Tài liệu Đề tài Thực trạng đầu tư của Intel vào Việt Nam 2: 1
BÀI LUẬN
Đề Tài:
Thực trạng đầu tư của Intel
vào Việt Nam
GVHD: Phùng Nam Phương
SVTH: Nguyễn Thanh Thôi
2
MỤC LỤC
Lời mở đầu .......................................................................................................................
Chương 1 : .......................................................................................................................
Lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài ..................................................................
1.1.Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài .......................................................................
1.2.Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài ......................................................................
1.3.Phân loại đầu tư trực tiếp nước ngoài .........................................................................
1.4.Ưu & nhược điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài ....................................................
Chương 2 : ..................
43 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 2646 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Thực trạng đầu tư của Intel vào Việt Nam 2, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
BÀI LUẬN
Đề Tài:
Thực trạng đầu tư của Intel
vào Việt Nam
GVHD: Phùng Nam Phương
SVTH: Nguyễn Thanh Thôi
2
MỤC LỤC
Lời mở đầu .......................................................................................................................
Chương 1 : .......................................................................................................................
Lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài ..................................................................
1.1.Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài .......................................................................
1.2.Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài ......................................................................
1.3.Phân loại đầu tư trực tiếp nước ngoài .........................................................................
1.4.Ưu & nhược điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài ....................................................
Chương 2 : ........................................................................................................................
Tổng Quan Về Tập Đoàn Intel .........................................................................................
2.1.Tập đoàn Intel .............................................................................................................
2.2.Intel Việt Nam ............................................................................................................
2.3.Ngành nghề kinh doanh ..............................................................................................
2.4.Quá trình phát triển .....................................................................................................
2.5.Vị thế của tập đoàn Intel trên thế giới ........................................................................
Chương 3: .........................................................................................................................
Thực trạng đầu tư của Intel tại Việt Nam .........................................................................
3.1.Khái quát về môi trường đầu tư Việt Nam .................................................................
3.1.1.Vị trí địa lý ...............................................................................................................
3.1.2.Hệ thống chính trị ....................................................................................................
3.1.3.Tổng quan thị trường Việt Nam ..............................................................................
3.2.Tình hình đầu tư của tập đoàn Intel vào Việt Nam ....................................................
3.2.1.Tình hình đầu tư ......................................................................................................
3.2.2.Những chính sách kinh doanh tại Việt Nam ...........................................................
3.2.3.Thuận lợi và khó khăn khi đầu tư vào Việt Nam ....................................................
3.2.3.1.Thuận lợi ...............................................................................................................
3.2.3.2.Khó khăn ...............................................................................................................
3.3.Đánh giá hoạt động đầu tư của Intel vào Việt Nam
3.3.1.Ưu điểm
3.3.2.Nhược điểm
3
Kết luận .............................................................................................................................
Trích dẫn ...........................................................................................................................
Lời Mở Đầu :
Hiện nay,thế giới đang bước sang giai đoạn toàn cầu hóa mạnh mẽ, hội nhập sâu
và rộng. Những ảnh hưởng ngày càng lan rộng của các Công ty đa quốc gia cùng với
phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ đã thúc đẩy cả xã hội cùng chạy đua
trên con đường phát triển. Quá trình chuyên môn hóa, hợp tác hóa ngày càng được
chuyên sâu góp phần tăng tổng sản phẩm toàn xã hội. Để hội nhập với nền kinh tế thế
giới, chúng ta cũng phải có những sự chuyển mình để không bị gạt ra khỏi vòng quay
của sự phát triển. Trong bối cảnh đó, xu hướng mở cửa, hợp tác kinh tế với các nước
là một quan điểm nổi bật của chính phủ ta. Thể hiện điều này ngày 19/12/1987 Quốc
Hội ta đã thông qua luật đàu tư trực tiếp nước ngoài, cho phép các tổ chức, cá nhân là
người nước ngoài đầu tư vào Việt Nam.
Xét về tiêu chí phát triển năng động, Việt Nam là một trong 10 quốc gia dẫn đầu
thế giới. Vài năm trước, tăng trưởng GDP trung bình hàng năm của Việt Nam là 8%
(hiện là 6,8%). Tốc độ tăng trưởng cao là nhờ tiến trình công nghiệp hóa của đất nước
với điểm nhấn là các ngành sản xuất tiên tiến như điện tử, công nghệ sinh học…Ngoài
ra, một yếu tố không kém phần quan trọng để các nhà đầu tư chọn Việt Nam là sự ổn
định về chính trị và xã hội. Nếu thời kỳ đầu những năm 1990, tỷ lệ nghèo đói ở Việt
Nam chiếm 58% dân số, thì đến năm 2010, con số này chỉ còn 9,5%. Trong bảng xếp
hạng tín nhiệm của Viện Nghiên cứu độc lập Legatum có trụ sở ở Dubai, về mức
sống, năm 2011 Việt Nam xếp thứ 61 (tăng 16 bậc so với năm 2010).Việt Nam còn
hấp dẫn giới đầu tư bởi chính sách thuế ưu đãi và thị trường lao động dồi dào. Chuyên
viên Vladislav Belov thuộc Viện Nghiên cứu châu Âu (Viện Hàn lâm Khoa học Nga)
cho rằng Việt Nam không chỉ có lợi thế giá nhân công thấp mà còn có lao động chất
lượng cao.“Các nhà đầu tư châu Âu đều cho rằng Việt Nam có lực lượng lao động
mang tính sáng tạo cao hơn so với nhiều quốc gia trong khu vực. Theo nhiều chuyên
viên Đức, khi cộng tác với người Việt Nam, họ thường nảy sinh nhiều ý tưởng kinh
doanh mới mẻ. Trong khi đó, các cấp quản lý tại Việt Nam dành cho nhà đầu tư nước
4
ngoài ngày càng nhiều cơ hội, không chỉ với những cơ sở 100% vốn nước ngoài, mà
cả với những đơn vị liên doanh khác”, ông Belov nói.
Chính vì lý do trên,Tập đoàn Intel,một tập đoàn sản xuất chip hàng đầu của thế
giới,đã đầu tư vào Việt Nam với tổng vốn đầu tư lên đến 1 tỷ USD.Đây là tập đoàn
đầu tư với số vốn lớn nhất trong các doanh nghiệp Mỹ đầu tư vào Việt Nam từ trước
đến nay.
Cũng vì những lý do trên,tôi đã quyết định chọn đề tài “Thực trạng đầu tư của
Tập đoàn Intel vào Việt Nam” để tìm hiểu về tập đoàn Intel cũng như những khó
khăn,thuận lợi khi Intel đầu tư vào Việt Nam.
Kết cấu đề tài:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và mục lục, đề án
gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài
Chương 2: Tổng quan về Tập đoàn Intel
Chương 3: Thực trạng đầu tư của Intel tại Việt Nam
Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng do kiến thức còn hạn hẹp nên trong quá trình
tìm hiểu và nghiên cứu đề tài không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong nhận được
sự góp ý của các thầy cô để đề tài ngày một hoàn thiện hơn. Qua đây, tôi xin gửi lời
cảm ơn tới các thầy cô giáo trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng đã giảng dạy,
cung cấp cho tôi những kiến thức quý báu về kinh tế quốc tế, xã hội, đầu tư quốc tế,
tạo điều kiện thuận lợi để tôi có thể thực hiện đề tài. Đặc biệt tôi xin chân thành cảm
ơn cô Phùng Nam Phương, giảng viên Khoa Thương mại – Du lịch, thời gian qua đã
tận tình hướng dẫn, truyền đạt kinh nghiệm giúp cho tôi có thể hoàn thành tốt đề tài
này.
Xin chân thành cảm ơn !
Đà Nẵng, ngày 25 tháng 4 năm 2012.
5
Chương 1: Lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1.Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Theo quỹ tiền tệ quốc tế IMF, FDI được định nghĩa là “một khoản đầu tư với
những quan hệ lâu dài, theo đó một tổ chức trong một nền kinh thế (nhà đầu tư trực
tiếp) thu được lợi ích lâu dài từ một doanh nghiệp đặt tại một nền kinh tế khác. Mục
đích của nhà đầu tư trực tiếp là muốn có nhiều ảnh hưởng trong việc quản lý doanh
nghiệp đặt tại nền kinh tế khác đó.”
Hội nghị Liên Hợp Quốc về TM và Phát triển UNCTAD cũng đưa ra một khái
niệm về FDI. Theo đó, luồng vốn FDI bao gồm vốn được cung cấp (trực tiếp hoặc
thông qua các công ty liên quan khác) bởi nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài cho các
doanh nghiệp FDI, hoặc vốn mà nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài nhận được từ doanh
nghiệp FDI. FDI gồm có ba bộ phận: vốn cổ phần, thu nhập tái đầu tư và các khoản
vay trong nội bộ công ty.
Các nhà kinh tế quốc tế định nghĩa : đầu tư trực tiếp nước ngoài là người sở hữu tại
nước này mua hoặc kiểm soát một thực thể kinh tế của nước khác. Đó là một khoản
tiền mà nhà đầu tư trả cho một thực thể kinh tế của nước ngoài để có ảnh hưởng quyết
định đổi với thực thể kinh tế ấy hoặc tăng thêm quyền kiểm soát trong thực thể kinh tế
ấy.Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 đưa ra khái niệm: “Đầu tư trực tiếp
nước ngoài là việc tổ chức, cá nhân nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền nước
ngoài hoặc bất kì tài sản nào được chính phủ Việt Nam chấp thuận để hợp tác kinh
doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập xí nghiệp liên doanh hoặc doanh nghiệp
100% vốn nước ngoài theo quy định của luật này”.
Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) đưa ra khái niệm: “ một doanh
nghiệp đầu tư trực tiếp là một DN có tư cách pháp nhân hoặc không có tư cách pháp
nhân trong đó nhà đầu tư trực tiếp sở hữu ít nhất 10% cổ phiếu thường hoặc có quyền
biểu quyết. Điểm mấu chốt của đầu tư trực tiếp là chủ định thực hiện quyền kiểm soát
công ty”. Tuy nhiên không phải tất cả các quốc gia, đều sử dụng mức 10% làm mốc
xác định FDI. Trong thực tế có những trường hợp tỷ lệ sở hữu tài sản trong doanh
nghiệp của chủ đầu tư nhỏ hơn 10% nhưng họ vẫn được quyền điều hành quản lý
doanh nghiệp, trong khi nhiều lúc lớn hơn nhưng vẫn chỉ là người đầu tư gián tiếp.
6
Từ những khái niệm trên có thể hiểu một cách khái quát về đầu tư trực tiếp nước
ngoài như sau: “đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI tại một quốc gia là việc nhà đầu tư ở
một nươc khác đưa vốn bằng tiền hoặc bất kì tài sản nào vào quốc gia đó để có được
quyền sở hữu và quản lý hoặc quyền kiểm soát một thực thể kinh tế tại quốc gia đó,
với mục tiêu tối đa hoá lợi ích của mình”.
Tài sản trong khái niệm này, theo thông lệ quốc tế, có thể là tài sản hữu hình (máy
móc, thiết bị, quy trình công nghệ, bất động sản, các loại hợp đồng và giấy phép có
giá trị …), tài sản vô hình (quyền sở hữu tí tuệ, bí quyết và kinh nghiệm quản lý…)
hoặc tài sản tài chính (cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, giấy ghi nợ…). Như vậy FDI bao
giờ cũng là một dạng quan hệ kinh tế có nhân tố nước ngoài. Hai đặc điểm cơ bản của
FDI là: có sự dịch chuyển tư bản trong phạm vi quốc tế và chủ đầu tư (pháp nhân, thể
nhân) trực tiếp tham gia vào hoạt động sử dụng vốn và quản lí đối tượng đầu tư.
1.2.Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài.
1.2.1.Đối với nước chủ đầu tư
9 Giúp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư thông qua việc sử dụng những
lợi thế sản xuất của nơi tiếp nhận đầu tư, giúp hạ giá thành sản phẩm và nâng cao tỷ
suất lợi nhuận của vốn đầu tư.
9 Xây dựng thị trường cung cấp nguyên vật liệu ổn định với giá phải chăng,
ví dụ nhờ có đầu tư nước ngoài mà Mỹ nhập khẩu ổn định toàn bộ phốt phát, đồng,
thiết, ¾ quặng sắt , mangan v.v…
9 Bành trướng sức mạnh về kinh tế và nâng cao uy tín chính trị trên trường
quốc tế: thông qua việc xây dựng nhà máy sản xuất và thị trường tiêu thụ ở nước
ngoài, mà các nước xuất khẩu vốn mở rộng được thị trường tiêu thụ, tránh được hàng
rào bảo hộ mậu dịch của các nước.
9 Các công ty đa quốc gia và xuyên quốc gia lợi dụng cơ chế quản lý thuế ở
các nước khác nhau, mà tổ chức đầu tư ở nhiều nước khác nhau, qua đó thực hiện
“chuyển giá” nhằm trốn thuế, tăng lợi nhuận cho công ty.
9 Đầu tư vốn ra nước ngoài giúp các chủ vốn đầu tư phân tán rủi ro do tình
hình kinh tế-chính trị trong nước bất ổn định.Làn sóng đầu tư mạnh mẽ của nhà doanh
nghiệp Hongkong, Macao, Đài Loan sang các nước công nghiệp phát triển nhằm đề
7
phòng những thay đổi lớn về quản lý kinh doanh sau khi có sự cố sáp nhập của các
nước này vào Trung Quốc vào cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21.
9 Đầu tư ra nước ngoài sẽ giúp thay đổi cơ cấu nền kinh tế trong nước heo
hướng hiệu quả hơn, thích nghi hơn với sự phân công lao động khu vực và quốc tế
mới.Trong 20 năm 1975-1995 khi đồng Yên tăng giá và việc di chuyển sản xuất của
các công ty Nhật Bản ra nước ngoài đã tạo điều kiện tốt hơn cho việc liên kết theo
chiều ngang trong khu vực.Trong đó, các công ty mẹ ở Nhật Bản chỉ tập trung sản
xuất vào các mặt hàng cao cấp, những thiết bị cần thiết để cung cấp cho các chi nhánh
của họ ở khắp châu Á, và những khâu kĩ thuật cao đòi hỏi phải có sự nghiên cứu, còn
các chi nhánh và hợp doanh đang ngày càng được phát triển tại các nước trong khu
vực sẽ được hướng vào sản xuất các mặt hàng cần nhiều lao động, kỹ thuật ở trình độ
vừa và thấp, để thay thế cho hàng xuất khẩu từ Nhật Bản, phục vụ cho thị trường địa
phương, cung cấp lẫn nhau,xuất khẩu sang nước thứ ba và ngược trở lại Nhật Bản.
1.2.2.Đối với nước nhận đầu tư.
