Tài liệu Đề tài Thực trạng hoạt động huy động vốn tại ngân hàng thương mại cổ phần Nam Á phòng giao dịch quận 2: Chương II
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN
TẠI NGÂN HÀNG TMCP NAM Á
PHÒNG GIAO DỊCH QUẬN 2
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN NAM Á.
Lịch sử hình thành và phát triển.
Ngân hàng thương mại cổ phần Nam Á (gọi tắt là Ngân hàng Nam Á) là ngân hàng thương mại được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan vì mục tiêu lợi nhuận theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng và các quy định khác của pháp luật.
Ngân hàng Nam Á được phép hoạt động theo giấy phép hoạt động số 0026/NH-GP ngày 22/08/1992 do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cấp, Giấy phép thành lập 463/GP-UB ngày 01/09/1992 của Ủy ban TP.Hồ Chí Minh, Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 059027 ngày 01/09/1992 do trọng tài kinh tế TP.Hồ Chí Minh cấp.
Tên đầy đủ bằng tiếng Việt: Ngân hàng Thương mại Cổ phần Nam Á.
Tên viết tắt bằng tiếng Việt: Ngân hàng Nam Á.
Tên đầy đủ bằng tiếng Anh: Nam A Commercial Joint Stock Bank.
Tên viết tắt bằng tiếng Anh: NamA Bank.
Trụ sở chính: 97 Bis Hàm Nghi,...
37 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1407 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Thực trạng hoạt động huy động vốn tại ngân hàng thương mại cổ phần Nam Á phòng giao dịch quận 2, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương II
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN
TẠI NGÂN HÀNG TMCP NAM Á
PHÒNG GIAO DỊCH QUẬN 2
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN NAM Á.
Lịch sử hình thành và phát triển.
Ngân hàng thương mại cổ phần Nam Á (gọi tắt là Ngân hàng Nam Á) là ngân hàng thương mại được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan vì mục tiêu lợi nhuận theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng và các quy định khác của pháp luật.
Ngân hàng Nam Á được phép hoạt động theo giấy phép hoạt động số 0026/NH-GP ngày 22/08/1992 do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cấp, Giấy phép thành lập 463/GP-UB ngày 01/09/1992 của Ủy ban TP.Hồ Chí Minh, Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 059027 ngày 01/09/1992 do trọng tài kinh tế TP.Hồ Chí Minh cấp.
Tên đầy đủ bằng tiếng Việt: Ngân hàng Thương mại Cổ phần Nam Á.
Tên viết tắt bằng tiếng Việt: Ngân hàng Nam Á.
Tên đầy đủ bằng tiếng Anh: Nam A Commercial Joint Stock Bank.
Tên viết tắt bằng tiếng Anh: NamA Bank.
Trụ sở chính: 97 Bis Hàm Nghi, Phường Nguyễn Thái Bình, Quận 1, TP. Hồ Chí Minh.
Điện thoại: (84.8) 3 8299 408.
Fax: (84.8) 3 8222 706.
Email: nab@nab.com.vn
Website: www.nab.com.vn
Vốn điều lệ: 3.000.000.000.000 đồng
Thời gian hoạt động: 99 năm.
Ngân hàng Nam Á chính thức hoạt động từ 21/10/1992, là một trong những ngân hàng thương mại cổ phần đầu tiên sau khi Pháp lệnh về ngân hàng được ban hành năm 1990. Qua gần 19 năm hoạt động, cơ sở vật chất, công nghệ, khoa học kỹ thuật và mạng lưới hoạt động của Ngân hàng Nam Á ngày càng mở rộng, đời sống cán bộ nhân viên ngày càng được cải thiện, uy tín của Ngân hàng ngày càng được nâng cao.
Từ chỉ có 3 chi nhánh với vốn điều lệ 5 tỷ đồng và gần 50 cán bộ nhân viên. Đến nay, Ngân hàng Nam Á không ngừng lớn mạnh với mạng lưới gồm hơn 50 địa điểm giao dịch trên cả nước cùng với một công ty trực thuộc, vốn điều lệ tính đến ngày 31/12/2010 đạt 2.000 tỷ đồng, vốn chủ sở hữu đạt 2.175 tỷ đồng, lợi nhuận trước thuế đạt 175 tỷ đồng. Số nhân viên tăng gấp 20 lần, phần lớn là các cán bộ trẻ, nhiệt tình được đào tạo chính quy trong và ngoài nước, có năng lực và chuyên môn cao.
Mục tiêu hiện nay của Ngân hàng Nam Á là phấn đấu thành một trong những ngân hàng hiện đại của Việt Nam trên cơ sở phát triển nhanh, vững chắc, an toàn và hiệu quả, trở thành một trong các ngân hàng thương mại hàng đầu cả nước và không ngừng đóng góp cho sự phát triển kinh tế của cộng đồng, xã hội.
Phương châm hoạt động của Ngân hàng Nam Á là “An toàn, phát triển, hiệu quả và bền vững” nhằm mang lại “Giá trị vượt thời gian” đến cho khách hàng.
Sơ đồ tổ chức. (Sơ đồ 2.1 Cơ cấu tổ chức Ngân hàng Nam Á)
Khối Hỗ trợ
P.Nhân sự
P.Phát triển mạng lưới
P.Quản lý chất lượng
Trung tâm
đào tạo
Trung tâm CNTT
P.Marketing
P.Pháp chế và xử lý nợ tín dụng
P.Hành chính quản trị
Khối Tác nghiệp
Khối Tài chính
P.Tác nghiệp nguồn vốn-ngân quỹ
P.Tác nghiệp TTQT
P.Tác nghiệp tín dụng
P.Kế toán
Trung tâm thanh toán
P.Xử lý thông tin
P.Kế hoạch phát triển và quản trị TC
Sở GD, CN, Phòng GD, Điểm GD
Khối quản lý
rủi ro
P.Quản lý tín dụng và đầu tư
P.Quản lý rủi ro
P.Tái thẩm định
P.Chính sách tín dụng và quản lý TSĐB
Khối vốn và kinh doanh tiền tệ
Khối Khách hàng cá nhân
P.Quan hệ KHCN
Trung tâm thẻ
P.Phát triển sản phấm KHCN
P.Quản lý nguồn vốn và kinh
doanh tiền tệ
P.Đầu tư doanh nghiệp
P.Đầu tư tài chính, chứng khoán, trái phiếu
ĐẠI HỘI ĐỒNG
CỔ ĐÔNG
Hội đồng quản trị
Ủy ban Nhân sự
Văn phòng HĐQT
Ban Tổng GĐ
Ban Kiểm soát
Phòng Kiểm toán nội bộ
Ủy ban Quản lý rủi ro
Các hội đồng:
Quản lý rủi ro,
Tín dụng, đầu tư…
Văn phòng
Ban Tổng GĐ
Ban Quản lý
tài sản và nguồn vốn
Phòng kiểm tra nội bộ
Phòng xử lý TS chưa sinh lời
Khối Khách hàng doanh nghiệp
P.Phát triển sản phấm KHDN
P.Định chế tài chính
P.Quan hệ
KHDN
Công ty quản lý nợ và khai thác TS
Cơ cấu quản trị và điều hành.
Hội đồng quản trị: Có vai trò xây dựng chiến lược tổng thể và định hướng lâu dài cho ngân hàng, ấn định mục tiêu tài chính giao cho Ban điều hành. Hội đồng quản trị chỉ đạo và giám sát hoạt động của Ban điều hành thông qua một số hội đồng và ban chuyên môn do Hội dồng quản trị thành lập.
Ban điều hành: Gồm Tổng Giám đốc và các Phó Tổng Giám đốc, cụ thể hóa chiến lược tổng thể và các mục tiêu do Hội đồng quản trị đề ra bằng các kế hoạch, phương án kinh doanh, tham mưu cho Hội đồng quản trị về chiến lược, chính sách, trực tiếp hành hoạt động của ngân hàng.
Ban kiểm soát: Kiểm tra, giám sát và đánh giá tình hình hoạt động của các đơn vị thuộc hệ thống Ngân hàng Nam Á về sự tuân thủ pháp luật, các quy định pháp lý của ngành ngân hàng và các quy chế, thể lệ, quy trình nghiệp vụ.
Hội đồng tín dụng và đầu tư: Là cơ quan cấp cao nhất về quản lý hoạt động tín dụng, thực hiện xét duyệt cho vay và bảo lãnh đối với các món tiền vượt quá 5% vốn điều lệ; xét duyệt các phương án đầu tư hợp tác, góp vốn liên doanh với các đơn vị khác; kiểm tra, đôn đốc, xem xét, xử lý việc thu hồi vốn và nợ quá hạn.
Hội đồng xử lý kỷ luật: Tham vấn cho Tổng Giám Đốc trong việc xử lý kỷ luật cán bộ nhân viên vi phạm kỷ luật trong hệ thống Ngân hàng Nam Á.
Hội đồng Nhân sự và Tiền lương: Thực hiện dự thảo quy chế hoạt động Hội đồng Nhân sự và Tiền lương của Ngân hàng TMCP Nam Á trình Chủ tịch HĐQT ban hành.
Hội đồng xử lý tài sản: Thực hiện tham vấn, đề xuất ý kiến cho Hội đồng Quản trị, Tổng Giám Đốc trong việc tổ chức quản lý, sử dụng, mua bán có hiệu quả các tài sản của Ngân hàng Nam Á, tài sản xử lý nợ, hoặc các tài sản liên quan khác trong hệ thống Ngân hàng Nam Á.
Hội đồng xử lý rủi ro: Xem xét việc phân loại tài sản "có" trích lập dự phòng rủi ro của quý hiện hành do Tổng Giám Đốc thực hiện. Xem xét báo cáo tình hình theo dõi sao kê và thực hiện thu hồi nợ đối với những rủi ro đã được xử lý. Quyết định xử lý rủi ro và phương án thu hồi nợ; đồng thời xuất trình HĐQT sử dụng dự phòng để xử lý các khoản nợ vay không khả năng thu hồi.
Ban Tài chính kiểm soát: Thực hiện công tác giám sát, theo dõi, kiểm tra, kiểm toán nguồn vốn, sử dụng vốn và kết quả hoạt động kinh doanh. Thu thập số liệu để báo cáo và tham vấn, đề xuất ý kiến cho HĐQT trong việc quyết định kế hoạch chi tiêu, mua sắm tài sản phục vụ hoạt động kinh doanh.
Sản phẩm.
