lao động Nhật Bản Dưới 100 triệu Yên Dưới 300 lao động Dưới 20 lao động 10 - 30 triệu Yên Dưới 100 lao động Dưới 5 lao động CHLB Đức 1 đến < 100 triệu DM 10 < 500 lao động Dưới 1 triệu DM Dưới 9 lao động 1-100 triệu DM 10 < 500 lao động Dưới 1 triệu DM Dưới 9 lao động Philippin 15 - 60 triệu Peso Không quy định 1đ < 15 triệu Peso Không quy định 1đ 15 - 60 triệu Peso Không quy định 1đ < 15 triệu Peso Không quy định 1đ Đài Loan 1,6 triệu USD 4 -10 lao động 1,6 triệu USD 4 - 10 lao động (Nguồn: Đỗ Đức Định-Kinh nghiệm và cẩm nang phát triển DNNVV ở một số nước trên thế giới) aXác định tiêu chí DNNVV ở Việt Nam Cần thiết phải xác định DNNVV vì những lý do sau: P Phục vụ cho việc thống kê và phân tích P Để xây dựng và áp dụng chính sách P Thiết kế và áp dụng các dịch vụ hỗ trợ phát triển Từ nhiều năm trước, khi chính phủ chưa ban hành chính thức tiêu chí quy định DNNVV, một số cơ quan nhà nghiên cứu đã đưa ra các chỉ tiêu và tiêu chuẩn cụ thể khác nhau để phân loại DNNVV. Có thể kể ra cách cách phân loại tiêu biểu sau: - Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) căn cứ vào 2 tiêu chí lao động và vốn của các ngành để phân biệt: + Trong ngành công nghiệp: DNNVV là tổ chức kinh tế có số vốn từ 5-10 tỷ đồng và có số lao động 200-500 người. Trong đó DN nhỏ có số vốn dưới 5 tỷ đồng với số lao động nhỏ hơn 200 người. + Trong ngành Thương mại-Dịch vụ: DNNVV là tổ chức có số vốn từ 5-10 tỷ đồng và có số vốn lao động từ 50-100 người. - Ngân hàng Công thương hoạt động cho vay tín dụng đối với các DN quy định rằng: DN vừa là DN có vốn từ 5-10 tỷ đồng và số lao động từ 500-1000 người, DN nhỏ là DN có số vốn dưới 5 tỷ đồng và lao động dưới 500 người. - Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, trong lĩnh vực sản xuất, xây dựng, DN có vốn dưới 1 tỷ đồng và dưới 100 lao động được xếp là DN nhỏ, DN có vốn từ 1-10 tỷ đồng và có từ 100-500 lao động là DN vừa. Tóm lại, người ta thường dùng 2 tiêu chí vốn và lao động thường xuyên để xác định DNNVV vì tất cả các DN đều có thể xác định được 2 tiêu thức này. Riêng tiêu thức doanh thu ít được sử dụng vì đối với các nước đang phát triển, đặc biệt là Việt Nam thì tiêu chí này có thể biến động do nhiều yếu tố và khó xác định. Để thống nhất tiêu chí xác định DNNVV, ngày 20/6/1998, Chính phủ đã ban hành công văn số 681/CP-KTN quy định tiêu chí tạm thời xác định DNNVV. Theo quy định này, DNNVV là các DN có vốn điều lệ dưới 5 tỷ đồng và có số lao động trung bình hàng năm dưới 200 người. Quy định tạm thời này chỉ tồn tại 3 năm và ngày 23/11/2001, Chính phủ đã ban hành Nghị định 90/2001/NĐ-CP về trợ giúp phát triển DNNVV, Theo quy định tại Nghị định này, “DNNVV là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người. Căn cứ vào tình hình kinh tế-xã hội cụ thể của ngành, địa phương, trong quá trình thực hiện các biện pháp, chương trình trợ giúp có thể linh hoạt áp dụng đồng thời cả 2 tiêu chí vốn và lao động hoặc 1 trong 2 tiêu chí trên”. Với tiêu thức phân loại mới này DNNVV ở nước ta chiếm tỷ trọng trên 90% trong tổng số DN hiện có, trong đó phần lớn là các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân. Điều này phù hợp với tinh hình kinh tế của nước ta vốn là nền kinh tế sản xuất nhỏ và vừa là chủ yếu. 2. Vai trò của DNNVV trong nền kinh tế Việt Nam & thế giới Hiện nay, ở hầu hết các nước trên thế giới; đặc biệt là các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng, Các DNNVV chiếm tỷ trọng cao trong nền kinh tế, đóng vai trò hết sức quan trọng. Đối với Việt Nam và cũng như tất cả các nước khác trên thế giới DNNVV cũng đều đóng một vai trò quan trọng, vậy vai trò các DNNVV như thế nào, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu về vấn đề này. 2.1. DNNVV góp phần quan trọng tạo công ăn việc làm và tăng thu nhập cho người lao động Đây là một thế mạnh rõ rệt của các DNNVV, và là nguyên nhân chủ yếu khiến chúng ta phải đặc biệt chú trọng phát triển loại hình doanh nghiệp này. Các DN này có số lượng lớn, phân bố rộng rãi từ thành thị đến nông thôn, từ miền xuôi đến miền ngược, nên mặc dù số lao động làm việc trong một DNNVV không nhiều nhưng theo quy luật số đông, với số lượng rất lớn DNNVV trong nền kinh tế đã tạo ra phần lớn việc làm cho xã hội. Mặt khác, các DNNVV loại này mang tính tư hữu cao, dễ dàng đa dạng hoá sản phẩm, kể cả các mặt hàng mà các DN lớn không sản xuất ra. Sự lớn mạnh của các DNNVV đã làm tăng thu nhập của công nhân và giảm tỷ lệ thất nghiệp của mỗi địa phương nói riêng và toàn lãnh thổ nói chung. Ở các nước có nền kinh tế thị trường, các DNNVV thường tạo ra từ 70-90% việc làm cho xã hội. Khi nền kinh tế suy thoái, các DN lớn phải cắt giảm lao động để giảm chi phí đến mức có thể tồn tại được vì cầu của thị trường thấp hơn cung. Nhưng đối với các DNNVV do đặc tính linh hoạt, dễ thích ứng với thay đổi của thị trường nên vẫn duy trì hoạt động thậm chí vẫn phát triển. Do đó các DNNVV vẫn có nhu cầu về lao động. Chính vì vậy, Hội đồng DN thế giới đã cho rằng: DNNVV là liều thuốc cuối cùng chữa trị bệnh thất nghiệp khi nền kinh tế suy thoái. Ở Việt Nam hiện nay, tỷ lệ thất nghiệp tương đối cao và không ổn định, sức ép dân số, lao động lên đất đai, việc làm ở nông thôn chính là nguyên nhân của dòng di dân từ nông thôn ra thành phố, gây ra nhiều vấn đề xã hội phức tạp. Khu vực DNNVV thu hút khoảng 26% lực lượng lao động phi nông nghiệp của cả nước, mặt khác, các DNNVV đang là nơi có nhiều thuận lợi nhất để tiếp nhận số lao động từ các DNNN dôi ra qua việc cổ phần hoá, giao, bán, khoán, cho thuê, phá sản DN hiện đang được triển khai. Do các DNNVV có thể phát triển ở khắp mọi nơi trong nước, nên khoảng cách giữa nhà sản xuất và thị trường được rút ngắn lại, tạo nên sự phát triển cân bằng giữa các vùng. Chênh lệch giàu nghèo không đáng kể, mỗi người dân có thể là một ông chủ, mỗi gia đình có thể là một doanh nghiệp. Thu nhập bình quân đầu người Việt Nam còn khá thấp do kinh tế chậm phát triển. Phát triển DNNVV ở thành thị và nông thôn là biện pháp chủ yếu để tăng thu nhập, đa dạng hoá thu nhập của các tầng lớp nhân dân khắp các cùng trong nước. 2.2. Các DNNVV góp phần quan trọng trong việc thu hút vốn đầu tư trong dân cư và sử dụng tối ưu các nguồn lực tại địa phương Với ưu điểm tính chất nhỏ lẻ, dễ phân tán đi sâu vào ngõ ngách và yêu cầu số vốn ban đầu không nhiều, mặt khác các DNNVV trong quá trình hoạt động, các DNNVV có thể huy động vốn dựa trên quan hệ họ hàng, bạn bè thân thuộc. Chính vì vậy, DNNVV được coi là phương tiện có hiệu quả trong việc huy động, sử dụng các khoản vay tiền nhàn rỗi trong dân cư và biến nó thành các khoản vốn đầu tư. Nguồn vốn được trích từ trong dân là nguồn vốn rất quan trọng, ở Trung Quốc nguồn ngân sách quốc dân có tới 75% là vốn từ trong dân, mặt khác nguồn vốn trong dân được sử dụng tối đa tránh được việc gia tăng mức cung tiền trên thị trương, bình ổn thị trường tài chính. Những đồng tiền nhàn rỗi từ trong dân được sử dụng để tạo thêm giá trị gia tăng, đem lại một giá trị to lớn cho nền kinh tế. Với quy mô vừa và nhỏ, lại được thành lập phân tán ở hầu khắp mọi nơi nên DNNVV có khả năng tận dụng các tiềm năng về lao động, về nguyên vật liệu với trữ lượng hạn chế, không đáp ứng đủ cho nhu cầu sản xuất lớn, nhưng sản có ở địa phương, sử dụng sản phẩm phụ hoặc phế liệu, phế phẩm của các DN lớn. Điều này cũng rất hợp lý đối với nước ta, vốn là một nước có nền kinh tế lạc hậu, trình độ phát triển chậm, cách kinh doanh nhỏ lẽ là thích hợp nhất đối với đại đa số bộ phận người dân. Mặt khác hơn 70% lao động tham gia trong lĩnh vực nông nghiệp, đạc điểm của ngành nông nghiệp là tính thời vụ cho nên có một bộ phận lao động thất nghiệp tạm thời và lao động nhàn rỗi tự nhiên, khi sử dụng mô thức kinh doanh này chắc chắn sẽ tận dụng tối đa các lao động nhàn rỗi, mặt khác góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế ở khu vực nông thôn 2.3. Các DNNVV chiếm tỷ trọng cao trong tổng số các Cơ sở SX-KD và ngày càng gia tăng mạnh Phần lớn các nước trên thế giới, số lượng các DNNVV chiếm khoảng 90% tổng số doanh nghiệp. Tốc độ tăng số lượng các DNNVV nhanh hơn số lượng các DN lớn. Các DNNVV hoạt động phổ biến trong tất cả các ngành công nghiệp, dịch vụ, từ công nghiệp thủ công truyền thống đến các ngành công nghiệp kỹ thuật cao. Do đặc tính của mình mà các DN này rất dẽ dàng thích nghi với điều kiện kinh doanh, vốn không lơn, mô thức kinh doanh và quản lý gọn nhẹ và đơn giản, đây là một thế mạnh mà chúng ta không thể nào phủ nhận được. Một quy luật tất yếu của nền kinh tế cũng như cho toàn XH đó là sự tồn tại song song và hổ trợ lẫn nhau của các bộ phận cấu thành nên xã hội. 2.4. Các DNNVV có vai trò quan trọng trong sự tăng trưởng của nền kinh tế Chúng góp phần quan trọng vào sự gia tăng thu nhập quốc dân của các nước trên thế giới, bình quân chiếm khoảng 50%GDP ở mỗi nước. Riêng ở Việt Nam, mỗi năm các DNNVV đóng góp khoảng 25% GDP của cả nước. Các DN này có nhiều thuận lợi trong việc khai thác những tiềm năng phong phú trong nhân dân, từ trí tuệ, tay nghề tinh xảo, vốn liếng, ngành ngề truyền thống…Chỉ cần dùng một phép tính rất đơn giản ta có thể nhận thấy rằng sự đóng góp của các DNNVV đối với không chỉ nước ta mà cả với các nước khác là không hề nhỏ, tuy nó nhỏ nhưng số lượng rất đông đảo, lại rất đa dạng về lĩnh vực ngành nghề. 2.5. Các DNNVV là nhân tố quan trọng tạo sự năng động nề kinh tế trong cơ chế thị trường, đóng góp trong việc lưu thông và xuất khẩu hàng hoá Với quy mô nhỏ lại năng động, linh hoạt, sáng tạo trong kinh doanh cùng với hình thức tổ chức kinh doanh sự kết hợp chuyên môn hoá và đa dạng hóa mềm dẻo, hoà nhịp cùng với những đòi hỏi từ nền kinh tế thị trường nên các DNNVV có vai trò to lớn góp phần làm năng động nền kinh tế trong cơ chế thị trường. DNNVV có nhiều cơ hội đễ thay đổi mặt hàng, chuyển hướng sản xuất, đổi mới công nghệ. Khi nền kinh tế phát triển, tạo nhiều cơ hội kinh doanh mới, sức mua tăng lên nhu cầu lớn hơn, các DNNVV rất nhạy bén trong việc điều chỉnh cơ cấu, tăng doanh thu. Diều này rất khó thực hiện ở các DN lớn khi muốn đa dạng hoá mặt hàng sản xuất. Đối với các DN lớn, DNNVV cũng có thể làm đại lý, vệ tinh tiêu thụ hàng hoá hoặc cung cấp các vật tư đầu vào với giá rẻ hơn, do đó góp phần hạ giá thành, nâng cao hiệu sản xuất cho DN lớn. Đây là thế mạnh rất riêng của các DN này cho nên số lượng của các DNNVVngày càng đông về số lượng và đa dạng về chủng loại, những DN này góp phần đáp ứng cho bộ phận thị trường người tiêu dùng và là nguyên liệu đầu vào cho các DN lớn. 2.6. Các DNNVV có vai trò quan trọng trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế Sự phát triển của các DNNVV sẽ thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, lam cho công nghiệp phát triển, đồng thời thúc đẩy các ngành thương mại dịch vụ, làm thu hẹp dần tỷ trọng khu vực nông thôn trong cơ cấu kinh tế quốc dân, đặc biệt là ở nông thôn. Với tính chất nhanh nhạy và dễ dàng bắt kịp với những thay đổi hay biến động của thị trường, các DNNVV luôn đóng vai trò đi dầu trong mọi biến động trên cả hai phương diện, thứ nhất các DNNVV sẽ là bước thử nghiệm sự thay đổi, thứ hai nó sẽ đóng vai trò là những bản thảo, tích lũy được các kinh nghiệm đương đầu với sự thay đổi cho các doanh nghiệp lớn. Sau khi có bước thay đỏi thành công nó sẽ là mô hình hoàn hảo nhất cho sự thay đổi của các DN lớn, từ đó làm bước đệm thay đổi và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thay đổi để phù hợp với tình hình mới và quy luật kinh tế mới. 2.7. Các DNNVV góp phần dân chủ hoá nền kinh tế, duy trì sự tự do cạnh tranh và có khả năng ứng biến nhanh nhạy