1.2.2.1.Đối với các nước phát triển
9 Giúp giải quyết những vấn đề khó khăn về kinh tế, xã hội trong nước như:
thất nghiệp, lạm phát v.v…
9 Việc mua lại những công ty, xí nghiệp có nguy cơ bị phá sản giúp cải thiện
tình hình thanh toán, tạo công ăn việc làm mới cho người lao động.
9 Tăng thu ngân sách dưới hình thức các loại thuế để cải thiện tình hình bội
chi ngân sách của nước sở tại.
9 Tạo ra môi trường cạnh tranh để thúc đẩy sự phát triển kinh tế và thương
mại của nước sở tại.
9 Giúp các nhà doanh nghiệp học hỏi kinh nghiệm quản lý tiên tiến của nước
đầu tư.
1.2.2.2.Đối với các nước chậm và đang phát triển
9 Đẩy mạnh tốc độ phát triển nền kinh tế thông qua việc tạo ra những xí
nghiệp mới hoặc tăng quy mô của các đơn vị kinh tế.
9 Thu hút thêm lao động giải quyết một phần thất nghiệp của các nước
này.Theo thống kê của Liên hiệp quốc, số người thất nghiệp và bán thất nghiệp của
các nước chậm và đang phát triển khoảng 35-38% tổng số lao động, cho nên hàng vạn
8
xí nghiệp có vốn FDI hoạt động tại các nước đang phát triển giúp các nước này giải
quyết một phần nạn thất nghiệp.Ví dụ như Trung Quốc tính đến tháng 9/2002 chỉ
riêng lĩnh vực đầu tư FDI nhà nước đã phê chuẩn hơn 414.000 dự án với tổng số vốn
đăng ký là 813,66 tỷ USD, trong đó vốn đầu tư đã thực hiện là 434,78 tỷ USD, giải
quyết việc làm cho hàng triệu lao động Trung Quốc.Hay ở Việt Nam kể từ khi có luật
đầu tư nước ngoài 12/1987 đến hết năm 2002 đã cấp giấy phép cho 4582 dự án với
tổng sô vốn đăng ký 50,3 tỷ USD, giải quyết công ăn việc làm cho gần 400.000 lao
động.
9 Các dự án FDI góp phần tạo ra môi trường cạnh tranh, là động lực kích
thích nền kinh tế tăng trưởng về lượng cũng như về chất.
9 Giúp các nước chậm phát triển giảm một phần nợ nước ngoài.Số nợ hiện
nay khoảng 1500 tỷ USD.
9 Ngoài ra thông qua tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài, các nước đang
phát triển có điều kiện tiếp nhận kỹ thuật, công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến
của nước ngoài.
1.3.Phân loại đầu tư trực tiếp nước ngoài.
1.3.1.Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh
1.3.1.1.Khái niệm:
Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản ký kết giữa 2 bên hoặc nhiều hoặc nhiều
bên để tiến hành đầu tư, kinh doanh ở Việt Nam, trong đó có quy định trách nhiệm và
phân chia kết quả kinh doanh ở Việt Nam, trong đó quy định trách nhiệm và phân chia
kết quả kinh doanh cho mỗi bên mà không thành lập pháp nhân mới.Các doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài được hợp tác với tổ chức, cá nhân nước ngoài để thực hiện
hợp đồng hợp tác kinh doanh.
1.3.1.2.Ưu điểm
9 Hình thức đầu tư theo hợp đồng BCC có thể giúp các nhà đầu tư tiết kiệm
rất nhiều thời gian, công sức cũng như tài chính trong việc thành lập pháp nhân mới
cũng như chi phí vận hành doanh nghiệp sau khi nó được thành lập, khi dự án đầu tư
kết thúc, các nhà đầu tư cũng không phải tiến hành thủ tục giải thể doanh nghiệp. Vì
vậy, hình thức này luôn là ưu tiên số một cho các dự án đầu tư các khu chung cư tại
các thành phố lớn vì khi dự án kết thúc, các bên phân chia xong lợi nhuận thì không
9
cần phải tính đến chuyện làm thủ tục giải thể doanh nghiệp nếu như các nhà đầu tư lựa
chọn hình thức đầu tư khác. Ngoài ra, trong các dự án đầu tư trên, khi các nhà đầu tư
đã lựa chọn hình thức đầu tư theo hợp đồng BCC thì ngay khi các khu chung cư hoàn
thành, các bên có thể ngay lập tức bán phần của mình như thỏa thuận phân chia mà
không phụ thuộc vào các đối tác còn lại.
9 Với hình thức đầu tư này, các bên có thể hỗ trợ lẫn nhau những thiếu sót,
yếu điểm của nhau trong quá trình sản xuất kinh doanh. Ví dụ như đối với những thị
trường đầu tư còn mới mẻ, nhà đầu tư nước ngoài sẽ dễ dàng tiếp cận thông qua
những đối tác trong nước am hiểu thị trường. Còn các nhà đầu tư trong nước thì có thể
được các đối tác nước ngoài hỗ trợ về vốn, nhân lực, công nghệ hiện đại. Như vậy, đối
với các nhà đầu tư có thể nói là “đôi bên cùng có lợi”
9 Trong quá trình thực hiện hợp đồng, nhà đầu tư nhân danh tư cách pháp lý
độc lập của mình để chủ động thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ. Do đó, nhà đầu
tư sẽ rất linh hoạt, độc lập, ít lệ thuộc vào đối tác khi quyết định các vấn đề của dự án
đầu tư. Nếu như đối với các hình thức đầu tư phải thành lập một pháp nhân mới, các
nhà đầu tư căn cứ trên phần vốn mà mỗi bên bỏ ra để lựa chọn một hoặc một nhóm
người đứng đầu, lãnh đạo công ty. Như vậy, những nhà đầu tư có nguồn vốn ít sẽ có ít
cơ hội được nắm quản lý, không chủ động trong việc cũng như với số vốn mà họ đã
bỏ ra, họ giống như một “chủ nợ” hơn là một nhà đầu tư. Nhưng đối với hình thức đầu
tư này, với cơ chế đàm phán để chia sẻ lợi ích cũng như nghĩa vụ trong hoạt động đầu
tư, các nhà đầu tư có thể linh hoạt trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của
mình như trong hợp đồng do không có sự ràng buộc về tổ chức bằng một pháp nhân
chung của các tổ chức, cá nhân có quan hệ đầu tư với nhau. Do đó, hình thức đầu tư
này đã góp phần đáp ứng tốt hơn yêu cầu và sự lựa chọn của nhiều nhà đầu tư khác
nhau.
1.3.1.3.Nhược điểm
9 Việc không thành lập pháp nhân mới như phân tích ở trên là một trong
những ưu điểm nổi bật nhưng nó cũng chính là mặt hạn chế của hình thức đầu tư này.
Chính vì không thành lập một doanh nghiệp mới, do đó dự án đầu tư sẽ gặp khó khăn
khi thực hiện các hợp đồng phục vụ cho hợp đồng hợp tác kinh doanh. Cũng chính vì
không có một doanh nghiệp liên doanh mới ra đời giữa các nhà đầu tư, do đó, sẽ
10
không có con dấu riêng, và đương nhiên, các nhà đầu tư sẽ phải thỏa thuận lựa chọn
một trong con dấu của các nhà đầu tư để phục vụ cho các hoạt động của dự án đầu tư.
Việc không phải thành lập pháp nhân mới trong nhiều trường hợp nếu các nhà đầu tư
không nghiên cứu kỹ, lựa chọn sai hình thức đầu tư thì nó lại trở thành một hạn chế rất
lớn, gây ra nhiều rủi ro mà các nhà đầu tư không lường trước được. Có thể xem trong
một ví dụ điển hình trong một dự án đầu tư kinh doanh trường đua ngựa giữa công ty
Thiên Mã và Câu lạc bộ Phú Thọ. Việc “mượn” pháp nhân trong dự án đầu tư này đã
gây ra không ít rắc rối cho các nhà đầu tư, nhất là trong việc đối ngoại, phân chia lợi
nhuận cũng như quyền quản lý công ty. Công ty Thiên Mã, người trực tiếp bỏ tiền ra,
thì cảm thấy bị trói buộc, không chủ động vì mọi việc đều phải thông qua con dấu của
đối tác. Ngược lại, Câu lạc bộ Phú Thọ thì mang nỗi lo về trách nhiệm của người trực
tiếp đóng con dấu. Đó là chưa kể đến trường hợp nếu do bất đồng mà một bên không
cho sử dụng con dấu như đã thỏa thuận thì điều gì sẽ xảy ra? Đương nhiên, dự án sẽ
phải dừng lại. Ngoài ra, nếu thành lập một pháp nhân mới thì quyền quản lý pháp
nhân mới đó sẽ được phân chia theo tỷ lệ số vốn góp do các nhà đầu tư bỏ ra. Nhưng
vì không có doanh nghiệp mới ra đời, do đó, quyền quản lý dự án đầu tư sẽ được chia
đều cho tất cả các nhà đầu tư, như vậy sẽ có lợi cho các nhà đầu tư bỏ ra ít vốn hơn
nhưng lại không công bằng với các nhà đầu tư bỏ nhiều vốn hơn.
9 Pháp luật chưa có các quy định cụ thể về trách nhiệm của các bên và bên
thứ ba khi một bên giao kết hợp đồng với bên thứ ba trong quá trình thực hiện hợp
đồng BCC. Đây cũng là một hạn chế cần phải chú ý tới nếu các bên lựa chọn hình
thức đầu tư này.
1.3.2.Doanh nghiệp liên doanh
1.3.2.1.Khái niệm:
Là hình thức đầu tư mà một doanh nghiệp mới được thành lập trên cơ sở góp vốn
của 2 hoặc nhiều hơn 2 bên Việt Nam và nước ngoài.
1.3.2.2.Ưu điểm
Doanh nghiệp liên doanh là hình thức doanh nghiệp thực sự đem lại nhiều lợi thế
cho cả nhà đầu tư Việt Nam và nhà đầu tư nước ngoài. Đối với các nhà đầu tư Việt
Nam, khi tham gia doanh nghiệp liên doanh, ngoài việc tượng phân chia lợi nhuận
theo tỷ lệ vốn góp, nhà đầu tư việt nam còn có điều kiện tiếp cận với công nghệ hiện
11
đại, phong cách và trình độ quản lý kinh tế tiên tiến. đối với bên nước ngoài, lợi thế
được hưởng là được đảm bảo khả năng thành công cao hơn do môi trường kinh doanh,
pháp lý hoàn toàn xa lạ nêu không có bên việt nam thì sẽ gặp rất nhiều khó khăn.
1.3.2.3.Nhược điểm
Hình thức doanh nghiệp liên doanh cũng có sự bất lợi là có sự ràng buộc chặt chẽ
trong một pháp nhân chung giữa các bên hoàn toàn khác nhau không chỉ về ngôn ngữ
mà còn về truyền thống, phong tục, tập quán, phong cách kinh doanh, do vậy có thể
phát sinh những mâu thuẫn không dễ gì giải quyết.
1.3.3.Hợp đồng xây dựng-kinh doanh-chuyển giao( BOT,BTO,BT)
1.3.3.1. Hợp đồng BOT
Là hình thức đâu tư liên kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư
để xây dựng, kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng trong một thời gian nhất định; hết
thời hạn, nhà đầu tư chuyển giao không bồi hoàn công trình đó cho Nhà nước Việt
Nam.
1.3.3.2.Hợp đồng BTO
Là hình thức đâu tư liên kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư
xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong nhà đầu tư chuyển giao
công trình đó cho Nhà nước Việt Nam, Chính phủ dành cho nhà đầu tư quyền kinh
doanh công trình đó trong một thời gian nhất định để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận.
1.3.3.3.Hợp đồng BT
Là hình thức đầu tư liên kết giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và Nhà đầu tư
để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong nhà đầu tư chuyển
giao công trình đó cho Nhà nước Việt Nam, Chính phủ tạo điều kiện cho nhà đầu tư
thực hiện một dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hoặc thanh toán cho nhà
đầu tư theo thỏa thuận trong hợp đồng BT.
1.3.3.4.Ưu nhược điểm của BOT,BTO,BT
a) Đối với nước nhận đầu tư.
9 Ưu điểm : Thu hút vốn đầu tư vào những dự án cơ sở hạ tầng đòi hỏi vốn
đầu tư lớn, do đó giảm được sức ép cho ngân hàng Nhà nước, đồng thời nhanh chóng
có được công trình kết cấu hạ tầng hoàn chỉnh giúp khơi dậy các nguồn lực trong
nước và thu hút thêm FDI để phát triển kinh tế.
12
9 Nhược điểm : khó tiếp nhận kinh nghiệm quản lý và khó kiểm soát công
trình.Mặt khác, nhà nước phải chịu mọi rủi ro ngoài khả năng kiểm soát của nhà đầu
tư.
b) Đối với nước chủ đầu tư.
9 Ưu điểm:Hiệu quả sử dụng vốn được bảo đảm; chủ động quản lý, điều hành
và tự chủ kinh doanh lợi nhuận, hông bị chia sẻ và được nhà nước sở tại đảm bảo,
tránh nhưng rủi ro bất thường ngoài khả năng kiểm soát.
9 Nhược điểm:việc đàm phán và thực thi hợp đồng BOT thường gặp nhiều
khó khăn tốn kém nhiều thời gian và công sức.
1.3.4.Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
1.3.4.1.Khái niệm
Là doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài,do nhà đầu tư nước
ngoài thành lập tại Việt Nam, tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh
doanh.Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài đã thành lập tại Việt Nam được
hợp tác với nhau hoặc với nhà đầu tư nước ngoài để thành lập doanh nghiệp 100% vốn
đầu tư nước ngoài mới tại Việt Nam.
1.3.4.2.Ưu điểm
a) Đối với nước chủ đầu tư : Chủ động trong quản lý điều hành doanh nghiệp thực
hiện được chiến lược toàn cầu của tập đoàn; triển khai nhanh dự án đầu tư; được
quyền chủ động tuyển chọn và đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển
chung của tập đoàn
b) Đối với nước tiếp nhận vốn đầu tư : Nhà nước thu được ngay tiền thuê đất, tiền
thuế mặc dù DN bị lỗ; giải quyết được công ăn việc làm mà không cần bỏ vốn đầu tư;
tập trung thu hút vốn và công nghệ của nước ngoài vào những lĩnh vực khuyến khích
xuất khẩu; tiếp cận được thị trường nước ngoài.
1.3.4.3.Nhược điểm:
c) Đối với nước chủ đầu tư: Chủ đầu tư phải chịu toàn bộ rủi ro trong đầu tư; phải
chi phí nhiều hơn cho nghiên cứu tiếp cận thị trường mới; không xâm nhập được vào
những lĩnh vực có nhiều lợi nhuận thị trường trong nước lớn, khó quan hệ với các cơ
quan quản lý Nhà nước nước sở tại.
