Tài liệu Đề tài Thực hành dự phòng phơi nhiễm viêm gan B của sinh viên đại học điều dưỡng năm hai Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định – Đinh Thị Phương Hoa: 54
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 01 - Số 03
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2015). Quy
định về khối lượng kiến thức tối thiểu, yêu
cầu về năng lực mà người học đạt được sau
khi tốt nghiệp đối với mỗi trình độ đào tạo
của giáo dục đại học. Thông tư số 07/2015/
TT-BGDĐT. Hà Nội ngày 16/4/2015
3. Hội nghị Trung ương 8 khóa XI (2013).
Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 về
đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào
tạo. Hà Nội ngày 4 tháng 11 năm 2013
4. Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam (2012). Luật Giáo dục đại
học số 08/2012/QH13, hiệu lực 01 tháng 01
năm 2013
5. Trần Bá Hoành (2003). Dạy học lấy
người học làm trung tâm: nguồn gốc, bản
chất, đặc điểm. Tạp chí Thông tin khoa học
giáo dục, số 96/2003 tr.1
6. David V.J.Bell (2016). Twenty-
first Century Education: Transformative
Education for Sustainability and Responsible
Citizenship. Journal of Teacher Education
for Sustainability, vol. 18, no.1, pp. 48-56
7. Eyikara...
6 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 10/07/2023 | Lượt xem: 321 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Thực hành dự phòng phơi nhiễm viêm gan B của sinh viên đại học điều dưỡng năm hai Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định – Đinh Thị Phương Hoa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
54
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 01 - Số 03
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2015). Quy
định về khối lượng kiến thức tối thiểu, yêu
cầu về năng lực mà người học đạt được sau
khi tốt nghiệp đối với mỗi trình độ đào tạo
của giáo dục đại học. Thông tư số 07/2015/
TT-BGDĐT. Hà Nội ngày 16/4/2015
3. Hội nghị Trung ương 8 khóa XI (2013).
Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 về
đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào
tạo. Hà Nội ngày 4 tháng 11 năm 2013
4. Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam (2012). Luật Giáo dục đại
học số 08/2012/QH13, hiệu lực 01 tháng 01
năm 2013
5. Trần Bá Hoành (2003). Dạy học lấy
người học làm trung tâm: nguồn gốc, bản
chất, đặc điểm. Tạp chí Thông tin khoa học
giáo dục, số 96/2003 tr.1
6. David V.J.Bell (2016). Twenty-
first Century Education: Transformative
Education for Sustainability and Responsible
Citizenship. Journal of Teacher Education
for Sustainability, vol. 18, no.1, pp. 48-56
7. Eyikara, E. & Baykara, G., Z. (2017).
The importance of simulation in nursing
education. World Journal on Educational
Technology: Current Issues. 9(1), 02-07
THỰC HÀNH DỰ PHÒNG PHƠI NHIỄM VIÊM GAN B CỦA SINH VIÊN ĐẠI HỌC ĐIỀU
DƯỠNG NĂM HAI TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỀU DƯỠNG NAM ĐỊNH
Đinh Thị Phương Hoa1, Mai Anh Đào1
1Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định
TÓM TẮT
Mục tiêu: Nghiên cứu nhằm đánh giá
thực hành phòng phơi nhiễm viêm gan B của
sinh viên điều dưỡng trong sinh hoạt hàng
ngày và thực hành điều dưỡng tại phòng
thực hành lâm sàng của Trường. Phương
pháp: Nghiên cứu cắt ngang được tiến
hành trên 601 sinh viên điều dưỡng năm
thứ hai (khóa 11) từ tháng 3 đến tháng 12
năm 2016 tại trường Đại học Điều dưỡng
Nam Định. Bộ câu hỏi tự điền được sử dụng
để thu thập thông tin về thực hành của đối
tượng nghiên cứu. Nghiên cứu thử nghiệm
được tiến hành trước khi thu thập số liệu
chính thức để kiểm định sự phù hợp của bộ
câu hỏi. Kết quả: nghiên cứu chỉ ra rằng
khi thực hành lâm sàng có 18% sinh viên
không mặc đầy đủ đồ bảo hộ lao động của
điều dưỡng. Phần lớn (84%) sinh viên chưa
tiêm phòng viêm gan B. Có 5% đã từng bị
thương do vật sắc nhọn. Sinh viên có thực
hành tốt chiếm 58,7% và thực hành không
tốt chiếm 41,3%. Kết luận: thực hành
phòng phơi nhiễm viêm gan B ở sinh viên
Điều Dưỡng là có thể chấp nhận được, tuy
nhiên hơn 4/5 số sinh viên chưa được tiêm
phòng viêm gan B. Từ đó chúng tôi đưa ra
khuyến nghị can thiệp tiêm phòng viêm gan
B cho sinh viên Điều dưỡng là cần thiết để
nâng cao hiệu quả phòng ngừa viêm gan B
ở nhóm đối tượng này.
