Tài liệu Đề tài Thực phẩm biến đổi gene: MỤC LỤC
{
NỘI DUNG TIỂU LUẬN
Mở bài 3
Nội dung 4
Lịch sử của Thực phẩm chuyển gene hay biến đổi gene (GMF-genetically modified food) 4
Định nghĩa 5
Tại sao phải sản xuất thực phẩm biến đổi gene 6
Qui trình chuyển gene vào thực phẩm 7
Phương pháp chuyển gene vào tế bào thực vật 7
Phương pháp chuyển gene vào tế bào động vật 9
Các phương pháp nhận biết và cấu trúc phân tử của thực phẩm biến đổi gene (TPBĐG) 11
Lợi ích và những lo ngại về GMO 12
Lợi ích của GMO 12
Những lo ngại về GMO 15
Phương hướng giải quyết những lo ngại về GMO 17
Thực trạng cây trồng chuyển gene ở Việt Nam và trên thế giới 19
Tình hình phát triển cây trồng chuyển gene ở Việt Nam 19
Tình hình phát triển cây trồng chuyển gene trên thế giới 23
Thực phẩm biến đổi gene và vấn đề an toàn vệ siunh thực phẩm 29
Thực phẩm biến đổi gene và sự ảnh hưởng của nó đến hệ thống vi sinh vật trong hệ thống tiêu hóa 29
Thực phẩm biến đổi gene và vấn đề độc tố sinh ra trong thực phẩm biếm đổi gene 30
Thực phẩm ...
52 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1355 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Thực phẩm biến đổi gene, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
{
NỘI DUNG TIỂU LUẬN
Mở bài 3
Nội dung 4
Lịch sử của Thực phẩm chuyển gene hay biến đổi gene (GMF-genetically modified food) 4
Định nghĩa 5
Tại sao phải sản xuất thực phẩm biến đổi gene 6
Qui trình chuyển gene vào thực phẩm 7
Phương pháp chuyển gene vào tế bào thực vật 7
Phương pháp chuyển gene vào tế bào động vật 9
Các phương pháp nhận biết và cấu trúc phân tử của thực phẩm biến đổi gene (TPBĐG) 11
Lợi ích và những lo ngại về GMO 12
Lợi ích của GMO 12
Những lo ngại về GMO 15
Phương hướng giải quyết những lo ngại về GMO 17
Thực trạng cây trồng chuyển gene ở Việt Nam và trên thế giới 19
Tình hình phát triển cây trồng chuyển gene ở Việt Nam 19
Tình hình phát triển cây trồng chuyển gene trên thế giới 23
Thực phẩm biến đổi gene và vấn đề an toàn vệ siunh thực phẩm 29
Thực phẩm biến đổi gene và sự ảnh hưởng của nó đến hệ thống vi sinh vật trong hệ thống tiêu hóa 29
Thực phẩm biến đổi gene và vấn đề độc tố sinh ra trong thực phẩm biếm đổi gene 30
Thực phẩm biến đổi gene và chất gây dị ứng trong thực phẩm 32
Thành phần dinh dưỡng trong thực phẩm biến đổi gene 34
Một số sản phẩm biến đổi gene tiêu biểu 35
Ngô biến đổi gene tự tiêu diệt sâu 35
Cà chua hương chanh 37
Lúa 38
Một số cây biến đổi gene khác 39
Một số sản phẩm từ động vật chuyển đổi gene 39
Kết luận 43
TÀI LIỆU THAM KHẢO 45
PHỤ LỤC 48
NỘI DUNG TIỂU LUẬN
{
MỞ BÀI
Chẳng bao lâu nữa, khi bước vào siêu thị, ta có thể chọn một bên là những thực phẩm bình thường (ngày càng ít đi và ngày càng đắt đỏ) còn bên kia là những thực phẩm biến đổi gene GMF (genetically modified foods) ê hề, giá rẻ, một thứ gạo ghép gene người hay một lọai bắp ghép gene vi khuẩn… Sự tiến bộ của khoa học thật đáng kinh ngạc (một loại sữa dê ghép gene nhện đã tạo ra… áo giáp siêu nhẹ súng bắn không lủng, một loại gene sứa phát sáng ghép vào heo để heo … phát sáng, rồi gene vi khuẩn Bacillus thuringenesis ghép vào bắp (Bt corn) có khả năng chống sâu bọ…), và đó là những ứng dụng của hơn một thập niên nghiên cứu và ứng dụng công nghệ sinh học nói chung và cây trồng chuyển gene nói riêng trên thế giới đã mở ra triển vọng lớn cho loài người trong việc giải quyết các vấn đề an ninh lương thực môi trường và bảo vệ sức khoẻ con người.
Hiện nay, dân số thế giới đã tăng lên quá 6 tỷ người và dự kiến sẽ vượt quá 12 tỷ người sau 50 năm tới. Vấn đề cung cấp đủ lương thực, thực phẩm cho nhân loại là một vấn đề rất lớn. Trong các giải pháp được nhiều nước quan tâm đó là việc mở rộng việc nghiên cứu và triển khai các loại thực phẩm biến đổi gene. Thực phẩm biến đổi gene là một hướng nghiên cứu của các nhà khoa học nhằm đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng về mặt số lượng và chất lượng lương thực. Một số thực phẩm xuất hiện từ thập kỷ 90 của thế kỷ trước với các cây như lúa mì, đậu tương, ngô, cà chua...
Tất cả các ứng dụng của công nghệ biến đổi gene nhằm giải quyết rất nhiều vấn đề nóng của xã hội ngày nay, đồng thời góp phần giải quyết nhiều tổn thất trong nông nghiệp hàng năm của các quốc gia. Tuy nhiên, mặt sau của nó còn là bức màng cần được vén ra bởi hàng loạt các câu hỏi lớn được đặt ra bởi các nhà chuyên môn, chức trách và đặc biệt là người tiêu dùng: sự biến đổi di truyền các cây trồng có gây tai hại cho bản thân chúng về lâu dài? Thực phẩm sản xuất từ cây biến đổi gene có an toàn không? Hậu quả sẽ như thế nào đối với con người nếu sử dụng lâu dài? Cây trồng chuyển gene có làm giảm tính đa dạng sinh học, có tiêu diệt các côn trùng có lợi, có làm tăng cỏ dại? Có lường hết được các hậu quả của việc đưa cây trồng chuyển gene vào môi trường? Vấn đề ô nhiễm di truyền thì sao? Những gene đã chuyển vào cây trồng, có thể chuyển sang người hay các động vật không? Về mặt đạo đức, việc chủ động biến đổi các sinh vật sống quanh ta là đúng hay sai? Đã và đang có kế hoạch quản lý thực phẩm biến đổi gene hay chưa? Và có thể nói, đây là một vấn đề rất nóng và nhiều tranh cải bởi tính thời đại, đây là nguyên nhân sâu xa đã dẫn nhóm chúng em bắt tay vào tìm hiểu với chủ đề: “Thực phẩm biến đổi gene”. Tuy còn hạn chế về thông tin nhưng mong qua đây có thể giúp các bạn đọc và đặc biệt các bạn thích nghiên cứu, sinh viên các nghành sinh học – thực phẩm có một cái nhìn tổng quan về vấn đề này trên rất nhiều nguồn thông tin khác nhau.
NỘI DUNG
Lịch sử của Thực phẩm chuyển gene hay biến đổi gene (GMF-genetically modified food)
Lịch sử phát triển công nghệ gene của thực vật chắc chắn có rất nhiều sự kiện quan trọng. Ở đây chỉ nêu lên những mốc có ý nghĩa đặc biệt nhằm làm rõ sự phát triển rất nhanh của lĩnh vực này:
Năm 1970, vi khuẩn đất Agrobacterium tumefaciens được sử dụng làm phương tiện vận chuyển ADN.
Năm 1980, lần đầu tiên ADN ngoại lai (transposon Tn7) được chuyển vào thực vật nhờ A.tumefaciens, tuy nhiên Ti-plasmid vẫn chưa được thay đổi. Năm 1983, nhiều nhóm nghiên cứu đã biến đổi T-AND (một đoạn gene của Ti-plasmid) và đưa ADN ngoại lai vào, tạo ra tính kháng một số chất kháng sinh.
Ti-plasmid (Tumor inducing plasmid) là một dạng ADN vòng nằm ngoài nhiễm sắc thể vi khuẩn, có khả năng nhân bản độc lập nằm trong vi khuẩn A.tumefaciens. Chính plasmid này đã chuyển vào tế bào thực vật các vật chất di truyền gây bệnh u cho cây. Trên Ti-plasmid có đoạn T-ADN (tumor ADN) được giới hạn bằng bờ phải và bờ trái. Trình tự nucleotid của bờ phải và bờ trái tương tự nhau. T-ADN là một đoạn có kích thước 25kb chứa các gene tổng hợp opine và đoạn này sẽ được chuyển vào tế bào thực vật gắn vào bộ nhiễm sắc thể của tế bào cây chủ và gây ra bệnh u cây. Nhờ vào khả năng này mà T-ADN được sử dụng để chuyển các gene mong muốn vào thực vật theo mục đích của con người.
Năm 1984, biến nạp bằng tế bào trần (protoplast) ở ngô được thực hiện.
Năm 1985, lần đầu tiên cây biến đổi gene được mô tả có tính kháng thuốc diệt cỏ. Một năm sau, người ta đã thành công trong việc tạo ra thực vật kháng virus.
Năm 1987, phương pháp biến nạp phi sinh học được sử dụng. Nhờ phương pháp này mà sự biến nạp đã thành công đã ở các cây một lá mầm quan trọng như lúa (1988), ngô (1990) và lúa mì (1992). Cũng trong năm 1987, cà chua và thuốc lá kháng côn trùng đã làm cho công nghệ gene đạt được một bước phát triển quan trọng hơn. Một thành công quan trọng khác là đã điều khiển được quá trình chín ở cà chua, sau này có tên là FlavrSaver.
Năm 1989, không những đã thành công trong việc chuyển các gene mã hóa các kháng thể vào thực vật, mà người ta còn tạo nên các sản phẩm gene này như mong muốn. Kết quả này đã mở ra một khả năng hoàn toàn mới mẽ cho việc sản xuất vaccine và cả khả năng chống bệnh ở thực vật.
Năm 1990, thành công trong việc tạo ra cây biến đổi gene bất dục đực, không có khả năng tạo hạt phấn.
Từ năm 1991, thành phần carbohydrate của thực vật được biến đổi và năm 1992 là các acid béo. Cùng năm đó, lần đầu tiên thành phần alkaloid ở một loại cà được cải thiện
Năm 1994, cà chua Flavr SavrR là cây trồng đầu tiên biến đổi gene và quả của nó được đưa ra thị trường.
Năm 1998, trên thế giới đã có 48 giống cây trồng chuyển gene và sản phẩm được thị trường hóa.
Năm 1999, cây lúa biến đổi gene được đưa ra với 7 gene được biến nạp.
Định nghĩa
Thực phẩm chuyển gene hay biến đổi gene (GMF - genetically modified food) là thực phẩm được chế biến từ các cơ thể sinh vật chuyển đổi gene (GMO - genetically modified organism). Đó có thể là động vật hay thực vật mang các gene tái tổ hợp chuyển vào một cách nhân tạo nhờ công nghệ sinh học thay đổi một số phân tử ADN như các loại ngũ cốc, rau củ, trái cây, gia súc,… để cho ra những phẩm chất mong muốn như: tăng khả năng chống cỏ dại, chống sâu bệnh hay tăng hàm lượng dưỡng chất…
So sánh giữa lai giống thông thường và công nghệ sinh học thực vật
Giống nhau: cả hai đều có cùng một mục tiêu là tạo ra các giống cây trồng có chất lượng cao với những đặc tính đã được cải thiện giúp chúng phát triển tốt hơn và ngon hơn.
Sự khác biệt là cách thức thực hiện mục tiêu trên: Lai giống truyền thống đòi hỏi sự trao đổi hàng ngàn gene giữa hai cây để có được tính trạng mong muốn. Trong khi đó, nhờ Công nghệ sinh học hiện đại, chúng ta có thể lựa chọn một đặc tính mong muốn và chuyển riêng nó vào hạt giống. Sự khác biệt giữa hai kỹ thuật này là rất lớn.
Tại sao phải sản xuất thực phẩm biến đổi gene
Dân số tăng cùng với sự phát triển đô thị hóa và mức thu nhập ngày càng cao ở nhiều nước đang phát triển, dẫn đến nhu cầu về các sản phẩm từ thịt, sữa và trứng ước tính sẽ tăng khoảng 2% /người. Tính đến năm 2020, nhu cầu trên toàn thế giới đối với các sản phẩm từ thịt cũng sẽ tăng hơn 55% so với mức tiêu thụ hiện tại, mà phần lớn là ở các nước đang phát triển.