Với mục đích mang lại nhiều tiện ích cho cả khách hàng cá nhân và tổ chức, Ngân hàng Nam Á có các sản phẩm:
Khách hàng cá nhân:
Sản phẩm tiền gửi:
Tiền gửi ký quỹ
Tiền gửi thanh toán
Sản phẩm tiết kiệm:
Tiết kiệm lợi ích vượt trội
Tiết kiệm linh hoạt lãi suất
Tiết kiệm bậc thang theo số tiền gửi
Tiết kiệm rút vốn linh hoạt
Tiết kiệm thông thường
Sản phẩm tín dụng:
Chiết khấu giấy tờ có giá để đầu tư chứng khoán
Thấu chi tài khoản thanh toán cá nhân
Cho vay, cầm cố sổ tiết kiệm, chứng từ có giá
Cho vay để kinh doanh chứng khoán
Cho vay mua căn hộ thế chấp bằng chính căn hộ mua
Dịch vụ chuyển. nhận tiền:
Western Union
Nhận tiền từ nước ngoài chuyển về
Chuyển tiền ra nước ngoài
Nhận tiền trong nước
Chuyển tiền trong nước
Sản phẩm thẻ:
Thẻ ghi nợ nội địa NamA Card
E-Banking (Ngân hàng điện tử):
Ví điện tử Nam Á Bank
Dịch vụ VnTopup
Internet Banking
Dịch vụ SMS Banking
Các dịch vụ khác
Dịch vụ thu hộ tiền điền
Dịch vụ thu đổi ngoại tệ
Dịch vụ cất giữ hộ chứng từ có giá, tiền, kim loại quý
Dịch vụ REPO chứng khoán chưa niêm yết
Séc thanh toán
Khách hàng doanh nghiệp:
Sản phẩm tiền gửi:
Tiền gửi ký quỹ
Tiền gửi có kỳ hạn
Tiền gửi thanh toán
Sản phẩm tín dụng doanh nghiệp:
Cho vay mua nhà trong các dự án kiên kết của Nam Á Bank
Cho vay mua xe ô tô
Tài trợ nhập khẩu thế chấp bằng chính lô hàng nhập
Tài trợ nhập khẩu
Cho vay hợp đồng tài trợ
Bao thanh toán
Thanh toán quốc tế:
Nhận tiền từ nước ngoài chuyển đến
Chuyển tiền đi nước ngoài
Nhờ thu nhập khẩu
Nhờ thu xuất khẩu
Thư tín dụng xuất khẩu
E-Banking (Ngân hàng điện tử):
Ví điện tử Nam Á Bank
Dịch vụ VnTopup
Internet Banking
Dịch vụ SMS Banking
Các dịch vụ khác
Dịch vụ thu hộ tiền điền
Dịch vụ kinh doanh ngoại tệ
Dịch vụ cất giữ hộ chứng từ có giá, tiền, kim loại quý
Dịch vụ REPO chứng khoán chưa niêm yết
Dịch vụ chi hộ lương
Giải thưởng.
Giấy chứng nhận: Ngân hàng TMCP Nam Á nằm trong bảng xếp hạng 500 doanh nghiệp tăng trưởng nhanh nhất Việt Nam năm 2010
Cúp Ngân hàng Nam Á - Nam A Bank đạt danh hiệu Thương hiệu nổi tiếng quốc gia năm 2010
Giấy chứng nhận: Ngân hàng Nam Á - Nam A Bank đạt danh hiệu Nhãn hiệu nổi tiếng năm 2010
Cúp Ngân hàng Nam Á - Nam A Bank đạt danh hiệu Nhãn hiệu nổi tiếng năm 2010
Giấy chứng nhận: Ngân hàng Nam Á - Nam A Bank đạt danh hiệu Nhãn hiệu cạnh tranh năm 2010
Cúp Ngân hàng Nam Á - Nam A Bank đạt danh hiệu Nhãn hiệu cạnh tranh năm 2010
Tình hình huy động vốn Ngân hàng Nam Á (2008-2010).
Bảng 2.1 Biến động nguồn vốn huy động Ngân hàng Nam Á (2008-2010)
Đơn vị: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
2008
2009
2010
Tổng nguồn vốn huy động
4.493,57
9.444
11.238
Biến động nguồn vốn
-
4.950,43
1.794
% biến động
-
110,17
19
Nguồn: Báo cáo thường niên năm 2008, 2009, 2010 Nam A Bank
Bảng 2.2 Cơ cấu nguồn vốn huy động Ngân hàng Nam Á (2098 – 2010)
Đơn vị: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
2008
2009
2010
ST
%
ST
%
ST
%
1. Vốn HĐ từ tổ chức kinh tế và cá nhân
1.1. Theo kỳ hạn
KHH & ngắn hạn
Trung & dài hạn
1.2. Theo loại tiền
VND
Ngoại tệ
Vàng
2. Vốn HĐ từ các TCTD khác
3.419,57
3.378,19
41,38
2.827,30
263,31
328,96
1.074,73
76,10
98,79
1,21
82,68
7,70
9,62
23,90
6.054
6.017,68
36,32
5.323,89
280,91
449,20
3.390
64,04
99,40
0,60
87,94
4,64
7,42
35,96
7.121
6.996,38
124,62
6.353,36
315,46
452,18
4.117
63,37
98,25
1,75
89,22
4,43
6,35
36,63
Tổng vốn huy động
4.493,57
100
9.444
100
11.238
100
Nguồn: Báo cáo thường niên năm 2008, 2009, 2010 Nam A Bank
Qua bảng số liệu trên, ta nhận thấy rằng tình hình huy động vốn của hệ thống Ngân hàng TMCP Nam Á có sự tăng trưởng qua các năm. Năm 2009, tổng lượng vốn huy động trên thị trường 1 và 2 đạt 9.444 tỷ đồng, tăng 110,17% so với năm 2008. Năm 2010, con số này đạt được 11.238 tỷ đồng, tăng gần 19% so với năm 2009.
Năm 2009, lượng vốn huy động cả trên hai thị trường đều tăng đáng kể. Lượng vốn huy động từ tổ chức kinh tế và cá nhân (thị trường 1) năm 2009, đạt 6.054 tỷ đồng, tăng 2.634,43 tỷ đồng; lượng vốn huy động từ các TCTD khác (thị trường 2) đạt 3.390 tỷ đồng, tăng 2.315,27 tỷ đồng. Sang năm 2010, lượng vốn huy động trên 2 thị trường chỉ tăng nhẹ, khoảng ở mức 1.000 tỷ đồng.
Cơ cấu nguồn vốn huy động của năm 2009 và 2010 có sự thay đổi so với năm 2008 theo chiều hướng tỷ trọng lượng vốn huy động thị trường 1 giảm và tỷ trọng lượng vốn huy động trên thị trường 2 tăng. Cụ thể, tỷ trọng lượng vốn huy động vốn thị trường 1 năm 2008 là 76,10%, đến năm 2009 và 2010, con số này giảm còn 60,04% và 63,37%. Trong khi đó, tỷ trọng lượng vốn vay từ các TCTD khác (thị trường 2) năm 2008 đạt 23,90% nhưng đến năm 2009 và 2010 thì tăng lên thành 35,96% và 36,63%.
Mặc dù tỷ trọng nguồn vốn huy động biến đổi theo chiều hướng không có lợi nhưng Ngân hàng Nam Á vẫn duy trì được tính thanh khoản và các tỷ lệ về khả năng chi trả trong hoạt động của Ngân hàng. Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu CAR luôn đảm bảo ở mức an toàn theo quy định. Cụ thể, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu năm 2008, 2009, 2010 lần lượt là 29,81%; 19,24%; 18,04% (số liệu trích Báo cáo thường niên của Ngân hàng Nam Á năm 2008, 2009, 2010).
Biểu đồ 2.1 Cơ cấu nguồn vốn huy động Ngân hàng Nam Á (2008 – 2010) theo kỳ hạn và nguyên tệ.
Trung và dài hạn
1,21%
Vàng 9,62%
Năm 2008
Ngoại tệ 7,70%
KKH và ngắn hạn
98,79%
VND 82,68%
Trung và dài hạn
0,60%
Vàng 7,42%
Năm 2009
KKH và ngắn hạn
99,40%
VND 87,94%
Ngoại tệ 4,64%
Vàng 6,35%
Trung và dài hạn
1,75%
KKH và ngắn hạn
98,25%
Năm 2010
VND 89,22%
Ngoại tệ 4,43%
Theo như biểu đồ, xu hướng nguồn vốn theo kỳ hạn không biến động nhiều, chủ yếu vẫn là vốn huy động ngắn hạn; nguồn vốn theo loại tiền biến động theo xu hướng giảm ngoại tệ, chủ yếu vẫn là nguồn vốn bằng VND. Biểu đồ trên còn cho thấy trong cơ cấu nguồn tổng nguồn vốn huy động thì lượng vốn huy động ngắn hạn chiếm tỷ trọng rất cao, luôn ở mức 98 – 99%. Điều này phù hợp với đặc trưng của ngân hàng.
Trong cơ cấu nguồn vốn theo loại nguyên tệ, tổng lượng vốn huy động bằng VND chiếm tỷ trọng cao. Cụ thể, tỷ trọng vốn huy động bằng VND năm 2008, 2009, 2010 lần lượt là 82,6%; 87,94%; 89,22%. Còn lại là vốn huy động bằng Vàng và ngoại tệ. Cơ cấu này phù hợp với nhu cầu vay vốn của khách hàng. Khách hàng của Nam Á chủ yếu là hộ kính doanh cá thể, các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Bảng 2.3 Tình hình dư nợ tín dụng tại Ngân hàng Nam Á (2008-2010)
Đơn vị: Tỷ đồng
Năm
Chỉ tiêu
2008
2009
2010
Dư nợ tín dụng
3.749,65
5.013
5.302
Dư nợ ngắn hạn
Dư nợ trung và dài hạn
2.219,12
1.530,23
59,19%
40,81%
2.742,11
2.270,89
54,70%
45,30%
3.175,90
2.126,10
59,90%
40,10%
Biến động
-
33,69%
5,77%
Nguồn: Báo cáo thường niên 2008, 2009, 2010 Nam A Bank
Năm 2009, dư nợ tín dụng đạt 5.013 tỷ đồng, tăng 33,69% so với năm 2008. năm 2009 là năm vực dậy của nền kinh tế sau ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính năm 2008. Với nhiều gói chính sách nhằm vực dậy nền kinh tế của chính phủ, lượng vốn cho vay tiêu dùng, cho vay sản xuất năm 2009 tăng cao trở lại. Kết quả là dư nợ tín dụng tăng cao ở các NHTM.
Trong năm 2010, bên cạnh việc tái cơ cấu dư nợ nhằm mục đích an toàn và nâng cao chất lượng và phát triển tín dụng bền vững cho thời kỳ tới sau khi trải qua 1 năm nhiều biến động nên dư nợ tín dụng từ 5.013 tỷ đồng đến 5.302 tỷ đồng, chỉ tăng 5,77% so với năm 2009. Con số này vẫn đảm bảo trong phạm vi định mức 25% tăng trưởng tín dụng theo định hướng của NHNN.
Dư nợ tín dụng so với tổng vốn huy động trên thị trường 1 năm 2008 đạt 109,65%, năm 2009 là 82,80%, năm 2010 là 74,46%. Có thể thấy, tỷ lệ dư nợ tín dụng so với tổng vốn huy động trên thị trường 1 biến động mạnh theo xu hướng đảm bảo hơn, an toàn hơn. Tỷ lệ 74,46% vừa đảm bảo tính an toàn cho hệ thống ngân hàng Nam Á vừa đảm bảo được hiệu quả việc sử dụng vốn huy động. Phần nguồn vốn còn lại, Ngân hàng Nam Á sử dụng cho vốn thanh khoản, đầu tư vào giấy tờ có giá và gửi tại các TCTD khác (NHNN).