Từ khóa: thực hành, viêm gan B, sinh
viên điều dưỡng,
Người chịu trách nhiệm: Đinh Thị Phương Hoa
Email: dinhphuonghoaytcc1987@gmail.com
Ngày phản biện: 16/72018
Ngày duyệt bài: 23/8/2018
Ngày xuất bản: 14/9/2018
55
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 01 - Số 03
PREVENTION PRACTICES OF HEPATITIS B INFECTION AMONG THE SECOND
YEAR NURSING STUDENTS IN NAM DINH UNIVERSITY OF NURSING
ABSTRACT
Objective: This study aims to access
level of practices on student nurse
experiencing nursing practices in both daily
life and when doing nursing practices in labs
at the University. Method: A cross-sectional
study was conducted among 601 second-
year nursing students from March 2016 to
December 2016 in the Nam Dinh University
of Nursing. A pre-designed questionnaire
was used and the pilot study was initially
carried out to test its reliability. Results:
The results showed that when students
practiced in the clinic, 18% of them had
ever lacked personal protection equipment
for nursing. Those who have ever been
pierced by sharp when conducting nursing
practices accounted for 5%. The percentage
of nursing students having good practice
was 58,7% and that in poor practice group
was 41,3%. Conclusion: This study gave
a conclusion that there was the reasonable
practice of prevention hepatitis B among
nursing students. However, about four–
fifth of them have not been vaccinated for
hepatitis B in our study group, which keeps
them at the risk of the disease. Our results
illustrates that the strategy to give hepatitis
B vaccination for all nursing students joining
the healthcare professional University is
necessary.
Keywords: practices, Hepatitis B,
nursing students
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo WHO Viêm gan B là bệnh do virus
gây ra. Bệnh có thể gây ảnh hưởng đến gan
và gây ra cả bệnh cấp và mãn tính. Viêm
gan B có thể lây truyền thông qua tiếp xúc
với máu và dịch tiết khác của người nhiễm
bệnh. Trong năm 2015, viêm gan B đã gây
ra 887.000 người chết, hầu hết là từ những
trường hợp biến chứng của viêm gan (bao
gồm xơ gan và ung thư tế bào gan). Nhân
viên y tế nói chung và sinh viên ngành y nói
riêng có mức độ phơi nhiễm với HBV cao
hơn do đặc thù công việc và học tập cần
tiếp xúc thường xuyên với máu và dịch tiết
của người bệnh, bao gồm cả những bệnh
nhân có HBV. Vaccin tiêm phòng HBV đã
được đưa vào chương trình tiêm chủng mở
rộng từ năm 2002 miễn phí cho tất cả trẻ
em dưới 6 tuổi [4], tuy nhiên SV điều dưỡng
năm thứ 2 đang theo học tại trường có năm
sinh từ 1999 trở về trước nên không thuộc
diện được tiêm phòng trong chương trình
tiêm chủng mở rộng này. Tiêm phòng vaccin
cũng được khuyến cáo với những người
trưởng thành chưa bị nhiễm HBV nhưng tỷ
lệ tiêm phòng ở nhóm này vẫn chưa cao.