Nhu cầu đối với các loại thức ăn ngũ cốc cũng sẽ tăng theo, 3%/năm ở các nước đang phát triển và 0,5%/năm ở các nước phát triển. Tính trung bình, để tạo ra 1kg thịt thì cần khoảng 3kg thức ăn chăn nuôi làm từ ngũ cốc và 1kg sữa thì cần khoảng 1kg thức ăn tương ứng.
Để mở rộng diện tích canh tác mà không gây những tác động bất lợi đối với môi trường là rất hạn chế nên việc sản xuất các loại thực phẩm hay thức ăn chăn nuôi từ ngũ cốc cần phải tăng năng suất.
Theo tính toán, đến giữa thập kỷ tới, thế giới sẽ có 8-10 tỷ người, yêu cầu tổng lương thực, thực phẩm phải đạt tốc độ tăng trưởng ít nhất 40%, đó là điều khó hiện thực trong tình trạng sản xuất như hiện nay. Do đó sản xuất thực phẩm biến đổ gene để tăng năng suất, sản lượng và chất lượng của thức phẩm là hết sức cần thiết.
Những tính trạng được đưa vào GMO
Có 12 loài đã được cấp phép sản xuất thương mại tại Mỹ và những tính trạng mới (đưa vào thông qua kỹ thuật gene) được chia làm 6 nhóm.
Tính trạng
Loài thực vật
Nguồn gene
Kháng côn trùng (BT)
Ngô, khoai tây, cà chua, bông
Vi khuẩn đất
Kháng thuốc diệt cỏ
Ngô, đậu tương, bông, củ cải đường, lúa, hạt cải dầu, cây lanh
Một số loại vi khuẩn, cây thuốc lá (gene đã được biến đổi)
Kháng virút
Bí, khoai tây, đu đủ
Vi rút thực vật
Làm chậm quá trình chín quả
Cà chua
Cà chua, vi khuẩn đất, hoặc vi rút
Tăng sản lượng dầu
Hạt cải dầu, đậu tương
Cây nguyệt quế hoặc đậu tương
Điều khiển thụ phấn
Ngô, rau diếp xoăn
Vi khuẩn đất
Qui trình chuyển gene vào thực phẩm:
Kỹ thuật chuyển gene, ghép gene là kỹ thuật đưa một gene lạ (một đoạn ADN, ARN) vào tế bào vật chủ làm cho gene lạ tồn tại ở các plasmid trong tế bào chủ hoặc gắn bộ gene tế bào chủ, tồn tại và tái bản cùng với bộ gene của tế bào chủ. Gene lạ trong tế bào chủ hoạt động tổng hợp các protein đặc hiệu, gây biến đổi các đặc điểm đã có hoặc làm xuất hiện những đặc điểm mới trên các cơ thể chuyển gene.
Phương pháp chuyển gene vào tế bào thực vật: có hai phương pháp
Chuyển gene gián tiếp:
Chuyển gene nhờ virus và phage.
Chuyển gene nhờ vi khuẩn: Agrobacterium tumefaciens, Agrobacterium rhizogenees.
Để chuyển một gene có đặc tính tốt vào tế bào thực vật, ta chỉ cần chèn gene đó vào giữa đoạn T-ADN của vi khuẩn Agrobacterium rồi tiến hành nuôi cấy vi khuẩn đó với các tế bào hay mô thực vật trong các điều kiện thích hợp.
Ví dụ :Chuyển gene gián tiếp thông qua vi khuẩn Agrobacterium tumefaciens.
A.tumefaciens là loại vi khuẩn gây bệnh khối u ở thực vật sống trong đất. Trong lĩnh vực biến nạp gene, nó được sử dụng làm vectơ đặc biệt để chuyển các gene ngoại lai vào thực vật, nhằm tạo ra những thực vật mang gene có các đặc tính mong muốn.
Hiện nay có rất nhiều kỹ thuật chuyển gene khác nhau vào tế bào song kỹ thuật chuyển gene bằng vi khuẩn Agrobacterium tumerfacien vẫn được ứng dụng rộng dãi là nhờ những ưu điểm sau.
Không đòi hỏi dụng cụ đặc biệt
Số lượng bản copy thấp và ổn định ở thế hệ con cháu
Dễ thao tác invitro, dễ làm
Đây là kỹ thuật đơn giản, chi phí thấp
Để thực hiện việc chuyển gene nhờ vi khuẩn người ta sử dụng kỹ thuật đĩa lá. Tạo các đĩa lá của thực vật cần chuyển gene sau đó xử lý các đĩa lá trong dung dịch vi khuẩn A.tumefaciens mang các plasmid chứa gene mong muốn đã được thiết kế lại trong vài chục phút, trong dung dịch có bổ sung acetosyringone để tăng cường khả năng hoạt hoá gene vùng vir qua đó thúc đẩy thêm quá trình chuyển gene. Sau giai đoạn này rửa sạch lá bằng dung dịch kháng sinh cefotaime để diệt hết khuẩn. Nuôi cấy đĩa lá trên môi trường tái sinh và tạo cây. Chọn lọc các cây mang gene chuyển vào qua sự phát hiện các gene bị chỉ thị. Phát hiện các gene chuyển vào qua phân tích ADN và đánh giá sự thể hiện của gene qua biotest.
Chuyển gene trực tiếp: dựa vào hiện tượng vật lý và hóa lý để chuyển gene đặc tính tốt vào vật liệu di truyền của tế bào hay của mô thực vật.Với phương pháp này các nhà khoa học phải sử dụng nhiều cách khác nhau như dùng hóa chất, tạo xung điện, sử dụng súng bắn gene, tiêm trực tiếp ADN vào nhân.
Kỹ thuật biến nạp qua protoplast: Sau khi tách, protoplast được xử lý nhẹ bằng siêu âm có hiện diện của ADN ngoại lai. Sóng siêu âm giúp ADN đi vào tế bào.
Chuyển gene trực tiếp bằng phương pháp điện di.
Kỹ thuật sử dụng súng bắn gene: Đây là phương pháp phổ biến được áp dụng thành công để chuyển gene trực tiếp vào thực vật. Nguyên tắc là phải tạo một luồng khí để đẩy các viên đạn có kích thước nhỏ mang các gene mong muốn (các viên đạn này thường được làm bằng Au hoặc volfram). Chúng có v = 1300 m/s xuyên qua các lớp tế bào, mô để xâm nhập vào geneom thực vật. Ưu điểm của phương pháp này là có thể chuyển gene vào nhiều đối tượng (tế bào, mô, mô sẹo), tần xuất thành công khá cao (ở cây một lá mầm). Hơn nữa việc thiết kế vector khá đơn giản. Tuy nhiên khi tái sinh cây lại dễ bị thể khảm.
Kỹ thuật chuyển gene bằng vi tiêm: Phương pháp này sử dụng vi tiêm nhỏ, kính hiển vi và các vi thao tác. Các vi tiêm đó đã chuyển vector mang gene vào protoplas hoặc các tế bào đơn (chưa hình thành vỏ cứng). Phương pháp này có ưu điểm là đưa được các gene chính xác vào tế bào song phương pháp này mới chỉ thành công ở động vật.
Kỹ thuật chuyển gene qua ống phấn: Phương pháp này còn được xem là phương pháp chuyển không qua nuôi cấy mô. Đây là phương pháp lợi dụng ống phấn để chuyển vector mang gene đi cùng tế bào sinh dục đực (tinh tử) để kết hợp với tế bào trứng tạo hợp tử mang gene ngoại lai được chuyển vào. Sau đó, hợp tử sẽ phát triển thành hạt. Hạt nảy mầm và phát triển thành cây chuyển gene và được di truyền cho các thế hệ sau. Chuyển gene qua ống phấn tốt nhất thực hiện ngay sau khi quá trình thụ tinh xảy ra ở noãn, nhưng tế bào sinh dục cái chưa kịp phân chia. Nếu làm được như vậy sự chuyển gene sẽ được thực hiện đối với một tế bào sinh sản cái (trứng) duy nhất và sau khi tái sinh cây sẽ tránh xuất hiện thể khảm.
Kỹ thuật chuyển gene bằng sốc nhiệt: dùng nhiệt độ để tạo ra những biến đổi.
2.4.2. Phương pháp chuyển gene vào tế bào động vật
Phương pháp DEAE-dextran: DEAE-dextran là một polycation (có thể là polybrene, polyethyleneimine và dendrimers…). Đây là tác nhân hóa học đầu tiên được sử dụng để chuyển ADN vào tế bào động vật nuôi cấy.
Phương pháp sử dụng kỹ thuật calcium phosphate: được bắt đầu 1973, đây là kỹ thuật vô cùng có giá trị đối với các nghiên cứu chuyển gene vào các tế bào sôma nuôi cấy và đang được sử dụng nhiều để chuyển các dòng gene vào tế bào động vật.
Phương pháp chuyển gene qua liposome: Vào thập niên 1980, liposome nhân tạo đã được sử dụng để đưa ADN vào tế bào.
Phương pháp vi tiêm: Nguyên tắc của phương pháp vi tiêm là một lượng nhỏ ADN được tiêm trực tiếp vào nhân tế bào phôi trần hoặc tế bào nguyên vẹn một cách cơ học dưới kính hiển vi à đây là phương pháp có hiệu quả nhất và được sử dụng rộng rãi nhất để tạo động vật chuyển gene.
Sử dụng các phương pháp này, các gene chuyển có chiều dài trên 50 kb của virus, sinh vật tiền nhân, thực vật, động vật không xương sống hoặc động vật có xương sống có thể được chuyển vào gene của động vật có vú và chúng có thể được biểu hiện ở cả tế bào sinh dưỡng và tế bào sinh sản.
Phương pháp chuyển gene nhờ vector virus: Vào năm 1974, lần đầu tiên các nhà khoa học phát hiện thấy rằng, sau khi tiêm ADN của retrovirus SV40 vào khoang phôi của túi phôi chuột, ADN này có thể được tìm thấy sau đó trong các tế bào của chuột trưởng thành. Tuy phức tạp nhưng hiệu quả chuyển gene cao.
Phương pháp chuyển gene bằng cách sử dụng tế bào gốc phôi: những tế bào đã được biến nạp gene lạ người ta đưa nó vào phôi khác ở giai đoạn phôi nang để tạo ra động vật chuyển gene thể khảm.
Các phương pháp nhận biết và cấu trúc phân tử của thực phẩm biến đổi gene (TPBĐG)
Việc nhận biết TPBĐG: rất cần thiết đối với nhiều ứng dụng như để đánh giá mức độ sạch của hạt giống hay đối với việc bắt buộc dán nhãn thực phẩm ở một số quốc gia. Vì thế nhiều kỹ thuật phân tích đã và đang được phát triển để đáp ứng nhu cầu này.
Việc phát hiện và nghiên cứu TPBĐG: phải tiến hành ở hai mức độ
Bước thứ nhất (ở mức độ thấp) là phát hiện có hay không. Muốn chuyển một gene nào đó vào nông sản thì trong chuỗi gene sẽ có đoạn gene nối. Phát hiện đoạn gene nối tức là thực phẩm có chuyển gene.
Bước hai thì phải trang bị đoạn gene chuẩn (đoạn gene primer) để so sánh và biết được họ đưa gene gì vào, như gene tăng cường chuyển hoá đường hay gene kháng sâu đục thân…
Việc phát hiện GMO và dẫn xuất của nó có thể được thực hiện nhờ sự nhận biết phân tử (ADN, ARN hoặc protein) mà những phân tử này có nguồn gốc từ gene được chèn (hoặc gene được biến đổi). Có ba phương pháp để xác định GMO là:
Phương pháp khuyếch đại dựa trên cơ sở nucleotid:
Phương pháp dựa trên cơ sở ARN.
Phương pháp dựa trên cơ sở AND.
Phương pháp dựa trên cở sở protein.
Phương pháp dựa trên cơ sở phát hiện hoạt tính enzym.
Cho đến nay các phương pháp chính để phát hiện GMO và các dẫn xuất của GMO chủ yếu dựa trên việc phát hiện ADN đã phát triển, trong khi chỉ một vài phương pháp được phát triển để phát hiện protein hoặc ARN. Tuy có nhiều kỹ thuật khác nhau nhưng mỗi kỹ thuật lại có tính đặc hiệu và mặt hạn chế riêng của nó.
Lợi ích và những lo ngại về GMO
Lợi ích của GMO
Đối với cây trồng:
Kháng sâu bọ: Thiệt hại mùa màng do sâu bọ gây ra hết sức lớn, dẫn đến cảnh nghèo đói, cực khổ đối với nông dân các nước đang phát triển. Mỗi năm, để phòng tránh sâu bệnh, nông dân thường phải sử dụng hàng tấn thuốc trừ sâu hóa học. Thực phẩm bị nhiễm thuốc trừ sâu rất độc hại, gây nên những hậu quả nghiêm trọng đối với sức khỏe người tiêu dùng. Đồng thời, dư lượng rác thải nông nghiệp từ thuốc trừ sâu và phân bón cũng góp phần làm ô nhiễm nguồn nước, từ đó gây tác động không tốt cho môi trường. Thực phẩm biến đổi gene (TPBĐG) như ngô Bacillus thurigensis ( B.t) có thể giúp chúng ta loại trừ thuốc trừ sâu hóa học, nhờ đó hạ thấp giá thành nông sản.