TÌNH HÌNH HUY ĐỘNG VỐN TẠI PGD QUẬN 2. (2008-2010)
Phòng giao dịch Quận 2.
Phòng giao dịch Quận 2 trực thuộc Chi nhánh Thị Nghè, Ngân hàng Nam Á, được thành lập vào ngày 04/10/2007. Chỉ mới hoạt động gần 4 năm nhưng Phòng giao dịch Quận 2 là một trong những đơn vị kinh doanh có hiệu quả của Ngân hàng Nam Á.
Tên giao dịch: Phòng Giao dịch Quận 2
Địa chỉ: 53 Nguyễn Duy Trinh, Phường Bình Trưng Tây, Quận 2, TP.Hồ Chí Minh.
Điện thoại: (84.8) 3 7436 093 – (84.8) 3 7437 214
Email: cn.quan2@namabank.com.vn
Ngành nghề kinh doanh:
Hoạt động huy động tiền gửi
Hoạt động cho vay
Hoạt động thanh toán và ngân quỹ
Các dịch vụ khác
Sơ đồ 2.2 Cơ cấu tổ chức tại Phòng Giao dịch Quận 2, Ngân hàng Nam Á
Trưởng phòng
Hành chính
Bảo vệ
Bộ phận Kế toán Ngân quỹ
Bộ phận Tín dụng
Phòng giao dịch Quận 2 được thành lập tại khu vực dân cư đông đúc tạo điều kiện thuận lợi cho Ngân hàng Nam Á trong việc cung cấp các dịch vụ ngân hàng hiện đại, đáp ứng kịp thời nhu cầu về vốn, tính tiện lợi trong hoạt động sản xuất - kinh doanh của các thành phần kinh tế, qua đó góp phần phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn Quận 2.
Quy trình huy động vốn.
Được sự hỗ trợ của trang thiết bị và phần mềm Corebanking Flexcube trên toàn hệ thống từ tháng 06/2010, quy trình gửi tiền tại Ngân hàng Nam Á được tiến hành nhanh chóng và gọn lẹ, đảm bảo cho khách hàng nhận dịch vụ nhanh, chính xác và đảm bảo nhất.
Sơ đồ 2.3 Lưu đồ mở sổ tiết kiệm
Khách hàng Giao dịch viên Thủ quỹ Kiểm soát
1
2
Thu tiền
Ký tên, trả chứng từ
Nhập giao dịch gửi TK
Nhận sổ tiết kiệm
Lưu chứng từ
Tiếp nhận hồ sơ gửi TK/GTCG
Điền “Phiếu gửi tiết kiệm/GTCG”
3
4
Kiểm soát, phê duyệt
5
In sổ TK/GTCG
6
Ký tên, đóng dấu
7
8
(1): Giao dịch viên hướng dẫn và tiếp nhận hồ sơ gửi tiết kiệm, giấy tờ có giá của khách hàng.
(2): Thủ quỹ nhận tiền từ khách hàng.
(3): Giao dịch viên kiểm tra, đối chiếu số tiền với Thủ quỹ và tiến hành nhập giao dịch gửi tiết kiệm; chuyển hồ sơ qua Kiểm soát viên.
(4): Kiểm soát viên kiểm tra, đối chiếu hồ sơ và trên hệ thống thông tin. Không khớp, chuyển hoàn lại cho Giao dịch viên (4). Số liệu và thông tin khớp, chuyển qua Giao dịch viên để tiến hành in sổ TK cho khách hàng (5).
(6): Chuyển sổ và chứng từ cho Kiểm soát viên ký tên đóng dấu.
(7): Thủ quỹ ký tên, trả chứng từ.
(8): Giao dịch viên tiến hành lưu trữ chứng từ nghiệp vụ phát sinh.
Nhằm mang lại sự thuận tiện, tiết kiệm thời gian và chi phí của khách hàng và cả bản thân ngân hàng, Ngân hàng Nam Á xây dựng quy trình gửi tiền tại Sở giao dịch, Chi nhánh, các Phòng giao dịch và các Điểm giao dịch trực thuộc như trên.
Thực trạng huy động vốn tại Phòng giao dịch Quận 2 (2008-2010).
Phòng giao dịch Quận 2 – Ngân hàng Nam Á (PGD Quận 2) coi việc huy động vốn là nhiệm vụ trọng tâm. Vì thế, trong những năm qua, nguồn vốn huy động tại PGD Quận 2 ngày càng tăng, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động cho vay và các hoạt động khác.
Bảng 2.4 Biến động nguồn vốn huy động PGD Quận 2 qua các năm
Đơn vị: tỷ đồng
Thời điểm
Chỉ tiêu
2008
2009
2010
Tổng nguồn vốn huy động
58,469
69,123
58,713
Biến động nguồn vốn
-
10,654
-10,410
% biến động
-
18,22%
-15,06%
Nguồn: Bảng cân đối kế toán PGD Quận 2
Biểu đồ 2.2 Nguồn vốn huy động PGD Quận 2 qua các năm
Nhìn vào bảng 3.1 và biểu đồ 3.1, từ năm 2008, ta nhận thấy tổng nguồn vốn huy động tại PGD Quận 2 – Ngân hàng Nam Á tăng đều qua các năm (tăng trên 10 tỷ đồng/năm). Ngày 31/12/2008, tổng vốn huy động đạt 58,469 tỷ đồng, đến cuối năm 2009 đạt 69,123 (tăng 18,22%). Đến 31/12/2010, thì lượng vốn huy động được 58,713 tỷ đồng.
Tình hình huy động vốn trên thị trường năm 2008:
Năm 2008 là năm có nhiều biến động ảnh hưởng nhiều đến hoạt động của nền kinh tế nói chung và ngành ngân hàng nói riêng. Hai quý đầu năm 2008, Việt nam đứng trước tình trạng lạm phát tăng cao. Chỉ số lạm phát bình quân 6 tháng đầu năm lên mức 2,86%/ tháng.
Trước tình hình đó, Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước đã có chính sách tiền tệ phù hợp. Thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ nhằm hút tiền ngoài thị trường vào hệ thống ngân hàng, với ba công cụ: lãi suất, dự trữ bắt buộc và thị trường mở được sử dụng đồng thời cùng với những quy định siết chặt thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản… đã tác động mạnh đến thị trường. Trong 6 tháng đầu năm 2008, lãi suất cơ bản từ 8,25%/năm (áp dụng từ 01/12/2005) đã tăng lên thành 8,75%/năm (từ 01/02/2008), đến ngày 19/05/2008 tăng lên thành 12%/năm và ngày 11/06/2008 đã là 14%/năm. Tỷ lệ dữ trữ bắt buộc tăng 1% thành 10%. Trong tháng 3 năm 2008, NHNN thông báo đến các NHTM về việc phát hành tín phiếu bắt buộc thực hiện vào ngành 17/03/2008 với tổng trị giá tín phiếu phát hành là 20.300 tỷ đồng. Điều này làm ảnh hưởng sâu sắc đến tính thanh khoản của các NHTM.
Trong khoảng tháng 2 và 3, các NHTM đứng trước tình trạng thiếu thanh khoản trầm trọng. NHTM phải hạn chế các hoạt động cho vay, thực hiện chiến dịch tăng lãi suất huy động để thu hút vốn. Cuộc đua lãi suất giữa các NHTM bắt đầu sôi động. Lãi suất huy động trong thời gian này lên tới 19%/năm, lãi suất cho vay cũng tăng đến đỉnh là 21%/năm ở hầu hết các NHTM. Cũng giai đoạn này, đã nảy sinh nhiều vấn đề trong việc tìm cách giữ chân người gửi tiền. Trên thị trường liên ngân hàng, lãi suất huy động qua đêm đã lên tới 43%/năm.
Trong thời gian này, Ban điều hành ngân hàng Nam Á phải luôn theo sát tình hình diễn biến lãi suất, các thay đổi quy định của NHNN để có thể đưa ra các quyết định kịp thời và phù hợp đảm bảo hoạt động của toàn hệ thống ngân hàng Nam Á. Cũng như các ngân hàng khác, với chính sách tiền tệ thắt chặt của NHNN, tính thanh khoản của NH Nam Á cực kỳ khó khăn. Ngân hàng Nam Á vừa phải thu hút lượng vốn mới vừa đảm bảo số vốn đã huy động được hiện tại; hạn chế các hoạt động cho vay…
Sang hai quý cuối năm 2008, tình hình dần trở nên ổn định. Những ngày đầu quý III, nền kinh tế vẫn còn khó khăn nhưng lạm phát tháng 7 công bố ở mức 1,13%, mức thấp nhất từ đầu năm đến nay. Điều này phần nào cho thấy nên kinh tế dần ổn định. Đến tháng 7, lượng vốn các NHTM huy động đã dồi dào, tình trạng thiếu vốn không còn nên lãi suất huy động cũng có chiều hướng giảm.
Đến tháng 09/2008, cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ lan rộng và ảnh hưởng đến nền kinh tế Việt Nam. Ngay thời gian này, chính sách tiền tệ của NHNN từ thắt chặt chuyển thành nới lỏng. Lãi suất cơ bản từ 14%/năm qua nhiều lần giảm còn 8,5%/năm (ngày 22/12/2008). Tín phiếu bắt buộc được thanh toán trước hạn (Quyết định 2317 ngày 20/10/2008); giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng VND ngắn hạn từ 10%/năm xuống còn 8%/năm (Quyết định 2811 ngày 20/11/2008), 8% xuống còn 6% (Quyết định 2951 ngày 03/12/2008), đến 19/12/2008 còn 5% (Quyết định 3158) và các loại lãi suất chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn cũng được hạ xuống… Bên cạnh đó, tín hiệu cho vay kinh doanh chứng khoán, cho vay bất động sản cũng được phát ra …Tất cả những biện pháp này đều nhằm giúp các NHTM mở rộng cho vay, thúc đẩy nền kinh tế phát triển sau ảnh hưởng khủng hoảng tài chính ở Mỹ vào tháng 9/2008.
Ngay lập tức, mặt bằng lãi suất được lập lại, lãi suất huy động và cho vay ở các NHTM đều giảm xuống. Lãi suất huy động VND xuống quanh mốc 10%/năm, lãi suất cho vay tối đa 14%/năm.
Tình hình huy động vốn trên thị trường năm 2009:
Năm 2009, cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính toàn cầu năm 2008 tiếp tục ảnh hưởng mạnh mẽ đến hệ thống ngân hàng Việt Nam. Các NHTM vừa phải gia tăng cho vay tín dụng kích cầu đầu tư và tiêu dùng, chống lại nguy cơ suy giảm kinh tế trong khuôn khổ gói chính sách khẩn cấp chung của Chính phủ; vừa phải đề phòng nguy cơ tái lạm phát cao; vừa phải tăng cường đáp ứng nhu cầu về ngoại hối nói riêng và nguồn vốn cho doanh nghiệp nói chung; vừa phải chịu áp lực giữ vững nguồn dự trữ ngoại hối và phải thích ứng với các yêu cầu tự do hoá và cạnh tranh bình đẳng thị trường, bảo đảm tính kịp thời và linh hoạt trong phản ứng chính sách trước các biến động mau lẹ, khó lường của bối cảnh trong nước và quốc tế…
Ngày 23/01, Thủ tướng ký Quyết định 131/QĐ-TTg hỗ trợ lãi suất cho các tổ chức, cá nhân vay vốn ngân hàng để sản xuất - kinh doanh nhằm đối phó với tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Sau đó là các Quyết định 443/QĐ-TTg, 497/QĐ-TTg. Theo đó, các TCTD cho vay hỗ trợ lãi suất 4% hỗ trợ vốn lưu động không quá 8 tháng, cho vay trung và dài hạn phục vụ sản xuất; cho vay khu vực nông nghiệp nông thôn. Tháng 02/2009, NHNN giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 8,5% xuống còn 7%/năm, lãi suất cho vay VND tối đa chỉ còn 10,5%/năm.