DNNVV chiếm một tỷ trọng lớn và đóng vài trò quan trọng trong việc tập trung lực lượng kinh tế, lực lượng lao động. Sự phát triển không ngừng của các DNNVV góp phần phân phối theo chiều hướng tương đối công bằng, mặt khác huy động nguồn sức lao động lớn trong xã hội vào hoạt động sản xuất theo quy trình phân công LĐXH. Tự do kinh doanh là con đường tốt nhất phát huy tiềm lực. Ở các DNNVV, tình trạng độc quyền không xảy ra, họ sẵn sàng chấp nhận tự do kinh doanh. So với các xí nghiệp lớn, các DNNVV có tính tự chủ cao, không ỷ lại sự giúp đỡ của nhà nước, sẵn sàng khai thác các cơ hội để phát triển mà không ngại rủi ro. Với những ưu thế nhỏ gọn, năng động, dễ quản lý; các DNNVV rất linh hoạt trong việc học hỏi và tránh những thiệt hại to lớn do môi trường khách quan tác động lên. Do đó, các DNNVV sẽ có khả năng ứng biến nhanh nhạy, thay đổi hoàn cảnh, tự điều chỉnh tổ chức sản xuất. 2.8. Các DNNVV là nơi đào tạo các nhà doanh nghiệp Các DNNVV góp phần đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện một đội ngũ doanh nhân, ươm mầm các tài năng kinh doanh. Kinh doanh qui mô nhỏ sẽ là nơi đào tạo, rèn luyện các nhà doanh nhân làm quen với môi trường kinh doanh. Bắt đầu từ kinh doanh qui ô nhỏ và thông qua điều hành quản lý kinh doanh các doanh nghiệp sẽ trưởng thành lên thành những nhà doanh nghiệp lớn. Đây cũng là một quy luật tất yếu đối với một nhà quản lý, điểm tích lũy sẽ hình thành khi họ tham gia vào thị trường lao động, không con đường nào khác những nahf quản lý DN lớn thành đạt đều xuất thân từ việc quản lý thành công một doanh nghiệp nhỏ và vừa. Mọi bước chạy của những con người thành đạt đều xuất thân từ những bước chập chững ban đầu và môi trường kinh doanh của các DNNVV sẽ là nơi thử sức và trau dồi cho những nhà quản lý ngương doanh ngiệp lớn hơn trong tương lai. Tóm lại, DNNVV có nhiều ưu thế và đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nó không có tính loại trừ một quốc gia nào trong đó cá cả Việt Nam. DNNVV ngày càng thể hiện được tầm quan trọng cũng như sự ảnh hưởng của mình đến mọi mặt, tầm ảnh hưởng của nó mang diện rộng trên toàn thế giới, tuy nhiên trong giai đoạn hiện nay nó thay đổi như thế nào và xu hướng chủ đạo của nó trong trương lai sẽ ra sao, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu vấn đề này ở những phần sau. II/ Những khó khăn, thách thức của DNNVV trong xu thế hội nhập hiện nay Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa hiện nay thì nền kinh tế không thể tránh khỏi việc bị tác động, mức tác động được biến đổi tùy theo cường độ và sự thay đổi từng lĩnh vực và từng khía cạnh của nên kinh tế - xã hôi. Các DNNVV cũng không nằm ngoài các quy luật đó. 1. Tác động của hội nhập kinh tế và toàn cầu hóa đối với nền kinh tế Việt Nam Mọi tác động đều mang tính hai mặt, khi hội nhập kinh tế và toàn cầu hóa nền kinh tế nước ta đứng trước thế và lực mới. Những thời cơ và thách thức đem lại từ việc mở cửa sẽ góp phần thay đổi bộ mặt nền kinh tế nước nhà. 1.1. Những thời cơ khi hội nhập kinh tế và toàn cầu hóa đối với nền kinh tế Hội nhập kinh tế toàn cầu là một trong những hiện tượng nổi bật nhất của cuối thế kỷ 20 và những năm đầu của thiên niên kỷ mới này. Đặc điểm nổi bật của hội nhập kinh tế là sự gia tăng các luồng thương mại và đầu tư giữa các nước trên thế giới. Trong một thế giới đang toàn cầu hoá, sự mở cửa các nền kinh tế nội địa, sự tăng cường của các thể chế kinh tế quốc tế, và quyền lực của các công ty xuyên quốc gia đã đóng góp vào việc thúc đẩy cấu trúc thị trường được hội nhập trên phạm vi toàn cầu. Ngày nay, hội nhập kinh tế là một xu hướng không thể tránh khỏi đối với tất cả các quốc gia trên thế giới.     Việc hội nhập có hiệu quả vào hệ thống thương mại thế giới đòi hỏi mức độ tự do hoá cao của mỗi nền kinh tế. Hội nhập kinh tế toàn cầu có thể mang lại những lợi ích lớn cho các nước tham gia vào quá trình này. Mở cửa thương mại, tài chính và đầu tư quốc tế đã đóng góp đáng kể vào việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và các mục tiêu phát triển. Hội nhập thương mại quốc tế cho phép các nước chuyên môn hoá sản xuất để đạt được tính kinh tế của quy mô sản xuất. Đối với các nước có lợi thế so sánh như nguồn lực tự nhiên dồi dào, lao động rẻ,… có thể thúc đẩy việc phân phối nguồn lực có hiệu quả hơn và đẩy mạnh khả năng xuất khẩu của họ để đạt được lợi ích kinh tế tối ưu. Mở cửa hội nhập sẽ giúp chúng ta tiếp cận được những cái mới trong lĩnh vực công nghệ, cả công nghệ quản lý và cả công nghệ trong sản xuất. Bước chuyển biến trong việc tiếp thu công nghệ sẽ góp phần làm thay đổi hiệu suất sản xuất, tăng năng suất lao động. Những bước tiến công nghệ sẽ giúp chúng ta tiến xa hơn trong sản xuất và kinh doanh. Hàm lượng công nghệ trong mỗi sản phẩm sẽ góp phần là tăng tính cạnh tranh cũng như chất lượng của từng sản phẩm. Nhưng bước tiến quan trọng nhất trong việc hội nhập mở cửa và tiếp thu công nghệ đó là công nghệ quản lý, chính sự quản lý chuyên nghiệp sẽ làm thay đổi cách thức làm việc và tác phong công nghiệp trong sản xuất, thay đổi được thói quen tập tục gắn liền với nông nghiệp của Việt Nam. Mở cửa thương mại quốc tế cũng chính là một bước mở cửa thị trường, thị trường rộng mở là điều mơ ước của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thương mại. Tận dụng được lợi thế trong mở cửa thị trường sẽ tận dụng được các thời cơ và cơ hội kinh doanh lớn. Khi mở cửa thị trường sẽ thúc đẩy được sự cạnh tranh lành mạnh, các doanh nghiệp phải tự thân vận động, cả nền kinh tế cũng vận động để thay đổi để phù hợp với nhu cầu của tình hình mới, cũng là phù hợp với quy luật tất yếu của sự vận động và biến đổi. Hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hóa là thời cơ mà chúng ta nên chớp lấy để phát triển nền kinh tế, trong đó các DNNVV cũng tự tạo được những thuận lợi được đưa tới từ việc mở cửa và hội nhập này. Tuy nhiên, thời cơ lớn thì thách thức quả thực là không nhỏ, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu điều này ở phần tiếp theo. 1.2. Những thách thức khi hội nhập kinh tế và toàn cầu hóa đối với nền kinh tế Do mức độ phát triển thấp, nên những thách thức hội nhập mà Việt Nam phải đương đầu là rất lớn. Việt Nam vẫn đang ở giai đoạn đầu của chính sách mở cửa kinh tế, với những điều kiện ít thuận lợi hơn nhiều so với các nước khác trong khu vực. Ví dụ như khi gia nhập vào WTO, Việt Nam sẽ áp dụng hệ thống các nguyên tắc MFN và đối xử quốc gia đối với tất cả các thành viên của WTO và hàng hoá và dịch vụ của họ. Vì vậy, thách thức mà Việt Nam phải đối mặt hiện nay là làm thế nào để bảo đảm khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp nói riêng và của quốc gia nói chung. Hiện nay, nền kinh tế Việt Nam được cho là có khả năng cạnh tranh thấp so với các nước khác trong khu vực. Bằng việc tự do hoá nhanh chóng thị trường của mình, kể cả các ngành công nghiệp còn non trẻ, các doanh nghiệp trong nước sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh khắc nghiệt từ các đối thủ kinh doanh nước ngoài. Việc mở cửa thị trường cho hàng hoá, đầu tư và dịch vụ nước ngoài, và những cam kết của Việt Nam để tạo ra một môi trường thuận lợi cho kinh doanh sẽ tạo điều kiện cho các doanh nhân nước ngoài có được sự tiếp cận rộng hơn đối với thị trường Việt Nam. Một số ngành có khả năng cạnh tranh thấp như dịch vụ, sẽ bị đặt vào những tình thế bất lợi, dẫn đến những tác động xấu đối với nền kinh tế nói chung. Ngoài ra, do còn nhiều yếu kém, các doanh nghiệp nội địa khó có thể đầu tư ra nước ngoài để khai thác lợi thế về đối xử ưu đãi mà Việt Nam sẽ nhận được thông qua việc hội nhập nền kinh tế quốc tế và xu thế toàn cầu hóa. Hậu quả là Việt Nam có thể trở thành một nhà máy khổng lồ của các công ty nước ngoài.     Đối với ngành nông nghiệp, vòng đàm phán thương mại Doha đã đặt ra những yêu cầu khó khăn hơn đối với ngành nông nghiệp của các thành viên mới, như, xoá bỏ trợ cấp xuất khẩu, thực hiện các tiêu chuẩn quốc tế an toàn thực phẩm, xoá bỏ hàng rào bảo hộ và giảm thuế  nhập khẩu lương thực. Do vậy, ngành nông nghiệp Việt Nam sẽ phải đối mặt với  những thách thức lớn khi đất nước gia nhập WTO.  Kết quả là sẽ có sự sụt giảm trong thu nhập bình quân đầu người của khu vực nông nghiệp, dẫn đến sự bất bình đẳng ngày càng tăng giữa khu vực nông thôn và thành thị khi chúng ta mở cửa thị trương quốc tế và gia nhập mạnh mẽ vào nền kinh tế lớn này.     Về phía người lao động, việc mở cửa thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế trong xu thế toàn cầu hóa sẽ gây ra một số bất lợi cho họ. Những thách thức trong việc mở cửa thị trường và xoá bỏ trợ cấp nhà nước và sự bảo hộ trong một số ngành sẽ dẫn tới việc thu hẹp hoặc đóng cửa nhiều doanh nghiệp khiến cho tỷ lệ thất nghiệp gia tăng. Trong những trường hợp như vậy, hệ thống an sinh xã hội của Việt Nam không có khả năng hỗ trợ những người cần sự giúp đỡ, do Việt Nam vẫn chưa có mạng lưới bảo hiểm thất nghiệp. Cho đến nay, mới chỉ có 12% lực lượng lao động được hệ thống bảo hiểm xã hội bảo vệ. Người lao động làm việc trong khu vực phi chính thức hoặc khu vực nông nghiệp vẫn không được bảo vệ. Những khó khăn này đặt người lao động Việt Nam vào những tình thế rất dễ bị tổn thương. Ngoài ra, hội nhập kinh tế thông qua WTO cũng sẽ làm cho khoảng cách về thu nhập giữa lao động có kỹ năng và không có kỹ năng, giữa nông thôn và thành thị ngày càng rộng. Đặc biệt, cơ hội cho người nghèo ở nông thôn tham gia vào các hoạt động được toàn cầu hoá là rất ít do phần lớn trong số họ là những người lao động không qua đào tạo.     Với Việt Nam và các nước đang phát triển nói chung, việc tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế không phải là một bảo đảm rằng nền kinh tế sẽ phát triển nhanh chóng, thuận lợi. Lý thuyết và thực tế cho thấy tư cách thành viên mới chỉ là chiếc vé để tham gia vào một trò chơi. Thành công đòi hỏi Việt Nam phải có những nỗ lực vượt bậc trong nhiều lĩnh vực để nắm bắt những cơ hội và giảm thiểu những tác động tiêu cực trong quá trình hội nhập này. Tư cách thành viên mà Việt Nam sẽ đạt được là một cơ hội để Việt Nam phát triển nhanh nền kinh tế, đồng thời, nó cũng mang lại những thách thức lớn khi tham gia vào tổ chức WTO. Nhưng đó là thách thức trong cơ hội, và thách thức cũng mang lại những cơ hội. Bằng việc tái cấu trúc nền kinh tế và khung khổ thể chế, tăng khả năng cạnh tranh quốc gia,… Việt Nam có thể vượt qua được những khó khăn và gặt hái những lợi ích từ quá trình toàn cầu hoá kinh tế ngày càng tăng này.     