13
d) Đối với nước tiếp nhận vốn đầu tư: Khó tiếp thu kinh nghiệm quản lý và công
nghệ nước ngoài đê nâng cao trình độ cán bộ quản lý, cán bộ kĩ thuật ở các doanh
nghiệp trong nước.
1.3.5.Mua cổ phần hoặc góp vốn để tham gia quản lý hoạt động đầu tư.
Đây là một hình thức đầu tư thường gặp trong thực tiễn hiện nay, nhất là khi các
nhà đầu tư nước ngoài không muốn vướn nhiều vào các quy trình, thủ tục thành lập
phứt tạp, và bên cạnh đó cũng hạn chế được những bỡ ngỡ khi tiếp cận một thị
trường.Đối với các doanh nghiệp Việt Nam, với đa phần thuộc thành phần doanh
nghiệp nhỏ lẻ, đây cũng là cơ hội cho việc mở rộng đầu tư kinh doanh và thiết lập một
vị trí vững chắc hơn với một nguồn vốn dồi dào từ các nhà đầu tư ngoài nước.Sự ra
đời của Luật đầu tư và Luật doanh nghiệp thống nhất với định hướng thiết lập sự bình
đẵng giữa các nhà đầu tư trong và ngoài nước đã là một động lực rất lớn cho các nhà
đầu tư nước ngoài gia nhập vào thị trường Việt Nam.Các doanh nghiệp Việt Nam ra
sức kêu gọi các nhà đầu tư nước ngoài tham gia góp vốn mở rộng sản xuất, tuy nhiên
thực tiễn áp dụng pháp Luật đầu tư và Luật doanh nghiệp làm phát sinh nhiều vấn đề
gây khó khăn và chậm trễ tiến trình trên.Cho đến nay vẫn chưa có một lý giải hợp lý
của nhà lập pháp, các cơ quan áp dụng pháp luật lung túng, không tự tìm được hướng
giải quyết.
1.3.6.Sáp nhập hay mua lại doanh nghiệp.
Sáp nhập được hiểu là việc kết hợp giữa hai hay nhiều công ty để ra đời một
pháp nhân mới. Ngược lại, mua bán là một công ty mua lại hoặc thôn tính một công ty
khác nhưng không ra đời pháp nhân mới. Mặc dù mua bán và sáp nhập thường được
đề cập cùng nhau với một thuật ngữ là M&A (Mergers and Acquisitions) nhưng vẫn
có sự khác biệt về bản chất. Khi một công ty mua lại hoặc thôn tính một công ty khác
và đặt mình vào vị trí chủ sở hữu mới thì thương vụ đó gọi là mua bán.
Dưới khía cạnh pháp lý, công ty bị mua lại không còn tồn tại, bên mua đã “nuốt
chửng”, bên bán và cổ phiếu của bên mua không bị ảnh hưởng. Quá trình sáp nhập
diễn ra khi hai doanh nghiệp (thường có cùng quy mô) hợp nhất lại thành một công ty
mới thay vì hoạt động và sở hữu riêng lẻ. Cổ phiếu của hai công ty sẽ ngừng giao dịch
và cổ phiếu của công ty mới sẽ phát hành. Một thương vụ mua bán cũng có thể được
gọi là sáp nhập khi cả hai bên quyết định liên kết vì lợi ích chung. Một thương vụ
14
được coi là mua bán hay sáp nhập phụ thuộc vào việc nó có được diễn ra một cách
“vui vẻ” giữa hai bên hay bị ép buộc, thâu tóm nhau.
Dựa vào cấu trúc của từng doanh nghiệp, có nhiều hình thức sáp nhập khác nhau:
sáp nhập ngang hay còn gọi là sáp nhập cùng ngành thường diễn ra với hai công ty
cùng cạnh tranh trực tiếp về sản phẩm và thị trường; sáp nhập dọc diễn ra với các
doanh nghiệp trong chuỗi cung ứng, chẳng hạn giữa một công ty với khách hàng hoặc
nhà cung cấp của họ; sáp nhập mở rộng thị trường diễn ra với hai công ty có cùng loại
sản phẩm, nhưng phân phối ở những thị trường khác nhau; sáp nhập mở rộng sản
phẩm diễn ra với hai công ty bán những sản phẩm khác nhau nhưng liên quan trong
cùng một thị trường; sáp nhập kiểu tập đoàn là hai công ty không có cùng lĩnh vực
kinh doanh, nhưng muốn đa dạng hóa hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh đa ngành
nghề...
1.4.Ưu nhược điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài:
1.4.1.Ưu điểm
1.4.1.1.Đối với nước chủ đầu tư:
9 Người chủ đầu tư có thể chủ động điều hành quản lý vốn đầu tư, vì thế đảm
bảo hiệu quả của vốn đầu tư cao.
9 Giữ vững và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, công nghệ và thị trường
cung cấp nguyên vật liệu.
9 Khai thác được lợi thế của nước tiếp nhận vốn đầu tư, tận dụng được công
nghệ cũ, kéo dài được vòng đời sản phẩm, học hỏi được công nghệ nước ngoài.
9 Tránh được các bất lợi khi hoạt động ở trong nước: như chi phí cao và gây ô
nhiễm môi trường.
9 Chủ động điều hành quản lý vốn, điều này giúp đảm bảo hiệu quả của vốn
đầu tư.
9 Tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch ngày càng tinh vi và xây dựng được
cơ sở kinh doanh tại các nước thực thi chính sách bảo hộ.
9 Thông qua các hoạt động đầu tư trực tiếp và nước sở tại sẽ giúp chủ đầu tư
tạo ảnh hưởng về mặt kinh tế, chính trị và các mặt khác ở nước sở tại.
1.4.1.2.Đối với nước tiếp nhận đầu tư.
15
9 Không hạn chế khả năng thu hút vốn từ các chủ đầu tư nước ngoài.Nhiều
nước thiếu vốn trầm trọng, nên đối với hình thức đầu tư trực tiếp không quy định mức
đóng góp tối đa của mỗi chủ đầu tư, thậm chí đóng góp vốn càng nhiều thì càng được
hưởng những ưu đãi về thuế của nước chủ nhà.
9 Thu hút và học hỏi được công nghệ tiên tiến, kỹ năng quản lý hiện đại cũng
như khả năng marketing hữu hiệu của nước ngoài.
9 Tạo điều kiện khai thác tốt nhất các lợi thế của mình là những nguồn lực phi
vốn ,nâng cao được thu nhập và chất lượng của người lao động.
9 Đầu tư trực tiếp nước ngoài với sự tham gia quản lý của chủ đầu tư nước
ngoài giúp sử dụng có hiệu quả vốn góp của chủ đầu tư trong nước tham gia liên
doanh hay hợp tác hợp doanh.
9 Không ảnh hưởng đến uy tín tín dụng của nước nhận đầu tư và ít ảnh hưởng
xáo trộn cho nền kinh tế tài chính của đất nước khi có biên động lớn.
1.4.2.Nhược điểm
1.4.2.1.Đối với nước chủ đầu tư.
9 Hình thức đầu tư này kém linh hoạt do đó dễ dẫn đến rủi ro mất vốn đầu tư,
do môi trường đầu tư của nước tiếp nhận vốn không ổn định.
9 Di chuyển các cơ sở sản xuất ra bên ngoài để đầu tư, gây nên tình trạng bất
ổn cho nền kinh tế xã hội nhất là nạn thất nghiệp…
9 Đầu tư trực tiếp có thể gây nên tình trạng lộ bí mật công nghệ.
1.4.2.2.Đối với nước tiếp nhận đầu tư.
9 Nếu quy hoạch đầu tư không hợp lý, dễ dẫn đến tình trạng tài nguyên thiên
nhiên bị bóc lột quá mức và gây ô nhiễm môi trường.
9 Nền kinh tế có sự tham gia của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài dẽ phát triển
theo chiều hướng phiến diện, mất cân đối.
9 Nền chính trị, xã hội, văn hóa…cũng bị những tác động tiêu cực như: sự
phân hóa giàu nghèo, sự di dân ồ ạt ra thành thị.
9 Có khả năng các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trở thành một lực
lượng thống trị nền kinh tế, gây mất tự chủ quốc gia.
16
Chương 2 : Tổng Quan Về Tập đoàn Intel
2.1.Tập đoàn Intel.
Tập đoàn Intel (Integrated Electronics) thành lập vào ngày 18/7/1968, lúc đó là tập
đoàn hợp nhất về thiết bị điện tử, sản xuất ờ Santa Clara, (California, USA) bởi nhà
hoá học kiêm vật lí học Gordon E.Moore và Robert Noyce, sau khi họ đã rời khỏi
công ty Fairchild Semiconductor.Khi đó Moore đã tuyên bố ‘Chúng ta là những nhà
cách mạng thực thụ’ nhưng phải mất đến 30 năm sau những lời nói của ông mới trở
thành sự thật. Intel Corporation là công ty sản xuất thiết bị chất bán dẫn lớn nhất thế
giới, và là nhà phát minh ra chuỗi vi mạch xử lý thế hệ x86 mà bộ xử lý tìm thấy ở các
máy tính cá nhân. Intel làm ra các sản phẩm motherboard chipsets (con chip mạch
chủ), network cards (Card mạng lưới) and ICs (mạch tổ hợp), flash memory (bộ nhớ
Flash), graphic chips (con chip đồ họa), embedded processors (bộ ghi xử lý), và các
thiết bị khác có liên quan đến tin học và sự truyền thông.
Lúc đầu Gordon Moore and Robert Noyce muốn đặt tên cho công ty là "Moore
Noyce". Tuy nhiên việc phát âm lại giống “more noise” và điều này không thích hợp
cho một công ty điện tử. Họ cho rằng tiếng ồn là đặc trưng cho sự giao thoa xấu. Và
họ đã sử dụng cái tên NM Electronics cho công ty đúng một năm trước khi quyết định
gọi tên công ty là INTegrated ELectronics or "Intel" là từ gọi tắt. Tuy nhiên tên “Intel”
đã là một tên thương mại của một chuỗi hệ thống khách sạn và họ đã mua lại trước khi
hoạt động.
Moore và Noyce bắt đầu tạo nên những bộ nhớ máy tính hiệu quả hơn dựa trên
công nghệ bán dẫn. Thiết bị bán dẫn 1103 được tung ra thị trường năm 1970 trở thành
thiết bị bán dẫn bán chạy nhất trên thế giới.
Tuy nhiên, cơ hội cho bước đột phá quan trọng nhất của họ là khi một công ty
Nhật có tên là Busicom đặt hàng thiết kế 12 con chíp dùng trong máy tính. Vào thời
đó, mỗi sản phẩm điện tử đòi hỏi phải có một con chíp riêng cho nó, nhưng vị kỹ sư
của Intel Ted Hoff nhận thấy rằng ông có thể tạo được một con chíp có khả năng thực
hiện những chức năng rất khác nhau – đó là bộ nhớ của những chiếc máy tính sau này.
Và phát minh của ông đã thành công. Intel nhận ra họ đã tạo ra một sản phẩm với
những ứng dụng có thể gọi là vô hạn. Tuy nhiên vấn đề là ở chỗ, theo như nguyên gốc
bản hợp đồng thì Busicom nắm trọn quyền sử dụng sản phẩm.
17
May thay, vào thời điểm đó, Busicom gặp phải khó khăn về tài chính. Vì vậy,
Moore và Noyce thương lượng mua lại quyền sử dụng con chip với giá chỉ 60 ngàn
USD. Thoạt đầu nó được coi như là một ‘microcomputer’. Intel cho ra đời bộ vi sử lý
đầu tiên của mình là 4004 vào năm 1971. Cũng trong thời điểm đó, công ty đưa ra bộ
vi xử lý 8008 và vài năm sau những lời tiên đoán của Moore đã trở thành hiện thực –
con chíp đã làm một cuộc cách mạnh hoá đối với những sản phẩm như máy đếm tiền,
đèn giao thông, máy bơm xăng, hệ thống đặt vé máy bay…- những sản phẩm có rất ít
ứng dụng thời đó . Ngay khi con chip được lắp đặt, Intel đã tạo ra những phiên bản
nhỏ hơn và mạnh hơn.
Đầu những năm 80, IBM bắt đầu thương lượng với Intel về việc sử dụng bộ xử lý
8088 cho một sản phẩm bí mật mới. Trước đó IBM chưa bao giờ sử dụng sản phẩm
của một công ty nào khác và những chi tiết vẫn được giữ bí mật. Chỉ đến khi hợp
đồng có hiệu lực Intel mới thực sự nhận ra rằng nó đã cung cấp bộ nhớ cho dòng máy
PC đầu tiên. Mặc dù vậy, lúc đó, không công ty nào hình dung được thị truờng máy
tính gia đình sẽ phát triển như thế nào.
Intel lại tiếp tục phát triển những bộ vi xử lý có chức năng cao hơn như bộ xử lý
Pentium® năm 1933 và bộ xử lý này trở nên nổi tiếng. Hiện nay, công ty đã đưa ra bộ
xử lý Pentium Extreme Edition 840 - bộ xử lý màn hình lõi kép đầu tiên trên thế giới.
Những bộ xử lý dual-core và multi-core được thiết bế bao gồm 2 hoặc nhiều lõi (có
thể thi hành lệnh một cách hoàn chỉnh) được gắn vào một bộ xử lý duy nhất có khả
năng thực hiện nhiều mệnh lệnh cùng một lúc. Khi nó được kết hợp với công nghệ
Hyper-Threading của Intel, thiết bị này tạo cho người sử dụng máy tính nhiều cơ hội
để sở hữu những sản phẩm audio, video, digital design và những trò chơi điện tử có độ
phân giải cao, âm thanh trung thực, hình ảnh 3-D.
Theo thống kê vào ngày 25/12/2010, Intel có 82500 nhân viên tại 199 văn phòng
và cơ sở sản xuất kinh doanh trên toàn cầu,trong đó 55% nhân viên làm việc tại Hoa
Kỳ. Năm 2005 doanh thu của Intel đạt hơn 38 tỷ USD, và Intel xếp thứ 50 trong các
công ty lớn nhất thế giới.Đến đầu thế kỷ 21,bộ vi xử lý của Intel đã được tìm thấy
trong hơn 80% máy tính trên toàn thế giới. Intel vẫn còn cạnh tranh thông qua một sự
kết hợp của tiếp thị thông minh, hỗ trợ nghiên cứu và phát triển, trình độ sản xuất cao,
18
một nền văn hóa quan trọng của công ty, trình độ pháp lý, và liên minh đang diễn ra
với Tổng công ty phần mềm khổng lồ Microsoft thường được gọi là 'Wintel.
Intel có khả năng sẽ vẫn là một trong những công ty điện tử hàng đầu cho một thời
gian khi họ tiếp tục phát triển bộ vi xử lý hiệu quả hơn và tiến một cách nhanh chóng
vào các lĩnh vực công nghệ khác.