Chịu thuốc trừ cỏ: Để trừ cỏ cho một số loại cây trồng, nông dân thường sử dụng một lượng lớn các loại thuốc trừ cỏ khác nhau. Tuy nhiên, phương pháp này đòi hỏi nhiều thời gian và tiền bạc để đảm bảo rằng thuốc trừ cỏ không làm hại đến cây trồng lẫn môi trường. Do vậy, cây trồng sẽ được biến đổi gene để tăng sức đề kháng đối với thuốc trừ cỏ. Nhờ đó, nông dân chỉ cần phun một loại thuốc thay vì nhiều loại như trước, giảm bớt tổn hại đến môi trường.
Chịu dịch bệnh: Bệnh của cây trồng do rất nhiều loại virus, nấm và vi khuẩn gây ra. Các nhà sinh học thực vật đang cố gắng tạo ra những loại cây trồng chuyển gene có sức đề kháng đối với mọi loại bệnh.
Chịu lạnh: Sương giá đột ngột có thể phá huỷ những cây giống nhạy cảm. Một loại gene chống giá rét lấy từ cá nước lạnh đã được cấy vào một số cây trồng như thuốc lá và cà chua. Với gene này, cây trồng có thể chịu được nhiệt độ thấp mà trước kia chúng không thể nào chịu đựng được.
Chịu hạn, chịu mặn: Vì dân số thế giới ngày một tăng cao, đất đai sử dụng cho mục đích làm nhà ở ngày càng lấn lướt đất đai nông nghiệp. Để đáp ứng nhu cầu về đất đai, nông dân buộc phải canh tác ngay cả những vùng đất vốn không phù hợp với việc trồng cấy. Tạo ra cây trồng có khả năng chịu đựng thời kỳ hạn hán dài ngày hoặc lượng muối cao trong đất và nước ngầm sẽ giúp ích rất nhiều cho nông dân.
Dinh dưỡng: ở các nước nghèo, vấn đề suy dinh dưỡng là hiện tượng hết sức phổ biến vì người dân thường chỉ dựa vào một loại cây trồng duy nhất làm thức ăn, chẳng hạn như gạo. Tuy nhiên, gạo không chứa đủ lượng chất dinh dưỡng cần thiết cho cơ thể. Nếu được chuyển đổi gene, gạo sẽ chứa nhiều vitamin bổ sung và khoáng chất hơn, đủ để bù đắp cho việc thiếu hụt chất dinh dưỡng. Chẳng hạn, tại các quốc gia đang phát triển, mù do thiếu vitamin A là căn bệnh rất hay gặp. Các nhà nghiên cứu thuộc Viện Khoa học cây trồng Thuỵ Sỹ đã tạo ra được giống lúa "vàng" chứa lượng vitamin A cực cao và đang chuẩn bị tạo giống lúa chứa nhiều sắt. Tuy nhiên, do phong trào phản đối TPBĐG đang lan mạnh ở Châu Âu, hai giống lúa này có rất ít khả năng đến được với các nước nghèo đói.
Dược phẩm: Chi phí sản xuất thuốc men và vaccine thường rất lớn, hơn nữa điều kiện bảo quản ở các nước nghèo lại không được tốt. Trong khi đó, các nước này lại có tỉ lệ bệnh tật rất cao. Do vậy, giới nghiên cứu quốc tế đang tìm cách sản xuất loại vaccine ăn được, có trong cà chua và khoai tây. Nhờ đó, chúng sẽ dễ vận chuyển, bảo quản và quản lý hơn vaccine tiêm truyền thống.
Ưu điểm của việc gây đột biến gene:
Tạo các giống cây có năng suất cao, chất lượng tốt, bảo đảm an toàn nguồn lương thực, thực phẩm trong toàn cầu.
Đảm bảo ổn định đa dạng sinh học.
Sử dụng hiệu quả nguồn nguyên liệu từ bên ngoài cho nông nghiệp và môi trường.
Tạo lợi nhuận kinh tế và xã hội, giảm bớt đói nghèo ở các nước đang phát triển.
Cải thiện chất lượng thực phẩm, làm tăng giá trị dinh dưỡng hoặc có những tính trạng thích hợp cho công nghệ chế biến.
Đối với môi trường: cây trồng chuyển gene không chỉ đơn thuần là thực phẩm, chúng còn góp phần giảm bớt ô nhiễm đất đai và nước ngầm trên thế giới, đồng thời làm sạch đất bị ô nhiễm kim loại nặng.
Lợi ích kinh tế:
Thực phẩm biến đổi gene đem lại cho ta nguồn lợi ích vô cùng to lớn như: giảm được chi phí sử dụng thuốc trừ sâu, chi phí nhập khẩu một số thực phẩm với giá thành cao để làm thực ăn gia súc… Tăng năng suất cây trồng dẫn đến tăng lợi nhuận kinh tế thu được từ nông nghiệp… Sản lượng cây trồng chuyển gene cao hơn rất nhiều so với cây trồng chưa biến đổi đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao về lương thực, vì vậy một số quốc gia sẽ giảm một cách đáng kể chi phí nhập khẩu lương thực từ các nước khác….
Đối với Việt Nam hiện nay, với cây bông thường, một vụ cần đến 16 - 17 lần phun thuốc trừ sâu, trong khi với cây bông kháng sâu thì không cần phun thuốc kháng sâu, mà chỉ dùng thuốc kháng bệnh. Như vậy, giá thành sẽ rẻ hơn nhiều so với giá bông nhập khẩu. Ở đây vấn đề không còn là thích hay không thích nữa, nếu thị trường Việt Nam không chấp nhận cây bông chuyển gene thì mãi mãi chúng ta sẽ vẫn phải nhập 95 – 98% nguyên liệu. Cũng như vậy, cây đậu tương trung bình cần phun thuốc 6-7 lần/vụ. Hiện nay, chúng ta vẫn phải nhập một lượng lớn thức ăn gia súc. Nếu ứng dụng biến đổi gene với cây ngô thì Việt Nam có thể sẽ có thêm 9.100 tỷ đồng do năng suất tăng 10% và giảm toàn bộ chi phí sử dụng thuốc trừ sâu trên đồng ruộng.
Việc nghiên cứu sản xuất các giống cây trồng, vật nuôi chuyển gene thực sự là một cơ hội phát triển và là công cụ mạnh để thúc đẩy nền kinh tế. Ai đứng ngoài cuộc lúc này thì sẽ bỏ mất cơ hội đó và kéo đất nước đi chậm lại.
Ở Mỹ, việc sử dụng cây trồng chuyển gene làm giảm khoảng 46,4 triệu pound thuốc trừ sâu năm 2003. Việc sử dụng bông B.t ở Trung Quốc làm giảm khoảng 78.000 tấn thuốc trừ sâu năm 2001. Cây trồng kháng thuốc diệt cỏ cũng được áp dụng nhiều tại Mỹ. Một nghiên cứu về các tác động của cây trồng chuyển gene đối với môi trường và kinh tế sau 9 năm được canh tác (1996 – 2004) cho thấy việc ứng dụng cây trồng chuyển gene đã là giảm lượng thuốc trừ sâu cần phải sử dụng khoảng 172 triệu kg, và làm giảm các tác động lên môi trường khoảng 14%.
Những lo ngại về GMO
Bên cạnh những lợi ích, GMO cũng đặt ra nhiều vấn đề lo ngại cho nhà sản xuất lẫn người tiêu dùng. Những lo ngại vẫn xoay quanh các yếu tố như môi trường, sức khỏe, kinh tế… Liên quan đến vấn đề này thì phe đối lập cũng đưa ra nhiều quan điểm chống lại GMO.
Hủy hoại môi trường:
Những vấn đề đặt ra là gene được đưa vào có ảnh hưởng đối với cây nhận gene, ảnh hưởng lên các sinh vật không phải là sinh vật cần diệt trong môi trường đó không? Cây chuyển gene có tồn tại trong môi trường lâu hơn bình thường hoặc xâm chiếm những nơi cư ngụ mới không? Khả năng gene phát tán ngoài ý muốn từ cây chuyển gene sang loài khác và những hậu quả có thể….
Đe dọa thế giới sinh vật: một công trình nghiên cứu khoa học đăng trên tạp chí danh tiếng Nature đã chứng minh rằng phấn hoa của ngô B.t. là nguyên nhân làm tăng tỉ lệ tử vong của sâu bướm chúa. Sâu bướm chúa không ăn ngô mà ăn lá bông tai, tuy nhiên gió sẽ mang phấn hoa ngô B.t. rắc lên cây bông tai khiến cho sâu chết sạch. Vấn đề là chúng ta không thể tạo ra được chất độc B.t. chỉ giết những côn trùng có hại, đồng thời bảo vệ côn trùng vô hại được. Cho đến nay, cuộc tranh cãi về ngô B.t vẫn chưa ngã ngũ. Một dẫn chứng cụ thể khác là rừng ở Trung Quốc trồng GMO không có thảm thực vật dưới chân cây GMO.
Chuyển gene sai mục đích: Một trong những điều khiến nhiều người lo lắng là cây trồng chuyển gene sẽ dần chuyển gene vượt trội sang cho các giống cây khác không được biến đổi. Chẳng hạn, phấn hoa của GMO phát tán xa hơn 21 km, gây ảnh hưởng lên các loại thực vật khác, tạo ra siêu cỏ, làm cho nông dân tốn nhiều kinh phí cho việc sử dụng thuốc trừ cỏ.
Giảm hiệu quả thuốc bảo vệ thực vật: Do một số loài sâu đã trở nên miễn dịch đối với thuốc trừ sâu DDT (nay đã bị cấm sử dụng), nhiều người tỏ ý lo ngại rằng côn trùng rồi cũng sẽ kháng được B.t hoặc các loại cây trồng chuyển gene để chống sâu bệnh. Công nghệ sinh học là một nỗ lực kiểm soát "sâu" trong thiên nhiên nhưng sức mạnh tạm thời kiểm soát là ảo. Ví dụ, một nông dân tại Ottawa trồng ba loại khác nhau của hạt cải dầu TPBĐG đó đến từ ba nhà sản xuất hàng đầu thế giới (Monsanto Roundup, Cyanamid's Pursuit, và Aventis 'Liberty). Lúc đầu, ông vui mừng thấy ông cần phải sử dụng ít tốn kém chất diệt cỏ. Nhưng chỉ trong vòng ba năm, "superweeds" đã thực hiện trong các gene của tất cả ba loại cây! Điều này cuối cùng đã buộc ông phải sử dụng thuốc diệt cỏ không chỉ nhiều hơn, nhưng sản phẩm nguy hiểm hơn rất nhiều.
GMO ảnh hưởng đến sự sống của những loài sống xung quanh chúng, quá trình đào thải chất độc, tiêu diệt lẫn nhau để sinh tồn gia tăng, gây ô nhiễm nặng môi trường gần đó
Ảnh hưởng đến sức khỏe con người
Khả năng gây dị ứng: rất nhiều trẻ em ở Mỹ và châu Âu đã bị các triệu chứng dị ứng nguy hiểm đến tính mạng do lạc và một số loại thực phẩm biến đổi gene gây ra. Có thể khi gene được đưa vào cây trồng đã tạo ra chất gây dị ứng mới lên những người mẫn cảm. Một dự án ghép gene của lạc Brazil vào đỗ tương đã bị huỷ bỏ vì chính quyền lo sợ rằng sản phẩm mới sẽ gây dị ứng.
Tạo ra nguồn thực phẩm có khả năng kháng kháng sinh: gây rối loạn quá trình tiêu hóa trong cơ thể con người, làm giảm giá trị dinh dưỡng của thực phẩm.
Giảm khả năng sinh sản: Trong cuộc thảo luận về thực phẩm các nhà khoa học đã nhận định đồ ăn biến đổi gene có liên quan đến mối đe dọa giảm khả năng sinh sản. Trong thời gian 20 tuần, các nhà khoa học Áo đã cho những chú chuột thí nghiệm dùng loại ngô biến đổi gene. Kết quả thu được là tỷ lệ sinh sản của những chú chuột sau thời gian ăn ngô biến đổi gene giảm hẳn. Giáo sư Jurgene Zentek, giáo sư của ĐH ở Vienna (Áo) cũng là trưởng nhóm nghiên cứu về đồ ăn biến đổi gene nhận định kết quả ban đầu cho thấy loại thức ăn này có ảnh hưởng đến sinh sản của chuột. Theo ông Zentek đây là mối liên kết trực tiếp giữa thức ăn biến đổi gene và khả năng sinh sản của loài chuột.