Mở cửa nền kinh tế của mình, có nghĩa là nước đó sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt từ những đối thủ nước ngoài. Hậu quả là, các doanh nghiệp trong nước, đặc biệt là các DNNVV thiếu khả năng cạnh tranh sẽ lâm vào tình trạng khó khăn hoặc đi đến phá sản. Nếu không có các chiến lược phát triển thích hợp của Chính phủ và bản thân các doanh nghiệp, nền kinh tế sẽ phải chịu nhiều tổn thất từ hội nhập kinh tế. Các DNNVV đang như con thuyền bé lênh đênh giữa đại dương rộng lớn, thị trường thế giới sẽ trở thành một chiến trường khốc liệt hơn bao giờ hết, cuộc đấu sẽ luôn tiếp diễn đòi hỏi các DNNVV phải không ngừng hoàn thiện mình và phát triển. Mở cửa tức là chấp nhận bước vào cuộc chơi mà thôi, ai yếu thế và không sẵn sàng bước vào cuộc chơi sẽ bị loại bỏ. Mô hình liên doanh liên kết giữa các DNNVV sẽ trở thành một khối đoàn kết, giúp cho các DNNVV có thể vượt qua được những trở ngại trước mắt     Để thành công trong quá trình hội nhập kinh tế, các nước không nên chỉ dựa vào những lợi thế so sánh mà họ có. Thực tế đã cho thấy rằng những lợi thế to lớn mà nhiều quốc gia đang phát triển có được với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, nguồn lao động rẻ và dồi dào… đã không phải là chiếc chìa khoá vàng dẫn các nước này đến sự thịnh vượng. Điều quan trọng là, các nước phải nắm bắt được lợi thế cạnh tranh thông qua tri thức, sự đổi mới và nguồn vốn con người để đạt được mục tiêu tăng trưởng bền vững. 2. Những khó khăn và thách thức đặt ra với DNNVV  Tuy có được những điều kiện rất thuận lợi song các doanh nghiêp nhỏ và vừa đang đứng trước những thách thức không nhỏ. Đặc biệt là trong xu thế hội nhập đòi hỏi sự nỗ lực vượt bậc về tất cả mọi mặt, thách thức đặt ra cho các DNNVV và phải vượt qua được các thử thách là điều tất yếu trong quy luật phát triển của DNNVV 2.1. Những khó khăn đối với DNNVV 2.1.1. Bất cập về trình độ quản lý và công nghệ Đây quả thật là vấn đề không nhỏ mhi mà sự phát triển ngày càng gia tăng nhu cầu về cách thức quản lý khoa học và người quản lý có trình độ là thật sự cần thiết và quyết định đến sự tồn vong của doanh nghiệp, đặc biệt là các DNNVV. Tuy nhiên theo số liệu thống kê thì hiện nay có tới 55.63% số chủ doanh nghiệp có trình độ học vấn từ trung cấp trở xuống, trong đó 43,3% chủ doanh nghiệp có trình độ học vấn từ sơ cấp và phổ thông các cấp. Cụ thể, số người là tiến sĩ chỉ chiếm 0,66%; thạc sĩ 2,33%; đã tốt nghiệp đại học 37,82%; tốt nghiệp cao đẳng chiếm 3,56%; tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp chiếm 12,33% và 43,3% có trình độ thấp hơn. Điều đáng chú ý là đa số các chủ doanh nghiệp ngay những người có trình độ học vấn từ cao đẳng và đại học trở lên thì cũng ít người được đào tạo về kiến thức kinh tế và quản trị doanh nghiệp. Về trình độ sử dụng công nghệ, chỉ có khoảng 8% số doanh nghiệp đạt trình độ công nghệ tiên tiến mà phần lớn là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI). Doanh nghiệp trong nước đang sử dụng công nghệ cũ, lạc hậu và khả năng cạnh tranh về công nghệ của các doanh nghiệp phía bắc là rất thấp. Bên cạnh đó, chỉ tiêu về sử dụng công nghệ thông tin cũng cho thấy, tuy số doanh nghiệp có sử dụng máy vi tính lên đến hơn 60% nhưng chỉ có 11,55% doanh nghiệp có sử dụng mạng nội bộ - LAN, số doanh nghiệp có Website là rất thấp chỉ 2,16%. Ta có thể dễ dàng nhận ra một nghịch lý, trong khi trình độ về kỹ thuật công nghệ còn thấp nhưng nhu cầu đào tạo về kỹ thuật và công nghệ của doanh nghiệp có tỷ lệ rất thấp; chỉ 5.65% doanh nghiệp được điều tra có nhu cầu về đào tạo công nghệ. Vậy chứng tỏ là các DNNVV thực sự chưa chú trọng đến việc phát triển và áp dụng KHCN để tăng hàm lược chất xám, nâng cao hiệu quả cũng như chất lược của sản phẩm. Trong khi việc phát triển KHCN và áp dụng công nghệ trong sản xuất đang là một vấn đề nóng hổi và rất đang quan tâm thì có phần lớn các chủ doanh nghiệp lại đi ngược lại yêu cầu này. Số liệu tổng hợp cũng cho thấy một sự khác biệt cơ bản giữa các doanh nghiệp Việt Nam với các doanh nghiệp của các nước khác. Trong khi các doanh nghiệp trên thế giới quan tâm hàng đầu về các thông tin công nghệ và tiến bộ kỹ thuật, thị trường cung cấp và tiêu thụ thì doanh nghiệp Việt Nam lại chủ yếu quan tâm đến các thông tin về cơ chế, chính sách liên quan đến doanh nghiệp, rất ít doanh nghiệp quan tâm đến các thông tin về kỹ thuật và công nghệ. 2.1.2. Nhu cầu lớn về vốn, thị trường và đào tạo Từ số liệu của các cuộc điều tra thì các doanh nghiệp tiếp tục đề cập tới nhiều khó khăn đã được nhắc đến nhiều lần. Cụ thể 66.95% doanh nghiệp cho biết thường gặp khó khăn về tài chính; 50.62% doanh nghiệp thường gặp khó khăn về mở rộng thị trường; 41.74% doanh nghiệp gặp khó khăn về đất đai và mặt bằng sản xuất; 25.22% doanh nghiệp gặp khó khăn về giảm chi phí sản xuất; 24.23% khó khăn về thiếu các ưu đãi về thuế; 19.47% khó khăn về thiếu thông tin; 17.56% doanh nghiệp khó khăn về đào tạo nguồn nhân lực... Về khả năng tiếp cận các nguồn vốn của Nhà nước: chỉ có 32,38% số doanh nghiệp cho biết đã tiếp cận được các nguồn vốn của Nhà nước, chủ yếu là doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp cổ phần hóa; 35,24% số doanh nghiệp khó tiếp cận và 32,38% số doanh nghiệp không tiếp cận được. Trong khi đó, việc tiếp cận nguồn vốn khác cũng gặp khó khăn chỉ có 48,65% số doanh nghiệp khả năng tiếp cận, 30,43% số doanh nghiệp khó tiếp cận và 20,92% số doanh nghiệp không tiếp cận được. Bên cạnh đó, việc tham gia các chương trình xúc tiến thương mại của Nhà nước cũng rất khó khăn. Chỉ có 5,2% số doanh nghiệp đã được tham gia; 23,12% số doanh nghiệp khó được tham gia và 71,67% số doanh nghiệp không được tham gia. Qua cuộc điều tra, doanh nghiệp cũng bày tỏ nhu cầu về đào tạo trong rất nhiều lĩnh vực, trong đó có 33,64% số doanh nghiệp có nhu cầu đào tạo về tài chính, kế toán; 31,62% số doanh nghiệp có nhu cầu đào tạo về quản trị doanh nghiệp; 24,14% có nhu cầu đào tạo về phát triển thị trường; 20,17% số doanh nghiệp có nhu cầu đào tạo về lập kế hoạch, chiến lược kinh doanh; 12,89% có nhu cầu đào tạo về phát triển sản phẩm mới; 12,89% có nhu cầu đào tạo về kỹ năng đàm phán và ký kết hợp đồng kinh tế; 11,62% có nhu cầu đào tạo về quản lý nguồn nhân lực; 10,85% số doanh nghiệp có nhu cầu đào tạo về ứng dung công nghệ thông tin trong doanh nghiệp... Rõ ràng là các doanh nghiệp đã nhận thấy nhu cầu rất lớn về đào tạo nhưng chưa được đáp ứng. Đây là vấn đề mà các cơ quan chức năng cần tập trung hỗ trợ; đồng thời cũng là một thị trường đang cần rất nhiều dịch vụ đào đạo chất lượng cao, là cơ hội cho các đại học, các viện nghiên cứu... 2.1.3. Bất lợi trong việc mua nguyên vật liệu, cơ sỡ vật chất kĩ thuật lạc hậu chậm đổi mới Có thể nói các DNNVV có cách thức tổ chức hoạt động kinh doanh kém, thêm vào đó là sự bất lợi trong việc mua nguyên vật liệu để sản xuất, máy móc thiết bị. Do quy mô không lớn, khả năng tài chính hạn hẹp nên chỉ giới hạn số lượng mua hàng, chỉ mua với số lượng nhỏ, các doanh nghiệp không được hưởng hưởng chiết khấu hay giảm giá, điều mà các doanh nghiệp lớn thường được hưởng do lợi thế trong việc mua sản phẩm với khối lượng lớn và đã là khách hàng làm ăn quen thuộc. Mặt khác khi mua máy móc trang thiết bị để phát triển sản xuất từ nước ngoài thì các DNNVV thường thiếu ngoại tệ nên không thể mua trực tiếp mà phải vay mượn hoặc là phải thông qua đại lý nên thường là giá lên rất cao so với mức giá thực tế. Một điều nữa cũng bắt nguồn từ nguyên nhân trên, đó là cơ sỡ vật chất kỉ thuật lạc hậu, trình độ thiết bị công nghệ yếu kém, nhà xưởng, nơi làm việc trực tiếp và trụ sở giao dịch, quản lý đa phần là rất chật hẹp và không đủ diện tích, chứ chưa nói đến việc có được các gian hàng trưng bày, các Showroom với quy mô lớn, dẫn đến bộ mặt của DN không đủ lực để đảm bảo sự tin cậy cho đối tác và không thể tự mình tôn lên khả năng, năng lực của doanh nghiệp trong việc thực hiện các công việc, xã giao với các đối tác làm ăn. Các DNNVV không đủ số lượng tiền đủ lớn để quay vòng và thay đổi các thiết bị cho nên các khấu hao cơ bản sẽ được tính dài ra, vòng đời công nghệ vì thế cũng được giãn ra dài hơn so với yêu cầu phải thay đổi công nghệ nên ngay từ việc mua may móc trang thiết bị ban đầu đã lạc hậu thì nay sự lạc hậu đó còn được kéo dài ra thêm nữa. 2.1.4. Hoạt động sản xuất thiếu vững chắc, yếu về sức cạnh tranh và việc tiếp cận thị trường Mặc dù các DNNVV có ưu thê là rất linh hoạt trước sự thay đổi bất thường của thị trường, nhưng do khả năng tài chính hạn hẹp nên khi biến động lớn xảy ra thì rất dễ dẫn đến tình trạng đó là các doanh nghiệp nhỏ và không đử sức để xoay chuyển tình thế sẽ phải chấp nhận phá sản. Trên thực tế hiện tượng nay rất nhiều và diễn ra liên tục, vòng đời của các DNNVV là rất ngắn. Tuy nhiên, trong khi có một số doanh nghiệp bị phá sản thì số đông các DN khác sẽ được thành lập và thường thì số dong nghiệp được thành lập luôn lớn hơn rất nhiều số lượng các doanh nghiệp bị phá sản cho nên một điều dễ dàng xảy ra đó là sự xáo trộng trong hoạy động kinh tế, sựa mất ổn dịnh và khó quản lý đối với các doanh nghiệp, và lĩnh vực kinh doanh. Một vấn đề nữa từ các DNNVV đó là việc thường xuyên thay đổi hoạt động sản xuất kinh doanh cũng làm cho nền kinh tế càng khó quản lý, thêm vào đó là các DN này phải thường xuyên thay đổi mặt bằng sản xuất kinh doanh, trụ sở giao dịch nên hoạt động sản xuất kinh doanh luôn để trong tình trạng bị động, thiếu vững chắc và thiếu sự ổn định cần thiết cho hoạt động kinh doanh thương nhật của doanh nghiệp. Cùng với những khó khăn trên thì còn một vấn đề lớn trong quá trình sản xuất kinh doanh của các DNNVV cũng nảy sinh một số tiêu cực ảnh hưởng không tốt đến đời sống kinh tế - xã hội như trốn, lậu thuế, mua bán hàng giả, hàng nhái, mau bán hóa đơn và gây ô nhiễm môi trường. Các DNNVV luôn bị yếu thế trong cạnh tranh trên thương trường khi đối đầu với các doanh nghiệp lớn hơn về quy mô cũng như tiềm lực, năng suất lao động của doanh nghiệp nhỏ và vừa còn rất thấp. Việc tiếp cân thông tin càng khó khăn hơn khi các doanh nghiệp với quy mô nhỏ không đủ liềm lực về công nghệ cũng như con người để nắm bắt thông tin một cách nhanh nhạy và chính xác. Trình độ quản lý của DN còn hạn chế, chưa cập nhật được các kiến thức về kinh tế và thị trường, về quản trị kinh doanh chỉ dự vào kinh nghiệm thiếu các thông tin thực tiễn. 2.2. Những thách thức đối với DNNVV 2.2.1. Năng lực ứng dụng công nghệ trong sản xuất, kinh doanh và quản lý ở các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam còn yếu Trong tình hình như hiện nay, khi mà việc áp dụng KHCN trong hoạt động SXKD ngày càng được quan tâm và ưu tiên hang đầu bởi vì nó đem lại cho doanh nghiệp năng lực cao hơn trong cạnh tranh do có lợi thế về công nghệ, hiệu quả kinh doanh tốt hơn. Có thể nói trong thởi đại ngày nay thì công nghệ không chỉ đóng góp phần quan trọng trong doanh nghiệp mà phải nói rằng nó là yếu tố sống còn của doanh nghiệp. Nhưng các DNNVV ở nước ta thì sao? Tuy đã có được công nghệ từ nước ngà lại có lợi thế là một nước đi sau nhưng lại rất yếu về năng lực ứng dụng KHCN trong sản xuất, kinh doanh và cả trong quản lý. Điều này cũng dễ thấy khi mà công tác đào tạo của Việt Nam còn mang nặng tính sách vở và ít hiện thực, thứ hai nền kinh tế của nước ta còn rất yếu kém chưa đủ tiềm lực về vốn, con người để thay đổi theo các công nghệ tiên tiến hơn và ngày càng tiến triển một cách chóng mặt, thứ ba ta có thể nhận thấy một quy luật rất tự nhiên đó là ai sáng tạo ra cái gì thì người đó sẽ thành thục nhất trong việc áp dụng nó, nước ta hay tất cả các DN nước ta rất yếu về khâu nghiên cứu và đổi mới công nghệ, tìm ra cho mình một hướng đi riêng, tự sáng tạo cho mình mô thức làm việc hiện đại mà chỉ đơn giản là bắt chước, nhiều khi sự bắt chước chỉ là hình thức không nắm bắt được cái cốt lõi bên trong của công nghệ, sự sáng tạo của nhà nghiên cứu chỉ có hạn. Không chỉ yếu vê nghiên cứu và phát triển mà các DNNVV hiện nay cũng rất khó khăn trong việc thay đổi công nghệ để nó phù hợp hơn với điều kiện của DN mình. 2.2.2. Sự cạnh tranh trong môi trường ngành diễn ra ngày càng lớn về mức độ cũng như quy mô Trong quá trình phát triển của nền kinh tế có một quy luật mà tất các các doanh ngiệp cần phải nắm bắt đó là chu kỳ kinh doanh, sản xuất của doanh nghiệp, tuy khác nhau về mức độ nhưnh có điểm giống nhau đó là khi có một công việc kinh doanh và nhiều doanh nghiệp tham gia vào nó, hay đây có thể hiểu nôm na đó là thị trường ngành. Trong một môi trường ngành thì các doanh nghiệp sẽ ngày càng tập trung đông hơn, sau một quá trình chon lọc thì những doanh nghiệp sống sót trong thị trường ngành sẽ làm cho thị trường ngành ngày càng cạnh tranh gay gắt và khốc liệt hơn, các doanh nghiệp vì lợi nhuận và chạy theo lợi nhuận sẽ phải tìm cách để hơn được tất cả các DN còn lại trong thị trường của mình. Các DN gia nhập sau thường có được lợi thế hơn nhờ học hỏi được kinh nghiệm của các doanh nghiệp đã bị buộc phải rời khỏi ngành, thứ hai các DN mới gia nhập vào ngành sau quá trình thanh lộc thường là các doanh nghiệp rất lớn, có thợi thế hơn so với các DN còn lại trong ngành hoặc là có được bí quyết công nghệ hoặc là đã phát hiện ra lổ hỗng của thị trường. 