Tài liệu Đề tài Thực trạng công tác thu thuế giá trị gia tăng tại Việt Nam và giải pháp: Thực trạng công tác thu thuế GTGT ở Việt Nam và giải pháp
Nhóm 8 lớp TMA320.3 Page 1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................. 2
Chương 1. Thưc trạng công tác thu thuế GTGT tẠi Việt Nam ............................... 3
1.1. Kết quả thu thuế ............................................................................................... 3
1.2. Cơ cấu thu thuế GTGT ..................................................................................... 3
1.3. Cơ chế quản lý thuế ......................................................................................... 3
1.4. Các hình thức, thủ đoạn gian lận thuế phổ biến .............................................. 4
Chương 2. Thành tựu, hạn chế và nguyên nhân trong công tác thu thuế GTGT ... 6
2.1. Thành tựu ......................................................................................................... 6
2.1.1. Đối với nề...
25 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1384 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Thực trạng công tác thu thuế giá trị gia tăng tại Việt Nam và giải pháp, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thực trạng công tác thu thuế GTGT ở Việt Nam và giải pháp
Nhóm 8 lớp TMA320.3 Page 1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................. 2
Chương 1. Thưc trạng công tác thu thuế GTGT tẠi Việt Nam ............................... 3
1.1. Kết quả thu thuế ............................................................................................... 3
1.2. Cơ cấu thu thuế GTGT ..................................................................................... 3
1.3. Cơ chế quản lý thuế ......................................................................................... 3
1.4. Các hình thức, thủ đoạn gian lận thuế phổ biến .............................................. 4
Chương 2. Thành tựu, hạn chế và nguyên nhân trong công tác thu thuế GTGT ... 6
2.1. Thành tựu ......................................................................................................... 6
2.1.1. Đối với nền kinh tế quốc dân ........................................................................ 6
2.1.2. Đối với việc hoàn thiện chính sách thuế ....................................................... 8
2.1.3. Đối với một số lĩnh vực khác ........................................................................ 9
2.2. Hạn chế .......................................................................................................... 10
2.2.1. Gian lận, thất thu thuế còn nhiều ............................................................... 10
2.2.2. Phối hợp các ngành còn lỏng lẻo ............................................................... 11
2.2.3. Cơ chế quản lý còn chưa hợp lý ................................................................. 12
2. 3. Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập .................................................... 13
2.3.1. Nhìn từ góc độ nhà nước............................................................................ 13
a. Đối tượng chịu thuế .......................................................................................... 13
b. Về thuế suất ....................................................................................................... 13
c. Chế độ hóa đơn chứng từ .................................................................................. 14
d. Quy định khấu trừ và hoàn thuế ....................................................................... 15
e. Thủ tục thành lập công ty còn chưa chặt chẽ ................................................... 15
f. Thời hạn kiểm tra gian lận thuế còn ngắn ......................................................... 16
g. Tổ chức bộ máy, cán bộ ngành thuế còn chưa hoàn thiện ............................... 16
h. Thiếu phương tiện kỹ thuật hỗ trợ .................................................................... 17
2.3.2. Nhìn từ góc độ doanh nghiệp ...................................................................... 18
a. Xuất phát từ động cơ lợi nhuận của các doanh nghiệp .................................... 18
b. Do những bất cập trong thủ tục nộp thuế GTGT .............................................. 18
c. Doanh nghiệp chưa nhận thức đúng nghĩa vụ nộp thuế ................................... 19
2.3.3. Từ góc độ người tiêu dùng .......................................................................... 19
Chương 3. Giải pháp ............................................................................................ 20
3.1. Kiện toàn bộ máy quản lý thuế, nâng cao chất lượng tuyển dụng, đào tạo bồi
dưỡng cán bộ ........................................................................................................ 20
3.2. Về cơ chế chính sách ...................................................................................... 20
3.3. Tăng cường công tác quản lý và sử dụng hoá đơn ........................................ 21
3.4. Ngăn chặn gian lận và hoàn thiện công tác quản lý trong hoàn thuế GTGT 22
3.5. Hoàn thiện công tác quản lý và tổ chức hạch toán thuế GTGT .................... 22
3.6. Tăng cường xử lý nghiêm minh các vụ vi phạm ............................................ 23
3.7. Đẩy mạnh việc hình thành dịch vụ tư vấn thuế.............................................. 23
3.8. Tuyên truyền, giáo dục về thuế GTGT ........................................................... 24
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 25
Thực trạng công tác thu thuế GTGT ở Việt Nam và giải pháp
Nhóm 8 lớp TMA320.3 Page 2
MỞ ĐẦU
Thuế là khoản thu chủ yếu của ngân sách nhà nước, là công cụ quan trọng
để phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân. Trong
đó, thuế giá trị gia tăng là một sắc thuế mới, tiến bộ mới được áp dụng vào Việt
Nam trong thời gian gần đây. Việc áp dụng thuế giá trị gia tăng đã góp phần
tăng thu ngân sách và đóng góp tích cực vào quá trình hiện đại hóa ngành thuế
cũng như quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
Để các tác dụng trên có thể trở thành hiện thực, đòi hỏi phải triển khai
công tác thu thuế trên thực tiễn. Cũng như nhiều sắc thuế khác, việc triển khai
công tác thu thuế trên thực tiễn bên cạnh những thành tựu còn có nhiều hạn chế
cần khắc phục.
Để vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn, góp phần bổ sung vào kho
tàng lý luận của nhà trường, giúp các bạn sinh viên khác có thêm kiến thức cho
môn học Thuế và hệ thống thuế ở Việt Nam, nhóm chúng em nghiên cứu đề tài:
“Thực trạng công tác thu thuế giá trị gia tăng tại Việt Nam và giải pháp”.
Để đạt được mục đích trên, đề tài được nghiên cứu dựa trên Phương pháp
luận chung của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các phương
pháp nghiên cứu cụ thể: phương pháp chuyên gia, tổng hợp số liệu, so sánh…
Đề tài được chia làm 3 phần:
Chương 1. Thực trạng công tác thu thuế GTGT tại Việt Nam
Chương 2. Thành tựu, hạn chế và nguyên nhân trong công tác thu thuế
GTGT
Chương 3. Giải pháp
Thực trạng công tác thu thuế GTGT ở Việt Nam và giải pháp
Nhóm 8 lớp TMA320.3 Page 3
Chương 1. Thực trạng công tác thu thuế GTGT tại Việt Nam
1.1. Kết quả thu thuế
Có 3 yêu cầu mà Chính phủ đã đề ra khi đưa luật thuế GTGT vào thực tế
ở Việt Nam, đó là: không gây khó khăn cho sản xuất kinh doanh, không gây
biến động giá cả và không làm giảm nguồn thu cho ngân sách.
Số thu về thuế GTGT không giảm so với thuế doanh thu trước đây (theo
số liệu báo cáo của Bộ Tài chính tính toán khi đưa thuế GTGT vào áp dụng thì:
Số thuế GTGT khâu nhập khẩu tăng 9000 tỷ, bố trí để hoàn thuế cho hàng xuất
khẩu là 4000 tỷ, đưa vào ngân sách khoảng 5000 tỷ, trong khi đó thu thuế GTGT
nội địa giảm khoảng 5000 tỷ; vậy thu thuế GTGT tương đương với thuế doanh
thu). Tổng số thu cho Ngân sách nhà nước từ thuế, phí và lệ phí hàng năm tăng
rõ rệt, tỷ trọng thuế GTGT trên tổng số thu từ thuế, phí và lệ phí cũng tăng.
Năm 1999 số thu từ thuế GTGT là 17.113 tỷ đồng, chiếm 23% trong tổng
thu NSNN tổng thu từ thuế, phí và lệ phí, đến năm 2007, các con số này là
72.022 tỷ đồng tương ứng là 30,6%. Số thu thuế GTGT năm sau so với năm
trước tăng bình quân là 19,13%. Dự báo trong những năm tới, số thu từ thuế
GTGT vẫn giữ vai trò quan trọng cho ngân sách quốc gia.
1.2. Cơ cấu thu thuế GTGT
Theo xu hướng hiện nay, chúng ta đang cố gắng giảm tỷ trọng thuế gián
thu trong cơ cấu thuế. Theo đó, số thuế GTGT thu vào tăng lên nhưng lại giảm
được tỷ trọng thuế gián thu trong cơ cấu thuế nói chung.
Số thu thuế GTGT được tập trung thu ở khâu sản xuất, khâu nhập khẩu
hàng hóa. Trước đây, khi chưa áp dụng luật thuế GTGT thì cơ cấu giá hàng nhập
khẩu bao gồm: Giá hàng nhập khẩu = Giá CIF + thuế nhập khẩu + thuế tiêu thụ
đặc biệt (nếu có). Khi áp dụng thuế GTGT thì cơ cấu giá hàng nhập khẩu lúc
này còn có thêm cả phần thuế GTGT đánh vào hàng nhập khẩu.
Thuế GTGT thu được từ nội địa chiếm phần lớn trong tổng thu của thuế
GTGT. Cùng với quá trình tăng dần của kim ngạch nhập khẩu, thuế GTGT hàng
nhập khẩu cũng tăng.
1.3. Cơ chế quản lý thuế
Về cơ chế quản lý thuế, từ năm 2003, nước ta cũng đã bắt đầu áp dụng cơ
chế quản lý tự khai, tự nộp thuế. Tuy nhiên do chưa đủ các điều kiện cần thiết nên
chưa thể thực hiện một cách đồng bộ, mà phải thực hiện từng bước một.
Ngày 23/9/2003, Thủ tướng chính phủ đã có Quyết định số 127/2003/QĐ
- Ttg về thực hiện thí điểm cơ chế mới đối với một số doanh nghiệp ở Cục thuế
TP. Hồ Chí Minh và Cục thuế tỉnh Quảng Ninh bắt đầu từ năm 2004 và mở rộng
Thực trạng công tác thu thuế GTGT ở Việt Nam và giải pháp
Nhóm 8 lớp TMA320.3 Page 4
đối với Cục thuế Hà Nội, Bà Rịa – Vũng Tàu trong năm 2005. Qua hơn 5 năm
thực hiện, đã thu được nhiều kết quả tốt, phát huy tính tự giác chấp hành và tự
chịu trách nhiệm của đối tượng nộp thuế.
Việc thực hiện cơ chế mới đã giúp cho năng lực hiệu quả hoạt động của cơ
quan thuế được nâng cao. Bộ máy quản lý thuế được tổ chức chuyên sâu theo
chức năng, các nghiệp vụ quy trình quản lý thuế mới được xây dựng và vận hành.
Các Cục thuế đã thực hiện được việc nhận và xử lý nhanh chóng, chính xác
các tờ khai thuế, theo dõi được các lỗi kê khai của đối tượng nộp thuế: trong tháng
đầu thực hiện cơ chế mới, số tờ khai lỗi rất lớn, chiếm tỉ lệ khoảng 61%. Đến kỳ
kê khai tháng 12/2005 số tờ khai lỗi đã giảm xuống chỉ còn khoảng dưới 10%...