Từ các kết quả này, các nhà nghiên cứu cho rằng lương thực thực phẩm biến đổi gene trên thị trường hiện nay là mối đe dọa không nhỏ đến sức khỏe con người.
Vấn đề kinh tế: Vấn đề đặt ra là việc trồng TPBĐG có thực sự giúp tăng trưởng kinh tế hay không?
Đưa TPBĐG ra thị trường là một quá trình tốn kém và mất nhiều thời gian. Hiển nhiên, các công ty công nghệ sinh học - nông nghiệp luôn muốn đảm bảo lợi nhuận cho khoản đầu tư của mình. Rất nhiều công nghệ biến đổi gene thực vật mới và nhiều giống cây biến đổi gene đã được cấp bằng sáng chế. Vì vậy, hiện tượng vi phạm bản quyền là một vấn đề lớn của ngành nông nghiệp. Việc cấp bản quyền cho giống cây mới sẽ làm tăng giá hạt giống, khiến cho các nước đang phát triển không đủ khả năng nhập khẩu giống mới. Do đó, khoảng cách “giàu - nghèo” giữa các nước ngày càng trở nên rộng hơn. Sự xuất hiện của TPBĐG làm cho các công ty sản xuất hạt giống phải thay đổi chiến thuật kinh doanh, dẩn đến tình trạng cạnh tranh gay gắt và sự ra đời của hàng loạt cây, hạt TPBĐG ảnh hưởng đến ô nhiễm gene. Việc sử dụng TPBĐG mà không dán nhãn cũng làm cho người sử dụng thiếu thông tin dẫn đến lo ngại khi lựa chọn sản phẩm…
Công nghệ khó khoăn đã đưa giá sản phẩm lên cao… Ví dụ: dưa hấu hình vuông có giá từ 20 – 99 usd/người. Hay việc Mỹ đã từng thua lỗ 1,6 hay 1,2 tỷ đôla vì không tiêu thụ được TPBĐG ở thị trường Châu Âu và Thái Lan, chỉ bán được 1% trong mười mấy ngàn tấn trái cây được trả về.
Phương hướng giải quyết những lo ngại về GMO
Đứng trước quan điểm được nêu ra bởi phe đối lập, các nhà khoa học cũng như các cơ quan, tổ chức có trách nhiệm đã đưa ra những lập luận để khắc phục những vấn đề nêu trên.
Vấn đề môi trường:
Do gene được chuyển từ cây này sang cây khác qua đường thụ phấn nên chúng ta có thể tạo cây không có phấn hoặc phấn không chứa gene biến đổi. Nhờ đó, quá trình thụ phấn sẽ không xảy ra, đồng thời côn trùng vô hại như sâu bướm chúa có ăn phải phấn hoa cũng không bị tổn lại.
Việc cỏ dại có thể nhận được gene kháng thuốc của lúa, trở thành siêu cỏ và không thể diệt nổi, trên thực tế, hiện tượng đột biến ở cỏ, phát triển khả năng kháng thuốc là hoàn toàn bình thường, vẫn xảy ra trong tự nhiên, chứ không chờ tới khi có sinh vật biến đổi gene.
Đối với thực vật bậc cao, việc gene của cây này "phát tán" sang cây kia chỉ có thể xảy ra thông qua thụ phấn chéo, và chỉ khi chúng cùng loài, hoặc rất gần loài với nhau. Trong lịch sử tiến hóa, chưa bao giờ các loài xa nhau có thể trộn lẫn gene vào nhau được. Thế giới hiện có tới 50 – 60 triệu ha cây trồng chuyển gene, mà chưa có trường hợp nào được ghi nhận là gây ảnh hưởng tới môi trường.
Giải pháp khác là tạo vùng đệm xung quanh khu vực trồng cây biến đổi gene. Chẳng hạn, chúng ta trồng ngô không biến đổi gene quanh cánh đồng ngô B.t. nhưng sẽ không thu hoạch chỗ ngô trong vùng đệm đấy. Côn trùng có lợi hoặc vô hại sẽ được dồn sang vùng đệm, sâu bọ sẽ được phép phá hoại ngô không biến đổi gene. Do đó, chúng sẽ không có khả năng kháng lại thuốc trừ sâu. Hiện tượng truyền gene sang cho cỏ và cây trồng khác cũng không xảy ra nữa, bởi vì phấn hoa không thể theo gió vượt qua khỏi vùng đệm. Theo tính toán, vùng đệm thích hợp sẽ có chiều rộng khoảng 6 - 30m.
Vấn đề sức khỏe:
Công ty Monsanto, một trong nhưng công ty sản xuất thực phẩm biến đổi gene an toàn đưa ra nhận định thực phẩm biến đổi gene là loại thực phẩm an toàn cho sức khỏe con người vì nó đã được kiểm nghiệm trong các phòng thí nghiệm của các công ty công nghệ sinh học, trong đó có công ty Monsanto.
Đối với vấn đề này, khoa học đã đưa ra một giải pháp sử dụng một số công nghệ như: tạo ra hạt giống có khả năng “tự kết liễu”, công nghệ hạn chế sử dụng gene hay công nghệ triệt sản hạt cây. Tức là đưa một gene vào hạt cây chuyển đổi gene, khi cây trồng được thu hoạch, mọi hạt mới đều không có khả năng nảy mầm.
Tóm lại, ngoài việc gây dị ứng đối với những người có cơ địa yếu thì cho đến nay TPBĐG vẫn an toàn cho người sử dụng. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu khoa học vẫn không ngừng tìm kiếm các giải pháp tối ưu nhất đối với cây trồng chuyển gene để từng ngày có thể đưa TPBĐG vào đời sống con người mà không để lại bất cứ hậu quả nào.
Vấn đề kinh tế:
Những vấn đề đã nêu trên nếu được giải quyết sẽ hạ giá thành sản phẩm, tăng năng suất về sản lượng cũng như chất lượng… thì kéo theo những vấn đề kinh tế cũng sẽ được giải quyết.
Thực trạng cây trồng chuyển gene ở Việt Nam và trên thế giới
Tình hình phát triển cây trồng chuyển gene ở Việt Nam
Theo tiến sĩ Lê Thị Thu Hiền, một trong những chuyên gia hàng đầu của VN về thực phẩm và cây trồng chuyển gene, hiện nay lĩnh vực nghiên cứu tạo sinh vật biến đổi gene, nghiên cứu chuyển gene vào cây trồng đang được tiếp cận, đầu tư và triển khai nghiên cứu, ứng dụng với sự chú trọng đặc biệt. Nhiều gene quý có giá trị như tăng năng suất, chất lượng, khả năng chống chịu đã được phân lập và nghiên cứu nhằm chuyển vào cây trồng để tạo nên những giống lý tưởng.
Những vấn đề thiết kế vector cũng như hoàn thiện các quy trình tái sinh cây khởi đầu cho nghiên cứu chuyển gene cũng nhận được sự quan tâm của nhiều nhóm tác giả. Nhiều phương pháp chuyển gene khác nhau như phương pháp bắn gene, phương pháp sử dụng vi khuẩn A. tumefaciens… đã được áp dụng thành công trên hàng loạt đối tượng cây trồng quan trọng như lúa, cà chua, cà tím, đậu xanh, cà phê, thuốc lá, khoai lang.
Các nghiên cứu liên quan đến cây trồng biến đổ gene tập trung tại Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam (trước đây là Trung tâm Khoa học tự nhiên và Công nghệ Việt Nam) và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Trong đó, tại Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam, các nghiên cứu cây trồng chuyển gene chủ yếu được tiến hành ở các phòng thí nghiệm của Viện Công nghệ sinh học và Viện Sinh học nhiệt đới.
Tại Viện Công nghệ sinh học, hướng nghiên cứu các giống cây trồng chuyển gene đã được đẩy mạnh ngay từ cuối những năm 1990. Các cán bộ của viện đã tiến hành thu nhập và phân lập được nhiều nguồn gene quý có giá trị nông nghiệp như gene chịu hạn, lạnh ở lúa: gene cry, gene mã hóa protein bất hoạt hoá ribosome (RIP) ở cây mướp đắng và gene mã hoá a-amylase của cây đậu cô ve có hoạt tính diệt côn trùng; gene kháng bọ hà khoai lang của vi khuẩn Bt; gene mã hoá protein vỏ của virus gây bệnh đốm vòng ở cây đu đủ…
Đặc biệt, Viện đã thực hiện đề tài Công nghệ chuyển gene ở cây trồng, trong đó gene xá kháng bệnh bạc lá do vi khuẩn ở lúa. Hiện nay, trong Chương trình khoa học công nghệ sinh học đang phối hợp cùng một số viện nghiên cứu sinh học khác tại Việt Nam tiến hành đề tài KC04 - 13: chuyển gene vào cây hoa, cây bông và cây lâm nghiệp, nhằm nâng cao sức chống chịu với sâu bệnh và điều kiện ngoại cảnh bất lợi.
Ngoài ra, trong khuôn khổ các đề án hợp tác trong nước và quốc tế, những vấn đề nghiên cứu tăng cường tính chịu hạn và chịu mặn ở cây lúa bằng công nghệ biến đổi gene, chuyển gene kháng virus đốm vòng vào cây đu đủ, chuyển gene cry và gene chịu hạn vào cây bông… đã và đang được triển khai hiệu quả với một số loài cây biến đổi gene trồng thử nghiệm ở nhà kính.
Những công trình trong phòng thí nghiệm
Tại Viện Sinh học nhiệt đới, sử dụng phương pháp chuyển gene thông qua vi khuẩn A. tumefaciens hoặc phương pháp bắn gene, các nhà khoa học đã tạo được các cây thuốc lá, lúa, đậu xanh, cải bông, cải xanh và cây cà tím biến đổi gene mang gene cry kháng côn trùng, gene kháng thuốc diệt cỏ.
Hiện nay, viện đang thực hiện việc chuyển gene vào cây thân gỗ sử dụng vi khuẩn A. tumefaciens chủng EHA 105 chứa Ti-plasmid ITB mang gene cry kháng côn trùng, gene bar kháng thuốc diệt cỏ và gene chỉ thị gus.
Tại Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Lã Tuấn Nghĩa và cộng sự đã chuyển gene gus và gene kháng kanamycin vào cà chua; Phan Tố Phượng và cộng sự đã thành công trong việc sử dụng phương pháp gián tiếp qua vi khuẩn đất A.tumefaciens để chuyển gene vào cây Arabidopsis. Cũng chính nhóm tác giả này, năm 1998 đã công bố kết quả chuyển gene Xa 21 vào giống lúa Việt Nam sử dụng súng bắn gene. Gần đây, nhóm nghiên cứu của Đặng Trọng Lương đã tiến hành thiết kế vector và chuyển gene cry vào cây cải bắp. Các nghiên cứu chuyển gene kháng thuốc diệt cỏ và kháng bệnh khô vằn vào giống lúa DT 10, DT 13; gene kháng bệnh bạc lá vào giống lúa VL 902; gene kháng sâu tơ vào cải bắp CB 26; gene cry. Gna.,Xa 21 và gene mã hoá B-caroten vào lúa Indica… đã và đang được triển khai với những kết quả khả quan.
Từ năm 1994 đến nay, nhờ các biện pháp và chính sách khuyến khích, đầu tư hiệu quả, công nghệ sinh học ở nước ta ngày càng phát triển mạnh mẽ. Từ năm 1990, Chương trình công nghệ sinh học quốc gia đã được cấp kinh phí cho các dự án nghiên cứu ứng dụng công nghệ sinh học, đặc biệt trong cải tiến giống cây trồng và kể từ năm 1995 cho các dự án nghiên cứu về việc phát triển công nghệ chuyển gen. Từ năm 2001, Chính phủ đã đầu tư 3 dự án/đề tài nghiên cứu sinh vật biến đổi gene. Những dự án/đề tài này liên quan đến nhiều cây trồng quan trọng của Việt Nam. Bên cạnh đó, một số phòng thí nghiệm công nghệ sinh học đã và đang được Nhà nước đầu tư trang thiết bị hiện đại và triển khai các kỹ thuật cơ bản của công nghệ gene như phân lập và xác định trình tự gene, thiết kế và biến nạp gene vào tế bào vi sinh vật, động vật, thực vật, nghiên cứu biểu hiện gene… Tuy nhiên, những cây trồng này mới chỉ tồn tại ở quy mô thí nghiệm và chờ thử nghiệm. Hiện nay, chúng ta chưa có quy chế cho việc tiến hành thử nghiệm các cây trồng này ở đồng ruộng.