2.2.3. Sự khó khăn về vốn và các hoạt dộng tín dụng Tròng các DN thì tài chính đóng vai trò tiên quết trong mọi hoạt động, nhưng các doanh nghiệp lại yếu nhất ở khâu này, khi mà thị trường ngày càng thay đổi mạnh maẽ chi phí đầu vào luôn tăng qua các kỳ kinh doanh thì việc đòi hỏi phải có được lượng vốn lớn để xoay vòng sản xuất là điều không thể tránh khỏi, nhưng các DNNVV mỗi năm chứ đừng nói là mỗi quý hay mỗi tháng đều có thu nhập thấp, lợi nhuận thu về không đủ trích ra để phát triển kinh doanh. Hoạt động ký gửi trong kinh doanh diễn ra ngày càng lớn, việc bị chiếm dụng vốn là điều rất đương nhiên và các DN trong đó có DNNVV phải chấp nhận việc này để đảm bảo cho công việc làm ăn trở nên dễ dàng thuận tiện hơn, “trường vốn” sẽ giúp cho DN có chổ đững vừng vàng hơn trên thị trường. Có một phương hướng giải quyết cho vấn đề vốn đó là hoạt động cho vay hay hoạt động tín dụng. Các doanh nghiệp yếu thế về vốn sẽ tìm được hướng giải quyết cho việc phát triển và kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên việc có được nguồn vốn này từ các tổ chức cho vay tín dụng là không phải dễ, bởi vì các thủ tục váy mượn rất rườm rà và phúc tạp mặc dù đã có sự đổi mới. Mặt khác nữa là các tổ chức hoạt động về cho vay tín dụng và tài chính không phải là tổ chức từ thiện, đây cũng là các cơ sở kinh doanh cho nên khi vay tiền các DNNVV phải chứng thực được khả năng về tài chính, cam kết trả vay đúng hạn cũng như phải thế chấp tài sản, nếu một doanh nghiệp đang kinh doanh không tốt do thiếu vốn và cần hỗ trợ về vốn thì việc vay được điều không tưởng, hơn nữa các DNNVV rất nhiều cho nên việc cạnh tranh để vay mượn được khoản tiền này càng trở nên khóa khăn hơn. Thị trường tài chính của nước ta đang chao đảo, các chính sách vĩ mô, các chính sách tiền tệ thay đổi liên tục cũng khiến cho hoạt động tín dụng gặp phải khó khăn. Sự bình ổn về thị trường tài chính sẽ giúp cho hoạt động tín dụng dễ dàng hơn, các DNNVV cũng dễ thở hơn. 2.2.4. Sự thay đổi của thị trường diễn ra với tốc độ chóng mặt Sau khi gia nhập vào kinh tế quốc tế và mở cửa thị trường thì sự thay đổi diễn ra càng mạnh mẽ hơn, tốc độ thay đổi cũng nhanh hơn rất nhiều. Khủng hoảng tài chính thế giới năm 97, nước láng diềng Thái Lan lâm vào khủng hoảng nhưng nước ta thì khôgn ảnh hưởng gì lớn, nhưng ai dám chắc rằng khi mở cửa rộng rãi hơn, tham gia vào kinh tế quốc tế thì một sự biến chuyển của thị trường sẽ gây tác động cho nước ta đến đâu thì đó là điều không ai dám chắc được. Các sự thay đổi thường thấy hiện nay ta có thể nhận thấy được đó là sự biến động mãnh liệt của giá như giá xăng, giá dầu, giá bất động sản…vv luôn thay đổi và có chiều hướng không rõ rệt, rất khó dự báo. Tiếp theo là thị trường vốn và tài chính mà một ví dụ minh họa điển hình và rõ ràng nhất đó là thị trường chứng khoán, thị trường chứng khoán Việt Nam tăng nhanh, mạnh nhưng chỉ như bong bóng xà phòng, không ổn định. Tiếp nữa, là thị trường xuất khẩu luôn nằm trong tư thế bất ổn, sự ràng buộc từ các yếu tố xuất khẩu, các thị trường lớn thay đổi khiến hoạt động XNK không yên ổn… và hàng loạt các yếu tố khác từ thị trường gây khó khăn không chỉ cho các DN lớn mà các DNNVV nước ta cúng không là trường hợp ngợi lệ. Sự thay đổi linh hoạt để đáp ứng cho nhu cầu mới là điều cần thiết nhưng các DNNVV vừa yếu về vốn, vừa yếu về công nghệ, năng lực có hạn thì việc sự thay đổi của thị trường diễn ra với tốc độ chóng mặt là một thách thức không nhỏ đối với các DNNVV. 3. Sự cần thiết phải hỗ trợ DNNVV trong quá trình phát triển Từ sau Đại Hội Đảng toàn quốc lần VI (năm 1986), cả nước chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, dần dần xóa bỏ cơ chế kinh tế cũ. Chính sách mở cửa, thu hút đầu tư tạo môi trường thuận lợi cho các ngành sản xuất trong nước phát triển, phát huy khả năng của mọi thành phần kinh tế, trong đó có thành phần kinh tế ngoài quốc doanh tăng trưởng đáng kể, đặc biệt là các DNNVV. Tuy nhiên trong sự phát triển mạnh mẽ của mình thì có một hiện tượng hay nói đúng hơn là một vấn đề xảy ra đó là phần lớn nhân lực của các DNNVV đều rơi vào tình trạng hụt hẫng, không đáp ứng yêu cầu chuyên môn nghiệp vụ, kỹ luật và tác phong lao động nhất là các doanh nghiệp có các sản phẩm xuất khẩu. Thời gian qua, các DNNVV đã có bước đầu huy động tiềm năng và nguồn lực để tập trung cho công tác đào tạo và bồi dương nguồn nhân lực, tuy nhiên tỷ lệ lao động chưa tưng xứng với yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra trong quá trình phát triển, công tác đào tạo chưa được chú trọng đúng mức. Các DNNVV đa số sử dụng máy móc công nghệ đã lạc hậu, việc nghiên cứu KH&CN tuy đã cso nhưng chưa chuyển biến rõ rệt. Như các số liệu báo cáo cho thấy hiệu quả hoạt động SXKD chưa cao, dẫn đến năng lực cạnh tranh yếu kém là hậu quả tất yếu đối với nhiều DNNVV. Tất cả những điều trên vừa xuất thân từ chính bản thân của các doanh nghiệp, mà doanh nghiệp không thể tự khắc phục và một phần là do các yếu tố khách quan bên ngoài. Chính vì vậy vấn đề hỗ trợ là thật sự cần thiết đối với các DNNVV. Trong xu thế mới như hiện nay việc phát triển DNNVV là điều rất cần thiết cho đấtt nước trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hóa. Một khi phát triển mạnh mã và có chất lượng các DNNVV và công tác hỗ trợ DNNVV được đảm bảo thì điều đầu tiên ta có thể thấy đó là những khó khăn xuất phát từ bản thân doanh nghiệp sẽ không còn nữa, các DNNVV sẽ có cơ hội phát triển, đem lại cuộc sống ổn định cho mỗi cá nhân và tăng thu nhập cho nền kinh tế quốc dân. Thứ hai, việc phát triển các DNNVV là đi đúng quy luật phát triển và sự cần thiết của nền kinh tế Việt Nam bây giờ, những yếu kém của nền kinh tế Việt Nam đó là: Nền kinh tế nhỏ lẻ và lạc hậu, phát triển chủ yếu dựa vào nông nghiệp; trình độ phát triển kém, lạc hậu về công nghệ quản lý và kỉ thật sản xuất, nền kinh tế có sức cạnh tranh yếu; tỷ lệ thất nghiệp còn cao; chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm chạp, chưa tận dụng được hết lợi thế về nguồn nhân lực, tài nguyên thiên nhiên…vv và vô vàn những vấn đề khác xuất thân từ nền kinh tế của Việt Nam, DNNVV sẽ góp phần làm thay đổi những vấn đề và vướng mác từ nền kinh tế của Việt Nam. Mặt khác, phát triển DNNVV sẽ khắc phục được các vấn đè xã hội, bởi vì nó góp phần làm giảm tỉ lệ thất nghiệp, tăng thu nhập, thay đổi cách đào tạo, lành mạnh hóa thể chế chính trị và làm giảm các vấn đề gây mất an ninh trật tự và các vấn đề xã hội liên quan đến người lao động. Chính những lý do trên và yêu cầu cho tình hình mới mà ta thấy được sự cần thiết phải hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Hỗ trợ cho các DNNVV cũng chính là hỗ trợ cho chính nền kinh tế Việt Nam. PHẦN II Thực trạng phát triển & công tác hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn TP Đà Nẵng giai đoạn 2002 – 2007 I/ Thực trạng phát triển của các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn thành phố Đà Nẵng Trong Phần II em sẽ trình bày các vấn đề qua việc trả lời các câu hỏi như: Tình hình phát triển của DNNVV ở TP Đà Nẵng hiện nay như thế nào? Các cách thức công tác hỗ trợ đã được TP áp dụng để hỗ trợ DNNVV trong thời gian qua ra sao? Những nguyên nhân nào đã gây nên sự hạn chế việc hình thành và phát triển DNNVV ở TP ? Từ đó sẽ có những cái nhìn cụ thể và chính xác để đưa ra những kiến nghị phù hợp sẽ được trình bày chi tiết trong Phần III nhằm giúp DNNVV càng ngày càng có cơ hội phát triển, tận dụng hết những lợi thế vốn có của DNNVV và ngày càng khẳng định vị thế cũng như vị trí của doanh nghiệp đối với nền kinh tế. Nhưng để tìm hiểu được những vấn đề trên thì ta cùng đi sâu vào tìm hiểu thực trạng và các báo cáo về doanh nghiệp dân doanh (DNDD) là thành phần chính trong cơ cấu về DNNVV thành phố. Phân tích DNDD cũng chính là phân tích tình hình các DNNVV đang hoạt động trên địa bàn thành phố. 1. Số lượng doanh nghiệp phát triển qua các năm 1.1. Giai đoạn 1997 – 1999 Quy mô và số lượng các DNDD, có số lượng ngày càng tăng, trong các DN này có quy mô ngày càng tăng và chất lượng cũng có nhiều sự biến đổi. Về số lượng, năm 1997 Thành phố có 670 DNDD đăng ký kinh doanh 9 trong đó có 391 DNTN, 266 công ty TNHH, 14 Công ty Cổ phần). Năm 1999, con số này là 855 doanh nghiệp (trong đó có 504 DNTN, 322 công ty TNHH, 29 công ty Cổ phần), tăng lên 185 DNDD, tính bình quân giai đoạn 1997-1999 mỗi năm tăng 62 DN; tốc độ tăng bình quân thời kỳ này là 12,9%. Vốn đăng ký, năm 1997 là 150,48 tỷ đồng, năm 1999 đạt 316,9 tỷ đồng, tăng gấp 2 lần so với năm 1997; tốc độ tăng bình quân thời kỳ này là 45,1%. Lao động, năm 1997 số lao động trong DNDD là 7756 người chiếm 2,59% tổng lao động toàn Thành phố thì dến năm 1999 con số này là 8707 người chiếm 2,73% tổng lao động toàn Thành phố; tốc độ tăng bình quân thời kỳ này là 6%. Năm 1999 doanh nghiệp sản xuất công nghiệp chiếm 12,8%, Thương mại-dịch vụ chiếm 75,8%, Vận tải-xây dựng chiếm 4,1%, ngành nghề khác chiếm 7,2%. 1.2. Giai đoạn 2000 – 2007 Với quan điểm của Đảng ta là “xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN”. DNDD Đà Nẵng đã có bước phát triển tương đối nhanh chóng đóng góp một phần quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu của Thành phố “phát triển nhanh và bền vững”, đẩy nhanh sự phát triển của Thành phố. Giai đoạn 2000-2007 (sau khi có Luật doanh nghiệp) tốc dộ tăng bình quân là 33,435%, gấp 9,83 lần so với thời kỳ chưa có Luật doanh nghiệp. Bảng 2: Số lượng DNDD dăng ký thành lập qua các năm. (ĐVT: Doanh Nghiệp) Chỉ tiêu 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Tổng số Số DN được cấp giấy chứng nhận ĐKKD 397 611 620 789 1.136 1.429 1719 1940 8640 Gồm: -DNTN -Công ty TNHH -Công ty CP -C/nhánh, VPĐD 168 157 11 54 212 292 16 91 188 314 26 92 182 412 60 135 281 576 105 174 301 694 216 218 346 879 209 285 299 991 306 246 1977 4315 949 1295 Số DN có đến 13/12 1.256 1.687 2.240 2.756 3.764 4.981 6676 8154 8154 Tỷ lệ tăng trưỡng năm % 52,28 34,31 32,78 23,04 36,57 32,33 34,03 22,14 33,435 Số DN bị xoá tên 180 67 273 156 201 140 220 - Tổng vốn đăng ký (Triệu đồng) 230.246 578.580 471.419,2 2.539.386 5.121.214 7.039.652 5.481.348 7.100.937 - Vốn b/q 1 DN (Triệu đồng) 580 947 760 3.218 4.508 4.926 3.188 4.449 - (Nguồn : Sở Kế hoạch-Đầu tư TP Đà Nẵng) Tốc độ phát triển DN qua các năm đã tăng một cách đáng kể, nhất là từ khi có luật DN băt đầu có hiệu lực (1/1/2000). Năm 2001, có 611 DN ĐKKD tăng 1,54 lần so với năm 2000. Năm 2002 có 620 DN ĐKKD tăng 1,4% so với năm 2001. Năm 2002 có 789 DN ĐKKD tăng 27,26% so với năm 2002. Đặc biệt năm 2004 có đến 1136 DN ĐKKD tăng 44% so với năm 2003. Sỡ dĩ có sự tăng nhanh như vậy là do TP có quyết định lấy năm 2004 là “Năm doanh nghiệp”, trong thời gian này Chính quyền thành phố đã có những chính sách hỗ trợ tích cực cho DN. Năm 2005 có 1429 DN ĐKKD tăng 25% so với năm 2004. Năm 2005 là năm cuối cùng của kế hoạch 5 năm là năm đánh dấu bước chuyển biến mới những chủ trương chính sách đã đi vào cuộc sống giúp DN an tâm hơn mạnh dạn đầu tư kinh doanh. Cho đến năm 2006 con số này đã là 6766 DN, và cho đến hết tháng 