Nghiên cứu của chúng tôi chọn đối tượng
sinh viên năm thứ 2 vì đây là đối tượng sinh
viên sẽ đi thực tế lâm sàng tại bệnh viện, đi
thực tế cộng đồng kết hợp với học lý thuyết
và thực hành tại trường. Vì vậy sinh viên
cần có thực hành tốt về viêm gan B từ đó
giảm phơi nhiễm với bệnh viêm gan B cho
bản thân mình cũng như tư vấn giúp phòng
ngừa viêm gan B cho người bệnh và người
dân ở cộng đồng. Với mục đích trên nghiên
cứu này đã được tiến hành với mục tiêu “Mô
tả thực hành về dự phòng lây nhiễm viêm
gan B của sinh viên đại học điều dưỡng
chính quy khóa 11, trường Đại học Điều
dưỡng Nam Định”.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng, thời gian và địa điểm
nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành trong năm
2017 trên các đối tượng là sinh viên năm hai
của Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định
56
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 01 - Số 03
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu: sử dụng
thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang
2.2.2. Mẫu và phương pháp chọn mẫu
Chọn toàn bộ sinh viên năm nhất của
Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định,
theo thống kê có tổng số 601 sinh viên.
2.2.3. Công cụ và phương pháp thu
thập thông tin
Bộ câu hỏi tự điền bao gồm 21 câu hỏi
để điều tra về thực hành phòng phơi nhiễm
về Viêm gan B của sinh viên. Bộ câu hỏi
được thiết kế dựa trên các nghiên cứu đi
trước về thực hành phòng phơi nhiễm viêm
gan B. Nghiên cứu thử nghiệm trên 10% đối
tượng nghiên cứu được thực hiện để đảm
bảo sự hợp lý và chính xác của bộ công cụ.
Các đối tượng được chọn vào nghiên cứu
thử nghiệm vẫn tiếp tục được lựa chọn vào
nghiên cứu chính thức.
2.2.4. Tiêu chí đánh giá
Mỗi câu hỏi đánh giá thực hành được
tính 1 điểm nếu đối tượng có thực hành
phù hợp và 0 điểm nếu thực hành không
phù hợp. Tổng điểm thực hành được tính
cho từng đối tượng. Tổng điểm tối đa mà
đối tượng có thể đạt được là 21 điểm. Đối
tượng có điểm thực hành >= 50% tổng điểm
(>11 điểm) được đánh giá là thực hành đạt,
<50% tổng điểm (<= 11 điểm) được đánh
giá là thực hành không đạt.
2.2.5. Quản lý và phân tích số liệu
Số liệu được nhập bằng phần mềm
Epidata và phân tích trên SPSS 20.0. Các
thuật toán thống kê và mô tả được sử dụng
để tính n, %, trung bình và độ lệch chuẩn.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Đặc điểm chung đối tượng
Kết quả nghiên cứu cho thấy phần lớn
(80,5%) đối tượng nghiên cứu ở độ tuổi 20
(nhỏ nhất là 19 tuổi và lớn nhất là 22 tuổi.).
Nữ chiếm 92,5% và 7,5% là nam giới. Trong
số đó 78,9% sinh viên đến từ khu vực thành
thị và 26,8% sinh viên có người nhà có tiền
sử mắc Viêm gan B.