Bên cạnh các cây trồng chuyển gene được nghiên cứu triển khai trong nước đang chờ thử nghiệm, một số cây trồng du nhập vào nước ta có thể là sản phẩm của công nghệ chuyển gene. Hiện nay, chưa có cơ quan nào thống kê, đánh giá đầy đủ tình trạng nhập khẩu các sinh vật chuyển gene và sản phẩm của chúng để sử dụng trong nông nghiệp, công nghiệp thực phẩm, dược phẩm.
Ở nước ta, công nghệ sinh học được xem là ngành quan trọng. Nghị quyết số 18/CP của Chính phủ ngày 11.3.1994 chỉ rõ:
"...Cùng với các ngành công nghệ mũi nhọn khác (công nghệ thông tin và công nghệ vật liệu mới), công nghệ sinh học sẽ góp phần khai thác tối ưu các nguồn lực của đất nước phục vụ phát triển sản xuất, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân và chuẩn bị những tiêu đề cần thiết về mặt công nghệ cho đất nước tiến vào thế kỷ 21…".
Do chúng ta chưa có văn bản pháp lý để quản lý thống nhất trên cả nước nên các hoạt động nghiên cứu, ứng dụng, bảo quản sản xuất, xuất nhập khẩu, vận chuyển sinh vật chuyển gene nói chung và cây trồng chuyển gene nói riêng chưa quản lý hay giám sát được.
Những quy định của Việt Nam về thực phẩm biến đổi gene
Các quy định của bộ Y tế Việt Nam về sản phẩm thực phẩm biến đổi gene được phép lưu thông và tiêu thụ trên thị trường:
An toàn đối với sức khỏe con người.
Ghi nhãn sản phẩm theo quy định.
Tuân thủ chế độ kiểm tra định kỳ theo quy định hiện hành.
Việt Nam cũng công bố tiêu chuẩn đối với sản phẩm biến đổi gene sản xuất trong nước và xuất khẩu:
Trong nước: Ngoài thực hiện các quy định về công bố tiêu chuẩn sản phẩm đối với thực phẩm biến đổi gene theo quy định hiện hành, tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh thực phẩm biến đổi gene phải cung cấp thông tin sau:
Tên của sản phẩm biến đổi gene.
Tên gene được chuyển vào sản phẩm: mục đích, vị trí, đặc điểm, tính ổn định của gene được cấy vào.
Có chứng nhận an toàn.
Không gây dị ứng.
Không tạo ra độc tố ảnh hưởng tới sức khỏe của con người.
Thành phần dinh dưỡng và các chất.
Tính ổn định của gene cấy vào.
Nhập khẩu: Thực phẩm biến đổi gene nhập khẩu phải tuân thủ theo các quy định hiện hành của pháp luật về thực phẩm nhập khẩu và công bố tiêu chuẩn sản phẩm tại Bộ Y tế (Cục An toàn vệ sinh thực phẩm). Ngoài ra bên xuất khẩu phải cung cấp những thông tin sau:
Xác nhận không có nguy cơ dị ứng (gene cấy vào có nguồn gốc an toàn).
Xác nhận không có nguy cơ tạo ra độc tố.
Báo cáo xác nhận thành phần dinh dưỡng so với thực phẩm thường.
Xác nhận tính ổn định của gene được cấy vào (qua thế hệ thứ 6).
Tỷ lệ Protein hoặc ADN đã bị biến đổi trong thực phẩm.
Tên gene được cấy vào: mục đích, vị trí, đặc điểm và tính ổn định của gene thay thế.
Trường hợp giữa nước xuất khẩu và Việt Nam có Công ước thừa nhận lẫn nhau về thực phẩm biến đổi gene thì thực hiện theo Công ước đó.
Vấn đề bắt buộc ghi nhãn đối với thực phẩm biến đổi gene
Các nội dung công bố trên nhãn phải ở vị trí sao cho khi quan sát có thể nhận biết dễ dàng và được trình bày một cách rõ ràng, dễ hiểu, dễ đọc bằng mắt thường cùng với kích thước và khoảng cách giữa các chữ phải hợp lý, cỡ chữ tối thiểu bằng cỡ chữ của tên thành phần.
Thực phẩm biến đổi gene tương đương với thực phẩm thường về thành phần, giá trị dinh dưỡng, hàm lượng các chất.
Thực phẩm đã qua chế biến:
Protein đã bị biến đổi còn dư lại trong sản phẩm: Bắt buộc ghi nhãn.
ADN đã bị biến đổi còn dư lại trong sản phẩm: Bắt buộc ghi nhãn.
Protein đã bị biến đổi không còn dư lại: Không bắt buộc ghi nhãn.
ADN đã bị biến đổi không còn dư lại: Không bắt buộc ghi nhãn.
Thực phẩm biến đổi gene khác thực phẩm thường về thành phần, giá trị dinh dưỡng, hàm lượng các chất.
Tình hình phát triển cây trồng chuyển gene trên thế giới
Đến tháng 12/2008, đã có 61 nước phê chuẩn 677 sản phẩm biến đổi gene và cho xuất hiện trên thị trường, trong đó khoảng 40% sản phẩm được phê chuẩn từ Châu Á. Trên 25 quốc gia trồng hơn 125 triệu ha cây trồng chuyển gene
Hiện trạng - xu hướng phát triển cây trồng chuyển gene trên thế giới
Công nghệ sinh học đã có những bước tiến nhảy vọt góp phần mang lại những thành tựu to lớn cho loài người. Năm 2006 được ghi nhận là năm đầu tiên của thập niên thứ hai của việc thương mại hóa cây trồng chuyển gene 2006 – 2015. Năm 2006, diện tích toàn cầu cây trồng chuyển gene tiếp tục tăng cao vượt ngưỡng 100 triệu ha (250 triệu mẫu Anh), khi lần đầu tiên hơn 10 triệu nông dân (10,3 triệu) tại 22 nước canh tác cây chuyển gene, cao hơn so với 90 triệu ha và 8,5 triệu nông dân tại 21 nước năm 2005. Tỷ lệ chấp nhận cao chưa từng thấy là minh chứng cho sự thật và sự tin tưởng của hàng triệu nông dân nhỏ và lớn vào cây trồng chuyển gene ở các nước công nghiệp và đang phát triển.
Mười một năm qua (1996 - 2006), một cách ngoại lệ, diện tích cây chuyển gene toàn cầu tăng hơn 60 lần trong 11 năm đầu tiên thương mại hóa, làm cho cây trồng chuyển gene được coi là kỹ thuật cây trồng được chấp nhận nhanh nhất trong lịch sử hiện đại. Sự gia tăng 12 triệu ha hay 30 triệu mẫu Anh giữa năm 2005 và 2006, là sự gia tăng cao thứ hai trong 5 năm trở lại đây, tương đương với tỷ lệ tăng trưởng hàng năm là 13% trong năm 2006. Đáng ghi nhận là hơn một nửa (55% hay 3,5 tỷ người) dân số của 6,5 tỷ người sống tại 22 nước có canh tác cây chuyển gene trong năm 2006 đã tạo ra lợi nhuận một cách đáng kể. Cụ thể là 90% nông dân nghèo từ các nước đang phát triển, đã tăng được thu nhập từ cây chuyển gene (Trung Quốc – 6,8 triệu nông dân và Ấn độ - 2,3 triệu). Cũng hơn một nửa (52% hay 776 triệu ha của 1,5 tỷ ha) diện tích đất trồng trên thế giới tại 22 nước năm 2006 đã canh tác cây chuyển gene.
Một cột mốc lịch sử cũng được ghi nhận trong năm 2006 tổng diện tích gieo trồng cây chuyển gene trong 11 năm, từ 1996 đến 2006 đã vượt qua mức 500 triệu ha (577 triệu ha). Ở liên minh châu Âu, Tây Ban nha tiếp tục dẫn đầu trồng hơn 60.000 ha cây chuyển gene trong năm 2006. Diện tích cây ngô chuyển gene tại 5 nước còn lại (Pháp, Cộng hòa Czech, Bồ Đào Nha, Đức và Slovakia) tăng 5 lần từ 1.500 ha năm 2005 lên khoảng 8.500 ha.
Cây đậu nành chuyển gene vẫn giữ là cây chuyền gene chủ yếu năm 2005, đạt 58,6 triệu ha (chiếm 57% diện tích cây chuyển gene toàn cầu), tiếp theo là cây ngô (25,2 triệu ha – 25%), cây bông (13,4 triệu ha – 13%) và cây cải dầu (4,8 triệu ha – 5%). Giống cỏ alfafa kháng thuốc trừ cỏ, là loại cây chuyển gene lâu năm đầu tiên được đưa vào trồng với diện tích 80.000 ha ở Hoa kỳ và giống bông kháng thuốc trừ cỏ RR@ Flex được đưa ra với diện tích 800.000 ha ở Hoa Kỳ và Úc.
Năm 2006, các giống đậu nành, ngô, cải dầu và cỏ alfalfa kháng thuốc trừ cỏ tiếp tục chiếm ưu thế với 68% hay 69,9 triệu ha, tiếp theo là giống kháng sâu BT với 19,0 triệu ha (19%) và các giống cây chuyển gene xếp chồng (chịu được cả thuốc trừ cỏ và kháng sâu) chiếm 13,1 triệu ha (13%). Các giống chuyển gene xếp chồng là nhóm giống tăng trưởng nhanh nhất tới 30% giữa năm 2005 và 2006, so với 17% đối với nhóm kháng sâu và 10% đối với nhóm kháng thuốc trừ cỏ.
Sự tác động tích lũy toàn cầu của cây chuyển gene từ năm 1996 đến 2005 đã đem lại lợi nhuận thuần cho nông dân trồng cây chuyển gene là 27 tỷ USD (13 tỷ USD đối với các nước đang phát triển và 14 tỷ USD đối với các nước công nghiệp). Đã làm giảm tổng lượng thuốc trừ sâu từ năm 1996 đến 2005 là 224.000 tấn hoạt chất, tương đương với việc giảm 15% trong tác động môi trường xung quanh của sử dụng thuốc trừ sâu đối với các loại cây trồng trên.
Trong 13 năm (1996 – 2008), số nước trồng cây trồng chuyển gene đã lên tới con số 25 - một mốc lịch sử - một làn sóng mới về việc đưa cây trồng chuyển gene vào canh tác, góp phần vào sự tăng trưởng rộng khắp toàn cầu và gia tăng đáng kể tổng diện tích trồng cây trồng chuyền gene trên toàn thế giới lên 73,5 lần (từ 1,7 triệu ha năm 1996 lên 125 triệu ha năm 2008). Trong năm 2008, tổng diện tích đất trồng cây trồng chuyển gene trên toàn thế giới từ trước tới nay đã đạt 800 triệu ha. Năm 2008, số nước đang phát triển canh tác cây trồng chuyển gene đã vượt số nước phát triển trồng loại cây này (15 nước đang phát triển so với 10 nước công nghiệp), dự đoán xu hướng này sẽ tiếp tục gia tăng trong thời gian tới nâng tổng số nước trồng cây chuyển gene lên 40 vào năm 2015.
Thực trạng sử dụng thực phẩm biến đổi gene ở EU
Chính phủ các nước EU cho rằng, trong khi chưa có các bằng chứng xác định về tính an toàn của các GMO, tạm thời cấm trồng cây và nuôi gia súc biến đổi gene trên lãnh thổ châu Âu. Mức độ phản ứng của các Chính phủ EU rất khác nhau. Một số nước châu Âu đã có quy định cho các sản phẩm biến đổi gene.
Một cuộc điều tra năm 2002 cho thấy, 97% người tiêu dùng châu Âu mong muốn các sản phẩm biến đổi gene được dán nhãn rõ ràng, 80% hoàn toàn không thích sản phẩm biến đổi gene.
Tuy nhiên, sau khi 133 nước đã thông qua Nghị định thư Cartagenea, đã xuất hiện một số xu hướng tích cực trong việc phát triển và thương mại cây trồng và sản phẩm biến đổi gene. Các nước đều nhất trí là không sử dụng các gene kháng sinh làm các chỉ thị chọn lọc cho cây trồng chuyển gene. Các nước châu Âu cuối cùng đã đồng ý nhập khẩu sản phẩm biến đổi gene của Hoa Kỳ, với điều kiện tất cả các sản phẩm này phải được dán nhãn. Theo các nước châu Âu, người tiêu dùng có toàn quyền lựa chọn xem có nên mua sản phẩm biến đổi gene hay không, và do đó các sản phẩm biến đổi gene phải được dán nhãn.
Tuy vậy, việc sử dụng TPBĐG ở các nước EU vẫn là vấn đề gây tranh cãi. Ủy ban châu Âu cùng với các viện, cơ quan quốc gia đã tiến hành các cuộc thăm dò ý kiến người tiêu dùng hàng năm để tìm hiểu ý kiến đại diện và xác định khuynh hướng và các chỉ số chung. Phần lớn người tiêu dùng vẫn còn ngần ngại về TPBĐG, tuy nhiên vẫn chấp nhận việc nghiên cứu và canh tác các cây trồng chuyển gene. Những cuộc thăm dò gần đây cho thấy, thái độ người tiêu dùng đã thay đổi, khoảng một nửa người tiêu dùng đã chấp nhận TPBĐG, đặc biệt là khi lợi ích của người tiêu dùng và môi trường có thể liên kết với sản phẩm TPBĐG.