12/2007 thì cả thành phố đã có được số DNDD lên đến con số 8154 DN (tăng gấp 9 lần so với năm 1999), trong đó có 1977 DNTN, 4315 Công ty TNHH, 949 Công ty Cổ phần. Tốc độ tăng bình quân thời kỳ 2000-2007 là 33,435%, gấp 2,7 lần so với giai đoạn 1997-1999. (ĐVT: Doanh Nghiệp) Biểu đồ 1: Số lượng DNDD Tp Đà Nẵng qua 8 năm 2000-2007 Trong 8 năm qua, số DN đăng ký thành lập theo loại hình công ty TNHH chiếm nhiều nhất với 4315 DN chiếm 49,94% so với tổng số DN đăng ký thành lập, tiếp đến là DNTN với 1977 DN chiếm 22,88%. Công ty CP là loại hình ít được chọn lựa nhất với 949 DN, chỉ chiếm chưa đến 10,98%. Có thể thấy rằng, người kinh doanh ở Đà Nẵng chưa quen và tin tưởng vào cách làm ăn hùn hạp, huy động vốn từ nhiều người để đầu tư qua hình thức Cổ phần. Còn công ty TNHH thì đa số có dưới 5 thành viên, chủ yếu là người trong gia đình hoặc bạn bè tin cậy. Như vậy loại hình công ty TNHH là phổ biến nhất trong các loại hình kinh tế, nguyên nhân của hiện tượng này là do Công ty TNHH có tư cách pháp nhân có trách nhiệm hữu hạn về khoản nợ và các nghĩa vụ về tài sản khác của công ty trong phạm vi vốn góp vào DN. Biểu đồ 2: Cơ cấu DN thuộc khối DNDD năm 2007 (%) 2. Quy mô của các DNNVV trên địa bàn thành phồ Đà Nẵng 2.1 giai đoạn 1997 – 1999 Sự đóng góp vủa DNDD đối với sự phát triển kinh tế-xã hội của Thành phố Vốn đầu tư vào sản xuất kinh doanh, năm 1997 là 71,76 tỷ đồng, chiếm 3,83% tổng vốn đầu tư toàn Thành phố. Năm 1999 đạt 112,1 tỷ đồng, chiếm 5,17% tổng vốn đầu tư toàn Thành phố, tăng 52,6% so với năm 1997. Đóng góp vào ngân sách thông qua nộp thuế, năm 1997 là 13,85 tỷ đồng, chiếm 2,1% tổng thu ngân sách Thành phố. Năm 1999, đạt 24,19 tỷ đồng, chiếm 3,66% tổng thu ngân sách Thành phố, tăng 74,6% so với năm 1997. Góp phần tạo sản phẩm Thành phố, GDP năm 1997 đạt 135,1 tỷ đồng, chiếm 5,2% tổng GDP của Thành phố. Năm 1999 đạt 183,11 tỷ đồng, chiếm 5,9% tổng GDP của Thành phố, tăng 35,5% so với năm 1997. Xuất khẩu của DNDD năm 1997 là 10,247 triệu USD, chiếm 6,6% tổng kim ngạch xuất khẩu của Thành phố. Năm 1999 giảm còn 8,176 triệu USD, chiếm 4,4% tổng kim ngạch xuất khẩu của thành phố. Như vậy, trong những năm 1997-1999, các chỉ tiêu của DNDD đều tăng, nhất là vốn đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Nhìn chung DNDD đã thể hiện sự năng động nhạy bén với cơ chế thị trường. Bước đầu tạo ra được sự cạnh tranh giữa DNDD với các thành phần kinh tế khác. Các DNDD có quy mô ngày càng tăng, người dân mạnh dạn bỏ vốn ra làm ăn. Tuy vậy, DNDD thời kỳ này vẫn còn nhiều hạn chế: tốc độ phát triển chậm, quy mô nhỏ chủ yếu kinh doanh TM-DV, chưa mạnh dạn đầu tư vào sản xuất, công nghệ lại lạc hậu… 2.2 Giai đoạn 2000 – 2007 Để góp phân phát huy nội lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước; đẩy mạnh công cuộc đổi mới kinh tế; đảm bảo quyền tự do, bình đẳng trước pháp luật trong kinh doanh của tất cả các thành phần kinh tế, bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp cho chủ đầu tư. Năm 2000, Luật doanh nghiệp đã ra đời tạo nhiều điều kiện thuận lợi thúc đẩy phát triển kinh tế DNDD lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng. Để tìm hiểu được sâu sắc hơn mức độ đóng góp của các DNNVV ta cùng đi vào phân tích các khía cạnh sau: 2.2.1. Về quy mô vốn Vốn đăng ký kinh doanh của các DNDD tăng nhanh qua các năm và đặc biệt tăng cao từ năm 2000 đến nay. Từ khi Luật doanh nghiệp có hiệu lực đã tạo ra hành lang pháp lý và điều kiện thuận lợi để cho các nhà kinh doanh yên tâm bỏ vốn đầu tư, ngoài ra trong thời gian này những vướng mắc trở ngại trong quá trình thực hiện Luật doanh nghiệp đã được kịp thời tháo gỡ tăng thêm lòng tin từ nhà đầu tư vào Chính quyền thành phố. Giai đoạn năm 2000-2005, tốc độ tăng bình quân là 60,9%, gấp 2 lần tốc độ tăng bình quân thời kỳ 1997-1999. Bảng 3: Vốn đăng ký kinh doanh của DNDD (ĐVT: Tỷ đồng) Chỉ tiêu 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 KTTN 778,9 1379,8 1899,1 4498,6 5771,9 8399,1 9876,6 10.784,7 DNDD 600,3 1105,3 1573,4 3998,8 5121,2 7851,0 8968,0 9978,0 % trong KVKTTN 70,1 80,1 82,85 88,89 88,73 93,50 90,08 92,52 (Nguồn: Báo cáo Sở kế hoạch-Đầu tư Tp Đà Nẵng) Quy mô vốn đăng lý kinh doanh của DNDD được huy động của khu vực này có sự gia tăng qua các năm. Năm 1997 vốn đăng lý kinh doanh là 150,48 tỷ đồng; Năm 1999 là 316,9 tỷ đồng; năm 2000 là 600,3 tỷ đồng, chiếm 70,1% trong khu vực KTTN, gấp 1,9 lần so với năm 1999; và đến năm 2007 con số này là 9.978 tỷ đồng, chiếm 92,52 % khu vực KTTN, tăng gấp 24,8 lần so với năm 1999; tốc độ tăng bình quân thời kỳ 2000-2007 là 67,2%, gấp 1,2 lần so với giai đoạn năm 1997-1999. Năm 2007, các Ngân hàng đã có bước chuyển hướng đầu tư sang khu vực kinh tế dân doanh theo định hướng chung của ngành đồng thời khu vực kinh tế dân doanh củng đã tạo được uy tín riêng cho mình với Ngân hàng. Tuy nhiên, số vốn mà các DNDD vay được tư Ngân hàng vẫn còn hạn chế, đồng thời DN chưa mạnh dạn bỏ vốn ra đầu tư do công tác hỗ trợ doanh nghiệp và quản lý Nhà nước đối với DN tuy có bước chuyển biến tích cực nhưng vẫn còn nhiều bất cập hạn chế, do đó chưa đáp ứng được yêu cầu của sản xuất chưa đủ sức mở rộng phát triển sản xuất, hoặc liên kết với các công ty nước ngoài. Theo số liệu thống kê đến cuối năm 2007 thì trong tổng số 8154 DNDD thì có 89 DN có mức vốn trên 1 tỷ đồng, chiếm 1,09%; còn lại 8154 DN có mức vốn dưới 1 tỷ đồng, chiếm 98,91%. Bảng 4: Quy mô vốn bình quân của 1 DNDD qua các năm (ĐVT: Triệu đồng) Chỉ tiêu 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 1. DNTN 309 389 288,3 741 474 417 570 452 2. Cty TNHH 740 1529 1.016,9 1.344 973 1.182 1.044 1.516 3. Cty CP 5.740 3.101 3.233,5 3.084 4.638 5.416 5.101 17.705 (Nguồn : Sở KH-ĐT TP Đà Nẵng) Với quy mô trên đã làm hạn chế hoạt động của DNNVV ở TP Đà Nẵng rất nhiều. Số liệu trên là vốn các DN đăng ký khi làm thủ tục ĐKKD, còn trên thực tế còn thấp hơn. Như vậy, phần lớn các doanh nghiệp đều có mức vốn thấp, quy mô nhỏ, do đó không đủ khả năng tham gia sản xuất kinh doanh ở những ngành nghề lĩnh vực đòi hỏi tập trung vốn lớn và công nghệ cao dẫn đến sản phẩm dich vụ của doanh nghiệp có sức cạnh tranh thấp. 2.2.2. Quy mô sử dụng lao động Lao động trên địa bàn thành phố đang ngày càng tăng lên về số lượng và chất lượng, tuy nhiên, thất nghiệp hiện tại đang là một vấn đề tồn tại trên địa bàn thành phố, số lượng lao động thất nghiệp không nhiều nhưng vẫn là một vấn đề quan trọng và cần phải giải quyết. Các DNNVV đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra việc làm, góp phần xoá đói giảm nghèo và nâng cao đời sống cho nhân dân. So với lao động toàn Thành phố thì lao động trong các khu vực KTTN chiếm khoảng 20%. Lao động làm việc trong khu vực KTTN năm 1997 là 61,62 nghìn người chiếm 20,6% lao động toàn thành phố và đến năm 1999 là 62,55 nghìn người (tăng 1,5% so với năm 1997), chiếm 19,59% lao động toàn Thành phố. Từ năm 2000-2005 thì số lao động làm việc trong khu vực này lên đến 127,38 nghìn người, chiếm 27,38% lao động toàn Thành phố; tốc độ tăng bình quân thời kỳ này là 12,8% gấp 16 lần so với 0,8% thời kỳ 1997-1999. Bảng 5: Quy mô lao động sử dụng trong các DNDD (ĐVT: nghìn người) Chỉ tiêu 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Tổng lđ của TP 322,5 341 367,5 378,7 401,2 466,0 487,3 518,7 Lđ của KTTN % tổng lđ TP 69,67 21,6 82,38 24,2 85,77 23,34 92,61 24,4 106,9 26,6 127,4 27,33 145,6 29,88 164,7 31,75 Lđ của KDCT % tổng lđ TP 56,89 17,6 63,67 18,7 65,52 17,83 69,01 18,2 72,35 18 79,91 17,15 86,78 17,80 91,56 17,65 Lđ của DNDD % tổng lđ TP 12,78 3,96 18,71 5,5 20,25 5,51 22,98 6,2 34,56 8,6 47,47 10,19 41,15 8,50 97,70 18,84 (Nguồn: Báo cáo Sở Kế hoạch và đầu tư thành phố Đà Nẵng) Với bảng số liệu trên thì lao động trong các hộ tăng chậm hơn so với lao động trong các DNDD; điều này là do quy mô nhỏ vốn ít cho nên chủ yếu là huy động những thành viên trong gia đình tham gia sản xuất. Năm 2007 lao động trong các doanh nghiệp là 97,70 nghìn người gấp 7,64 lần so với năm 2000, điều này chứng minh năng lực giải quyết việc làm cho người lao động của DNDD là rất lớn, DNNN đi vào cổ phần hoá đi vào hoạt động ổn định thu hút thêm nhiều lao động, ngành nghề mà các DN lựa chọn đã chuyển dần sang ngành sử dụng nhiều lao động. Nhưng lao động của các DN chủ yếu là lao động phổ thông chưa qua đào tạo. Qua khảo sát 300 doanh nghiệp chỉ có 146 doanh nghiệp sử dụng lao động đã qua đào tạo, còn lại 154 doanh nghiệp sử dụng lao động chưa qua đào tạo. Cũng trong cuộc khảo sát này , trong 300 doanh nghiệp thì thấy số doanh nghiệp sử dụng lao động dưới 50 người là 244 doanh nghiệp, chiếm tỷ lệ 81,378%; số doanh nghiệp sử dụng lao động dưới 300 người là 48 doanh nghiệp, chiếm tỷ lệ 16%; chỉ có 8 doanh nghiệp sử dụng lao động trên 300 lao động , chiếm tỷ lệ 2,67%. 2.2.3. Cơ cấu ngành nghề Trên cở sở đường lối đổi mới của Đảng, được thế chế hoá bằng pháp luật Nhà nước, DNNVV phát triển không ngừng về quy mô và liên tục mở rộng các lĩnh vực hoạt động, ngày càng đóng góp quan trọng cho nền kinh tế nói chung và kinh tế TP Đà Nẵng nói riêng. Các DNDD thành phố Đà Nẵng hiện nay hoạt động với lĩnh vực ngành nghề tương đối đa dạng. Bảng 6: Số lượng DN và cơ cấu ngành nghề của khu vực DNDD Tp Đà Nẵng năm 2007 (ĐVT: %) Lĩnh vực hoạt động Số DN %/ Tổng số DNDD có đến 31/12/2007 8154 100 - Sản xuất công nghiệp 913 11,20 - Thương mại, dịch vụ 5.761 70,65 - Vận tải 426 5,22 - Xây dựng 1.054 12,93 (Nguồn: Sở KH-ĐT TP Đà Nẵng) Có thể nói, các DNNVV của Thành phố có mặt trong mọi ngành nghề nhưng tập trung nhiều nhất là Thương mại, dịch vụ chiếm 70,65%. Đây là những ngành chỉ cần đầu tư vốn ít đã có thể hoạt động được, lại ít rủi ro, không đòi hỏi mặt bằng rộng lớn. DNNVV ngành công nghiệp chiếm 11,20%; ngành xây dựng: 12,93%, ngành vận tải: 5,22%. Biểu đồ 3: Cơ cấu ngành nghề DNDD Tp Đà Nẵng đến cuối năm 2007 3. Những khó khăn và những vướng mắc cần được tháo gỡ Trong những năm qua, với sự phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng, DNNVV đã có nhiều đóng góp đáng kể cho quá trình tăng trưởng và phát triển, cũng như nguồn thu vào ngân sách của thành phố. Tuy nhiên trong giai đoạn từ năm 1997 đến nay thì các DNNVV vẫ còn gặp phải những khó khăn và vướng mắc, những bất cập cầ được tháo gỡ. 3.1. Những khó khăn và sự yếu kém, vướng mắc trong phát triển DNNVV: aPhần lớn các DNNVV chưa nhận thức được mức độ ảnh hưởng của quá trình toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực tới nền kinh tế trong nước, tới hoạt động sản xuất - kinh doanh của các doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa lẫn doanh nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng. Việc nhân thức được sự thay đổi của môi trường vĩ mô sẽ giúp các DNNVV có thể thích nghi với sự thay đổi này. Các DNNVV của TP Đà Nẵng hoàn toàn chưa nhận thức được sự thay đổi, thậm chí có những DNNVV tuy nhận htức được nhưng lại bàng quang với sự thay đổi này, sự chủ quan thường thấy này của các DNNVV đã vô hình chung làm hại đến sự phát triển của các DNNVV. aDNNVV của thành phố Đà Nẵng hầu hết đều có quy mô nhỏ, vốn thấp, số lượng lao động ít, hoạt động nhỏ lẻ và còn phân tán. DNNVV của thành phố thiếu thông tin thị trường đầu vào như vốn, lao động, thị trường nguyên vật liệu, thị trường thiết bị công nghệ, thông tin và chế độ chính sách quy định của nhà nước dẫn tới việc các DNNVV chưa thực sự nắm bắt được những cơ hội kinh doanh tốt. Chính vì việc không linh hoạt và thụ động trong việc tìm kiếm thông tin và những khó khăn do khách quan đem lại đã khiến cho doanh nghiệp khó khăn và vất vã trong việc khả năng tiếp cận thị