3.2. Thực hành phòng chống viêm gan
B của sinh viên năm hai
Bảng 3.1. Thực hành phòng phơi nhiễm
viêm gan B trong sinh hoạt hàng ngày
Thực hành Số lượng
Tỷ
lệ %
Dùng chung dụng cụ cắt
móng tay 509 84.7
Dùng chung dao cạo râu/
lông mày với người khác 162 27
Dùng chung bàn chải đánh
răng với người khác 152 25.3
Đã từng quan hệ tình dục
không an toàn 46 7.7
Đã từng châm cứu không
yêu cầu dụng cụ riêng 14 2.8
Đã từng xăm trổ không yêu
cầu dụng cụ riêng 8 1,3
Bảng 3.1 cho thấy một số các hành vi
nguy cơ làm tăng sự phơi nhiễm với HBV
trong cuộc sống hàng ngày của sinh viên
điều dưỡng bao gồm: dùng chung dụng cụ
cắt móng tay (84,7%), dùng chung dao cạo
râu/lông mày (27%), dùng chung bàn chải
đánh răng (25,3%).
Bảng 3.2. Thực hành phòng phơi nhiễm
viêm gan B trong thực hành lâm sàng
Thực hành Số lượng
Tỷ lệ
%
Chưa từng đi xét nghiệm
viêm gan B 434 72,2
Chưa tiêm phòng viêm
gan B 505 84,0
Không mặc đầy đủ,
thường xuyên trang bị
bảo vệ cá nhân khi thực
hành
108 18
Đã từng bị thương do
vật sắc nhọn khi tiến
hành thủ thuật
30 5,0
Bảng 3.2 cho thấy một số thực hành
chưa đúng của đối tượng nghiên cứu trong
quá trình thực hành điều dưỡng.
57
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 01 - Số 03
Biểu đồ 3.1. Phân loại thực hành phòng
chống viêm gan B của sinh viên
Theo tiêu chí đánh giá của nghiên cứu thì
vẫn còn tới 41,3% sinh viên có thực hành
dự phòng viêm gan B chưa đạt.
4. BÀN LUẬN
Thực hành phòng lây nhiễm virus
viêm gan B qua sinh hoạt hàng ngày: Kết
quả nghiên cứu của chúng tôi chỉ ra phần
lớn sự phơi nhiễm với HBV của sinh viên
đến từ cuộc sống đời thường nhiều hơn từ
các thực hành lâm sàng. Có 84,7% phản
ánh rằng có dùng chung dụng cụ cắt móng
tay với người khác. Có 25.3 % SV trả lời đã
từng sử dụng chung bàn chải đáng răng với
người khác trong vòng sáu tháng qua. Khả
năng lây nhiễm HBV là rất cao khi sử dụng
chung bàn chải đánh răng và nhất là đối với
những SV chưa được tiêm vaccin phòng
HBV. Ngoài ra một tỷ lệ rất nhỏ sinh viên
có hành vi xăm trổ hoặc châm cứu nhưng
không yêu cầu sử dụng dụng cụ riêng. Theo
Điều tra dịch tễ tình hình nhiễm viêm gan
B và C của Trần Hữu Bích và cộng sự tại
Hà Nội và Bắc Giang cho thấy ba hành vi
nguy cơ được coi là liên quan đến tình trạng
nhiễm virus viêm gan B và C tại Việt Nam
là dùng chung bơm kim tiêm, dùng chung
kim châm cứu và dùng chung bàn chải đánh
răng [1].
Về nguy cơ lây nhiễm Viêm gan B qua
con đường quan hệ tình dục: kết quả nghiên
cứu cho thấy 3.9% SV trả lời đã không
thường xuyên sử dụng bao cao su khi quan
hệ tình dục. Hành vi này rất dễ lây nhiễm
HBV từ bạn tình vì HBV lây qua đường tình
dục không an toàn chiếm tỷ lệ tương đối
cao. Theo Phạm Song thì HBV có thể lây
nhiễm khi tiếp xúc lâu dài và trực tiếp với
người mang mầm bệnh đặc biệt là trường
hợp có HBeAg dương tính nguy cơ nhiễm
tăng lên đến 78,3% [6]. Kết quả cho thấy
cần đẩy mạnh công tác truyền thông cho
các đối tượng về sử dụng bao cao su trong
quan hệ tình dục, không chỉ phòng tránh
viêm gan B, mà còn phòng được các bệnh
lây truyền qua đường tình dục khác.