Năm 2007, 80% người được phỏng vấn đã không phê phán việc sử dụng GMO trong nông nghiệp vì lợi ích môi trường. Nhiều người tiêu dùng dường như không còn lo ngại đến rủi ro tiềm tàng của GMO đối với sức khỏe và không chủ động lảng tránh các sản phẩm GMO trong khi mua bán.
Một cuộc thăm dò ý kiến của các nước EU về việc sử dụng sản phẩm GMO được tiến hành vào tháng 11-12/2007 được thể hiện như sau:
Theo cuộc điều tra này cho thấy, phần lớn người châu Âu tuyên bố phản đối việc sử dụng GMO (58%), trong khi có khoảng 21% ủng hộ, còn khoảng trên 9% nói rằng họ chưa bao giờ nghe nói về GMO. Mức độ phản đối GMO khác nhau ở các nước. Nước phản đối mãnh mẽ nhất là Slovenia (82%), Cyprus (81%). Nước ủng hộ cao nhất là Malta và Bồ Đào Nha (28%).
Việc phân tích thành công nhất của cuộc thăm dò này là tìm hiểu được các ý kiến phản đối hay ủng hộ có liên quan đến mối quan tâm của dân chúng hoặc thiếu thông tin về việc sử dụng GMO như sau:
Thực phẩm biến đổi gene và vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm
Vấn đề an toàn của thực phẩm biến đổi gene được đánh giá trên nhiều yếu tố. Trong đó, có một số yếu tố quan trọng như:
Vi sinh vật
Độc tố
Chất gây dị ứng
Thành phần dinh dưỡng.
Ngoài ra, để đánh giá độ an toàn của gene được chuyển, các nhà khoa học còn quan tâm đến nguồn gốc của gene. Gene phải có nguồn gốc an toàn đối với người tiêu thụ. Độc tố và chất gây dị ứng đều được nghiên cứu trên các đối tượng chuyển gene trước khi đưa ra thương mại hoá. Ngoài ra, sự tương tác giữa protein của gene chuyển và protein của vật chủ cũng được nghiên cứu nhằm loại bỏ những trường hợp tương tác gây thay đổi đặc tính sản phẩm của gene chuyển. Cuối cùng, thực phẩm có nguồn gốc từ ADN tái tổ hợp còn được đánh giá, so sánh với thực phẩm “cổ truyền” cùng loại.
Thực phẩm biến đổi gene và sự ảnh hưởng của nó đến hệ thống vi sinh vật trong hệ thống tiêu hóa
Theo như một số nghiên cứu được thực hiện từ khắp nơi trên thế giới, các nhà nghiên cứu đều có chung một kết luận, gene kháng kháng sinh trong thực vật chuyển gene được phân hủy rất nhanh trong đường tiêu hóa của động vật.
Một nghiên cứu tại phòng thí nghiệm vi sinh vật học, thuộc trường Đại học Leed, vương quốc Anh đã cho thấy sự tồn tại của gene kháng kháng sinh trong đường tiêu hóa của gia cầm, được nuôi bằng thực phẩm biến đổi gene là không lâu hơn so với các gene khác.
Sự lo ngại của người tiêu dùng còn liên quan đến vấn đề các gene được biến đổi có trong thực phẩm sẽ chuyển vào vi sinh vật và tạo nên các chủng vi sinh vật kháng thuốc, điều này gây nguy hại rất lớn đến sức khỏe con người. Dựa trên một số hoài nghi vừa nêu, một số nhà khoa học đã tiến hành nghiên cứu gene beta-lactamase - một trong những gene kháng kháng sinh thường được dùng trong kỹ thuật tạo ra thực vật chuyển gene, nhằm làm cho cây trồng thích nghi với điều kiện sống chịu nhiều tác động có hại của vi sinh vật hơn.
Nhóm nghiên cứu này đã nuôi gà bằng thức ăn là ngô thông thường (không chuyển gene) và ngô chuyển gene, sau đó theo dõi quá trình phân huỷ của gene beta-lactamase trong đường tiêu hoá của chúng. Kết quả cho thấy, trên gene beta-lactamase kiểu dại có mang điểm nhận biết của enzyme PstI, trong khi gene beta-lactamase trên ngô chuyển gene lại không có điểm nhận biết này, nên gene beta-lactamase kiểu dại được phát hiện thấy trên hầu khắp đường tiêu hoá của gà nuôi bằng thức ăn không chuyển gene. Kết quả này cho phép khẳng định rằng các gene có tác dụng kháng kháng sinh tồn tại rất nhiều trong cơ thể động vật. Đối với gà được nuôi bằng thức ăn chuyển gene, thì phát hiện được gene kiểu dại (chứa điểm nhận biết PstI) trong suốt hệ thống tiêu hoá, trong khi đó gene beta-lactamase có nguồn gốc từ thức ăn chuyển gene (không chứa điểm nhận biết PstI) không phát hiện được có tồn tại ở gà, mà lại tồn tại ở đường tiêu hóa của một số động vật khác. Như vậy, sau khi đã được biến đổi, gene beta – lactamase không còn gây hại đối với vi sinh vật trong đường tiêu hóa nữa. Ta thấy, trên cơ thể động vật các gene kháng kháng sinh đã bị phân hủy thì khi con người sử dụng động vật được nuôi bằng thực phẩm biến đổi gene làm thức ăn, thì hệ vi sinh vật tốt cho đường tiêu hóa của con người vẫn được đảm bảo an toàn. Vi vậy, không nguy hại gi đến sức khỏe người tiêu dùng. Tuy đây là một nghiên cứu được thực hiện trên cơ thể động vật nhưng cũng có một ý nghĩa rất lớn đối với vấn đề an toàn trong việc sử dụng thực phẩm.
Thực phẩm biến đổi gene và vấn đề độc tố sinh ra trong thực phẩm biếm đổi gene
Độc tố xuất hiện trong thực phẩm biến đổi gene là vấn đề rất đáng quan tâm. Tuy nhiên, không phải chỉ có thực phẩm biến đổi gene mới có độc tố mà ngay cả thực phẩm được trồng theo phương pháp truyền thống cũng có chứa một hàm lượng độc tố khá cao. Tìm hiểu song song 2 loại thực phẩm: thực phẩm truyền thống và thực phẩm biến đổi gene, qua đó có thể trả lời được câu hỏi về vấn đề an toàn của thực phẩm biến đổi gene. Đó cũng là vấn đề được người tiêu dùng đặc biệt quan tâm.
Đối với thực phẩm biến đổi gene: có 2 giả thiết được các nhà khoa học nêu ra
Đột biến thêm đoạn trong kỹ thuật chuyển gene: trong quá trình thực hiện kỹ thuật di truyền, gene mới chuyển vào làm hư hỏng hay gây đột biến một hoặc vài gene khác của thực vật - do một quá trình có tên gọi là đột biến thêm đoạn. Việc xuất hiện các đột biến thêm đoạn này sẽ dẫn đến sự hư hại về di truyền. Đột biến gene trong kỹ thuật chuyển gene làm thay đổi quá trình điều hòa, gây ảnh hưởng đến quá trình sản xuất độc tố. Vì vậy, hàm lượng độc tố mà thực vật sản xuất ra có thể tăng cao.
Trạng thái stress ở thực vật: nếu thực vật đó được gây biến đổi bằng kỹ thuật di truyền, nhằm gây ảnh hưởng lên quá trình trao đổi chất bình thường của thực vật thì bản thân nó sẽ ở trong trạng thái stress, và thực vật trong trạng thái stress có thể tạo ra lượng độc tố cao hơn.
Đối với thực phẩm truyền thống
Trong quá trình lai giống, để chọn ra một giống mới có khả năng kháng bệnh, nhưng lại không loại bỏ được các gene điều khiển sản sinh ra độc tố. Vì vậy, bản thân chúng vẫn tự sinh ra độc tố.
Nhiều thực vật có mang một đoạn ADN tự nhiên có khả năng di chuyển. Ở những điều kiện nhất định, những đoạn ADN này sẽ "nhảy" ra khỏi vị trí của nó và gắn vào một một vị trí ngẫu nhiên khác trong hệ ADN của thực vật và hiện tượng này có thể gây ra hiệu ứng "đột biến thêm đoạn" như xảy ra với kỹ thuật chuyển gene.
Qua các nghiên cứu về độ an toàn của thực phẩm biến đổi gene, và so sánh nó với thực phẩm được lai tạo chọn giống qua nhiều thế hệ, ta thấy cả hai phương pháp đều có độc tố. Tuy nhiên, những suy đoán trên đối với thực phẩm biến đổi gene chỉ là những giả thiết nêu ra thông qua những nghiên cứu thực tế trên cây trồng lai tạo, chọn giống mới. Trên thị trường hiện nay vẫn chưa phát hiện được bất kỳ thực vật chuyển gene nào có khả năng gây ảnh hưởng đến sức khỏe con người bằng cách tạo độc tố.
Để đảm bảo sức khỏe cho người tiêu dùng và hỗ trợ cho việc theo dõi diễn biến của thực phẩm biến đổi gene, tổ chức Thuốc và Thực phẩm Hoa Kỳ (FDA) khuyến cáo các nhà phát triển thực vật chuyển gene cần đánh giá hàm lượng độc tố tự nhiên cũng như chất đối kháng dinh dưỡng trong thực vật chuyển gene và so sánh các thông số này với thực vật không chuyển gene cùng loài.
Thực phẩm biến đổi gene và chất gây dị ứng trong thực phẩm
Thực phẩm biến đổi gene chỉ có nguy cơ gây dị ứng khi nó có chứa một hoặc nhiều protein mà không có trong thực phẩm cùng loại bình thường. Người ta đặc biệt quan tâm nếu thực phẩm biến đổi gene có chứa protein của một thực phẩm khác mà đã biết trước là có khả năng gây dị ứng. Nếu chẳng may protein chuyển vào thực phẩm biến đổi gene lại là yếu tố gây dị ứng trong thực phẩm thông thường thì rất có thể thực phẩm biến đổi gene cũng gây dị ứng. Chẳng hạn những ai dị ứng với lạc Brazil, thì rất có thể cũng dị ứng với đậu tương chuyển gene có chứa một protein từ lạc Brazil.
Ngoài ra, nếu chuyển một protein từ vi khuẩn vào thực vật, thì thực vật có thể gây ra những biến đổi làm cho nó không giống như khi nó ở trong vi khuẩn, vấn đề này có thể ảnh hưởng đến khả năng gây dị ứng của protein đó. Có một quá trình được chứng minh là có khả năng tạo ra protein gây dị ứng, đó là quá trình Glycosyl hóa, một quá trình cho phép phân tử protein gắn kết với các phân tử đường. Hơn nữa, số lượng protein được tạo ra cũng ảnh hưởng đến khả năng gây dị ứng của nó, mặc dù hầu hết các protein chuyển vào thực vật chuyển gene được tổng hợp ở mức rất thấp. Tuy nhiên không phải thực phẩm biến đổi gene nào cũng gây dị ứng, có một số thực vật chuyển gene không tạo ra một protein mới nào, thì chúng không có khả năng gây dị ứng. Ví dụ: cà chua Flavr-Savr…
Từ năm 1992, FDA đã khuyến nghị (nhưng không bắt buộc) những nhà phát triển thực phẩm biến đổi gene nên đánh giá nguy cơ gây dị ứng với thực phẩm biến đổi gene mà họ tạo nên, nhất là khi thực phẩm đó có chứa một protein của một thực phẩm khác đã biết là có khả năng gây dị ứng. Dù việc đánh giá này là không bắt buộc về mặt pháp lý, nhưng cho đến nay hầu hết các nhà phát triển thực phẩm biến đổi gene, đều gửi sản phẩm của họ đi đánh giá khả năng gây dị ứng. Tổ chức FDA cũng gợi ý rằng nếu không có đủ bằng chứng để khẳng định rằng thực phẩm biến đổi gene đó “không” gây dị ứng thì sản phẩm đó phải được dán nhãn hoặc là không được đưa vào thị trường tiêu dùng.
Việc đánh giá khả năng gây dị ứng của thực phẩm biến đổi gene
Nếu protein chuyển gene bắt nguồn từ một thực phẩm đã biết là có thể gây dị ứng:
Trước tiên protein đó được tách từ thực vật chuyển gene và kiểm tra với huyết thanh của bệnh nhân bị dị ứng với thực phẩm biến đổi gene ban đầu bằng các phương pháp chuẩn xác định dị ứng.