Cho đến nay, cơ chế quản lý tự khai, tự nộp thuế đã được triển khai trên
phạm vi toàn quốc và hình thức cũng đổi mới hơn. Nếu trước đây các nghiệp vụ
kê khai thuế thực hiện trên giấy tờ, tiêu tốn rất nhiều thời gian và công sức thì
nay với việc ứng dụng thương mại điện tử, người kê khai chỉ cần một vài thao
tác trên máy tính là có thể thực hiện kê khai một cách nhanh chóng, rõ ràng và
được ưu tiên hơn rất nhiều. Hiện nay ngành thuế đã xây dựng được mạng máy
tính từ tổng cục đến 64 cục thuế và 625 chi cục thuế. Hệ thống máy tính đã phục
vụ đắc lực cho công cuộc cải cách thuế.
1.4. Các hình thức, thủ đoạn gian lận thuế phổ biến
Tình hình kiểm tra sau hoàn thuế: cơ quan thuế đã tổ chức kiểm tra sau
hoàn thuế được 3.521 cơ sở xin hoàn thuế, đã phát hiện 2 loại vi phạm:
- Loại vi phạm hành chính thuế có 1.490 trường hợp với số thuế được
hoàn là 140 tỷ đồng và đã thu hồi 78 tỷ đồng vào ngân sách nhà nước. Số còn lại
được áp dụng nhiều biện pháp để truy thu tiếp. Đây là các sai phạm mang tính
chất hành chính.
- Loại vi phạm nghiêm trọng cần phải truy cứu trách nhiệm hình sự là trên
300 trường hợp chiếm 0,45% số doanh nghiệp. Nhưng do không có chức năng
điều tra, khởi tố vụ án như các nước trên thế giới nên cơ quan thuế đã chuyển hồ
sơ cho các cơ quan pháp luật để điều tra khởi tố vụ án.
Theo một phân tích, cứ 1000 tỷ đồng mất từ khâu chi ngân sách, thì kéo
theo 420 tỷ nữa mất qua khâu thu! Hãy thử nhẩm tính với số tiền chi từ NSNN
hằng năm hơn 100 ngàn tỷ đồng, trong đó chi lương từ NSNN chỉ khoảng 30
ngàn tỷ. Còn lại, hơn 70 ngàn tỷ chủ yếu là chi cho hàng hoá. Nếu khâu kiểm
soát chi tiêu từ NSNN còn lỏng lẻo như hiện nay (theo đánh giá chung hiện nay,
chi cho lĩnh vực đầu tư XDCB có tỷ lệ thất thoát gần 40%) thì thiệt hại hàng
năm của NSNN sẽ lên đến bao nhiêu? Con số kết quả sẽ thật đáng sợ!
Qua thống kê, hiện có hai hình thức phổ biến gian lận thuế GTGT để xin
hoàn thuế:
Thực trạng công tác thu thuế GTGT ở Việt Nam và giải pháp
Nhóm 8 lớp TMA320.3 Page 5
Thứ nhất, ngụy tạo hồ sơ xuất khẩu. Trường hợp này phải có sự đồng lõa
giữa doanh nghiệp và một số cán bộ hải quan cửa khẩu. Hồ sơ xin hoàn thuế
phải kèm theo bảng kê chứng từ chứng minh xuất khẩu. Nếu hải quan không xác
nhận thì doanh nghiệp không thể nào gian lận và xin hoàn thuế được.
Thứ hai, ngụy tạo hồ sơ nộp thuế GTGT đầu vào trong trường hợp có
hàng hóa thực để xuất khẩu nhưng không nộp thuế GTGT đầu vào.
Những thủ đoạn thường gặp của một số đối tượng gian lận việc hoàn thuế
GTGT:
- Bán hàng không xuất hoá đơn để che dấu doanh thu đầu ra, làm cơ sở
cho việc tính thuế GTGT, nhằm chiếm đoạt số tiền thuế GTGT người mua đã
nộp cho người bán.
- Giá cả và số lượng khi xuất hoá đơn bán hàng ghi trong liên lưu nhỏ hơn
liên giao.
- Không có giao dịch, nhưng “bên bán” thông đồng với bên mua vẫn xuất
hoá đơn ghi và giao cho “bên mua”, nhằm hợp thức hoá số hàng đầu vào cho
“bên mua” khi khấu trừ hoặc hoàn thuế.
- Thông đồng với các doanh nghiệp xuất khẩu lập hoá đơn khống để kê
khai hoàn thuế khi xuất khẩu, sau đó chi nhau số tiền hoàn thuế.
Thực trạng công tác thu thuế GTGT ở Việt Nam và giải pháp
Nhóm 8 lớp TMA320.3 Page 6
Chương 2. Thành tựu, hạn chế và nguyên nhân trong công tác thu thuế
GTGT
2.1. Thành tựu
2.1.1. Đối với nền kinh tế quốc dân
Thuế GTGT thu trên giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ ở các khâu
sản xuất, lưu thông nên khắc phục được nhược điểm cơ bản của Luật thuế doanh
thu là thu trùng lặp qua các khâu sản xuất, kinh doanh, tạo sự công bằng hơn về
thuế, từ đó góp phần thực hiện hợp tác và chuyên môn hoá trong sản xuất kinh
doanh, khuyến khích phát triển và mở rộng sản xuất, lưu thông hàng hoá. Điều
này đã góp phần tích cực vào việc lấy lại đà tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao.
Bắt đầu có hiệu lực năm 1999 – năm mà tăng trưởng kinh tế nằm ở điểm
đáy so với các năm trước và sau nó. Có ý kiến đã cho rằng nguyên nhân của
mức tăng trưởng thấp đó là do việc áp dụng luật thuế GTGT đã gây ảnh hưởng
đến cả người sản xuất và tiêu dùng, việc quy định nhiều nhóm hàng hóa, dịch vụ
không thuộc diện chịu thuế GTGT khiến cho giá thành sản phẩm của những
doanh nghiệp sử dụng đầu vào là những loại hàng hoá dịch vụ này tăng lên,
những sản phẩm sử dụng nguyên liệu chủ yếu là hàng nhập khẩu cũng như
những mặt hàng nhập khẩu giá cả cũng sẽ tăng bởi vì ngoài thuế nhập khẩu,
hàng nhập khẩu còn phải chịu thêm thuế GTGT. Bởi vậy, các mặt hàng này sẽ
có sức tiêu thụ kém đi và làm cho doanh thu của các đơn vị kinh tế ít hơn so với
trước, làm giảm mức tăng trưởng chung của nền kinh tế.
Thực tế, khi phân tích nguyên nhân của tình trạng giảm sút tốc độ tăng
trưởng năm 1999 thì người ta thấy rằng nguyên do chủ yếu của hiện trạng trên là
do tác động của cuộc khủng hoảng tiền tệ khu vực năm 1997- 1998 cộng với sự
giảm sút của vốn đầu tư nước ngoài (vốn đăng ký năm 1995 là 6531 triệu USD,
năm 1996 là 8497 triệu USD, năm 1997 chỉ còn 4649 triệu USD, năm 1998 còn
3897 triệu USD và năm 1999 đã giảm xuống còn 1568 triệu USD). Như vậy, khi
áp dụng thuế GTGT vào Việt Nam không những không làm giảm tốc độ tăng
trưởng kinh tế mà còn thúc đẩy tăng trưởng, điều đó đã được chứng minh qua sự
phát triển của nền kinh tế nước ta các năm sau đó.
Ngược lại, việc thu thuế GTGT hiệu quả và hoàn thuế GTGT đầu vào đối
với các dự án đầu tư đã tạo thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển công nghệ, đầu
tư đổi mới tài sản cố định, góp phần thúc đẩy vốn đầu tư xã hội tăng trưởng,
khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất kinh doanh cả về chiều rộng
lẫn chiều sâu. Các con số mà Báo cáo tổng kết tình hình thực hiện luật thuế giá
trị gia tăng (2008) đưa ra là khá khả quan:
Thực trạng công tác thu thuế GTGT ở Việt Nam và giải pháp
Nhóm 8 lớp TMA320.3 Page 7
- Số thuế GTGT hoàn cho các dự án đầu tư và xuất khẩu hàng hoá, dịch
vụ tăng qua các năm: năm 1999 là 2.700 tỷ đồng, chiếm 15,7% tổng thu từ thuế
GTGT của năm, đến năm 2005 là 14.830 tỷ đồng (32,4% tổng thu từ thuế
GTGT), năm 2006 là 18.037 tỷ đồng (32,7% tổng thu từ thuế GTGT) và năm
2007 là 24.650 tỷ đồng (34,2% tổng thu từ thuế GTGT).
- Vốn đầu tư toàn xã hội so GDP tăng qua các năm: năm 2003 là 35,5% ,
năm 2004 là 36,2%, năm 2005 là 39,8%; 2006 là 40,9%. Giai đoạn 2006-2010,
tăng trưởng các năm khá mạnh, tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP)
năm 2006 đạt 8,23%, năm 2007 đạt 8,46%, năm 2008 đạt 6,31%, năm 2009 đạt
5,32% và năm 2010 đạt 6,78%. Bình quân thời kỳ 2006-2010, tăng trưởng kinh
tế đạt 7,01%/năm, trong đó bình quân giai đoạn 2006-2007 đạt 8,34%; bình quân
giai đoạn 2008-2010 đạt 6,14% do ảnh hưởng của lạm phát tăng cao và suy thoái
kinh tế thế giới. GDP/người tăng từ 11694 nghìn đồng năm 2006 lên 22778 nghìn
đồng năm 2010, gấp gần 2 lần, tương đương 11084 nghìn đồng. Nếu tính theo
USD, GDP/người tăng từ 730 USD năm 2006 lên 1168 USD năm 2010, gấp 1,6
lần, tương đương mức tăng 438 USD.
Rõ ràng thì với sự ra đời của thuế GTGT, đã góp phần tạo hàng lang pháp
lý thuận lợi cho việc thu hút đầu tư từ nước ngoài. Tốc độ tăng vốn đầu tư theo
giá trực tiếp năm 1998 là 8,1% đến năm 1999 sau một năm luật thuế GTGT đi
vào thực tiễn tốc độ này đã tăng lên đáng kể 12%.
Đối với nền kinh tế nói chung, tác động của thuế GTGT còn được thể hiện
thông qua hoạt động xuất nhập khẩu.
Thứ nhất, thuế GTGT đánh trên hàng nhập khẩu mới hình thành mặt bằng
giá tính thuế bình đẳng với hàng sản xuất trong nước. Thông thường đối với hàng
hoá xuất khẩu các nước đều không thu thuế GTGT nên nước nhập khẩu thu thuế
GTGT nhằm thực hiện cân đối lại thuế đối với việc tiêu dùng loại hàng hoá này.