trường, khối lượng sản phẩm do các DNNVV sản suất ra còn rất manh mún, chủ yếu là phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng vốn đã không lớn trong thành phố; mặt khác thị trường xuất khẩu tuy đã có và đang được mở rộng nhưng còn nhiều hạn chế, hợp đồng xuất khẩu đa số là ngắn hạn, theo thời vụ và thiếu ổn định. Khi thương mại và toàn cầu hóa ngày càng phát triển, để cản sự phát triển và mức bảo hộ của các nước nhỏ có thế mạnh về so sánh thương mại các thị trường xuất khẩu chính của thành phố đã áp dụng các tiêu chuẩn hóa về nhập khẩu đã khiến cho các DNNVV đã lao đao nay càng khó khăn và vất vã hơn nữa. aPhần lớn các DNNVV có trình độ khoa học công nghệ, trang thiết bị kỹ thuật lạc hậu nếu như không muốn nói là rất thô sơ. Hiệu suất tiêu hao nghuyên nhiên liệu là rất lớn, hầu hết các máy móc mà các DN của chúng ta nhập về đều là công nghệ vào năm 1992, mức lạc hậu về công nghệ của các máy móc mà chúng ta mới nhập về là rất lớn, thường là những thiết bị đã bị thải ra trước khi được nhập về lại Việt Nam. Việc đào tạo còn hiều hạn chế và bất cập, tình trạng thừa thầy thiếu thợ là không hiếm gặp, với tay nghề thấp như vậy thì hậu quả tất yếu sẽ xảy ra đó là chât lượng và mẩu mã sản phẩm HHDV không cao, có thể nói là rất kém, điều này cũng dẫn đến một hệ lụy tất yếu khác đó là sức cạnh tranh cảu các mặt hàng sản xuất từ các DN này rất kém, sản phẩm làm ra với chât lượng thấp và mẩu mã xấu nên rất kho lưu thông trên thị trường trong nước và xuất khẩu, mặt khác do trang thiết bị lạc hậu nên giá thành trên một đơn vị sản phẩm là rất cao nên nó càng hạn chế khả năng cạnh tranh và tiêu thụ những sản phẩm này. Công nghệ lạc hậu và chậm thay đổi không chỉ dẫn đến tình trạng trên mà nó còn ảnh hưởng rất lớn đến ô nhiễm môi trường sinh thái, cạn kiệt tài nguyên, điều này ảnh hưởng đến mục tiêu phát triển bền vững của thành phố. Hiện nay, mức độ đầu tư đổi mới công nghệ của các DNNVV thành phố là rất thấp cần phải thay đổi thay đổi để bắt kịp được tốc độ phát triển và yêu cầu của nền kinh tế thành phố đang ngày càng năng động. aNgoài ra chính sách bảo hộ bất hợp lý, môi trường kinh doanh chưa bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, cơ chế bao cấp nhiều đặc quyền đặc lợi còn tồn tại đối với một bộ phận doanh nghiệp, thêm vào đó là sự bất ổn định trong cơ chế chính sách của chính quyền thành phố và của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền là những yếu tố làm cho các doanh nghiệp có xu hướng muốn tìm kiếm những đặc quyền này để đem lại những lợi ích ngắn hạn hơn là tự xây dựng cho mình tầm nhìn chiến lược trong dài hạn. Sự bất công bằng này vô hình chung tạo nên lợi thế cho một số doanh nghiệp trong ngành có được lợi thế không nên có, ép buộc một số doanh nghiệp không được hưởng những lợi thế này phải rời bỏ thị trường ngành, chính điều này đã làm giảm ảnh hưởng của cạnh tranh tích cực lên sự thay đổi và phát triển của DNNVV. Để có được một môi trường cạnh tranh lành mạnh và thật sự đảm bảo cho sự phát triển của các DNNVV là điều hết sức cần thiết và phải thực hiện các bước đi đó ngay từ bây giờ nếu muốn phát triển được các DNNVV đang nắm giữ một vai trò quan trọng trong nền kinh tế thành phố. aKhả năng liên kết của các đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế theo ngành và các khu vực còn khá hạn chế, sự liên kết giữa các ngành này dù có thì cũng chỉ là hình thức, không bền vững và không xuất phát từ tìm kiếm lợi ích trên cơ sơ cả hai cùng có lợi. Khả năng liên kết yếu cho ta thấy rỏ ràng rằng sự nhỏ lẽ và manh mún trong sản xuất, kinh doanh của các DNNVV, điều này còn dẫn đến một hậu quả còn to lơn hơn đó là sự hạn chế trong chất lượng, hiệu quả kinh doanh và sức cạnh tranh của cả DNNVV với các doanh nghiệp lớn, chưa khai thác được lợi thế nhờ vào quy mô của cả hai khu vực này. Sự liên kết còn được thể hiện ở việc thành lập và phát triển các hiệp hội của DNNVV trong thành phố, tuy nhiên hiện những hội này đã hoạt động nhưng chưa thực sự đem lại được hiệu quả rỏ rệt cho nên việc mang lại được lợi ích thiết thực cho các DNNVV khi tham gia vào các hội này là chưa lớn. 3.2. Nguyên nhân dẫn đến những khó khăn và vướng mắc của các DNNVV thành phố Mặc dù Đảng, Nhà nước và chính quyền thành phố đã khẳng định chính sách nhất quán trong việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, nưng trong thực tế thì sự việc này diễn ra theo chiều hướng ngược lại, đó chính là sự phân biệt đối xử tong một số cơ quan quản lý nhà nước và giữa các thành phần kinh tế khác nhau (đặc biệt là khu vực DNNVV khu vực dân doanh), nói đúng ra là những mâu thuẩn xuất phát từ lợi ích và thói hách dịch cửa quyền của các cơ quan công quyền. Những mâu thuẫn và phân biệt đối xử này nảy sinh trong quan hệ giao dịch về mặt bằng sản xuất kinh doanh, vay vốn và tiếp cận thông tin thị trường, các DNNVV thành phố thường thiếu và khó khăn về mặt bằng sản xuất, hầu hết loại hình doanh nghiệp này không được ưu tiên về mặt bằng sản xuất, thường phải sử dụng nhà riêng và thuê mướn của tư nhân với giá thuê đất cao, vẫn còn sự phânbiệt. Các doanh nghiệp lớn thuộc khu vực kinh tế quốc doanh thường được ưu đãi về địa điểm và diện tích nhưng về hiệu quả sử dụng thì lại kém và lãng phí. Trong sự phân biệt đối xử này thì không ai khác ngoài các DNNVV khu vực dân doanh phải là người chịu thiệt thòi trên tất cả mọi phương diện. Các DNNVV khu vực dân doanh thường gặp rất nhiều khó khăn trong việc thuê, cũng như mua bán các địa điểm mặt bằng sản xuất, một phần là do thủ tục rất rắc rối phần khác là với số vốn ít ỏi của mình, để có được một mặt bằng kinh doanh tốt là điều không thể. Thứ hai, đó là việc vay vốn rất khó khăn bởi vì nó đòi hỏi DN phải chứng thực được khả năng kinh doanh cũng như khả năng về tài chính của mình, đó là chưa kể đến các thủ tục rất phức tạp, đi vay các cơ quan tín dụng nhà nước tuy lãi suất thấp nhưng rất khó đi vay và làm thủ tục để được vay, lại còn bị giới hạn số tiền được vay, còn đi vay các ngân hàng thì lãi suất cao lại thêm vào các điều kiện ràng buộc rất phức tạp; trong khi đó các doanh nghiệp nhà nước hoặc được bảo trợ của nhà nước thì thực hiện công việc này rất dễ dàng, Nhà nước đã có chính sách hỗ trợ vay vốn tín dụng nhưng việc tiếp cận nguồn vốn này gặp nhiều trở ngại do giá trị thế chấp nhỏ, không có khả năng bảo lãnh tín dụng. Nhiều doanh nghiệp khi thuê đất thì tiền đền bù gần bằng với giá mua đất nhưng lại không được thế chấp để vay vốn. Hiện nay, các khoản vay của các DNNVV của Việt Nam chiếm tới 80% là của các tổ chức phi tài chính và người thân, chỉ có 20% là vay tín dụng từ ngân hàng. Một mặt khác và cũng là vấn đề mấu chốt quan trọng đó là tiếp cận thông tin thị trường, đây cũng là khâu yếu nhất và bị động nhất của các DNNVV thành phố, vấn đề này xuất phát từ hai nguyên nhân; nguyên nhân chủ quan đó là các DN rất thụ động trong việc tìm kiếm thông tin, tin học hóa và phát triển công nghệ yếu, nhiều doanh nghiệp hầu như không chú ý tới mặt này; nguyên nhân khách quan đó là việc truyền tải thông tin của các cơ quan chức năng tới các DNNVV là rất yếu, đơn cử đó việc áp dụng hình thức mã vạch trong thuế, việc này đã được tiến hành nhưng lại rất rườm rà và rất lâu. Hệ thống pháp luật và môi trường kinh doanh đang được xây dựng và hoàn thiện để phù hợp với tình hình mới, phù hợp với xu thế, bối cảnh hội nhập kinh tế khu vực và toàn cầu hóa. Tuy nhiên, chúng ta có thể nhận thấy rằng là tuy đã có cơ chế song các cơ chế và chính sách này chưa ổn định, còn nhiều thứ cần phải thay đổi, văn bản pháp quy còn nhiều điểm chồng chéo, còn thiếu rõ ràng, tính hiệu lực chưa cao, thực hiện lúng túng và nhiều sai sót khiến cho các DNNVV thành phố gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm hiểu, vận dụng và chấp hành. Công cuộc cải cách hành chính diễn ra còn chậm, có nơi chỉ là hô khẩu hiệu, từ nhiều cửa nhiều bàn thì nay đã chuyển qua tuy đã là một cửa nhưng lại nhiều dấu, có thể nói cải cách hành chính của Việt Nam chỉ là cái vỏ bề ngoài và còn hô hào theo khẩu hiệu chứ chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu của các DNNVV. Mặt khác, đó là thái độ hách dịch, quan liêu, cửa quyền của các cán bộ làm công tác hành chính, một số bệnh thường gặp của các cán bộ này là hiện trạng đi muộn về sớm, làm việc ngoài chức năng và nhiệm vụ của mình, thêm vào đó là tình trạng thâm ô, tham nhũng và ô dù càng khiến cho các DNNVV thành phố đã khốn đốn nay càng lao đao. Quy định tuần làm năm ngày sau vài năm thực hiện cũng bộc lộ không ít bất cập, thời gian làm việc bị rút ngắn, công việc không được giải quyết tăng lên dẫn tới việc ngưng đọng và trì trệ trong công việc. Việc tiếp xúc được với các cơ quan nhà nước thường là rất khó khăn do tác phong làm việc rất nông nghiệp và còn nặng tư tưởng bao cấp đối với đa số bộ phận của các cơ quan công quyền. Những khó khăn xuất phát từ bản thân DN đã khiến cho doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn, vậy còn công tác hỗ trợ phát triển doanh nghiệp thì như thế nào? Hỗ trợ phát triển DNNVV là một vấn đề mới đối với các cơ quan quản lý nhà nước và chính quyền các cấp có thẩm quyền. Công tác hỗ trợ còn mang nặng tính hành chính, chưa được xã hội hóa một cách mạnh mẽ. Cơ chế chính sách phát triển doanh nghiệp nói chung, DNNVV nói riêng chưa kịp thời và đồng bộ. Bên cạnh đó việc thực thi chính sách còn thiếu sự nhất quán từ trung ương cho tới địa phương. Đối với bản thân các doanh nghiệp mà nói thì các DNNVV còn thờ ơ, đứng ngoài cuộc bởi họ còn hạn chế về tài chính, công nghệ lạc hậu, trình độ lao động thấp, hạn chế về nắm bắt thông tin vốn rất nhanh nhạy, bất thường của thị trường... Chủ các DNNVV lại hầu như chưa được đào tạo bài bản, làm ăn phần nhiều mang tính tự phát, kinh nghiệm chủ nghĩa. Những yếu tố căn bản trong kinh doanh hiện đại như  tính chuyên môn hóa, xây dựng cơ sở hạ tầng thông tin linh hoạt trong các hoạt động kinh doanh đều thiếu. Các DNNVV còn quá non trẻ, hạn hẹp về tài chính, lạc hậu về công nghệ, kỹ năng và nghiệp vụ quản lý cũng như tay nghề của lực lượng lao động còn thấp, lại rất bị động khi tiếp cận thông tin, chưa nhanh nhạy nắm bắt luật lệ, quy tắc, thiếu kinh nghiệm và kỹ năng trong tiếp xúc, đàm phán kinh doanh và xúc tiến thương mại, chưa có thói quen kinh doanh, hợp tác kinh doanh, quảng cáo hàng hóa qua mạng Website... Các DNNVV chưa hiểu rằng khi mở rộng cửa với thế giới thì mọi doanh nghiệp đều phải chịu sức ép cạnh tranh rất lớn. Cạnh tranh cả trong nội bộ các DNNVV trong nước và với các doanh nghiệp của nước ngoài. Sự cạnh tranh đó khiến mỗi DNNVV có thể vượt lên tầm cao số lượng, chất lượng để phát triển, hoặc là tụt lùi lại phía sau, thậm chí phá sản. Đó là chưa tính đến chuyện các DNNVV còn phải đưa hàng hoá ra cạnh tranh ở nước ngoài. DNNVV thiếu thông tin và vẫn bị lép vế trong các mối quan hệ (với nhà nước, thị trường, ngân hàng, với các trung tâm khoa học và trung tâm đào tạo….). Trong thời đại hiện nay, vấn đề thông tin là một yếu tố quan trọng đối với sự thành công và thất bại của doanh nghiệp, việc tiếp cận và ứng dụng Internet vào hoạt động kinh doanh đối với các DNNVV hạn chế hơn các công ty lớn do họ không đủ khả năng chuyên môn cũng như chi phí khá cao so với quy mô của doanh nghiệp nhỏ. Tóm lại, những nguyên nhấn chính có thể nhận thấy rất rõ ràng đó là: Nền tảng KT – XH của TP cón thấp; tinh thần của doanh nghiệp và người dân thành phố chưa cao; thếu vốn, thêm vào đó là chi phí đầu vào cao; thiếu mặt bằng sản xuất kinh doanh ổn định lau dài; khó khăn ở khâu tiếp cận thị trường, máy móc công nghệ lạc hậu; vấn đề quản lý nhà nước chưa thật sự đúng mức, đặc biệt là cấp địa phương và điều cuối cùng là thiếu thông tin, phương tiện xữ lý thông tin & tư vấn. Những điều trên đã đưa trên đã đưa đến một thực trạng phát triển DNNVV như đã phân tích ở trên. II/ Thực trạng hỗ trợ DNNVV trong những năm qua 1. Hệ thống các kênh hỗ trợ Hệ thống thể chế hỗ trợ DNNVV tại Việt Nam hoạt động dưới sự chỉ đạo của Thủ tướng được thành lập theo Nghị định 90/2001/NÐ-CP ngày 23/11/2001. Hội đồng Khuyến khích phát triển DNNVV làm cố vấn cho Thủ tướng trong công tác phát triển DNNVV do Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư làm chủ tịch. Cục Phát triển DNNVV là cơ quan điều phối chính sách liên quan tới DNVV ở cấp trung ương đồng thời đóng vai trò là thư ký thường trực cho Hội đồng khuyến khích phát triển DNNVV. Sở Kế hoạch và Đầu tư dưới sự chỉ đạo của Ủy ban Nhân dân tỉnh/ thành phố là cơ quan điều phối chính sách liên quan tới DNNVV ở cấp địa phương đồng thời các Sở ban ngành khác cũng thực hiện các biện pháp hỗ trợ DNNVV. Các cơ quan ban ngành của Chính phủ ở Trung ương phối hợp chặt chẽ với các tổ chức đại diện cho khu vực tư nhân và các nhà cung cấp dịch vụ tư nhân cũng như nhà nước hỗ trợ DNNVV nâng cao năng lực cạnh tranh. 