Nếu như bước thử trên là âm tính hoặc không rõ ràng thì bước tiếp theo sẽ là thử dị ứng trên da. Với phép thử này, bệnh nhân dị ứng sẽ được tiêm một lượng nhỏ protein trên vào dưới da.
Nếu vẫn không có phản ứng dị ứng với protein đó thì bước cuối cùng là thử nghiệm bằng cách ăn thực phẩm đó còn gọi là “phép thử tiêu dùng thực phẩm”. Phép thử này được tiến hành theo nguyên tắc “mù đôi”, sử dụng cả mẫu giả (placebo) lẫn mẫu thật.
Nếu tất cả các phép thử trên đầu âm tính trên những người có thể trạng dị ứng với thực phẩm cao thì có thể kết luận là thực phẩm biến đổi gene đó sẽ không có nguy cơ gây dị ứng. Hệ thống phương pháp này, sẽ phát hiện ra các trường hợp thực phẩm biến đổi gene có gây dị ứng hay không. Vì thế, có thể ngăn chặn nó xâm nhập vào thị trường tiêu dùng.
Nếu protein chuyển gene có nguồn gốc từ một thực phẩm hiếm khi gây dị ứng
Nếu có huyết thanh của bệnh nhân bị dị ứng với thực phẩm biến đổi gene thì thực hiện bước thử như trên.
Tuy nhiên, vì là loại thực phẩm hiếm khi gây dị ứng nên có thể sẽ không có huyết thanh đó. Trong trường hợp này, thực phẩm đó sẽ được đánh giá khả năng gây dị ứng theo qui trình dành cho nhóm thực phẩm chưa rõ khả năng gây dị ứng.
Nếu protein chuyển gene có nguồn gốc từ sinh vật không rõ về khả năng gây dị ứng.
Dự đoán khả năng gây dị ứng của một thực phẩm khi chưa có bệnh nhân dị ứng là rất khó khăn. Hiện chưa có một phương pháp thử nghiệm nào, có thể xác đinh được khả năng gây dị ứng trong thực phẩm biến đổi gene cũng như thực phẩm thông thường.
Một phân tích cho thấy, trước khi một protein của lạc Brazil được chuyển vào đậu tương thì các thử nghiệm trên động vật đã cho thấy rằng protein đó sẽ không gây dị ứng trên người.
Hầu hết các chất gây dị ứng đều có một số đặc điểm chung như kích thước nhỏ, bền nhiệt, axít, và không mẫn cảm với enzyme tiêu hóa. Đây là các đặc tính được cho là cần thiết để cho một chất gây dị ứng có thể xâm nhập vào hệ tuần hoàn mà không bị phân hủy hay biến đổi.
Mặc dù không phải protein nào có đặc tính như trên cũng có thể gây dị ứng, nhưng nếu một protein mới của thực phẩm biến đổi gene có một trong những đặc tính trên hoặc có cấu trúc giống với những protein đã được biết là có gây dị ứng thì FDA sẽ coi protein đó là một chất gây dị ứng tiềm ẩn và sẽ có những qui định phù hợp.
Tuy nhiên, trong tương lai các chất gây dị ứng sẽ được hạn chế đáng kể để nâng cao vấn đề an toàn thực phẩm và đảm bảo sức khỏe cho người tiêu dùng.
Thành phần dinh dưỡng trong thực phẩm biến đổi gene
Theo các nhà nghiên cứu, tất cả các phương pháp nhân giống thực vật, dù truyền thống hay chuyển gene đều có khả năng thay đổi dinh dưỡng của sản phẩm hoặc có những thay đổi ngoài dự kiến về nồng độ, hàm lượng các chất ức chế dinh dưỡng.
Cây chuyển gene có thể giúp tăng lên một số thành phần dinh dưỡng nhất định. Chẳng hạn, cây lúa là cây lương thực quan trọng nhất của nhân loại, nhưng lúa có nhược điểm cơ bản là không chứa vitamin A và cả carotene. Do đó những gia đình ăn chủ yếu bằng gạo sẽ bị thiếu vitamin A, hậu quả là gây viêm màng mắt, lâu dài bị khô mắt, mù loà... Thế nhưng khi dùng công nghệ gene, các nhà khoa học đã tạo ra giống lúa chứa vitamin A, hạt gạo của nó có màu vàng, gọi là lúa vàng. Như vậy, nhờ kỹ thuật gene người ta có thể tạo ra các cây có giá trị dinh dưỡng cao.
Tuy nhiên, cây biến đổi gene có thể gây những nguy cơ thành phần dinh dưỡng. Phương pháp này có thể gây ra sự thay đổi các thành phần như: protein thô, chất béo thô, carbonhydrat thô... làm thay đổi hàm lượng protein, tạo các protein bất thường, các chất kháng dinh dưỡng (phytase, chất ức chế trypsin...)
Do đó, trước khi đưa thực phẩm biến đổi gene ra lưu thông trên thị trường, cần phải đánh giá mức độ nguy cơ của chúng và công việc kiểm nghiệm tính an toàn của thực phẩm biến đổi gene phải được thực hiện nghiêm ngặt bởi các cơ quan tổ chức độc lập với các nhà sản xuất, đảm bảo hạn chế đến mức thấp nhất những ảnh hưởng của loại thực phẩm này tới sức khoẻ người tiêu dùng.
Một số sản phẩm biến đổi gene tiêu biểu
Ngô biến đổi gene tự tiêu diệt sâu
Đối với Sâu ăn rễ
Sâu ăn rễ là một trong những loài côn trùng đáng sợ nhất đối với các ruộng ngô ở Mỹ và châu Âu. Theo ước tính của các chuyên gia nông nghiệp, thiệt hại hàng năm mà chúng gây ra mỗi năm lên tới hàng tỷ USD.
Khi bị sâu ăn rễ (ấu trùng của bọ cánh cứng) tấn công, rễ của ngô biến đổi gene giải phóng một hợp chất ở dạng khí ra môi trường xung quanh. Khi tiếp xúc với chất khí này, lũ sâu sẽ rơi vào tình trạng mệt mỏi. Theo quy luật tự nhiên chúng sẽ bước vào giai đoạn thành trùng dù chưa đến thời điểm thích hợp. Hậu quả là lũ sâu sẽ chết.
Các nhà khoa học của Đại học Neuchâtel đã tìm ra gene có khả năng tạo ra hoá chất nói trên ở loài cây oregano. Họ cấy gene đó vào ngô để chúng tự sản xuất ra hoá chất.
Quá trình thử nghiệm: Trồng xen kẽ ngô chuyên gene với ngô thường rồi thả sâu lên đấtà Những con sâu ăn gốc được thả lên cây ngô chuyển gene chết sau ba ngày. Tới mùa ngô trổ bông, nhận thấy những cây chuyển gene có nhiều hạt hơn, đồng thời tỷ lệ tổn thương ở rễ thấp hơn nhiều so với những cây ngô thường. Nhóm nghiên cứu khẳng định giống ngô của họ vừa đạt năng suất cao vừa không sợ côn trùng gây hại.
Ngô Bt:
Một nhóm chuyên gia thuộc ĐH Arizona đã nghiên cứu loại ngô biến đổi gene tên là Bt, hiện được trồng ở nhiều quốc gia. Bt do công ty Monsanto của Mỹ phát triển, được bổ sung gene của vi khuẩn Bacillus thusingenesis (Bt) để tạo ra các độc tố mạnh trong lá và thân. Những chất này sẽ làm cho sâu hại chết khi cắn phá ngô. Tuy nhiên, sử dụng giống gô này không khác gì đang dùng “con dao hai lưỡi”, vì bên cạnh tác dụng kháng sâu thì nó cũng mang lại một số vấn đề không mong muốn.
- Tác dụng kháng sâu bệnh
Gene từ vi khuẩn Bt làm cho các mô của ngô Bt độc đối với côn trùng, chẳng hạn như sâu bore ở Châu Âu, một loại sâu hại thường trốn trong cuống ngô, làm cho nông dân khó kiểm soát chúng bằng hóa chất.
Tại Mỹ và một số nước khác, ngô Bt phải được trồng bên cạnh cái gọi là “nơi nương náu” của các giống ngô bình thường – một chiến lược nhằm ngăn côn trồng kháng độc tố Bt. Logic của chiến dịch trên rất đơn giản: nếu sâu hại kháng độc tố Bt trong thân và lá cây trên những cánh đồng ngô biến đổi gene, do chúng sẽ giao phối với sâu hại không kháng độc tố trên những cánh đồng ngô bình thường ở gần kề làm cho khả năng kháng độc tố của chúng bị hạn chế… các thế hệ sâu con chắc chắn sẽ chết nếu tấn công ngô Bt.
- Vấn đề đặt ra: nghiên cứu mới cho thấy gene tạo độc tố của vi khuẩn Bt đang xâm nhập vào ngô bình thường ở các cánh đồng lân cận thông qua phấn hoa phân tán xa hàng chục mét. G.S Bruce Tabashnik thuộc Khoa côn trùng, ĐH Arizona, cho biết: “Ngô bình thường ở cánh đồng gần kề ngô biến đổi gened9uo75c cho là không chứa các gene Bt. Tuy nhiên, trên thực tế, việc nhiễm gene Btcua3 ngô bình thường xảy ra ở mức cao khi gần ngô Bt và giảm bớt khi ra xa khỏi ngô Bt”.
=> Kết luận: Phấn hoa từ ngô Bt đang xâm nhập vào ngô bình thường ở các cánh đồng lân cận và đang tạo ra độc tố Bt trong các hạt ngô bình thường. Ông nói: “Đây là lần đầu tiên sự ô nhiễm gene được ghi nhận trong một cánh đồng ngô bình thường nằm cạnh ngô Bt”. Điều này làm cho sâu bệnh tăng khả năng kháng lai95 ngô Bt cũng như chế phẩm thuốc trừ sâu Bt.
Hiệu quả kinh tế từ ngô chuyển gene:
Năng suất của ngô chuyển gene cao hơn từ 8 – 10 năng suất trung bình, giảm chi phí thuốc trừ sâu, giảm công lao động phun thuốc, năng suất vượt trội so với các giống lai hiện đang canh tác.
Không ảnh hưởng đến mội trường hay sức khỏe con người do sử dụng ít thuốc trừ sâu.
=> Sau khi xem xét các ưu – nhược điểm của ngô kháng sâu thì trên 70% số hộ nông dân đều có ý kiến sẽ mua ngay để trồng nếu có trên thị trường vì có năng suất thu nhập cao hơn các giống ngô lai đang trồng. Tiềm năng của ngô chuyển gene ở Việt Nam khá cao, bởi vì hiện nay mỗi năm chúng ta vẫn phải nhập từ năm đến tám trăm ngàn tấn ngô làm thức ăn gia súc. Trong khi đó năng suất của cây ngô kháng sâu có thể cho tới 8 tấn/ha, diện tích trồng ngô cả nước hiện nay là một triệu ha.
2.8.2. Cà chua hương chanh
Các nhà nhà nghiên cứu Israel vừa lai tạo được loại cà chua biến đổi gene có hương hoa hồng và hương chanh. 82 người đã tham gia kiểm nghiệm những quả này so với những quả cà chua truyền thống. Trong đó có 49 người tỏ ra rất thích loại quả cà chua mới.
Nhóm khoa học gia thuộc nhóm nghiên cứu Newe Yaar của Israel đã tạo ra quả cà chua biến đổi gene có sắc hồng hơn loại quả bình thường. Tỷ lệ Lycopene, chất chống oxy hóa cho ra màu đỏ của quả ít hơn hai lần so với quả thường. Ngược lại, chúng có nhiều chất terpenoide hơn, đây là thành phần cho phép quả tươi mới lâu hơn.
Quả cà chua biến đổi gene đầu tiên được bán ra thị trường Mỹ vào năm 1994, nhưng đã bị rút khỏi thị trường do không thu hút được người tiêu dùng.
Ngoài ra người ta còn cấy một số gene của cá bơn vào cà chua để giúp chúng chống chịu sương tốt hơn.
2.8.3. Lúa
Giống lúa "vàng"
Các nhà nghiên cứu ở Viện Công nghệ khoa học thực vật Thụy Sĩ đã thành công trong việc tạo ra giống lúa "vàng" chứa phong phú beta-caroten (vitamin A) và giống lúa này đã được Quỹ Rockefeller tài trợ để triển khai ở một số nước đang phát triển. Với giống lúa này người ta hy vọng sẽ cứu được nhiều người trong số 500 000 người bị mù lòa trên thế giới hàng năm.
Cấy gene người vào gạo
Các nhà nghiên cứu thuộc Viện Khoa học Nông sinh học quốc gia tại Tsukuba, Nhật Bản, vừa đưa một gene lấy từ gan người vào gạo để cải thiện khả năng “tiêu hóa” thuốc diệt cỏ và các hóa chất công nghiệp.