Theo quy định hiện hành, đối với hàng hoá nhập khẩu, ngoài thuế nhập
khẩu còn phải nộp thêm thuế GTGT. Như vậy, giá hàng nhập khẩu đã tăng lên
đáng kể do phải nộp thêm thuế GTGT ngay khi hàng hóa vừa được nhập vào
trong nước. Điều này sẽ làm cho các doanh nghiệp không thể nhập khẩu hàng
hoá một cách ồ ạt, thiếu tính toán, bởi vì việc phải chịu thêm thuế GTGT đồng
nghĩa với việc lợi nhuận của doanh nghiệp cũng bị giảm sút. Lúc này họ sẽ phải
cân nhắc, xem xét kỹ càng tính hiệu quả của hàng hoá nhập khẩu, hạn chế nhập
khẩu những mặt hàng không cần thiết mà doanh nghiệp trong nước đã sản xuất
được hay những mặt hàng có giá nhập khẩu cao mà sức mua trên thị trường nội
địa lại thấp.
Còn đối với các doanh nghiệp sản xuất trong nước, việc đánh thuế GTGT
đối với hàng nhập khẩu cũng là cơ hội để tăng sức cạnh tranh của hàng nội địa
với hàng nhập khẩu. Giá cả của các mặt hàng nhập khẩu cũng sẽ tăng lên do
doanh nghiệp nhập khẩu muốn bảo toàn mức lợi nhuận bình quân của mình. Tuy
Thực trạng công tác thu thuế GTGT ở Việt Nam và giải pháp
Nhóm 8 lớp TMA320.3 Page 8
nhiên, mức độ tăng giá sẽ là mức tối thiểu do sự cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp nhập khẩu và các doanh nghiệp trong nước. Lúc này, giải pháp tốt nhất
cho các doanh nghiệp nhập khẩu là cải tiến quá trình sản xuất kinh doanh, tiết
kiệm chi phí.
Tác động vào hoạt động nhập khẩu là tác động vào sự tăng trưởng của nền
kinh tế, bởi vì, trong bối cảnh hội nhập hiện nay cùng với việc cắt giảm thuế
nhập khẩu thì thuế GTGT đánh vào hàng nhập khẩu sẽ bảo hộ sản xuất trong
nước, giảm tình trạng nhập siêu, khuyến khích sản xuất trong nước.
Thứ hai, theo luật thuế GTGT hiện hành thì mức thuế suất 0% được áp
dụng đối với hầu hết các loại hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu. Như vậy, các doanh
nghiệp không những không phải nộp thuế GTGT đầu ra mà còn được hoàn thuế
GTGT đầu vào. Điều này đã khuyến khích hoạt động xuất khẩu rất nhiều.
Kim ngạch xuất khẩu hàng năm tăng cao cả vể số tuyệt đối và tỷ lệ so với
năm trước: năm 2003 đạt xấp xỉ 20 tỉ USD tăng 19%, năm 2004 đã tăng lên là
26 tỉ USD tăng 28,9%, năm 2005 đạt 33,0 tỉ USD tăng 21,9% và năm 2006 đạt
39,6 tỷ USD tăng 20%, năm 2007 đạt 48 tỷ USD tăng 22,4%. Kim ngạch xuất
khẩu các mặt hàng ngày càng tăng, từ 4 mặt hàng có kim ngạch trên 3 tỷ USD
năm 2006 tăng lên 8 mặt hàng năm 2010.
Đối với vấn đề giá cả, khi bắt đầu áp dụng thuế GTGT do tâm lý của các
đối tượng chưa thực sự hiểu đúng bản chất của sắc thuế mới này mà giá cả của
một số mặt hàng có nhích lên một chút như thuốc tân dược ngoại tăng từ 5-10%;
cước phí đường sắt, hàng không, chuyển phát nhanh tăng 10%...Tuy nhiên
những biến động đó chỉ xảy ra trong một thời gian ngắn, nhờ sự cố gắng nỗ lực
của các cơ quan thuế trong việc giải thích, tuyên truyền về thuế GTGT một cách
đầy đủ. Phát huy ưu điểm là tránh được hiện tượng đánh trùng của thuế doanh
thu, việc thực hiện đúng những quy định của thuế GTGT buộc các doanh nghiệp
phải bán hàng theo giá niêm yết, không có cơ hội đội giá lên cao, nhờ đó giá cả
được giữ ổn định.
Năm 1998 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực, trong
nước lại luôn phải đối mặt với thiên tai, chỉ số giá tiêu dùng tăng cao ở mức
9,2%. Đến năm 1999, sau một năm luật thuế GTGT được áp dụng, giá cả trong
từng quý cũng có sự biến động nhưng tổng kết cả năm sự biến động lại rất nhỏ.
Nói tóm lại, việc áp dụng luật thuế GTGT đã góp phần không nhỏ vào
việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của đất nước.
2.1.2. Đối với việc hoàn thiện chính sách thuế
Thuế GTGT là một sắc thuế tiến bộ và việc nghiên cứu, xây dựng và triển
khai luật thuế này đã góp phần hoàn thiện hệ thống chính sách thuế của Việt Nam.
Thực trạng công tác thu thuế GTGT ở Việt Nam và giải pháp
Nhóm 8 lớp TMA320.3 Page 9
Để đạt được hiệu quả cao nhất từ luật thuế này thì Chính phủ, Quốc hội
đồng thời phải xây dựng đồng bộ các luật thuế có liên quan, điều này đánh dấu
bước tiến mới trong hệ thống chính sách thuế ở Việt nam, sự đổi mới đó phù
hợp với yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường, đồng thời cũng phù hợp
với thông lệ quốc tế.
Khi các nước trong khu vực và trên thế giới hầu hết đều đã hoặc đang
nghiên cứu áp dụng thuế GTGT thì chúng ta cũng không thể giữ mãi luật thuế
doanh thu chồng chéo, nhiều mức thuế suất. Bởi vậy, thay đổi cũng là một yếu
tố tất nhiên.
Khi sắc thuế GTGT đi vào cuộc sống đã luôn được các cơ quan chức năng
quan tâm theo dõi, điều chỉnh những thiếu sót, bất hợp lý một cách kịp thời.
Thuế GTGT là một sắc thuế hiện đại, khi áp dụng nó đòi hỏi phải có cơ chế
quản lý thuế hiện đại, do đó sẽ thúc đẩy quá trình cải cách hệ thống thuế ở nước
ta theo hướng đồng bộ có hiệu quả.
2.1.3. Đối với một số lĩnh vực khác
Thứ nhất, thực hiện thuế GTGT với 3 mức thuế suất 0%; 5%; 10%; ít hơn
so với 11 mức thuế suất thuế doanh thu trước đây (từ 0,5% đến 30%) đòi hỏi các
doanh nghiệp phải tổ chức lại sản xuất kinh doanh, thực hiện hạch toán kinh
doanh, tính toán giá thành, giá bán phù hợp với thị trường và nộp được thuế,
nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Hầu hết các doanh nghiệp thuộc các ngành như: cơ khí, xây dựng, vận tải,
dệt may, da giày trước khi áp dụng luật thuế GTGT còn gặp nhiều khó khăn,
kinh doanh không hiệu quả; sau khi áp dụng thuế thì đa số các doanh nghiệp sản
xuất kinh doanh có hiệu quả hơn trước và nộp đủ thuế theo quy định.
Thứ hai, thực hiện luật thuế mới ngành thuế đã thực hiện một bước củng
cố tổ chức, hoàn thiện và đổi mới quy trình. Trong thời gian qua, ngành thuế đã
xây dựng và ngày một hoàn thiện hệ thống nghiệp vụ quản lý thuế tương đối
đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện, tăng dần tính công khai minh bạch. Kiện toàn bộ
máy tổ chức ngành thuế dọc từ trung ương đến tỉnh, huyện, thực hiện song trùng
lãnh đạo giữa ngành và địa phương. Tổ chức bộ máy theo mô hình kết hợp giữa
quản lý theo chức năng, theo đối tượng và theo sắc thuế. Đào tạo được đội ngũ
gần bốn vạn cán bộ thuế có trình độ nghiệp vụ khá, có phẩm chất đạo đức tốt.
Thứ ba, góp phần thực hiện thành công các cam kết trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế
Hầu hết các nước trên thế giới đã áp dụng thuế GTGT. Việc ban hành
Luật thuế tạo điều kiện thuận lợi cho việc đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh
và hoạt động thương mại của các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài. Theo cam kết khi hội nhập kinh tế quốc tế, nước ta phải
cắt giảm thuế nhập khẩu, đồng thời phải bãi bỏ các khoản trợ cấp trực tiếp từ
Thực trạng công tác thu thuế GTGT ở Việt Nam và giải pháp
Nhóm 8 lớp TMA320.3 Page 10
ngân sách cho doanh nghiệp, việc thu thuế GTGT đối với hàng hoá nhập khẩu,
hoàn thuế cho hàng hoá xuất khẩu đã góp phần điều chỉnh cơ chế kinh tế phù
hợp với thông lệ quốc tế nhưng vẫn đảm bảo yêu cầu khuyến khích doanh
nghiệp xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ, bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước và bù
đắp cho Ngân sách phần thiếu hụt do cắt giảm thuế nhập khẩu.
2.2. Hạn chế
2.2.1. Gian lận, thất thu thuế còn nhiều
Thất thu thuế được hiểu là hiện tượng trong đó những khoản tiền từ các cá
nhân, tổ chức có tiến hành các hoạt động sản xuất, kinh doanh hay có những
điều kiện cơ sở vật chất nhất định so với khả năng của họ cần phải động viên
vào ngân sách nhà nước (NSNN), song vì những lý do xuất phát từ phía nhà
nước hay người nộp thuế mà những khoản tiền đó không được nộp vào NSNN.
Thất thu thuế là một hiện tượng thực tế khách quan vốn có của bất kỳ hệ
thống thuế khoá nào. Nó phản ánh hai mặt của một vấn đề: lợi ích của Nhà nước
và lợi ích của người nộp thuế. Trên thực tế thì hai lợi ích này thường mâu thuẫn
với nhau, Nhà nước luôn có khuynh hướng tăng nguồn thu từ thuế, trong khi đó
người nộp thuế luôn mong muốn càng giảm số thuế phải nộp càng nhiều càng
tốt. Hay nói cách khác, ở đâu có thuế khoá thì ở đó có thất thu.
Ở nước ta, hiện tượng gian lận trong khấu trừ, hoàn thuế giá trị gia tăng
ngày càng lâm vào tình cảnh rất đáng lo ngại. Cho đến ngày 30/9/2002 tổng số
hồ sơ do các doanh nghiệp gởi đến cơ quan thuế đề nghị hoàn là 30.340 bộ, với
tổng số tiền thuế đề nghị hoàn là 18.054 tỷ đồng. Cơ quan thuế các cấp đã kiểm
tra hồ sơ hoàn thuế tại nhiều sở và đã loại trừ 4.272 hồ sơ không đủ căn cứ hoàn
thuế: mắc các sai phạm về hành chính thuế hoặc phát hiện có mâu thuẫn về số
liệu kê khai xin hoàn thuế, không đủ độ tin cậy... với số tiền là 3.138 tỷ đồng,
bằng 17,4% số tiền đề nghị hoàn.