2. Các chương trình hỗ trợ Bản thân các DNNVV trong quá trình phát triển của còn tồn tại nhiều bất cập và gặp rất nhiều khó khăn. Phát triển là xu hướng tất yếu tuy nhiên làm thế nào để phát triển bền vững thì bản thân của doanh nghiệp không thể tự mình khắc phục được. Chính vì vậy các DNNVV rất cần nhận được sự hỗ trợ từ các cơ quan tổ chức có chức năng và quyền hạn đối với các DN này. Vậy thì các chương trình hỗ trợ này nội dung của nó như thế nào, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu ở phần này. 2.1. Chương trình hỗ trợ DNNVV về tín dụng Nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, cá nhân khi đầu tư vào một số ngành, một số lĩnh vực quan trọng, chương trình kinh tế lớn, phát triển kinh doanh hàng hóa xuất khẩu…vv. Trong thời gian qua, Nhà nước đã thực hiện cho vay vốn tín dụng đầu tư phát triển với lãi suất thấp, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, bảo lãnh đầu tư, tín dụng hỗ trợ xuất khẩu. Các hình thức hỗ trợ về tín dụng sẽ góp phần giải quết được những vấn đề phát sinh và đảm bảo được sự phát triển cho nền kinh tế. Ø Vì sao phải hỗ trợ DNNVV về tín dụng Như chúng ta đã tìm hiểu ở những phần phía trên, cái yếu nhất của DNNVV và là vấn đề rất quan trọng đó là vốn, nguồn tài chính duy trì để hoạt động doanh nghiệp và phát triển kinh doanh. Hiện nay đa phần các doanh nghiệp đều phát triển dựa vào chính tiềm lực và nguồn vốn vận động từ chính bản thân, nếu có thì cũng chỉ là một phần có được từ việc vay mượn chính vị vậy không đủ nguồn tài chính để hoạt động, dẫn đến hoạt động rất cầm chừng và bị kìm hãm sự phát triển của chính bản thân doanh nghiệp mặc dù các doanh nghiệp này rất có tiềm năng. Nếu chỉ xét 1 doanh nghiệp thì vấn đề này chưa phải là lớn lắm nhưng khi chúng ta xét cho toàn bộ nền kinh tế thì có thể nhận thấy rằng nền kinh tế hoạt động không hết hiệu suất, gây tổn thất cho xã hôi và không tận dụng hết tiềm năng của nền kinh tế và thiệt hại này quả thật là không nhỏ. Chính vì vậy hỗ trợ DNNVV về tín dụng sẽ không gây tổn thất phúc lợi xã hội, đảm bảo được sự phát triển, huy động hết mọi tiềm lực và điều quan trọng đó là thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của các DNNVV, đảm bảo được mục tiêu và chương trình phát triển của đất nước, nâng cao mức sống và thu nhập của nười dân. Ø Cách thức hỗ trợ DNNVV về tín dụng aMục tiêu Giúp cho các DNNVV có cơ hội tiếp cânh với các khoản tín dụng phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh, rút ngắn thời gian, giảm nhẹ chi phí của DNNVV trong việc hoàn tất hồ sơ tiếp cận tín dụng. Bồi dưỡng nâng cao năng lực xây dựng dự án khả thi cho các DNNVV. Huy động nguồn lực tài chính trung và dài hạn hợp pháp cả trong và ngoài nước để có nguồn vốn ổn địnhcho các DNNVV vay để đầu tư phát triển năng lực sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp có ngành nghề cần khuyến khích phát triển, đem lại nguồn thu cho ngân sách thành phố, tạo công an việc làm cho người lao động, cũng như góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành phố…vv Đối tượng thụ hường đó là các DNNVV đã thành lập, vừa thành lập và chuẩn bị thành lập, các tổ chức tư vấn, hỗ trợ doanh nghiệp và các tổ chức hiệp hội. aBiện pháp thực hiện a, Hỗ trợ tiếp cận tín dụng: Hỗ trợ thông tin về tín dụng, ngân hàng cho các DNNVV. Trợ giúp để có điều kiện tiếp cận vốn tốt hơn như trợ giúp tư vấn xây dựng dự án miễn phí để vay vốn các tổ chức tín dụng, tiếp cận nguồn vốn thuộc các dự án ngành nghề được khuyến khích hỗ trợ tín dụng trong chiến lược phát triển KT – XH thành phố… Đồng thời các cơ quan quản lý nhà nước tạo điều kiện pháp lý để các DNNVV đảm bảo các điều kiện vay vốn như xác định, công nhận giá trị tài sản trên đất, quyền sử dụng đất của các DNNVV thế chấp vay vốn. Đẩy mạnh hoạt động của các trung tâm thông tin tín dụng cả về số lượng lẫn chất lượng. b, Thành lập qũy bảo lãnh tín dụng cho DNNVV: Đây là chủ trương đã có từ lâu theo quy định 193/2001/QĐ-TTg của thủ tướng chính phủ, nhưng đến nay vẫn chưa thực hiện do không có nguồn vốn đong góp của Ngân hàng thương mại, doanh nghiệp và các tổ chức tài chính trong và ngời nước. Thành phố cần tập trung xúc tiến nhanh và hình thành quỹ với số vốn điều lệ ban đầu 30 – 50 tỷ đồng, trong đó: Vốn từ ngân sách TW là 30%; vốn tài trợ từ các tổ chức tài chính quốc tế là 30%; vốn từ Ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng và doanh nghiệp là 30%; vốn từ các nguồn khác là 10%. Ngoài ra hàng năm thành phố sử dụng một phần nguồn vốn từ thu ngân sách để bổ sung vào vốn điều lệ cho quỹ. Nghiên cứu thành lập quỹ bảo hiểm tín dụng để giúp quỹ bảo lãnh tín dụng mạnh dạn hơn trong hoạt động cho vay – chia sẽ rủi ro và triển khai nhanh việc huy động đóng góp của các Ngân hàng thương mại. Các ngân hàng có thể dùng vốn điều lệ hoặc vốn huy động dài hạn để góp vốn. c, Chính sách tín dụng và thành lập quỹ hỗ trợ phát triển DNNVV: Đẩy mạnh hoạt động hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, phát triển mạnh mẽ hình thức quỹ tín dụng nhân dân ở các làng nghề truyền thống… nhằm hỗ trợ tích cực và có hiệu quả trong việc tiếp cận vốn của các DNNVV, đồng thời giúp các doanh nghiệp này giảm bớt khó khăn trong thời gian đầu dự án mới đi vào hoạt động. Khuyến khích phát triển các mô hình tài chính vi mô, hoạt động dựa vào cơ chế chịu trách nhiệm chung và các thành viên tự giúp nhau, phát triển mạnh mẽ hình thức vay tín dụng cùng đầu tư chia sẽ lợi nhuận, tư vấn hỗ trợ làng nghề, không chỉ vốn mà cả thị trường tiêu thụ. Đó chính là mô hình gắn kết, kinh nghiệm sản xuất – vốn tín dụng – thị trường tiêu thụ. Xây dựng cơ chế lãi suất cho vay mềm dẻo dựa trên cơ sỡ căn cứ vào lãi suất huy động và thời gian thực hiện dự án. Đồng thời đối với các DNNVV làm ăn có uy tín, chấp hành tốt pháp luật nên đẩy mạnh cho vay tín chấp, vay không đảm bảo thế chấp…vv Huy động mọi nguồn lực, đặc biệt là tổ chức tài chính quốc tế tăng cường hỗ trợ tín dụng phát triển SXKD, rút ngắn thời gian; tiến hành thành lập quỹ hỗ trợ phát triển DNNVV với cơ chế lãi suất và thời gian cho vay mềm dẻo nhằm tạo điều kiện thuận lợi và hỗ trợ tích cực cóa hiệu quả, giảm bớt khó khăn về vốn cho DNNVV trong hoạt động SXKD. Cơ chế tài chính cho việc hình thành quỹ như sau: Đối với nguồn vốn ODA có thể thực hiện theo hình thức chính phủ vay rồi chuyển vốn cho địa phương hoặc chính phủ vay rồi cho vay với lãi suất ưu đãi hoặc không lãi suất; Đối với vốn huy động từ trong nước có thể thực hiện theo hình thức cho vay Ngân sách địa phương cấp theo vốn điều lệ, vốn tín dụng hoặc vốn đóng góp của các đối tượng. Việc quản lý và điều hành Quỹ có hội đồng quản lý, ban kiểm soát và bộ máy điều hành tác nghiệp. Ø Thực trạng công tác hỗ trợ DNNVV về tín dụng Nhìn chung, mặt bằng vốn của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay còn tương đối thấp so với các nước trong khu vực, trong tổng số các DNNVV có đến 70% quy mô nhỏ rất hạn chế về vốn kinh doanh. Theo kết quả điều tra từ chương tình phát triển dự án sông MêKông (MPDF) có đến 69,5% DN nhỏ và 47% DN vừa ở Việt Nam gặp khó khăn đầu tiên về vốn, 53% số giám đốc doanh nghiệp được hỏi cho rằng sự bất lực của họ trong việc tiếp cận nguồn vốn đầu tư là vấn đề hàng đầu trong 3 vấn đề chính mà doanh nghiệp phải đối mặt. Đối với DNNVV, đặc biệt các DNDD, việc giải quyết nhu cầu vốn chủ yếu dựa vào thị trường tài chính phi chính thức, ít tiếp cận được các nguồn vốn tín dụng chính thức thông qua các tổ chức tín dụng do không có những đảm bảo cần thiết, không có tài sản thuế chấp. Nhiều nghiên cứu cho thấy các DNNVV rất khó tiếp cận nguồn vốn ngân hàng. Các chủ DNNVV ngoài quốc doanh thường bắt đầu công việc kinh doanh và mở rộng quy mô hoạt động bằng vốn tự có và các nguồn tín dụng không chính thức. Nguồn này thường đòi hỏi người đi vay phải trả phí cao quá mức, thường thì lãi suất cao gâp 3-6 lần lãi suất ngân hàng. Theo kết quả nghiên cứu của MPDF có đến 79% các giám đốc DNNVV chủ yếu dựa vào các khoản tiếp kiệm tự có , cộng với tiền vay từ gia đình, đôi khi là bạn bè để duy trì hoạt động của DN. Đôi khi các DNNVV cũng tiếp cận được nguồn vốn tín dụng từ các tổ chức ngân hàng nhưng chỉ có thể là nguồn tín dụng ngắn hạn. Mặc dù nhà nước đã có chính sách mở cửa thị trường tín dụng nhưng điều ngạc nhiên là tỷ suất nợ trên tổng tài sản của DNNVV lại vô cùng khiêm tốn, trung bình là 299 triệu đồng/1.710 triệu đồng (8%) trong DNNVV có vay nợ. Cũng chỉ có ½ số DNNVV được điều tra là có vay nợ, hầu hết là nợ ngắn hạn và vay từ các nguồn khác nhau. Đối với các DN ở Đà Nẵng, qua nhiều cuộc tiếp xúc giữa lãnh đạo thành phố với đại diện các DN thì thiếu vốn, khó vay… luôn là khó khăn lớn nhất của các DN NVV ngoài quốc doanh. Theo điều tra của phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam, chi nhánh tại Đà Nẵng qua thực hiện thư phỏng vấn 50 DN từ 15 đến 22 tháng 5 năm 2004, có đến 76,1% số DN được hỏi cho rằng khó khăn tài chính mà cụ thể là khả năng tiếp cận nguồn vốn là khó khăn lớn nhất mà các DN gặp phải, trong đó 28,3% cho rằng ảnh hưởng của thực trạng này đến hoạt động kinh doanh của DN đang ở mức nghiêm trọng. Vay từ quỹ hỗ trợ phát triển đầu tư: Đây là khoản vay với lãi suất ưu đãi ( khoảng 3%/năm) của nhà nước cho vay theo Luật khuyến khích đầu tư trong nước. Theo số liệu của Sở KH-ĐT thành phố Đà Nẵng, Sở đã cấp giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư cho 32 dự án năm 2000, trong đó DN ngoài quốc doanh 25 dự án, năm 2002 cấp 66 dự án, trong đó DN ngoài quốc doanh 41 dự án. Tuy nhiên, phần lớn các dự án đầu tư được cấp giấy chứng nhận ưu đãi của các Dn ngoài quốc doanh chưa được vay với lãi suất ưu đãi từ quỹ hỗ trợ phát triển. Hình thức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư chưa thực hiện được bao nhiêu. Báo Đà Nẵng đã chua xót nhận xét rằng: “Hệ thống tín dụng ưu đãi nhà nước vẫn còn là một cái gì đó vượt ngoài tầm với của DNTN nói chung. Năm 2002, cả Thành phố chỉ có 2 DN nhận được vốn đầu tư từ chi nhánh quỹ hỗ trợ đầu tư phát triển, và 3 DN khác được vay ngắn hạn từ nguồn hỗ trợ xuất khẩu” Bảng 7: Tình hình huy động vốn của các DN ở Thành phố Đà Nẵng Chỉ tiêu ĐVT Năm 2001 2002 2003 2004 2005 1.Tín dụng thương mại Tỷ đồng 3.185 4.239 5.464 7.373 9.249 Trong đó: DNDD Tỷ đồng 500 729 1.175 1.895 3.361 %/tổng số % 15,70 17,20 21,50 25,70 36,37 2.Tín dụng ưu đãi Tr. đồng 203.800 42.795 