Ngay từ đầu năm 2009, lãi suất huy động tăng nhẹ. Điều chắc chắn rằng việc điều chỉnh tăng lãi suất huy động của các NHTM là nhằm chuẩn bị một lượng vốn dồi dào trước dự báo cho rằng nhu cầu vốn của doanh nghiệp sẽ tăng mạnh nhờ gói kích cầu sản xuất và các chính sách tài khóa khác của Chính Phủ nhằm vực dậy nền kinh tế trước ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính. Tiếp đó, Thông tư số 01/2009/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước áp dụng 01/02/2009 cho phép tín dụng tiêu dùng được mở lại theo lãi suất thỏa thuận. Lãi suất huy động tại các NHTM đều tăng và tăng ở tất cả các kỳ hạn, đỉnh điểm là 8.7%/năm cho kỳ hạn 36 tháng. Tốc độ tăng trưởng tín dụng cao hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng huy động vốn.
Ngay sau Thông tư số 15/2009/TT - NHNN, quy định các NHTM chỉ được sử dụng 30% vốn ngắn hạn (tiền gửi kỳ hạn dưới 12 tháng) để cho vay trung và dài hạn (thời hạn vay từ 12 tháng trở lên) được ban hành, ngay lập tức lãi suất huy động ở các NHTM thay đổi nhanh chóng. Các ngân hàng đẩy mạnh huy động vốn bằng việc tăng lãi huy động cao, cá biệt có một số ngân hàng đẩy lên sát trần cho vay là 10,3%/năm cho kỳ hạn dài ngày, kèm theo đó là các chương trình khuyến mãi nhằm thu hút khách hàng. Trong thời gian này, Ngân hàng Nam Á luôn linh động thay đổi lãi suất theo xu hướng của thị trường, lãi suất huy động cao nhất trong khoảng thời gian này tại ngân hàng Nam Á là 9,60%/năm cho kỳ hạn 18 tháng. Bên cạnh đó, tháng 08/2009, Ngân hàng Nam Á triển khai chương trình khuyến mãi “Quà tặng trao tay – Cơ may vàng ký” áp dụng cho các khách hàng gửi tiền tiết kiệm tại ngân hàng, khách hàng sẽ nhận thẻ cào khi gửi tiền để nhận các phần quà tặng trực tiếp và thăm dự bốc thăm may mắn với nhiều phần thưởng giá trị.
Tháng 11/2009, dự nợ tín dụng toàn hệ thống tăng 37% so với cuối tháng 12/2008, trong khi dự kiến cả năm tăng trưởng chỉ 30%. Ngay lập tức NHNN nâng lãi suất cơ bản lên 8%/năm. Các NHTM tiếp tục tăng lãi suất huy động nhưng không quá 10,5%/năm theo đồng thuận của một số ngân hàng. Các NHTM đẩy mạnh huy động vốn nhằm đưa dư nợ tín dụng về mức 30% và ổn định tính thanh khoản cuối năm khi các lượng tiền gửi khác tới đáo hạn. Sau đó, NHNN phát tín hiệu sẽ thanh tra toàn diện hoạt động của các NHTM có lãi suất huy động 10,5%/năm. Ngay lập tức các NHTM đều điều chỉnh xuống từ 10,49% /năm.
Tình hình huy động vốn trên thị trường năm 2010:
Năm 2010, trong 10 tháng đầu, NHNN ổn định lãi suất cơ bản ở mức 8%/năm và tăng lên 9%/năm vào cuối năm trước sức ép của lạm phát. Bên cạnh đó, để tạo điều kiện cho thị trường tiền tệ hoạt động theo quy luật thị trường, có sự quản lý của nhà nước, NHNN từng bước bỏ các quy định rằng buộc về các loại lãi suất của các TCTD. Theo đó các TCTD được cho vay theo cơ chế lãi suất thỏa thuận.
Trong 6 tháng đầu năm lãi suất đã tăng so với cùng kỳ của năm 2009 với hai mốc tăng tương đối ổn định. Nếu như trong quý I/2010, lãi suất huy động tăng bình quân 0,03 – 0,07% cho tất cả các kỳ hạn chưa kể đến các hình thức khuyến mại thì sang Quý II, các NHTM đã từng bước công bố tăng lãi suất vượt ngưỡng 10,5 hình thành nên một mặt bằng lãi suất mới biến động xoay quanh ngưỡng 12%. Việc lãi suất huy động cao đã tác động đẩy mặt bằng lãi suất cho vay tăng cao trong điều kiện áp dụng cơ chế lãi suất thoả thuận. Vì vậy đến tháng 7/2010 để tạo sự thống nhất về mặt bằng lãi suất huy động trên thị trường, NHNN và Hiệp hội ngân hàng đã yêu cầu các NHTM đồng thuận giảm lãi suất huy động vốn bằng VND để góp phần thực hiện hạ mặt bằng lãi suất của thị trường theo Nghị quyết 23/NQ – CP ngày 7/5/2010 của Chính phủ, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sản xuất trong nền kinh tế tiếp cận được với vốn của khu vực ngân hàng khi mà tăng trưởng tín dụng có xu hướng giảm trong những tháng đầu năm và tăng nhẹ sau đó. Sau khi tăng dần từ đầu năm, đến tháng 7 lãi suất huy động VND giảm ở mức 11 – 11,2% cho các kỳ hạn và duy trì khá ổn định cho đến tháng 10.
Cùng với việc điều chỉnh lãi suất huy động hợp lý theo thị trường, trong tháng 03/2010, Ngân hàng Nam Á – PGD quận 2 còn thực hiện chương trình “Tri ân khách hàng” cho khách hàng gửi tiền với số dư trên 10 triệu đồng với các quà tặng như tiền mặt, bốc thăm trúng thưởng nhiều phần quà giá trị. Kết quả là nguồn vốn huy động được tại PGD Quận 2 trong 6 tháng đầu năm ổn định.
Sau những diễn biến khó lường của tỷ giá và giá vàng trong nước vào những ngày cuối tháng 10/2010 và sức ép lạm phát tăng, NHNN tăng dự trữ bắt buộc lên 9%/năm. Trong cuộc họp ngày 04/11, Ủy ban Giám sát tài Chính Quốc gia công bố thả nổi lãi suất theo thị trường. Các thành viên Hiệp hội Ngân hàng nâng mức lãi suất huy động đồng thuận lên trần 12%/năm. Tuy nhiên liên tục sau đó các NHTM nhỏ cạnh tranh lãi suất huy động, đẩy lên mặt bằng 14%/năm. Đến ngày 8/12, Techcombank công bố thực hiện chương trình “3 ngày vàng” với lãi suất 17,6%/năm, tạo tiền đề cho các NHTM nhỏ chuyển sang thỏa thuận ngầm với khách hàng với lãi suất 17 – 18%/năm.
Ngày 15/12, sau khi nhóm họp với các NHTM tại miền Bắc và miền Nam, được sự đồng thuận của 50 ngân hàng cam kết giảm trần lãi suất về 14%/năm bao gồm các khoản khuyến mại, NHNN chính thức chỉ đạo các NHTM không được vượt quá trần lãi suất này và sẽ có những biện pháp mạnh đối với các NHTM vượt trần lãi suất. Đồng thời NHNN cũng cử các đoàn kiểm tra phải báo cáo hàng ngày với Thống đốc về tình trạng huy động lãi suất trên địa bàn.
Đối với tình hình biến động lãi suất phức tạp như thế, Ngân hàng Nam Á đã có kế hoạch điều chỉnh lãi suất phù hợp theo từng thời điểm, tháng 8 triển khai tiếp chương trình “Khuyến mãi mùa hè” nhằm thu hút khách hàng nhằm đảm bảo huy động đủ nguồn vốn cho hoạt động của ngân hàng vừa đảm bảo tuân thủ các quy định và chỉ thị của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước. Qua đó Ban lãnh đạo Ngân hàng Nam Á chỉ thị cụ thể cho các Chi nhánh, các Phòng Giao dịch đảm bảo đúng theo kế hoạch cho các hoạt động của hệ thống Ngân hàng Nam Á.
Đến 2 tháng cuối năm, sự kiện “3 ngày vàng” của Techcombank và tác động của nó ảnh hưởng sâu sắc đến nguồn vốn huy động tại PGD quận 2. Hiện tượng khách hàng đến rút tiền để gửi tại các ngân hàng khác làm nguốn vốn huy động giảm trầm trọng. Đến cuối năm 2010, lượng vốn huy động được chỉ có 58,713 tỷ đồng, giảm 10,410 tỷ đồng so với năm 2009.
Hoạt động huy động vốn tại Phòng Giao dịch Quận 2:
Năm 2008, tại PGD quận 2, lãi suất huy động của Ngân hàng Nam Á trong thời gian này cũng giảm mạnh so với hai quý đầu năm. Cùng với việc lãi suất huy động giảm là việc lượng vốn huy động được sẽ biến động trong thời gian này. PGD quận 2 luôn cố gắng giữ chân khách hàng trong lúc này: ưu đãi lãi suất cho các khách hàng gửi lâu khi đáo hạn, thưởng lãi suất cho các kỳ hạn tiền gửi dài, hỗ trợ chi phí đi lại cho các khách hàng có số tiền gửi lớn … Kết quả là trong sáu tháng cuối năm, số dư tiền gửi tại PGD quận 2 luôn tăng đều qua các tháng; đến cuối tháng 12 đã đạt được 58,469 tỷ đồng, tăng 277% so với 12/2007.
Sang năm 2009, tình hình huy động vốn ít biến động hơn so với năm 2008. Thông qua các chương trình và phương hướng của Ngân hàng Nam Á, PGD Quận đã triển khai lãi suất huy động cạnh tranh, chăm sóc khách hàng tốt, các chương trình khuyến mãi hấp dẫn khách hàng … đã phần nào tăng thêm nguồn vốn huy động, cụ thể tăng 10,654 tỷ so với năm 2008, đạt tăng trưởng huy động 18,22%.
Năm 2010, các NHTM phát triển mạng lưới mạnh mẽ trên địa bàn quận 2, đặc biệt là phường Bình Trưng Đông và Bình Trưng Tây. Điều này tạo nên sự cạnh tranh gay gắt giữa các NHTM khác nhau trên địa bàn. Diễn biến lãi suất huy động cuối năm trên thị trường gây khó khăn cho PGD quận 2. Đến cuối năm 2010, lượng vốn huy động được đã giảm xuống còn 58,713 tỷ đồng, giảm 15,06% so với năm 2009.