Như vậy, hiện tượng gian lận trong việc khấu trừ, hoàn thuế GTGT đã
vượt quá điểm báo động đáng lo ngại, nó không chỉ gây thiệt hại về nguồn thu
cho ngân sách Nhà nước mà còn có những tác động xấu đến hoạt động sản xuất
kinh doanh và sự tăng trưởng của nền kinh tế.
Mặc dù ngành thuế ngày càng có nhiều nỗ lực, nhưng các biện pháp
chống thất thu thuế xem ra chưa hữu hiệu, dường như người ta mới tận thu được
với các đơn vị và công dân gương mẫu trong nghĩa vụ thuế, còn những người cố
tình trốn thuế thì không bị chế tài.
Rất nhiều doanh nghiệp, khách sạn, cửa hàng… không làm hóa đơn cho
khách hàng, còn khách hàng thì rất nhiều người cũng không có nhu cầu lấy hóa
đơn (trừ những doanh nghiệp cần có hóa đơn để khấu trừ thuế giá trị gia tăng).
Phần lớn khoản doanh thu không nhỏ đó Nhà nước không thu được thuế, cả thuế
Thực trạng công tác thu thuế GTGT ở Việt Nam và giải pháp
Nhóm 8 lớp TMA320.3 Page 11
giá trị gia tăng lẫn thuế thu nhập doanh nghiệp. Tình trạng đó không những gây
tổn hại cho lợi ích của đất nước mà còn tạo ra sự bất bình đẳng về nghĩa vụ thuế
của công dân, vô hình trung tạo thêm sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các
doanh nghiệp.
2.2.2. Phối hợp các ngành còn lỏng lẻo
Một khó khăn hiện nay đang đặt ra với ngành Thuế là, khi phát hiện ra
dấu hiệu vi phạm của các doanh nghiệp đang tồn tại sử dụng hóa đơn GTGT của
doanh nghiệp vi phạm bỏ trốn, nhưng lại thiếu chế tài xử lý cụ thể đối với những
trường hợp vi phạm đó. Thế nên, ngành Thuế chỉ có thể trao đổi theo diện phối
hợp giữa cơ quan Thuế và cơ quan Công an để điều tra làm rõ.
Sự thống nhất hoạt động giữa các cơ quan chức năng còn chưa cao, một
số còn chưa nhiệt tình trong việc cung cấp các thông tin để cơ quan thuế tổng
hợp nhằm đưa ra những giải pháp bổ sung kịp thời cho các sắc thuế. Cụ thể:
- Việc cấp giấy phép kinh doanh của cơ quan Bộ, Sở Đầu tư, UBND tỉnh –
thành phố các cấp không gắn liền với việc kê khai đăng ký kinh doanh, đăng ký
nộp thuế của các đơn vị với cơ quan thuế, từ đó nhiều doanh nghiệp tuy có quyết
định thành lập nhưng địa điểm và hoạt động ở đâu, từ bao giờ, cơ quan thuế cũng
như cơ quan ban hành quyết định thành lập doanh nghiệp cũng không tìm ra.
- Do việc Ngân hàng phải đảm bảo bí mật về thông tin và quyền lợi của
người gửi tiền (chủ tài khoản) nên sự phối hợp giữa cơ quan thuế và ngân hàng
trong việc thực hiện cưỡng chế để đảm bảo thu đủ tiền thuế vào NSNN của đối
tượng nộp thuế theo qui định của pháp luật chưa được thực hiện.
- Xử lý các hành vi vi phạm của các cơ quan chức năng còn chậm và chưa
nghiêm là một nguyên nhân làm cho việc chiếm dụng tiền thuế ngày càng
nghiêm trọng. Cụ thể là một số doanh nghiệp được hoàn thuế GTGT bị cơ quan
thuế và công an phát hiện có sự gian lận, nhưng cho đến nay vẫn chưa được xử
lý dứt điểm với nhiều lý do như thiếu kinh phí, con người để điều tra, xác minh
hoặc tội danh chưa rõ. Đối với những trường hợp đã bị xử lý thì mức phạt chưa
nghiêm không có tác dụng răn đe, giáo dục.
- Việc cưỡng chế thi hành các quyết định xử lý về thuế, về phạt có nhiều
bất cập về lực lượng, tổ chức, các trình tự thủ tục cưỡng chế đảm bảo thu đủ tiền
thuế, tiền phạt...
- Công tác thống kê, khai thác thông tin kinh tế - xã hội trong công tác
quản lý thu thuế bị coi nhẹ dẫn đến các cơ quan quản lý Nhà nước không nắm
sát tình hình sản xuất kinh doanh ở địa phương nên khi kiểm tra không so sánh
đối chiếu được thực lực, khả năng nguồn hàng của địa phương cung cấp để từ đó
có cơ sở đối chiếu, đấu tranh với các hành vi sai phạm, cũng như hoạch định
chính sách kinh tế của địa phương.
Thực trạng công tác thu thuế GTGT ở Việt Nam và giải pháp
Nhóm 8 lớp TMA320.3 Page 12
- Về phía cơ quan pháp luật (Công an, Viện kiểm soát) do lực lượng cán
bộ chưa nắm rõ và cập nhật đầy đủ các chính sách, chế độ, nghiệp vụ trong lĩnh
vực thuế, chưa quan tâm được nhiều tới việc bố trí lực lượng đủ mạnh để phối
hợp thường xuyên với cơ quan thuế trong công tác điều tra xác định rõ hành vi
sai phạm của các đối tượng trong lĩnh vực thuế để xử lý công khai kịp thời các
tội phạm trốn thuế, chiếm đoạt tiền thuế, nhằm giáo dục răn đe các đối tượng
khác trong việc kê khai, thực hiện nghĩa vụ thuế.
Việc trao đổi thông tin, uỷ thác điều tra, xác minh giữa Việt Nam và các
nước khác trong lĩnh vực thuế còn hạn chế.
2.2.3. Cơ chế quản lý còn chưa hợp lý
Đối với hệ thống thuế nói chung và riêng với sắc thuế GTGT, một điều
đáng chú ý là hệ thống cơ quan hành thu còn quá cồng kềnh, số lượng cán bộ
thuế nhiều mà tỷ lệ thanh tra thuế lại không đáng kể … Các khâu hành thu phức
tạp, một số trường hợp còn xảy ra hiện tượng chồng chéo…
Khi áp dụng cơ chế hành thu tự khai, tự nộp do các điều kiện cần thiết chưa
xuất hiện một cách đồng bộ nên vẫn xảy ra hiện tượng trốn lậu thất thoát thuế.
Công tác quản lý mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu trong thời kỳ mới
nhưng vẫn còn nhiều bất cập trên tất cả các lĩnh vực từ thể chế đến cách thức
quản lý. Quản lý thuế hầu hết dựa trên kinh nghiệm, chưa khoa học, hợp lý.
Sau một thời gian khi Luật thuế GTGT đã đi vào thực tiễn thì vẫn còn tồn
tại một số bất cập trong quản lý và tổ chức như chức năng, nhiệm vụ điều tra
khởi tố, cưỡng chế thu nợ thuế chưa đủ cơ sở pháp lý...
Thực hiện đề án 30 của chính phủ về cải cách thủ tục hành chính, cho đến
năm 2010, Bộ tài chính cho biết đã hủy bỏ được 11 thủ tục hành chính, thay thế
4 thủ tục mới, sửa đổi bổ sung 243 thủ tục, đơn giản hóa được 76% và cắt giảm
được 36,1% chi phí tuân thủ. Tuy nhiên doanh nhiệp vẫn gặp nhiều thủ tục hành
chính rườm rà và đặc biệt trong Hội nghị đối thoại giữa Tổng cục thuế, Bộ tài
chính và các doanh nghiệp ngày 16/6/2010, nhiều doanh nghiệp đã cho ý kiến về
vấn đề bị đối xử bất công cũng như cung cách làm việc còn nặng tính quan liêu,
hách dịch của cán bộ ngành thuế [1].
Bên cạnh đó, ngành thuế còn chưa thực hiện hết chức năng của mình
trong trường hợp thực hiện trách nhiệm xử phạt hành chính đối với các trường
hợp gian lận thuế GTGT.
1 Nguyễn Hồng Thắng – ĐH Kinh tế TP.HCM, Hiện tượng gian lận thuế giá trị gia tăng: nguyên
nhân và biện pháp khắc phục, 30/8/2009, Luật Việt ,
trao-doi/kinh-te-thuong-mai/2009/8556/Hien-tuong-gian-lan-thue-gia-tri-gia-tang-nguyen-nhan-
va.aspx . truy cập ngày 1/4/2011
Thực trạng công tác thu thuế GTGT ở Việt Nam và giải pháp
Nhóm 8 lớp TMA320.3 Page 13
2. 3. Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập
2.3.1. Nhìn từ góc độ nhà nước
a. Đối tượng chịu thuế
Chính sách hiện hành quy định hàng hóa thủy sản chưa qua chế biến
không chịu thuế GTGT, do đó nếu các doanh nghiệp thu mua trực tiếp của người
sản xuất không có hóa đơn thì được lập hóa đơn mua hàng Nông - lâm - thủy sản
nhưng không được khấu trừ thuế GTGT đầu vào. Khi xuất bán cho các nhà máy
chế biến thủy sản, doanh nghiệp phải kê khai nộp thuế GTGT 5% vào ngân sách
nhà nước. Từ đặc điểm này, một số doanh nghiệp đã mua bán hóa đơn GTGT
khống để làm chứng từ đầu vào khấu trừ thuế GTGT, chiếm đoạt 5% tiền thuế.
Ngoài ra, khi bàn về đối tượng chịu thuế, không chịu thuế của luật thuế
GTGT thì Điều 5 và Điều 8 của luật đã quy định rõ ràng những đối tượng nào
không phải chịu thuế, đối tượng chịu thuế suất 0%, 5%, 10%. Trong bối cảnh
nền kinh tế mở cửa và hội nhập như hiện nay thì không những chỉ có những đối
tượng như vậy mà còn xuất hiện nhiều đối tượng mới, vậy những trường hợp
này thì sẽ xử lý như thế nào? Điều này tạo ra sự thiếu công bằng trong việc áp
thuế và không bao quát hết các hàng hóa, dịch vụ.
b. Về thuế suất
Từ khi chuyển sang áp dụng thuế GTGT, số lượng mức thuế suất giảm đi
rất nhiều so với 11 mức thuế suất trước kia của thuế doanh thu, mặt khác lại còn
thường xuyên được xem xét sửa đổi (giảm từ 4 mức thuế suất xuống còn 3 mức
thuế suất như hiện nay), bởi vậy đã thu được nhiều thành công đáng kể. Tuy
nhiên, trong quá trình thực hiện cũng xuất hiện nhiều hạn chế cần phải xem xét
của hệ thống nhiều mức thuế suất này.
