Đề tài Thực trạng hoạt động thu bảo hiểm xã hội ở bảo hiểm xã hội quận Hà Đông- Thành phố Hà Nội

Tài liệu Đề tài Thực trạng hoạt động thu bảo hiểm xã hội ở bảo hiểm xã hội quận Hà Đông- Thành phố Hà Nội: LỜI NÓI ĐẦU Chính sách BHXH là một trong những chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta. Là một trong những chính sách cơ bản thể hiện đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước với mục tiêu vì con người, bảo đảm tiến bộ công bằng xã hội. Mục đích của Chính sách BHXH là bảo đảm sự thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ gặp rủi ro ốm đau, bệnh tật hay tuổi già, góp phần đảm bảo an toàn đời sống của người lao động và gia đình họ đồng thời giữ ổn định xã hội. Sau hơn 60 năm thực hiện với những bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với từng giai đoạn, chính sách BHXH đã góp phần to lớn đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ, đồng thời góp phần ổn định chính trị - xã hội của đất nước. Từ khi BHXH Việt Nam được thành lập, đặc biệt sau khi Luật BHXH được ban hành, tình hình thực hiện các chế độ, chính sách và quy định của pháp luật về BHXH đã có nhiều chuyển biến tích cực và đạt được những thành tựu quan trọng. Các chế độ bảo hiểm đã đượ...

doc72 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1087 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Thực trạng hoạt động thu bảo hiểm xã hội ở bảo hiểm xã hội quận Hà Đông- Thành phố Hà Nội, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU Chính sách BHXH là một trong những chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta. Là một trong những chính sách cơ bản thể hiện đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước với mục tiêu vì con người, bảo đảm tiến bộ công bằng xã hội. Mục đích của Chính sách BHXH là bảo đảm sự thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ gặp rủi ro ốm đau, bệnh tật hay tuổi già, góp phần đảm bảo an toàn đời sống của người lao động và gia đình họ đồng thời giữ ổn định xã hội. Sau hơn 60 năm thực hiện với những bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với từng giai đoạn, chính sách BHXH đã góp phần to lớn đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ, đồng thời góp phần ổn định chính trị - xã hội của đất nước. Từ khi BHXH Việt Nam được thành lập, đặc biệt sau khi Luật BHXH được ban hành, tình hình thực hiện các chế độ, chính sách và quy định của pháp luật về BHXH đã có nhiều chuyển biến tích cực và đạt được những thành tựu quan trọng. Các chế độ bảo hiểm đã được mở rộng và linh hoạt hơn với nhiều loại hình đa dạng từ BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện, Bảo hiểm thất nghiệp, BHYT… Phạm vi đối tượng cũng đã gia tăng đáng kể; cơ chế quản lý quỹ bảo hiểm cũng có những đổi mới từng bước được hoàn thiện hơn. Trong thời gian qua, là một sinh viên đang trong quá trình thực tập tại cơ quan BHXH quận Hà Đông, em nhận thấy BHXH quận Hà Đông đã đạt được những kết quả rất khả quan trong công tác thu BHXH như: số đơn vị và số lao động tham BHXH trên địa bàn ngày càng tăng, số thu và tình hình thực hiện công tác thu luôn đạt kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn những tồn tại, khó khăn cần được giải quyết như: việc không tham gia BHXH đúng theo quy định, tình hình nợ đọng BHXH diễn ra ở nhiều đơn vị… Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động thu BHXH đối với BHXH quận Hà Đông. Em đã lựa chọn đề tài: “ Thực trạng hoạt động thu BHXH ở BHXH quận Hà Đông-TP Hà nội” để nghiên cứu. Bài viết đi từ nghiên cứu lý luận đến thực trạng công tác thu BHXH ở BHXH quận Hà Đông và qua đó đưa ra những giải pháp cụ thể nhằm đẩy mạnh công tác thu BHXH ở đơn vị này. Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn nhiệt tình của ThS. Nguyễn Thị Chính, Ban giám đốc và các cán bộ trong cơ quan BHXH quận Hà Đông đã tạo điều kiện giúp em hoàn thành đề tài nghiên cứu của mình. Do khả năng lý luận và kiến thức thực tế còn hạn chế nên bài viết của em không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy cô để em có thể hoàn thiện bài viết và nâng cao kiến thức của mình hơn. Kết cấu của chuyên đề, ngoài lời nói đầu và kết luận, được chia làm ba chương: Chương I Tổng quan về BHXH và công tác thu BHXH Chương II Thực trạng hoạt động thu BHXH ở BHXH quận Hà Đông Chương III Giải pháp nhằm đẩy mạnh công tác thu BHXH tại BHXH quận Hà Đông CHƯƠNG I TỔNG QUAN VỀ BHXH VÀ CÔNG TÁC THU BHXH Tổng quan về BHXH Bảo hiểm xã hội đã được thực hiện trên toàn thế giới từ hàng trăm năm nay. Để có được mạng lưới rộng khắp như hiện nay, BHXH đã trải qua một quá trình phát triển và thay đổi cả về mô hình và nội dung thực hiện. Dưới góc độ lịch sử, ngay từ những năm 50 của thế kỷ XIX, tính xã hội của BHXH đã được tính đến. Vào năm 1850, chế độ bảo hiểm đầu tiên là chế độ ốm đau được thực hiện. Từ đó, xu hướng phát triển của BHXH được mở rộng dần và các ý tưởng bảo vệ người lao động dần được hình thành và hoàn thiện. Sau một thời gian dài, các chế độ BHXH đã trở thành một hệ thống với nhiều đối tượng tham gia và mức độ thụ hưởng khác nhau, với nhiều mô hình thực hiện khác nhau. Để xã hội ổn định và phát triển, một trong những nền tảng cơ bản là đời sống của người dân phải được an lành, đảm bảo. Chính vì vậy, năm 1935, một đạo luật về an sinh xã hội đã được ban hành tại Mỹ với đối tượng được bảo vệ rất rộng nhằm đảm bảo sự công bằng và phát triển chung của tòa xã hội. Đặc biệt, tuyên ngôn về nhân quyền của Liên Hợp Quốc thông qua ngày 10/12/1948 đã xác nhận rằng “Tất cả mọi người, với tư cách là thành viên của xã hội, có quyền hưởng bảo hiểm xã hội”. Trong đó, Bảo hiểm xã hội là một bộ phận cấu thành quan trọng của vấn đề an sinh xã hội, là cơ chế chính trong hệ thống an sinh xã hội. Như vậy có thể hiểu, chính sách bảo hiểm xã hội trước tiên là một trong các chính sách an sinh xã hội. Cơ sở của hệ thống BHXH là dựa trên sự đóng góp nhằm bảo vệ sức khỏe và thu nhập, gồm các phương pháp thoát khỏi rủi ro và đóng góp tài chính vào quỹ BHXH. BHXH là nhu cầu tất yếu của người lao động, được ra đời và phát triển cùng với sự phát triển của xã hội. Tuy đã có lịch sử phát triển lâu dài nhưng đến nay vẫn chưa có định nghĩa thống nhất về BHXH và BHXH được nhìn nhận dưới nhiều giác độ khác nhau. Từ giác độ pháp luật: BHXH là một chế định bảo vệ người lao động sử dụng nguồn đóng góp của mình, đóng góp của người sử dụng lao động (nếu có) và được sự tài trợ, bảo hộ của Nhà nước nhằm trợ cấp vật chất cho người lao động được bảo hiểm và gia đình họ trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập bình thường do ốm đau, tai nạn lao động hoặc hết tuổi lao động theo quy định của pháp luật hoặc người lao động bị chết. Dưới giác độ tài chính: BHXH là quá trình san sẻ rủi ro và san sẻ tài chính giữa những người tham gia BHXH theo quy định của pháp luật. Ở Việt Nam, BHXH là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta thể hiện tinh thần nhân đạo và nhân văn cao cả “ mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người”. Làm sao để cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh là một mục tiêu hàng đầu mà Đảng và Nhà nước ta quan tâm. Theo Luật BHXH Việt Nam được Quốc hội thông qua ngày 29/6/2006, “BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thấp nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ BHXH”. Theo cách tiếp cận từ thu nhập, BHXH là sự bảo đảm cho người lao động khi họ gặp khó khăn, bị giảm hoặc mất thu nhập, khi bị giảm hoặc mất khả năng lao động thông qua việc hình thành và sử dụng quỹ tài chính tập trung do sự đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước. BHXH có mục đích cuối cùng là hướng tới sự phát triển của các cá nhân, từ đó tạo tiền đề cho sự phát triển của cộng đồng và của toàn xã hội. Tuy cách tiếp cận có khác nhau nhưng các khái niệm trên đều làm rõ ba vấn đề: tại sao lại cần có BHXH? mục đích của BHXH là gì? và BHXH được thực hiện như thế nào? Ngày nay, khái niệm về BHXH được sử dụng phổ biến nhất là: “BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ gặp phải các biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trên cơ sở hình thành và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ, góp phần bảo đảm an toàn xã hội”. 1.1.1 Sự cần thiết và vai trò của BHXH trong đời sống kinh tế xã hội. 1.1.1.1 Sự cần thiết khách quan của BHXH Lao động là hoạt động thường xuyên của con người để tạo ra của cải vật chất, để lao đông được con người cần có sức khoẻ và một khả năng lao động nhất định. Thế nhưng trong cuộc sống không phải người lao động nào cũng có thể trạng tốt như nhau và có may mắn như nhau để hoàn thành tốt nhiệm vụ lao động của mình và tạo ra cho mình một cuộc sống sung túc và ấm no. Hơn nữa trong cuộc sống luôn thường trực những rủi ro, bất hạnh như ốm đau, tai nạn, hay già yếu, chết hoặc thiếu công việc làm do những ảnh hưởng của tự nhiên, của những điều kiện sống và sinh hoạt cũng như các tác nhân xã hội khác. Khi chẳng may con người rơi vào những trường hợp đó, nhu cầu thiết yếu không những không mất đi. Trái lại, còn gia tăng thêm. Do vậy, muốn tồn tại con người phải tìm những biện pháp để vượt lên trên hoàn cảnh và khắc phục những khó khăn. Để vượt qua những lúc khốn khó đó thì ngoài sự nỗ lực của bản thân và gia đình, người lao động cần được sự hỗ trợ của cộng đồng tập thể của các tổ chức cơ quan Nhà nước nước và xã hội. Sự hỗ trợ này không thể chỉ bằng tinh thần là sự cảm thông, sự động viên thăm hỏi chung chung , mà còn phải cụ thể hoá nó bằng hiện vật và nguồn vật chất cần thiết, nhằm nhanh chóng phục hồi sức khoẻ, duy trì sức lao động xã hội góp phần làm giảm bớt những khó khăn của bản thân và gia đình người lao động khi có những hẫng hụt về thu nhập trong các trường hợp bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, mất việc làm, hoặc khó khăn khi về già… Lúc này, tất cả những rủi ro đó đã trở thành mối đe dọa đối với cuộc sống bình thường của người lao động, sự đối mặt với cuộc sống thật nan giải. Tình cảnh này đưa đến những hành động tập thể phát huy truyền thống tương thân, tương ái vốn có từ trong nhân dân, đồng thời cũng đòi hỏi giới chủ, giới thợ và Nhà nước từng bước can thiệp để duy trì lực lượng nhân công cần thiết cho xã hội. Sự mâu thuẫn giữa giới chủ và giới thợ có nguồn gốc từ Chế độ Chiếm hữu nô lệ, khi mà sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất mới xuất hiện. Sự mâu thuẫn này trải qua nhiều thời kỳ và đi cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội. Theo thời gian trình độ chuyên môn và nhận thức của người lao động về BHXH ngày càng được nâng cao, cách chủ động khắc phục khi không may gặp phải rủi ro xảy ra ngày càng hoàn thiện. Thế nhưng, chỉ đến khi có sự ra đời của BHXH thì những tranh chấp cũng như những khó khăn mới được giải quyết một cách ổn thỏa và có hiệu quả nhất. Đó cũng chính là cách giải quyết chung nhất cho xã hội loài người trong quá trình phát triển của đất nước. Sự xuất hiện của BHXH là một tất yếu khách quan khi mà mọi thành viên trong xã hội đều cảm thấy sự cần thiết phải tham gia hệ thống BHXH và sự cần thiết phải tiến hành bảo hiểm cho người lao động. Vì vậy, BHXH đã trở thành nhu cầu và quyền lợi của người lao động và được thừa nhận là một nhu cầu tất yếu khách quan, một trong những quyền lợi của con người 1.1.1.2 Vai trò của BHXH BHXH ra đời và phát triển đã ngày càng khẳng định được vai trò của mình trên nhiều phương diện khác nhau trong thực tế cuộc sống cũng như trong phát triển kinh tế. Có thể khái quát vai trò của BHXH trên các mặt sau: Một là, BHXH góp phần ổn định đời sống của người lao động tham gia BHXH, những người tham gia BHXH sẽ được thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập khi họ bị suy giảm, mất khả năng lao động, mất việc làm, chết. Nhờ có sự thay thế hoặc bù đắp thu nhập kịp thời mà người lao động khắc phục nhanh chóng được những tổn thất về vật chất, nhanh phục hồi sức khỏe, ổn định cuộc sống để tiếp tục quá trình hoạt động bình thường. Hai là, BHXH góp phần đảm bảo an toàn, ổn định cho toàn bộ nền kinh tế xã hội. Để phòng ngừa, hạn chế tổn thất, các đơn vị kinh tế phải đề ra các quy định chặt chẽ về an toàn lao động buộc mọi người phải tuân thủ. Khi có rủi ro xảy ra với người lao động, quỹ BHXH kịp thời hỗ trợ, tạo điều kiện cho người lao động nhanh ổn định cuộc sống và sản xuất… Tất cả những yếu tố đó góp phần quan trọng làm ổn định nền kinh tế xã hội. Ba là, BHXH làm tăng thêm mối quan hệ gắn bó giữa người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước. Người lao động, người sử dụng lao động, Nhà nước đều tham gia đóng góp vào quỹ BHXH, điều đó làm cho: ▪ Người lao động có trách nhiệm hơn trong công việc, trong lao động sản xuất. ▪ Người sử dụng lao động tham gia đóng góp vào