147.752 144.271 46.790 Trong đó: DNDD Tr. đồng 0 0 1.750 2.760 2.198 %/tổng số % 0 0 0,01 0,02 4,70 3.Thuê mua tài chính Tr. đồng - - 33.253 70.272 140.834 Trong đó: DNDD Tr. đồng - - 29.190 67.130 138.496 %/tổng số % - - 87,80 95,53 98,34 (Nguồn: Tổng hợp từ nguồn Sở KH-ĐT; Cty cho thuê tài chính II - Chi nhánh Đà Nẵng; Ngân hàng nhà nước thành phố Đà Nẵng) Qua các số liệu trên, ta có thể thấy nguồn vốn có được của các DNNVV (ở đây là các DNDD) chủ yếu là vay từ các Ngân hàng thương mại và cho thuê mua tài chính. Trong những năm qua, trong số hơn 2.500 DNDD của Thành phố chỉ có 3 DN được vay ưu đãi là DNTN Dệt Đa Phước, Công ty CP SX-KD Văn hoá phẩm Phương Nam và Cty CP Tôn Đà Nẵng với tổng số tiền vay được là: 6.710 triệu đồng bằng 1,15% tổng số tiền cho vay ưu đãi trong 4 năm qua (1999-2003). Qua 4 năm (đến năm 2003) thực hiện Luật Doanh nghiệp và Luật khuyến khích đầu tư trong nước, UBND thành phố đã cấp 157 giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư cho các DN ngoài quốc doanh bằng 72% số giấy chứng nhận của thành phố. Đối với cho thuê tài chính, một hình thức tín dụng không đòi hỏi thủ tục phức tạp nhưng lãi vay cao hơn lãi suất tín dụng thương mại, thì DNDD sử dụng đến 98%, trong khi DNNN chỉ thuê mua chưa đến 2% trên tổng số đã được thuê mua. Tình trạng các DNNVV khó tiếp cận với các nguồn vốn chính thức của nhà nước tại Thành phố có nhiều nguyên nhân bắt nguồn từ cả hai phía: - Về phía các DNNVV, ngoài những hạn chế vốn có, không thể phủ nhận sự hạn chế của các DNNVV trong việc xây dựng các phương án, dự án kinh doanh có sức thuyết phục với người cấp vốn; nhiều DNNVV có ít thông tin về các nguồn tín dụng cũng như về cách tiếp cận tài chính, các DN còn thiếu những dự án khả thi đáp ứng đủ nhu cầu của Ngân hàng Thương mại; Không ít các DNNVV chưa thực sự minh bạch trong hồ sơ, sổ sách kế toán tài chính, điều này gây khó khăn không nhỏ đối với việc theo dõi, kiểm soát, đánh giá của người cho vay; Không ít các DN không thực hiện thanh toán đúng hạn làm mất uy tín đối với Ngân hàng… - Về phía các NH thương mại, qua phỏng vấn với các chủ DNNVV ở Đà Nẵng cho thấy những khó khăn khiến họ khó tiếp cận với NH là do các cán bộ NH cứng nhắc trong việc đánh giá các yêu cầu cho vay vốn; các yêu cầu về đảm bảo, thế chấp phức tạp; dường như chưa có một sự cảm thông với hoàn cảnh và điều kiện kinh doanh của các DNNVV. Nói cách khác là các cán bộ NH thiếu khả năng đánh giá hoạt động kinh doanh rủi ro và thiếu tư duy kinh doanh. Ngoài 2 nguyên nhân trên còn phải kể đến nguyên nhân khác quan là sự thiếu đồng bộ về cơ chế Luật pháp cũng như các chính sách cụ thể, thủ tục hành chính phức tạp. Theo nghiên cứu của Bộ Lao động – Thương binh xã hội năm 2002, trong vô số lý do khiến đơn đi vay của DNNVV bị từ chối thì lý do thiếu thế chấp chiếm 48%, quy định hành chính phức tạp chiếm 35%, kế hoạch kinh doanh kém và các lý do khác chỉ chiếm 5-12%. Hình thức bảo lãnh tín dụng đầu tư từ khi triển khai đến nay trên địa bàn thành phố chưa có dự án nào được bảo lãnh tín dụng đàu tư, nguyên nhân chủ yếu là do để được bảo lãnh thì các doanh nghiệp phải đảm bảo các điều kiện như: dự án có hiệu qủa KT –XH, đảm bảo hoàn trả được vốn vay. Từ năm 2001 quỹ hỗ trợ phát triển đảm nhận thêm hình thức hỗ trợ ngắn hạn cho các doanh nghiệp xuất khẩu, hình thức này tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xuất khẩu vay vốn ngắn hạn với lãi suất thấp để mua nguyên vật liệu… thực hiện hợp đồng xuất khẩu, góp phần giải quết một phần bức xúc về vốn của doanh nhiệp. 2.2. Chương trình hỗ trợ DNNVV đào tạo nguồn nhân lực Ø Vì sao phải hỗ trợ DNNVV đào tạo nguồn nhân lực Trong tất cả các doanh nghiệp dù là lớn hay nhỏ thì nguồn nhân lực luôn là một nhân tố không thể thiếu trong mọi hoạt động kinh doanh, sản xuất của doanh nghiệp. Nguồn nhân lực đóng vai trò vô cùng quan trọng và là khâu trung gian để chuyển các nguyên liệu đầu vào vào từng sản phẩm, nguồn nhân lực hay là con người sẽ đóng vai trò trong việc quản lý duy trì hoạt động của doanh nghiệp, dùng ý chí, suy nghĩ cách làm việc của mình để tiến hành mọi hoạt động cho doanh nghiệp. Hiện nay trong các DNNVV của nước ta vấn đề nguồn nhân lực đang được đặt trong tình trạng đáng báo động. Nguồn nhân lực của các DNNVV thiếu kiến thức thực tiễn và không được đào tạo bài bản từ nhân viên cho đến chủ doanh nghiệp. Do đội ngũ nhân lực thiếu hẳn đi những điều cần thiết từ họ nên thường xuyên đưa doanh nghiệp đi đến tình trạng cầm chừng, rất khó phát triển và hơn nữa là DN bị phá sản do các nhân viên và chủ doanh nghiệp thiếu trình độ. Để phát triển được doanh nghiệp thì phải dựa trên nền tảng nguồn nhân lực có chất lượng và đủ sức đáp ứng cho yêu cầu phát triển của doanh nghiệp cũng như những yêu cầu của kinh tế luôn biến đổi và luôn đòi hỏi khả năng và năng lực rất cao của các cá nhân bao gồm cả nhân viên lẫn nhà quản lý doanh nghiệp. Ø Cách thức hỗ trợ DNNVV đào tạo nguồn nhân lực aMục tiêu Đảm bảo nguồn lao động cả về số lượng lẫn chất lượng cho nhu cầu của DNNVV mà trước hết là ngành nghề được ưu tiên phát triển và được xác định là thế mạnh của thành phố, tạo ra lợi thế cho thành phố. Cung cấp những kiến thức cần thiết cho doanh nhân, những người có ý định khởi sự doanh nghiệp (đặc biệt là những hộ kinh doanh cá thể); nâng cao kiến thức cho chủ doanh nghiệp, hộ kinh doanh cá thể và cán bộ quản lý doanh nghiệp. Nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động, đặc bệt là những lao động chưa qua hết bậc PTTH, đạo tạo không chỉ cách là việc mà còn đào tạo luôn nề nếp và kĩ luật lao động, tác phong công nghiêp. Triển khai hoạt động đào tạo và khuyến khích “khởi sự doanh nghiệp” đến các xã nông thôn và miền núi. aBiện pháp thực hiện Kết hợp hình thức đào tạo dài hạn với các khóa ngắn hạn, đào tạo tại chổ, vừa học vừa vừa làm phù hợp với điều kiện và đặc điểm của đối tượng và nội dung lao động. Lao động hiện nay của các DNNVV thành phố đang thiếu người quản lý có năng lực và thiếu cả người lao động có tay nghề. Chính vì vậy các khóa đào tạo được mở ra không chỉ có dành cho người lao động mà còn dành cho nhà quản lý nhằm tạo được đội ngũ nguồn nhân lực đông về số lượng và đảm bảo về mặt chất lượng. Hình thức đào tạo được mở rộng, thời gian đào tạo phong phú hơn và đa dạng về vấn đề đào tạo là điều rất cần thiết đối với lao động của các DNNVV. Khuyến khích sự phát triển của các trung tâm đào tạo có chất lượng, đào tạo đúng trọng tâm và nhu cầu đối với nguồn nhân lực trong các DNNVV. Xây dựng cơ sỡ vật chất cho các mô hình trung tâm hỗ trợ doanh nghiệp, trung tâm đào tạo nghề như các trung tâm: Huấn luyện nghề cá, trung tâm đào tạo nhân viên ngành du lịch - dịch vụ, các trung tâm hướng nghiệp dạy nghề trên cơ sở nguồn lực thực tế của địa phương để tạo nghề cho người lao động. Mặt khác, chính quyền TP cũng nên mở ra một số trung tâm đào tạo có bằng cấp và chứng chỉ quốc gia về trình độ quản lý cho các chủ doanh nghiệp và các cán bộ quản lý của doanh nghiệp. Điều quan trọng đó là phải đưa ra các chương trình đào tạo có chất lượng toàn diện, thường xuyên đôn đốc, kiểm tra các trung tâm thực hiện công việc này, đưa ra quy chuẩn chất lượng cho các trung tâm muốn thực hiện công việc đào tạo này, đồng thời phải hỗ trợ các trung tâm này đứng trên phương diện chỉ đạo và phối hợp cùng các trung tâm nhằm đảo bảo được mục tiêu cuối cùng là đào tạo được đội ngũ nhân lực có trình độ và đầy đủ phẩm chất đủ sức đáp ứng cho nhu cầu phát triển của DNNVV, cũng như nền kinh ttế của thành phố. Đi đôi với công việc đó là nâng cao trang thiết bị phục vụ cho công tác đào tạo, đổi mới và có quy chế thông thoáng cho các trung tâm đào tạo hoạt động có chất lượng và hiệu quả. Ø Thực trạng công tác hỗ trợ DNNVV đào tạo nguồn nhân lực Để tạo điều kiện thuận lợi, hỗ trợ khưoir nhiệp và phát triển doanh nghiệp, trong những năm qua, thành phố đã tổ chức được gần 100 lớp học với những nội dung thiết thực phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như: Đào tạo công tác hạch toán, kế toán, xây dựng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO, nghiệp vụ XNK, tin học trong công tác kế toán, quản lý nhân sự, quy chế đấu thầu, các lớp học đầy đủ các ngành nghề như thương mại – dịch vụ, xây dựng và cả ngành nghề nuôi trồng đánh bắt thủy hải sản…vv Bên canh đó thành phố cũng đã phối hợp với các tổ chức quốc tế như ILO, SIDA, JICA… triển khai nhiều chương trình đào tạo, bồi dưỡng kiến thức kinh tế, kiến thức hội nhập kinh tế quốc tế cho đội ngũ quản lý doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp. Hình thức phối hợp này không chỉ đem đến một vấn đề là đào tạo mà còn đem dến cho các DNNVV thị trường mới và các cơ hội hợp tác kinh doanh mới. Thông qua hợp tác với các tổ chức trên các DNNVV học hỏi được rất là nhiều các bài học kinh nghiệm, các yêu cầu tiêu chuẩn và sự đòi hỏi cho nhu cầu phát triển của thời gian tới. Ngoài ra, hàng năm thành phố cũng đã trích ra một phần kinh phí của mình từ nguồn ngân sách của thành phố nhằm đào tạo nghề cho lực lượng lao động của một số doanh nghiệp trên địa bàn thành phố và hướng dẫn các doanh nghiệp đào tạo nghề tại chính doanh nghiệp. Cùng với các trung tâm dịch vụ việc làm phát triển mạnh trên địa bàn thành phố và được hổ trợ rất nhiều từ chính quyền, các trung tâm này đã giới thiệu được không ít việc làm cho lao động của thành phố, làm cầu nối giữa doanh nghiệp và người lao động đang có nhu cầu tìm việc làm. Thành phố còn tổ chức các hội chợ việc làm hàng năm đây là những kênh cung cấp nguồn lao động có chất lượng và hiệu quả nhất, mo hình này ngày càng được nhân rộng, không chỉ chính quyền thành phố và các cơ quan có thẩm quyền mà các đơn vị khác cũng rất tích cực tham gia tổ chức ra các ngày hội việc làm và tư vấn tuyển dụng trên địa bàn thành phố. 2.3. Chương trình trợ giúp xúc tiến thương mại và xuất khẩu Ø Vì sao phải hỗ trợ DNNVV xúc tiến thương mại và xuất khẩu Để đẩy mạnh hơn nữa hoạt động của các DNNVV trong thành phố, chính quyền và các cơ quan ban ngành có liên quan nên trợ giúp cho các DNNVV thành phố về việc xúc tiến thương mại và xuất khẩu. Các DNNVV khâu yếu nhất của nó chính là các hoạt động quảng bá hình ảnh doanh nghiệp và xúc tiến thương mại, các doanh nghiệp trong thành phố không thể mở rộng được quy mô cũng như phát triển doanh chính là vì hoạt động thương mại chưa được mở rộng, nhiểu DN rất có tiềm lực nhưng hoạt động lại rất cầm chừng không có được bbước đột phá và không có được tầm ảnh hưởng rộng rải trong địa bàn thành phố chứ chưa nói gì đến vấn đề phát triển ra các địa bàn lân cận. Tuy nhiên, xét một cách toàn diện thì các doanh nghiệp không đủ nguồn lực về vốn để đầu tư cho hoạt động đòi hỏi số vốn rất lớn này. Măt khác, các doanh nghiệp xuất khẩu rất yếu trong khâu tìm kiếm, mở rộng thị trường. Các DNNVV rất bị động trong vấn đề này, thường lựa chọn của các DN đó là tìm đối tác lân cận hoặc cũng chỉ là các đơn vị bạn hàng thân thuộc của doanh nghiệp mà ít chú trọng tới phát triển ra bên ngoài. Thị trường xuất khẩu càng ngày có nhiều biến động và thay đổi khi mà Việt Nam đã tham gia vào kinh tế quốc tế, những yêu cầu và quy chuẩn gắt gao từ nước xuất khẩu, thêm vào đó là các định chế thương mại đã hạn chế đi sản lượng xuất khẩu của các DNNVV. Ø Cách thức hỗ trợ DNNVV xúc tiến thương mại và xuất khẩu aMục tiêu Hỗ trợ thông tin thị trường trong và ngoài nước; hỗ trợ tìm kiếm thị trường. Song song với quá trình đó là đẩy mạnh và khai thác tốt thị trường trong nước, đồng thời mở rộng đa dạng hóa thị trường x

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc303.doc
Tài liệu liên quan