2.2.Intel Việt Nam
Intel thành lập Văn Phòng đại diện tại Thành Phố Hồ Chí Minh vào năm 1997 và
Hà Nội vào năm 2008. Trong hơn 10 năm qua, Intel đã phối hợp với Chính phủ Việt
Nam (VN) tại trung ương và địa phương, cũng như các đối tác trong và ngoài nước
triển khai thành công nhiều dự án nhằm tăng cường ứng dụng Công nghệ Thông tin
(CNTT) trong mọi tầng lớp xã hội, góp phần xây dựng ngành CNTT trong nước vững
mạnh với các kế hoạch đầu tư vào hạ tầng cơ sở CNTT, và cải cách giáo dục.
Về vấn đề chuẩn bị nguồn nhân lực, Intel đang làm việc với Bộ Giáo Dục và Đào
Tạo cũng như nhiều trường đại học lớn để cải tiến chất lượng chương trình giảng dạy
tại các trường đại học kỹ thuật. Các chương trình hợp tác của Intel bao gồm hỗ trợ
giảng viên, chương trình học bổng cho sinh viên, hỗ trợ trang thiết bị. Hiện đang có 54
sinh viên theo học tại ĐH Kỹ thuật Portland, Hoa Kỳ theo học bổng Intel và rất nhiều
học bổng cho SV trong nước hoàn tất bậc Cử nhân và Thạc sỹ.
29/10/2010, Intel chính thức khai trương nhà máy kiểm tra và đóng gói chip tại
Việt Nam. Địa điểm đặt nhà máy tại Lô I.2, đường D1, khu công nghệ cao Q.9,
TP.HCM. Đây là nhà máy lắp ráp và kiểm định chip mới nhất và lớn nhất trong mạng
lưới sản xuất của Intel trên toàn thế giới. Theo thông tin được biết, sự kiện sẽ chỉ diễn
ra trong khán phòng có sức chứa khoảng 600 người và không được phép tham quan
nhà máy…
Dự án được khởi công vào tháng 1 năm 2006 với mức đầu tư khởi điểm 300 triệu
USD. Tháng 11 năm 2006, Intel công bố tăng quy mô nhà máy lắp ráp và kiểm định
chip từ 14,000 mét vuông lên 46,000 mét vuông, đồng thời nâng tổng mức đầu tư lên
1 tỷ USD.
Nhà máy chính thức khởi công xây dựng từ tháng 3 năm 2007. Khuôn viên nhà
máy bao gồm một tòa nhà văn phòng, một tòa nhà dành cho các dịch vụ công cộng,
một nhà kho chứa nguyên vật liệu thô và các sản phẩm đã hoàn thiện, một trạm phân
19
phối điện, một kho chứa hóa chất và một nhà máy lắp ráp, kiểm định chip. Một số
thông tin thú vị khác:
Diện tích sản xuất rộng 46,000 mét vuông, nhà máy Intel có diện tích lớn gấp 5.5
lần sân bóng đá.
Vào thời điểm xây dựng cao độ, có tới hơn 2,300 công nhân xây dựng làm việc tại
công trình
Tòa nhà văn phòng rộng 24,000 mét vuông và nhà kho tích hợp rộng 7,000 mét
vuông cũng được hoàn thành vào tháng 6 năm 2009. Tiếp sau đó, nhà máy rộng
46,000 mét vuông cũng được hoàn thiện và bắt đầu tiến hành lắp đặt công cụ sản xuất
từ tháng 12 năm 2009.
Đại diện của Intel cho hay, cho tới thời điểm này, nhiều công đoạn để đưa nhà máy
sản xuất chip với số vốn đầu tư lên tới 1 tỷ USD của Intel tại Việt Nam đã được hoàn
thành đúng tiến độ.
Sẽ chính thức đi vào sản xuất vào tháng 7/2010, sản phẩm đầu tiên mà Intel cho
“ra lò” ở nhà máy Việt Nam là con chip. Tuy nhiên, nếu như ban đầu, nhà máy Intel ở
Việt Nam được dự kiến chỉ sản xuất con chip thì nay đã có sự thay đổi. Tương lai, nhà
máy này sẽ sản xuất cả bộ vi xử lý dành cho các thiết bị di động.
Hiện giờ nhà máy của Intel đã có khoảng
300 nhân viên trong đó 130 nhân viên đang
được đưa đi đào tạo tại Malaysia, 18 sinh
viên năm thứ 3 thuộc 5 trường Đại học kỹ
thuật lớn của Việt Nam đang được Intel đưa
đi đào tạo tại Mỹ.
Đến tháng 7/2010, khi nhà máy chính
thức đi vào hoạt động sẽ cần thêm 150 nhân
viên kỹ thuật và kỹ sư nữa. Đại diện của
Intel cho hay, con số nhân lực này hoàn toàn
nằm trong khả năng đạt được của Intel. Đặc
biệt, nhà máy của Intel tại Việt Nam sẽ nhận
vào 70% là các sinh viên vừa tốt nghiệp Đại
học, chỉ có 30% các vị trí cần người đã có
Rất có thể không lâu nữa nhà máy
của Intel ở Việt Nam cũng sẽ sản xuất
được bộ vi xử lý Intel Core i7 và Ibex
Peak chipset - một trong những thành
tựu được Phó Chủ tịch cấp cao của Intel
giới thiệu.
20
kinh nghiệm làm việc thực tế.
Công suất dự kiến của nhà máy Intel Việt Nam là 820 triệu sản phẩm/năm. Để
hoạt động hết công suất, nhà máy của Intel tại Việt Nam sẽ phải mất tới 3-5 năm. Khi
đó, doanh thu đem về cho Intel từ các sản phẩm của nhà máy sẽ lên tới 5 đến 15 tỷ
USD.
Một năm nhìn lại, có thể nói, 2009 là năm Intel toàn cầu đã đạt được những thành
tựu đáng kể. Với lĩnh vực di động, Intel đã ra mắt bộ vi xử lý di động Intel Core i7 và
Intel Core i7 Extreme Edition mang tính cách mạng của mình, đưa vi kiến trúc
Nehalem siêu nhanh và nổi tiếng của mình tới thị trường di động. Những bộ vi xử lý
này đã chứng minh hiệu quả tốt nhất khi chơi game, nội dung đa phương tiện kỹ thuật
số, hình ảnh, âm nhạc, các ứng dụng doanh nghiệp cùng các phần mềm đa luồng
khác…
Cũng trong lĩnh vực di động, Intel đã giới thiệu 4 bộ vi xử lý mới, trong đó có một
phiên bản tiêu thụ điện năng thấp cùng một chipset phổ thông, nhằm thúc đẩy các
laptop “siêu mỏng” phổ thông. Những bộ vi xử lý điện áp cực thấp của Intel sẽ cho
phép tạo ra những thiết kế laptop bóng bẩy mới dành cho người tiêu dùng phổ thông
có độ dày chưa đến 1 inch (2,54cm) và trọng lượng từ 2 pound (0,908kg) đến 5 pound
(2,27kg) với các mức giá phổ thông. Những bộ vi xử lý này còn tiêu thụ ít điện năng
hơn giúp kéo dài thời gian hoạt động của pin, mang lại những trải nghiệm mà người
tiêu dùng mong đợi từ những laptop sử dụng nền tảng Intel.
Trong lĩnh vực máy chủ, có thể kể tới thành tựu nổi bật của Intel là khi đã tạo ra
những đột phá với các bộ vi xử lý máy chủ. Intel đã giới thiệu tới 17 bộ vi xử lý cấp
độ doanh nghiệp mới, dẫn đầu là các bộ vi xử lý Intel Xeon dòng 5500. Đây là những
bộ vi xử lý mang tính cách mạng cao nhất của Intel kể từ khi Intel giới thiệu ra thị
trườngcác bộ vi xử lý Intel Pentium Pro gần 15 năm trước.
Với máy tính để bàn, năm 2009, Intel đã giới thiệu những bộ vi xử lý Intel Core i7
và Intel Core i5 - vi kiến trúc Nehalem mới nhất đã được mở rộng tới thị trường máy
tính để bàn phổ thông và mảng thị trường máy chủ sơ cấp…
Ngoài ra, Intel cũng đã đạt được những thành tựu đáng kể trong lĩnh vực Wimax,
cải tiến trong sản xuất, các sản phẩm nhúng và điện tử tiêu dùng cũng như trách nhiệm
của doanh nghiệp đối với xã hội và tiếp thị.
21
Bên cạnh những nỗ lực trong việc xây dựng hạ tầng công nghệ, Intel còn là một
nhà tư vấn tin cậy cho Việt Nam nhằm hứớng tới mục tiêu dài hạn về phát triển cơ sở
hạ tầng công nghệ thông tin và viễn thông, nâng cao trình độ về công nghệ số, và ứng
dụng công nghệ.
Intel Việt Nam cũng rất tích cực trong các chương trình cộng đồng; chương trình
trao tặng mũ bảo hiểm cho học sinh Quận 9 - TP.HCM, chương trình cố vấn học
đường (Mentoring programs - dạy tiếng Anh và vi tính cho học sinh), trao tặng phòng
lab tin học, học bổng cho sinh viên, học sinh nghèo hiếu học trên địa bàn quận đang
học tại các trường trung học, cao đẳng và đại học.
Nhà máy Intel Việt Nam đã và đang tuyển dụng các giám sát sản xuất, kỹ sư và kỹ
thuật viên sản xuất (thuộc các ngành Điện - Điện tử, Cơ khí, Cơ điện tử) với số lượng
lớn nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của nhà máy. Hai vị trí hiện nay đang được Intel
ưu tiên tuyển dụng là “Giám sát sản xuất” (dành cho các ứng viên có kinh nghiệm) và
“Kỹ thuật viên sản xuất” (dành cho sinh viên mới tốt nghiệp). Để tìm hiểu chi tiết về
hai vị trí này cũng như các vị trí tuyển dụng khác tại Intel, các ứng viên quan tâm có
thể truy cập vào website chính thức của công ty www.intel.com/jobs/vietnam, chọn
“View all jobs in Vietnam”. Ứng viên cũng có thể nộp hồ sơ trực tuyến ngay tại
website trên bằng cách chọn “Apply online” ngay tại vị trí công việc mình quan tâm.
2.3.Quá trình phát triển
2.3.1.Giai đoạn 1968-1979: Từ DRAM đến 8086
Intel có hai người đồng sáng lập, Robert Noyce và Gordon Moore, một trong tám
nhà sáng lập của tập đoàn Fairchild Semiconductor, được thành lập vào năm
1957. Trong khi tại Fairchild, Noyce và Moore đã phát minh ra mạch tích hợp, năm
1968, họ đã quyết định thành lập công ty riêng của họ. Để bắt đầu tăng vốn, Noyce và
Moore đã mời Arthur Rock cùng tham gia, một nhà đầu tư mạo hiểm, với một kế
hoạch kinh doanh cụ thể và nêu rõ ý định phát triển mạch tích hợp quy mô lớn. Rock
đã cung cấp 3 triệu USD vốn. Công ty được thành lập vào ngày 18 tháng 7 năm 1968,
NM Electronics (các chữ cái đứng cho Moore Noyce), nhưng nhanh chóng thay đổi
thành Intel, được hình thành từ các âm tiết đầu tiên của "điện tử tích hợp." Intel thu
thập thêm hai triệu USD vốn trước khi đi phát hành cổ phiếu vào năm 1971.
22
Vào thời điểm đó, bộ nhớ làm bằng chất bán dẫn đắt hơn mười lần so với những
bộ nhớ làm theo tiêu chuẩn cốt lõi. Các chi phí được giảm xuống, tuy nhiên, người
sáng lập của Intel cảm thấy rằng với tốc độ lớn hơn và hiệu quả của công nghệ LSI,
chất bán dẫn sẽ sớm thay thế các lõi từ.Trong vòng một vài tháng khởi động chương
trình, Intel đã sản xuất bộ nhớ 3101 Schottky lưỡng cực, một con chip tốc độ cao
với bộ nhớ truy cập ngẫu nhiên (RAM). 3101 đã chứng minh phổ biến,một chip bán
dẫn oxit kim loại(MOS), đã được hoàn thiện và giới thiệu vào năm 1969. Năm sau,
Intel giới thiệu loại 1103, một Kilobyte (K) RAM, hoặc DRAM, là chip đầu tiên đủ
lớn để lưu trữ một số lượng đáng kể thông tin. Với 1103, Intel cuối cùng đã có một
con chip mà thực sự đã bắt đầu thay thế các lõi từ DRAM cuối cùng đã chứng
minh không thể thiếu cho máy tính cá nhân.
Mặc dù Intel ban đầu tập trung vào bộ vi xử lý như một phụ kiện máy tính sẽ cho
phép người dùng thêm nhiều bộ nhớ hơn cho các đơn vị của họ, các bộ vi xử lý có
tiềm năng lớn cho tất cả mọi thứ từ máy tính để tính tiền và đèn giao thông . Các ứng
dụng được tạo điều kiện bằng cách Intel đã cho ra đời chip 8008, một bộ vi xử lý 8-bit
phát triển cùng với là chip 4004 nhưng hướng tới dữ liệu.Chip 8080, được giới thiệu
vào năm 1974. Với 360 USD, Intel đã bán toàn bộ máy tính trên một chip, trong khi
máy tính thông thường được bán với giá hàng ngàn đô la. Câu trả lời là áp
đảo.Chip 8080 nhanh chóng trở thành tiêu chuẩn công nghiệp và Intel dẫn đầu ngành
công nghiệp trong thị trường 8-bit
Để cạnh tranh trong sản xuất bộ vi xử lý 8-bit, Intel đã giới thiệu chip 8085, một
con chip nhanh hơn với nhiều chức năng hơn. Công ty cũng đang phát triển hai dự án
nâng cao hơn, chip 4032 loại 32-bit và chip 8086 loại 16 bit.Chip 8086 đã được giới
thiệu vào năm 1978 nhưng đã mất hai năm để được sử dụng rộng rãi, và trong thời
gian này, Motorola sản xuất chip cạnh tranh (68000) dường như được bán nhanh
hơn. Intel phản ứng với một nỗ lực bán hàng lớn để thiết lập kiến trúc của nó như là
tiêu chuẩn.Khi Tổng công ty International Business Machines (IBM) đã chọn 8008,
người anh em họ 8-bit 8086, Intel dường như đã đánh bại các đối thủ cạnh tranh.
2.3.2. Giai đoạn những Năm 1980: Từ chip 286 đến chip 486
Công ty tiếp tục vượt trội trong thị trường bộ vi xử lý.Năm 1982, Intel đã giới
thiệu bộ chip xử lý 80.286.Và con chip này đã nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường máy
23
tính , khi IBM cho ra đời 286-powered PC / AT. Chip 80.286 đã rớt hạng vào năm
1985 ,bởi chip Intel 80.386, phổ biến rộng rãi vào năm 1987 bởi các Compaq Deskpro
386, trong đó, mặc dù có nhiều lỗi khi nó lần đầu tiên xuất hiện,nhưng nó vẫn trở
thành một trong những chip phổ biến nhất trên thị trường. Trong khi chip 286 mang
lại cho máy tính cá nhân tốc độ và sức mạnh cho máy tính lớn hơn sản phẩm đầu tiên,
chip 386 cung cấp tốc độ và sức mạnh lớn hơn cùng với khả năng chạy nhiều chương
trình tại một thời điểm.Chip 386 đặc trưng kiến trúc 32-bit và 275.000 bóng bán dẫn -
nhiều hơn gấp đôi số 286.