Trước hết, việc có nhiều mức thuế suất làm cho công tác xây dựng chính
sách của các cơ quan có chức năng gặp nhiều khó khăn. Lúc này, muốn tạo ra
một sắc thuế thật công bằng thì cơ quan hoạch định chính sách phải xây dựng
các tiêu chuẩn phân loại hàng hóa, dịch vụ để từ đó áp vào các nhóm thuế suất
khác nhau. Điều này không phải lúc nào cũng được thực hiện thuận lợi vì sự
khác nhau giữa các loại hàng hóa là rất khó phân định, sẽ có nhiều ý kiến phản
hồi từ các đối tượng chuyển đến, đặt ra một vấn đề là lại phải tốn một khoản chi
phí nhất định để tổ chức trả lời giải thích cụ thể…
Tiếp theo là đối với các doanh nghiệp, không phải doanh nghiệp nào cũng
chỉ sản xuất kinh doanh một loai hàng hóa nhất định và cũng không phải tất cả
nguyên liệu đầu vào của các doanh nghiệp đều chịu một mức thuế suất như
nhau, bởi vậy nên công tác tính toán thuế của họ sẽ trở nên rất phức tạp với
nhiều mức thuế suất. Do đó, doanh nghiệp có thể lợi dụng để trốn lậu thuế.
Thực trạng công tác thu thuế GTGT ở Việt Nam và giải pháp
Nhóm 8 lớp TMA320.3 Page 14
c. Chế độ hóa đơn chứng từ
Một trong những khó khăn vướng mắc lớn nhất trong quá trình thực hiện
luật thuế GTGT ở nước ta là vấn đề về hóa đơn chứng từ. Do đặc điểm của luật
thuế GTGT là tăng cường hạch toán kinh tế và thực hiện chặt chẽ nguyên tắc
dựa vào hóa đơn mua hàng để khấu trừ số thuế GTGT đã nộp ở khâu trước, tuy
nhiên nền kinh tế của nước ta hiện nay việc mua bán được thanh toán chủ yếu
bằng tiền mặt, một số lượng lớn các giao dịch không cần tới hóa đơn nên những
khó khăn khi áp dụng thuế GTGT là điều khó tránh khỏi.
Trong bối cảnh đó, luật thuế GTGT lại quy định quá nhiều loại hóa đơn,
bên cạnh hóa đơn dành cho các cơ sở áp dụng theo phương pháp trực tiếp và
phương pháp khấu trừ còn có các loại hóa đơn đặc thù kể cả bảng kê mua hàng
hóa của người không có hóa đơn… Các hóa đơn đều có tính pháp lý như nhau
do Luật thuế quy định.
Chế độ hoá đơn chưa được thi hành nghiêm chỉnh với nhiều thủ đoạn trốn
lậu thuế tinh vi từ hoá đơn giả đến hoá đơn "đen" (mua của cơ quan thuế về bán
lại cho cơ sở kinh doanh khác sử dụng để hợp pháp hoá việc mua bán hàng trốn
lậu thuế), thành lập các doanh nghiệp mua bán hóa đơn, ghi doanh thu trên liên
hoá đơn lưu tại cơ sở và trên liên giao cho khách chênh lệch đến hàng chục,
hàng trăm lần… đang trở thành con dao 2 lưỡi trong công tác quản lý thu thuế.
Cụ thể:
- Do luật doanh nghiệp quá thông thoáng, thủ tục thành lập doanh nghiệp
đơn giản, không có sự kiểm tra kịp thời sau đăng ký kinh doanh, chưa theo dõi
được liên tục tình hình hoạt động của doanh nghiệp sau đăng ký. Do vậy, hàng
ngàn doanh nghiệp không kinh doanh hoặc đã bỏ kinh doanh nhưng không được
phát hiện kịp thời, trong khi cơ quan thuế vẫn bán hoá đơn trên cơ sở hồ sơ đăng
ký kinh doanh đã được cấp.
- Đối với hộ kinh doanh nộp thuế theo phương pháp trực tiếp: qui định
hiện hành là không phải lập bảng kê hoá đơn bán hàng (mẫu 02/GTGT). Do vậy,
cơ quan thuế không có cơ sở để kiểm tra, đối chiếu việc sử dngj hoá đơn của các
hộ kinh doanh nộp thuế theo phương pháp trực tiếp, trong khi các hoá đơn này
được khấu trừ theo tỷ lệ % trên giá mua vào.
- Theo qui định tại công văn số 6615/TC/TCT ngày 16/7/2001 của Bộ Tài
chính: đối với số hàng hoá bán lẻ cho khách hàng không lấy hoá đơn, cuối ngày
đơn vị bán hàng phải lập một hoá đơn chung cho số hàng này và liên 2 (giao cho
khách hàng) được lưu tại quyển. Nhiều doanh nghiệp đã không thực hiện qui
định này và vẫn xé liên 2, gây thất lạc, mất. Đồng thời một số doanh nghiệp đã
lợi dụng việc không phải giao liên 2 cho khách hàng để báo mất những liên 2
này và dùng để xuất hàng hoá, dịch vụ cho các đơn vị hoặc bán cho người khác
sử dụng.
Thực trạng công tác thu thuế GTGT ở Việt Nam và giải pháp
Nhóm 8 lớp TMA320.3 Page 15
- Việc xử lý các hành vi vi phạm trong quản lý, sử dụng hoá đơn hiện nay
không được qui định tại nhiều văn bản khác nhau, không thống nhất hoặc không
cụ thể, gây khó khăn cho việc thực hiện xử lý vi phạm ở các địa phương .
d. Quy định khấu trừ và hoàn thuế
Luật thuế GTGT quy định thuế suất 0% đối với đa số hàng hóa, dịch vụ
xuất khẩu nhằm khuyến khích xuất khẩu. Tuy nhiên, lợi dụng quy định này một
số đơn vị đã kê khai khống hàng hóa xuất khẩu mà thực ra là tiêu thụ trong nước
nhằm chiếm đoạt toàn bộ thuế đầu vào đã nộp cho ngân sách nhà nước. Mặc dù
đã có những quy định bổ sung về điều kiện chứng minh hàng xuất khẩu nhưng
vẫn không loại bỏ hết được tình trạng này.
Bên cạnh đó, trong quá trình thực hiện hoàn thuế GTGT đối với các nhà
thầu chính của dự án ODA, cơ quan thuế rất khó xác định chính xác số thuế
GTGT đầu vào của nhà thầu chính, vì họ chỉ được hoàn thuế GTGT đầu vào của
hàng hóa, dịch vụ mua vào để thực hiện hợp đồng ký với chủ dự án, nhưng trên
thực tế có nhiều hàng hóa nhà thầu chính mua vào phục vụ cho nhiều dự án
ngoài hợp đồng đã ký cho dự án ODA.
Việc quy định “hoàn thuế trong trường hợp có quyết định xử lý hoàn thuế
của cơ quan có Nhà nước có thầm quyền” là một quy định làm mất định tính
thực thi của Luật Thuế GTGT. Hơn nữa với quy định này sẽ dẫn đến tình trạng
lạm dụng và tuỳ tiện trong quá trình quyết định hoàn thuế.
e. Thủ tục thành lập công ty còn chưa chặt chẽ
Hiện nay, thủ tục xin thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH)
hoặc công ty cổ phần quá thông thoáng. Chính sách mở cửa của Nhà nước đã tạo
điều kiện thuận lợi cho các đối tượng có nhu cầu thành lập doanh nghiệp. Tuy
nhiên, bên cạnh những mặt tích cực trong cấp phép thành lập doanh nghiệp,
người ta vẫn thấy sự hạn chế đáng báo động về vấn đề này. Đó là việc các cơ
quan hữu quan chưa có được sự phối hợp đồng bộ trong công tác quản lý và
giám sát chặt chẽ doanh nghiệp kể từ khi họ làm thủ tục "khai sinh".
Trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh do Sở Kế hoạch và Đầu tư
cấp, người ta thấy doanh nghiệp nào cũng đăng ký quá nhiều ngành nghề và số
vốn điều lệ cũng rất lớn. Song, cơ quan cấp phép lại chẳng hề đi thẩm định thực
tế những lời khai trong hồ sơ của người xin cấp phép.
Điều này cũng chẳng thể trách cơ quan cấp phép, vì họ cũng thực hiện
theo quy định. Và chỉ cần sự hợp thức hóa, không ít chủ doanh nghiệp sẽ "lái"
công ty của họ đi theo hướng khác.
Cụ thể là sau khi "khai sinh", nhiều công ty không hoạt động kinh doanh
như đã đăng ký, mà lại kinh doanh những ngành nghề khác có lợi nhuận hơn,
Thực trạng công tác thu thuế GTGT ở Việt Nam và giải pháp
Nhóm 8 lớp TMA320.3 Page 16
hoặc kinh doanh những mặt hàng bất hợp pháp, thậm chí chỉ buôn bán hóa đơn
GTGT để thu lời bất chính.
Khi bị phát hiện hành vi gian dối gây thiệt hại kinh tế không nhỏ cho Nhà
nước thì nhiều chủ doanh nghiệp đã cao chạy xa bay. Và cũng chỉ một thời gian
ngắn sau đó, vẫn chủ doanh nghiệp bỏ trốn ấy lại đến cơ quan cấp phép xin
thành lập doanh nghiệp mới mà cơ quan cấp phép chẳng hề hay biết.
f. Thời hạn kiểm tra gian lận thuế còn ngắn
Trong trường hợp ngành thuế nghi ngờ doanh nghiệp gian lận thuế
GTGT, cần có thời gian để xác minh thì thời hạn 15 ngày là không đủ, bởi vì
việc xác minh các hóa đơn mất rất nhiều thời gian, thậm chí không được cơ quan
thuế các địa phương phản hồi. Theo báo cáo của cơ quan thuế thì có khoảng
50% số hồ sơ gởi đi xác minh là được phản hồi. Trong trường hợp này ngành
thuế buộc phải hoàn thuế cho doanh nghiệp. Do bức xúc với tình trạng ngân
sách nhà nước bị rút ruột do gian lận thuế GTGT, hiện nay cơ quan thuế chỉ đảm
bảo hoàn thuế theo thời hạn 15 ngày trong những trường hợp thanh toán qua
ngân hàng, những trường hợp xuất khẩu tiểu ngạch qua biên giới hoặc thanh
toán bằng tiền mặt thì ngành thuế không đảm bảo thời hạn 15 ngày.
Việc hoàn thuế GTGT dựa trên những hóa đơn chứng từ đã có, còn tính
trung thực của các hoá đơn chứng từ này (đã phát sinh từ 3 tháng trước đó) thì
không được xác minh đầy đủ. Đây là thời gian đủ để các doanh nghiệp thực hiện
phi vụ lừa đảo rồi bỏ trốn. Vì vậy cần phải thực hiện việc kiểm tra, ngăn chặn từ
xa chứ không phải chờ đến khi doanh nghiệp xin hoàn thuế GTGT.
Việc chấp nhận khấu trừ khống đối với các loại hàng nông, lâm, thủy hải
sản mua của nông dân trên cơ sở thiết lập bảng kê là kẽ hở để các doanh nghiệp
gian lận thuế giá trị gia tăng.
g. Tổ chức bộ máy, cán bộ ngành thuế còn chưa hoàn thiện
Bộ máy tổ chức ngành thuế chưa được hoàn thiện: Hiện nay bộ máy quản
lý thuế của nước ta được tổ chức theo ngành dọc từ Trung ương tới cấp huyện.
Hệ thống này được phân chia vừa theo sắc thuế vừa theo đối tượng nộp thuế.
Một cán bộ thuế phải đảm nhiệm nhiều chức năng từ thông báo thuế, thu
thuế, kiểm tra thuế do đó không có điều kiện chuyên sâu vào một nghiệp vụ nhất
định. Khi chuyển sang áp dụng thuế GTGT, quy trình quản lý thuế phải thay đổi,
cơ quan thuế phải tổ chức thu thuế, khấu trừ thuế, hoàn thuế,… trình độ của một
số cán bộ còn thấp do đó không đáp ứng yêu cầu của công việc [2].
Đội ngũ cán bộ nói chung, xét về cả số lượng lẫn chất lượng có nhiều mặt
chưa đáp ứng được yêu cầu của công việc, công tác tổ chức cán bộ còn nhiều
2
Từ nguyên, Chính sách thuế ,”sửa” nhiều doanh nghiệp vẫn kêu , 17/06/2010, báo Việt Nam
economy, , truy cập
ngày 2/4/2011
Thực trạng công tác thu thuế GTGT ở Việt Nam và giải pháp
Nhóm 8 lớp TMA320.3 Page 17
khiếm khuyết, chưa rõ ràng và thiếu nhất quán. Công tác quy hoạch, luân
chuyển cán bộ còn nhiều hạn chế. Công chức thuế nói chung còn thiếu kiến thức
chuyên sâu, kỹ năng quản lý thuế quốc tế, cán bộ lãnh đạo một số còn yếu về
kiến thức quản lý kinh tế, quản lý vĩ mô và quản lý hành chính nhà nước, một số
trường hợp xảy ra hiện tượng chồng chéo [3].
Hiện nay, trong mỗi doanh nghiệp được hoàn thuế GTGT, số hoá đơn
chứng từ đầu vào được xem xét để tính toán hoàn thuế chỉ giới hạn trong phạm
vi có liên quan đến hoàn thuế, tức chỉ gắn liền với lô hàng xuất xuất được hoàn
thuế hay trong thời hạn “3 tháng luỹ kế âm liên tục” theo quy định. Đa số hoá
đơn, chứng từ còn lại nằm ngoài tầm.
Số “ngoài tầm” này rất lớn và thường không bị kiểm tra. Hoặc nếu có, thì
việc kiểm tra cũng không nghiêm ngặt như trong các trường hợp hoàn thuế. Bởi,
với phương pháp truy xuất, đối chiếu chứng từ, hoá đơn thủ công và số lượng
cán bộ có hạn như hiện nay, thì khối lượng hoá đơn đã vượt quá xa khả năng
kiểm soát của ngành thuế. Cũng chính từ sự quá tải này nên trong thực tế ở địa
phương, ngay đối với các trường hợp đã được hoàn thuế, tỷ lệ kiểm tra sau hoàn
thuế hàng năm vẫn chưa đạt đến 30% số doanh nghiệp đã được hoàn!
Có thể ước lượng tỷ lệ doanh nghiệp được kiểm tra qua các số liệu như
sau: Trong 15.000 doanh nghiệp, bình quân mỗi năm có khoảng 1.000 trường
hợp được hoàn thuế (chiếm 6,66%). Trong 1.000 trường hợp này, hiện chỉ có thể
kiểm tra sau khi hoàn chỉ 30%, khoảng 300 doanh nghiệp. Trong số 300 doanh
nghiệp này, số chứng từ, hoạt động được kiểm tra chỉ đối với phần có liên quan
đến trường hợp hoàn thuế. Giả dụ tỷ lệ này chiếm 50% hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp, thì tỷ lệ thực tế được chú ý kiểm tra, giám sát thực sự
chỉ chiếm 1% so với yêu cầu kiểm tra (15.000 doanh nghiệp x 6,66% x 30% x
50% = 150; và 150/15.000 = 1%). Hơn nữa việc kiểm tra này, nếu có, chỉ do
một số nhân viên thuế thực hiện khi thực hiện kiểm tra quyết toán thuế nên khả
năng tiêu cực ở đây rất lớn.
h. Thiếu phương tiện kỹ thuật hỗ trợ
Hiện nay phương pháp quản lý, thu thuế bằng các phương tiện điện tử
hiện đại vẫn chưa được phổ biến ở nước ta trong khi các công cụ hiện đại, nhanh
chóng, và tiện lợi đã được áp dụng ở nhiều nước hiện đại trên thế giới.
Không gian của hoạt động kinh doanh thường rộng lớn. Một doanh
nghiệp ở Cà Mau có thể mua bán với các doanh nghiệp ở Lạng Sơn, Gia Lai
hoặc Bình Phước, và cũng có thể xuất khẩu thông qua nhiều cửa khẩu. Vì vậy,
3
Tú Uyên, Thanh toán qua ngân hàng: Doanh nghiệp khổ vì “vướng” hoàn thuế
, 13/5/2009,
hoan-thue.htm /truy cập ngày 30/3/2011
Thực trạng công tác thu thuế GTGT ở Việt Nam và giải pháp
Nhóm 8 lớp TMA320.3 Page 18
thông tin về lô hàng của từng đợt xuất nhập khẩu phải được phối kiểm trên
phạm vi cả nước chứ không chỉ gói gọn tại một địa phương.
Trong khi đó, thời gian xét hoàn thuế lại ngắn, nên cơ quan thuế không đủ
sức thẩm tra toàn bộ chứng từ cũng như lai lịch của các bên có liên quan. Điều
này dễ gây ra những sai sót không chủ ý và xảy ra những sai lệch khi hoàn thuế.
Ngay công tác kiểm tra sau thông quan cũng khó mang lại kết quả tốt vì
thiếu hệ thống điện toán toàn diện, thiếu máy kiểm tra chuyên dùng, camera, cân
điện tử,...Ngay như trên website của Chính phủ cũng rất ít khi minh bạch những
báo cáo thường niên cũng như những số liệu, chứng cứ, chứng từ thu thuế của
các doanh nghiệp trong và ngoài quốc doanh.
Sự thiếu tính hiện đại về phương tiện kỹ thuật trong việc quản lý thuế, thu
thuế này đã khiến cho công tác thu thuế trở nên cồng kềnh, kém hiệu quả.
2.3.2. Nhìn từ góc độ doanh nghiệp
Mặc dù các qui định pháp luật về thuế GTGT tỏ ra nghiêm khắc trong qui
định nghĩa vụ nộp thuế của doanh nghiệp nhưng trên thực tế xảy ra không ít các
hiện tượng doanh nghiệp trốn lậu thuế. Hiện trạng này phát sinh do nhiều
nguyên nhân khác nhau, trong đó có các nguyên nhân chính sau:
a. Xuất phát từ động cơ lợi nhuận của các doanh nghiệp
Mặc dù các doanh nghiệp, đơn vị kinh doanh đều nằm lòng khẩu hiệu:
"nộp thuế là nghĩa vụ và quyền lợi của mọi công dân", nhưng vì lợi ích kinh tế
của họ, mà mọi lúc, mọi nơi họ luôn tìm cách lách luật, trốn thuế, chiếm đoạt
tiền thuế của nhà nước [4].
Đa số các doanh nghiệp hiện nay ở qui mô vừa và nhỏ, nếu chấp hành
nghiêm chỉnh Luật thuế thì chi phí tuân thủ của loại doanh nghiệp này ở mức
cao. Những gánh nặng về thuế khiến cho doanh nghiệp thường kê khai không
trung thực, bóp méo hành vi kinh doanh chân chính. Bởi lẽ, nếu họ kinh doanh
chân chính thì họ sẽ bị thua thiệt, lợi nhuân thấp hoặc thậm chí không thể tồn tại
trong môi trường cạnh tranh của nền kinh tế thị trường. Điều này càng khiến cho
việc quản lý thuế đối với khu vực này gặp nhiều khó khăn hơn [5].
b. Do những bất cập trong thủ tục nộp thuế GTGT
Thủ tục hành chính trong lĩnh vực thuế đã được cải thiện nhiều song vẫn
còn nhiều phiền hà, gây khó khăn cho người nộp thuế. Quá trình kê khai nộp thuế
khiến các doanh nghiệp phải tốn thời gian, công sức và nhất là những khoản chi
phí “không chính thức” trong quá trình thực hiện các nghĩa vụ thuế đối với nhà
4
101 kiểu trốn thuế , 06/01/2006, Việt Báo
thue/50760720/411/ , truy cập ngày 5/4/2011
5
Thủ tục nộp thuế giá trị gia tăng vẫn quá rườm rà , 14/3/2003
thue-gia-tri-gia-tang-van-qua-ruom-ra/10810504/87/ truy cập ngày 2/4/2011
Thực trạng công tác thu thuế GTGT ở Việt Nam và giải pháp
Nhóm 8 lớp TMA320.3 Page 19
nước. Ngoài việc khiến doanh nghiệp đang nộp thuế phải chịu gánh nặng tăng chi
phí khi thực hiện nghĩa vụ thuế thì thủ tục rườm rà còn khiến nhiều đối tượng
chưa thực hiện nghĩa vụ thuế “ngại” kê khai nộp thuế. Điều này dẫn đến khó tăng
được diện thu thuế, cũng như số tiền thuế thu về cho ngân sách nhà nước.
c. Doanh nghiệp chưa nhận thức đúng nghĩa vụ nộp thuế
Nộp thuế là nghĩa vụ của doanh nghiệp, nhưng hầu hết các doanh nghiệp
chưa nhận thức được rằng, nộp thuế không chỉ là nghĩa vụ mà còn là quyền của
doanh nghiệp, đối với họ nộp thuế luôn là một gánh nặng. Quyền của doanh
nghiệp cần được bảo đảm trên thực tế là:
- Quyền được tạo thuận lợi trong cung cấp các thông tin về thực hiện
nghĩa vụ nộp thuế.
- Được giải quyết thuận lợi và nhanh chóng quyền yêu cầu miễn giảm
thuế và hoàn thuế [6].