quỹ BHXH cho người lao động được hưởng các chế độ BHXH cũng thấy rõ trách nhiệm của mình đối với người lao động. ▪ Nhà nước vừa tham gia đóng góp, vừa điều hành hoạt động của quỹ BHXH, đảm bảo sự công bằng, bình đẳng, cho mọi đối tượng thụ hưởng… Điều đó làm tăng thêm mối quan hệ gắn bó giữa Nhà nước- người sử dụng lao động- người lao động, góp phần ổn định nền kinh tế xã hội. Bốn là, BHXH góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Qũy BHXH được sử dụng để chi trả các chế độ BHXH cho người lao động và gia đình họ, phần nhàn rỗi được đầu tư vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh để bảo tồn và tăng trưởng quỹ. Như vậy, xét trên cả phương diện, chi trả các chế độ BHXH cũng như đầu tư tăng trưởng quỹ, hoạt động của quỹ BHXH đều góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế. Mặt khác, phân phối trong BHXH là sự phân phối lại theo hướng có lợi cho những người có thu nhập thấp; là sự chuyển dịch thu nhập của những người khỏe mạnh, may mắn có việc làm ổn định cho những người ốm, yếu, gặp phải những biến cố rủi ro trong lao động sản xuất và trong cuộc sống. Vì vậy, BHXH góp phần làm giảm bớt gánh khoảng cách giữa những người giàu và người nghèo, góp phần bảo đảm sự công bằng xã hội. Năm là, BHXH là trụ cột của hệ thống ASXH, góp phần điều tiết các chính sách, các chương trình ASXH của mỗi quốc gia. Khi BHXH phát triển, số đối tượng tham gia và hưởng BHXH được mở rộng sẽ góp phần nâng cao đời sống của người lao động nói riêng và dân cư nói chung, từ đó sẽ góp phần làm giảm số đối tượng được hưởng các chính sách ASXH khác như ưu đãi xã hội, cứu trợ xã hội và làm giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà nước. Sáu là, đối với Việt nam ta BHXH trực tiếp thể hiện vai trò mục tiêu, lý tưởng, bản chất tốt đẹp của chế độ chính trị, xã hội mà Đảng, Nhà nước và nhân dân đã và đang phấn đấu, xây dựng đất nước Việt nam dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Sau chiến tranh thế giới thứ 2, chín chế độ BHXH như hiện nay thực chất là chín nhánh của An sinh xã hội. Nhưng sau đó, nội dung của An sinh xã hội đã ngày càng được mở rộng dần và hiện nay nó còn bao gồm cả: cứu trợ xã hội; ưu đãi xã hội; xóa đói giảm nghèo; trợ giúp xã hội vv… Tuy nhiên, BHXH vẫn là một chính sách đóng vai trò trụ cột trong chính sách An sinh xã hội của các nước trên thế giới. 1.1.2 Bản chất và chức năng của BHXH - Bản chất của BHXH: được thể hiện qua 6 nội dung chính sau đây: ● Mối quan hệ giữa các bên tham gia BHXH xuất phát trên cơ sở quan hệ lao động và quan hệ quản lý xã hội. Bao gồm ba bên: + Bên tham gia BHXH có thể chỉ là người lao động hoặc cả người lao động và người sử dụng lao động. + Bên BHXH (bên nhận nhiệm vụ) thông thường là một cơ quan chuyên trách do Nhà nước thành lập và bảo trợ. Cơ quan này được tổ chức theo đúng khuôn khổ của Pháp luật. + Bên được Bảo hiểm là người lao động và gia đình họ khi có đủ các điều kiện ràng buộc cần thiết. ● Cở sở chủ yếu của mối quan hệ giữa các bên tham gia là quỹ Tài chính BHXH. Quỹ này do tất cả các bên tham gia đóng góp và mức đóng góp của từng bên. Sau đó được luật hoá và cứ thế thể hiện. ● Đứng trên bình diện xã hội thì BHXH là quá trình sử dụng một phần tổng sản phẩm quốc nội (GDP) để đảm bảo an toàn về mặt kinh tế cho người lao động và toàn xã hội. Bởi vậy, quỹ tài chính này là điều kiện tiên quyết để san sẻ rủi ro và san sẻ tài chính giữa các bên tham gia. Cần hiểu cụm từ “san sẻ” theo nghĩa rộng là: + San sẻ giữa những người lao động và người sử dụng lao động với Nhà nước + San sẻ cả về mặt không gian và thời gian. + San sẻ trong nội bộ người lao động và nội bộ người lao động và nội bộ người sử dụng lao động. ● Các biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trong BHXH có thể là những rủi ro ngẫu nhiên trái với ý muốn chủ quan của con người như: ốm đau, tai nạn lao động bệnh nghề nghiệp… Hoặc cũng có thể là những trường hợp xảy ra hoàn toàn ngẫu nhiên như: tuổi già, thai sản v.v… Đồng thời những biến cố đó có thể diễn ra cả trong và ngoài quá trình lao động. ● Một phần thu nhập của người lao động bị giảm hoặc mất đi sẽ được quỹ tài chính BHXH bù đắp hoặc thay thế. Nhưng mức độ bù đắp thay thế luôn luôn thấp hơn thu nhập của họ khi đang còn làm việc. Sở dĩ cơ chế này phải được quán triệt khi làm Chính sách BHXH là vì có như vậy mới khuyến khích người lao động tham gia lao động sản xuất tìm kiếm việc làm khắc phục tình trạng ỷ lại hoặc trục lợi BHXH. ● BHXH ra đời với mục tiêu là nhằm thỏa mãn những nhu cầu thiết yếu của người lao động và gia đình họ trong trường hợp người lao động tham gia BHXH bị giảm hoặc bị mất thu nhập. Mục đích này đã được Tổ chức lao động quốc tế (ILO) cụ thể như sau: + Đền bù cho người lao động những khoản thu nhập bị mất để đảm bảo nhu cầu sinh sống thiết yếu của họ. + Chăm sóc sức khỏe và chống bệnh tật. + Xây dựng điều kiện sống đáp ứng nhu cầu của dân cư và các nhu cầu đặc biệt của người già, người tàn tật và trẻ em. Tất cả những mục đích nói trên thế giới ngày nay đều thừa nhận và cho rằng góp phần đảm bảo ASXH cho từng nước và toàn thế giới. - Chức năng của BHXH : BHXH có những chức năng chủ yếu sau đây: + Bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động được bảo hiểm khi họ bị giảm hoặc bị mất khả năng lao động hoặc mất việc làm trong những điều kiện xác định. Sự bảo đảm này thay thế hoặc bù đắp này chắc chắn sẽ xảy ra. Sở dĩ như vậy vì sức lao động của con người bị giới hạn bởi sức khoẻ và tuổi tác. Còn khi người lao động bị mất việc làm và khả năng lao động tạm thời làm giảm thu nhập, và hội tụ những điều kiện cần thiết họ sẽ được trợ cấp BHXH với mức hưởng, thời điểm và thời hạn hưởng đúng theo quy định. Đây là chức năng cơ bản nhất. + Phân phối lại thu nhập góp phần thực hiện công bằng xã hội. Các bên tham gia BHXH phải đóng góp vào quỹ BHXH hình thành nên quỹ tài chính tập trung. Trên cơ sở sử dụng quỹ BHXH tiến hành phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia BHXH. Khi người lao động bị giảm hoặc bị mất thu nhập sẽ được nhận trợ cấp từ nguồn quỹ này. Vì vậy, không phải ai tham gia cũng được hưởng. Đây là qui luật số đông bù số ít, thực hiện chức năng phân phối lại thu nhập theo cả chiều ngang và chiều dọc. Phân phối giữa những người khỏe mạnh cho người ốm đau, bệnh tật; giữa những người trẻ cho người già; giữa những người không sinh đẻ (nam giới) và người sinh đẻ (nữ giới); giữa những người có thu nhập cao và người có thu nhập thấp... + Kích thích người lao động hăng hái lao động sản xuất nâng cao năng suất lao động cá nhân và năng suất lao động xã hội. Người lao động có việc làm. Khi khỏe mạnh làm việc bình thường sẽ được hưởng tiền lương, tiền công. Khi bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động hoặc khi già đã có BHXH trợ cấp thay thế nguồn thu nhập bị mất. Đây chính là chỗ dựa đáng tin cậy để người lao động yên tâm gắn bó tận tình với công việc, với nơi làm việc. Từ đó, họ rất tích cực lao động sản xuất, nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh tế. Chức năng này biểu hiện như một đòn bẩy kinh tế kích thích người lao động nâng cao năng suất lao động cá nhân và kéo theo là năng suất lao động xã hội. + Gắn bó lợi ích giữa người lao động với người sử dụng lao động, giữa người lao động với xã hội. Thông qua BHXH, những mâu thuẫn nội tại và khách quan giữa người lao động và người sử dụng lao động trong hoạt động lao động sản xuất sẽ được điều hòa và giải quyết. Từ đó làm cho họ hiểu nhau hơn gắn bó được lợi ích với nhau. Đối với Nhà nước và xã hội, chi cho BHXH là cách thức phải chi ít nhất và có hiệu quả nhất nhưng vẫn giải quyết được những rủi ro và khó khăn về đời sống cho người lao động và gia đình họ, góp phần làm cho nền sản xuất ổn định, kinh tế chính trị xã hội được phát triển và an toàn hơn. - Tính chất của BHXH BHXH gắn liền với đời sống của người lao động, vì vậy nó có một số tính chất cơ bản sau: + Tính kinh tế: Các bên tham gia BHXH phải đóng góp để hình thành lên một quỹ tiền tệ tập trung. Mức đóng góp của các bên phải được tính toán rất cụ thể dựa trên xác suất phát sinh thiệt hại của tập hợp người lao động tham gia BHXH. Quỹ BHXH hình thành lên sẽ được quản lý chặt chẽ và được sử dụng chủ yếu để trợ cấp cho những biến cố làm giảm hoặc mất thu nhập của người lao động. Đối với người lao động, mức đóng góp là nhỏ so với quyền lợi họ được hưởng khi gặp rủi ro. Đối với người sử dụng lao động, tham gia vào quỹ BHXH là bảo hiểm cho người lao động mà mình sử dụng. Đối với Nhà nước, góp phần giảm gánh nặng ngân sách hơn nữa quỹ BHXH còn là nguồn vốn đầu tư để tăng trưởng và phát triển kinh tế. + Tính xã hội: BHXH là bộ phận chủ yếu của hệ thống bảo đảm xã hội, vì vậy tính xã hội của nó thể hiện rất rõ. Xét về lâu dài, mọi người lao động trong xã hội đều có quyền tham gia BHXH. Và ngược lại, BHXH phải có trách nhiệm bảo hiểm cho mọi người lao động và gia đình họ, kể cả khi họ còn đang trong độ tuổi lao động. + Tính tất yếu khách quan: BHXH ra đời là nhu cầu khách quan trong đời sống xã hội. Ở đây chính là nhu cầu khách quan cho đời sống người lao động và gia đình họ khi gặp phải rủi ro hoặc sự kiện bảo hiểm. + Tính ngẫu nhiên, phát sinh không đồng đều theo không gian và thời gian. Những nội dung cơ bản của BHXH thể hiện rõ tính chất này. Từ thời điểm hình thành và triển khai, đến mức đóng góp của các bên tham gia để hình thành quỹ BHXH. Từ những rủi ro phát sinh ngẫu nhiên theo thời gian và không gian đến mức trợ cấp BHXH theo từng chế độ cho người lao động v.v… Mối quan hệ giữa các tính chất: Tính kinh tế và tính xã hội của BHXH không tách rời mà đan xen lẫn nhau. Khi nói đến sự bảo đảm kinh tế cho người lao động và gia đình họ là đã nói đến tính xã hội của BHXH, ngược lại, khi nói tới sự đóng góp ít nhưng lại đủ trang trải mọi rủi ro xã hội thì cũng đã đề cập đến tính kinh tế của BHXH. Tính xã hội của BHXH luôn gắn chặt với tính dịch vụ của nó. Khi nền kinh tế - xã hội ngày càng phát triển thì tính dịch vụ và tính chất xã hội hóa của BHXH cũng ngày càng cao. 1.1.3 Hệ thống chế độ BHXH Để thiết kế hệ thống BHXH các nước cần phải căn cứ vào chính sách BHXH của nước mình bởi vậy cần phân biệt chính sách BHXH và chế độ BHXH. - Chính sách BHXH là hạt nhân của BHXH ở mỗi quốc gia. Mảng chính sách này có tính khái quát rất cao nó thể hiện rõ mục đích quan điểm định hướng phạm vi và các mối quan hệ điều chỉnh giữa Nhà nước với người lao động và người sử dụng lao động. Để ban hành chính sách BHXH phải dựa vào cơ sở chính trị - kinh tế - xã hội của đất nước ở mỗi thời kỳ, nó phải phản ánh được sự vận động của toàn bộ nền kinh tế. Chính sách BHXH được thể hiện dưới dạng văn bản pháp luật, hiến pháp,vv… - Chế độ BHXH là sự cụ thể hoá, chi tiết hoá và là sự sắp xếp bố trí những chế định cụ thể để thể hiện chính sách BHXH đối với người lao động. Đây là một hệ thống các quy định được luật hoá về đối tượng BHXH và quyền lợi cũng như nghĩa vụ của họ. Để phản ánh chính sách BHXH đòi hỏi phải có một hệ thống các chế độmang tính nhất quán và đảm bảo tính chất khách quan, có như vậy mới thoả mãn mối quan hệ giữa ba bên: Người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước. Theo khuyến nghị của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đã nêu công ước số 102 tháng 6 năm 1952 tại Giơnevơ, hệ thống chế độ BHXH gồm chín chế độ sau: ▪ Chăm sóc y tế ▪ Trợ cấp ốm đau ▪ Trợ cấp thất nghiệp ▪ Trợ cấp tuổi già ▪ Trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp ▪ Trợ cấp gia đình ▪ Trợ cấp sinh đẻ ▪ Trợ cấp khi tàn phế ▪ Trợ cấp tiền tuất (trợ cấp mất người nuôi dưỡng) Để được coi là một hệ thống chế độ BHXH mỗi nước phải thực hiện ít nhất là 3 chế độ. Trong đó, ít nhất phải có một trong 5 chế độ: (3), (4), (5), (8) và (9). Theo Luật BHXH hiện hành, nước ta thực hiện cả loại hình BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện và BHTN. BHTN được thực hiện vào ngày 1 tháng 1 năm 2009. BHXH bắt buộc thực hiện với 5 chế độ sau đây: ▪ Trợ cấp ốm đau ▪ Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp ▪ Trợ cấp thai sản ▪ Trợ cấp hưu trí ▪ Trợ cấp tử tuất BHXH tự nguyện gồm 2 chế độ: ▪ Chế độ hưu trí ▪ Chế độ tử tuất BHTN gồm có 3 chế độ sau: ▪ Trợ cấp thất nghiệp ▪ Hỗ trợ học nghề ▪ Hỗ trợ tìm việc làm 1.1.4 Qũy BHXH 1.1.4.1 Khái niệm và đặc điểm của quỹ BHXH Quỹ BHXH là quỹ độc lập với Ngân sách nhà nước, Quỹ hoạt động theo cơ chế quản lý tài chính do Chính phủ ban hành và được quản lý tập trung thống nhất trong hệ thống BHXH Việt Nam, được thực hiện hạch toán riêng và cân đối thu chi theo từng quỹ thành phần. Theo quy định hiện hành Quỹ BHXH có ba quỹ thành phần là: Quỹ hưu trí và trợ cấp; quỹ khám, chữa bệnh bắt buộc; quỹ khám, chữa bệnh tự nguyện. Qũy BHXH được hình thành chủ yếu từ đóng góp