Năm 1989 Intel giới thiệu chip 80.486.Chip 80486 bao gồm 1,2 triệu bóng bán dẫn
và coprocessor, và nhanh hơn 50 lần so với chip 4004, bộ vi xử lý đầu tiên.Trong thiết
kế của i486, Intel phản đối một xu hướng ngành công nghiệp hướng tới RISC (giảm
hướng dẫn thiết lập máy tính), một thiết kế chip loại bỏ các hướng dẫn ít được sử
dụng để đạt được tốc độ. Intel lập luận rằng những gì có RISC chip tăng tốc độ, họ bị
mất trong tính linh hoạt và, hơn nữa, chip RISC là không tương thích với phần mềm
đã có trên thị trường, Intel cảm thấy sẽ đảm bảo vị trí của chip 486. Một chip mới,
i860 64-bit được công bố vào đầu năm 1989, tuy nhiên, đã làm cho việc sử dụng công
nghệ RISC để cung cấp những gì Intel tuyên bố sẽ là một "siêu máy tính trên một con
chip.
2.3.3.Giai đoạn Những năm 1990: Thập kỷ Pentium
Năm 1993, Intel phát hành bộ xử lý Pentium thế hệ thứ năm của nó, một con chip
có khả năng thực hiện hơn 100 triệu lệnh trong một giây (MIPS) và hỗ trợ đăng ký
nhãn hiệu.Ví dụ, video thời gian thực thông tin liên lạc. Bộ xử lý Pentium, với 3,1
triệu bóng bán dẫn của nó, là đến năm lần mạnh hơn so với bộ vi xử lý 33-MHz Intel
486 DX (1.500 lần tốc độ là 4004), nhưng công ty đề nghị rằng ' tất cả mọi người nên
sử dụng các máy tính được hỗ trợ bởi chip trước đó. Danh tiếng của Pentium bước đầu
đã bị giảm bởi một lỗ hổng toán học nhúng, nhưng Intel đã nhanh chóng khắc phục
vấn đề.
Các công ty được hưởng một sự gia tăng doanh thu ấn tượng 50% vào năm 1993,
đạt 8,78 tỷ USD từ 5,84 tỷ USD vào năm 1992. Hơn nữa, thu nhập ròng của Intel tăng
vọt 115% lên $ 2,3 tỷ USD, khước từ những lo lắng của Wall Street rằng sự cạnh
tranh đã vắt lợi nhuận. Trong khi Intel phải đối mặt với cạnh tranh mạnh mẽ từ các
24
nhà sản xuất chip khổng lồ Motorola, Inc. PowerPC và cựu đối tác IBM, vị trí của nó
ở hàng đầu của ngành công nghệ là không thể tranh cãi. Với sự ra đời của Pentium,
Intel bắt đầu thiết kế các chipset và bo mạch chủ - sau này là mạch máy tính bảng kết
hợp một bộ vi xử lý và chipset vào các hệ thống phụ cơ bản của một máy tính. Cùng
với các công ty kinh doanh máy tính thân thiết , hàng chục nhà sản xuất máy tính bắt
đầu làm và bán các máy tính sử dụng chip Pentium.
Năm 1995, Pentium Pro tung ra thị trường 5,5 triệu bóng bán dẫn và có khả năng
thực hiện lên đến 300 MIPS. Intel tiếp tục sử dụng công nghệ MMX cho dòng hiện có
của các bộ vi xử lý Pentium. MMX bao gồm một tập hợp mới các hướng dẫn được
thiết kế đặc biệt để cải thiện hiệu năng đa phương tiện của máy tính cá nhân.Thúc đẩy
bởi sự bùng nổ nhu cầu, doanh thu đạt 20,85 tỷ USD năm 1996, trong khi thu nhập
ròng đã tăng lên 5,16 tỷ USD.
Với sự ra đời của Pentium II tháng 5 năm 1997, tuy nhiên, công ty đã thông qua
một chiến lược mới phát triển một loạt các bộ vi xử lý cho mọi phân khúc của thị
trường máy tính. Pentium II, với 7,5 bóng bán dẫn, ra mắt với một mô hình đầu cuối
có tốc độ ở 300 MHZ. Ban đầu được thiết kế cho các máy tính để bàn cao cấp,
Pentium II được sớm điều chỉnh phù hợp để sử dụng trong máy tính xách tay và máy
tính xách tay. Với năm sau sự ra mắt của bộ vi xử lý Celeron, được thiết kế đặc biệt
cho lĩnh vực giá trị các máy tính để bàn máy tính, một phân khúc phát triển nhanh
chóng của thị trường kể từ khi ra mắt năm 1997 đầu của một máy tính phụ $ 1,000 từ
Compaq.
Cũng trong năm 1998 Intel cho lần đầu tiên được thiết kế một bộ vi xử lý Pentium
II Xeon - đặc biệt là cho tầm trung và cao cấp máy chủ và máy trạm. Đồng thời, Intel
đã được di chuyển vào một khu vực đang phát triển, các chip điều khiển nhúng cho
các mạng và các ứng dụng khác, chẳng hạn như kỹ thuật số set-top box.
Đầu năm 2000, một GHz chip Pentium III tung ra thị trường. Sau đó vào năm
2000 đến đầu tiên của bộ vi xử lý thế hệ kế tiếp cho những năm đầu thế kỷ 21,
Itanium, bộ vi xử lý 64-bit đầu tiên của công ty, bước đầu đã được thiết kế để đáp ứng
nhu cầu của các máy chủ Internet mạnh mẽ.
2.4.Vị thế của tập đoàn Intel
25
Intel là một trong những người dẫn đầu trong cuộc cách mạng làm thay đổi xã hội
của chúng ta. Nhưng ở đây lại có một nghịch lý thú vị: công ty là nhà sản xuất chíp
máy tính hàng đầu nhưng cũng là một trong những thương hiệu tiêu thụ chíp máy tính
nổi tiếng thế giới.
Ngày nay, chip có thể được tìm thấy ở mọi nơi, trong mọi sản phẩm như xe hơi, đồ
chơi, điện thoại di động và thậm chí trong những chiếc đồng hồ báo thức. Thật vậy,
công nghệ điện toán đang được chúng ta ứng dụng vào những hoạt động cơ bản hàng
ngày nhiều hơn là NASA sử dụng khi lần đầu tiên đưa con người lên mặt trăng.
Do kiến thức về khoa học kỹ thuật của con người ngày càng được nâng cao cộng
vói hiệu quả của chiến lược tiếp thị, khách hàng ngày nay luôn đòi hỏi họ phải được
biết bộ xử lý trong máy tính họ định mua mang thương hiệu nào. Chiến dịch ‘Intel
Inside®’ đã bắt đầu theo xu hướng này. Theo cuộc nghiên cứu có tên Mercury, Intel
chiếm thị phần 82,2% trong phân khúc bộ xử lý máy tính cá nhân.
Nhưng Intel không chỉ là một nhà chế tạo linh kiện, nó đang cung cấp những
phương tiện để tạo ra những công cụ giao tiếp mạnh hơn, đó là màn hình PC và những
thiết bị không dây. Mục tiêu của nó là trở thành nhà cung cấp hàng đầu cho công nghệ
mạng.
Để đạt được điều đó, Intel vẫn luôn giữ vị trí hàng đầu trên thị trường cung cấp
thiết bị công nghệ. Cuộc cách mạng mới nhất làm chấn động thế giới online là sự gia
tăng của mạng di động. ‘Wi-Fi’ mở ra, tạo sức mạnh cho việc kết nối mạng, truyền
thanh và công nghệ này đang trên đà phát triển. ‘Wi-Fi’ phát huy tác dụng trên laptop
và cả trên những công cụ hỗ trợ kỹ thuật số cá nhân. Intel là nhà tiên phong trong việc
phát triển này với công nghệ di động Intel® Centrino™, được thiết kế chuyên biệt cho
người sử dụng mạng internet không dây. Để phục vụ cho cơ hội mới nhiều hứa hẹn
này, những điểm truy cập Internet không dây được mở trên khắp cả nước. Công nghệ
không dây cũng không bỏ qua cơ hội mở rộng ra cả thế giới và hiện nay đã có tới trên
56,3triệu thuê bao mạng Wi-Fi
26
Chương 3 : Tình hình đầu tư của Intel vào Việt Nam
3.1.Khái quát về môi trường đầu tư tại Việt Nam
3.1.1.Ý nghĩa của vị trí địa lý đối với sự phát triển KT-XH
Việt Nam nằm ở ngã tư đường hàng hải và hàng không quốc tế quan trọng cùng
với các cảng biển (Cái Lân, Hải Phòng, Đà Nẵng, Sài Gòn); Các sân bay quốc tế (Nội
Bài, Tân Sơn Nhất, Đà Nẵng); Các tuyến đường bộ, đường sắt Xuyên Á... đã tạo điều
kiện thuận lợi để trao đổi, giao lưu với các nước xung quanh. Việt Nam còn là cửa ngõ
thông ra biển của Lào, Thái Lan, Đông Bắc CPC và khu vực Tây Nam Trung Quốc.
Vị trí địa lí và hình dáng lãnh thổ nước ta đã ảnh hưởng sâu sắc đến sự hình thành
các đặc điểm của tự nhiên; Từ đó ảnh hưởng đến việc lựa chọn phương thức khai thác
tài nguyên; Tới sự tổ chức lãnh thổ kinh tế quốc dân (đặc biệt là việc tổ chức các trung
tâm, hạt nhân phát triển của vùng); Đồng thời cũng ảnh hưởng tới các mối liên hệ nội-
ngoại vùng cũng như mối liên hệ kinh tế quốc tế.
Về văn hóa – xã hội, do ở vị trí liền kề cùng với nhiều nét tương đồng về tự nhiên,
kinh tế, văn hóa, lịch sử và mối giao lưu lâu đời với các nước trong khu vực đã tạo
điều kiện thuận lợi cho việc chung sống hòa bình, hợp tác hữu nghị và cùng phát triển
với các nước (nhất là các nước láng giềng). Hơn nữa, vị trí địa lí cũng ảnh hưởng lớn
đến sự hình thành cộng đồng các dân tộc Việt Nam, một quốc gia đa dân tộc và có nền
văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu có chọn lọc tinh hóa văn hóa thế giới.
Nằm ở rìa đông bán đảo Đông Dương; gần trung tâm Đông Nam Á. Nước ta trở
thành một đầu mối giao thông quan trọng từ TBD-ÂĐD và châu Úc-Đại Dương (hoặc
ngược lại). Vùng biển chủ quyền nước ta rộng lớn giàu tiềm năng. Vị trí này cho phép
Việt Nam có thể dễ dàng phát triển các mối quan hệ kinh tế - thương mại; văn hoá,
KH - KT với các nước trong khu vực và TG.
Nằm trong khu vực đang diễn ra các hoạt động kinh tế sôi động nhất trên thế giới
trong thế kỷ XXI này; trong đó “Bốn con rồng” của châu Á (Đài Loan, Hàn Quốc,
Hồng Công, Singapo) cùng với Thái Lan, Malaixia cũng đang phát triển mạnh trên
con đường đó; các nước khác cũng đang có những bước phát triển đáng kể. Như vậy,
ASEAN đang chiếm vị trí cao hơn trong khu vực C.Á-THD và trên thế giới.
3.1.2.Hệ thống chính sách-chính trị
27
Chính phủ Việt Nam đã thông qua Luật đầu tư chung cho các loại hình doanh
nghiệp, đối xử bình đẳng quốc gia, không phân biệt giữa đầu tư trong nước và đầu tư
nước ngoài, hoàn toàn xóa bỏ phân biệt về giá và lệ phí đối với nhà đầu tư nứơc
ngoài. Ngoài các chương trình hợp tác đa phương, Chính phủ Việt Nam đã ký hiệp
định song phương về khuyến khích và bảo hộ đầu tư với 50 nước và vùng lãnh thổ
trên thế giới, tích cực đàm phán gia nhập WTO. Các cam kết quốc tế của Việt Nam
đều hướng tới mục tiêu chung là nhằm mở cửa thị trường, tự do hóa hoạt động đầu tư
nước ngoài.
9 Thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp
0% 04 năm đầu
(kể từ khi có thu nhập chịu thuế)
5% 09 năm tiếp theo
(sau thời gian miễn thuế)
10% 02 năm tiếp theo
(sau thời gian giảm thuế)
25% Thời gian còn lại của dự án
9 Thuế xuất khẩu
9 Miễn thuế xuất khẩu
9 Thuế nhập khẩu: Miễn thuế nhập khẩu cho
9 Trang thiết bị, máy móc, linh kiện, nguyên vật liệu nhập khẩu tạo tài sản cố
định và cho hoạt động nghiên cứu & phát triển
9 Bán thành phẩm, linh kiện nhập khẩu để gia công sản xuất hàng xuất khẩu
Các ưu đãi mềm:
9 Ưu tiên hợp tác, đặt hàng, sử dụng máy móc thiết bị và nhân lực nghiên cứu
của Trung tâm nghiên cứu phát triển của Khu CNC
9 Các khóa học đào tạo về tiếng Anh kỹ thuật, kỹ năng mềm, kỹ năng kỹ
thuật với chi phí ưu đãi tại Trung tâm đào tạo của Khu CNC
9 Hỗ trợ tiếp cận nguồn vốn vay ưu đãi phát triển khoa học công nghệ của
TP.HCM
28
9 Hỗ trợ xin visa ra vào nhiều lần cho chuyên gia nước ngoài.
3.1.3.Tổng quan thị trường Việt Nam
Việt Nam là một trong những nền kinh tế đang phát triển có tốc độ tăng trưởng
nhanh nhất thế giới. Việt Nam đang trải qua một quá trình chuyển đổi toàn diện từ
một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang một nền kinh tế định hướng thị trường và
mở cửa. Việt Nam đang phấn đấu trở thành nước có mức thu nhập trung bình vào năm
2010.