Xét nghiệm và tiêm phòng vaccin: bảng
3.2 cho thấy tỷ lệ sinh viên chưa tiêm phòng
đủ 3 mũi vacxin phòng viêm gan B là 84%
và 16% đã tiêm phòng. Tỷ lệ SV đã tiêm
phòng thấp hơn so với các nghiên cứu của
Trịnh Văn Nghinh tại Hà Nội có tỷ lệ người
dân chủ động đi tiêm phòng chiếm 33,0%
[5]. Kết quả này cao hơn so với kết quả
trong nghiên cứu của Võ Hồng Minh Công
có tỷ lệ tiêm vaccin phòng ngừa HBV của
nhân viên y tế trước khi vào nghề chiếm chỉ
chiếm 13,8% [3]. Tuy nhiên kết quả này thấp
hơn so với nghiên cứu của Nguyễn Thị Thúy
Vinh, tỷ lệ tiêm phòng của SV năm thứ nhất
Đại học nông nghiệp là 31,5% [9], thấp hơn
nghiên cứu tại trường Đại học y khoa Vinh
(47%) [8]. Các kết quả nghiên cứu cho thấy
cần đưa ra khuyến nghị với các đối tượng
sinh viên điều dưỡng tại trường là nên tiêm
phòng vacxin phòng viêm gan B trước khi
đi thực tập tại bệnh viện nhằm giảm thiểu
lây truyền HBV ở nhóm đối tượng có nguy
cơ cao.
Nguy cơ lây nhiễm viêm gan B qua
các thực hành lâm sàng: Việc tuân thủ
đầy đủ bảo hộ lao động của điều dưỡng góp
phần quan trọng trong việc phòng chống
các bệnh truyền nhiễm nói chung và viêm
gan B nói riêng. Tuy nhiên có 18% sinh viên
trả lời từng không mặc đầy đủ đồ bảo hộ lao
động (quần áo blouse, khẩu trang, và mũ
khi làm thủ thuật). Kết quả này thấp hơn so
với nghiên cứu của Nguyễn Quang Tập tiến
hành trên nhân viên y tế tại thành phố Hải
58.7
41.3 Thực hành tốt
Chưa tốt
58
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 01 - Số 03
Phòng có 31,7% đã từng không mang găng
tay khi làm nhiệm vụ [7]. Trong nghiên cứu
trên những người Điều Dưỡng của Nadira
Mehriban có 27% Điều dưỡng không sử
dụng găng tay khi cầm các dụng cụ phẫu
thuật [11]. Việc không tuân thủ đồ bảo hộ lao
động khi làm việc mang lại rất nhiều nguy
cơ cho nhân viên y tế hay sinh viên, có thể
do những tai nạn sơ ý không mong muốn
trong quá trình làm việc, học tập khiến cho
họ bị lây truyền các bệnh truyền nhiễm bao
gồm viêm gan B. Kết quả này cho thấy cần
nâng cao ý thực thực hành về đồ bảo hộ lao
động cho đối tượng sinh viên trong quá trình
thực tập.
Thực hành chung phòng lây nhiễm
HBV: kết quả nhiên cứu cho thấy tỷ lệ SV
có thực hành chung phòng lây nhiễm HBV
đạt chiếm 58,7%, không đạt chiếm 41,3%.
Kết quả này cao hơn so với nghiên cứu
của Lý Văn Xuân và Phan Thị Quỳnh Trâm
(32,71%) [10]. Trong nghiên cứu của Nadira
Mehriban tại một số bệnh viện thuộc thành
phố Dhaka có 49,3% ĐTNC có có thực hành
tốt và 50,7% có thực hành chưa tốt và điểm
trung bình thực hành là 6,06 ± 1,7 [11]. Tuy
nhiên các tiêu chí đánh giá trong các nghiên
cứu là khác nhau, mặc dù có chung các nội
dung điều tra nhất định.