bằng tiền của các bên tham gia BHXH nhằm mục đích chi trả cho những người được BHXH và gia đình họ khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập khi gặp các rủi ro làm giảm hoặc mất thu nhập do mất khả năng lao động hoặc mất việc làm. Đặc điểm chủ yếu của quỹ BHXH là: ● Mục đích của quỹ là đảm bảo ổn đinh cuộc sốngcủa người lao động và gia đình họ khi họ gặp phải rủi ro hoặc sự kiện bảo hiểm. Nguyên tắc của quỹ là cân bằng thu chi. Quỹ hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận. ● Phân phối quỹ BHXH vừa mang tính hoàn trả, vừa mang tính không hoàn trả. Tính hoàn trả thể hiện ở chỗ, người lao động vừa là đối tượng tham gia đóng góp BHXH vừa là đối tượng được nhận trợ cấp từ quỹ BHXH. Tuy nhiên, chế độ thời gian và mức trợ cấp của mỗi người là khác nhau. Tính không hoàn trả thể hiện ở chỗ, cùng tham gia đóng góp BHXH, nhưng có người được hưởng trợ cấp nhiều lần và nhiều chế độ khác nhau, có người được hưởng ít hơn, thậm chí là không được hưởng trợ cấp. Điều này thể hiện tính xã hội của toàn bộ hoạt động BHXH. ● Qúa trình tích lũy để bảo tồn giá trị và bảo đảm an toàn về tài chính đối với quỹ BHXH là một vấn đề mang tính nguyên tắc. Đặc điểm này xuất phát từ chức năng cơ bản nhất của BHXH là bảo đảm an toàn về thu nhập cho người lao động. Đến lượt mình, BHXH phải tự bảo vệ mình trước nguy cơ mất an toàn về tài chính. Nguồn quỹ này được đóng góp và tích lũy lại trong suốt quá trình lao động. Xét tại một thời điểm cụ thể nào đó, quỹ BHXH luôn tồn tại một lượng tiền tạm thời nhàn rỗi để chi trả trong tương lai. Lượng tiền này có thể biến động và cũng có thể biến động giảm do mất an toàn, giảm giá trị do yếu tố lạm phát. Vì vậy, bảo tồn giá trị và tăng trưởng quỹ đã trở thành yêu cầu mang tính nguyên tắc trong quá trình hoạt động của BHXH. ● Qũy BHXH là hạt nhân, là nội dung vật chất của tài chính BHXH. Trong quá trình vận động, Quỹ BHXH có thể quan hệ trực tiếp với các khâu tài Ngân sách Nhà nước, tài chính doanh nghiệp, tài chính tín dụng, tài chính các tổ chức xã hội và hộ gia đình qua việc tạo lập quỹ dưới hình thức thu BHXH, BHYT và sử dụng quỹ dưới hình thức chi trả các chế độ BHXH, BHYT. Mặt khác thông qua thị trường tài chính, Quỹ BHXH có quan hệ gián tiếp với các khâu tài chính khác trong hệ thống tài chính khi nguồn tài chính của quỹ này tạm thời nhàn rỗi được sử dụng giống như các quỹ tín dụng khác. Quỹ BHXH là khâu tài chính trung gian cùng với ngân sách Nhà nước và tài chính doanh nghiệp hình thành nên hệ thống tài chính quốc gia. ● Sự ra đời, tồn tại và phát triển quỹ BHXH phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội và điều kiện lịch sử trong từng thời kỳ nhất định của đất nước. Kinh tế - xã hội càng phát triển, người lao động và người sử dụng lao động sẽ có thu nhập cao hơn, do đó họ càng có điều kiện tham gia và đóng góp BHXH v.v… 1.1.4.2 Nguồn hình thành quỹ BHXH Quỹ BHXH là một quỹ tiền tệ tập trung được hình thành từ sự đóng góp của các bên tham gia quan hệ BHXH theo quy định của pháp luật. Pháp luật điều chỉnh BHXH bằng quy định của pháp luật. Pháp luật điều chỉnh BHXH bằng quy định việc đóng góp và quản lý BHXH. Quỹ BHXH được hình thành chủ yếu từ các nguồn sau đây: + Đóng góp của người sử dụng lao động, người lao động tham gia BHXH, BHYT bắt buộc. + Nhà nước đóng và hỗ trợ để đảm bảo các chế độ BHXH đối với người lao động. + Nhà nước hỗ trợ, đóng BHYT đối với người nghèo và đối tượng chính sách. + Tiền sinh lời do thực hiện các biện pháp bảo toàn và tăng trưởng Quỹ BHXH. + Các nguồn thu hợp pháp khác. Dựa trên cơ sở quan hệ lao động, trách nhiệm tham gia đóng góp BHXH được phân chia cho cả người lao động và người sử dụng lao động. Đây là chính là sự phân chia lợi ích giữa hai bên. Người lao động đóng góp một phần để tự bảo hiểm cho mình vừa thể hiện sự tự gánh chịu khi rủi ro xảy ra, vừa có ý nghĩa rang buộc nghĩa vụ và quyền lợi một cách chặt chẽ. Người sử dụng lao động đóng góp BHXH cho người lao động mình sử dụng sẽ tránh được thiệt hại kinh tế do phải chi ra một khoản tiền lớn khi rủi ro xảy ra với người lao động, ngoài ra tạo được mối quan hệ tốt đẹp giữa người lao động và người sử dụng lao động. Thực chất mối quan hệ chủ thợ trong BHXH là mối quan hệ lợi ích nên khó tránh khỏi những mâu thuẫn. Sự tham gia đóng góp của Nhà nước là không thể thiếu được. Nhà nước đưa ra những luật lệ là những chuẩn mực pháp lý buộc người lao động và người sử dụng lao động tuân theo, qua đó những mâu thuẫn có cơ sở để giải quyết. Không những thế, Nhà nước còn hỗ trợ thêm cho quỹ BHXH và trở thành chỗ dựa để đảm bảo cho hoạt động BHXH chắc chắn ổn định. Quỹ BHXH ở hầu hết các nước trên thế giới đều được hình thành từ các nguồn nêu trên. Tuy nhiên, phương thức đóng góp và mức đóng góp của các bên tham gia BHXH có khác nhau. Phương thức đóng góp BHXH của người lao động và người sử dụng lao động hiện vẫn còn hai quan điểm: + Phải căn cứ vào mức lương cá nhân và quỹ lương của cơ quan, doanh nghiệp. + Phải căn cứ vào mức thu nhập cơ bản của người lao động được cân đối chung trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân để xác định mức đóng góp. Mức đóng góp BHXH, một số nước quy định người sử dụng lao động phải chịu toàn bộ chi phí cho chế độ tai nạn lao động, Chính phủ trả chi phí y tế cà trợ cấp gia đình, các chế độ còn lại cả người lao động và người sử dụng lao động cùng đóng góp mỗi bên một phần bằng nhau. Một số nước khác lại quy định, Chính phủ bù thiếu cho quỹ BHXH hoặc chịu toàn bộ chi phí quản lý BHXH v.v… Mức đóng góp BHXH thực chất là phí BHXH. Phí BHXH là khoản tiền đóng góp hàng tháng của những người tham gia BHXH cho quỹ BHXH. Phí BHXH là yếu tố quyết định sự cân đối thu chi quỹ BHXH, nên việc xác định vấn đề phí có tầm quan trọng đặc biệt vì nó liên quan đến cả người lao động người sử dụng lao động và Nhà nước. Để xác định được phí BHXH một cách đúng đắn thường sử dụng các phương pháp toán học khác nhau và phải cân nhắc đầy đủ các điều kiện kinh tế - xã hội. Khi tính phí BHXH, có thể có những căn cứ tính toán khác nhau: + Dựa vào tiền lương và thang lương để xác định mức trợ cấp BHXH, từ đó có cơ sở xác định mức phí đóng góp. + Quy định mức phí BHXH trước rồi từ đó xác định mức hưởng. + Dựa vào nhu cầu khách quan của người lao động để xác định mức hưởng, rồi từ mức hưởng BHXH này có thể xác định được mức phí phải đóng. Khi xác định phí BHXH vẫn phải đảm bảo các nguyên tắc: cân đối thu chi, lấy số đông bù số ít và có dự phòng. Mức phí xác định phải được cân đối với mức hưởng, với nhu cầu BHXH và điều chỉnh sao cho tối ưu nhất. Phí BHXH xác định theo công thức: P= f1 + f2 +f3 Trong đó: P - phí BHXH f1 - phí thuần túy trợ cấp BHXH f2 - phí dự phòng f3 - phí quản lý Phân tích thành phần công thức như sau: - Phí thuần túy trợ cấp BHXH cho cả các chế độ ngắn hạn và dài hạn. Đối với các chế độ BHXH ngắn hạn, việc đóng và hưởng BHXH xảy ra trong thời gian ngắn (thường là 1 năm) như ốm đau, thai sản, tai nạn lao động nhẹ… Vì vậy, số đóng góp BHXH phải đủ cho số phát sinh chi trả trong năm. Đối với các chế độ BHXH dài hạn như: hưu trí, trợ cấp mất người nuôi dưỡng, tai nạn lao động bệnh nghề nghiệp nặng v.v… quá trình đóng và quá trình hưởng BHXH tương đối độc lập với nhau và diễn ra trong khoảng thời gian nhất định. Cho nên, sự cân bằng giữa đóng góp và hưởng BHXH phải được dàn trải trong cả thời kỳ dài. - Phí dự phòng để đảm bảo quỹ BHXH có dự trữ đủ lớn. Để đảm bảo sự cân bằng giữa đóng góp và hưởng BHXH trong mọi thời điểm. - Phí quản lý là chi phí để vận hành bộ máy quản lý BHXH. Để xác định được mức phí phải đóng góp và mức hưởng BHXH phải dựa vào nhiều yếu tố và nhiều thông tin khác nhau về nguồn lao động, cơ cấu nguồn lao động theo độ tuổi, giới tính ngành nghề v.v… Ngoài ra còn phải xác định được tuổi thọ bình quân của quốc gia; xác suất ốm đau, tai nạn, tử vong của người lao động v.v… 1.1.4.3 Mục đích sử dụng quỹ Quỹ BHXH được sử dụng chủ yếu để chi trả cho các mục đích sau đây: + Chi trả trợ cấp cho các chế độ BHXH + Chi phí cho sự nghiệp quản lý BHXH + Chi đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH Nội dung chi trả trợ cấp BHXH theo các chế độ là lớn nhất và quan trọng nhất. Khoản chi này được thực hiện theo luật định và phụ thuộc vào phạm vi trợ cấp của từng hệ thống BHXH. Về nguyên tắc, có thu mới có chi, thu trước chi sau. Vì vậy, quỹ chi cho các chế độ trong phạm vi có nguồn thu. Thu của chế độ nào thì chi ở chế độ đó. ● Chi trả trợ cấp cho các chế độ BHXH: là trách nhiệm theo luật định của BHXH, bao gồm: chi trợ cấp ngắn hạn như ốm đau, thai sản, y tế, mai tang; chi trợ cấp dài hạn như hưu trí, tử tuất: và chi trợ cấp tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp.. ● Chi phí cho bộ máy quản lý là khoản chi để tổ chức BHXH chuyên trách thực hiện các nghiệp vụ của mình như chi lương và các khoản có tính chất lương cho lao động làm việc trong ngành BHXH, chi nghiệp vụ chuyên môn, chi quản lý hành chính và chi mua sắm, sửa chữa tài sản cố định. ● Chi đầu tư : khoản chi này thường được quản lý riêng và được lấy từ khoản chênh lệch thu lớn hơn chi quỹ BHXH và từ lợi nhuận do đầu tư quỹ mang lại. Chi phí đầu tư bao gồm vốn gốc, nguồn bổ sung hang năm và các chi phí khác để thực hiện đầu tư. Thu nhập từ hoạt động đầu tư bao gồm vốn gốc và lãi thu được trong quá trình đầu tư. 1.2 Công tác thu BHXH 1.2.1 Vai trò của công tác thu BHXH Quỹ BHXH hiện nay được thực hiện nhằm đạt mục tiêu là một công quỹ độc lập với NSNN, nhằm đảm bảo về tài chính để chi trả các chế độ BHXH cho NLĐ. Vì thế công tác thu BHXH ngày càng trở thành một khâu quan trọng và quyết định đến sự tồn tại và phát triển của việc thực hiện các chính sách BHXH. - Công tác thu BHXH là một hoạt động thường xuyên và đa dạng của ngành BHXH nhằm đảm bảo nguồn quỹ tài chính bảo hiểm xã hội đạt được một cách tập trung thống nhất: Thu quỹ BHXH là hoạt động chính của các cơ quan BHXH từ Trung ương đến địa phương cùng với sự phối hợp của các sở ban ngành, các cơ quan chức năng trên cơ sở quy định của pháp luật về thực hiện chính sách BHXH nhằm tạo ra nguồn tài chính tập trung từ việc đóng góp của các bên tham gia đóng BHXH. Qua đó tránh được tình trạng nợ đọng BHXH từ các cơ quan đơn vị, đối tượng tham gia BHXH. Đồng thời, đảm bảo được sự công bằng trong việc thực hiện các chính sách BHXH nói chung và những người tham gia BHXH nói riêng. - Để các chính sách BHXH được diễn ra một cách thuận lợi thì công tác thu BHXH có vai trò như là một điều kiện cần và đủ trong quá trình tạo lập cũng như thực hiện chính sách BHXH: Bởi đây chính là đầu vào, là nguồn hình thành cơ bản nhất trong quá trình tạo lập nên quỹ BHXH. Đồng thời đây cũng là một khâu bắt buộc đối với đối tượng tham gia BHXH thực hiện nghĩa vụ của mình. Chính vì vậy, công tác thu BHXH là một trong những công việc đòi hỏi độ chính xác cao, thực hiện thường xuyên, liên tục và kéo dài trong nhiều năm đồng thời có sự biến động về mức đóng và số lượng người tham gia BHXH. - Công tác thu BHXH vừa đảm bảo cho quỹ BHXH được tập trung về một mối, vừa đóng vai trò như một công cụ thanh, kiểm tra số lượng đối tượng tham gia BHXH biến động ở từng khối lao động, cơ quan, đơn vị ở từng địa phương hoặc trên phạm vi quốc gia. Bởi vì công tác thu BHXH cũng đòi hỏi phải được tổ chức một các tập trung, thống nhất và có sự ràng buộc chặt chẽ từ trên xuống dưới, đảm bảo an toàn tuyệt đối về tài chính, đảm bảo độ chính xác trong ghi chép kết quả thực hiện đóng BHXH của từng đơn vị cũng như của mỗi NLĐ. Mặt khác, hoạt động thu BHXH là một hoạt động liên quan trực tiếp đến quyền lợi và nghĩa vụ của cả một đời người và có tính kế thừa, số thu BHXH một phần dựa trên số lượng người tham BHXH để tạo lập nên quỹ BHXH, cho nên nghiệp vụ của công tác thu BHXH có một vai trò hết sức quan trọng và rất cần thiết trong thực hiện chính sách BHXH. Bởi lẽ đây là khâu đầu tiên giúp cho chính sách BHXH được triển khai đầy đủ các chức năng cũng như bản chất của mình. - Hoạt động của công tác thu BHXH ở thời điểm hiện tại ảnh hưởng trực tiếp đến công tác chi và quá trình thực hiện các chính sách về BHXH. Do BHXH cũng như các loại hình bảo hiểm khác đều dựa trên cơ sở nguyên tắc có đóng - có hưởng, BHXH đã đặt ra yêu cầu quy định cụ thể đối với công tác thu nộp BHXH. Nếu không thu được BHXH thì quỹ BHXH không thể có nguồn để chi trả cho các chế độ BHXH cho người lao động. Do đó, hoạt động thu BHXH ảnh hưởng trực tiếp đến công tác chi và quá trình thực hiện chính sách BHXH. Cơ sở và nguyên tắc thu BHXH Cơ sở của thu BHXH: - Dựa vào chính sách BHXH. Là cơ sở pháp lý quan trọng nhất để triển khai BHXH thông qua chính sách BHXH, mỗi nước đưa ra định hướng phát triển BHXH. Mọi cơ quan ban ngành liên quan sẽ phải thực hiện thống nhất nhiệm vụ của mình theo định hướng của chính sách BHXH. Công tác thu BHXH ở mỗi nước cũng như phương thức mức đóng ra sao đều dựa vào chính sách BHXH của nước đó. Vì vậy mà mức đóng góp vào quỹ của người lao động tại mỗi nước là khác nhau. Quy định tham gia đóng BHXH và dưới hình thức nào cũng được các nước quyết định tuỳ theo điều kiện kinh tế -xã hội của đất nước đó. - Dựa vào văn bản pháp quy. Dựa trên chính sách BHXH, các cấp các ngành có thẩm quyền có thể soạn thảo các văn bản pháp quy như Luật, Nghị định, thông tư để hướng dẫn thi hành chính sách BHXH của Nhà nước. Chính sách BHXH mang tính định hướng, nhưng các văn bản hướng dẫn thi hành lại là cụ thể hóa của chính sách BHXH của mỗi quốc gia. Sau khi ban hành các văn bản pháp quy thì các cấp ngành liên quan cần phải thực hiện các điều khoản được ghi trên văn bản. - Dưạ vào điều kiện kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Tuỳ theo điều kiện về kinh tế -xã hội của mỗi nước mà việc ban hành chính sách BHXH cũng như các văn bản pháp quy khác sao cho phù hợp là hết sức quan trọng và cần thiết. Mỗi quốc gia đều xác định chính sách BHXH là trụ cột quan trọng của hệ thống an sinh xã hội. Việc ban hành các chính sách BHXH phải dựa trên mức thu nhập của người lao động, mức sống, tuổi thọ trung bình, môi trường và điều kiện làm việc… 1.2.2.2 Nguyên tắc thu BHXH: Dựa vào Luật BHXH thì công tác thu BHXH cần tuân theo một số các nguyên tắc nhằm đảm bảo đúng đối tượng, mức thu, và tính công bằng giữa các đơn vị tham gia BHXH. Cụ thể như sau: - Theo qui định, các cơ quan, doanh nghiệp đóng BHXH phải dựa trên quỹ tiền lương trả cho người lao động. Quỹ tiền lương này bao gồm toàn bộ phần lương cứng và phụ cấp vào lương, đồng thời quỹ tiền lương này phải được đảm bảo chi trả cho tất cả các đối tượng tham gia BHXH. - Công việc quyết toán thu thường được thực hiện theo định kỳ, thường là cuối quý hoặc cuối năm, nhưng trong thời gian đó số người tham gia và số đơn vị tham gia BHXH có thể thay đổi, vì vậy việc quyết toán BHXH cần phải căn cứ theo số liệu thống kê thực tế phát sinh chứ không phải dựa theo mức bình quân. - Công tác thu BHXH phải được thực hiện trực tiếp, hạn chế tối đa các khoản thu để hưởng hoa hồng. - Trong quá trình quyết toán thu BHXH, tất cả các số thu BHXH phải ăn khớp với nhau và phải thực sự cân đối: giữa người lao động, chủ sử dụng lao động, loại hình doanh nghiệp, loại hình thu để thực hiện việc thu BHXH một cách tốt nhất. 1.2.3 Quy trình thu BHXH Quá trình thu BHXH được thực hiện qua các bước sau đây: Đăng ký tham gia BHXH: NSDLĐ, các cơ quan, các doanh nghiệp quản lý các đối tượng tham gia có trách nhiệm đăng ký tham gia BHXH với cơ quan BHXH được phân công quản lý, nhằm xác định số lượng người tham gia BHXH để thong báo với cơ quan chức năng có thẩm quyền về BHXH. Đây là khâu đầu tiên trong quá trình thu và quản lý thu quỹ BHXH; tuỳ vào mỗi nước mà có quy định khác nhau về việc nộp hồ sơ đăng ký tham gia BHXH cho NLĐ, nhưng nhìn chung các hồ sơ đăng ký tham gia BHXH thường bao gồm: + Các quy định, công ước đăng ký tham gia BHXH; + Danh sách lao động và quỹ tiền lương trích nộp BHXH; + Hồ sơ hợp lệ đơn vị và NLĐ trong danh sách. Cơ quan BHXH tiếp nhận, thẩm định danh sách tham gia BHXH, số tiền lương phải đóng BHXH hang tháng. Đơn vị quản lý đối tượng căn cứ thông báo hoặc hợp đồng đã ký kết với cơ quan BHXH tiến hành cấp sổ BHXH. Sau quá trình đăng ký tham gia BHXH cho NLĐ: cơ quan BHXH định kỳ (theo quy định của mỗi nước) sẽ tiến hành thu BHXH từ người tham gia BHXH hoặc các đơn vị, cơ quan sử dụng lao động tham gia BHXH thong qua việc mở tài khoản ngân hàng hoặc tại Kho bạc Nhà nước hoặc cũng có thể đến trực tiếp từng đơn vị, từng người tham gia BHXH để thu đóng góp BHXH. Quy trình thu được tiến hành qua 2 cách như sau: + Trường hợp 1: Cán bộ BHXH phải trực tiếp thu BHXH từ những người tham gia. Trường hợp này cán bộ BHXH hợc bộ phận chuyên trách thu của cơ quan BHXH sẽ trực tiếp thu đóng từ những người tham gia BHXH.họ sẽ xuống tận cơ sở, nơi NLĐ làm việc để trực tiếp thu. + Trường hợp 2: Cơ quan BHXH thông qua NSDLĐ hoặc thông qua đại lý thu của mình Ngân hàng, bưu điện, thông qua cơ quan thuế. Cơ quan BHXH thường mở tài khoản tại Ngân hàng hoặc kho bạc Nhà nước để công việc chuyển tiền từ NSDLĐ, các đại lý thu đến cơ quan BHXH được thuận tiện. Khi đó, NSDLĐ được giao kết là các đại lý cho cơ quan BHXH sẽ tiến hành thu BHXH từ NLĐ, sau đó chuyển toàn bộ đóng góp BHXH của cả NSDLSĐ và NLĐ cho cơ quan BHXH có kèm theo báo cáo số thu nộp BHXH và danh sách nộp BHXH thông qua việc chuyển khoản vào tài khoản của Cơ quan BHXH tại Ngân hàng hoặc Kho bạc Nhà nước. - Hàng tháng nếu có sự biến động so với danh sách đăng ký tham gia BHXH, đơn vị quản lý đối tượng lập danh sách điều chỉnh theo mẫu quy định (tuỳ theo từng nước ) gửi cơ quan BHXH có chức năng để kịp thời điều chỉnh, xử lý. Quản lý thu BHXH Tham gia BHXH là nhiệm vụ, nghĩa vụ của các đơn vị sử dụng lao động nhằm thực hiện quyền lợi cho NLĐ. Việc đóng góp vào quỹ BHXH của các bên tham gia là điều tất yếu, vì theo nguyên tắc có đóng có hưởng. Vậy thu từ những người tham gia BHXH là nguồn thu chủ yếu và quan trọng nhất cho quỹ BHXH ở hầu hết các quốc gia. Trên cơ sở nhiệm vụ của công tác thu là thu đúng, thu đủ và rõ ràng minh bạch nhằm đảm bảo tính công bằng, minh bạch giữa các đối tượng tham gia. Bên cạnh đó cần phải tổ chức ghi chép, theo dõi kết quả đóng BHXH của từng người, từng đơn vị để làm cơ sở tính mức hưởng BHXH theo quy định. Hơn nữa, công tác thu BHXH có những đặc điểm sau: - Số đối tượng tham gia BHXH rất lớn và biến động theo thời gian nên công tác quản lý thu BHXH rất khó khăn và phức tạp. - Công tác thu mang tính chất định kỳ, lặp đi lặp lại nên khối lượng công việc rất lớn đòi hỏi nguồn nhân lực và cơ sở vật chất phục vụ cho công tác thu cũng phải tương ứng. Do vậy, công tác thu BHXH là nhiệm vụ quan trọng và khó khăn của ngành BHXH. Để công tác thu đạt hiệu quả cao thì đòi hỏi quy trình quản lý thu phải hết sức chặt chẽ hợp lý, khoa học nhất là trong thời đại công nghệ thông tin bùng nổ như ngày nay. Quy trình thu hiện nay là: + Giao kế hoạch thu (liên quan đến 3 cấp tỉnh, huyện, trung ương). + Thực hiện thu (nhận danh sách và tờ khai, kiểm tra đối chiếu và cấp sổ, kiểm tra đối chiếu tiền thu, xác nhận tiền thu vào sổ BHXH và hồ sơ BHXH) + Báo cáo kết quả thu (có thể thực hiện hàng tháng, quý năm thuộc vào mô hình quản lý) + Thẩm định kết quả thu (được thực hiện ở cấp BHXH TW và tỉnh. Cơ quan BHXH TW và tỉnh thường dựa vào báo cáo kết quả thu và tài liệu gốc; kiểm định là cơ sở cho cơ quan BHXH các cấp thực hiện theo 2 cách: kiểm tra từ nội bộ và kiểm tra từ bên ngoài) + Lập kế hoạch thu được thực hiện từng kỳ theo cấp quản lý dựa vào thực tế tình hình thực hiện thu của năm trước, dựa vào khả năng mở rộng đối tượng Vì vậy công tác quản lý thu BHXH phải được tổ chức chặt chẽ, thống nhất trong cả hệ thống từ lập kế hoạch thu, phân cấp thu, ghi kết quả và đặc biệt là quản lý tiền thu BHXH. - Quản lý tiền thu BHXH tỉnh và BHXH huyện không được sử dụng tiền thu BHXH, BHYT vào bất cứ mục đích gì (trường hợp đặc biệt phải được Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam chấp nhận bằng văn bản) Hàng quý, BHXH tỉnh (Phòng Kế hoạch – Tài chính) và BHXH huyện có trách nhiệm quyết toán số tiền 2% đơn bị được giữ lại, xác định số chênh lệch thừa thiếu; Đồng thời gửi thống báo quyết toán cho phòng Thu hoặc bộ phận Thu để thực hiện thu kịp thời số tiền người sử dụng lao động chưa chi hết vào tháng đầu của quý sau; BHXH Việt Nam thẩm định số thu BHXH, BHYT theo 6 tháng hoặc hàng năm đối với BHXH Tỉnh, BHXH thuộc Bộ Quốc phòng, Bộ Công An và Ban Cơ yếu Chính Phủ. Thông tin báo cáo: BHXH tỉnh, huyện mở Sổ chi tiết thu BHXH, BHYT bắt buộc (Mẫu số 07-TBH); thực hiện ghi sổ theo hướng dẫn sử dụng mẫu biểu. BHXH tỉnh, huyện thực hiện chế độ báo cáo tình hình thu BHXH, BHYT bắt buộc (Mẫu số 09, 10, 11-TBH) định kỳ hàng tháng, quý, năm; BHXH như sau: BHXH huyện: Báo cáo tháng trước 22 hàng tháng; báo cáo quý trước ngày 20 tháng đầu quý sau; báo cáo năm trước ngày 25/01 năm sau. BHXH tỉnh: Báo cáo tháng trước 25 hàng tháng; báo cáo quý trước ngày cuối tháng đầu qúy sau; báo cáo năm trước ngày 25/01 năm sau. BHXH thuộc Bộ Quốc phòng, Bộ Công an và Ban Cơ yếu Chính Phủ: Thực hiện báo cáo thu BHXH 6 tháng đầu năm trước ngày 30/07 và báo cáo năm trước ngày 15/02 năm sau. - Quản lý hồ sơ, tài liệu: BHXH tỉnh, huyện cập nhật thông tin, dữ liệu của người tham gia BHXH, BHYT để phục vụ kịp thời cho công tác nghiệp vụ và quản lý. BHXH tỉnh xây dựng hệ thống mã số đơn vị tham gia BHXH áp dụng trong địa bàn tỉnh theo hướng dẫn của BHXH Việt Nam. Mã số tham gia BHXH cấp cho đơn vị để đăng ký tham gia BHXH được sử dụng thống nhất trên hồ sơ giấy tờ; sổ sách và báo cáo nghiệp vụ. BHXH các cấp tổ chức phân loại, lưu trữ và bảo quản hồ sơ, tài liệu thu BHXH, BHYT đảm bảo khoa học để thuận tiện khai thác; sử dụng. Thực hiện ứng dụng công nghệ thông tin để qủan lý người tham gia BHXH, BHYT, cấp sổ BHXH, thẻ BHYT cho người tham gia BHXH, BHYT bắt buộc. Trong quá trình tiến hành công tác thu BHXH được tiến hành với phương châm: thu đúng đối tượng, đúng phạm vi thu và đặc biệt nữa là thu đủ số tiền đóng BHXH từ các đối tượng tham gia, thì việc tăng cường công tác quản lý thu BHXH là vấn đề cấp bách được các cơ quan và mọi người rất quan tâm. Để hình thành nên một chính sách thu, một kế hoạch thu BHXH thích ứng với cơ chế quản lý kinh tế đang trong quá trình đổi mới, đòi hỏi phải nghiên cứu, giải quyết hàng loạt vấn đề cả lý luận và thực tiễn. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THU BHXH TẠI BHXH QUẬN HÀ ĐÔNG 2.1 Giới thiệu khái quát về BHXH quận Hà Đông 2.1.1 BHXH quận Hà Đông Hà Đông là một quận thuộc thành phố Hà Nội, nằm bên bờ sông Nhuệ, cách thành phố Hà Nội 11 km về phía Tây. Hà Đông nằm dọc theo quốc lộ 6 từ Hà Nội đi Hoà Bình và trên ngã 3 sông Nhuệ, sông La Khê. Phía Bắc giáp huyện Từ Liêm, Hoài Đức. Phía Đông giáp quận Thanh Xuân. Phía Tây giáp huyện Hoài Đức, Quốc Oai, Chương Mĩ. Phía Tây Nam giáp huyện Chương Mĩ.Phía nam giáp huyện Thanh Oai. Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính theo Quyết Định số 23/2008/NĐ-CP quận Hà Đông có 17 đơn vị hành chính là các phường: Hà Cầu, La Khê, Mộ Lao, Nguyễn Trãi, Phúc La, Phú La, Quang Trung, Vạn Phúc, Văn Quán, Yết Kiêu, Biên Giang, Dương Nội, Đồng Mai, Kiến Hưng, Phú Lãm, Phú Lương, Yên Nghĩa. Diện tích 47,91 km2,dân số hơn 198.600 người. Trên địa bàn Quận còn có các cơ quan hành chính và trên 300 doanh nghiệp, chủ yếu là doanh nghiệp ngoài quốc doanh với trên 25 ngàn lao động. Với đặc thù trên nên đối tượng hưởng các chế độ, chính sách mà BHXH quận Hà Đông quản lý là rất lớn, đồng thời tiềm năng khai thác, phát triển và mở rộng đối tượng thu BHXH, BHYT và thực hiện các chế độ, chính sách về BHXH, BHYT ngày càng phát triển. BHXH Quận Hà Đông được thành lập theo quyết định số 13b-QĐ/TC-CB ngày 15/06/1995 với tên gọi là BHXH thị xã Hà Đông. Từ ngày 1/8/2008, thực hiện Nghị quyết số 15/2008/QH12 ngày 29/5/2008 của Quốc hội về việc điều chỉnh địa giới hành chính thành phố Hà Nội và một số tỉnh có liên quan.Từ ngày 24/7/2008, Tổng Giám đốc BHXHVN ban hành Quyết định số 3902/QĐ-BHXH về việc tổ chức lại BHXH thành phố Hà Nội trong đó có BHXH thành phố Hà Đông, ngày 19/6/2009, Tổng Giám đốc BHXHVN đã ban hành Quyết định số 706/QĐ-BHXH về việc đổi tên BHXH thành phố Hà Đông thành BHXH quận Hà Đông trực thuộc BHXH thành phố Hà Nội và chính thức đi vào hoạt động theo sự phân cấp của BHXH thành phố Hà Nội. Thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao, trong những năm qua, BHXH quận đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến và triển khai rộng rãi các chính sách về BHXH, BHYT đến các cơ quan, đơn vị và các đối tượng thụ hưởng chế độ BHXH trên địa bàn. Do vậy, số thu BHXH, BHYT, số lao động và số đơn vị tham gia BHXH năm sau luôn cao hơn năm trước. Cùng với việc hiện tốt các công tác chuyên môn nghiệp vụ, đảm bảo thu đúng, thu đủ và chi trả các chế độ BHXH, BHYT kịp thời, an toàn tới thay đối tượng, góp phần đảm bảo an sinh xã hội và ổn định chính trị trên địa bàn. Vì vậy trong 3 năm vừa qua BHXH quận đều được BHXH Việt Nam tặng bằng khen và chi bộ BHXH quận 3 năm liền là chi bộ Đảng trong sạch vững mạnh. 2.1.2 Hệ thống tổ chức bộ máy của BHXH quận Hà Đông - BHXH Quận Hà Đông có chức năng : giúp Giám đốc BHXH Thành phố tổ chức thực hiện các chính sách, chế độ BHXH và quản lý tài chính BHXH trên địa bàn quận. BHXH quận chịu sự quản lý trực tiếp, toàn diện của Giám đốc BHXH Thành phố, chịu sự quản lý hành chính trên địa bàn lãnh thổ của UBND Thành phố. - Các nhiệm vụ chính của BHXH quận Hà Đông : 4Xây dựng chương trình, kế hoạch công tác năm trình Giám đốc BHXH thành phố Hà Nội phê duyệt và tổ chức thực hiện. 4Hướng dẫn đơn vị sử dụng lao động (SDLĐ) lập danh sách tham gia BHXH, đôn đốc, theo dõi việc thu nộp BHXH của các đơn vị trên địa bàn quận hoặc trực tiếp thu BHXH theo phân cấp của BHXH Việt Nam và BHXH thành phố Hà Nội. 4Tiếp nhận kinh phí,danh sách và tổ chức chi trả cho các đối tượng hưởng các chế độ BHXH do BHXH thành phố Hà Nội chuyển đến theo phân cấp. Theo dõi việc thay đổi địa chỉ, danh sách tăng, giảm đối tượng hưởng chế độ trong quá trình chi trả. 4Tiếp nhận đơn thư khiếu nại, tố cáo về chế độ, chính sách BHXH để giải quyết theo thẩm quyền hoặc báo cáo với BHXH thành phố Hà Nội xem xét giải quyết. 