Năm 1986, Chính phủ Việt Nam thông qua một chiến lược cải cách kinh tế tổng
thể gọi là "Đổi Mới” nhằm đưa nền kinh tế chuyển đổi theo hướng thị trường và cải
thiện môi trường kinh doanh của Việt Nam. Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng trung
bình 8%/năm từ năm 1990 đến 1997 và 6.5%/năm trong giai đoạn 1998-2003. Từ năm
2004 đến 2007, GDP tăng hơn 8%/năm. Việc chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa
tập trung sang nền kinh tế theo định hướng thị trường đã giúp cải thiện chất lượng
cuộc sống của nhiều người Việt Nam. Thu nhập bình quân đầu người tăng từ $220
năm 1994 lên 726 USD năm 2006 với tỷ lệ hộ nghèo trong dân giảm đi đáng kể. Việt
Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của WTO vào ngày 11/1/2007. Để đáp
ứng các nghĩa vụ thành viên của WTO, Việt Nam đã sửa đổi lại gần như toàn bộ các
quy định pháp luật về thương mại và đầu tư của mình cũng như các quy định hướng
dẫn. Do đó, các nhà đầu tư nước ngoài tìm cách bán hàng hóa và dịch vụ vào thị
trường Việt Nam sẽ được lợi từ một khung pháp lý được cải thiện và hàng rào thương
mại thấp hơn. Các công ty trong nước mà từ trước vẫn được bảo hộ giờ đây cũng sẽ
chịu sự cạnh tranh ngày càng lớn. Sau năm 1989, Việt Nam đã tiến hành tự do hóa
thương mại, phá giá tỷ giá để hỗ trợ xuất khẩu, và bắt tay thực hiện một chính sách tái
hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Việt Nam đã thể hiện cam kết tự do hóa thương
mại của mình trong những năm gần đây, và sự hội nhập vào nền kinh tế thế giới đã trở
thành một trong những điểm mấu chốt của chương trình cải cách của Việt Nam. Do
kết quả của những cải cách này, xuất khẩu đã tăng mạnh, tới gần 20 – 30% trong một
vài năm qua. Năm 2007, xuất khẩu chiếm 78% GDP. Nhập khẩu cũng tăng nhanh, và
Việt Nam đã phải chịu thâm hụt thương mại lớn ở mức 12.8 tỷ $ năm 2007. Tổng nợ
nước ngoài của Việt Nam, chiếm gần 30,2% GDP trong năm 2006, được ước tính ở
mức khoảng 18,4 tỷ USD.
29
Việt Nam khuyến khích mạnh mẽ đầu tư nước ngoài như là một phần trong chiến
lược phát triển của mình, và Chính phủ cam kết sẽ tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư
và kinh doanh. Khả năng tiếp tục thu hút vốn bên ngoài, thông qua đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI) và vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), là một phần không thể
tách rời trong việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng GDP 8% của năm 2008. Kế hoạch 5
năm 2006-2010 của chính phủ đã đặt mục tiêu giải ngân vốn FDI đạt khoảng 17,5 –
19,5 tỷ USD từ các dự án đã được cấp phép và thu hút khoảng 10 tỷ USD vốn ODA.
Chính phủ Việt Nam cũng hy vọng sẽ huy động được khoảng 4,3 tỷ USD vào năm
2010 vốn đầu tư gián tiếp thông qua trái phiếu và bán cổ phiếu ở nước ngoài.Nhờ việc
ký BTA và gia nhập WTO, nhịp độ dòng vốn đầu tư vào Việt Nam đã tăng lên đáng
kể. Tính đến cuối năm 2007, Việt Nam đã thu hút được khoảng 83,1 tỷ USD vốn đầu
tư cam kết từ 8.590 dự án tính từ khi đất nước mở cửa cho đầu tư nước ngoài vào năm
1988, trong đó 29.236 tỉ USD đã được giải ngân. Hệ thống tài chính của Việt Nam
vẫn còn ở trong giai đoạn đầu của cải cách. Thị trường chứng khoán Việt Nam hiện
nay có 153 công ty niêm yết tại Sở Giao dịch chứng khoán Tp. Hồ Chí Minh và 138
công ty niêm yết tại Trung tâm Giao dịch chứng khoán Hà Nội, với tổng giá trị vốn
hóa thị trường khoảng 13 tỷ $ tính đến tháng 30/6/2008. Lộ trình ban đầu về cổ phần
hóa các SOE của Chính phủ đã phải chậm lại do tình hình thị trường đi xuống từ giữa
năm 2007, và các nhà đầu tư chiến lược trở nên ngần ngại khi họ thấy giá cổ phiếu
chào bán vẫn ở mức cao. Mặc dù có những hạn chế như vậy nhưng thị trường chứng
khoán Việt Nam ngày càng trở nên một kênh đầu tư hấp dẫn cho các nhà đầu tư nước
ngoài và trở thành một nguồn cung cấp tài chính thực sự cho nền kinh tế.
Lực lượng lao động : Trong sự so sánh rất nhiều quốc gia láng giềng Châu Á,lao
động Việt Nam có mức lương thấp hơn.Với thợ máy, mức lương khoảng 200
USD/tháng trong khi những nhà quản lý quan trọng và các kỹ sư, chuyên gia lâu năm
được trả khoảng 1.500 USD/tháng.Lao động Việt Nam làm việc khoảng 48 giờ/tuần
và các chương trình của Chính phủ ước tính chiếm khoảng 25% chi phí lương.Trong
khi đó,Trung Quốc có 40 giờ làm việc một tuần và chi phí xã hội chiếm khoảng 50-
60% lương.Lực lượng lao động Việt Nam được giáo dục tốt và ham làm việc.Số tuổi
trung bình của một thợ máy là 24 tuổi, số lao động biết và thông thạo tiếng Anh ngày
càng tăng cùng với sự xuất hiện nhiều trung tâm ngoại ngữ.
30
Ưu đãi thuế : Về mặt phát triển kinh tế, Việt Nam hiện tại là Trung Quốc cách đây
10-12 năm.Tuy nhiên, những chính sách hiện nay của Việt Nam lại là sự đúc kết giá
trị các bài học từ mô hình Trung Quốc hiện đại.Việt Nam đã áp dụng chương trình ưu
đãi thuế rất linh hoạt.Ví dụ như miễn thuế bốn năm kể tư năm đầu tiên có lãi…Khi
công ty lựa chọn điểm đầu tư, thì hàng loạt khu đất, các chính sách thuế ưu đãi và
điều kiện để được hưởng được giới thiệu.Ở đây có cả những chương trình miễn thuế
cho một số loại hàng hóa nhập khẩu.Ưu đãi thuế của Chính Phủ Việt Nam là một
trong những chính sách thuế tốt nhất châu Á.Các công ty đều công nhận tầm ảnh
hưởng của chính sách đó đến thu nhập của họ.
Cơ sở sản xuất :Việt Nam đã xây dựng nhiều khu công nghiệp và khu chế xuất với
quy mô lớn.Giá thuê đất nói chung rẻ hơn Trung Quốc, trung bình khoảng 20-25 USD
một m2 trong vòng 50 năm.
3.2.Tình hình đầu tư của tập đoàn Intel vào Việt Nam
3.2.1.Tình hình đầu tư.
Năm 2001, phó thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và tập đoàn Intel đã làm việc với
nhau vềviệc thúc đẩy Intel đầu tư vào Việt Nam. Sau 5 năm thảo luận , nghiên cứu thị
trường VNgiữa tập đoàn Intel và chính phủ VN.
Tháng 11-2006, Intel công bố tăng quy mô nhà máy lắp ráp và kiểm định chip từ
14,000m2 lên 46,000m2, đồng thời nâng tổng mức đầu tư lên 1 tỷ đô la Mỹ. là cơ
sở lớn nhất trong mạng lưới toàn cầu của Intel . Nếu như ban đầu, nhà máy Intel VN
dự kiến chỉ sản xuất chip thì sẽ sản xuất cả bộ vi xử lí dành cho các thiết bị di
động. Nhà máy Intel tại Việt Nam là một trong những cơ sở mới nhất của tập đoàn.
Nhà máy được khởi công từ tháng 3-2007. Khi đi vào sản xuất ổn định, nhà máy tại
Việt Nam dự kiến sẽ sử dụng tới vài ngàn lao động trong nước
Năm 2007, Intel bắt đầu khởi động công viên công nghệ cao SG với dự kiến khi
triểnkhai đầy đủ năng lực sản xuất của công ty sẽ đạt là 600 triệu con chip mỗi năm và
tuyểndụng tới 4000 nhân công. Nhà máy tại Việt Nam là nhà máy ATM (Assembly
and Testmanufacring-kiểm tra và đóng gói) thứ 5 của Intel trên toàn cầu. Trong cấu
trúc sản xuấtcủa Intel, mỗi nhà máy đặt tại các quốc gia sẽ chịu trách nhiệm với từng
nhóm sản phẩmkhác nhau. Riêng tại VN nhà máy sẽ lắp ráp và kiểm tra chipset dành
cho nhóm sản phẩmmáy tính xách tay và thiết bị di động.Tuy nhiên cũng trong giai
31
đoạn này, việc tìm kiếm những kĩ sư người Việt vào làm việc ở Intel VN gặp một số
khó khăn như trình độ ngoại ngữ còn yếu, kiến thức ứng dụng chưađược nhiều. Do đó
Intel VN liên kết với các trường đại học VN để có kế hoạch đào tạothích hợp hơn và
cũng ra sức tìm kiếm những người Việt đang học tại các trường đại họcnước ngoài về
làm việc cho Intel.
Tiếp nối thỏa thuận đầu tiên năm 2008, Công ty Intel Việt Nam và Hệ thống siêu
thị điện máy Nguyễn Kim tiếp tục đẩy mạnh hợp tác chiến lược từ nay đến 2015.Tại
TP.HCM ngày 11/8/2011, Công ty Intel Việt Nam và Công ty Nguyễn Kim chính thức
ký kết thỏa thuận hợp tác, đối tác chiến lược nhằm đẩy mạnh bán lẻ máy tính.
Thỏa thuận nêu 6 mục tiêu chính:
9 Công ty Nguyễn Kim tham giao
vào các chương trình, dự án phổ cập tin
học của Công ty Intel Việt Nam
9 Hai bên cùng xây dựng kho ứng
dụng trên nền dịch vụ AppUp (hiện hỗ trợ
MeeGo, Windows)
9 Công ty Nguyễn Kim trưng bày
sản phẩm, công nghệ Intel tại Hệ thống Nguyễn Kim và Thế giới số 24G
9 Cùng chia sẻ cơ hội quảng bá thương hiệu
9 Cùng xây dựng quỹ học bổng và hỗ trợ việc làm
9 Intel hỗ trợ Công ty Nguyễn Kim triển khai một số nhóm sản phẩm công
nghệ mới.
9 Một trong những chương trình hiện thực hóa thỏa thuận, Công ty Intel Việt
Nam và Công ty Nguyễn Kim sẽ triển khai chương trình máy tính ưu đãi cho giáo
viên, sinh viên.
Trong năm 2008, Intel đã tuyển chọn gần 180 kỹ sư mới ra trường, đào tạo thêm ở
Malaysia và Trung Quốc, đồng thời tuyển chọn 40 sinh viên xuất sắc tại các trường
đại học kỹ thuật trong nước được học tiếp hai năm cuối tại đại học kỹ thuật Portland
State University (bang Oregon, Mỹ). Sau khi tốt nghiệp, họ sẽ được Intel bố trí công
việc tại nhà máy Intel Việt Nam.
32
Năm 2009 tập đoàn Intel và công ty điện tử Hà nội (Hanel) vừa ký thỏa thuận hợp
tảng chiến lược, theo đó Hanel chính thức trở thành nhà sản xuất máy tính thiết bị gốc
(OEM) của Intel tại Việt Nam.Đây là một bước tiến quan trọng của Intel và Hanel
nhằm thúc đẩy sự phát triển của máy tính thương hiệu Việt ở Việt Nam cũng như
trong khu vực. Hợp tác chiến lược này cũng đồng thời khẳng định cam kết hiện nay
của Intel trong việc mở rộng khả năng hỗ trợ của mình tại thị trường Việt Nam.
Cuối năm 2009, hoàn thành nhà máy chip Intel tại Việt Nam. Khi nhà máy tại Việt
Nam hoạt động hết công suất, sẽ tạo ra khoảng 4.000 việc làm, và kim ngạch xuất
khẩu dự kiến đạt từ 5 – 6 tỉ USD/năm. Năm 2009, Intel Việt Nam đạt mức tăng trưởng
dự kiến là 25% so với 2008. Đây là mức đáng kể trong bối cảnh CNTT tăng trưởng
chậm.
Cuối tháng 10/2010, Intel Việt Nam chính thức được khánh thành. Khi đi vào sản
xuất cho đến hết năm 2010, nhà máy đã xuất khẩu 6 triệu sản phẩm, trị giá 120 triệu
USD. Công suất tối đa của nhà máy khoảng 820 triệu sản phẩm. Trong thởi gian đầu
hoạt động nhà máyIntel tại VN giao chỉ tiêu sản xuất khoảng 2 tỉ USD/năm. Để hoạt
động hết công suất nhàmáy Intel của VN sẽ phải mất 3-5 năm với doanh thu sẽ từ 5-
15 tỷ USD. Intel Việt Nam cho biết nhà máy sản xuất chip tại Khu Công nghệ cao
TP.HCM sẽ chính thức sản xuất vào tháng 7/2010. Nhà máy sẽ sản xuất cả bộ vi xử lý
dành cho các thiết bị di động. Hiện, nhà máy của Intel đã có khoảng 300 nhân viên
trong đó 130 nhân viên đang được đào tạo tại Malaysia, 18 sinh viên năm thứ 3 thuộc
5 trường ĐH kỹ thuật lớn của Việt Nam đang được Intel đưa đi đào tạo tại Mỹ. Dự
kiến khi đi vào hoạt động, nhà máy sẽ cần thêm 150 kỹ sư. Công suất dự kiến của nhà
máy là 820 triệu sản phẩm/năm. Để hoạt động hết công suất, nhà máy cần thêm 3-5
năm. Khi đó, doanh thu đem về cho Intel từ các sản phẩm của nhà máy sẽ lên tới 5
đến 15 tỷ USD. Năm 2010, Intel sẽ có thêm 3 nhóm sản phẩm mới (các sản phẩm
nhúng và truyền thông liên lạc, ngôi nhà số, chương trình WiMAX). Ngoài ra, lộ trình
phát triển kiến trúc vi xử lý từ Nehalem 32nm sẽ được phát triển trên nền tảng mới là
HEDT với kiến trúc vi xử lý 32nm Gulftown (6 nhân/12 luồng), tích hợp đồ họa và
tiến đến vi kiến trúc Sandy Bridge 22 nm vào năm 2011.