Nghiên cứu của chúng tôi được tiến
hành trên cỡ mẫu tương đối lớn, toàn bộ
sinh viên điều dưỡng khóa 11 (601 sinh
viên). Tuy nhiên đối tượng nghiên cứu của
chúng tôi thực tế chưa tham gia thực hành
lâm sàng tại bệnh viện, vì thế đánh giá thực
hành của đối tượng tại phòng thực hành
lâm sàng tại trường có thể chưa đưa ra một
kết quả hoàn toàn phù hợp, khi thực hành
lâm sàng tại trường nguy cơ phơi nhiễm với
HBV của sinh viên không cao bằng thực
hành tại viện. Vì vậy sự phơi nhiễm ở nhóm
đối tượng sinh viên này chỉ là tương đối và
kết quả cho thấy phần lớn sự phơi nhiễm
đến từ sinh hoạt hàng ngày của đối tượng.
Tuy nhiên nghiên cứu cũng góp phần chỉ
ra các hành vi nguy cơ ở nhóm đối tượng
này từ đó có kế hoạch can thiệp cho phù
hợp nhằm làm giảm phơi nhiễm ở nhóm
sinh viên điều dưỡng này khi các em đi thực
hành lâm sàng tại bệnh viện vào các năm
học tiếp theo.
5. KẾT LUẬN
Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng sinh viên
điều dưỡng còn tồn tại một số thực hành
không phù hợp làm tăng nguy cơ lây nhiễm
Viêm gan B. Từ đó chúng tôi đưa ra khuyến
nghị cần truyền thông nâng cao kiến thức
và hỗ trợ thay đổi thực hành về phòng ngừa
phơi nhiễm viêm gan B ở sinh viên. Ngoài
ra chiến dịch tiêm phòng viêm gan B cho tất
cả các sinh viên điều dưỡng trước khi bước
vào thực hành lâm sàng là cần thiết để giảm
thiểu tối đa nguy cơ lây nhiễm viêm gan B ở
nhóm đối tượng này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Hữu Bích và các cộng sự. (2010),
“Điều tra dịch tễ tình hình nhiễm virus viêm
gan B và C tại Hà Nội và Bắc Giang”, Tạp
chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh. 14(4), tr.
71-83.
2. Phạm Văn Chiến và các cộng sự.
(2012), “Nghiên cứu kết quả thực hiện kỹ
thuật xét nghiệm sàng lọc HBsAg kít nhanh
cho người hiến máu tại viện huyết học
truyền máu trung ương”, Tạp chí Y học Việt
Nam. 396, tr. 48-52.
3. Võ Hồng Minh Công và các cộng sự.
(2009), “Khảo sát tỷ lệ nhiễm siêu vi viêm
gan B của nhân viên y tế Bệnh viện nhân
dân Gia Định”, Y học Thành Phố Hồ Chí
Minh. tập 13(6), tr. 47-51.
4. Đại học Y dược Thành Phố Hồ Chí
Minh. (2012), “Virus viêm gan B”, Virus học,
tr. 103-107.
5. Nguyễn Trần Tuấn Kiệt (2013), Thực
trạng kiến thức, thái độ, thực hành phòng
lây nhiễm virus viêm gan B và một số yếu
tố liên quan của học sinh, sinh viên trường
cao đẳng y tế đồng nai năm 2013, Luận văn
tốt nghiệp Thạc sỹ, Đại học y tế Công cộng
Hà Nội.
59
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 01 - Số 03
6. Trịnh Văn Nghinh (2009), Kiến thức
thái độ thực hành về phòng chống bệnh
viêm gan B của người dân thị trấn Yên Viên,
Gia Lâm Hà Nội Luận văn thạc sĩ, Đại học y
tế công cộng, Hà Nội.