Bảng 2.5 Biến động dư nợ tín dụng Phòng Giao dịch quận 2 (2008-2010)
Đơn vị: Tỷ đồng
Năm
Chỉ tiêu
2008
2009
2010
Dư nợ tín dụng
30,9
43,2
41,2
Dư nợ ngắn hạn
Dư nợ trung và dài hạn
15,82
15,08
51,20%
48,80%
22,57
20,63
52,25%
47,75%
21,24
19,96
51,56%
48,44%
Biến động
-
39,81%
-4,63%
Nguồn: Bảng cân đối kế toán PGD Quận 2
Theo bảng số liệu 2.5 về tình hình dư nợ tín dụng tại PGD quận 2, dư nợ tín dụng năm 2009 đạt 43,2 tỷ đồng, tăng 39,81% so với năm 2008. Đây là năm có nhiều chính sách mở rộng cho vay sản xuất và tiêu dùng nhằm vực dậy nền kinh tế sau ảnh hưởng khủng hoảng tài chính toàn cầu. Sang năm 2010, dư nợ tín dụng tại PGD quận 2 giảm 4,63% so với năm 2009, đạt 41,2 tỷ đồng. Đầu năm 2010, nền kinh tế trong nước có dấu hiệu vực dậy. Đến khoảng cuối năm, lạm phát có cu hướng tăng cao và tình hình thanh khoản của hệ thống ngân hàng có dấu hiệu khó khăn. Thêm đó, với chủ trương kiểm soát các khoảng nợ xấu, đảm bảo an toàn hoạt động tín dụng, giữ vững tốc độ tăng trưởng tín dụng theo định hướng của NHNN, Ngân hàng Nam Á siết chặt hoạt động cho vay với, rà soát các hợp đồng tín dụng hiện có … nhằm đảm bảo tính an toàn cho hệ thống.
Kết cấu nguồn vốn theo loại hình huy động.
Bảng 2.6 Kết cấu vốn huy động trong qua các năm
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
2008
2009
2010
ST
%
ST
%
ST
%
1. Tiền gửi của tổ chức kinh tế
2. Tiền gửi của cá nhân
12,004
46,465
20,53
79,47
12,456
56,667
18,02
81,98
11,956
46,757
20,36
79,64
Tổng
58,469
100
69,123
100
58,713
100
Nguồn: Bảng cân đối kế toán PGD Quận 2
Biểu đồ 2.3 Biến động vốn huy động qua các năm
Qua bảng và biểu đồ trên, có thể thấy nguồn vốn huy động qua kênh tiền gửi cá nhân chiếm phần lớn, cả về tỷ trọng và số lượng (gần 80% tổng lượng vốn huy động mỗi năm). Bên cạnh đó, tiền gửi của tổ chức chiếm tỷ trọng thấp. Có thể thấy, khách hàng chủ yếu ở PGD Quận 2 chủ yếu là khách hàng cá nhân. Có được điều đó là nhờ những chính sách khuyến khích tiền gửi của khách hàng để nâng cao khả năng thanh toán, cho vay, đầu tư của ngân hàng.
Tiền gửi của tổ chức kinh tế:
Bảng 2.7 Biến động tiền gửi tổ chức kinh tế qua các năm
Đơn vị: tỷ đồng
Thời điểm
Chỉ tiêu
2008
2009
2010
Tiền gửi tổ chức kinh tế
12,004
12,456
11,956
Biến động
-
0,452
-0,500
% biến động
-
3,77%
4,01%
Nguồn: Bảng cân đối kế toán PGD Quận 2
Bảng 2.8 Biến động tiền gửi tổ chức kinh tế theo loại nguyên tệ
Đơn vị: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
2008
2009
2010
ST
%
ST
%
ST
%
Tiền gửi của tổ chức kinh tế
VND
Ngắn hạn
Trung và dài hạn
USD
Ngắn hạn
Trung và dài hạn
Vàng
Ngắn hạn
Trung và dài hạn
12,004
12,004
12,004
-
-
-
-
-
-
-
100
100
12,456
12,456
12,456
-
-
-
-
-
-
-
100
100
11,956
11,956
11,956
-
-
-
-
-
-
-
100
100
Nguồn: Bảng cân đối kế toán PGD Quận 2
Bảng 2.9 Biến động tiền gửi tổ chức kinh tế theo loại kỳ hạn
Đơn vị: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
2008
2009
2010
ST
%
ST
%
ST
%
Tiền gửi của tổ chức kinh tế
KKH và ngắn hạn
Trung và dài hạn
12,004
12,004
0
100
100
0
12,456
12,456
0
100
100
0
11,956
11,956
0
100
100
0
Nguồn: Bảng cân đối kế toán PGD Quận 2
Tiền gửi của các tổ chức kinh tế là khoản tiền các tổ chức kinh tế gửi vào ngân hàng để thực hiện thanh toán, chi trả tiền nguyên vật liệu, hàng hoá, dịch vụ và vốn tạm thời nhàn rỗi trong quá trình sản xuất kinh doanh. Các tổ chức kinh tế gửi tiền vào ngân hàng với mục đích là an toàn và hưởng các dịch vụ mà ngân hàng cung ứng. Ngân hàng Nam Á cung cấp các sản phẩm: Tiền gửi ký quỹ, Tiền gửi thanh toán, Tiền gửi kỳ hạn.
Tuy vậy, tại PGD Quận 2, các khách hàng tổ chức kinh tế chỉ chọn hình thức tiền gửi thanh toán (tỷ trọng 100%). Các sản phẩm ký quỹ và tiền gửi có kỳ hạn tại Ngân hàng Nam Á không được các khách hàng quan tâm.
Theo bảng 2.3, vốn huy động tại PGD Quận 2 qua kênh tiền gửi tổ chức kinh tế, chiếm tỷ trọng tương đối thấp và tăng nhẹ qua các năm. Các tổ chức kinh tế gửi tiền thanh toán tại PGD Quận 2 nhằm các hoạt động thanh toán, chi trả lương, chi trả tiền dịch vụ… nên nguồn vốn huy động được không nhiều. Thêm vào đó, Ngân hàng mặc dù có nhiều sản phẩm và ưu đãi cho khách hàng doanh nghiệp nhưng không được biết đến nhiều và kênh huy động vốn qua khách hàng doanh nghiệp chưa được Ngân hàng chú trọng và quan tâm nhiều. Hơn nữa, Ngân hàng Nam Á phải cạnh tranh với các NHTM khác mạnh về thanh toán, về khách hàng doanh nghiệp. Do đó, khách hàng gửi tiền là tổ chức cá kinh tế tăng không nhiều qua các năm, chủ yếu là khách hàng sẵn có.
Tình hình huy động vốn qua kênh tiền gửi của tổ chức kinh tế không biến động nhiều từ năm 2008 đến 2010. Bởi lẽ số dư tiền gửi này tập trung là tiền gửi thanh toán. Với khoản vốn huy động được qua kênh này, nếu có kế hoạch sử dụng vốn hợp lý sẽ giúp ngân hàng tăng lợi nhuận với ưu thế chi phí của loại tiền gửi này rất thấp.
Tiền gửi của cá nhân:
Bảng 2.10 Biến động tiền gửi của cá nhân qua các năm
Đơn vị: Tỷ đồng
Thời điểm
Chỉ tiêu
2008
2009
2010
Tiền gửi cá nhân
46,465
56,667
46,757
Biến động
-
10,202
-9,910
% biến động
-
21,96%
-17,49%
Nguồn: Bảng cân đối kế toán PGD Quận 2
Bảng 2.11 Biến động tiền gửi cá nhân theo loại nguyên tệ
Đơn vị: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
2008
2009
2010
ST
%
ST
%
ST
%
Tiền gửi của cá nhân
VND
Ngắn hạn
Trung và dài hạn
USD
Ngắn hạn
Trung và dài hạn
Vàng
Ngắn hạn
Trung và dài hạn
46,465
36,021
34,758
1,263
3,060
3,060
-
7,384
7,384
-
100
77,52
6.59
15.89
56,667
50,308
48,634
1,674
0,953
0,953
-
5,406
5,406
-
100
88,78
1,68
9,54
46,757
41,327
40,204
1,123
0,894
0,894
-
4,536
4,536
-
100
88,39
1,91
9,70
Nguồn: Bảng cân đối kế toán PGD Quận 2
Bảng 2.12 Biến động tiền gửi cá nhân theo loại kỳ hạn
Đơn vị: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
2008
2009
2010
ST
%
ST
%
ST
%
Tiền gửi của cá nhân
KKH và ngắn hạn
Trung và dài hạn
46,465
45,202
1,263
100
97,28
2,72
56,667
54,993
1,674
100
97,05
2,95
46,757
45,634
1,123
100
97,60
2,40
Nguồn: Bảng cân đối kế toán PGD Quận 2
Tiền gửi của cá nhân là lượng tiền nhàn rỗi của nhân dân gửi vào ngân hàng để hưởng lãi hoặc tiết kiệm cho chi tiêu trong tương lai. Tiền gửi của dân cư chủ yếu là tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn. Đây là nguồn vốn có tính ổn định cao nhất và luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn huy động và là nguồn vốn chủ yếu để ngân hàng thực hiên đầu tư.
Trong thời gian qua, Ngân hàng Nam Á và PGD Quận 2 luôn có những điều chỉnh lãi suất kịp thời, thực hiện nhiều chính sách khuyến khích tiền gửi, cải tiến quy trình gửi tiền … thu hút khách hàng gửi tiền tại ngân hàng và mang đến cho khách hàng nhứng lợi ích tối đa có thế. Kết quả là vốn huy động tiền gửi của cá nhân không ngừng tăng lên và chiếm tỷ trọng cao trong tổng nguồn vốn huy động.
Ngân hàng Nam Á tập trung mục tiêu và khách hàng cá nhân với việc đa dạng các sản phẩm tiền gửi, lãi suất huy động phù hợp, phục vụ khách hàng tận tình. Bên cạnh đó, sau khi tình hình tài chính năm 2008 dần dần ổn định, ngành ngân hàng đã ổn định trở lại. Từ 46,465 tỷ đồng năm 2008, đến năm 2009 lượng vốn huy động được từ cá nhân đã tăng vọt lên 56,667 tỷ đồng, tăng 21,96% so với năm 2008. Đến cuối năm 2010, lượng vốn huy động qua kênh này lại sụt giảm chỉ còn 46,757 tỷ đồng, giảm 17,49%. Đây là lượng vốn tương đối quan trọng cho việc hoạt động kinh doanh của PGD Quận 2 và của Ngân hàng Nam Á.
Năm 2009, nhằm chuẩn bị một lượng vốn dồi dào để đảm bảo đáp ứng nhu cầu vốn của các doanh nghiệp trong thời kỳ vực dậy nền kinh tế, Ngân hàng Nam Á – PGD Quận 2 luôn bám sát chính sách lãi suất của NHNN để có những điều chỉnh kịp thời trong hoạt động của mình. Thực tế cho thấy, năm 2009, lãi suất huy động vốn của Ngân hàng Nam Á luôn bám sát thị trường. Tháng 08/2009, lãi suất VND không kỳ hạn 4,02%/năm, lãi suất huy động VND các kỳ hạn đều 9%/năm, cao nhất là lãi suất huy động VND cho kỳ hạn 18 tháng 9,6%/năm không bao gồm khuyến mãi. Lãi suất huy động USD dao động ở mức 1%, vàng 3%/năm. Đến cuối năm 2009, lãi suất huy động VND quanh mốc 10,49%/năm cho các kỳ hạn.