Trong 5 năm (từ 2006 đến 2011), Intel đã huy động và tài trợ hơn 160 tỷ đồng (8,3
triệu USD) cho hoạt động hợp tác giáo dục tại Việt Nam và phát triển nguồn nhân
33
lực.Ngày 22/8/2011, Công ty Intel Product Vietnam (thuộc tập đoàn Intel) tổ chức lễ
tổng kết 5 năm triển khai các hoạt động hợp tác đào tạo giáo dục với Bộ GDĐT, các
trường đại học đối tác nhằm đầu tư và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phục
vụ nhà máy lắp ráp, kiểm định chipset lớn nhất của Intel đặt tại Khu công nghệ cao
TP.HCM.Để ghi nhận những đóng góp vào sự nghiệp giáo dục, Bộ trưởng Bộ GDĐT
cũng trao bằng khen cho ông Rick Howard (Tổng giám đốc) và Công ty Intel Product
Vietnam. Tiến sĩ Vũ Đình Thành, Hiệu trưởng Trường Đại học Bách Khoa TP.HCM
phát biểu: “Intel đã thể hiện nỗ lực vượt bậc và đóng góp tích cực trong việc phát triển
đội ngũ nhân lực chất lượng cao tại Việt Nam”.Từ năm 2006 đến nay, Intel đã hợp tác
với Bộ GDĐT và 10 trường đại học, cao đẳng Việt Nam trong đó có Đại học Bách
Khoa TP.HCM, Bách Khoa Hà Nội, Bách Khoa Đà Nẵng, Đại học Khoa Học Tự
Nhiên TP.HCM, Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP.HCM, Đại học Cần Thơ, Cao đẳng Kỹ
thuật Cao Thắng..., để cung cấp học bổng du học Mỹ cho 52 sinh viên, 555 học bổng
trong nước (cao học hoặc tiếng Anh).Intel đã mời 102 giảng viên Việt Nam đến Mỹ,
đăng cai diễn đàn học thuật châu Á (Asia Academic Forum) và tặng thiết bị thí
nghiệm theo giáo trình ESAP của Intel. Ngoài ra, Intel cũng đã hỗ trợ huấn luyện hơn
85.000 giáo viên trong khuôn khổ chương trình Intel Teach.Trong số 52 sinh viên
nhận học bổng du học Mỹ, nhà máy Intel đã bố trí việc làm cho 28 sinh viên tốt
nghiệp khóa đầu và tạo điều kiện thực tập cho 24 sinh viên khóa hai.Intel đang triển
khai chương trình Hợp tác Giáo dục đại học ngành kỹ thuật (Higher Engineering
Education Alliance Program) giai đoạn 2010 đến 2013 hợp tác với Cơ quan Phát triển
Quốc tế Hoa Kỳ (USAID), Đại học Arizona State University (ASU), Tập đoàn
Siemens, Danaher nhằm đào tạo giáo viên theo chuẩn ABET của Mỹ. Kinh phí dự
kiến 5,5 triệu USD, trong đó Intel đóng góp khoảng 2,5 triệu USD.
Ban quản trị tập đoàn Intel vừa chỉ định ông Mai Sean Cang làm Tổng giám đốc
mới của Công ty TNHH Intel Việt Nam (Intel Việt Nam) kể từ ngày 1 tháng 10 năm
2011. Ông Cang gia nhập tập đoàn Intel từ tháng 1 năm 2006 và đã có hơn 10 năm
kinh nghiệm trong ngành công nghệ thông tin, bao gồm cả lĩnh vực kinh doanh phần
mềm.Ông Cang đảm nhiệm điều hành đội ngũ kinh doanh của Intel với vai trò Giám
đốc kinh doanh toàn quốc từ tháng 3 năm 2011. Trong thời gian tại vị, ông đã chứng
minh Intel có thể xây dựng một cam kết hợp tác đôi bên cùng có lợi giữa ngành công
34
nghiệp viễn thông và công nghệ điện toán. Với tài năng và kinh nghiệm của ông Cang,
Intel tin rằng ông có thể tiếp tục xây dựng nên một đội ngũ nhân lực tâm huyết và viết
thêm những chương thành công mới cho Intel tại Việt Nam.Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ
mới đây đã công bố Intel ở Việt Nam là 1 trong 13 doanh nghiệp trên toàn thế giới lọt
vào danh sách cuối cùng để chọn trao Giải thưởng Doanh nghiệp Xuất sắc (ACE)
2011 đầy uy tín của Bộ trưởng Ngoại giao. Intel ở Việt Nam được chọn vì công ty bán
dẫn này đã tạo ra các chương trình đối tác công-tư giúp thúc đẩy cải cách giáo dục và
phát triển nguồn nhân lực có kỹ năng, tạo thêm nhiều cơ hội cho phụ nữ trong các
ngành khoa học, và tăng cường nhận thức về các vấn đề môi trường cũng như hoạt
động tình nguyện. Intel cũng đã phấn đấu giảm tác động đến môi trường, và tăng
cường năng lực công nghệ cho các trường địa phương.Ngày 18/4/2011, Cơ quan Phát
triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID), Tập đoàn Intel và Trường ĐHTH Bang Arizona đã
công bố mở rộng Chương trình Liên kết Đào tạo Kỹ sưChất lượng cao (HEEAP) cho
đến hết 2014 để cải thiện giáo dục đai học và phát triển công nghệ ở Việt Nam.Bộ
Ngoại giao Hoa Kỳ cam kết làm việc với giới doanh nghiệp nhằm thúc đâỷ những tập
quán tốt trên khắp thế giới và ghi nhận các nỗ lực cải thiện đời sống ở Hoa Kỳ cũng
như ở nước ngoài.Những người giành giải ACE 2011 sẽ được công bố tại buổi lễ
thường niên do Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ chủ trì vào cuối năm nay.
3.2.2.Chính sách kinh doanh của Intel vào Việt Nam
Chính sách hỗ trợ cộng đồng : Intel Việt Nam sẽ tập trung vào các ứng dụng
CNTT với các chính phủ, lĩnh vực y tế, giáo dục và hỗ trợ các doanh nghiệp trong và
ngoài ngành. Trọng tâm chính vẫn là tiếp tục xây dựng chiến lược phổ cập máy tính ở
Việt Nam, phát triển ngành công nghiệp phần cứng với các doanh nghiệp và tập đoàn
sản xuất máy tính (ước tính > 1500 doanh nghiệp trên toàn quốc). Một định hướng
nữa của Intel là thúc đẩy kết hợp ứng dụng nguồn mở với các phần mềm có bản quyền
và phần mềm nguồn mở cho các thiết bị di động (Moblin) bằng chính tiếng Việt. Intel
Việt Nam cũng cam kết hỗ trợ VNPT Thanh Hoá tổ chức 2 khoá học Đào tạo giảng
viên nội bộ và Đào tạo nâng cao kỹ năng bán hàng, bán máy tính cho đội ngũ nhân
viên. Tăng cường hỗ trợ dụng cụ, tủ quầy bán hàng kết hợp quảng bá thương hiệu cho
VNPT Thanh Hoá. Đồng thời, phía Intel Việt Nam cũng chia sẻ kinh nghiệm và thông
tin một số sản phẩm, dịch vụ cũng như xu hướng sản phẩm, xu hướng phát triển của
35
Intel. Dự kiến, trong tháng 5/2012, Intel Việt Nam và VNPT Thanh Hoá sẽ triển khai
chương trình bán máy tính có tích hợp phần mềm ứng dụng trong Giáo dục và Doanh
nghiệp. Năm 2012, Intel Việt Nam và VNPT Thanh Hoá sẽ tiếp tục hợp tác triển khai
các chương trình nhằm đưa CNTT ứng dụng sâu rộng trong đời sống của nhân dân
toàn tỉnh. Trong đó, nhằm tăng tiện ích cho khách hàng khi sử dụng máy tính, Intel
Việt Nam và các đối tác sẽ đưa nhiều phần mềm ứng dụng như: Phần mềm học tiếng
Anh, Phần mềm học vi tính, Các video clip bài giảng trong lĩnh vực Toán, Lý, Hoá…
(ứng dụng trong Giáo dục), Phần mềm Kế toán, Phần mềm tính lương, Phần mềm xuất
hoá đơn, Khai thuế online… (ứng dụng trong Doanh nghiệp). Đây được coi là điểm
khác biệt trong các chương trình bán máy tính của VNPT Thanh Hoá sẽ triển khai
trong năm 2012. Với nhiều ứng dụng thông minh, khách hàng khi mua các sản phẩm
máy tính do VNPT Thanh Hoá cung cấp sẽ trải nghiệm thêm nhiều tiện ích. Sản phẩm
máy tính do VNPT Thanh Hoá cung cấp sẽ là công cụ hữu ích nhằm khám phá tri thức
nhân loại và có tính ứng dụng cao. Ngày 24/8/2006, Công ty Intel và Ban Khoa giáo
Trung ương đã ký thỏa thuận hợp tác hỗ trợ triển khai ứng dụng công nghệ thông tin
(CNTT) tại Ban Khoa giáo Trung ương.Theo đó Intel sẽ hỗ trợ Ban Khoa giáo Trung
ương thành lập Phòng thí nghiệm phần mềm nguồn mở (OpenLab) chạy trên nền tảng
của Intel. Cụ thể Intel sẽ hỗ trợ về phần khảo sát kỹ thuật, lắp đặt thiết bị, đào tạo về
công cụ phần mềm, thẩm định các giải pháp ứng dụng, xây dựng kinh nghiệm triển
khai, tài liệu kỹ thuật cho toàn bộ dự án. Sau khi hoàn tất phòng thí nghiệm này sẽ là
điểm trung tâm cho việc thực hiện các tiểu dự án phần mềm nguồn mở của Ban Khoa
giáo Trung ương.Ban Khoa giáo Trung ương là cơ quan tham mưu của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam về các chủ trương, chính sách lớn trong
lĩnh vực khoa giáo; được ban chỉ đạo CNTT cơ quan Đảng ủy quyền trong việc thực
hiện Dự án đào tạo CNTT và phối hợp với các đối tác quốc tế để áp dụng phần mềm
nguồn mở trong các cơ quan Đảng.
Chính sách hỗ trợ phát triển hạ tầng mạng cũng là một vấn đề được Intel rất quan
tâm. Trong đó, Intel đang xúc tiến với các cơ quan chức năng để sớm được cung cấp
WiMax với các tần số 2.3 và 2.5 Ghz. Theo dự kiến, khi WiMAX đưa vào hoạt động
sẽ kích thích nhiều dịch vụ phát triển hơn nữa. Đặc biệt là các khu vực vùng sâu, vùng
xa sẽ có cơ hội tiếp cận nhiều hơn với các dịch vụ. Từ đó, việc kích thích tiêu dùng
36
cũng được nâng lên giảm thiểu làn sóng suy thoái kinh tế. Với sự hỗ trợ của Intel, Việt
Nam đã có những dự án xử dụng kỹ thuật cao cấp của WiMAX (Worldwide
interoperability for Microwave Access) có đường truyền cao tốc và tầm hoạt động vài
kí lô mét thay vì chỉ vài thước như kỹ thuật Wi–Fi. Sản phẩm thương mại WiMAX
mới chỉ có, và giới hạn, trong thị trường tại các quốc gia đã phát triển. Chứng minh
được tiềm năng WiMAX tại thị trường Việt Nam sẽ đem lợi nhuận về cho công ty
Intel qua việc thôi thúc nhu cầu dùng chíp WiMAX của Intel chíp tại một số quốc gia
đang phát triển khác không đủ đường dây điện truyền điện thoại và đường truy cập
internet. Những dự án WiMAX của Việt Nam sẽ đưa Internet về nông thôn bằng các
đài viễn thông. Qua những dự án này nhà nước Việt Nam hy vọng sẽ đem đến nhiều
dịch vụ cho người dân như giáo dục về sức khỏe và cố vấn canh tác trồng trọt, hiệu
quả hơn. Trong tương lai, một dự án khả thi và không tốn kém là nhà nước có thể giao
cho dân ở nông thôn một số trách nhiệm hành chánh thay vì để họ cứ phải bỏ làng ra
tỉnh tìm việc nuôi thân.
Chính sách hỗ trợ đào tạo với Bộ Giáo dục & Đào tạo, Intel Việt Nam sẽ xúc tiến
với các cấp phổ thông và cấp đại học như học bổng Intel giúp chúng tôi tìm kiếm và
đào tạo sinh viên có cơ hội học tập và làm việc cùng nhà máy Intel sau khi được nâng
cao kiến thức từ nước ngoài. Sau khi hoàn thành khóa học, các bạn sinh viên chỉ cần
tham gia làm việc cho Intel trong ba năm và tiếp tục làm việc sau đó nếu muốn.
Chúng tôi tin rằng với sự tận tụy của Intel Việt Nam, chính phủ sẽ giúp chúng tôi xây
dựng các chính sách lâu dài tại Việt Nam. Bộ GD & ĐT trong thời gian qua đã giúp
chúng tôi rất nhiều nhất là công tác phổ cập tin học. Sau gần 5 năm hợp tác, Intel đã
phối hợp với Bộ GD&ĐT cùng các trường trong nhiều lĩnh vực như: Chương trình
học bổng; Hợp tác liên minh giáo dục ĐH ngành kỹ thuật HEEAP; Hỗ trợ thiết bị Lab,
Hỗ trợ giảng viên nâng cao tiếng Anh; Chia sẻ thông tin; Phát triển giáo trình… Toàn
bộ kinh phí Intel đã đầu tư cho các hoạt động liên kết đào tạo giáo dục tại Việt Nam
trong 5 năm qua là 160 tỉ đồng (tương đương khoảng 8.3 triệu đô la Mỹ) . Đặc biệt
trong tháng 6 năm 2011 vừa qua, 28 sinh viên khóa du học đầu tiên do công ty tài trợ
du học tại Mỹ đã tốt nghiệp với điểm trung bình từ 3.76 trở lên, và được đánh giá rất
cao từ phía trường Đại học Portland. Hiện tại, 28 tân kỹ sư này đang làm việc tại nhà
máy Intel tại Việt Nam. Ông Rick Howarth, Tổng Giám đốc của Nhà máy Intel
37
Products Việt Nam nói: “Các hoạt động giáo dục đào tạo mà Intel đã hợp tác với Việt
Nam trong thời gian qua là một cam kết lâu dài mà Intel đã, đang và sẽ thực hiện. Đó
là cách Intel đóng góp cho sự phát triển giáo dục của Việt Nam nói chung và chiến
lược phát triển đội ngũ nhân viên tương lai của ngành công nghệ cao nói riêng. Intel
Việt Nam hỗ trợ Trường Đào tạo, Bồi dưỡng cán bộ quản lý Thông tin và Truyền
thông thực hiện chương trình đào tạo tin học cho những người trưởng thành, ít hoặc
không có kinh nghiệm với máy tính và cần những kỹ năng công nghệ cơ bản. Qua
đây, hai bên mong muốn gia tăng sự truy cập và sử dụng hiệu quả công nghệ đối với
người dân, nhằm nâng cao cơ hội cho giáo dục, thương mại, dịch vụ chăm sóc sức
khỏe và truyền thông. Để triển khai hoạt động này, Intel Việt Nam sẽ cung cấp cho
Trường Đào tạo, Bồi dưỡng cán bộ quản lý Thông tin và Truyền thông quyền sử dụng
miễn phí các tài liệu của Intel và một bộ công cụ thực hiện, gồm giới thiệu đối tác
thực hiện, kế hoạch, mô hình; sách, giáo trình; tài liệu hướng dẫn; bộ công cụ đánh
giá; chỉ dẫn giúp đỡ giáo dục; giảng viên cao cấp hỗ trợ đào tạo nguồn giảng viên; 20
máy tính và chi phí nội địa hóa tài liệu. Theo thoả thuận giữa hai bên, Intel Việt Nam
sẽ cung cấp miễn phí cho VNPT toàn bộ giáo trình Easy Steps đã được Việt hóa, cùng
với mô hình thực hiện và hướng dẫn triển khai rộng khắp cho nhiều đối tượng khác
nhau như người già, hưu trí, người nội trợ, giáo viên, sinh viên, học sinh... cũng như
công cụ đánh giá về tác động và hiệu quả của giáo trình. Đồng thời, Intel Việt Nam sẽ
hỗ trợ đào tạo giảng viên nguồn cho VNPT tại các khu vực miền Bắc, miền Trung và
miền Nam. VNPT sẽ tiếp tục đào tạo cho người sử dụng máy tính theo từng cấp
độ. Intel Việt Nam đã chính thức giới thiệu chương trình Easy Steps này tại Việt Nam
từ tháng 7/2011. Việc đưa giáo trình Easy Steps đã được Việt hoá đến Việt Nam nằm
trong chuỗi các chương trình Trách nhiệm Xã hội của Intel triển khai thành công tại
nhiều nước trên thế giới, góp phần vào việc nâng cao nhu cầu học tập, giải trí cũng
như khả năng phối hợp giữa nhà trường và gia đình trong mục tiêu phát triển giáo dục
đào tạo.