4Tổ chức kí kết hợp đồng trách nhiệm và quản lí mạng chi trả BHXH ở xã, phường. 4Quản lí các đối tượng khám chữa bệnh (KCB) bắt buộc và tự nguyện theo quy định của BHXH thành phố Hà Nội trên địa bàn phụ trách, hướng dẫn đôn đốc các đơn vị thực hiện các thủ tục phục vụ cho việc khai thác, phát hành hoặc gia hạn thẻ KCB theo phân cấp của BHXH thành phố Hà Nội. 4Thực hiện công tác giám định chi KCB của người có sổ, thẻ BHXH tại cơ sở KCB. Tiếp nhận và hướng dẫn người bệnh trong quá trình đến KCB, giải quyết những vướng mắc và đảm bảo quyền lợi cho bệnh nhân có sổ, thẻ BHXH. 4Thực hiện thông tin, tuyên truyền,giải thích chính sách,chế độ BHXH trên địa bàn quận Hà Đông. 4Quản lí công chức, viên chức, tài chính và tài sản thuộc BHXH quận Hà Đông theo quy định của BHXH Việt Nam và BHXH thành phố Hà Nội - Cơ cấu bộ máy tổ chức BHXH Hà Đông: Sơ đồ bộ máy tổ chức của BHXH Hà Đông Bộ phận Quản lý Thu và Cấp sổ thẻ Bộ phận giám định chi BHYT Bộ phận chế độ chính sách Bộ phận Kế toán Phó Giám đốc Phó Giám Đốc Giám Đốc BHXH Quận Hà Đông 4Giám đốc: Là người đứng đầu cơ quan BHXH, phụ trách chung và chịu trách nhiệm về toàn bộ công tác chính sách trên địa bàn quận quản lí, phụ trách trực tiếp bộ phận chế độ chính sách, bộ phận kế toán. 4Phó giám đốc: Có nhiệm vụ điều hành cơ quan khi Giám đốc đi vắng. BHXH quận Hà Đông có hai Phó giám đốc, một Phó giám đốc phụ trách bộ phận thu và một Phó giám đốc phụ trách bộ phận giám định 4Bộ phận chế độ chính sách: Là nơi lưu trữ hồ sơ của các đối tượng hưu trí và hưởng trợ cấp BHXH, theo dõi ghi biến động các đối tượng lương hưu và trợ cấp BHXH…Bộ phận này có nhiệm vụ: - Quản lý hồ sơ đối tượng hưởng BHXH dài hạn trên địa bàn, tiếp nhận hồ sơ do BHXH thành phố chuyển về. Quan sát biến động tăng giảm của từng loại đối tượng tham gia, thông báo cho đối tượng và bộ phận kế hoạch tài chính để điều chỉnh hợp lí và kịp thời đối tượng chết và hết hạn hưởng. - Tổng hợp các kiến nghị, những đề xuất về mức hưởng của đối tượng, hướng dẫn đối tượng và ban chi trả phường, xã lập hồ sơ xuất trình đề nghị cấp trên giải quyết. - Tiếp nhận chuyển đến, chuyển đi của các cán bộ hưu trí và mất sức lao động. 4Bộ phận kế toán: - Chức năng: Giúp giám đốc quản lý và thực hiện nguồn tài chính do BHXH phân cấp theo quy định của pháp luật. - Nhiệm vụ: Tổ chức cấp kinh phí cho các đại lý chi lương hưu và trợ cấp BHXH hàng tháng theo đúng quy định của ngành. Tiếp nhận kinh phí và xây dựng kế hoạch chi quản lý bộ máy có hiệu quả, chống lãng phí theo chế độ kế toán quy định của pháp luật. Theo dõi lưu trữ dữ liệu và chứng từ sổ sách kế toán theo quy định của ngành, của nhà nước. Thực hiện chương trình cải cách hành chính của ngành; tổng hợp báo cáo trình duyệt quyết toán hàng quý đối với BHXH Thành phố; tham gia thông tin, tuyên truyền chế độ chính sách BHXH, BHYT trên địa bàn quận Hà Đông. 4Bộ phận quản lý thu và cấp sổ thẻ Đây là bộ phận do phó giám đốc phụ trách. Bộ phận này vừa có nhiệm vụ quản lý thu đồng thời vừa làm công tác cấp sổ thẻ. Cụ thể như sau: - Hướng dẫn các đơn vị sử dụng lao động trên địa bàn lập danh sách lao động, tiền lương đăng ký nộp BHXH. Tổ chức phối hợp tốt với các ngành các cấp địa phương để thu BHXH theo điều lệ BHXH và các văn bản hướng dẫn của các bộ, các ngành và cơ quan BHXH cấp trên. - Thực hiện công tác cấp, quản lý và sử dụng sổ, thẻ BHXH đối với đối tượng tham gia BHXH theo đúng quy định của pháp luật. Tổ chức xét duyệt hồ sơ theo phân cấp của BHXH thành phố và đề nghị BHXH tỉnh xét cấp sổ BHXH cho NLĐ tham gia BHXH. Quản lí danh sách lao động, tiền lương, theo dõi sự biến động tăng giảm; tiến hành đối chiếu công nợ đối với đơn vị và xác nhận kịp thời trên sổ BHXH khi có sự thay đổi về địa điểm, chức danh và mức đóng BHXH. - Hàng quí tổng hợp tình hình thực hiện của các đơn vị báo cáo giám đốc và trình BHXH Thành phố xét duyệt. Phối hợp với bộ phận chế độ để xét hưởng 2 chế độ (ốm đau, thai sản). - Vận động và phổ biến chủ trương chính sách BHXH cho các đơn vị và NLĐ, triển khai thu nộp, kiểm tra việc thực hiện trích nộp ở các đơn vị và thực hiện các nhiệm vụ được giao. 4Bộ phận giám định chi: Theo dõi bệnh viện KCB tại trung tâm y tế và bệnh viện trên địa bàn quận,kiểm tra các thủ tục giấy tờ,phiếu khám bệnh BHYT. BHXH quận Hà Đông có hai nhân viên giám định chi,một nhân viên thường trực tại trung tâm y tế và một nhân viên thường trực ở BHXH quận Hà Đông. - Đội ngũ cán bộ,công chức ,viên chức của đơn vị BHXH quận Hà Đông có 32 cán bộ, công chức, viên chức, trong đó có đến 80 % có trình độ từ đại học trở lên. Cụ thể như sau: 1 Giám đốc, 2 Phó giám đốc, 8 cán bộ ở phòng chế độ chính sách, 6 cán bộ ở phòng kế toán, 12 cán bộ ở phòng quản lí thu, 2 cán bộ ở phòng giám định chi, 1 cán bộ ở phòng BHXH tự nguyện.Với đội ngũ cán bộ giàu kinh nghiệm, BHXH quận Hà Đông luôn nỗ lực hết mình để hoàn thành tốt nhiệm vụ mà BHXH thành phố Hà Nội giao cho - Cơ sở vật chất kĩ thuật của BHXH quận Hà Đông BHXH quận Hà Đông nằm trên đường Lê Lợi-quận Hà Đông, với toà nhà 3 tầng. Mỗi cán bộ, nhân viên được trang bị 1 máy tính và mỗi phòng ban được trang bị 1 máy in. Ngoài ra các phòng ban được trang bị đầy đủ các vật dụng như tủ cá nhân, bàn ghế, quạt máy…để cán bộ nhân viên có thể phục vụ tốt nhiệm vụ của mình. 2.1.3 Một số kết quả hoạt động của BHXH quận Hà Đông trong thời gian gần đây Với các mục tiêu và biện pháp được đề ra, BHXH quận Hà Đông đã phấn đấu thực hiện và đạt được một số kết quả trọng tâm sau: - Về công tác tổ chức: Giai đoạn đầu mới chuyển giao về BHXH thành phố Hà nội, BHXH quận Hà Đông tiếp nhận gần ½ số cán bộ do BHXH thành phố Hà nội chuyển từ BHXH tỉnh Hà Tây và BHXH các Huyện về do vậy có nhiều đặc điểm khác nhau về tác phong làm việc, sinh hoạt và cách xử lý nghiệp vụ và sự phân cấp về quản lý nghiệp vụ của BHXH thành phố, song tập thể lãnh đạo BHXH quận Hà Đông và đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức sớm hòa nhập cùng toàn ngành khẩn trương bắt tay ngay vào thực hiện nhiệm vụ, thành lập các tổ chức đoàn thể theo sự phân cấp của cấp trên, phát động phong trào thi đua yêu nước trong toàn thể đội ngũ cán bộ nhân viên với phương châm hành động: “ Đoàn kết, đổi mới, sáng tạo, hiệu quả phục vụ thật tốt đối tượng tham gia và thụ hưởng chính sách BHXH, BHYT” nhằm chuyển đổi phong cách làm việc hành chính sang phong cách phục vụ người lao động, chấp hành nghiêm chỉnh pháp lệnh cán bộ công chức. - Công tác thu, cấp sổ thẻ BHXH, BHYT, BHTN: Thực hiện các quy định của Nhà nước về BHXH, BHYT giai đoạn trước và sau khi hợp nhất, BHXH quận Hà Đông đã triển khai và áp dụng nhiều biện pháp như tuyên truyền, hướng dẫn thực hiện các Nghị định và Thông tư hướng dẫn về chính sách BHXH, BHYT, BHTN trong đó chú trọng các giải pháp mở rộng đối tượng tham gia BHXH, BHYT, BHTN nhất là việc mở rộng đối tượng tham gia BHXH, BHYT đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh, ngoài công lập, tập trung đôn đốc các đơn vị tham gia BHXH, BHYT. Tổng số thu BHXH, BHYT từ khi điều chỉnh địa giới hành chính theo Nghị quyết 15 (tháng 8/2008 đến hết tháng 7 năm 2009) được: 116 tỷ 730 triệu đồng trong đó: số thu BHXH, BHYT, 7 tháng đầu năm năm 2008 được 69 tỷ 730 triệu đồng, đạt 57,8% kế hoạch năm 2009 do BHXH thành phố giao. + Duyệt hồ sơ cấp sổ BHXH được: cho 708 lao động. + In và phát hành được: 17.044 thẻ KCB cho đối tượng. + Từ tháng 8 năm 2008 đến nay đã tuyên truyền mở rộng được: 52 đơn vị với 607 lao động tham gia BHXH, BHYT. Thu BHXH, BHYT tự nguyện: + Thu BHXH tự nguyện 7 tháng năm 2009 được : 142 lượt người với số tiền là 114.765.000 đồng. + Thu BHYT tự nguyện 7 tháng năm 2009 được: 4.909 lượt người với số tiền là: 954.728.000 đồng. - Công tác Giám định chi: Duy trì công tác thường trực tại Trung tâm y tế đảm bảo quyền lợi cho đối tượng có thẻ BHYT đi khám, chữa bệnh, cụ thể tổng số chi khám chữa bệnh nội, ngoại trú từ tháng 8 năm 2008 đến nay cho 5.502 lượt người, với số tiền là: 50.594.500 đồng, chi khám chữa bệnh nội ngoại trú tại Trung tâm y tế Hà Đông cho 5.409 lượt người với số tiền là: 44.098.012 đồng. - Công tác công nghệ thông tin: Các bộ phận nghiệp vụ tiến hành lưu trữ hồ sơ của đối tượng, đóng chứng từ, sổ sách đưa vào lưu trữ đảm bảo khoa học, gọn gàng, ngăn nắp, thuận tiện phục vụ công tác nghiệp vụ thường xuyên. Nâng cấp và cài đặt phần mềm hệ thống công nghệ thông tin phục vụ công tác thu, in sổ BHXH và cài đặt phần mềm kế toán, trang bị máy đáp ứng yêu cầu được giao. 2.2 Thực trạng hoạt động thu BHXH tại BHXH quận Hà Đông. 2.2.1 Cơ sở thu BHXH tại BHXH quận Hà Đông Thu BHXH là hoạt động của các cơ quan BHXH cùng với sự phối hợp của các ban ngành chức năng trên cơ sở các quy định của pháp luật nhằm tạo lập nguồn tài chính tập trung, từ việc đóng góp của các bên tham gia Bảo hiểm xã hội và những nguồn tài chính bổ sung khác. Thu BHXH là một hoạt động cần thiết và không thể thiết trong hoạt động BHXH. Nó sẽ đảm bảo cho sự tạo lập và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung và tạo ra nguồn tài chính để có thể tiến hành các hoạt động BHXH. Sự cần thiết thể hiện ở chỗ: - Thu BHXH là cơ sở để đo sự đóng góp giữa các bên tham gia BHXH và đánh dấu sự đóng góp giữa các bên tham gia. - Tạo lập nguồn tài chính tập trung từ đó có thể tiến hành thống nhất các hoạt động BHXH. - Nguồn thu BHXH phản ánh rõ nét mối quan hệ ba bên trong BHXH, là cơ sở để tạo ra các quan hệ khác trong BHXH. Do nguồn thu được hình thành từ ba nguồn chủ yếu là đóng góp từ người lao động, người sử dụng lao động và phần hỗ trợ từ Ngân sách Nhà nước. Thực chất đây là mối quan hệ về lợi ích trong đó: người lao động sẽ hưởng các quyền lợi khi họ không may gặp phải rủi ro hoặc sự kiện bảo hiểm, người sử dụng lao động sẽ phải bỏ ra ít chi phí hơn khi người lao động không may gặp phải rủi ro. Nhà nước đạt được mục tiêu ổn định xã hội, giảm bớt căng thẳng cho thị trường lao động vốn đã rất có nhiều xung đột về lợi ích giữa người lao động và người sử dụng lao động, góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế. Đặc biệt, dựa trên cơ sở các chính sách BHXH mà mục đích lớn nhất là bảo đảm đời sống cho người lao động và gia đình họ, người tham gia bảo hiểm xã hội sẽ được thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập mất đi khi họ bị suy giảm, mất khả năng lao động, mất việc làm; khi họ hết tuổi lao động theo quy định sẽ được hưởng chế độ hưu trí (lương hưu); khi chết sẽ được hưởng trợ cấp tiền tuất, mai táng phí; ngoài ra được hưởng trợ cấp khi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp và dưỡng sức.Việc ban hành chính sách BHXH phải dựa trên thu nhập của người lao động, mức sống, tuổi thọ, điều kiện làm việc...