Sang năm 2010, trong sáu tháng đầu năm, lượng vốn huy động được qua các khách hàng cá nhân vẫn ổn định, có phần tăng nhẹ nhờ chính sách lãi suất huy động cạnh tranh và chương trình “Tri ân khách hàng”. Nhưng diễn biến tình hình huy động vốn cuối năm trở nên phức tạp, đặc biệt là hai tháng cuối năm 2010. Thêm vào đó, từ khi Ngân hàng Nam Á mở PGD tại địa bàn quận 2 thì PGD quận 2 – Ngân hàng Nam Á được xem là một trong những ngân hàng có mặt đầu tiên tại khu vực này, nhưng đến khoảng cuối năm 2010, các NHTM khác tăng cường mở rộng phạm vi hoạt động tại quận 2. Tháng 10/2010, ước tính trong phạm vi bán kính 1 km có đến gần 10 điểm giao địch của các NHTM lớn nhỏ khác. Điều này ảnh hưởng lớn đến hiệu quả hoạt động huy động vốn qua khách hàng cá nhân của PGD quận 2. Lương vốn nhàn rỗi trong dân trên địa bàn bị xẻ nhỏ, hoạt động huy động trở nên khó khăn cùng với biến động lãi suất vào cuối năm khiến Ban lãnh đạo Ngân hàng Nam Á không kịp điều chỉnh. Cuối năm 2010, lượng vốn huy động được từ khách hàng cá nhân chỉ còn 46,757 tỷ đồng, giảm 17,49% so với năm 2009.
Kết cấu nguồn vốn theo loại tiền tệ.
Bảng 2.13 Kết cấu nguồn vốn huy động theo loại nguyên tệ
Đơn vị: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
2008
2009
2010
ST
%
ST
%
ST
%
Vốn huy động bằng VNĐ
Vốn huy động bằng USD
Vốn huy động bằng Vàng
48,025
3,060
7,384
82,14
5,23
12,63
62,764
0,953
5,406
90,80
1,38
7,82
53,283
0,894
4,536
90,75
1,52
7,73
Tổng
58,469
100
69,123
100
58,713
100
Nguồn: Bảng cân đối kế toán PGD Quận 2
Biểu đồ 2.4 Kết cấu nguồn vốn huy động theo nguyên tệ
Theo số liệu bảng và biểu đồ, nguồn vốn huy động động bằng VNĐ chiếm tỷ trọng cao hơn hẳn so với đồng USD. Điều này dễ hiểu, đó là do VNĐ là đồng nội tệ. Nguồn vốn huy động VNĐ lớn tạo điều kiện để nâng cao khả năng thanh toán, cho vay và các hoạt động ngân hàng khác. Lượng vốn huy động bằng VND năm 2009 đạt 62,764 tỷ đồng, tăng 30,69% so với năm 2008. Điều này có được nhờ chính sách lãi suất cạnh tranh, thu hút được lượng vốn mới và duy trì khách hàng cũ gửi tiền tại PGD quận 2. Thêm đó, ngay những lúc tình hình huy động trở nên căng thẳng thì các chương trình khuyến mãi và ưu đãi của Ngân hàng Nam Á đã phát huy tác dụng.
Sang đến năm 2010, tình hình cuối năm cực kỳ gây khó khăn cho Ngân hàng Nam Á. Từ sự kiện “3 ngày vàng” của Techcombank, nguồn vốn huy động VND trên địa bàn bị xáo trộn. Từ đó, việc thỏa thuận ngầm lãi suất với khách hàng huy động vượt mức 14%/năm so với cam kết được hình thành. Thêm nữa, đây cũng là thời điểm các NHTM khác mở rộng phạm vi kinh doanh trên địa bàn quận 2. Việc huy động vốn do áp lực lãi suất thỏa thuận tăng cao trở nên khó khăn; lại thêm nguồn vốn nhãn rỗi trong dân cư trên địa bàn bị xé nhỏ ra. Điều đó làm ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động huy động vốn của PGD quận 2. Cuối năm 2010, lượng vốn huy động VND chỉ đạt 53,283 tỷ đồng, giảm 15,11%.
Lượng vốn huy động bằng ngoại tệ khá thấp. Lượng vốn này chủ yếu là của các khách hàng cá nhân có nhu cầu dự trữ USD. Khách hàng là doanh nghiệp tại PGD quận 2 đều là các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, chủ yếu hoạt động lĩnh vực dịch vụ. Họ không có nhu cầu dự trữ USD. Từ đầu năm đến tháng 11/2009, tỷ giá VND/USD liên tục tăng cao trên cả thị trường liên ngân hàng và thị trường tự do. Cụ thể, từ tháng 1 đến tháng 3: tỷ giá liên ngân hàng dao động trong khoảng 17.450 - 17.700 đồng/USD, trên thị trường tự do cao hơn tỷ giá liên ngân hàng khoảng 100 đồng; từ tháng 4 đến tháng 9: tỷ giá trên 2 thị trường dao động trong khoảng 18.180 - 18.500 đồng/USD; từ tháng 10 đến 25/11/2009: biến động tỷ giá rất dữ dội từ 18.545 – 19.300đồng/USD, có lúc đạt đỉnh 20.000 đồng/USD. Các cá nhân có gửi tiền USD tại ngân hàng phản ứng rất nhạy với những biến động trên thị trường. Ngay khi có biến động tăng trong thời gian dài, các cá nhân này lập tức rút tiền khỏi ngân hàng, găm giữ chờ giá lên hay bán ra thị trường tự do nhằm hưởng lợi ích cao hơn khi gửi tiền tại ngân hàng hoặc bán ngoại tệ cho ngân hàng. Trong 11 tháng đầu năm 2009, lãi suất huy động USD chỉ ở quanh mốc 2%/năm. Ngày 15/12/2009, Thống đốc NHNN ký thông tư 25/2009/TT-NHNN về việc mở rộng các đối tượng được vay ngoại tê. Theo đó nhu cầu vốn ngoại tệ các NHTM mà đặc biệt là USD tăng cao. Lãi suất huy động USD tại các NHTM tăng liên tục. Đến cuối năm 2010, lãi suất huy động USD đã là quanh mốc 6%/năm. Thế nhưng, lượng vốn USD tại PGD quận 2 vẫn không nhiều biến động so với năm 2009.
Có thể nói, dự trữ tài sản bằng vàng đã là tập quán lâu đời người dân. Lượng vàng dự trữ trong dân rất lớn. Với lãi suất hấp dẫn, độ an toàn cao khi gửi tại ngân hàng, PGD quận 2 luôn cố gắng huy động tốt lượng vàng dự trữ của người dân trên địa bàn. Sau 1 năm hoạt động, lượng vốn huy động được bằng vàng năm 2008 tại PGD quận 2 đạt 416 lượng vàng, tương đương với 7,384 tỷ đồng. Đầu năm 2009, tỷ giá vàng dao động ở mức 18-19 triệu đồng/lượng nhưng đến cuối năm đã là 27-29 triệu đồng/lượng. Ảnh hưởng của giá vàng thế giới, tâm lý đám đông và cả đầu cơ đã làm tăng giá vàng nhanh chóng. Trước tình hình đó, người dân không còn giữ vàng tại ngân hàng. Sang năm 2010, tỷ giá vàng cũng biến động không ngừng theo giá vàng thế giới. Cũng năm nay, NHNN có nhiều biện pháp siết kinh doanh vàng. Trong đó, NHNN chủ trương đóng cửa các sàn vàng, thu hẹp hoạt động huy động và cho vay vàng theo thông tư 22/2010/TT-NHNN. Theo đó, các TCTD không được huy động vàng theo hình thức phát hành sổ tiết kiệm như trước mà thông qua phát hành giấy tờ có giá. Ngay lập tức PGD quận 2 – Ngân hàng Nam Á nhanh chóng tất toán các sổ tiết kiệm bằng vàng đã đáo hạn và phát hành chứng chỉ tiền gửi bằng vàng cho khách hàng. Nhờ thế PGD quận 2 đã đảm bảo được nguồn vốn huy động bằng vàng không biên động nhiều.
Kết cấu vốn huy động theo sản phẩm.
Hiện nay, PGD Quận 2 đang huy động vốn qua hai sản phẩm chủ yếu là sản phẩm tiền gửi và sản phẩm tiết kiệm. Với sản phẩm tiền gửi, PGD Quận 2 cung cấp các sản phẩm như: tiền ký quỹ, tiền gửi thanh toán, tiền gửi có kỳ hạn (đối với khách hàng là doanh nghiệp). Sản phẩm tiết kiệm gồm có nhiều sản phẩm theo nhu cầu khách hàng và có nhiều kỳ hạn, từ 1 tháng đến 36 tháng.
Bảng 2.14 Kết cấu nguồn vốn huy động theo sản phẩm
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
2008
2009
2010
ST
%
ST
%
ST
%
1. Sản phẩm tiền gửi
2. Sản phẩm tiết kiệm
12,358
46,111
21,14
78,96
12,856
56,267
18,60
91,40
12,236
46,477
20,84
79,16
Tổng
58,469
100
69,123
100
58,713
100
Nguồn: Bảng cân đối kế toán PGD Quận 2
Biểu đồ 2.5 Biến động kết cấu nguồn vốn theo kênh tiền gửi
Qua bảng 2.6 và biểu đồ 2.4, ta có thể nhận thấy nguồn vốn huy động tại PGD Quận 2 tập trung chủ yếu là qua sản phẩm tiền gửi tiết kiệm. Năm 2008, vốn huy động của sản phẩm tiền gửi đạt 46,111 đồng, chiếm tỷ trọng 78,96% trong tổng cơ cấu nguồn vốn huy động; còn sản phẩm tiền gửi chiếm tỷ trọng rất thấp, chỉ đạt 12,358 tỷ đồng, chiếm 21,14% tổng nguồn vốn huy động. Năm 2009, sản phẩm tiền gửi đạt 12,856 tỷ đồng, sản phẩm tiết kiệm đạt 56,267 tỷ đồng. Sang đến năm 2010, nguồn vốn huy động được từ sản phẩm tiết kiệm chỉ còn 46,477 tỷ đồng, sản phẩm tiền gửi đạt 12,236 tỷ đồng.
Dễ dàng nhận thấy rằng mặc dù vốn huy động qua sản phẩm tiền gửi biến động không nhiều qua các năm. Nguyên nhân là do sản phảm tiền gửi chỉ tập trung ở sản phẩm tiền gửi thanh toán. Loại tiền gửi này có số dư không lớn và thường phục vụ cho mục địch thanh toán nên số dư cũng không được duy trì ổn định. Thêm đó, số dư loại tài khoản này là của các tổ chức kinh tế, nhằm duy trì hoạt động thanh toán và số lượng các doanh nghiệp hiện có tại ngân hàng không nhiều. Số dư này có được cũng nhờ các tài khoản thanh toán cá nhân, số dư thẻ NamA Card, nhưng số lượng chủ thẻ cũng rất hạn chế. Đối với sản phẩm tiền gửi này, nếu ngân hàng có kế hoạch tăng lượng vốn và kế hoạch sử dụng nguồn vốn này hợp lý thì sẽ mang lại lợi nhuân mong muốn cho ngân hàng.