3.2.3.Những thuận lợi và khó khăn tại thị trường Việt Nam.
3.2.3.1.Thuận lợi
9 Chi phí nhân công rẻ. Mức lương trung bình của lao động phổ thông tại
Việt Nam là 100-150 USD/tháng, bằng một nửa so với mức 300 USD/tháng mà các
38
lao động có trình độ tương đương tại các khu công nghiệp ở nam Trung Quốc nhận
được. Mức lương hiện tại của thị trường lao động Việt Nam là một trong những yếu tố
hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Nhưng rõ ràng, điều này là chưa đủ để các doanh
nghiệp nước ngoài đầu tư ổn định và lâu dài vào thị trường trong nước.
9 Lượng khách hàng tiềm năng lớn. Thị trường công nghệ thông tin (CNTT)
Việt Nam được ước tính sẽ tăng với tỷ lệ tăng trưởng hàng năm CAGR (tỷ lệ tăng
trưởng ước tính hàng năm CAGR là một con số ước lượng mô tả tốc độ tăng trưởng
trong đầu tư) là 16% trong giai đoạn dự báo từ 2011-2015.Chi tiêu cho CNTT phục
hồi trở lại trong năm 2010 sau sự khởi đầu chậm chạp vào đầu năm. Các yếu tố như số
người có máy tính cá nhân tăng lên, sự tăng trưởng kinh tế và một loạt các sáng kiến
về công nghệ thông tin và truyền thông (ITC) của chính phủ cũng như động lực phát
triển ngành công nghệ thông tin (IT) của Việt Nam sẽ giúp củng cố một trong những
mức tăng trưởng nhanh nhất trên thị trường CNTT trong khu vực. Thị trường CNTT
Việt Nam được dự báo sẽ có tỷ lệ tăng trưởng hàng năm đạt 16% trong giai đoạn
2011-2015. Thị trường công nghệ thông tin có thể tiếp cận được cho các sản phẩm và
dịch vụ CNTT được dự kiến đạt 4,1 tỷ USD vào năm 2015. Một số lượng ngày càng
tăng các công ty Việt Nam đã thể hiện mối quan tâm đến các dịch vụ điện toán đám
mây. Thị trường được dự kiến sẽ đạt giá trị khoảng 391 triệu USD vào năm 2015, với
sự tăng trưởng nhu cầu ổn định cho các phần mềm có bản quyền từ các phân khúc như
chính phủ, doanh nghiệp và các các hộ gia đình. Thị trường phần mềm Việt Nam đang
phát triển, mặc dù vấn đề vi phạm bản quyền phần mềm vốn vẫn chiếm đến khoảng
85% phần mềm, so với 76% ở nước Thái-lan láng giềng.
9 Vị trí địa lý thuận lợi cho quá trình lưu chuyển hàng hóa.
3.2.3.2.Khó khăn
9 Thiếu nhân lực nghiêm trọng. Bà Hồ Thu Uyên, Giám đốc Đối ngoại Intel
Việt Nam cho biết, tới thời điểm hiện tại, nhà máy mới tuyển được 40 nhân sự đạt yêu
cầu, trong khi con số theo kế hoạch sẽ phải là 3.000 người từ nay đến năm 2010. Sự
thiếu thốn nguồn nhân lực cũng phản ánh tính sẵn sàng của thị trường, là một trong
những khó khăn mà Intel gặp phải. Bà Uyên cho biết, hiện tại, Nhà máy Intel Việt
Nam đang thiếu nhất là những kỹ sư tài năng, một số vị trí lãnh đạo nhóm chuyên
ngành kỹ thuật. Thiếu nhiều nhất vẫn là những kỹ thuật viên lành nghề, không yêu cầu
39
quá cao về kỹ năng nhưng cần ngoại ngữ. Hiện tại, số lượng nguồn nhân lực là kỹ
thuật viên, kỹ sư điện tử tin học được đào tạo khá nhiều trong các trường đại học, cao
đẳng của Việt Nam, nhưng đầu ra, theo đánh giá của Intel, là chưa có khả năng sẵn
sàng làm việc do không đủ kinh nghiệm. Kết quả khảo sát của các công ty công nghệ
tại một số trường đại học, cao đẳng Việt Nam cho thấy, chất lượng nguồn nhân lực
mới tốt nghiệp cho ngành công nghệ thông tin không cao. Theo bà Hồ Thu Uyên, kết
quả này không phản ánh toàn bộ trình độ chuyên môn của nguồn nhân lực, mà phần
lớn là do sinh viên Việt Nam không quen với cách tiếp cận, phỏng vấn, điều tra, trắc
nghiệm mà các nhà tuyển dụng đưa ra. Bởi sau khi có kết quả cuối cùng thấp, các thầy
cô và chính sinh viên được tuyển dụng đều khẳng định rằng, chuyên môn nghiệp vụ
đó đã được học rồi. Đó cũng là vấn đề mà trước nay dư luận đã đề cập mãi: phương
pháp giáo dục trong các nhà trường, làm sao để sinh viên tốt nghiệp có đủ khả năng,
cân bằng giữa chuyên môn nghiệp vụ và sự nhanh nhạy, sáng tạo và quan trọng là đạt
tiêu chuẩn quốc tế để sẵn sàng hội nhập.
9 Khác biệt trong cảm nhận các giá trị.Đối với người Việt Nam, việc giữ thể
diện đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống, công việc. Bất cứ hành động hay lời nói
được coi là làm mất thể diện của một người Việt Nam có thể gây ra một phản ứng rất
mạnh, dẫn tới đổ vỡ các mối quan hệ không thể hàn gắn được.Tạo nên thách thức đối
với Intel là việc giải quyết vướng mắc thông qua phê bình, tranh luận là rất bình
thường và hiệu quả ở Intel quốc tế nhưng có thể không thành công ở Việt Nam. Nhân
viên người Việt khi bị chỉ trích quá thẳng thắn hoặc trước sự chứng kiến của những
người khác dù với mục tiêu tốt đẹp mang tính xây dựng vẫn có thể coi đó là một sự
xúc phạm đến nhân cách cá nhân, làm tổn hại đến hình ảnh của mình. Điều đó tạo ra
sự không hài lòng thậm chí chống đối ngấm ngầm của nhân viên đối với ban quản lý.
9 Khác biệt trong giao tiếp, đối thoại và hợp tác.Người Việt Nam thường
làm việc dễ dàng, hiệu quả với các mối quan hệ sẵn có của mình như họ hàng, bạn bè
hoặc đồng nghiệp, đối tác lâu năm. Việc xây dựng một mối quan hệ đôi khi mất khá
nhiều thời gian, công sức. Các mối quan hệ dù trong công việc cũng mang tính thứ
bậc như trong một gia đình hay cộng đồng trong đó tuổi tác, kinh nghiệm được coi
trọng hơn khả năng cá nhân.Thách thức đối với Intel: làm việc nhóm hiệu quả là một
thách thức đối với các nhân viên Việt Nam khi các thành viên trong nhóm chưa có sự
40
hiểu biết, tin tưởng, tôn trọng lẫn nhau. Ngược lại, khi các thành viên đã trở nên gắn
kết thì lại xảy ra hiện tượng bè phái, cạnh tranh không lành mạnh giữa các nhóm đồng
thời các thành viên trong 1 nhóm có thể dễ dàng bỏ qua hoặc che dấu các sai phạm
của các thành viên. Tính thứ bậc trong quan hệ có thể gây những khó khăn không thể
lường trước được đối với 1 người trẻ tuổi được đề bạt vào các vị trí lãnh đạo những
người có tuổi tác, thâm niên công tác cao hơn.
9 Khác biệt trong thái độ đối với rủi ro, tinh thần sáng tạo.Tinh thần sáng
tạo, đổi mới hiếm khi được khuyến khích trong văn hoá Việt Nam trừ trường hợp xảy
ra các hoàn cảnh ngặt nghèo như chiến tranh, thiên tai. Trong điều kiện lao động, sản
xuất, kinh doanh bình thường các ý tưởng hay hành vi không tiến hành theo cách thức
thông thường khó được chấp nhận, ủng hộ. Các thử nghiệm thất bại thường phải gánh
chịu trách nhiệm nặng nề, và thất bại được quy cho năng lực yếu kém của người thực
hiện.Thách thức đối với Intel: sáng tạo luôn là động lực chính trong sự phát triển của
các công ty hoạt động trong lĩnh vực công nghệ cao như Intel. Tiềm năng về sự sáng
tạo của đội ngũ nhân viên Việt Nam có lẽ là rất lớn. Nhưng để khai thác tiềm năng
này phục vụ lợi ích của công ty và chính bản thân những người có sáng kiến, đòi hỏi
một nỗ lực trong việc thay đổi cách tư duy, phương pháp làm việc, mức độ chấp nhận
rủi ro đã định hình ở mỗi lao động Việt Nam trước khi trở thành người của Intel.
3.3.Đánh giá hoạt động đầu tư của Intel vào Việt Nam
Đến với Việt Nam từ năm 1997, Intel Việt Nam đã giành được những thành tựu
nhất định, bên cạnh đó nó cũng gặp 1 số trở ngại nhất định trong hoạt động đầu tư vào
Việt Nam.
3.3.1.Ưu điểm
9 Intel đã không ngừng nỗ lực nhằm hỗ trợ phát triển nền công nghệ thông tin
trong nước. Các nền tảng và ứng dụng công nghệ tiên tiến nhất của hãng liên tục được
phổ biến, giúp người sử dụng trong nước được cập nhật và có cơ hội trải nghiệm các
sản phẩm công nghệ cùng lúc với các quốc gia khác trên toàn thế giới.Tiêu biểu là
hoạt động hỗ trợ Đà Nẵng xây dựng trung tâm cơ sở dự liệu điện tử.
9 Intel luôn tích cực tổ chức hoặc tham gia các chương trình phổ cập ứng
dụng công nghệ quy mô lớn, hướng tới mục tiêu mang máy tính đến với mọi người
dân Việt Nam. Từ chương trình “Máy tính Thánh Gióng” tới chương trình “Máy tính
41
cho cuộc sống”, các hoạt động giáo dục như chương trình dạy học Intel (Intel Teach)
đã đào tạo gần 100 ngàn giáo viên tại hơn 20 tỉnh thành trên cả nước; 95% nhân viên
Intel đã trao tặng hơn 30 ngàn giờ tình nguyện trong các hoạt động cộng đồng.
9 Dự án nhà máy lắp ráp và kiểm định chip lớn nhất trong hệ thống sản xuất
lắp ráp của tập đoàn Intel tại Khu công nghệ cao TP.HCM đã được hoàn thành và đi
vào sản xuất từ năm 2010.
9 Intel đã chi ra 10 triệu USD (tương đương hơn 200 tỉ đồng) dành cho các
chương trình cải cách giáo dục và đào tạo bậc đại học v.v… Tiêu biểu là Intel sẽ hỗ
trợ ngành giáo dục Đà Nẵng số hóa. Để giúp Đà Nẵng tìm kiếm giải pháp hữu hiệu
xây dựng một hệ thống Cổng thông tin liên lạc đa chiều trong trường học.
3.3.2.Nhược điểm
9 Vẫn chưa bổ sung đủ nguồn nhân lực cần thiết cho mục tiêu sản xuất mà
Tập đoàn Intel đặt ra.
42
KẾT LUẬN
Thế giới đang trong xu hướng toàn cầu hóa nền kinh tế cùng sự phát triển không
ngừng của công nghệ thông tin.Và Công nghệ thông tin Việt Nam đang góp phần
quan trọng nâng cao năng lực quản lý, sản xuất kinh doanh, xóa đói giảm nghèo; rút
ngắn khoảng cách số; đảm bảo an toàn, an ninh quốc gia.Chính phủ Việt Nam đang có
những hành động thiết thực để Việt Nam trở thành cường quốc về công nghệ thông tin
trong năm 2020.Đó là việc ra sức kêu gọi và tạo điều kiên thuận lợi cho các nhà đầu tư
nước ngoài như Intel, vào đầu tư tại Việt Nam.
Đến với Việt nam,Tập đoàn Intel đã gặp khá nhiều bất lợi trong chất lượng nguồn
nhân lực cũng như vấn đề về khác biệt văn hóa.Nhưng bên cạnh đó, nó cũng nhận
được nhiều thuận lợi như thị trường hấp dẫn, vị trí thuận lợi…Và để phát triển hơn
nữa, Intel Việt nam đã có những chính sách phù hợp vừa tạo tiền đề cho sự phát triển
bền vững của mình vừa hỗ trợ ngành công nghệ thông tin Việt Nam vươn lên tầm cao
mới.Giúp chính phủ Việt Nam sớm đạt được mục tiêu đề ra.
43
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình
¾ Kinh tế quốc tế - NXB ĐH Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh
¾ Đầu tư quốc tế - NXB ĐH Kinh tế quốc dân
¾ Quản trị kinh doanh quốc tế - NXB Thống kê
¾ Thương mại quốc tế - NXB ĐH Kinh tế quốc dân
¾ Inside Intel – NXB Lao động – xã hội
2. Tạp chí
¾ Thời báo kinh tế sài gòn
¾ Kinh tế và dự báo
¾ Viet Nam News
3. Web site
¾
¾
¾
¾
¾
¾
¾
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đề Tài-Thực trạng đầu tư của Intel vào Việt Nam 2.pdf