2.3.3. Từ góc độ người tiêu dùng
Sự yếu kém về mặt nhận thức của một bộ phận khá lớn công chúng và
thói quen mua hàng lấy hoá đơn chưa hình thành. Luật pháp Việt Nam chưa có
những quy định thật cụ thể về nghĩa vụ lập hoá đơn GTGT khi bán hàng hoá,
dịch vụ có giá trị thấp dưới mức quy định (100.000 đ). Hơn nữa, đối với người
mua là người tiêu thụ cuối cùng những hàng hoá, dịch vụ thuộc diện chịu thuế
GTGT thì hoàn toàn không có quyền lợi gì trong việc yêu cầu bên bán phải thực
hiện nghĩa vụ lập hoá đơn.
Thói quen không lấy hoá đơn VAT khi mua hàng của người tiêu dùng đã
vô tình tiếp tay cho tình trạng gian lận thuế. Hầu hết người tiêu dùng khi thanh
toán không yêu cầu bên bán xuất hóa đơn VAT vì cho rằng như thế sẽ rất mất
thời gian, trong khi hóa đơn VAT cũng không giúp họ sử dụng được việc gì.
Ví dụ rõ ràng nhất là việc tổ chức tiệc cưới tại các nhà hàng, khách sạn từ
xưa đến nay trên thực tế vẫn có hợp đồng (bằng miệng, bằng giấy, bằng phiếu
đặt hàng) nhưng kết thúc chưa có gia đình nào yêu cầu xuất hoá đơn. Vấn đề này
do thói quen, do không có nhu cầu sử dụng hoá đơn.
Theo quy định, các trường hợp khách hàng không yêu cầu xuất hoá đơn,
doanh nghiệp vẫn phải ghi hoá đơn lưu tại cuống để làm cơ sở kê khai thuế đầu
ra. Lợi dụng vấn đề này, hầu hết các doanh nghiệp coi đây là hoạt động kinh
doanh ngoài luồng, không xuất hoá đơn, không kê khai thuế.
6 Quỳnh Trang, Thủ tục thuế rườm rà sinh ra tham nhũng, 17/7/2008,báo vnMedia,
, truy cập ngày
5/4/2011
Thực trạng công tác thu thuế GTGT ở Việt Nam và giải pháp
Nhóm 8 lớp TMA320.3 Page 20
Chương 3. Giải pháp
Từ những nguyên nhân về những bất cập trong quá trình thu và nộp thuế
GTGT, nhóm chúng tôi xin đề xuất một số giải pháp góp phần cải thiện một số
bất cập trên nhằm giúp công tác thu và nộp thuế ngày càng minh bạch, rõ ràng
và hiệu quả hơn.
3.1. Kiện toàn bộ máy quản lý thuế, nâng cao chất lượng tuyển dụng,
đào tạo bồi dưỡng cán bộ
Trình độ tổ chức bộ máy quản lý thuế và chất lượng đội ngũ cán bộ thuế
là một trong những yếu tố then chốt quyết định sự vận dụng thành công chính
sách thuế hay không. Chính vì vậy việc sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện bộ máy
quản lý thuế là vấn đề cấp bách hiện nay.
Ban đầu bộ máy quản lý thuế nên tổ chức theo hướng kết hợp chặt chẽ và
qua lại giữ đối tượng nộp thuế với cơ quan thuế như thanh tra, kiểm tra, xử lý
cưỡng chế thuế, cung cấp dịch vụ cho đối tượng nộp thuế và thu thuế. Điều đó
sẽ tạo điều kiện cho cơ quan thuế tập trung hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao,
nâng cao hiệu quả làm việc, giảm chi phí trong công tác quản lý thuế, góp phần
ngăn chặn những hành vi gian lận trong công tác thu thuế.
Thứ hai, khi chính sách thuế dần đi vào ổn định và hoàn thiện; ý thức chấp
hành tuân thủ pháp luật thuế của các đối tượng được nâng cao thì chuyển sang
hình thức tổ chức cao hơn: Tổ chức theo quy mô của các doanh nghiệp lớn riêng
và tổ chức theo quy mô của các doanh nghiệp nhỏ riêng. Điều đó giúp cho việc
quản lý và kiểm tra của cơ quan thuế sẽ rõ ràng và mạch lạc hơn. Bên cạnh đó,
cần có chế tài hay cần xây dựng bộ phận cưỡng chế thuế buộc các đối tượng nộp
thuế thực hiện nghiêm túc, không được chây ỳ.
Thứ ba, bên cạnh bộ máy quản lý thuế được sửa đổi, bổ sung và hoàn
thiện thì việc tuyển dụng, đào tạo bồi dưỡng cán bộ là một việc hết sức quan
trọng bởi chính họ là người vận hành bộ máy quản lý. Về nghiệp vụ, cần chú
trọng tăng cường công tác bồi dưỡng, giáo dục đào tạo, nâng cao trình độ về
nghiệp vụ thuế cũng như công tác quản lý, thành thạo chuyên môn kỹ thuật như
tin học, hay ngoại ngữ. Bên cạnh đó, cần phải nêu cao phẩm chất đạo đức người
cán bộ tránh tình trạng thông đồng, tiếp tay cho các hành vi gian lận, trốn thuế;
cần củng cố và xây dựng đội ngũ cán bộ thuế ngày càng trong sạch vững mạnh.
Cuối cùng, cần cải cách hành chính trong công tác thu nộp thuế. Khi việc
nhiều mặt hàng chịu thuế ngày càng đa dạng và phong phú hơn thì việc cải tiến,
cách tân trang thiết bị vật tư phục vụ cho quá trinh quản lý và thu thuế là hoàn
toàn tất yếu. Cần có những trang thiết bị tốt, hiện đại giúp cho việc thu nộp thuế
diễn ra nhanh chóng và chính xác hơn tránh thủ tục rườm rà, gây nên chi phí
thiệt hại cả cho cơ quan thuế lẫn người đi nộp thuế.
3.2. Về cơ chế chính sách
Thực trạng công tác thu thuế GTGT ở Việt Nam và giải pháp
Nhóm 8 lớp TMA320.3 Page 21
Hiện nay còn rất nhiều bất cập trong việc quy định đối tượng chịu thuế.
Thiết nghĩ, nền kinh tế đang trên đà tăng trưởng mạnh và hội nhập với nền kinh tế
toàn cầu thì việc cơ chế chính sách trong quá trình thu nộp thuế phải thay đổi theo
là lẽ đương nhiên. Song bên cạnh đó, việc quy định các đối tượng chịu thuế cần
phải xem xét. Đối với các đối tượng là hộ kinh doanh nhỏ cần loại ra khỏi diện
chịu thuế GTGT. Đây là hộ kinh doanh nhỏ, họ tự sản xuất và tự tiêu dùng và giá
trị gia tăng tác động vào sản phẩm không đáng kể. Bên cạnh việc loại bỏ đối
tượng này ra khỏi diện chịu thuế góp phần giúp họ có thêm động lực phát triển.
Việc thay đổi cơ chế chính sách phải dự báo được những tác động ở mọi
khía cạnh có thể có của việc thay đổi chính sách và phải công bố những tác động
này. Bộ Tài chính và Tổng Cục thuế phải dự báo bằng những số liệu cụ thể khi
thay đổi thuế suất hay chính sách đồng thời phải công bố những tác động này.
Điều đó có tác động rất lớn khi biết được phản ứng của các doanh nghiệp và
người tiêu dùng như thế nào khi thay đổi chính sách để từ đó điều chỉnh, sửa đổi
sao cho hợp lí và phù hợp nhất. Điều này giúp cho người tiêu dùng có cảm giác
yên tâm hơn trước những thay đổi về chính sách của Chính phủ đưa ra.
3.3. Tăng cường công tác quản lý và sử dụng hoá đơn
Bộ tài chính trong thời gian qua để khắc phục những khúc mắc về hóa đơn
chứng từ, đã ban hành nhiều quy định mới. Tuy nhiên, trong thực tế, các quy
định vẫn còn có kẽ hở để cho các đối tượng lợi dụng chiếm đoạt tiền của nhà
nước, bởi vậy trong thời gian tới vẫn cần bãi bỏ hoặc sửa đổi một số quy định về
quản lý, sử dụng hóa đơn không hợp lý.
Trước hết, cần duy trì việc sử dụng hóa đơn đối với các hộ kinh doanh
tính thuế theo phương pháp trực tiếp đã thực hiện lập sổ sách kế toán theo quy
định…
Thứ hai, cần ban hành các văn bản pháp luật hướng dẫn về việc thực hiện
chế độ hóa đơn chứng từ một cách kịp thời khi có những thay đổi mới.
Thứ ba, thay đổi biện pháp quản lý bằng hóa đơn, chứng từ, mở rộng diện
đối với doanh nghiệp tự in hóa đơn, sẽ tránh được việc in và sử dụng hóa đơn
giả như hiện nay.
Thứ tư, nên giảm bớt khối luợng hóa đơn chứng từ của các khâu từ thông
báo thuế, kê khai, nộp thuế đến quyết toán thuế.
Thứ năm, đa dạng hóa các công cụ kiểm soát hoạt động giao dịch kinh
doanh trên thị trường thông qua việc mở rộng thanh toán bằng các loại thẻ tín
dụng, thanh toán qua ngân hàng… lúc này sẽ hạn chế được rất nhiều tình trạng
mua bán hóa đơn khống để rút tiền của nhà nước, bởi hóa đơn chứng từ giờ đây
chỉ là công cụ thứ yếu, là điều kiện cần chứ chưa phải điều kiện đủ để được
quyết toán thuế.
Thực trạng công tác thu thuế GTGT ở Việt Nam và giải pháp
Nhóm 8 lớp TMA320.3 Page 22
Tuy nhiên, muốn thực hiện được biện pháp này thì hệ thống các ngân hàng
cũng phải được hiện đại hóa, các quy trình thanh toán cần phải nhanh, thuận lợi
để không gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc thanh toán các giao dịch.
3.4. Ngăn chặn gian lận và hoàn thiện công tác quản lý trong hoàn
thuế GTGT
Quan điểm hoàn thiện thuế GTGT đó là phải tôn trọng thuộc tính trung
lập của thuế, tức hạn chế tối đa các quy định miễn giảm, khấu trừ bởi nó là
nguyên nhân làm sói mòn mục tiêu cốt lõi của thuế.
Trước tình trạng đó, cần phải có những giải pháp để cải cách khâu hoàn
thuế GTGT.
Thứ nhất, để giải toả mọi vướng mắc trong việc thi hành thông suốt việc
khấu trừ và hoàn thuế GTGT, cơ quan thuế các cấp phải công khai minh bạch
mọi thủ tục hành chính thuế theo nguyên tắc đề cao quyền chủ động, tự chịu
trách nhiệm trong việc tự kê khai, nộp thuế và xác định số thuế GTGT được
hoàn trả.