Khách hàng tại PGD Quận 2 phần lớn chọn sản phảm tiết kiệm. Bởi lẽ có tính an toàn cao hơn, tiền lãi nhận được cũng cao hơn. Số dư sản phẩm tiết kiệm này biến động rất nhạy với thị trường lãi suất. Biến động sản phẩm tiết kiệm luôn theo biến động của lãi suất huy động. Cụ thể, năm 2009, với lãi suất huy động luôn tối đa cho khách hàng cộng thêm các chương trình khuyến mãi hấp dẫn, lượng vốn huy động qua sản phẩm tiết kiệm đạt 56,267 tỷ đồng, tăng 22,03%. Sang năm 2010, tình hình diễn biến lãi suất huy động vào cuối năm phức tạp làm lượng vốn sụt giảm khá lớn, chỉ đạt 46,477 tỷ đồng, giảm 17,40% so với năm 2009. Điều này phần nào gây khó khăn cho hoạt động của ngân hàng năm 2011.
Với nguồn vốn này, ngân hàng sẽ phải chịu chi phí sử dụng vốn cao hơn. Do đó, ngân hàng cần có phương án sử dụng nguồn vốn này sao cho hiệu quả nhất nhằm bù dắp chi phí và mang lại lợi nhuận cho ngân hàng.
Kết cấu vốn huy động theo kỳ hạn tiền gửi.
Bảng 2.15 Kết cấu vốn huy động theo kỳ hạn tiền gửi
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
2008
2009
2010
ST
%
ST
%
ST
%
1. Không kỳ hạn và ngắn hạn
2. Trung và dài hạn
57,206
1,263
97,84
2,16
67,449
1,674
97,58
2,42
57,590
1,123
98,09
1,91
Tổng
58,469
100
69,123
100
58,713
100
Nguồn: Bảng cân đối kế toán PGD Quận 2
Biểu đồ 2.6 Biến động kết cấu vốn huy động theo kỳ hạn tiền gửi
Qua bảng và biểu đồ, ta nhận thấy rằng, nguồn vốn huy động tại PGD quận 2 – Ngân hàng Nam Á tập trung chủ yếu ở các sản phẩm không kỳ hạn và ngắn hạn, nguồn vốn huy động qua sản phẩm trung và dài hạn chiếm tỷ trong rất thấp. Cụ thể, nguồn vốn huy động không kỳ hạn và ngắn hạn (có kỳ hạn dưới 12 tháng) luôn chiếm tỷ trọng trên 97%, còn lại là nguồn vốn huy động trung và dài hạn. Việc mất cân đồi này có thể gây khó khăn cho hoạt động tín dụng của ngân hàng khi NHNN quy định chỉ được sử dụng 30% vốn ngắn hạn để cho vay các khoảng trung và dài hạn trong khi nhu cầu vay tập trung ở các kỳ hạn từ 12 tháng trở lên.
TÌNH HÌNH HUY ĐỘNG VỐN TẠI PGD QUẬN 2 TRONG 6 THÁNG ĐẦU NĂM 2011.
Bảng 2.16 Biến động vốn huy động PGD Quận 2 trong 6 tháng đầu năm 2011
Đơn vị: tỷ đồng
01/2011
02/2011
03/2011
04/2011
05/2011
06/2011
Tổng nguồn vốn huy động
57,948
58,718
58,354
58,550
58,127
59,570
Biến động nguồn vốn
-
0,770
-0,364
0,196
-0,423
1,443
% biến động
-
1,33
-0,62
0,33
-0,72
2,48
Nguồn: Bảng cân đối kế toán PGD Quận 2
Biểu đồ 2.7 Nguồn vốn huy động PGD Quận 2 qua 6 tháng đầu năm
Qua bảng và biểu đồ trên, ta nhận thấy rằng lượng vốn huy động được tại PGD quận 2 – Ngân hàng Nam Á không biến động nhiều so với năm 2008 và qua 6 tháng đầu năm 2010. Trong 6 tháng đầu năm 2011, lượng vốn huy động luôn duy trì ổn định quanh mức 58 tỷ đồng. Điều này cho thấy chính sách hợp lý của lãnh đạo ngân hàng trong thời gian qua khi tình hình ngân hàng trong nước có nhiều áp lực.
Trong quý I/2011, việc áp dụng trần lãi suất huy động VND 14%/năm bao gồm các khoản khuyến mãi … đã phần nào gây khó khăn cho hoạt động huy động vốn của các NHTM nhất là các NHTM nhỏ. Huy động vàng bị hạn chế, lãi suất huy động vàng giảm mạnh quanh mốc 1%/năm, rút bớt các kỳ hạn. Để đảm bảo tính thanh khoản và nhu cầu cho vay ngoại tệ tăng cao, các NHTM bắt đầu đua nhanh huy động vốn bằng USD. Lãi suất huy động USD tăng lên quanh mốc 5,5%/năm. Trong khoảng tháng 3/2011, trước chủ trương siết chặt hoạt động mua bán ngoại tệ trên thị trường tự do, nhiều cá nhân chọn NHTM để gửi ngoại tệ với mục đích an toàn. Cũng trong thời gian này, trần lãi suất huy động VND 14% được NHNN luật hóa. Nhưng trên thực tế, lãi suất huy động VND không nằm ở mức trần 14%. Các NHTM nhỏ không đủ nguồn vốn để đảm bảo tính thanh khoản nên từ cuối năm 2010, tình trạng thỏa thuận lãi suất ngầm với khách hàng diễn ra khá phổ biến. Việc này kéo theo cả hệ thống ngân hàng và Ngân hàng Nam Á cũng không tránh khỏi. Lãi suất thực tế thời gian này ở khoảng 17-18%/năm cho các số tiền gửi lớn, số dư càng lớn thì lãi suất càng cao hơn.
Trong thời này, PGD quận 2 và Ngân hàng Nam Á luôn cố gắng duy trì lượng vốn huy động và tăng cường huy động mới. Ngay từ tháng 01/2011, Ngân hàng Nam Á triển khai chương trình khuyến mãi “Đón xuân – Rước lộc” cho khách hàng gửi tiền tiết kiệm VND từ 5 triệu đồng trở lên, chương trình kéo dài đến gần cuối 04/2011. Chương trình này phần nào gây chú ý cho khách hàng và huy động được lượng vốn đáng kể tại PGD quận 2. Nhưng chương trình cũng gặp hạn chế cho tình trạng thỏa thuận lãi suất huy động ngầm cho khách hàng đang diễn ra nên kết quả chưa thật sự như mong đợi.
Sang quý II, NHNN ban hành thông tư 11/2011/TT-NHNN về chấm dứt huy động vàng và cho vay vốn bằng vàng của tổ chức tín dụng. Ngay lập tức, PGD quận 2 – Ngân hàng Nam Á chủ động liên hệ với khách hàng có chứng chỉ tiền gửi bằng vàng tại PGD đến nhận lại vàng và hướng dẫn, khuyến khích khách hàng bán vàng miếng và gửi tiết kiệm bằng VND với lãi suất tối ưu nhất. Nhờ đó, mặc dù lượng vàng huy động giảm mạnh nhưng tổng nguồn vốn huy động trong quý không biến động nhiều. Tiếp đó, trước tình hình lạm phát tăng cao, tính thanh khoản của hệ thống ngân hàng căng thẳng, NHNN lần lượt tăng lãi suất tái cấp vốn lên 13%/năm rồi lên 14%/năm, lãi suất chiết khấu 13%/năm. Lãi suất huy động trên thị trường 1 (huy động trong dân cư) dao động đến 20%/năm, lãi suất huy động trên thị trường liên ngân hàng dao động từ 19-21,5%/năm.
Ngân hàng Nam Á và PGD quận 2 luôn theo sát điều hành của NHNN và biến động thị trường. Nhờ đó đã có những thay đổi kịp thời đảm bảo được nguồn vốn huy động tại PGD quận 2 luôn trong khoảng 58 tỷ và đến tháng 06/2011 đạt trên 59 tỷ.
Bảng 2.17 Cơ cấu vốn huy động PGD Quận 2 trong 6 tháng đầu năm 2011
Đơn vị: tỷ đồng
01/2011
02/2011
03/2011
04/2011
05/2011
06/2011
Vàng
USD
VND
4,525
0,875
52,548
7,8
1,5
90,7
4,453
0,789
53,476
7,6
1,3
91,1
4,236
0,795
53,323
7,3
1,4
91,3
4,123
0,653
53,774
7,4
1,1
91,5
3,182
0,520
54,425
5,5
0,9
94,6
3,056
0,503
56,011
5,1
0,8
94,1
Tổng
57,948
100
58,718
100
58,354
100
58,550
100
58,127
100
59,570
100
Nguồn: Bảng cân đối kế toán PGD Quận 2
Số liệu bảng trên có thể cho thấy: cơ cấu vốn huy động tại PGD Quận 2 theo loại nguyên tệ quý I/2011 không có biến động lớn, nhưng sang quý II cơ cấu vốn huy động có sự thay đổi rõ rệt.
Trong quý I/2011, tỷ trọng lượng vốn huy động theo nguyên tệ luôn ổn định, biến động không nhiều. Tỷ trọng vốn huy động bằng vàng luôn dao động ở quanh mức 7,6%, bằng USD khoảng 1,3%, VND đạt khoảng 91%. Đến quý II/2011, NHNN có nhiều biện pháp hạn chế tình trạng đô la hóa, kiểm soát chặt chẽ thị trường vàng bằng các chính sách như: giảm lãi suất huy động USD tối đa xuống còn 2%/năm với cá nhân và 0,5%/năm đối với tổ chức kinh tế (áp dụng từ 01/06/2011), ngưng việc huy động tiền gửi và cho vay bằng vàng từ 01/05/2011. Trên thị trường, tỷ giá vàng và USD biến động không ngừng, tăng mạnh vào đầu quý II/2011 và giảm nhẹ vào cuối quý II. Lúc này, khách hàng có khuynh hướng rút tiền bằng USD và Vàng nhằm găm giữ và chờ tăng tỷ giá để kiếm lợi nhuận, một bộ phận khác thì chuyển sang VND để gửi lại vào NHTM nhằm hưởng lãi suất cao hơn…Điều này làm thay đổi tỷ trọng trong cơ cấu nguồn vốn huy động. Tỷ trọng vốn huy động bằng vàng cuối quý I đạt 7,3%, đến cuối quý II giảm còn 5,1%; tỷ trong vốn huy động bằng USD quý I đạt 1,4% nhưng đến quý II chỉ còn 0,8%; trong khi đó tỷ trọng vốn huy động bằng VND tăng cao, từ 91,3% cuối quý I lên thành 94,1% trong quý II.
ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH HUY ĐỘNG VỐN TẠI PGD QUẬN 2
Thành tựu đạt được.