(Căn cứ vào nội dung này để cụ thể hóa cơ sở thu bảo hiểm). Bên cạnh đó, dựa vào các văn bản pháp luật được ban hành, BHXH quận Hà Đông đã và đang thực hiện thu BHXH bắt buộc đối với NLĐ dựa trên cơ sở thu theo một số các quyết định do Bảo hiểm xã hội Việt Nam ban hành như: Quyết định số 902/QĐ-BHXH ngày 26/06/2007, Quyết định số 1333/QĐ-BHXH ngày 21/02/20 và Quyết định số 4427/BHXH-BT về thu BHXH,BHYT. 2.2.2 Quy trình thu BHXH tại BHXH quận Hà Đông Bước 1: Lập và giao kế hoạch thu Kế hoạch thu là cơ sở để triển khai công tác thu BHXH ở từng đơn vị, đây cũng là nhiệm vụ trong năm của phòng quản lý thu. Để lập kế hoạch thu, phòng quản lý thu phải dựa vào kết quả thu thực tế của những năm trước để đưa ra chỉ tiêu cụ thể cần phải đạt được cho BHXH quận trong năm nay. Sau đó, BHXH quận sẽ lập kế hoạch chi tiết để hoàn thành kế hoạch đề ra. Bước 2: Xác định đối tượng tham gia BHXH và mức thu Việc xác định đối tượng tham gia có vai trò rất quan trọng vì mỗi đối tượng có quy định đóng BHXH khác nhau. Xác định chính xác đối tượng tham gia nhằm tránh việc thu sai BHXH. Việc xác định mức thu gắn liền với việc xác định đối tượng, bởi khi đã xác định đúng đối tượng thì có thể xác định được mức thu tương ứng cho đối tượng đó. Bước 3: Tổ chức thu và đôn đốc các đơn vị nộp BHXH Hàng tháng, sau khi xác định số tiền phải nộp BHXH của các đơn vị, BHXH quận sẽ tiến hành thu theo quy định. Các đơn vị sử dụng lao động tham gia BHXH phải đóng BHXH trích từ tiền lương của người lao động và từ quỹ lương của đơn vị mình. Cơ quan BHXH quận có trách nhiệm theo dõi việc nộp BHXH của từng đơn vị, nếu đơn vị nào chậm nộp BHXH hai tháng trở lên thì phải thông báo kịp thời để đôn đốc việc nộp BHXH theo đúng quy định và áp dụng việc nộp phạt với những đơn vị vi phạm. Sau khi thu BHXH, BHXH quận tiến hành ghi chép kết quả nộp BHXH của từng đơn vị và đối chiếu xem đơn vị đó còn thiếu hay không, việc này được làm mỗi quý một lần. Đơn vị đóng thiếu thì sẽ đóng bổ sung vào quý sau. Cuối cùng, BHXH quận ghi mức nộp vào sổ BHXH của từng người lao động tham gia của từng đơn vị. Bước 4: Chuyển tiền về BHXH thành phố Tất cả số tiền BHXH quận thu được đều phải chuyển về tài khoản của BHXH thành phố Hà Nội. BHXH quận thu dưới hình thức chuyển khoản và không được chi bất cứ khoản tiền gì từ số tiền thu được. Các đơn vị sử dụng lao động phải nộp tiền về BHXH quận Hà Đông chậm nhất vào ngày cuối tháng và hình thức nộp là vào tài khoản của BHXH quận Hà Đông mà đơn vị đăng ký tham gia. Bước 5: Thống kê số liệu và lập báo cáo gửi lên cơ quan BHXH thành phố BHXH quận Hà Đông có nhiệm vụ lập báo cáo mỗi tháng, quý, năm để gửi lên BHXH thành phố Hà Nội. Báo cáo tháng gửi trước ngày 22 hàng tháng, báo cáo quý gửi trước ngày 15 tháng đầu của quý sau, báo cáo năm gửi ngày 20/01 năm sau. Nội dung của báo cáo tháng, quý là kết quả công tác thu - chi trong tháng, quý; còn báo cáo năm là kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị năm nay và phương hướng nhiệm vụ năm tới. 2.2.3. Phương pháp thu BHXH Hiện nay, công tác thu đóng góp BHXH ở BHXH quận Hà Đông bao gồm 2 phương pháp thu nộp BHXH như sau: 2.2.3.1 Phương pháp thu trực tiếp Theo phương pháp này cán bộ và bộ phận chuyên trách của cơ quan BHXH sẽ trực tiếp thu đóng góp BHXH từ những người tham gia. Phương pháp này thường được áp dụng với những NLĐ làm việc tự do tự nguyện tham gia BHXH và những NLĐ không có chủ sử dụng lao động. NLĐ tham gia đóng góp BHXH cam kết đóng BHXH bằng tiền mặt, bằng séc hay bằng chuyển khoản Ngân hàng. Nếu thanh toán bằng tiền mặt thì cơ quan BHXH cần phải đảm bảo sao cho thủ tục thanh toan tránh được hiện tượng gian lận nội bộ và lạm dụng quỹ, đồng lõa giữa nhân viên thu nộp BHXH và người đóng BHXH. Ưu điểm của phương thức thu trực tiếp từ người lao động là cơ quan BHXH quận có thể nắm bắt được thông tin về đối tượng hưởng nhanh chóng và chính xác. Đồng thời cơ quan BHXH tiếp nhận được các yêu cầu, thắc mắc của đối tượng hưởng từ đó đưa ra các biện pháp giải quyết kịp thời, tạo điều kiện thuận lợi cho đối tượng hưởng. Bên cạnh đó thì phương thức thu này cũng có hạn chế đó là đối tượng hưởng các chế độ BHXH đang ngày một tăng lên yêu cầu một số cán bộ thu mới đáp ứng hết được việc thu dẫn đến tốn kém về chi phí và đối tượng phải đi xa hơn, mất phí đi lại. 2.2.3.2 Phương pháp thu gián tiếp Đây là phương pháp phổ biến ở Việt Nam, thông qua hệ thống các đại lý thu BHXH. Đại lý của cơ quan BHXH hầu hết là chủ sử dụng lao động. Ngoài ra còn có các bưu điện, ngân hàng các cơ quan tổ chức, đoàn thể quần chúng ở các quận huyện, xã phường…(gọi chung là đơn vị thu). Theo Điều 37 Nghị định số 12/CP ngày 26/1/1995 quy định hàng tháng người sử dụng lao động có trách nhiệm đóng BHXH theo quy định tại khoản 2 điều 36 của Nghị định 12/CP ngày 26/1/1995 và trích tiền lương của tổng số NLĐ theo quy định tại khoản 2 điều 36 của Nghị định này để đóng cùng một lúc vào quỹ BHXH. Tiền lương tháng căn cứ đóng BHXH gồm có lương theo ngạch bậc, chức vụ hợp đồng và các khoản phụ cấp. Trình tự thực hiện thu BHXH tại BHXH quận Hà Đông như sau: Khi bắt đầu tham gia BHXH hoặc khi phát sinh đối tượng mới, đơn vị sử dụng lao động lập danh sách theo mẫu 02a-TBH, kèm theo các tờ khai cấp sổ BHXH và các giấy tờ có liên quan gửi về cơ quan BHXH (theo phân cấp quản lý) trước ngày 15 hàng tháng để đề nghị thu và phát sổ BHXH, thẻ BHYT. - Hồ sơ liên quan gửi kèm theo gồm có: + Trường hợp đơn vị lần đầu tham gia BHXH, BHYT Cơ quan, đơn vị (bao gồm cả hộ kinh doanh cá thể) tham gia BHXH, BHYT lần đầu phải nộp kèm theo danh sách tham gia BHXH, BHYT (mẫu 02a-TBH) bản đăng ký tham gia BHXH (mẫu C1A-BHHN), bản sao quyết định thành lập (nếu có), giấy phép kinh doanh, quy chế trả lương đã đăng ký với cơ quan quản lý Nhà nước về lao động theo phân cấp (nếu có). Đối với cá nhân sử dụng lao động là bản HĐLĐ. Riêng các đơn vị sử dụng lao động thuộc diện phải xây dựng và đăng ký quy chế trả lương, nếu chưa có, yêu cầu bổ sung và gửi đến chậm nhất là sau 30 ngày. Người lao động đóng BHXH, BHYT phải có HĐLĐ hoặc quyết định tuyển dụng, thuyên chuyển, sổ BHXH (nếu có). Trường hợp người lao động lần đầu tham gia BHXH, BHYT đơn vị phải kê khai đúng về nhân thân theo hồ sơ của NLĐ, thực hiện việc khám sức khỏe theo đúng quy định của Bộ Y tế khi tuyển dụng lao động. Đối với tờ khai cấp sổ BHXH phải có hồ sơ gốc để kiểm tra. Các trường hợp đơn vị chưa lập tờ khai hoặc không đủ hồ sơ gốc khi đến đăng ký, cán bộ thu hướng dẫn đơn vị lập và gửi đến sau kèm theo danh sách đề nghị cấp sổ BHXH. + Đối với các trường hợp tăng mới lao động trong các đơn vị đang tham gia BHXH, BHYT Danh sách tham gia BHXH, BHYT được chấp nhận để đề nghị phát hành cấp sổ BHXH sau khi đơn vị đã cung cấp HĐLĐ hoặc quyết định tuyển dụng, thuyên chuyển kèm theo sổ BHXH (nếu có). Trường hợp NLĐ lần đầu tham gia BHXH, đề nghị đơn vị gửi kèm theo bản phô tô CMTND, giấy khám sức khỏe đề kiểm tra đối chiếu đối tượng. Tờ khai cấp sổ BHXH và hồ sơ gốc nếu chưa có cũng xử lý như hướng dẫn ở trên. Sau khi tiếp nhận hồ sơ của đơn vị không quá 5 ngày làm việc, bộ phận thu thẩm định xác định ngay các đối tượng được tham gia BHXH tại đơn vị để thiết lập hồ sơ thu. Căn cứ danh sách đối tượng đủ điều kiện thu đã xác định do bộ phận thu chuyển đến cùng tờ khai cấp sổ và hồ sơ gốc của từng NLĐ (nếu có), bộ phận phát hành sổ, thẻ kiểm tra và thực hiện cấp sổ BHXH. Thời gian thẩm định hồ sơ cấp sổ BHXH theo Luật BHXH. Trường hợp sau khi thẩm định hồ sơ, phát hiện đối tượng không đúng phải báo giảm hay phải sửa lại các thông số về nhân thân, nghề nghiệp, mức lương… bộ phận cấp sổ có thông báo đến bộ phận thu để điều chỉnh lại dữ liệu. Trước ngày cuối tháng, đơn vị sử dụng lao động lập và gửi đến cơ quan BHXH biểu 03a-TBH của tháng kèm theo các quyết định hoặc phụ lục HĐLĐ điều chỉnh mức lương, phụ cấp, sổ BHXH. Trường hợp đơn vị không phát sinh thay đổi trong tháng cũng phải ghi rõ trên biểu 03a-TBH hoặc có văn bản thông báo để cơ quan BHXH có căn cứ thực hiện. Sau ngày 05 tháng sau, đơn vị không lập biểu, cơ quan BHXH căn cứ dữ liệu tháng trước liền kề để in trước biểu 03a-TBH và biểu 08-TBH gửi đơn vị xác nhận để lưu trữ. Các thay đổi trong đó nếu có, yêu cầu đơn vị sử dụng lao động điều chỉnh và báo biểu tháng sau liền kề. Căn cứ báo biểu tăng giảm lao động, mức lương nộp BHXH, BHYT do đơn vị gửi đến, trước ngày 10 tháng sau, bộ phận thu phải có thông báo theo mẫu 08-TBH gửi đến đơn vị sử dụng lao động Việc ghi điều chỉnh, xác nhận trên sổ BHXH sau khi đã cấp được thực hiện theo quy định của BHXH Việt Nam. Riêng đối tượng đã chôt sổ nghỉ thôi việc sau đó được hưởng chế độ thai sản, nơi nào thanh toán trợ cấp thai sản nơi đó ghi bổ sung thời gian nghỉ việc đước tính là thời gian có đóng BHXH và chốt lại sổ BHXH. 2.2.4 Kết quả thu BHXH tại BHXH quận Hà Đông Bảo hiểm xã hội quận Hà Đông là cơ quan thực hiện chính sách BHXH đối với người lao động trên địa bàn thành phố, dưới sự chỉ đạo trực tiếp về nghiệp vụ của Bảo hiểm xã hội TP Hà Nội, được sự quan tâm của lãnh đạo, chỉ đạo của Thành ủy, HĐND, UBND thành phố Hà Đông và sự phối kết hợp của các ban, ngành, đoàn thể thành phố, nhất là sự ủng hộ nhiệt tình của các xã, phường, các đơn vị sử dụng lao động và đối tượng hưởng chế độ BHXH. Để có những đánh giá một cách chính xác và khách quan về hiệu quả công tác thu BHXH, em xin được phân tích kết quả đạt được của BHXH quận Hà Đông giai đoạn 2005-2009 trên 4 mặt sau: + Quản lý đối tượng thu BHXH + Quản lý nguồn thu BHXH + Quản lý quỹ tiền lương trích nộp BHXH + Tình hình nợ đọng BHXH 2.2.4.1 Quản lý đối tượng thu BHXH Quản lý đối tượng thu BHXH là một trong những nhiệm vụ trọng yếu của hệ thống BHXH và của nghiệp vụ thu BHXH, là công việc có ý nghĩa quyết định đến chất lượng hoạt động, chất lượng quản lý và đến sự chính xác của thu chi quỹ BHXH, đảm bảo quyền lợi chính đáng của người tham gia BHXH. Đối tượng tham gia BHXH được hiểu là đối tượng của hệ thống BHXH, là các cá nhân và thể nhân có lợi ích và nghĩa vụ liên quan đến quỹ BHXH, thuộc phạm vi điều chỉnh và thực hiện chính sách chế độ BHXH. Đó cũng chính là đối tượng có nghĩa vụ đóng góp BHXH theo luật định, đồng thời được thụ hưởng quyền lợi từ quỹ BHXH theo chế độ quy định của Nhà nước và pháp luật. Một trong các mục tiêu của BHXH quận Hà Đông là quản lý cho được các đối tượng tham gia BHXH phù hợp với chức năng, nhiệm vụ mà BHXH Thành phố giao phó. Đối tượng thu BHXH: Người lao động làm việc tại: - Doanh nghiệp quốc doanh phải đóng 5% tiền lương hàng tháng. - Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, khu chế xuất, khu công nghiệp đóng 5% tiền lương tháng. - Các tổ chức kinh doanh, dịch vụ thuộc cơ quan hành chính sự nghiệp (gọi là đơn vị có thu) phải đóng 5% tiền lương tháng. - Các cơ quan hành chính sự nghiệp (quản lý nhà nước, cơ quan Đảng, đoàn thể, hội quần chúng, dân cư đén cấp huyện) phải đóng 5% tiền lương tháng. - Cán bộ chủ chốt ở xã, phường phải đóng 5% mức sinh hoạt phí hang tháng. - Người Việt Nam lao động ở nước ngoài phải đóng 15% mức tiền lương đã đóng BHXH trước khi ra nước ngoài làm việc đối với người lao động đã có quá trình tham gia BHXH bắt buộc ở trong nước. Còn đối với đối tượng lao động chưa tham gia BHXH bắt buộc ở trong nước phải đóng 15% của 2 lần mức tiền lương tối thiểu. Người sử dụng lao động: - Doanh nghiệp quốc doanh đóng 15% tổng quỹ lương của đơn vị. - Doanh nghiệp ngoài quốc doanh sử dụng trên 10 lao động: phải đóng 15% tổng quỹ lương của người tham gia. - Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, khu chế xuất, khu công nghiệp: phải đóng 15% tổng quỹ lương của người tham gia. - Các tổ chức kinh doanh, dịch vụ thuộc cơ quan hành chính, sự nghiệp, cơ quan Đảng, đoàn thể: phải đóng 15% tổng quỹ lương của người tham gia. - Các đơn vị sự nghiệp dán thu bù chi, đơn vị sự nghiệp hưởng nguồn thu bằng viện trợ nước ngoài để trả lương cho công nhân viên chức trong đơn vị: phải đóng 15% tổng quỹ lương của người tham gia. - Các cơ quan quản lý Nhà nước, cơ quan hành chính sự nghiệp, cơ quan Đảng, đoàn thể, hội quần chúng, dân cử từ TW đến cấp quận, huyện phải đóng 15% tổng qũy lương cho người tham gia. - Các cơ quan, tổ chức nước ngoài hoặc tổ chức Quốc tế đặt tại Việt Nam phải đóng 15% tổng quỹ lương của người tham gia BHXH. - UBND xã, phường phải đóng 10% tổng quỹ sinh hoạt phí của người tham gia BHXH. Sau đây là các số liệu cụ thể về số đơn vị và số lượng lao động tham gia BHXH trên địa bàn quận Hà Đông : Bảng 1: Số đơn vị tham gia BHXH tại BHXH quận Hà Đông (2005-2009) Đơn vị: Đơn vị STT Năm Khối 2005 2006 2007 2008 2009 1 DNNN 51 52 52 96 108 2 HCSN 134 163 167 189 215 3 DN NQD 58 96 131 177 264 3 Phường xã 12 15 15 17 17 4 Khối bán công 18 27 29 39 42 5 Khối HTX 5 14 19 21 21 6 Đối tượng khác 3 4 5 7 10 7 Tổng Cộng 281 371 418 546 677 ( Nguồn: Báo cáo chi tiết thu BHXH quận Hà Đông từ 2005-2009) Bảng 2: Số lao động tham gia BHXH tại BHXH quận Hà Đông(2005-2009) Đơn vị: Người STT Năm Khối 2005 2006 2007 2008 2009 1 DNNN 6321 6156 6095 13031 14149 2 HCSN 4553 5301 5666 6241 6588 3 DN NQD 1237 2276 2996 4313 5770 3 Cán bộ phường xã 167 225 233 240 291 4 Khối bán công 262 373 437 643 807 5 Khối HTX 47 92 123 140 170 6 Đối tượng khác 9 13 18 50 56 7 Tổng Cộng 12596 14436 15568 24658 27831 ( Nguồn: Báo cáo chi tiết thu BHXH quận Hà Đông từ 2005-2009) Qua 2 bảng số liệu trên, ta dễ dàng nhận thấy số đơn vị và số lao động tham gia BHXH tại BHXH quận Hà Đông tăng qua các năm, và năm sau đều tăng so với năm trước. Đặc biệt, năm 2008 là một dấu mốc đánh dấu sự thay đổi lớn về số lượng đơn vị và số lao động tham gia BHXH tại BHXH quận Hà Đông. Đây là năm thực hiện Nghị quyết 15 của Quốc hội khó XII về mở rộng địa giới hành chính Thủ đô Hà Nội nên có sự biến động lớn về công tác tổ chức cán bộ, sự di biến động của các đơn vị tham gia trên địa bàn quận Hà Đông. Cụ thể đối với một số khối như sau: Đối với khối Doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) Số đơn vị trong tổng thể khối này gần như không thay đổi từ năm 2005-2007, tuy nhiên số lượng lao