Thứ hai, phải xem xét lại thời gian hoàn thuế, đặc biệt là đối với các đối
tượng có hoạt động xuất khẩu nhưng số thuế GTGT đầu vào chưa được khấu trừ
trong tháng nhỏ hơn 200 triệu đồng thì vẫn không được hoàn thuế theo tháng.
Bởi theo quan điểm của các doanh nghiệp, thì thuế GTGT phát sinh dù nhỏ hay
lớn cũng đều phải nộp theo tháng, nhưng việc hoàn thuế cho một số đối tượng
lại theo quý…
Thứ ba, quy định về ngưỡng hoàn thuế theo tháng hay theo quý đối với
doanh nghiệp là 200 triệu đồng dường như còn cứng nhắc bởi số tiền này có thể
phù hợp với địa phương này nhưng không phù hợp với địa phương khác do đó
cần xem xét lại, tuỳ theo đặc điểm của từng trường hợp mà có quy định thời hạn
được hoàn thuế…
Thứ tư, nên quy định việc hoàn thuế đối với khách du lịch quốc tế mua
hàng hóa của Việt Nam về nước, việc hoàn thuế này cần tiến hành đơn giản
nhanh gọn như là khách quốc tế chỉ cần mang hóa đơn hàng hóa đến cơ quan
thuế để được hoàn lại thuế GTGT.
Thứ năm, đối với những vướng mắc về hoàn thuế GTGT đối với dự án
ODA vay thì các chính sách nên sửa đổi theo hướng quy định không thực hiện
hoàn thuế cho các nhà thầu chính thực hiện dự án ODA được ngân sách nhà
nước cấp phát mà ngân sách nhà nước sẽ bố trí vốn đầy đủ để chủ dự án trả thuế
cho các nhà thầu chính.
3.5. Hoàn thiện công tác quản lý và tổ chức hạch toán thuế GTGT
Điều đầu tiên là cần quản lý chặt chẽ các đối tượng nộp thuế, đặc biệt là
những cơ sở bán lẻ, bán sỉ hàng hóa vì những cơ sở này thường chưa có thói
Thực trạng công tác thu thuế GTGT ở Việt Nam và giải pháp
Nhóm 8 lớp TMA320.3 Page 23
quen sử dụng hóa đơn trong quá trình kinh doanh. Khuyến khích và dần đi đến
bắt buộc họ sử dụng máy tính tiền trong đó có tỉ lệ thuế GTGT phải đóng, tổng
số hàng hóa và tổng số tiền phải trả dù cho cơ sở có lớn hay nhỏ.
Thứ hai, cơ quan thuế nên tiến hành các cuộc thanh tra một cách thường
xuyên liên tục trong quá trình thu thuế, đồng thời cần phối hợp với cơ quan pháp
luật, quản lý thị trường phát hiện và xử lý nghiêm minh các trường hợp in ấn,
làm hóa đơn, chứng từ giả. Chính tình trạng đó đã gây thất thoát nguồn thu thuế
và thâm hụt ngân sách khi hoàn thuế không đúng.
Thứ ba, cơ quan thuế tiến tới ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại để
giám sát quá trình vận hành hóa đơn, giải quyết những mặt tiêu cực trong việc
quản lý hóa đơn hiện nay cũng như hỗ trợ công tác tính toán và quản lý thuế tự
động đảm bảo tính chính xác, nhanh chóng và khoa học.
3.6. Tăng cường xử lý nghiêm minh các vụ vi phạm
Các trường hợp gian lận thuế sẽ bị luật pháp Việt Nam xử lý một cách
nghiêm khắc và được quy định tại Nghị định số 98/2007/NĐ-CP ngày 7/6/2007
của Chính phủ, Thông tư số 61/2007/TT-BTC ngày 14/6/2007 của Bộ Tài chính.
Tuy nhiên vẫn cần những biện pháp mạnh tay hơn nữa đối với những kẻ
gian lận thuế, không dừng ở hình thức phạt tiền mà nếu có thể đưa thành những
vụ án hình sự. Đó sẽ là những biện pháp răn đe với những kẻ có ý định lợi dụng
kẽ hở luật pháp để làm lợi cho bản thân. Chính sự quản lý và sửa đổi luật thuế
tốt hơn đã góp phân hạn chế các vụ gian lận về thuế.
Có một số ý kiến cho rằng tại sao không tử hình những trường hợp nghiêm
trọng? Đầu năm 2003, cơ quan công an phát hiện một vụ buôn lậu lớn tại
TP.HCM. Số tiền thuế bị gian lận quý một năm 2001 ước tính lên đến 20 tỷ đồng.
Con số cả năm sẽ còn lớn hơn. Số tiền thuế bị chiếm đoạt một quý có thể xây
được bốn trường tiểu học hoặc có thể cho 4.000 hộ vay 5 triệu đồng/hộ để tạo
công ăn việc làm hoặc có thể xây 1.000 cây cầu ở vùng sâu, vùng xa hoặc nhiều
công trình khác. Thuế là tiền của dân, của Nhà nước. Chiếm đoạt thuế là ăn cắp
của cải của xã hội. Vậy phải xét xử theo Luật hình, chứ không phạt hành chính.
3.7. Đẩy mạnh việc hình thành dịch vụ tư vấn thuế
Để hiểu một cách cặn kẽ và thực hiện đúng đắn các quy định của chính
sách thuế là một vấn đề không phải đơn giản đối với các đối tượng nộp thuế,
nhất là khi áp dụng cơ chế quản lý thu nộp thuế theo phương thức: tự kê khai, tự
tính và tự nộp thuế. Do vậy, việc cung cấp dịch vụ tư vấn thuế là nhu cầu rất cần
thiết và hữu ích cho các đối tượng nộp thuế hiện nay. Vậy dịch vụ tư vấn thuế
như thế nào?
Thứ nhất, luôn tuyên truyền, phổ biến kiến thức pháp luật về thuế cho mọi
đối tượng. Hiện nay, tư vấn thuế mới chỉ dừng lại là một dịch vụ tư- các đối tượng
Thực trạng công tác thu thuế GTGT ở Việt Nam và giải pháp
Nhóm 8 lớp TMA320.3 Page 24
nộp thuế nào có nhu cầu cung cấp dịch vụ tư vấn thì phải trả phí cho hoạt động
này. Bởi vậy, hình thức này cần được tuyên truyền rộng rãi, miễn phí cho tất cả
các đối tượng nộp thuế. Các thông tin về thuế phải được cập nhật nhanh chóng
trên mạng và hoàn toàn miễn phí. Những thông tư cơ bản phải được chuyển đến
mọi đối tượng nộp thuế theo mức giá chỉ bao gồm chi phí in và lưu thông.
Thứ hai, phải dự báo được những tác động ở mọi khía cạnh có thể có của
việc thay đổi chính sách và phải công bố những tác động này. Việc phát triển
hoạt động dịch vụ tư vấn thuế không chỉ là nhiệm vụ của ngành thuế mà đó còn
là nhiệm vụ chung của các cơ quan quản lý nhà nước và các tổ chức xã hội
nhằm giúp cho các đối tượng nộp thuế hiểu biết rõ, kịp thời về chính sách thuế
hiện hành của Nhà nước. Đồng thời góp phần nâng cao ý thức chấp hành chính
sách pháp luật, chấp hành nghĩa vụ thuế với Nhà nước của các đối tượng nộp
thuế, góp phần nâng cao tính khả thi của chính sách thuế.
3.8. Tuyên truyền, giáo dục về thuế GTGT
Thực tế cho thấy, một chính sách thuế dù được hoàn thiện đến đâu nhưng
nếu các chủ thế của các quan hệ thuế không nắm bắt được những quy định cụ
thể trong các quy phạm pháp luật thuế thì chính sách sẽ khó có tính khả thi.
Chính vì vậy, việc tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về thuế có ý nghĩa
rất quan trọng, quyết định sự vận dụng thành công hay không của chính sách
thuế vào thực tiễn cuộc sống. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, cần phải truyền tải một cách phổ biến, cụ thể, sâu hơn, có định
hướng mục đích và đối tượng xác định rõ ràng hơn. Chính vì chính sách tuyên
truyền pháp luật thuế chỉ mang tính rộng rãi và bao quát nhất khiến cho việc thu
và nộp thuế gây ra nhiều tranh cãi và xuất hiện những hành vi gian lận. Việc
tuyên truyền một cách có hệ thống và chi tiết khiến cho các đối tượng nộp thuế
thực hiện một cách nghiêm túc hơn.
Thứ hai, khi tuyên truyền cần phải chiếm được niềm tin của nhân dân thì
việc áp dụng các chính sách vào thực tiễn hoàn toàn có khả thi, tạo sự tin tưởng
và chấp hành của mọi người, mọi tầng lớp xã hội, tránh trường hợp đưa việc
tuyên truyền, phổ biến pháp luật về thuế chỉ mang tính hình thức.
Thứ ba, tuyên truyền, khuyến khích các cá nhân mua hàng đòi hóa đơn.
Đây là việc rất hữu ích đối với chính người tiêu dùng trong việc dễ kiểm soát số
lượng hàng hóa đã mua và số tiền chi tiêu, cũng như việc trao đổi, gửi trả hay
hoàn lại trong quá trình mua hàng. Không chỉ dừng lại ở đây, mà nhờ vào việc
sử dụng hóa đơn, cơ quan thuế có thu thuế và kiểm soát một cách dễ dàng hơn.
Thực trạng công tác thu thuế GTGT ở Việt Nam và giải pháp
Nhóm 8 lớp TMA320.3 Page 25
KẾT LUẬN
Việc triển khai công tác thu thuế giá trị gia tăng tại Việt Nam cũng như
các quốc gia khác trên thế giới luôn gặp nhiều khó khăn, thách thức, xuất phát từ
những nguyên nhân khách quan và chủ quan. Để khắc phục được những hạn
chế, thiếu sót đó, đòi hỏi phải triển khai đồng bộ nhiều biện pháp từ phía nhà
nước nhằm tác động tới các đối tượng trong quá trình thu thuế: từ phía cơ quan
hữu quan đến doanh nghiệp và người tiêu dùng.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này, nhóm chúng em đã cố gắng
bám sát lý luận, tìm hiểu thực tiễn, từ đó đề ra những giải pháp bước đầu nhằm
nâng cao hiệu quả hoạt động thu thuế giá trị gia tăng tại Việt Nam.
Do thời gian nghiên cứu có hạn, vấn đề nghiên cứu không phải là dễ, đề
tài khó tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Chúng em hy vọng đề tài sẽ được
nghiên cứu ở phạm vi rộng lớn và sâu sắc hơn.
Qua đây, chúng em xin gửi lời cảm ơn đến cô giáo Nguyễn Thu Hằng đã
hướng dẫn, giúp đỡ chúng em hoàn thành đề tài này./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đề tài Thực trạng công tác thu thuế giá trị gia tăng tại Việt Nam và giải pháp.pdf