Khủng hoảng tài chính ở Mỹ và các nước năm 2008, tình hình lạm phát cao đầu năm 2008, sự cạnh tranh với ngân hàng nước ngoài và liên doanh trong thời kỳ hội nhập gây khó khăn cho hoạt động ngân hàng trong nước. Thế nhưng, PGD Quận 2 trong năm 2008 vẫn đảm bảo nguồn vốn huy động thích hợp. Hơn thế, khi tình hình dần ổn định nhờ các chính sách đúng đắn và thích hợp của Chính Phủ và Ngân hàng Nhà Nước, PGD Quận 2 tiếp tục đẩy mạnh hoạt động huy động vốn và có hiệu quả. Bằng chứng, nguồn vốn huy động năm 2009 tăng mạnh so với năm 2008 (năm 2009, lượng vốn huy động đạt 69,123 tỷ đồng, tăng 18,22% so với năm 2008).
PGD Quận 2 và Ngân hàng Nam Á đã thành công trong việc nắm bắt lãi suất thị trường, linh hoạt lãi suất huy động trong khuôn khổ cho phép và các chương trình chăm sóc khách hàng nhằm giữ chân khách hàng, tạo khách hàng mới và cả phát triển quy mô tiền gửi của khách hàng cũ. Qua đó, PGD Quận 2 tạo tiền đề cho việc kinh doanh hiệu quả.
Ngân hàng Nam Á có chính sách lãi suất cạnh tranh, luôn mang đến cho khách hàng lợi ích tối đa nhất có thể. Nhờ đó, đã thu hút được lượng vốn huy động đáng kể trên địa bàn.
Đội ngũ cán bộ, nhân viên có chuyên môn, nhiều kinh nghiệm, thực hiện các nghiệp vụ nhanh chóng, tạo môi trường thân thiện, mang đến khách hàng những dịch vụ tốt nhất. PGD Quận 2 và Ngân hàng Nam Á luôn tích cực xây dựng môi trường làm việc văn minh, chuyên nghiệp và thân thiện. Điều này tạo cơ hội cho chính nhân viên Nam Á làm việc có hiệu quả. Điều này cũng ảnh hưởng trực tiếp đến với tâm lý khách hàng khi đến với ngân hàng.
Hạn chế và nguyên nhân.
Nguồn vốn huy động được tại PGD quận 2 chủ yếu từ các cá nhân và tổ chức kinh tế, đây là những khách hàng từ nhiều năm qua. Thực tế lượng khách hàng mới tăng không nhiều. Thêm vào đó, khách hàng là tổ chức kinh tế chưa được chú trọng khai thác hết tiềm lực.
Trong cơ cấu nguồn vốn huy động theo kỳ hạn, nguồn vốn huy động ngắn hạn chiếm tỷ trọng rất cao (luôn gần 98%). Việc giới hạn sử dụng nguồn vốn ngắn hạn để cho vay dài và trung hạn gây khó khăn cho hoạt động tín dụng và ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của ngân hàng. Thêm đó, nguồn vốn huy động không kỳ hạn qua tiền gửi thanh toán, tiền gửi không kỳ hạn chưa được chú trọng. Loại nguồn vốn huy động này có chi phí sử dụng vốn rất thấp nhưng số dư cũng lại không cao và không ổn định. Thế nhưng nếu ngân hàng có kế hoạch huy động và sử dụng hợp lý thì sẽ mang lại lợi nhuận lớn cho ngân hàng.
PGD Quận 2 hiện đang huy động vốn qua kênh tiền gửi của cá nhân và tổ chức kinh tế. Điều cần thiết là mở rộng thêm nhiều hình thức huy động nhằm đáp ứng nhu cầu của từng nhóm khách hàng tiềm năng. Các sản phẩm hiện có mà ngân hàng Nam Á và PGD Quận 2 cung cấp có đa dạng nhưng lại khá tương đồng với các sản phẩm của ngân hàng khác, chưa tạo được sản phẩm đặc trưng cho ngân hàng Nam Á.
Sản phẩm thẻ nội địa Nam Á Card đã được triển khai nhưng chưa thu hút số lượng chủ thẻ cao. Hơn nữa, hệ thông máy ATM của ngân hàng Nam Á còn hạn chế, tại quận 2 vẫn chưa thể lắp đặt máy rút tiền tự động để phục vụ cho khách hàng trên địa bàn.
Tại đại bàn Quận 2, Ngân hàng Nam Á chỉ có một điểm giao dịch duy nhất là PGD Quận 2. Đây là điểm bất lợi cho hoạt động của Ngân hàng Nam Á nếu muốn phát triển hình ảnh ngân hàng, mở rộng phạm vi hoạt động tại địa bàn quận 2 và các quận lân cận.
Hệ thống Ngân hàng Nam Á đã đưa vào sử dụng công nghệ, các chương trình hiện đại nhằm cải tiến chất lượng phục vụ khách hàng. Nhưng công nghệ không phải lúc nào cũng hoàn hảo. Những lúc có sự cố, gây khó khăn cho nhân viên ngân hàng và phiền toái cho khách hàng. Trên thực tế, mỗi một chương trình phần mềm được thiết kế thì phải cần nhiều thời gian để thử nghiệm và hoàn thiện nó.
Công tác PR, Marketing của Ngân hàng Nam Á nói chung vẫn chưa được đầu tư đúng mức. Dễ dàng nhận thấy, khi các chương trình khuyến mãi mới, các thông báo, ba-nô, áp-phích thường chỉ gói gọn trên website riêng của ngân hàng hay tại các chi nhánh, điểm giao dịch. Trên các website về tài chính, ngân hàng, các website quảng bá thì rất khó để tìm thấy thông tin về ngân hàng Nam Á và các sản phẩm, dịch vụ gia tăng của Nam Á. Bởi vậy, khả năng tiếp cận với các khách hàng tiềm năng và mức độ nhận diện thương hiệu không cao. Thêm vào đó, mặc dù vẫn có các chương trình khuyến mãi vào các dịp lễ tết, nhưng còn dè dặt và chưa ấn tượng.
Cơ hội.
Kinh tế - xã hội trên địa bàn quận 2 ngày càng phát triển. Đây là nơi tập trung nhiều khu đô thị, khu dân cư mới, các cao ốc văn phòng … Các công trình này đã và đang hoàn thiện và đưa vào hoạt động. Các cá nhân và các doanh nghiệp sẽ là những khách hàng tiềm năng của ngân hàng, tạo điều kiện gia tăng các sản phẩm dịch vụ vào thị trường, góp phần mở rộng thị phần trên địa bàn.
Hội nhập quốc tế mở ra cơ hội trao đổi, hợp tác quốc tế giữa các NHTM trong hoạt động kinh doanh tiền tệ, đề ra giải pháp tăng cường giám sát và phòng ngừa rủi ro, từ đó nâng cao uy tín và vị thế của hệ thống NHTMVN trong các giao dịch quốc tế. Đồng thời, các ngân hàng VN có điều kiện tranh thủ vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý và đào tạo đội ngũ cán bộ, phát huy lợi thế so sánh của mình để theo kịp yêu cầu cạnh tranh quốc tế và mở rộng thị trường ra nước ngoài.
Hơn nữa, việc mở cửa thị trường cho hàng hoá xuất khẩu VN cũng sẽ là một cơ hội tốt để các ngân hàng mở rộng kinh doanh. Các NHTM Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội kinh doanh hơn, có nhiều khách hàng hơn trong lĩnh vực xuất nhập khẩu.
Thách thức.
Hội nhập kinh tế quốc tế cũng mang lại không ít thách thức to lớn cho ngành ngân hàng. Các NHTM ngày càng chịu áp lực trong việc giữ và mở rộng thị phần của mình ngay trên lãnh thổ VN. Hiện nay, các NHTM phải chịu áp lực cạnh tranh gay gắt không chỉ bởi các NHTM nước ngoài mà còn phải chịu áp lực cạnh tranh với các tổ chức tài chính trung gian khác và các định chế tài chính khác như thị trường chứng khoán, cho thuê tài chính, bảo hiểm,vv.. Cùng với đó, việc phải loại bỏ dần những hạn chế đối với NHTM nước ngoài có nghĩa là các NHTM nước ngoài sẽ từng bước tham gia đầy đủ vào mọi lĩnh vực hoạt động ngân hàng tại Việt Nam.
Người dân còn giữ thói quen cất giữ tiền mặt, vàng hay các ngoại tệ khác. Thêm đó, sự tăng cao của giá vàng, tỷ giá USD thời gian qua và dự báo sẽ còn biến động trong thời gian tới sẽ ảnh hưởng không nhỏ đối với hoạt động huy động vốn tại NHTM. Các cá nhân sẽ chuyển tiền gửi trong ngân hàng sang năm giữ vàng hay ngoại tệ nhằm được lợi ích nhiều hơn khi có chênh lệch. Điều này phần nào gây khó khăn cho hoạt động huy động vốn.
Sự canh tranh gay gắt giữa các ngân hàng lớn nhỏ và các tổ chức tài chính khác trên địa bàn quận 2 ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động huy động vốn tại PGD Quận 2. Càng ngày càng có nhiều ngân hàng mở rộng phạm vi hoạt động. Sự cạnh tranh gay gắt cả về quy mô hoạt động, về sản phẩm cả lãi suất.
Ma trận SWOT cho hoạt động huy động vốn.
Điểm mạnh (S)
PGD quận 2 có lượng khách hàng thân thiết tương đối lớn trên địa bàn.
Lãi suất cạnh tranh
Đội ngũ nhân viên nhiệt tình, nhiều kinh nghiệm.
Điểm yếu (W)
Hạn chế về điểm GD trên địa bàn quận 2 và cơ sở hoạt động tại PGD quận 2.
Sản phẩm dịch vụ chưa có sự khác biệt lớn trên thị trường.
Dịch vụ thẻ chưa thật sự phát triển.
Chương trình quảng cáo, tuyên truyền chưa rộng khắp.
Cơ hội (O)
Kinh tế - xã hội trên địa bàn ngày càng phát triển
Hội nhập kinh tế quốc tế mang lại cho ngân hàng nhiều cơ hội, tiếp cận công nghệ hiện đại, mở rộng hợp tác, mở rộng khách hàng…
Kết hợp SO
Mở rộng khách hàng trên thị trường tiềm năng và củng cố lượng khách hàng hiện có.
Mở rộng hợp tác, liên kết … nâng cao năng lực tài chính.
Kết hợp WO
Củng cố cơ sở PGD và phạm vi hoạt động.
Đẩy mạnh hoạt động quảng bá ngân hàng, xây dựng và nâng cao hình ảnh thương hiệu ngân hàng Nam Á.
Thách thức (T)
Cạnh tranh gay gắt với các ngân hàng và TCTD trong và ngoài nước trong thời kì hội nhập.
Thói quen cất giữ tiền mặt trong dân cư vẫn còn tồn tại và biến động thị trường vàng và ngoại tệ.
Kết hợp ST
Phát triển sản phẩm hiện có và thêm nhiều sản phẩm mới, đa dạng, nhiều lợi ích.
Thực hiện chính sách chăm sóc khách hàng.
Chính sách lãi suất huy động phù hợp.
Kết hợp WT
Phát triển sản phẩm mới đa dạng và mang nhiều tính khác biệt.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Chuong II.doc