7. Phạm Song (2009), Viêm gan virus B,
D, C, A, E, GB cơ bản, hiện đại và cập nhật,
Nhà xuất bản Y học, Hà Nội.
8. Dương Đình Thiện (2001), “Viêm gan
B”, Dịch tễ học các bệnh truyền nhiễm, Nhà
xuất bản Y học, Hà Nội.
9. Vũ Bích Vân và các cộng sự. (2008),
“Nghiên cứu tình hình nhiễm HBV, HCV,
HIV, Giang mai trên người hiến máu tình
nguyện tại Thái Nguyên trong 5 năm 2003 -
2007”, Tạp chí Y học Việt Nam. tập 344(2),
tr. 592-598.
10. Nguyễn Thị Thúy Vinh (2005), Kiến
thức, thái độ, thực hành về phòng chống
viêm gan B của sinh viên năm thứ nhất
trường đại học Nông Nghiệp Hà Nội Luận
văn thạc sĩ chuyên ngành y tế công cộng,
Đại học y tế công cộng, Hà Nội.
11. Liaw YF et al. (1991), “Incidence,
determinants and significance of delayed
clearance of serum HBsAg in chronic
hepatitis B virus infection: a prospective
study.”, Hepatology. Apr;13(4), 627.
KHẢO SÁT SỰ HÀI LÒNG CỦA NGƯỜI BỆNH VÀ THÂN NHÂN ĐẾN KHÁM VÀ ĐIỀU
TRỊ NỘI TRÚ TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA HUYỆN MỸ LỘC, TỈNH NAM ĐỊNH NĂM 2016
Hoàng Thị Bích Chà1, Nguyễn Thị Giang2
1Bệnh viện đa khoa huyện Mỹ Lộc
2Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá sự hài lòng của
người bệnh và thân nhân đến khám và điều
trị nội trú tại bệnh viện đa khoa huyện Mỹ
Lộc. Đối tượng và phương pháp: Mô tả
cắt ngang được thực hiện trên 347 người
bệnh và thân nhân người bệnh điều trị nội
trú từ tháng 10/2015 đến tháng 10/2016.
Sử dụng mẫu Phiếu khảo sát sự hài lòng
của người bệnh dựa theo hướng dẫn của
Bộ Y tế. Kết quả: Sự hài lòng tiếp cận dịch
vụ từ 71,07% - 90,05%, đặc biệt hướng dẫn
thủ tục hành chính đạt 90,05%. Hài lòng
về công tác điều dưỡng đạt từ 65,58%-
93,94% trong đó về công khai thuốc đạt
93,94%. Hài lòng với công tác điều trị của
Bác sĩ đạt từ 81,02% - 91,32% trong đó hài
lòng rất cao với cách thăm khám của Bác
sĩ là 91,32%. Hài lòng với cơ sở vật chất và
dịch vụ đạt từ 81,78% - 92,38% trong đó hài
lòng cao nhất với việc điều trị tại Bệnh viện
là 92,38%. Kết luận: Cần thường xuyên
giáo dục nâng cao y đức, kỹ năng giao tiếp,
kỹ năng chăm sóc cho nhân viên y tế, tăng
cường nhân lực vào các khoa trọng điểm,
đẩy mạnh công tác kiểm tra giám sát, cải
cách thủ tục hành chính, nâng cấp cơ sở
hạ tầng để tăng mức độ hài lòng của người
bệnh và thân nhân người bệnh đến khám
và điều trị nội trú tại Bệnh viện Đa khoa
huyện Mỹ Lộc tỉnh Nam Định.
Từ khóa: Sự hài lòng của người bệnh
Người chịu trách nhiệm: Hoàng Thị Bích Chà
Email: giangntkhcb@gmail.com
Ngày phản biện: 06/7/2018
Ngày duyệt bài: 18/8/2018
Ngày xuất bản: 14/9/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- de_tai_thuc_hanh_du_phong_phoi_nhiem_viem_gan_b_cua_sinh_vie.pdf