động tham gia có chiều hướng giảm đi (năm 2005 là 6321 lao động; đến năm 2007, số đơn vị tăng thêm 1 nhưng số lao động là 6095). Điều này có thể giải thích dựa trên vấn đề thực tế là các Doanh nghiệp nhà nước với sự hỗ trợ của Nhà nước không đạt được hiệu quả cao trong sản xuất kinh doanh. Mô hình và phương thức hoạt động tuy đã có những tiến bộ nhưng vẫn còn nhiều bất cập làm hạn chế chất lượng quản lý, sử dụng vốn, tài sản của Nhà nước. Chậm xây dựng một hệ thống tiêu chí an toàn về mặt tài chính trong hoạt động sản xuất kinh doanh để làm cơ sở cho giám sát, quản lý nhà nước tại các doanh nghiệp. Một số doanh nghiệp do bị thua lỗ kéo dài nên buộc phải giải thể. Đây chính là những nguyên nhân chính dẫn đến sự giảm sút về số lượng lao động tham gia trong khối. Năm 2008, với sự kiện mở rộng địa giới sát nhập được Quốc hội thông qua, đã tạo nên sự biến động lớn về công tác tổ chức và số lượng các đơn vị tham gia tại BHXH quận Hà Đông. Số đơn vị và số lao động tham gia BHXH trong khối DNNN tăng gần gấp đôi( Số đơn vị tham gia trong khối năm 2008 là 96, năm 2009 là 108; số lao động năm 2009 là 14149). Điều này cũng cho thấy, dưới sự phân cấp quản lý và chỉ đạo trực tiếp của BHXH TP Hà Nội, BHXH quận Hà Đông đã tập trung, thực hiện tốt các biện pháp nghiệp vụ để có thể tiếp nhận quản lý những đơn vị mới cùng với số lượng người tham gia BHXH rất lớn. Đối với khối Doanh nghiệp ngoài quốc doanh (DNNQD) Đây là khối có số đơn vị và số người tham gia tăng nhanh nhất trong các năm. Cùng với sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng được đẩy mạnh, nền kinh tế luôn giữ vai trò chủ đạo trong công cuộc phát triển toàn xã hội. Phát huy và khai thác tiềm năng to lớn về vốn, sức lao động, tài nguyên, trí tuệ, kinh nghiệm, thông tin và các nguồn lực khác của mọi thành phần kinh tế luôn được đặt là những mục tiêu chiến lược hàng đầu . Khu vực DNNQD trước đây chưa được chú trọng và quan tâm một cách thích đáng, nay được Đảng và Nhà nước ta khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để phát triển mạnh mẽ hơn. Đi cùng với xu thế chung của toàn quốc, khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn quận Hà Đông cũng không nằm trong ngoại lệ; đã và đang phát triển với những kết quả đáng khích lệ. Đây là khối có nhiều chuyển biến và chuyển biến mạnh nhất. Qua bảng số liệu trên, ta thấy số đơn vị sử dụng lao động liên tục tăng; cũng theo đó số lượng lao động tham gia BHXH trong khối nay cũng tăng với tốc độ rất cao ( số lao động năm 2005 là 1237 và đến năm 2007 là 2996). Số DN NQD trên địa bàn quận Hà Đông từ năm 2008 đến năm 2009 đã tăng thêm 1457 đơn vị. Rõ ràng, khối DNNQD có tốc độ tăng nhanh nhất và có khả năng tăng nhanh hơn, mạnh hơn vào các năm tiếp theo. Hiện nay, Hà Đông đã là một quận của Thành phố Hà Nội, điều này sẽ giúp khu vực nhận được những dự án đầu tư và phát triển đồng nghĩa với việc các khu công nghiệp chế xuất, các công ty sản xuất… được mở rộng cả về chất lượng và quy mô. Đối với Khối bán công Hầu hết các đơn vị trong khối này là các trường mầm non trên toàn địa bàn quận. Trong giai đoạn gần đây, số lượng trẻ trong độ tuổi đi học mẫu giáo tăng khá nhanh. Bên cạnh đó, nhận được sự quan tâm và chỉ đạo của ban lãnh đạo Thành phố, số lượng các trường mầm non cũng tăng tương đối đáng kể từ năm 2005-2009. Theo đó, số lượng lao động tham gia BHXH của nhóm khối này cũng tăng khá đều qua các năm( năm 2005 là 262, năm 2006 là 373, năm 2007 là 437, năm 2008 là 643 và năm 2009 có 807 lao động). Đối với khối HCSN, khối HTX và khối phường xã Đây là các khối có sự biến động tăng nhẹ và đều qua các năm số liệu. Trong khối HCSN, số đơn vị cũng như số lao động tham gia trong tổng thể khối tăng theo tốc độ chậm. Số lao động từ năm 2005 đến năm 2009 tăng khoảng 400 lao động qua các năm. Điều này cho thấy sự ổn định trong biên chế các cơ quan nhà nước, số cán bộ công nhân viên chức tham gia BHXH đầy đủ và không có biến động lớn. Quận Hà Đông bao gồm 17 đơn vị hành chính là các phường trên toàn khu vực. Số lượng cán bộ thuộc phường xã chỉ tăng nhẹ qua các năm. Hà Đông cũng là một vùng đất có nhiều làng nghề thủ công, các cá nhân và hộ gia đình thường tập trung góp sức thông qua tổ chức Hợp tác xã. Khối này có số đơn vị tham gia không lớn, nhưng số lượng người lao động tham gia BHXH thuộc khối này qua mỗi năm tăng tương đối nhanh( năm 2005 có 47 lao động; năm 2009 có 170 lao động). 2.2.4.2 Quản lý nguồn thu BHXH. Bảo hiểm xã hội quận Hà Đông có chức năng giúp Giám đốc Bảo hiểm xã hội thành phố tổ chức thực hiện các chính sách, chế độ BHXH và quản lý tài chính BHXH trên địa bàn. BHXH quận chịu sự quản lý trực tiếp, toàn diện của Giám đốc BHXH Thành phố với nhiệm vụ quan trọng là hướng dẫn các đơn vị sử dụng lao động lập danh sách tham gia BHXH; đôn đốc, theo dõi việc thu nộp BHXH của các đơn vị trên địa bàn hoặc trực tiếp thu BHXH theo phân cấp của Bảo hiểm xã hội Việt Nam và Bảo hiểm xã hội Thành phố. Trong những năm qua, BHXH quận Hà Đông đã đẩy mạnh công tác tuyên truyển, phổ biến và triển khai rộng rãi các chính sách về BHXH đến các cơ quan, đơn vị và các đối tượng thụ hưởng chế độ BHXH trên địa bàn quận. Chính vì vậy, công tác thu tại BHXH quận Hà Đông với các biện pháp chuyên môn, nghiệp vụ đã đạt được những kết quả tốt, đáng khích lệ. Sau đây là những số liệu thống kê thể hiện tình hình thu và số thu BHXH của các khối tại cơ quan BHXH quận Hà Đông giai đoạn 2005-2009 Bảng 3: Số thu BHXH các khối tại BHXH quận Hà Đông (2005-2009) Đơn vị: Tỷ đồng STT Năm Khối 2005 2006 2007 2008 2009 1 DNNN 13.38 15.9 18.93 34.79 46.36 2 HCSN 15.41 17.83 21.38 23.56 40.96 3 DN NQD 2.6 3.58 6.54 9.53 28.26 4 Phường xã 0.57 0.63 0.58 1.84 3.81 5 Khối bán công 0.46 0.52 0.54 0.74 2.49 6 Khối HTX 0.12 0.19 0.23 0.46 0.84 7 Đối tượng khác 0.006 0.02 0.017 0.032 0.12 8 Tổng Cộng 32.54 38.67 48.21 71.95 122.8 (Nguồn: BHXH quận Hà Đông) Ở đây, số thu BHXH tại BHXH quận Hà Đông chủ yếu là của các khối DNNN, HCSN và DN NQD. Bảng phân tích sau đây sẽ thể hiện cụ thể hơn sự biến động số thu BHXH của các khối này: Bảng 4: Tình hình thu BHXH các khối DNNN- HCSN- DNNQD tại BHXH quận Hà Đông (2005-2009) Năm DNN HCSN DN NQD Số thu Mức tăng (giảm) tuyệt đối(Tỷ đồng) Tốc độ tăng (giảm) tuyệt đối(%) Số thu Mức tăng (giảm) tuyệt đối(Tỷ đồng) Tốc độ tăng (giảm) tuyệt đối(%) Số thu Mức tăng (giảm) tuyệt đối( Tỷ đồng) Tốc độ tăng (giảm) tuyệt đối(%) 2005 13.38 - - 15.41 - - 2.6 - - 2006 15.9 2.52 18.83 17.83 2.42 15.7 3.58 0.98 37.69 2007 18.93 3.03 19.06 21.38 3.55 19.91 4.54 0.96 26.81 2008 34.79 15.86 83.78 23.56 2.18 10.19 9.53 4.99 109.9 2009 46.36 11.57 33.26 40.96 17.4 73.85 28.26 18.73 196.53 (Nguồn: BHXH quận Hà Đông) Đối với khối Doanh nghiệp nhà nước ( DNNN) DNNN là thành phần quan trọng trong tổng thu, tạo nên khoản thu lớn cho BHXH. Với các biện pháp tích cực trong việc đôn đốc thu, quản lý tiền thu, đồng thời kết hợp công tác cấp sổ BHXH cho người lao động để phục vụ việc quản lý theo dõi quá trình đóng góp của người lao động nhằm giải quyết kịp thời cho các chế độ. Theo bảng số liệu trên, dễ thấy đây là khối có số thu BHXH cao nhất trong tất cả các khối tham gia BHXH trên địa bàn quận Hà Đông. Số thu này liên tục tăng tương ứng với tốc độ tăng khá cao qua các năm từ 2005-2009. Đặc biệt từ năm 2008, số thu BHXH tăng đột biến do số lượng người lao động trong khối DNNN tham gia BHXH chịu sự quản lý của BHXH quận Hà Đông tăng lên rõ rệt. Năm 2008, số thu tăng 15,86 tỷ tương ứng với tốc độ tăng là 83,78% so với năm 2007. Năm 2009, số tiền thu BHXH tăng 11,57 tỷ tương ứng với tốc độ tăng là 33,26%. Mặc dù có sự biến động lớn về số lượng lao động, nhưng có thể thấy rằng số thu BHXH từ khối DNNN luôn giữ một vị trí rất quan trọng trong các khối quản lý trên địa bàn quận Hà Đông. Đối với khối Hành chính sự nghiệp ( HCSN) Khối HCSN là khối có tính chất ổn định cao nhất. Công việc nói chung dễ quản lý, tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý đối tượng tham gia BHXH. Không như các khối doanh nghiệp khác, công tác thu BHXH của khối này được thực hiện một cách dễ dàng. Việc tham gia BHXH của đối tượng cũng không phải thực hiện qua nhiều khâu phức tạp. Thuận lợi của khối HCSN là đặc thù 100% người lao động đều hưởng lương từ ngân sách Nhà nước. Tiền lương dung để tính đóng BHXH luôn được kê khai chính xác. Từ kết quả ở bảng trên, cho thấy số thu BHXH của khối HCSN cũng đều tăng qua các năm với tốc độ tăng không cao và khá ổn định. Năm 2007, số thu này là 21,83 tỷ tăng 19.91% so với năm trước. Năm 2008, số thu tăng 2,18 tỷ tương ứng với tốc độ tăng là 10,19%. Sang đến năm 2009, số thu BHXH là 40,96 tỷ đồng, tốc độ tăng tương đối cao là 73,85%. Khối Doanh nghiệp ngoài quốc doanh ( DN NQD) So với hai khối DNNN và HCSN, số thu BHXH của khối DNNQD không cao bằng, tuy nhiên đây là khối có số thu biến động mạnh nhất trên địa bàn quận Hà Đông trong giai đoạn 2005-2009 qua. Các đơn vị trong khối này chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, số DN kinh doan lớn chiếm tỷ lệ nhỏ. Từ bảng trên, thấy được số thu BHXH của khối này liên tục tăng với tốc độ cao. Vào năm 2005, số thu là 2,6 tỷ đồng. Sang năm 2006 và 2007, số thu BHXH tăng so với năm trước là gần 1 tỷ đồng. Việc thành lập các công ty TNHH, cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước diễn ra năm 2008, đã đẩy số thu BHXH của khối này thành 9,53 tỷ đồng với tốc độ tăng tuyệt đối là 109,9%. Đặc biệt, năm 2009, việc mở rộng các đơn vị trong khối DNNQD trên địa bàn quận Hà Đông còn mạnh mẽ hơn, số thu BHXH năm 2009 của khối này tại BHXH quận là 28,26 tỷ, tăng 18,73 tỷ đồng, tương ứng với tốc độ tăng 196,53% so với năm trước. Khối DN NQD là một khối mà cơ quan quản lý BHXH gặp nhiều khó khăn trong quá trình nắm, quản lý số đơn vị cũng như số lao động thực trong khối, tuy nhiên, với những con số ở trên ta có thể thấy sự nỗ lực, cố gắng rất lớn của ban lãnh đạo và cán bộ BHXH quận Hà Đông để có thể thực hiện một các tốt nhất, đầy đủ nhất với khối này. Từ các số liệu trên, cho thấy số thu BHXH của các khối tại BHXH quận Hà Đông từ năm 2005 đến năm 2009 liên tục tăng, năm sau cao hơn năm trước. Đến năm 2008, cùng với sự kiện điều chỉnh sát nhập địa giới, thay đổi phân cấp quản lý đã làm biến động lớn về số đơn vị và số lượng NLĐ tham gia BHXH trên địa bàn quận dẫn đến số thu BHXH cũng tăng lên đột biến. Năm 2008, số thu tăng thêm 23,74 tỷ; năm 2009 số thu tăng 50,85 tỷ đồng. Điều này cho thấy, dù tiếp nhận một số lượng đơn vị mới rất lớn cùng với rất nhiều vấn đề liên quan trong việc quản lý, nhưng BHXH quận Hà Đông đã rất cố gắng, phấn đấu vượt qua các khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ được giao góp phần ổn định kinh tế, chính trị, xã hội tại địa phương. Hàng năm cứ vào đợt cuối năm BHXH Thành phố luôn tổ chức tổng kết công tác kết hợp đánh giá tình hình thực hiện của năm trước để dự báo và đặt kế hoạch thực hiện thu cho BHXH quận trong năm sau. Dưới đây là bảng phân tích tình hình thực hiện thu BHXH do BHXH Thành phố đề ra tại BHXH quận Hà Đông: Bảng 5: Tình hình thực hiện Kế hoạch thu BHXH tại BHXH quận Hà Đông( 2005-2009) Chỉ tiêu Năm Thực hiện (Tỷ đồng) Kế hoạch thu (Tỷ đồng) Tỷ lệ hoàn thành (%) 2005 32.54 33 98.6 2006 38.67 39 99.15 2007 48.21 48 100.43 2008 71.95 70 102.78 2009 122.8 120 102.33 ( Nguồn: BHXH quận Hà Đông) Nhìn vào các số liệu được tính toán ở trên, ta thấy trong các năm được theo dõi, phân tích thì các năm 2005 và 2006, BHXH quận Hà Đông đạt được số thu thấp hơn so với kế hoạch ( tương ứng các năm là 98,6% và 99,15%). Từ năm 2007 trở đi, kết quả thực hiện luôn vượt chỉ tiêu do BHXH Thành phố đề ra. Như năm 2007, số thu BHXH là 48,21 tỷ, đạt 100,43% so với kế hoạch. Năm 2008, số thu BHXH 71,95 tỷ, vượt 2,78%. Năm 2009, số thu BHXH là 122,8 tỷ đồng, vượt 2,33 % so với kế hoạch đề ra. Đây là những kết quả rất đáng khích lệ và cần được phát huy; nó thể hiện tình thần trách nhiệm, sự đoàn kết, thống nhất giữa các cán bộ, công nhân viên chức trong bộ máy BHXH quận Hà Đông, đã luôn phấn đấu, cố gắng thực hiện tốt công tác thu không những góp phần đảm bảo tốc độ tăng trưởng cho nguồn quỹ mà còn giúp cho hoạt động trong công tác chi trả các chế độ BHXH kịp thời, an toàn tới các đơn vị và người lao động trên địa bàn quận. 2.2.4.3 Quản lý Quỹ lương trích nộp BHXH Hiện nay, trong nền kinh tế thị trường, tiền lương được hiểu là số lượng tiền tệ mà người sử dụng lao động trả cho người lao động theo giá trị sức lao động mà họ hao phí trên cơ sở thoả thuận (theo hợp đồng lao động). Tại điều 55, chương VI “Tiền lương” của Bộ luật Lao động ban hành năm 1994 có ghi: “Tiền lương của người lao động do hai bên thoả thuận trong hợp đồng lao động và được trả theo năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả công việc”. Chính sách tiền lương chính là căn cứ đóng BHXH và cách xác định tổng quỹ tiền lương làm căn cứ đóng. Đối với công chức viên chức làm trong khu vực Nhà nước do Nhà nước trả lương, người lao động làm việc ngoài khu vực Nhà nước do người sử dụng lao động làm việc ngoài khu vực Nhà nước do người sử dụng lao động quy định và tiền lương này được hạch toán vào giá thành phẩm. Trách nhiệm của cơ quan BHXH là căn cứ vào các quy định của Nhà nước về chế độ tiền lương và các quyết định nâng lương của cấp có thẩm quyền để thu BHXH đúng quy định, trường hợp nâng lương không đúng quy định, cơ quan BHXH từ chối thu BHXH yêu cầu đơn vị sử dụng lao động thực hiện. Quỹ lương trích nộp là cơ sở quan trọng mà trách nhiệm của BHXH cấp quận phải thu nhằm làm cơ sở cho BHXH cấp Thành phố lập kế hoạch thu cho năm tới. Trong năm qua, BHXH quận Hà Đông đã hoàn thành tốt công tác quản lý quỹ lương trích nộp thể hiện qua bảng số liệu sau: Bảng 6: Tổng quỹ lương trích đóng BHXH (2005-2009) Năm Tổng quỹ lương trích nộp BHXH (Tỷ đồng) Mức tăng giảm tuyệt đối (Tỷ đồng) Tốc độ tăng giảm tuyệt đối (%) 2005 37.716 - - 2006 50.397 12.68 33.6 2007 57.733 7.336 14.56 2008 112.34 54.6 94.5 2009 168.768 56.428 50.2 (Nguồn: Báo cáo chi tiết thu BHXH tại BHXH quận Hà Đông 2005-2009) Qua bảng số liệu cho thấy: Quỹ lương có xu hướng tăng liên tục qua các năm, với tốc độ tăng tương đối nhanh. Thể hiện công tác thu ở BHXH quận Hà Đông liên tục được cải thiện. Năm 2006, tổng quỹ lương trích đóng BHXH tăng 33,6%. Đặc biệt năm 2008, số lượng đơn vị và số lao động tăng lên một cách rõ rệt chính vì vậy Tổng quỹ lương trích nộp BHXH cũng theo đó biến động một cách mạnh mẽ. Sang năm 2008, tổng quỹ lương tăng 94,5 % so với năm 2008. Năm 2009, tốc độ tăng này là 50,2%, tổng quỹ lương trích nộp BHXH là 168,768 tỷ đồng. Một trong những nguyên nhân khác làm quỹ lương thay đổi là do mức lương trích nộp tăng thông qua các quyết định tăng lương của Chính phủ. Do cơ sở để tính toán mức đóng và hưởng BHXH phụ thuộc vào tiền lương tối thiểu do Nhà nước quy định. Nên khi Nhà nước nâng lương tối thiểu lên đồng nghĩa với việc mức đóng BHXH cũng tăng lên và số thu cùng do đó mà tăng lên. Từ năm 1995 tới nay, chúng ta đã thực hiện 9 lần điều chỉnh lương tối thiểu từ 120.000 đồng/tháng lên 650.000 đồng/tháng. Sự điều chỉnh mức lương tối thiểu chung của Nhà nước thay đổi qua các năm nhằm nâng cao mức sống của người dân. Một số quyết định về điều chỉnh mức lương tối thiểu đó như sau: + Nghị định 03/CP ngày 15/1/2003 điều chỉnh mức lương tối thiểu là 290.000đ/ tháng có hiệu lực từ ngày 30/1/2003 + Theo Nghị định số 94/2006/NĐ-CP ngày 07/09/2006 quy định nâng mức lương tối thiểu chung từ 350.000 đồng/tháng năm 2005 lên 450.000/tháng, Nghị định có hiệu lực từ ngày 01/10/2006. + Theo báo cáo của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng tại phiên khai mạc kỳ họp thứ hai, QH khoá XII (ngày 22.10): Từ 01/01/2008, điều chỉnh lương tối thiểu chung từ 450.000 đồng năm 2006 lên 540.000 đồng/tháng. + NĐ số 33/2009/NĐ-CP ngày 06-4-2009 quy định mức lương tối thiểu chung, theo đó mức lương này sẽ tăng từ 540.000 đồng/tháng lên thành 650.000 đồng tháng. Thêm vào đó đối với các lao động đóng BHXH theo thang bảng lương Nhà nước quy định, mức đóng còn phụ thuộc vào hệ số lương, vì thế khi Nhà nước điều chỉnh lại thang bảng lương thì mức đóng BHXH cũng tăng lên. Ngoài ta còn có các nguyên nhân khác như : Nhận thức của người lao động và người sử dụng lao động ngày càng được nâng cao do đó đối tượng tham gia tăng lên qua các năm , khai báo của chủ sử dụng lao động…Quỹ lương tăng là một dấu hiệu rõ ràng thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, đã thực hiện tốt các chính sách nhằm giúp đỡ và cải thiện đời sống người lao động, từ đó giúp cho người lao tăng thu nhập và có một cuộc sống ngày càng ổn định và phát triển hơn. 2.2.4.4 Tình hình nợ đọng BHXH Nợ đọng BHXH là một vấn đề diễn ra phổ biến trong BHXH, điều này có thể dẫn đến mất cân đối thu chi, sẽ ảnh hưởng lớn đến công tác chi trả. Nhận thấy tình hình nợ đọng BHXH, BHYT trên địa bàn diễn biến phức tạp, có chiều hướng gia tăng, BHXH quận Hà Đông đã tiến hành nhiều biện pháp, cụ thể như sau: thường xuyên bám sát các đơn vị đôn đốc thu nộp; gắn việc trích nộp BHXH với việc giải quyết các chế độ chính sách; đẩy mạnh công tác tuyên truyền; tổ chức phối hợp thanh, kiểm tra... Đồng thời, kiến nghị các cơ quan chức năng như Hội đồng thi đua các cấp, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội, Đảng uỷ khối... cùng phối hợp tập trung đẩy mạnh thực hiện chính sách BHXH. Mặc dù đã có nhiều cố gắng, song các kết quả thu được chưa cao, chưa đạt được các yêu cầu đặt ra, nợ đọng BHXH có xu hướng tăng cả về số đơn vị cũng như số tiền thu. Vấn đề đặt ra là dù mức xử phạt rất rõ ràng, Pháp luật luôn thực hiện xử lý nghiêm minh và không bao che cho các trường hợp vi phạm. Thế nhưng, mức xử phạt chưa đủ sức răn đe nên tình hình nợ đọng BHXH vẫn thường xuyên xảy ra và gia tăng về mức độ qua các năm. Bảng sau đây sẽ thể hiện tình hình nợ đọng BHXH cụ thể của các khối trên địa bàn quận Hà Đông qua các năm từ 2005-2009: Bảng 7: Tình hình nợ đọng BHXH tại BHXH quận Hà Đông (2005-2009) Đơn vị: Triệu đồng Năm Khối 2005 2006 2007 2008 2009 DNNN 2457 3250 1248 3570 5482 DNNQD 199.751 598 1177 2115 3073 HCSN 342.4 577 398.9 621.5 536 NCL 8.02 44.9 16.4 45.1 38.6 HTX 0.02 1.128 11 6.5 12.38 Phường xã 51.08 30.67 14.44 27 19.42 Đối tượng khác 0.667 0.322 0.41 0.75 1.12 Tổng số 3058.93 4502 2867 6385 9162.5 (Nguồn: Báo cáo thu hàng năm BHXH quận Hà Đông) Đối với khối Doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) Bảng 8: Biến động nợ đọng BHXH khối DNNN tại BHXH quận Hà Đông (2005-2009) Năm Tổng nợ (triệu đồng) Mức tăng giảm tuyệt đối (triệu đồng) Tốc độ tăng giảm tuyệt đối (%) 2005 2457 - - 2006 3250 793 32.27 2007 1248 -2002 -61.6 2008 3570 2322 186.05 2009 5482 1912 53.55 (Nguồn: Báo cáo thu hàng năm BHXH quận Hà Đông) Qua bảng số liệu trên cho thấy, chiếm tỷ lệ cao nhất trong các khối, ngành về số nợ đọng là khối DNNN. Năm 2006, số nợ đọng tăng lên 793 triệu đồng, tăng 32,27% so với năm trước. Đến năm tiếp theo, tình hình nợ đọng của khối này giảm xuống còn 1,248 tỷ, giảm 61,6% thể hiện một dấu hiện cải thiện về khả năng đóng góp BHXH. Tuy nhiên, cùng với việc mở rộng số đơn vị và số lao động quản lý vào năm 2008, thì số nợ đọng trong khối DNNN tăng lên rất nhiều. Cụ thể là vào năm 2008, số nợ đọng tương ứng là 3,57 tỷ, tăng 186,05% đây là một con số rất lớn cho thấy sự khó khăn trong việc quản lý cũng như việc chấp hành đóng góp BHXH của khối này sau nhiều sự điều chỉnh. Đến năm 2009, số nợ đọng tiếp tục tăng, số nợ là 5,482 tỷ đồng ứng với tốc độ tăng là 53,55%. Có thể lý giải về những con số này như sau: + Các DNNN trên địa bàn hoạt động không hiệu quả, nhiều DN làm ăn thua lỗ và không có biện pháp cụ thể khắc phục, vẫn còn tâm lý thời kỳ bao cấp và trông chờ vào sự trợ giúp của Chính phủ. + Năm 2008, số đơn vị tham gia BHXH tại BHXH quận Hà Đông biến động mạnh. Đây cũng là năm xảy cuộc khủng khoảng kinh tế toàn cầu dẫn đến việc sản xuất kinh doanh của các DNNN gặp nhiều khó khăn. + Bên cạnh đó, các cán bộ lãnh đạo trong các DNNN trên địa bàn vẫn chưa hiểu hết tầm quan trọng của BHXH, thờ ơ với các chính sách của Đảng và Nhà nước nên mới để tình trạng nợ đọng của đơn vị mình diễn ra thường xuyên qua các năm, hơn nữa lại ngày càng gia tăng. Đối với khối Doanh nghiệp ngoài Quốc doanh (DN NQD) Bảng 9: Biến động nợ đọng BHXH khối DN NQD tại BHXH quận Hà Đông (2005-2009) Năm Tổng nợ (triệu đồng) Mức tăng giảm tuyệt đối (triệu đồng) Tốc độ tăng giảm tuyệt đối (%) 2005 199.751 - - 2006 598 398.2 199.34 2007 1177 579 96.82 2008 2115 938 79,69 2009 3073 958 45,29 (Nguồn: Báo cáo thu hàng năm BHXH quận Hà Đông) Đây cũng là khối có số nợ đọng BHXH khá cao, chỉ sau khối DNNN. Việc mở rộng cổ phần hóa các DN trên địa bàn quận tuy đã có tiến triển và những dấu hiệu khả quan nhưng cũng cần lưu ý đến tình hình nợ đọng của khối này. Cụ thể là năm 2005, số nợ đọng của khối là 199,751 triệu đồng, năm 2006 là 598 triệu ( tăng 199,34%) và đến năm 2007 số nợ đọng lên đến 1,177 tỷ ( tăng 96,82%). Năm 2008, Số đơn vị và số lượng lao động tham gia BHXH tăng lên, dẫn đến số nợ đọng của khối cũng tăng lên khá mạnh. Số nợ đọng năm 2008 là 2,115 tỷ. Sau một năm điều chỉnh, cùng các biện pháp nhằm giảm số nợ đọng, số nợ của khối DN NQD năm 2009 vẫn tiếp tục tăng 45,29%, tổng nợ là 3,073 tỷ đồng. Có thể do các nguyên nhân khách quan dẫn đến việc làm ăn không hiệu quả của các DN như cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008, tình hình lũ lụt xảy ra trên địa bàn quận… nhưng cũng không thể không nhắc đến ý thức tự giác đóng BHXH của các DN trong khối này. Chủ sử dụng lao động và người lao động chưa hiểu hết về chính sách BHXH hoặc hiểu những vẫn làm ngơ để trốn đóng BHXH cho người lao động; hoặc chỉ tham gia có tính chiếu lệ cho một số ít lao động. Đây là những vấn đề khá nan giải và cần được sự quan tâm của các cấp chính quyền địa phương trong việc phổ biến tuyên truyền các chế độ chính sách BHXH đển các đơn vị và NLĐ có thể hiểu rõ và thực hiện đúng. Khối Hành chính sự nghiệp ( HCSN) và các khối khác Tình hình nợ đọng trong các khối này vẫn còn tồn tại và biến động theo các năm; tuy nhiên số lượng không nhiều. Như vậy khối HCSN và các khối HTX, ngoài công lập và các tổ chức phường xã đã thực hiện khá tốt việc đóng BHXH thể hiện tinh thần trách nhiệm và hiểu biết cao đối với các chế độ chính sách, đảm bảo tiến độ thu BHXH trên địa bàn quận Hà Đông. Tổng hợp số nợ đọng cụ thể của tất cả các khối doanh nghiệp trên địa bàn quận, có thể rút ra nhận xét về tình hình biến động nợ đọng BHXH tại BHXH quận Hà Đông thông qua bảng sau: Bảng 10: Biến động nợ đọng BHXH tại BHXH quận Hà Đông (2005-2009) Năm Tổng nợ (triệu đồng) Mức tăng giảm tuyệt đối (triệu đồng) Tốc độ tăng giảm tuyệt đối (%) 2005 3058.93 - - 2006 4502 1443.07 47.17 2007 2867 -1641 -36.45 2008 6385 3518 122.7 2009 9162 2777 43.49 (Nguồn: Báo cáo thu hàng năm BHXH quận Hà Đông) Có thể nhận thấy số tiền nợ đọng BHXH tại BHXH Hà Đông qua các năm biến động khá mạnh. Năm 2006, số tiền này là 4,502 tỷ đồng, tăng hơn 1,4 tỷ đồng so với năm 2005. Đến năm 2007, công tác thu đã đạt được những kết quả đáng kể khi giảm số nợ đọng của tất cả các khối xuống còn 2,867 tỷ tương ứng với mức giảm 36,45% so với năm trước. Tuy nhiên, số nợ đọng này lại tăng đột biến vào năm 2008, số tiền lên đến 6,385 tỷ đồng. Điều này có thể giải thích vì đây là một năm có nhiều sự kiện quan trọng tác động trực tiếp tới quận Hà Đông nói chung và BHXH quận nói riêng như sau: Sự kiện khủng hoảng kinh tế thế giới, các đợt thiên tai lũ lụt đã ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động của các DN, các đơn vị sản xuất kinh doanh; sự kiện điều chỉnh sát nhập địa giới thủ đô, chuyển đổi phân cấp quản lý cũng ảnh hưởng lớn, gây khó khăn cho việc đóng góp và thu BHXH của cả phía các đơn vị tham gia cũng như cơ quan BHXH quận. Dù đã có nhiều cố gắng nhằm cải thiện tình hình nợ đọng của các khối, song năm 2009, số nợ đọng vẫn tăng 2,777 tỷ đồng, tăng 43,49% so với năm 2008. Đây là một trong những vấn đề lớn mà ban lãnh đạo cũng như toàn thể cán bộ cơ quan BHXH Hà Đông rất quan tâm và luôn tập trung đẩy mạnh cải thiện tình hình, nhằm đảm bảo số thu và quyền lợi trực tiếp của người lao động. 2.3 Đánh giá hoạt động thu BHXH tại BHXH quận Hà Đông 2.3.1 Những thành tựu đạt được Trong 5 năm trở lại đây ( từ năm 2005 đến năm 2009), BHXH quận Hà Đông luôn hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ được giao. Số đơn vị và số người lao động tham gia BHXH ngày càng tăng qua các năm, số thu luôn vượt cao hơn so với kế hoạch do BHXH Thành phố đề ra cho đơn vị. Công tác tuyên truyền và phổ biến các văn bản quy định bắt buộc đối với đối tượng tham gia BHXH kết hợp với các chế tài xử lý vi phạm BHXH luôn được chuyển giao nhanh chóng và kịp thời tới các cơ quan, đoàn thể, phường xã. Điều này giúp cho số người tham gia trên địa bàn khu vực liên tục tăng lên. BHXH quận Hà Đông luôn tập trung chú trọng khai thác nguồn thu tại các Doanh nghiệp mới thành lập và các DN NQD, tăng cường triển khai đôn đốc các đơn vị sử dụng đóng góp BHXH đảm bảo quyền lợi cho NLĐ theo đúng luật quy định. Năm 2009, BHXH quận Hà Đông theo dõi và quản lý thu nộp, thực hiện các chế độ BHXH đối với 677 đơn vị và các Doanh nghiệp trên toàn khu vực, với số lượng NLĐ tham gia là 27.381 lao động. Như vậy so với năm 2008, đã tuyên truyền và mở rộng được 131 đơn vị với 3.173 lao đông tham gia BHXH. Tổng kết năm 2009, BHXH

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc43125.doc
Tài liệu liên quan