Gene trên tạo ra một loại enzyme, gọi là CPY2B6, đặc biệt hiệu quả trong việc phá vỡ những hóa chất độc hại trong cơ thể người. Điều đáng nói là phương pháp này giúp gạo có khả năng miễn nhiễm đối với 13 loại chất diệt cỏ khác nhau. Các loại cây trồng chuyển gene hiện nay được đưa cấy gene của vi khuẩn giúp chúng chịu đựng tốt hơn các loại chất diệt cỏ để chúng không có hại khi người ta phun thuốc diệt cỏ dại lên cánh đồng. Tuy nhiên, phần lớn các loại cây trồng nói trên chỉ chịu đựng được một loại chất diệt cỏ.
Việc đưa gene người vào gạo khiến cuộc tranh cãi về thực phẩm biến đổi gene trong giới khoa học thêm gay gắt. Những người ủng hộ cho rằng phương pháp này mang lại nhiều lợi ích cho môi trường trong khi không gây ra vấn đề gì về mặt đạo đức. Giáo sư Richard Meilan thuộc ĐH Purdue ở Indiana, Mỹ, cho rằng những cây trồng được biến đổi gene bằng phương pháp trên có thể “dọn sạch độc tố” trên những vùng đất bị ô nhiễm. Thậm chí, chúng có thể phá hủy những chất độc hiệu quả đến nỗi những cây được trồng trên vùng đất nói trên có thể ăn được. Trong khi đó, những người phản đối cho rằng phương pháp nói trên đang tạo ra những thức ăn “Frankenstein”. Sue Mayer, Giám đốc tổ chức GeneWatch UK của Anh, nhận định: “Tôi không tin là sẽ có người muốn mua loại gạo nói trên”.
2.8.4. Một số cây biến đổi gene khác
Ngô cải: Nhờ phương pháp chuyển gene, quá trình lão suy ở lá cây ngô cải sẽ chậm lại... (Nguồn: hoahocdoisong.com)
Dưa hấu vuông
Đậu tương: Đậu tương kháng thuốc trừ cỏ được đưa vào thị trường từ 1996. Giống đậu tương này được trồng rộng rãi ở cả các nước như Argenetina, Brazil, Nam Phi, Ấn Độ và Trung Quốc.
2.8.5. Một số sản phẩm từ động vật chuyển đổi gene
Do hệ thần kinh của động vật nhạy cảm hơn nhiều so với thực vật, do đó nếu chuyển đổi gene trên động vật dễ gây “sốc”, động vật có thể chết khi đưa gene lạ vào cơ thể chúng. Việc thực hiện chuyển đổi gene trên động vật rất hạn chế nhưng cũng có một số thành tựu đáng chú ý.
Động vật chuyển gene cung cấp sữa người
Nhờ các gene người lắp ghép vào bộ gene của mình, những con chuột biến đổi gene lần đầu tiên đã sản xuất ra lactoferrin.
Ban đầu, cấy gene người vào những con chuột đực rồi cho chúng giao phối với chuột cái, theo dõi thế hệ chuột con đầu tiên và những con cái khi chúng sinh sản. Kết quả phân tích cho thấy sữa của chúng chứa lactoferrin, một loại protein chỉ có trong sữa người.
Lactoferrin là chất đặc biệt chỉ có trong sữa mẹ bảo vệ trẻ khỏi các vi trùng, vi khuẩn gây bệnh trong khi hệ miễn dịch của chúng chưa phát triển.
Lactoferrin là một chất kháng sinh tự nhiên và nó rất hữu ích đối với trẻ em có hệ miễn dịch yếu.
Mục đích của nghiên cứu:
Sản xuất sữa chứa lactoferrin và thuốc từ loại protein này
Chiết lactoferrin từ sữa và sử dụng protein này để pha chế vào công thức sữa bột cho trẻ em.
Sữa chuột rất giàu protein và có thể suy ra hàm lượng protein chuyển gene cũng rất cao. Sữa mẹ chứa từ 4-5g lactoferrin trong một lít. Sữa những con chuột biến đổi gene lại cho những 160g/l. Thế nhưng không thể biến chuột thành con vật cung cấp sữa hàng ngày cho con người. Vắt sữa chuột tất nhiên phải vô cùng tỉ mỉ. Phải gây mê chúng, và dùng một bơm đặc biệt để hút sữa từ chiếc vú tí hon của chúng. Để đưa được ra quy mô công nghiệp trước hết phải chọn những con vật có kích thước lớn như thỏ, dê và bò.
Các dược phẩm từ sữa thỏ
Những con thỏ ghép gene người đã được vắt sữa trên quy mô công nghiệp tại công ty sinh học Pharming có cơ sở ở Hà Lan. Sữa thỏ chứa protein người được dùng để bào chế thành một loại thuốc mới điều trị bệnh angioedema do di truyền, một bệnh rối loạn máu hiếm gặp có thể dẫn tới việc sưng phồng các mô của cơ thể.
Các dược phẩm từ sữa dê
Nếu chỉ dùng làm thuốc thì sản lượng (của protein) cần thiết chỉ có giới hạn. Còn để có lượng lactoferin lượng lớn để đưa vào công thức sữa bột trẻ em thì cần lượng lớn hơn nhiều. Muốn đạt được lượng lactoferin lớn thì bò sẽ phải “nhập cuộc”. Phát triển đàn bò chuyển gene thì để khai thác lactoferin từ sữa của chúng thì chỉ cần từ 2 đến 3 năm là có thể đáp ứng được quy mô công nghiệp. Ngoài ra còn có phương án phát triển đàn dê chuyển gene vì cho rằng có thể rút ngắn hơn nữa thời gian đưa vào công nghiệp.
Ưu điểm lớn nhất của dê là thời gian mang thai của chúng chỉ bằng nửa thời gian mang thai của bò. Hơn nữa, dê đạt đến tuổi có thể vắt sữa được nhanh hơn bò đến 3 lần. Chúng ít bị bệnh tật hơn và dù bị bệnh thì bệnh của chúng cũng khác với bệnh của người.
Những dược phẩm từ sữa dê tìm ra sẽ được sử dụng để điều trị ung thư, các bệnh liên quan đến hệ miễn dịch và hệ tiêu hóa.
Về vấn đề kỹ thuật biến đổi gene có thể gây nên tác động tiêu cực hay không, Igor cho biết: "Dê biến đổi gene tạo ra một loại thuốc, chứ không phải thức ăn. Tôi cũng lo ngại về các thực phẩm biến đổi gene vì chúng ta không bao giờ biết chúng có thể gây nên những tác động nào đối với cơ thể. Nhưng thuốc hoàn toàn khác với thực phẩm. Con người không thể tạo ra protein bằng máy móc. Chúng ta có thể lấy lactoferrin từ tế bào của người, nhưng không thể sản xuất với quy mô lớn vì chi phí quá cao. Lactoferrin trong sữa dê là loại protein hoàn hảo nhất mà tạo hóa ban tặng chúng ta. Nó vốn đã tồn tại trong cơ thể chúng ta nên sẽ không gây dị ứng và bất kỳ tác dụng phụ nào".
Theo tiến sĩ Igor, cả người lớn và trẻ em đều có thể uống được sữa lấy từ dê biến đổi gene. Dược phẩm ATryn của công ty GTC Biotherapeutics ở Mỹ được bào chế từ sữa dê biến đổi gene để phòng ngừa chứng tụ huyết khối gây tắc nghẽn mạch máu. Vài năm nữa, những dược phẩm tương tự như ATryn có thể xuất hiện trên thị trường dùng cho điều trị một loạt bệnh ở người, như chứng máu khó đông.
Dê được biến đổi gene để nó tiết ra sữa giàu antithrombin – chất đạm trong cơ thể người có chức năng làm tan sợi huyết, chống tắc nghẽn mạch máu. Theo thống kê, cứ 5.000 người thì có 1 cơ thể không sản xuất đủ antithrombin, dẫn đến nguy cơ máu vón cục trong tĩnh mạch. Tình trạng này có thể gây nguy hiểm đến tính mạng nếu cục máu tách rời ra và theo mạch máu đến phổi hoặc lên não. Nếu bị máu vón cục trong nhau, thai phụ có nguy cơ sẩy thai hoặc thai chết lưu.
Cho đến nay, antithrombin được tổng hợp từ nguồn máu hiến tặng. Giới chuyên môn cho rằng sản xuất chất đạm này từ sữa dê không những bảo đảm nguồn cung ổn định, mà còn giảm thiểu được nguy cơ lây nhiễm mầm bệnh.
Bò biến đổi gene kháng bệnh viêm tuyến sữa
Các nhà nghiên cứu tại đại học Vermont, Montpelier (Pháp) đã nhân bản vô tính thành công một con bò cái có khả năng miễn dịch với bệnh viêm tuyến vú, mở ra hy vọng tiết kiệm hàng tỷ đôla mỗi năm cho ngành công nghiệp sữa. Bệnh viêm tuyến vú là bệnh viêm nhiễm phổ biến nhất trong gia súc nuôi lấy sữa. Những con bò nhiễm bệnh sản xuất ít sữa hơn và chất lượng sữa cũng kém hơn. Ngành công nghiệp sữa đã phải chi phí mỗi năm 1,7 tỷ USD để ngăn chặn và chữa trị căn bệnh này, trong đó có thiệt hại do mất sữa.
Các nhà khoa học đã nhân bản được một gene có khả năng diệt trừ loại vi khuẩn gây ra căn bệnh viêm tuyến vú ở bò, cũng như trên chuột biến đổi gene.
Tiến sĩ John Bramley, người đứng đầu nhóm nghiên cứu cho biết: “Chúng tôi đã đưa ra được những động vật kháng bệnh viêm vú đầu tiên trên thế giới. Các cuộc kiểm tra cho thấy những động vật này và con cái của chúng hoàn toàn bình thường. Sữa của chúng tuyệt đối đảm bảo”.
KẾT LUẬN
Thực phẩm biến đổi gene đã trở thành chủ đề nóng trong báo giới quốc tế những năm gần đây. Cũng chưa bao giờ công luận xã hội lại có ảnh hưởng rõ rệt và cụ thể như thế đến tốc độ nghiên cứu và triển khai của một khoa học đang trong thời kỳ bùng nổ thông tin. Điều gì là quan trọng trong cuộc tranh luận này và tại sao dân chúng lại nhạy cảm về vấn đề này? Bởi bên cạnh những điểm còn chưa rõ ràng về cây chuyển gene và gặp phải sự phản ứng kịch liệt của các tổ chức bảo vệ môi trường vì cho rằng nó có thể gây hại đối với con người và môi trường. Nhưng với khả năng tạo ra những giống cây trồng mới có giá trị kinh tế, công nghệ này có vai trò không thể phủ nhận được. Tuy nhiên, vẫn còn một số vấn đề đáng lo ngại. Để giải quyết những vấn đề này thì những kết luận thu được phải dựa trên những thông tin tin cậy, có cơ sở khoa học là rất cần thiết.
Thực phẩm biến đổi gene có khả năng giải quyết phần lớn các vấn đề về đói kém và suy dinh dưỡng trên thế giới. Đồng thời, nó có thể bảo vệ, giữ gìn môi trường thông qua nâng cao sản lượng của cây trồng và giảm bớt sự phụ thuộc vào thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ hóa học. Tuy nhiên, thực phẩm biến đổi gene cũng đặt ra nhiều thách thức cho chính phủ các nước, đặc biệt là về mặt kiểm định an toàn, chính sách quốc tế và dán nhãn thực phẩm. Biến đổi gene là xu hướng không thể tránh khỏi của tương lai, và chúng ta không thể làm ngơ trước một công nghệ có nguồn lợi ích khổng lồ như thế. Chỉ có điều, chúng ta phải hết sức cẩn thận để không gây ra những tác hại ngoài ý muốn cho sức người tiêu dùng lẫn môi trường.
Phải công nhận rằng đây là những bước đột phá của khoa học nói chung và ngành sinh học nói riêng đã giải quyết rất nhiều khó khăn của toàn cầu. Nhưng mong rằng nghiên cứu không dừng lại ở đây mà phải đi đến cùng để không còn lỗ hỏng nào cũng như làm sáng tỏ tất cả các dư luận và tạo nên một lòng tin vững chắc nhất cho người tiêu dùng lựa chọn, hướng tới một tương lai của khoa học, một cuộc sống mà con người mong muốn, một tương lai mà ở đó con người làm chủ.
Đây là đề tài còn nằm trong tranh cãi, nhưng mong qua đây có thể giúp được các bạn có cái nhìn chung nhất về thực phẩm biến đổi gene trong và ngoài nước. Mong được sự đóng góp của tất cả các bạn. Mọi ý kiến xin liên hệ về email: nhomac169@gmail.com. Xin chân thành cảm ơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
{
PHỤ LỤC
{
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 41996276tieuluangmf4655.doc